Lời nói đầu

Phật giáo là một giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là người sống ở miền Bắc Ấn Độ khoảng hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ. Theo Phật Giáo, tất cả mọi người đều có thể trở thành Phật hoặc bậc giác ngộ như Đức Thích Ca. Nỗi mong ngóng của tôi với những người đã hướng về con đường tu trì Phật pháp đều sẽ thành Phật. Khi thế giới nầy trở thành Phật giới hoặc Bồ tát giới, chúng sinh hướng về Phật quả, thì niềm hy vọng sẽ nở bừng an lạc.

Phật Giáo bao gồm Phật pháp và Phật đạo. Phật pháp diễn đạt tánh tướng giác ngộ của Phật. Chúng ta đã tự bao giờ đi trong sự chiếm ngự dềnh dàng của bản ngã thô thiển, và vì thế, mất dấu nhân duyên. Cũng vì vậy, chúng ta luôn ở trong trang thái xung đột với tha nhân và thế giới chung quanh, phải chịu đựng những dòng đời khốn khổ vô ích. Pháp Phật đưa chúng ta về chỗ không có nỗi khổ, thấy được Bồ Đề an lạc bằng lối vượt thoát sự xâm chiếm của vô minh qua ngã, an trụ trong vô ngã. Đường Phật cung hiến những chỉ dẩn tu tập về thân và tâm để đến được với chân tánh và tự do, vượt qua những phiền não cảm nhận từ một cái ngã như huyễn. Phát huy trí tuệ và tỉnh thức đối với chân tánh tức Phật pháp. Đến được với thực chứng trong ta và sống tùy thuận thực tại tức Phật đạo.

Maha Chỉ Quán (Moho Chih-kuan) đã được thuyết ra bởi vị sư Trung Hoa là Trí Khải (538-597), cũng là vị Tổ sư của tông Thiên Thai, và được một môn đồ là Kuan-ting (Quán Đảnh) (561-632) ghi lại. Đây là một bảng chỉ đường thâm sâu làm thế nào để viên dung hai mặt của Phật giáo – tức Phật pháp và Phật đạo. Trọng tâm của tập sách nầy quy về khái niệm chỉ và quán, tịch và chiếu (chih-kuan ming ching) như một phương pháp hành trì (1). Khái niệm nầy đã được xưng tụng trong hầu hết những gì liên quan đến Phật giáo ở Trung Hoa. Tập sách được dịch sang Nhật ngữ khi Saicho hoặc Dengyo Daishi (Tối Trừng, 766-822), đã thành lập Thiên Thai Tông trên đỉnh Tỉ Duệ (Mount Hiei), và trở thành nền tảng của Phật giáo Nhật Bản.

Phật pháp và Phật đạo xiển dương giáo lý và thực hành. Khi hai mặt nầy trọn vẹn đi vào nhau, tất cả khổ não và nghiệp chướng sẽ bị tận

diệt, và Phật trí bình đẳng với chư Phật sẽ hiển lộ. Tác phẩm MaHa Chỉ Quán đưa đường về với Phật tánh, và làm thế nào vạn pháp có trong một tâm, khả dĩ tuyệt đối tự do. MaHa Chỉ Quán nói đến thiền tọa như một phương tiện chính để tu tập chỉ và quán, tịch và chiếu. Trong tất cả những phương pháp thiền định hoặc trụ tâm vào thực tại, thì phương pháp tọa thiền dễ thực hành nhất. Vì lý do nầy, nói qua những phương pháp khác nhau trong việc tu tập thiền định được đề cập trong những bản kinh, thì MaHa Chỉ Quán cho thấy một điểm độc đáo là làm thế nào cuộc hành trình đi về chỗ chứng ngộ có thể đến được với một lần ngồi xuống trong thiền định. Sự hướng dẩn nầy là một phần quan trọng và nổi bật của tác phẩm.

