LỢI ÍCH THÙ THẮNG
CỦA
KHAI THỊ TRỢ NIỆM
Trích thuật: Pháp Sư Tín Nguyện
Dịch chú: Thích Giác Quả

LỜI TỰA

Đức Thế Tôn đã từng dạy trong kinh Đại Tập: “Trong thời Mạt pháp, ức ức người tu hành ít có kẻ nào đắc Đạo, chỉ nương theo Pháp môn niệm Phật mới thoát khỏi Sanh tử”. – Lời dạy của đức Thế Tôn tuyệt đối không thể hư dối mà bao giờ cũng là sự thật, cụ thể, thời đức Thế Tôn tại thế và cả thời Chánh pháp, hầu hết đệ tử của Ngài, kể cả hàng tại gia, vị nào cũng có sở đắc sở chứng, đa phần là chứng quả A-la-hán, đoạn tận Sanh tử an trú Niết-bàn; giờ đây đã đi sâu vào thời thời Mạt pháp, kết quả tu chứng tốt đẹp như thế đã vắng bóng, trừ những vị tu Tịnh Độ. Điều này, Đại Sư Ấn Quang đã xác chứng: “Thời Mạt pháp đời nay chúng sanh nghiệp nặng tâm tạp, nếu ngoài Pháp môn niệm Phật  mà tu các Pháp khác, xét về mặt gieo căn lành Phước trí thì có, còn xét về mặt thoát ly Sanh tử trong hiện tại thì không”([1]).

      Từ căn bản khế cơ, khế thời này, các bậc Long-tượng trong Tông Tịnh Độ cận đại và hiện đại, với tâm bi-nguyện của mình, các Ngài đã trước tác, soạn thuật nhiều tác phẩm diễn bày nhiều phương diện sai khác để vừa tô bồi giáo nghĩa Tịnh Độ thêm phong phú, vừa quảng bá rộng rãi đến mọi tầng lớp quần chúng nhằm đạt kết quả giải thoát vãng sanh lớn hơn. Bản “Lợi Ích Thù Thắng Của Khai Thị Trợ Niệm” do Pháp Sư Tín Nguyện trích thuật([2]) là một trong các tác phẩm ấy.

      Trượng thừa huyền ký của Phật, Tổ; đồng thời, nhận thấy hiện nay trong nước nói riêng, nhiều Đạo tràng niệm Phật đã được hình thành với số lượng Phật tử phát tâm tu tập rất đông, nhưng xét về giáo nghĩa Tịnh Độ được chuyển ra Việt ngữ còn rất hạn chế; do vậy, dù đang thân bệnh khá nặng, chúng tôi vẫn cố gắng dịch bản Hán Văn này gởi đến quý vị, với tâm nguyện mong cầu những vị hữu duyên đọc được bản này sẽ có thái độ thiết thực tạo dựng tư lương cho mình, để khi thọ mạng chấm dứt sẽ đón nhận được nguyện lực tiếp dẫn của đấng Từ Phụ A-Di-Đà, về sống chung với chư Thánh nhân bất thối ở thế giới Cực Lạc trời Tây.

      Nội dung chuyên chở trong bản này được cô đọng ở tên sách mà tác giả đã chọn; đại để, là diễn đạt về phương cách trợ duyên cho người sắp lâm chung, giúp họ có Chánh niệm để được vãng sanh như ý, dù họ là người tu tập hay kẻ đã làm các việc ác. Nội dung này được phô bày qua các chương:

–     Lời nói đầu (của tác giả).

–     Căn cứ từ Kinh Phật.

–     Căn cứ từ các bộ Luận của chư Tổ.

–     Sự khích lệ tinh tấn của chư Đại Đức xưa và nay.

–     Nhân quả của sự trợ niệm.

–     Giải thích sự nghi ngờ.

      Khi dịch bản này có hai đoạn ngắn trích từ Luận của Tổ Đạo Xước và Đại Sư Nguyên Tín chúng tôi không dịch, một phần do trùng lặp ý nghĩa các đoạn trước, một phần để bản dịch được ngắn gọn hơn; bên cạnh, chúng tôi cũng chỉ dịch một số sự tích vãng sanh để làm bảo chứng chứ không dịch tất cả cũng bởi hai lý do trên. Ngoài ra, sau bản dịch chúng tôi trích đăng thêm “Pháp ngữ của Đại Sư Ấn Quang” cũng trích trong bản “Văn sao” của Ngài, với hy vọng độc giả sẽ đón nhận nhiều hơn lời vàng ý ngọc của Ngài.

      Tựu trung, như  đức Thế Tôn thường dạy: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. May mắn nhờ đủ túc duyên, chúng ta được làm thân Người, được gặp Tam Bảo, được tu Tịnh Độ, được đọc sách này, đấy là thiện phước rất lớn, mong rằng hết thảy Liên hữu chúng ta “Chớ hẹn đến già rồi niệm Phật”; bởi lẽ, “Mồ hoang lắm kẻ tuổi xuân xanh”([3]). Ấy thế, chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực thực hiện Tín-Nguyện-Hạnh thâm sâu hơn nữa, để hoa sen tại hồ báu Cực Lạc sẽ nở thêm những đoá thiện thượng. Trân trọng nguyện cầu!

Hồng Đức tự-Mùa Phật Đản PL.2552

  1. Thích Giác Quả

Kính bút

 

[1] Trích từ bản “Văn sao”.

[2] Do Tịnh Tông ấn kinh hội-Đài Loan tái xuất bản năm 2002.

[3]  Trích “Cổ thi”.

Chương Một

LỜI NÓI ĐẦU

Thông thường, vào thời điểm lâm chung Tứ đại (1) trong thân thể con người bị suy thoái mãnh liệt, gây nên bao nỗi đớn đau như thân thể bị đâm bởi hàng vạn mũi tên hay như con rùa bị lột mai. Những người chưa đủ duyên tu học Phật pháp khi gặp phải người thân sắp lâm chung thì lúng túng, hoảng hốt chẳng biết làm gì cho đến khi người thân ra đi. Trong hoàn cảnh đó, nếu may mắn gặp được Thiện hữu tu Tịnh Độ Khai Đạo Trợ Niệm, dù người lâm chung cả đời chẳng biết niệm Phật, nhưng cũng dễ dàng phát khởi đức tin, sẵn sàng lắng nghe danh hiệu đức Phật, tâm duyên với cảnh giới của Phật (Cực Lạc), nhất tâm Chánh niệm hướng về nguyện lực của đức Phật (A-Di-Đà), thì liền cảm ứng đến Ngài và được tiếp dẫn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc; giả như, người lâm chung vốn có công đức niệm Phật thâm hậu, Chánh niệm rất kiên định, giờ đây lại được Thiện hữu Khai Thị Trợ Niệm thì sẽ giúp đức tin của đương sự kiên cố thêm, để xả bỏ tất cả duyên sự cuộc đời mà vãng sanh nhanh chóng hơn; đồng thời, đang được Liên hữu (2) trợ niệm lại được Bà con quyến thuộc cùng niệm trợ duyên thêm, thì làm sao người còn kẻ mất không lợi lạc được! Cho nên, trợ niệm cho người, giúp người niệm Phật, khéo léo thuyết Pháp giúp người xây dựng Chánh tín, trợ duyên cho người vãng sanh Tây Phương để viên mãn quả Phật, động thái này chính là bắc cầu về Tây Phương, chỉ đường về Giác Ngộ, nhằm dẫn dắt những kẻ mê mờ đi về ánh sáng, chính hành hoạt này là gánh vác gia nghiệp của đức Như Lai và xứng danh là Chân Đệ tử của đức Phật vậy.