Trí Khải tin rằng những giáo pháp được Thế Tôn thuyết ra, và đã được tồn trữ trong truyền thống Phật giáo chỉ là những phương tiện (upaya). Điều nầy nói lên rằng bởi vì thực tại Bồ Đề bất khả tư nghị khó được lãnh hội trực tiếp, Thế Tôn dùng những phương tiện khế hợp với căn tánh chúng sinh, và dần đưa họ về mục tiêu tối hậu. Thuyết giảng bộ kinh Pháp Hoa vào những ngày cuối đời, Đức Thích Ca Mâu Ni phối hợp tất cả những pháp phương tiện, phân tích, và tiết lộ mục đích sau cùng. Như vậy, kinh Pháp Hoa được thuyết ra như một giáo lý vi diệu đưa đường cho tất cả chúng sinh.

Với Trí Khải, chính bộ kinh Pháp Hoa là yếu chỉ của Phật pháp, là giáo pháp vô biên thành tựu tất cả những bản kinh khác, hứa hẹn một đất tâm tĩnh lặng và là nỗi hy vọng của tất cả con người trong tất cả mọi thời. Đặt căn bản trên lòng tin nầy, Trí Khải thuyết giảng MaHa Chỉ Quán, được trình bày như một phương pháp thực hành, gồm thu cái tinh túy của bộ kinh Pháp Hoa. Nói cách khác, MaHa Chỉ Quán là bảng chỉ đường đưa giáo lý tối thượng của kinh Pháp Hoa vào mặt thực hành- là sự hướng dẩn để nhận chân được tinh thần của bộ kinh.

Giáo lý tuyệt diệu của kinh Pháp Hoa đã được trình bày trong hai tác phẩm khác của Trí Khải là Pháp Hoa Huyền Nghĩa diễn đạt sự thâm sâu của bộ kinh Pháp Hoa, và Pháp Hoa Văn Cú là bảng chú giải từng câu trong toàn nội dung bản kinh. Ba tác phẩm nầy, được gọi là Thiên Thai Tam Đại Bộ- cùng chung chú giải yếu chỉ của Phật pháp và Phật đạo, giáo và hành, như được nói đến trong kinh Pháp Hoa, và như cái hiểu của Trí Khải về Phật pháp, và truyền thống Thiên Thai Tông.

MaHa Chỉ Quán gồm có mười chương, được bố cục qua năm đề mục chính : (1) phát đại tâm, (2) tu đại hạnh, (3) hiển đại quả, (4) xé lưới nghi (sự nghi hoặc về những phân chia của Phật pháp), và (5) quy đại xứ. Chương thứ nhất đến Chương thứ năm liên quan đến ý tưởng giác ngộ- cung hiến một sơ đồ về Chỉ và Quán, xác định văn tự Chỉ và Quán, thuyết giảng khái niệm về Chỉ và Quán, trình bày làm cách nào toàn thể phương pháp thực hành của Phật giáo được hoàn tất trong một phương pháp Chỉ và Quán, và như thế, cho hành giả một cái thấy rõ ràng về phương pháp Chỉ và Quán, và làm bừng dậy trong hành giả lòng mong muốn thực hành. Lý do là vì hành giả phải phát sinh ý tưởng giác ngộ một cách chính chắn thì mới có thể hành trì Phật pháp một cách hữu hiệu. Chương thứ sáu và thứ bảy của MaHa Chỉ Quán luận về chi tiết đặc thù qua khía cạnh thực hành. Chương thứ sáu nói về những chuẩn bị cụ thể và những thuận duyên cần thiết để thành tựu pháp môn Chỉ và Quán. Chương thứ bảy, là chương dài nhất, diễn tả chi tiết những kỷ thuật thích ứng về Chỉ và Quán. Tiếc thay, Trí Khải đã không kịp thuyết giảng ba chương và năm đề mục sau cùng trong toàn bộ mười chương như dự định.

Chỉ và Quán trình bày những phương pháp quy chế thích hợp nhất để đến được với sự toàn thiện của con người. Chỉ (chih) đưa tâm về với định và an trú trong tánh giác. Quán (kuan) liên quan đến sự dùng tâm giác ngộ nầy như một nền tảng quán chiếu chân tánh đồng nhất trong vạn pháp. Đây là mặt thực hành, cùng lúc hội tụ tịch của định đưa tâm vào chỗ vô ngã, và chiếu của tuệ, thấy được vạn pháp phơi trải như nó là, hiển lộ giá trị chân thực. Khái niệm căn bản nầy đã từng được thuyết ra qua những bản kinh và luận thuở lâu xưa, nhưng sở dĩ MaHa Chỉ Quán được tán tụng vì tác phẩm nầy là một bảng chỉ đường thâm sâu và chi tiết, có giá trị thực hành.

Có ba cách thức hành trì Chỉ và Quán : Tiệm, Bất Định, và Viên Đốn. Pháp môn Tiệm dành cho những hành giả có căn cơ thấp kém, là những người đi từ cạn đến sâu. Pháp môn Bất Định dành cho những hành giả thực tập nhiều đường lối khác nhau, tùy thuộc vào căn cơ và hoàn cảnh chung quanh. Pháp môn Viên Đốn là đỉnh cao, viết ra cho những người có căn tánh sắc bén. Qua lối tu tập nầy, hành giả phát huy được định hạnh bằng con đường vào thẳng chân tánh ngay từ điểm đầu tiên. Tất cả ba phương thức đều là Phật giáo Đại thừa, và đưa đến Bồ Đề, nhưng MaHa Chỉ Quán chỉ nói tổng quát hai phương thức kia, và đặc biệt nhấn mạnh vào pháp môn Viên Đốn. Vì vậy, tác phẩm có tựa đề là Đại (MaHa) Chỉ Quán. Trái tim của giáo pháp MaHa Chỉ Quán về mặt viên đốn được tìm thấy qua những lập luận về bốn trạng thái thiền định trong chương thứ nhất (phần dàn bài, theo sau là phần dịch), hai mươi lăm bước đầu trong chương thứ sáu (phần chuẩn bị khế hợp), và mười phương cách thực hành chỉ và quán trong chương thứ bảy (Chánh Quán). Tác phẩm MaHa Chỉ Quán được tán tụng như một phương thức thâm viễn, qua đó ba pháp môn đưa yếu tính hành trì Phật pháp vào hệ thống.

Tất cả mọi người đều có sẳn phẩm hạnh cao quý, bình đẳng. Nếu, qua cái hiểu chân thực nầy, con người có thể nhận ra rằng họ là những yếu tố không thể bị bứng gốc rễ từ một môi trường đơn thuần, và nếu những cá nhân tự giác nầy sáng tạo một cảnh giới của ngã và nhân có thể giúp đỡ lẩn nhau, thì ngay ở điểm đầu tiên, sự cân bằng giữa cá nhân và xã hội sẽ xuất hiện, đưa đến hạnh phúc và hòa bình chân chính cho tất cả mọi người. Trong sự chuyển mình của những khám phá khoa học, tuy nhiên, con người về sau phô trương chiều hướng chú trọng kết quả. Khi sự xâm chiếm của kết quả nầy hóa thành khối duy vật chất khổng lồ, thì liền đó là cơ nguy có thể làm tan tành sự gắn bó giữa người với người. Điều quan trọng là phẩm hạnh của con người như một cá nhân đứng giữa tâm điểm của xã hội. Nếu chúng ta không có được một xã hội, trong đó, ngã và nhân cùng tương hữu một cách thỏa đáng, thì hòa bình và phước hạnh chân thực sẽ không bao giờ hiện ra được. Chúng ta phải nắm bắt được thực tại trên nền tảng tương giao, tùy thuận của nhân và duyên, và sáng tạo một xã hội vô ngã, là những cá nhân nghĩ và làm một cách tự nhiên hướng về người khác. Vì thế, đã đến lúc con người khắp mọi nơi trên thế giới cần hiểu được MaHa Chỉ Quán và thực sự hành trì để đến được chỗ tự làm cho chính mình trở nên toàn vẹn. Thực vậy, bản dịch chương thứ nhất qua Anh ngữ nầy có thể quay lại trở nên một bảng đưa đường về với phước hạnh hy hữu nhất của chúng ta dành cho con người. Có được sự cảm nhận sâu thẳm trong đường lối phiên dịch tác phẩm Hoa ngữ quan trọng nầy, với tất cả những ý nghĩa khôn cùng, tôi muốn gởi lời cảm tạ đến những người đã thực hiện.