Kiếp người thật ngắn ngủi, chỉ một chớp mắt là đã qua đời khác, nhưng đời này may mắn gặp được Bổn nguyện của đức Phật A-Di-Đà, tin tưởng vào sự trì niệm sáu chữ Hồng danh của Ngài, Hồng danh đó vốn đầy đủ công năng lìa xa sanh tử khổ hải luân hồi, và là “nền tảng Đại sự” cho các thế hệ mai sau; thật là, đức Phật A-Di-Đà không bao giờ bỏ quên từ bi thệ nguyện cứu độ của mình. Dù đáng vui đáng mừng cho phước thiện đời trước của chúng ta; song, tĩnh tâm nhìn lại thì hết thảy chúng sanh như si cuồng mù điếc, tranh nhau làm ác gây tội như cuồng phong bão táp để mãi bị đọa lạc, mới ra rồi lại vào trong Tam đồ Ác đạo(3). Cho nên, Bổn nguyện của một Hành giả (4) thì chỉ cầu nguyện cho mình được giải thoát một lần mà thôi, không nên cầu đến lần thứ hai; hơn nữa, vấn đề “Thượng cầu Phật đạo”, tức việc “Tự độ” đã được đức Phật A-Di-Đà trợ duyên qua công đức chân thật được hoàn thành bởi vạn hạnh vạn thiện của mình; còn vấn đề “Hạ hóa chúng sanh”, tức việc “độ Tha” đã được chư Phật thường tuyên dương và xác chứng về Bổn nguyện của đức Phật A-Di-Đà, nghĩa là ai niệm Phật sẽ thành Phật. Vì thế, không kể là “Tự lợi” hay “lợi Tha”, mọi sự tu tập đều được đức Phật A-Di-Đà và chư Phật thường xuyên hộ trì che chở.

Qua trên, Bổn nguyện của một Hành giả là hoan hỷ tận tâm xiển dương lý tưởng cứu độ của đức Phật A-Di-Đà để dẫn dắt những người mê lầm và nỗ lực trao truyền thông tin về Bổn nguyện của đức Phật A-Di-Đà, để người nào niệm danh hiệu của Ngài sẽ được tỉnh ngộ; đồng thời, hãy phát thệ nguyện gánh vác “Thiên chức” Bổn nguyện của một Hành giả: “Là Sứ giả của đức Phật A-Di-Đà, là Thiện tri thức của tất cả chúng sanh”. Hết thảy mọi đối tượng không phân biệt là Phật tử hay Ngoại đạo, là người Thân hay kẻ Sơ, là người tu Tịnh Độ hay kẻ tu các Tông phái khác, là người tu nương Tự lực hay kẻ tu nương Tha lực, là người Thiện hay kẻ Ác, là người đang Sống hay kẻ đang Lâm chung; điều quan trọng chủ yếu là có nhân duyên hội ngộ để giới thiệu Pháp Bảo Tịnh Độ viên mãn, nhằm hướng dẫn đối tượng khởi phát đức tin vào Bổn nguyện của đức Phật A-Di-Đà, hầu nương vào con thuyền giáo pháp Tịnh Độ vãng sanh Tây Phương; bên cạnh, hãy khích lệ đối tượng tinh tấn trì niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà để trở về cố hương xưa nay của mình. Hành giả thường hành hoạt như vậy, khích lệ tha nhân cũng tu tập như vậy và luôn xiển dương phổ biến rộng sâu khắp mọi lúc mọi nơi ai cũng thực hiện như vậy, thì sẽ làm cho thần thức của chúng sanh ở hai cõi Âm, Dương siêu thăng Tịnh Độ, vĩnh viễn xa lìa bể khổ trầm luân; động thái này không chỉ được đức Phật A-Di-Đà hoan hỷ, chư Phật tán thán mà điểm quan trọng hơn là đã biết báo đáp thâm ân chư Phật một cách chân chính thiết thực.

Chúng tôi không ngại tài hèn đức kém, chỉ biết đem trọn lòng thành rửa tay cung kỉnh trích dẫn những câu văn trọng yếu trong Kinh – Luận của Phật, Tổ làm cứ điểm cho phương pháp “Khai Thị Trợ Niệm”, giúp Tứ chúng có niềm tin để “Y giáo phụng hành” mà thôi. Đồng thời, trong này những khích lệ ân cần thắm thiết của Bổn nguyện chư Tổ, sẽ được những Hành giả chân chính luôn đặc biệt ghi nhớ thâm ân và xem đó là Bổn nguyện của mình cần được thực hiện.

————————————————

[1] Tứ đại: Xét riêng về con người, Tứ đại là bốn chất kết hợp nên thân thể vật lý – đó là: Địa đại (chất rắn), Thuỷ đại (chất ướt), Hỏa đại (chất nóng) và Phong đại (chất di động).

[2] Liên hữu: Bạn hữu tu theo Tông Tịnh Độ.

[3] Tam đồ ác đạo: Ba đường hay ba cõi ác dữ, đó là Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh.

[4] Hành giả: Người đang tu tập. Tại đây, chỉ người đang tu Pháp Tịnh Độ.

 

Chương Hai

CĂN CỨ TỪ KINH PHẬT

  1. Những câu văn trọng yếu trong “Quán Kinh”(1).

“Quán Kinh” là một trong ba Kinh (2) làm nền tảng chủ yếu cho Tông Tịnh Độ, là Kinh rất trân quý trình bày về hạng phàm phu được giải thoát. “Ba bậc Chín phẩm”(3) trong Quán Kinh, xét trên ý nghĩa rõ ràng là xiển dương sự giáo hóa của đức Phật Thích Ca, nhưng trên ý nghĩa sâu kín là bày tỏ sự hóa độ của đức Phật A-Di-Đà, đặc biệt là những phàm phu làm các việc độc ác, khi lâm chung được gặp Thiện tri thức thuyết Pháp trợ duyên, nên khởi phát niềm tin niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà mà được vãng sanh vào “Ba phẩm bậc Hạ”. Qua đó đủ thấy rằng, sự quan trọng và thiết yếu của việc Khai Thị Trợ Niệm như thế nào rồi, giả như hạng người này chẳng có Thiện hữu khuyến khích niệm Phật, thì làm sao được vãng sanh về Tịnh Độ của đức Phật A-Di-Đà!