The Reverend Yamada Etai

1.Bài tựa của Quán Đảnh (Kuan-ting) viết về MaHa Chỉ Quán bắt đầu với bốn chữ nầy. Tựa đề nầy đã trở thành yếu chỉ của tác phẩm và là phương pháp tu trì của Tông Thiên Thai.


Tựa

Qua nhiều thế kỷ, truyền thống Phật giáo được thành lập bởi Đức Thích Ca Mâu Ni khoảng thế kỷ thứ năm trước Tây lịch dần dần lan rộng từ chiếc nôi Ấn Độ đến những vùng đất Á Châu. Để đáp ứng với những nền văn hóa khác biệt, những khuynh hướng tư tưởng, đường lối thực hành, và trường phái  ra đời, trong số nầy có nhiều khuôn mặt trở nên quan trọng và giữ vững truyền thống của riêng họ. Khi chúng ta nói đến Phật giáo ngày nay, chúng ta nhìn tổng quát qua ba truyền thống lớn, với văn tự, tín điều giáo lý. Đó là truyền thống Phật giáo Á Đông (Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, và Việt Nam), truyền thống Thervada (Tiểu Thừa) từ Đông Nam Á, và truyền thống Vajrayana (Mật Tông) còn gọi là Tantric (Kim Cang Thừa) dọc theo dãy núi  Hy Mã Lạp Sơn.

Đây là việc làm phiên dịch và nghiên cứu một  phần chính trong tác phẩm MaHa Chỉ Quán do một tỳ khiêu người Trung Hoa là Trí Khải (538-597) viết ra. Chính Trí Khải được tán tụng như một vị Tổ sư sáng lập Thiên Thai Tông, là một trong những truyền thống Phật giáo gây ảnh hưởng lớn và dài lâu vùng Đông Á (1). Như tựa đề quyển luận đưa ra, Chỉ và Quán là phương pháp thiền hoặc tu tập thuộc tôn giáo. Được gọi là Đại (MaHa) vì là pháp viên đốn hội nhập Phật giới, là một tư tưởng nổi bật của Phật đạo Đông Á mà Trí Khải và thời đại của Đại Sư nhìn như một biểu tượng của Phật pháp (2). Sự kiện nầy, cùng với nội dung văn mạch cực kỳ thâm thúy, không những làm cho MaHa Chỉ Quán trở nên một luận đề tuyệt đỉnh của Thiên Thai Tông, nhưng còn được tất cả những tông phái Phật giáo Đông Á tán tụng. Một biểu tượng lịch sử với lối nhìn cuốn hút sâu thẳm như vậy đã tự giữ một chỗ đứng song song với tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) của Buddaghosa và Tsong-kha-pa Lam-rim chen-mo như một trong những tinh túy của Phật giáo đại cổ.

Tác phẩm nguyên thủy MaHa Chỉ Quán gồm có mười chương, phân ra làm mưòi đề mục- tương đương với khoảng bốn hoặc năm chương dưới dạng Anh ngữ. Quyển sách trong tay bạn là một bản dịch chương thứ nhất của MaHa Chỉ Quán, cùng với lời giới thiệu hùng tráng được một môn đồ của Trí Khải là Quán Đảnh (561-632) viết và đính kèm theo tác phẩm của Thầy mình, cũng là người có trách nhiệm ghi chép và xem xét tác phẩm. Chương mở đầu nầy được gọi là phần đại ý (Synopsis), vì một sự kiện đơn giản là chương nầy tóm tắt và lập lại bố cục, nội dung chủ đề của MaHa Chỉ Quán như một  toàn phẩm, với những thay đổi uyển chuyển. Vì đặc tính tự đầy đủ của chương nầy, các nhà nghiên cứu về Phật học Thiên Thai Tông đã xem chương nầy như chính là một tác phẩm. Vì lý do đó, chúng tôi không phải là đã không tìm hiểu chu đáo khi chọn đưa ra chương đại ý nầy như một bản dịch riêng rẽ.