  1. Đoạn văn trong Trung phẩm Hạ Sanh của “Quán Kinh” ghi:

“Trường hợp Trung phẩm Hạ Sanh (sanh vào phẩm Hạ bậc Trung) là: Những Thiện Nam, Tín Nữ biết hiếu thảo phụng dưỡng Mẹ Cha, trong cuộc sống biết thương người mến vật; những hạng người này đến giờ phút lâm chung được gặp Thiện tri thức, vị này vì đương sự mà giảng rộng về các hiện tượng an lạc ở cảnh giới của đức Phật A-Di-Đà; đồng thời, cũng giảng giải về bốn mươi tám Đại nguyện của Tỷ-kheo Pháp Tạng (4). Sau khi đương sự được nghe, trong chốc lát thì mạng chung, tương tự như thời gian của các võ sĩ co duỗi cánh tay, đương sự liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương”.

  1. Đoạn văn trong Hạ phẩm Thượng Sanh của “Quán Kinh” ghi:

“Trường hợp Hạ phẩm Thượng Sanh (sanh vào phẩm Thượng bậc Hạ) là: Những người thường làm các việc ác dữ nhưng không hủy báng Kinh điển Đại thừa; hạng người mê lầm này đa phần khi làm các việc độc ác thường không biết xấu hổ thẹn thùng, đến khi thân mạng gần chết được gặp Thiện tri thức, vị này vì đương sự mà thuyết giảng danh xưng của Mười hai bộ Kinh (5) Đại thừa. Nhờ được nghe tên của các Kinh như thế mà đoạn trừ được các nghiệp ác cực nặng trong ngàn kiếp. Thiện tri thức lại bảo đương sự chấp tay xưng niệm “Nam-mô A-Di-Đà Phật”, nhờ sự xưng niệm này mà đoạn trừ được những tội lỗi trong năm mươi ức kiếp (6) sanh tử. Bấy giờ, đức Phật A-Di-Đà liền bảo các đức hóa Phật, hóa Bồ-Tát Quán Thế Âm và hóa Bồ-Tát Đại Thế Chí đều đến trước người ấy khen ngợi rằng: “Này, Thiện Nam tử! Vì ngươi xưng niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà mà các tội chướng được tiêu diệt, giờ đây chúng ta đến tiếp dẫn ngươi đây!” Người ấy vừa nghe xong, liền thấy hào quang của chư Phật chiếu sáng khắp nhà mình, nên khởi tâm vui mừng tức thì mạng chung, nương vào hoa sen báu theo sau chư hóa Phật sanh về trong hồ bảy báu.”

  1. Đoạn văn trong Hạ phẩm Trung sanh của “Quán Kinh” ghi:

“Trường hợp Hạ phẩm Trung sanh (sanh vào phẩm Trung bậc Hạ) là: Những người tại gia hay xuất gia hủy phạm Năm giới, Bát quan trai giới hay Cụ túc giới (7); hạng người mê lầm này lại còn trộm cắp vật dụng của chúng Tăng, như vật dụng của hiện tiền Tăng… bên cạnh, còn thuyết Pháp với tâm lý tà mạng đầy lợi danh, làm những việc như thế nhưng chẳng biết xấu hổ thẹn thùng, mà lại dùng những việc làm ác độc ấy để xây dựng tô bồi cho bản thân mình. Những tội nhân này vì đã tạo các nghiệp độc ác nên phải đọa vào Địa Ngục; do vậy, khi thân mạng sắp kết thúc các hiện tượng lửa dữ ở Địa Ngục đồng loạt hiện ra trước mắt người ấy; may mắn được gặp Thiện tri thức, vị này với tâm đại từ bi của mình vì đương sự mà tán thán oai – đức và Mười lực (8) của đức Phật A-Di-Đà, lại còn ca ngợi nhiều phương diện về hào quang rực rỡ và năng lực thần thông của Ngài; đồng thời, cũng tán thán về Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến. Sau khi được nghe, người ấy đoạn trừ được tội lỗi của mình trong tám mươi ức kiếp(9) sanh tử, các hiện tượng lửa dữ ở Địa Ngục hóa thành làn gió mát dịu, thổi đến những thứ hoa trời, trên mỗi hoa là chư hóa Phật và hóa Bồ-Tát an tọa, đồng đến tiếp dẫn người ấy, chỉ trong giây lát người ấy được vãng sanh về Cực Lạc ở trong hoa sen của hồ bảy báu.”

  1. Đoạn văn trong Hạ phẩm Hạ sanh của “Quán Kinh” ghi:

“Trường hợp Hạ phẩm Hạ sanh (sanh vào phẩm Hạ bậc Hạ) là: Những người làm đủ những việc rất ác độc như Ngũ nghịch, Thập ác. Những người si mê này vì đã tạo các nghiệp ác độc nên phải bị đọa vào Địa Ngục trải qua rất nhiều kiếp để chịu những khổ đau cùng cực. Đến giờ phút sắp lâm chung, người si mê này may mắn gặp được Thiện tri thức, vị này vì đương sự mà an-ủi khích lệ, giảng giải Diệu pháp và khuyên hãy niệm Phật. Vì cơn đau đớn bức bách nên đương sự không thể niệm Phật được, vị Thiện tri thức thấy vậy nên bảo rằng: “Nếu ngươi không thể niệm những danh hiệu của các đức Phật khác thì cố gắng niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà.” Được nghe như vậy, người này chí thành xưng niệm “Nam-mô A-Di-Đà Phật” Mười niệm liên tục không gián đoạn. Nhờ xưng niệm danh hiệu đức Phật như thế, nên trong mỗi niệm đoạn trừ được tội lỗi trong tám mươi ức kiếp sanh tử; đến khi lâm chung người này thấy đóa sen vàng lớn như mặt trời, trong chốc lát được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

* Sự tích vãng sanh.

– Trương Chung Húc – thời nhà Đường.

Trương Chung Húc là người Trường An sống vào thời đại nhà Đường, cả đời làm nghề giết gà để sinh sống. Đến khi thân mạng sắp chết, trước mắt xuất hiện một người mặc y phục màu hồng dẫn một đàn gà đi đến và hô lớn: “ Mổ đi! Mổ đi!”, tức thì đàn gà bay đến tranh nhau mổ vào phần trên của thân thể Trương Chung Húc, làm cặp mắt của ông chảy máu không ngừng, đau đớn không chịu nỗi.

Vào thời điểm này có một vị Tăng đang trên đường hoằng Pháp thấy tình cảnh ấy, liền thay thế ông thiết trí một bàn Phật, rồi khuyên ông hãy chí thành niệm Phật. Trương Chung Húc vâng lời trì niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà, sau đó bỗng nhiên hương thơm tỏa khắp cả nhà, đàn gà tuần tự biến mất, Trương Chung Húc ngồi kiết già mà vãng sanh. (Trích từ: Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Dị Giải).

– Trương Thiện Hòa – thời nhà Đường.

Trương Thiện Hòa sống vào thời đại nhà Đường, chọn nghề giết bò làm kế sanh nhai của mình. Đến thời điểm gần chết bỗng thấy mười đầu bò hiện ra và nói tiếng người rằng: “Mầy đã giết tao! Mầy đã giết tao!”. Trương Thiện Hòa liền kể lại cho bà vợ rõ và bảo: “Bà hãy đi mời Thầy gấp để niệm Phật giúp tôi”. Sau khi vị Thầy đến, nói với Trương Thiện Hòa rằng: “Trong Kinh Phật dạy, những người nào thường làm các việc ác độc thì phải bị đọa vào Địa Ngục; tuy nhiên, nếu người ấy chí thành tha thiết xưng niệm đầy đủ Mười niệm “Nam-mô A-Di-Đà Phật”, thì trừ diệt được những tội lỗi trong tám mươi ức kiếp sanh tử, và được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.”

Trương Thiện Hòa nói: “Địa Ngục hiện ra quá nhanh, không kịp đốt hương cúng dường hay sao!” Liền đó ông đốt hương rồi hai tay cung kỉnh cầm hương hướng về hướng Tây cất tiếng niệm lớn “Nam-mô A-Di-Đà Phật”, niệm chưa đủ mười hơi thở thì Trương Thiện Hòa nói: “Đức Phật đến rồi! Đã trao cho tôi một bảo tòa hoa sen”. Vừa nói dứt lời liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc. (Trích từ: Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Dị Giải).

—————————————

[1] Quán Kinh: Kinh Quán Vô Lượng Thọ.

[2] Ba Kinh (Tam Kinh): Kinh Vô Lượng Thọ, kinh A-Di-Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ.

[3] Ba bậc Chín phẩm (Tam bối Cửu phẩm): Ba bậc là bậc Thượng, bậc Trung và bậc Hạ. Chín phẩm là, mỗi bậc có ba phẩm nên ba bậc có chín phẩm. Đó là: Thượng phẩm thượng sanh, Thượng phẩm trung sanh và Thượng phẩm hạ sanh; Trung phẩm thượng sanh, Trung phẩm trung sanh và Trung phẩm hạ sanh; Hạ phẩm thượng sanh, Hạ phẩm trung sanh và Hạ phẩm hạ sanh.

[4] Tỷ-kheo Pháp Tạng: Tiền thân đức Phật A-Di-Đà.

[5] Mười hai bộ Kinh (Thập nhị bộ Kinh): Mười hai thể loại của hết thảy Kinh điển. Theo Luận Trí Độ, đó là: 1. Khế kinh (Tu-đa-la), 2. Trùng tụng (Kỳ-dạ), 3. Phúng tụng (Già-da), 4. Nhân duyên (Ni-đà-na), 5. Bản sự (Y-đế-mục-đa), 6. Bản sanh (Xà-đa-già), 7. Vị tằng hữu – phiên âm mới là A-tỳ-đạt-ma (A-phù-đạt-ma), 8. Thí dụ (A-ba-đa-na), 9. Luận nghị (Ưu-ba-đề-xá), 10. Tự thuyết (Ưu-đà-na), 11. Phương quảng (Tỳ-Phật-lược), 12. Thọ ký (Hoà-già-la).

[6] Năm mươi ức kiếp: Năm triệu kiếp.

[7] Cụ túc giới: Giới của Tỷ-kheo và Tỷ-kheo ni.

[8] Mười lực (Thập lực): Mười khả năng về trí tuệ của đức Phật (xem Từ điển Phật học).

[9] Tám mươi ức kiếp: Tám triệu kiếp.

  1. Những câu văn trọng yếu trong kinh Địa Tạng.

Nhân duyên kinh Địa Tạng hiện hữu là do đức Thế Tôn muốn báo đền ân đức của Mẫu thân nên lên cung trời Đao Lợi để thuyết Pháp cho Mẹ; vì thế, các bậc Cổ Đức thường tán thán: “Kinh Địa Tạng là Kinh Hiếu của đạo Phật”. Vào thời gian đức Thế Tôn sắp nhập Niết bàn, Ngài xót thương những chúng sanh chưa được cứu thoát, hiện đang trôi nổi trong bể khổ tử sanh, nên đặc biệt trao lại cho Bồ-Tát Địa Tạng cứu độ. Vì vậy, Kinh này còn có tên “Thác Cô Phó Chúc Kinh” (Kinh Ủy Thác Cứu Vớt Kẻ Cô Độc). Kinh này giảng rộng về sự kiện Bồ-Tát Địa Tạng dùng đại thần lực của mình cứu độ chúng sanh giúp họ ra khỏi Tam đồ Ác đạo để được hạnh phúc ở cõi Người hay cõi Trời, nghĩa là trình bày rõ ràng khúc chiết về sự và lý của Đạo lý Nhân quả. Trong Kinh lại còn diễn bày minh bạch về những hiện tượng người lâm chung hay các Vong linh quyến thuộc của người đang sống, dù bất cứ ở chỗ nào cũng đều thấy biết thân nhân niệm Phật, làm phước cho mình. Thành thật để nói, hiện tại là thời Mạt Pháp làm Ác thì dễ mà làm Thiện thì rất khó, nên đa phần mọi người đều rơi vào Tà kiến; trong khi đó, con đường tu hành Chân chính để đoạn trừ căn nguyên các nghiệp ác độc phải được dẫn dắt bởi Chánh tri kiến – Chánh tri kiến chính là Pháp Bảo chủ yếu để xây dựng và phát huy Thiện nghiệp vậy.