Phần theo sau dựa vào luận án tiến sĩ của Neal Donner viết năm 1976 tại Đại Học Britist Columbia. Vào năm 1989, Peter N. Gregory tu chỉnh khi được Dan Stevenson đưa vào Kuroda Institutes Classics trong phần Phật học Đông Á, và đồng thời được nhà xuất bản Đại Học Hawaii ấn hành.

Bản dịch của chúng tôi căn cứ vào lần tái bản MaHa Chỉ Quán của Taisho shinshu daizokyo (3), và bốn luận đề- một dưới dạng Hoa ngữ, ba là Nhật ngữ- dưới tựa đề Makasshikan, vol. 5, Bukkyo takei series nos. 22-26 (4). Bốn luận đề gồm có : (1) Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết (Chih kuan fu-hsing chuan-hung chueh) từ vị Tổ thứ chín của Thiên Thai Tông là Trạm Nhiên (Chan-jan, 711-782) (5), (2) shikan bugyo shiki, từ nhà nghiên cứu nổi tiếng về Tông Thiên Thai vào thế kỷ 20 là Shoshin, (3) Makashikan bugyo kogi, từ sau thời Tokugawa Thiên Thai tỳ khiêu Chiku (1780-1862), và (4) Makashikan bugyo kojutsu, bởi giáo sĩ Thiên Thai Tông thế kỷ thứ 19 là Shudatsu (1804-1884) (6).

Nhiều tham khảo về MaHa Chỉ Quán đương thời dưới dạng Nhật ngữ cũng rất hữu ích. Donner trước tiên ấn hành hai chương Makashikan của Sekiguchi shindai trong những tập Iwanami bunko phổ thông (1966) (7). Từ đó, nhiều bản dịch khác xuất hiện, gồm có bản của Muranaka Yujo (8) và của Nitta Masaaki (9). Có hai bản tham khảo khác vừa được xuất bản gần đây góp phần vào việc học MaHa Chỉ Quán cũng cần nên để ý. Một bản là Makashikan ichiji sakuin (10) dày cộm liên quan đến từng chữ một của tác phẩm MaHa Chỉ Quán; bản kia liệt kê chu đáo những đoạn kinh được trích dẩn trong MaHa Chỉ Quán (11).

Với sự khuyến khích và cộng tác của Peter N. Gregory, năm 1989, Donner xem lại suốt luận án của mình, đính chính và khai triển nhiều chỗ. Một năm sau đó, Stevenson đối chiếu bản dịch với bản chánh qua từng dòng một, đồng thời tham khảo những luận đề của Thiên Thai Tông với những bản dịch mới ra đời dưới dạng Nhật ngữ. Những điều chỉnh nho nhỏ về chữ dùng và lối hành văn được thực hiện toàn thể bản dịch, nhưng những sửa đổi quan trọng chỉ giới hạn ở đề mục đã chọn.- xét đoán sự bền bỉ đối với nguyên bản của Donner. Những sửa đổi quan trọng trong chương nói về tứ thiền định liên quan đến phương thức hành trì được Stevenson giới thiệu như phần đặc biệt.

Stevenson cũng sửa đổi phần ghi chú, chú trọng về nội dung của MaHa Chỉ Quán hơn là trong dàn bài nghiên cứu. Vì vậy, những chỗ Donner đã phân đoạn và giải thích trước kia, Stevenson đều giới thiệu thêm những phần trích dẩn từ các luận đề của Trạm Nhiên (Chan-jan), và từ những tư liệu khác của Thiên Thai Tông (12).