  1. Đoạn văn trong phẩm Lợi Ích Người Còn Kẻ Mất(1) của kinh Địa Tạng ghi:

“… Bạch Thế Tôn! Những người quen thói độc ác, ban đầu chỉ thỉnh thoảng làm ác, nhưng rồi quen tánh dẫn đến thực hiện vô lượng tội ác. Những người này khi sắp chết thì Cha Mẹ, Bà con quyến thuộc nên làm phước để mở đường thiện cho đương sự. Bằng cách hoặc treo phan lọng hoặc thắp đèn hương rồi đọc tụng Kinh điển, cúng dường Thánh tượng của chư Phật và chư Bồ-Tát, hoặc niệm danh hiệu của đức Phật, của Bồ-Tát hay của Bích Chi; mỗi một danh hiệu sẽ thấm vào thính giác của người sắp lâm chung hoặc thẩm thấu vào bổn thức của người ấy. Qua đấy, những  nghiệp ác độc người ấy đã làm hẳn nhiên sẽ bị quả báo đọa vào Địa Ngục, song nhờ Cha Mẹ Bà con quyến thuộc làm các phước đức Thánh thiện để hồi hướng, nên nghiệp ác độc của người ấy đều được đoạn trừ. Giả như, sau khi người ấy chết rồi, trong thời gian bốn mươi chín ngày, nếu Cha Mẹ Bà con quyến thuộc lại tiếp tục làm nhiều phước đức Thánh thiện khác để hồi hướng, thì năng lực việc làm thiện này sẽ giúp cho người chết thoát hẳn Tam đồ Ác đạo, được sanh cõi Người hay cõi Trời(2) hưởng thọ hạnh phúc vượt bực và Cha Mẹ Bà con quyến thuộc còn sống cũng được lợi ích vô cùng.”

  1. Đoạn văn trong phẩm Lợi Ích Người Còn Kẻ Mất của kinh Địa Tạng ghi:

“… Khi Bồ-Tát Địa Tạng nói lời này, trong Pháp hội có vị Trưởng giả tên là Đại Biện, vị Trưởng giả này từ lâu đã chứng quả vị Vô Sanh, vì muốn hóa độ chúng sanh khắp mười phương nên thị hiện làm thân Trưởng giả; khi ấy Trưởng giả chấp tay cung kỉnh thưa hỏi Bồ-Tát Địa Tạng: “Thưa Đại Sĩ(3)! Người trong Châu Nam Diêm-Phù-Đề(4) này, sau khi chết, Bà con quyến thuộc lớn nhỏ làm các việc thiện như thiết trai cúng dường… để hồi hướng, thì người chết ấy có được lợi ích to lớn và giải thoát không? – Bồ-Tát Địa Tạng đáp: “Trưởng giả! Tôi vì mọi người trong hiện tại và tương lai nên dựa vào uy-lực của đức Phật mà lược nói về việc ấy. Trưởng giả! Những ai trong hiện tại và mai sau vào giờ lâm chung, nếu được nghe một danh hiệu đức Phật, một danh hiệu Bồ-Tát hay một danh hiệu Bích Chi, thì không phân biệt có tội hay không tội đều được siêu thoát cả. Dù ai, bất cứ đàn ông hay đàn bà khi sống không làm các điều hiền thiện mà lại làm nhiều việc ác độc, nhưng sau khi chết, Bà con quyến thuộc hoặc lớn hay nhỏ đều làm nhiều việc phước đức Thánh thiện để hồi hướng cho người ấy, thì trong bảy phần người chết hưởng một phần, còn lại sáu phần những người đã thực hành Tự lợi. Vì lý do đó, những Thiện Nam hay Thiện Nữ trong hiện tại và mai sau nghe được điều này, thì hãy tự tu để mọi công đức tu tập tự mình hưởng trọn.

Quỷ sứ lớn nhất là sự vô thường chết chóc bất chợt ập đến không ai biết trước, rồi trong cảnh mịt mờ thăm thẳm, thần thức chơi vơi một mình, chưa biết chịu tội hay hưởng phước. Do đấy, trong thời gian bốn mươi chín ngày người mới chết như ngây như điếc, bị dẫn đến những tòa án liên hệ với Địa Ngục để tra hỏi, luận bàn về những việc đã làm để định quả báo, sau khi đã thẩm định mới tùy theo nghiệp lực mà đi thọ báo. Trong thời gian chưa có kết quả mà khổ sở đã hàng ngàn hàng vạn lần rồi, huống gì thật sự bị đọa vào Tam đồ Ác đạo! Người mới chết ấy, khi chưa đi thọ báo, tức trong thời gian bốn mươi chín ngày, từng giây từng phút luôn trông chờ Bà con ruột thịt làm việc phước thiện để cứu vớt; quá thời gian này thì tùy theo nghiệp lực để đi thọ quả báo. Nếu là người ác độc thì phải trải qua hàng trăm hàng ngàn năm chịu khổ trong các đường ác khó có ngày thoát khỏi, nếu tạo tội cực ác Ngũ nghịch thì phải đọa vào đại Địa Ngục Vô gián hàng ngàn hàng vạn kiếp, mãi phải chịu đủ mọi thứ cực hình”.

  1. Đoạn văn trong phẩm Chúa, Tôi Diêm La Tán Thán của kinh Địa Tạng(5) ghi:

“… Những người làm thiện ở Châu Nam Diêm Phù Đề khi sắp chết vẫn có hàng trăm hàng ngàn Quỷ, Thần ác độc hóa hiện giống như Cha Mẹ, Bà con quyến thuộc, để dẫn dụ người ấy sa lạc vào đường dữ huống gì những kẻ chỉ biết làm ác. Bạch Thế Tôn! Như thế, bất cứ đàn ông hay đàn bà ở Châu Diêm phù Đề, khi sắp chết hầu hết thần thức của họ đều mê mờ, chẳng phân biệt được đâu là Thiện đâu là Ác, và cả thị giác thính giác cũng chẳng thấy nghe được gì. Lúc này, Bà con quyến thuộc cần nên phát tâm bố thí cúng dường, đọc tụng Kinh điển, niệm danh hiệu chư Phật, chư Bồ-Tát. Với những thiện duyên này sẽ có năng lực giúp người chết thoát ly các đường ác, hết thảy Ma, Quỷ, Thần đều lùi bước và biến mất. Bạch Thế Tôn! Tất cả mọi người, khi đến giờ phút lâm chung nếu được nghe một danh hiệu đức Phật, một danh hiệu Bồ-Tát hay một câu, một bài kệ của Kinh điển Đại Thừa thì con thấy những người ấy, ngoại trừ họ gây tội Ngũ nghịch và tội Sát sanh, còn những Ác nghiệp tương đối nhẹ hơn nhưng vẫn bị đọa Ác đạo, thì tức khắc được diệt trừ toàn bộ.”

  1. Đoạn văn trong phẩm Trì Niệm Danh Hiệu Chư Phật của kinh Địa Tạng(6)ghi:

“… Giả như những người sắp chết, thân nhân trong nhà dù chỉ một người vì người ấy mà lớn tiếng niệm danh hiệu của một đức Phật đi nữa, thì trừ tội Ngũ nghịch người ấy đã làm còn những tội ác khác đều được tiêu diệt tất cả. Tội Ngũ nghịch mặc dù rất nặng sẽ bị đọa vào Địa Ngục Vô gián trải qua hàng ức kiếp vẫn không thể thoát khỏi; nhưng khi lâm chung được người khác niệm giúp danh hiệu của đức Phật, thì Ác nghiệp Ngũ nghịch ấy cũng được tiêu diệt dần dần, huống gì những người tự mình niệm danh hiệu của đức Phật, thì được phước đức vô lượng và tội lỗi cũng được diệt trừ vô số.”

* Sự tích vãng sanh.

Lý Triệu Đãi là người Ung Châu(7), Phụ thân của anh là kẻ không tin Phật pháp, bác bỏ Nhân quả, thường phổ biến những kiến thức sai lầm ác độc (ác tri kiến), vì xúc phạm đến Thần Hộ pháp nên bị thổ huyết mà chết. Lý Triệu Đãi là người quy kỉnh và thực hành Pháp môn niệm Phật của Bồ-Tát Đại Thế Chí, để cứu vớt Phụ thân, anh phát tâm tạc tượng Bồ-Tát Đại Thế Chí bằng vàng cao ba thước, mới khởi công ngày đầu, bỗng nhiên mặt đất chấn động rất mạnh.

Trải qua hai tháng tôn tạo Thánh tượng mới được hoàn thành, vào một hôm anh mộng thấy một người thân thể màu vàng chiếu sáng rực rỡ, đầu đội mũ bảo châu, bảo rằng: “Con có biết vì sao mặt đất bỗng nhiên chấn động mạnh không? – Ta chính là Bồ-Tát Đại Thế Chí đây! Nhân duyên là do con tôn tạo hình tượng Ta, cảm động trước tâm niệm chân thành của con cầu thỉnh Ta đến thế giới này, nên khi Ta cất bước cả Tam thiên đại thiên thế giới(8) chấn động như vậy; đồng thời, với năng lực ấy đã giúp cho chúng sanh đang ở trong Ba đường ác được thoát khỏi tất cả khổ đau. Ta vốn nhờ thực hành Pháp môn niệm Phật mà chứng đạt Vô Sanh Pháp Nhẫn; do vậy, Ta phát nguyện trợ duyên cho hết thảy mọi người niệm Phật khắp cả mười phương. Con đã tôn tạo hình tượng Ta, lại hành trì Pháp môn niệm Phật, nhờ công đức ấy đã giúp cho Phụ thân con thoát khỏi cực hình của Địa Ngục và Ta cũng đã trợ duyên tiếp dẫn Phụ thân con vãng sanh về Tịnh Độ Cực Lạc Tây Phương rồi.” Khi ấy, Lý Triệu Đãi hướng về Bồ-Tát Đại Thế Chí thành tâm đảnh lễ và hốt nhiên tỉnh mộng, bấy giờ tâm tư của anh dâng trào niềm cảm xúc hoan hỷ kỉnh thương, kể từ đây anh càng tinh tấn niệm Phật hơn nữa. (Trích từ: Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược).

*

*  *

Trương Nguyên Thọ là người Sơn Tây, gia đình của anh đã nhiều đời làm nghề đồ tể để sinh sống, sau khi Cha Mẹ qua đời, anh phát tâm không làm nghề đồ tể nữa và chuyên tâm trì niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà để dùng công đức niệm Phật này hồi hướng cứu thoát song thân; đồng thời, tôn tạo hình tượng đức Phật A-Di-Đà cao ba thước để lễ bái cúng dường.

Vào một đêm, Trương Nguyên Thọ mộng thấy trong nhà ánh sáng rực rỡ, trong vùng ánh sáng ấy có hơn hai mươi người cùng ngồi trên tòa sen to lớn, trong nhóm này có hai người gọi anh Thọ đến và bảo rằng: “Chúng ta là Cha và Mẹ của con đây, khi còn sống chẳng biết niệm Phật mà còn giết hại sinh vật tội lỗi rất nặng, nên sau khi chết bị đọa vào Địa Ngục Khiếu Hoán(9). Dù bị đọa vào Địa Ngục và đang bị hành hình bởi uống nước đồng sôi, nuốt hoàn sắt nóng, nhưng nhờ năng lực niệm Phật của con nên các hiện tượng cực nóng ấy biến thành dòng nước mát mẻ. Ngày hôm qua, có một người xuất gia thân cao ba thước đến Địa Ngục thuyết Pháp, hơn hai mươi người chúng ta đều được nghe Pháp nên thoát khỏi cực hình ở Địa Ngục, bây giờ chúng ta đều được vãng sanh về Tịnh Độ Tây Phương, vì nhân duyên tốt đẹp ấy nên đặc biệt về đây báo cho con rõ”. Nói xong hướng về hướng Tây mà đi. (Trích từ: Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược).

*

*  *

Cư sĩ Dư Minh Sinh là người ở Huyện Định Hải thuộc Tỉnh Triết Giang, cả nhà làm nghề nông để sinh sống, tánh tình chất phát thật thà và không biết gì về Phật pháp. Cư sĩ có một con trai tên là Dư Đỉnh Dong, vào tuổi niên thiếu đã tin tưởng tôn sùng Phật pháp, trước năm Dân Quốc thứ XXX, Dong đến Thượng Hải và xin quy quy với Pháp Sư Viên Ánh, từ đấy Dong chí thành thính Pháp văn Kinh, đón nhận những lời Khai thị. Nhờ đó mà thâm tín Pháp môn Tịnh Độ – Pháp tu hành vừa dễ vừa nhanh; qua đây, Dong thành lập “Phật Giáo Cư Sĩ Lâm” để khuyến khích mọi người niệm Phật. Về Dư Minh Sinh dù có tham dự nghe Pháp, nhưng không chịu thực hành niệm Phật.

Vào ngày hai mươi bốn, tháng giêng năm Dân Quốc thứ XXXI (1942), Dư Minh Sinh bị bệnh, có cơ hội tốt, Dong liền trình bày với Phụ thân về ý nghĩa niệm Mười niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà là được vãng sanh Tịnh Độ Cực Lạc, với mong cầu Phụ thân mình sớm phát Tín, Nguyện để nhất tâm niệm Phật (Hạnh) cầu sanh Tây Phương. Vào ngày hai mươi chín tháng giêng, Dong lại mời thân hữu đến niệm Phật trợ duyên cho Phụ thân và Dong tự đánh khánh, tất cả đều niệm lớn tiếng. Vào đêm mồng một tháng hai, Dư Minh Sinh bỗng nhiên cười lớn và nói: “Tôi vừa thấy đức Phật A-Di-Đà cùng các thắng cảnh huy hoàng của thế giới Cực Lạc, tuyệt vời quá! Không thể diễn tả được; đồng thời, trên mỗi hoa sen trong hồ bảy báu rộng rãi thênh thang, có một Thánh Tăng an tọa với phong thái rất phi thường và an lạc”. Sau khi nói xong, Dư Minh Sinh hướng về tượng Phật ở cạnh giường, chí thành chấp tay vái lạy, rồi nói: “Nam-mô A-Di-Đà Phật, không lẽ con không được ngồi tòa hoa sen hay sao!” Sau đó, Dư Minh Sinh suy tưởng mình đang ngồi trên tòa sen đi về Tây Phương.