Những danh từ chuyên biệt vẫn giữ nguyên nghĩa. Một số khác biệt thiết yếu được giữ lại, nơi mà Anh ngữ có thể thông đạt ý nghĩa một cách hữu hiệu. Tuy vậy, một độc giả cẩn thận vẫn không bị sai lạc. Mặt khác, lối dịch từng chữ một giữa Hoa ngữ và Anh ngữ về những danh từ đặc biệt không thể thực hiện đối với những danh từ như fa (dharma, giáo lý, yếu tố tâm vật lý, hoặc chỉ như một vật), nơi mà một tràng ý nghĩa, hoặc là những điệp tự càng tạo sự khó khăn để dừng lại ở một nghĩa tương đương. Thí dụ như khi kiến thức về một danh từ Trung Hoa cổ điển có lợi thì cho vào dấu ngoặc. Phần từ ngữ khó (với những chữ tương đương) cũng được ghi lại theo sau bản dịch nầy.

MaHa Chỉ Quán là một tài liệu một cô đọng khó hiểu và không cân bằng- vì được bắt đầu bằng một số ghi chú của môn đồ Trí Khải là Quán Đảnh từ những bài giảng của Thầy mình. Quanh sự kiện nầy, nhiều sự rời rạc trong văn mạch đã khiến nẩy sinh ra những hệ thống khảo sát và tranh luận giữa các độc giả Thiên Thai Tông trong nhiều thế kỷ. Đối với chúng tôi là những người phiên dịch tác phẩm nếu phiên dịch vội vã bên ngoài hoặc lướt qua những khó khăn nầy mà không chú ý đến lối chú nghĩa theo truyền thống thì sẽ làm mờ nhạt những đường nét từng đóng góp vào việc làm cho tác phẩm trở nên sống động. Vì vậy, những sự rời rạc và phức tạp trong văn mạch (đã được chứng minh là gây trở ngại cho truyền thống Thiên Thai sau nầy) được cẩn trọng giữ lại trong bản dịch và tô đậm trong phần ghi chú. Những chỉ dẩn chính được đánh dấu bằng những dấu ngoặc lớn.

Sự phiên dịch về những danh từ hoặc những lối diễn tả chuyên biệt trừu tượng của Thiên Thai Tông, nếu có thể được, đều dựa vào những định nghĩa trong văn mạch của Trí Khải, hoặc từ những bản kinh và luận đề mà Đại Sư và những người cùng thời biết đến và dùng. Ngoài ra, Trạm Nhiên (Chan-jan) được xem là người đáng tin cậy. Có hai lý do để có thể tin tưởng vào những tác phẩm cũng như những ghi chú của Chan-jan. Thứ nhất là sẽ lỏng lẻo nếu đi vào những tái lập của MaHa Chỉ Quán mà không theo những luận đề của Chan-jan, vì xưa kia thiếu tư liệu, cũng như vô số xung đột mà những luận đề của Chan-jan gặp phải khi tái tạo hình dáng cho tác phẩm hiện nay (13). Thứ hai, sự diễn dịch của Chan-jan về tác phẩm trở thành một diễn dịch theo cùng tiêu chuẩn cho tất cả các vùng Đông Á, tiếp nhận cái hiểu của Chan-jan  ít nhất đưa chúng ta bước vào được dòng suối của những khảo cứu về Thiên Thai Tông sau nầy. Chương phụ đề trong bản dịch theo Chan-jan, vì đảm nhiệm hầu hết (nhưng không phải là tất cả) những yếu tố làm nổi bật văn mạch của tác phẩm.