Được người con khích lệ niệm Mười niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà, Dư Minh Sinh hoan hỷ cất tiếng niệm lớn, niệm được tám hơi thì kiệt sức, bèn chuyển qua niệm thầm; không lâu, bỗng nhiên Dư Minh Sinh hân hoan cười lớn và an nhiên vãng sanh, bấy giờ là giờ Sửu mồng hai tháng hai, hưởng dương bốn mươi chín tuổi, đến giờ Thìn trên đầu vẫn còn nóng, hôm sau nhập liệm thì sắc diện vẫn còn tươi tỉnh. (Trích từ: Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Dị Giải).

[1] Phẩm Lợi Ích Người Còn Kẻ Mất (Lợi Ích Tồn Vong Phẩm): Phẩm thứ 7 của kinh Địa Tạng.

[2] Cõi Trời: Cõi Trời tại đây thuộc Dục giới (Lục Dục thiên).

[3] Đại Sĩ: Đồng nghĩa với Bồ-Tát.

[4] Nam Diêm-Phù-Đề: Một trong bốn Châu bao quanh núi Tu-Di, là Châu chúng ta đang ở.

[5] Phẩm Chúa, Tôi Diêm-La Tán Thán (Diêm La Vương Chúng Tán Thán Phẩm): Phẩm thứ tám của kinh Địa Tạng.

[6] Phẩm Trì Niệm Danh Hiệu Chư Phật (Xưng Phật Danh Hiệu Phẩm): Phẩm thứ chín của kinh Địa Tạng.

[7] Ung Châu: Hiện nay là một vùng thuộc Thiểm Tây.

[8] Tam Thiên đại thiên thế giới: Một ngàn triệu Thái dương hệ.

[9] Địa ngục Khiếu Hoán: Địa ngục kêu gào khóc lóc, là địa ngục thứ tư trong tám địa ngục cực nóng, vì bị hành hình quá đau khổ nên kêu gào, khóc lóc.

III. Những câu văn trọng yếu trong kinh Hoa Nghiêm.

Kinh Hoa Nghiêm được đức Thế Tôn tuyên thuyết khi vừa chứng ngộ quả vị Phật-Đà và viên mãn Mười thân(1), đây là Kinh mà hết thảy mười phương đều tán thán là Kinh điển trân quý, còn người đời thì tôn vinh là Kinh Vua của tất cả các Kinh. Ý nghĩa của Kinh diễn đạt đến tận cùng Lý-Tánh, xuyên suốt cả Nhân quả, hàm chứa toàn diện cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Đây là Giáo nghĩa mà đức Như Lai luận bàn về “Thực tánh” để nhiếp độ hàng Pháp thân Bồ-Tát; dù là vậy, Ngài vẫn đặc biệt đề cập đến vấn đề niệm Phật để tội chướng được tiêu diệt. Tại đây, chỉ trích dẫn hai đoạn ngắn để làm bằng chứng.

  1. Đoạn văn trong phẩm Hiền Thủ của kinh Hoa Nghiêm ghi:

“… Gặp người sắp lâm chung,

Khuyến khích họ niệm Phật,

Và tôn trí tượng Phật,

Bảo họ cung kỉnh nhìn,

Để khởi phát tâm sâu,

Quy hướng về cảnh Phật,

Nhờ công đức như thế,

Thành tựu hào quang(2)này”.

  1. Đoạn văn trong phẩm Nhập Cảnh Giới Giải Thoát Bất Tư Nghị Của Hạnh Nguyện Bồ-Tát Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm ghi:

“… Hoặc như có người nào,

Mạng sống sắp kết thúc,

Những hiện tượng ác dữ,

Hiện ra ở trước mắt,

Người đang lâm chung ấy,

Thấy cảnh tượng như thế,

Rất âu lo sợ hãi,

Chẳng biết cậy nhờ ai.

Nếu tin tưởng chí thành,

Niệm danh hiệu của Ta (3),

Thì cảnh ác dữ ấy,

Đều tiêu diệt tất cả”.

* Sự tích vãng sanh.

– Đau khổ lúc lâm chung, nhìn ảnh mà niệm Phật.

Lý Cái Thần là người thuộc Trấn Hán Khẩu, Tỉnh Hồ Bắc, mấy chục năm làm Quan ở Tỉnh Giang Tây; có đức tin vào thuyết “Trường sinh bất tử”, nên luyện thuốc để uống. Vào năm hơn năm mươi tuổi, do phản ứng của thuốc dẫn đến đau bụng dữ dội(4). Lý Cái Thần có quen thân với một Cư sĩ, một hôm đột nhiên ghé thăm, Lý Cái Thần thấy Cư sĩ liền khóc lóc thảm thiết và xin cứu giúp, Cư sĩ hoan hỷ giảng nói về Diệu pháp là niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây; đồng thời, bảo người nhà vệ sinh phòng nằm của bệnh nhân thật sạch sẽ, sau đó treo bức ảnh tiếp dẫn của đức Phật A-Di-Đà, rồi khuyên Lý Cái Thần hãy chí thành cung kỉnh nhìn vào ảnh Phật và tha thiết niệm danh hiệu Ngài với một tư tưởng duy nhất, là mong cầu được Ngài tiếp dẫn về Tịnh Độ Tây Phương.

Lý Cái Thần rất tin tưởng và trì niệm, Cư sĩ cũng niệm để trợ duyên, niệm đến năm trăm hiệu thì tâm lý của Lý Cái Thần rất hân hoan an lạc, mọi sự đau đớn bức ép của cơ thể không còn nữa, thấy vậy vị Cư sĩ ấy cáo từ ra về. Những ngày sau đó Lý Cái Thần vẫn tinh tấn niệm Phật, và biết trước ngày vãng sanh của mình nên báo với người nhà rằng: “Đức Phật A-Di-Đà với sắc tướng rực rỡ, đã dạy ngày mai sẽ tiếp dẫn tôi vãng sanh, như thế tôi đã được sanh về thế giới tốt đẹp, nên mọi người chớ có sầu muộn khóc lóc, mà nên vui vẻ niệm Phật trợ duyên cho tôi vãng sanh về thế giới Cực Lạc”. Quả nhiên đúng như vậy, ngày hôm sau Lý Cái Thần an ổn niệm Phật rồi nhắm mắt tự tại vãng sanh. (Trích từ: Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Dị Giải).
———————————-

[1] Mười thân (Thập thân): Kinh Hoa Nghiêm nói rằng, đức Phật có đủ Mười thân dược thụ (Thập thân dược thụ). Dược thụ: Cây thuốc.