Phần chính của tác phẩm trước hết là lời nói đầu, và ba chương giới thiệu. Reverend Yamada Etai hiện nay là tổng chủ khảo của Thiên Thai Tông ở Nhật Bản đã viết lời nói đầu nầy. Stevenson và Donner viết chương giới thiệu thứ nhất, đưa ra những nền tảng khái niệm của Thiên Thai Tông cũng như phát họa chương Đại Ý trong tương quan với tác phẩm MaHa Chỉ Quán như một khối. Chương thứ hai và chương thứ ba, do Stevenson viết, đưa ra một cái nhìn tổng quát về mặt văn hóa có tính cách lịch sử của MaHa Chỉ Quán, và đưa vào đề tài liên quan đến vai trò của tác phẩm như một thánh thư của truyền thống Thiên Thai.

Trong việc hoàn thành tập sách nầy, chúng tôi cũng nhận được sự nâng đỡ từ nhiều nơi, bạn hữu, và những người đồng sự. Niềm cảm tạ đặc biệt gởi đến Yamada Etai, vị thống lãnh trường phái Thiên Thai hiện nay ở đỉnh Tỉ Duệ (Mount Hiei), đối với sự giúp đỡ vô cầu của Người dưới hình thức giúp chi phí ấn hành tập sách nầy (cũng như tử tế cung cấp kiểu chữ đẹp dành cho tựa đề sách và dùng vẽ bìa sách); và gởi đến Maezumi Roshi, khoa trưởng Trung tâm Kuroda, đối với lòng luôn ân cần và sự nâng đỡ tinh thần.

Peter N. Gregory, Giám đốc Trung tâm Kuroda, và cũng là Giáo sư phân khoa Tôn giáo, University of Illinois tại Champaign Urbana, đã dành thì giờ xem bản in, các mẫu hình, và giúp in những ấn bản sau cùng. Không có lòng tử tế và khuyến khích của ông, (chưa kể lòng kiên nhẩn), tập sách nầy sẽ khó có thể đầy đủ. Chúng tôi cũng gởi lời cảm tạ đến bà Barbara E. Cohen trong việc giúp sang sửa bản in và phần ghi chú.

Hầu hết thì giờ của Stevenson dành cho tập sách nầy trải qua ở phòng trọ Đại Học Michigan, dưới sự nâng đỡ của University of Michigan Institute for the Study of Buddhist Literature và Chung-Hwa Institute of Buddhist Studies, Taipei. Sự quan tâm của các Giáo sư Luis O. Gonnez, Donald S. Lopez, Jr., và T. Griffith Foulk từ University of Michigan Buddhist Studies Program, đã giúp đỡ nhiều cách.

Tôi, Dan Stevenson, xin được cảm tạ hai người đối với vai trò đặc biệt của các vị trong công việc nầy. Vị thứ nhất là Venerable Sheng-yen, Giám đốc Chung-Hwa Institute of Buddhist Studies, là người đã khuyến khích sự tìm hiểu của tôi trong nhiều năm, không có người, tôi khó thể vào được tận đáy sâu sống động của truyền thống Phật giáo Trung Hoa. Người thứ hai là Miwa, người bạn đời của tôi. Từ bà, sự nâng đỡ và tình nguyện chia xẻ cùng tôi những lo âu mà một đồ án như trên mang đến, được thành công. Tất cả những gì tôi đã làm được xin dâng tặng cho các bạn.

Và tôi, Neal Donner, xin gởi lời cảm tạ gia đình đã giúp đỡ tôi, người cha quá cố là Otto Donner, là người đã quá thương yêu tôi đến đổi chống đối sự chọn lựa nghề nghiệp phiền hà của tôi; và người hôn phối thứ hai của ông là Maria Donner, là người đã mang niềm vui đến cho ông trong những năm sau cuối; gởi đến Carol Linnell, người vợ trước của tôi, là người chưa từng quên vai trò của một người mẹ; Erich Donner và Rebecca Donner, là người đã dạy tôi nhiều pháp Phật; em trai tôi là Michael Donner, không ngừng thương yêu tôi bất kể những khác biệt; và sau cùng là mẹ tôi, Jane Donner Sweeney và người hôn phối thứ hai của bà là Vince Sweeney, là người đã hòa hợp sự tìm kiếm giác ngộ trong sự gắn bó của gia đình, hơn tất cả những người nào mà tôi đã được gặp.

         Daniel B. Stevenson

         Neal Donner

Tham khảo

(Phần phiên âm Hoa ngữ theo hệ thống Wale-Giles)

  1. Truyền thống có tên theo Thiên Thai Sơn tại vùng Đông Nam Trung Hoa, là đỉnh núi trên đó Trí Khải đã thành lập trung tâm đạo tràng đầu tiên của tông phái. Tên gọi qua Hoa ngữ, người Đại-Hàn đọc là Chontae, và người Nhật đọc là Tendai.
  2. Lần tái bản sớm nhất của MaHa Chỉ Quán được môn đồ Trí Khải là Quán Đảnh chủ biên, tên thực là “Viên Đốn Chỉ Quán” (Yuan-tun Chih-kuan). Sau lần tái bản thứ ba và lần tái bản sau cùng, Quán Đảnh định lại tựa đề như hiện nay.
  3. T no.1911. Bản Taisho dựa vào bản in đời nhà Minh, với những bản văn khác đối chiếu với bản đời Tống và thời kỳ Tokugawa.
  4. Bukkyo taikei kansekai (Iwada Kyoen, chief ed.) Makashikan, 5 vols., Bukkyo taikei series no. 22-26 (Tokyo: Bukkyo taikei kanseikai, 1912, 1919, 1932, 1933; được Nakayama shobo busshorin in lại năm 1978). Cùng bốn luận đề, với nguyên bản, cũng được Tada Koryu, ed., Tendai daishi zenshu: Makashikan, 5 vols. (Tokyo: Nippon bussho kankokai, d.u.) tái bản.
  5. Cũng được thấy trong T no.1912.
  6. Chiku và shudatsu cả hai đều là những khuôn mặt tạo nhiều ảnh hưởng liên hệ đến Anraku-ha, một hậu Tonkugawa trên đỉnh Tỉ Duệ (Hiei) tìm lại dấu vết tư tưởng huyền bí của hongaku và phục hồi truyền thống “cổ truyền” của đạo tràng Thiên Thai.
  7. Sekiguchi shindai, Makashikan, 2 vols. Iwanami bunko series, 33-309-2 (Tokyo: Iwanami shoten, 1966).
  8. Muranaka Yujo, Makashikan, Daijo butten no.6 (Tokyo: Chuo koronsha, 1988).
  9. Nitta Masa’aki, Makashikan, Butten koza, no.25 (Tokyo: Daizo shuppansha, 1989).
  10. Yamada Kazuo, ed., Makashikan ichiji sakuin (Tokyo: Daisan bunmeisha, 1985).
  11. Chugoku bukkyo kenkyukai, ed., Makashikan inyo tenkyo soran (Tokyo: Nakayana shobo busshorin, 1987), trước kia đã ấn hành dưới hình thức tập san Tendai 2-6 (1981-1983). Bảng liệt kê những thamcứu nầy hầu hết từ bốn luận đề có trong Iwada, ed., Makashikan, Bukkyo taikei series nos. 22-26. Những nguồn gốc khác thì vẫn chưa dứt khoát.
  12. Những đoạn trích dẩn từ Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết (Chih-kuan fu-hsing ch’uan hung chueh) đươc giới thiệu bằng những chữ như Chan-jan “nói” (hoặc “cho rằng” v.v…), theo sau là phần tham khảo đặc biệt của Taisho. Những nguồn gốc khác gồm có những trước tác của tôn giả Hui-ssu (Tuệ Tư) (515-577), Chih-I (Trí Khải) (538-597), Kuan-ting (Quán Đảnh) (561-632), và Chan-jan (Trạm Nhiên) (711-782), cũng như những khuôn mặt đời Tống như Tri Lễ (Chih-li, 960-1029), và Tuân Thức (Tsun-shih, 963-1032).
  13. Đọc Sato Tetsuei về sự sự phát huy MaHa Chỉ Quán được tóm lược trong tác phẩm Tendai daishi no kenkyu.