[2] Thành tựu Hào quang: Ý nói thành tựu Pháp thân như đức Phật.

[3] Ta: Bồ-Tát Phổ Hiền – Vị đã vãng sanh về Cực Lạc.

[4] Đau bụng dữ dội: Do ký sinh trùng hoành hành.

Chương Ba

CĂN CỨ CÁC BỘ LUẬN CỦA CHƯ TỔ

  1. Những câu văn trọng yếu trong “Bát Chu Tán”.

Bản văn “Bát Chu Tán” này là bản căn cứ vào các Kinh (như Quán Kinh) nhằm thuyết minh về sự tu tập “Bát Chu Tam Muội” để được vãng sanh Tịnh Độ Cực Lạc. “Bát Chu Tam Muội” dịch là “Chư Phật hiện tiền tam muội” (Thiền định chư Phật hiện ra trước mắt) hay “Phật lập tam muội” (Thiền định chư Phật hiện đứng trước mặt), Đại Sư Thiện Đạo lại dịch là “Thường hành đạo” (Thường xuyên tu tập); tức là, hoặc thời gian cố định là bảy ngày hay chín mươi ngày, Tam nghiệp tinh chuyên niệm Phật không gián đoạn, nhờ sự tu tập này chư Phật sẽ hiện ra trước mắt.

  1. Đại Sư Thiện Đạo dạy trong “Bát – Chu Tán” rằng:

“Nếu không gặp Thiện hữu,

Khuyên niệm Phật Di Đà,

Thì sao được vãng sanh,

Về thế giới Cực Lạc?

Trường hợp những phàm phu,

Sanh phẩm Trung bậc Hạ,

Nội dung như thế nào?

Đó là hạng người phàm,

Tại gia hay xuất gia,

Thường làm các điều ác,

Như phạm trai, phá giới,

Trộm tài vật chúng Tăng,

Và thuyết Pháp tà mạng,

Chẳng có chút hổ thẹn,

Lại hủy báng Nhân-quả,

Đánh đập hàng xuất gia.

Những người si-mê ấy,

Đến ngày mạng sắp chết,

Các khớp xương đau đớn,

Như trăm ngàn dao nhọn,

Cùng đâm chích toàn thân,

Và lửa dữ Địa Ngục,

Cũng hiện ra trước mắt.

May mắn, lúc bấy giờ,

Được gặp Thiện tri thức,

Với tâm đại từ-bi,

Khuyên người ấy niệm Phật,

Tức thì ngọn lửa dữ,

Biến thành làn gió mát,

Thổi đến những hoa trời,

Trên mỗi hoa trời ấy,

Hóa Phật, hóa Bồ-Tát,

Đang an-tọa mỉm cười,

Đồng đến để tiếp dẫn.

Lúc bấy giờ, người ấy,

Bay ngồi trên hoa trời,

Theo sau Phật, Bồ-Tát,

Về hồ sen bảy báu.”

*

*    *

“Trường hợp những phàm phu,

Sanh phẩm Hạ bậc Hạ,

Nội dung như thế nào?

Đó là những kẻ phàm,

Thường hành hoạt cực ác,

Như làm Mười điều ác,

Và tạo tội Ngũ nghịch,

Những kẻ si mê này,

Gây tội ác như vậy,

Hẳn nhiên phải bị đọa,

Vào Địa Ngục nhiều kiếp,

Khó có ngày thoát khỏi.

May mắn, phút lâm chung,

Gặp được Thiện tri thức,

Vị này thương, an ủi,

Và giảng giải Diệu Pháp,

Sau khi nghe Pháp xong,

Gió dao kiếm ngừng đâm,

Kẻ ấy thấy dễ chịu.

Thiện hữu khuyên niệm Phật,

Mệt quá không thể niệm,

Lại khuyên hãy chắp tay,

Chỉ niệm Phật Di-Đà,

Kẻ ấy vâng lời bảo,

Niệm đầy đủ Mười niệm,

Trong mỗi niệm như vậy,

Tiêu trừ dần tội nặng,

Như tội hủy Chánh pháp,

Và Ngũ nghịch, Thập ác.

Do hồi tâm niệm Phật,

Tội chướng được tiêu trừ,

Nên thân tâm bệnh nhân,

Tỉnh táo và an-lạc,

Cùng lúc, hoa sen vàng,

Liền xuất hiện trước mắt,

Ánh sáng của hoa sen,

Soi chiếu vào bệnh nhân,

Khiến thân tâm hoan hỷ,

Bay ngồi trên tòa sen,

Trong giây lát sanh về,

Cõi Cực Lạc Tây Phương,

Được dự vào Đại hội,

Trên hồ sen bảy báu,

Của đức Phật Di Đà.”

  1. Những câu văn trọng yếu trong “Pháp Môn Quán Niệm”.

Bản “Pháp Môn Quán Niệm” này căn cứ vào kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Quán Phật Tam Muội Hải để thuyết minh “Quán Phật Tam Muội” (Thiền định quán tưởng Phật), và cũng căn cứ vào kinh Bát Chu Tam Muội để thuyết minh “Định Tâm Niệm Phật”. Việc làm này với ý nghĩa là khuyến dụ Hành giả hãy hoan hỷ để định tâm quán tưởng Phật tốt đẹp, đồng thời trợ duyên cho những Hành giả niệm Phật chưa thuần thục được hội nhập vào thệ nguyện rộng sâu của đức Phật A-Di-Đà. Bên cạnh, trong bản văn này “phần công đức của Năm duyên” (Ngũ duyên công đức phần) là diễn bày về “Năm loại tăng thượng duyên”, nhằm hướng dẫn Hành giả thực hành “Đại nguyện thứ mười tám của đức Phật A-Di-Đà” trong kinh QuánVô Lượng Thọ và kinh Vô Lượng Thọ, và cùng thực hành đoạn văn nói về nguyên nhân tu tập trong kinh A-Di-Đà, để xiển dương rõ ràng về lợi ích của sự niệm Phật, hầu khích lệ dẫn dắt Hành giả hội nhập vào thệ nguyện niệm Phật của đức Phật A-Di-Đà.

  1. Trong “Pháp Môn Quán Niệm” Đại Sư Thiện Đạo(1) dạy rằng:

“… Lại nữa, những Hành giả khi đến giờ phút lâm chung dù có bệnh hay không bệnh đều nên căn cứ vào “Niệm Phật Tam Muội”(2) bằng cách mặt hướng về phương Tây, tâm chuyên chú quán tưởng đức Phật A-Di-Đà, miệng chí thành niệm danh hiệu Ngài không để gián đoạn, tư tưởng nghĩ về hiện tượng vãng sanh là Thánh chúng đang đem hoa sen đến tiếp dẫn. Người sắp lâm chung nếu thấy cảnh tượng gì xuất hiện thì kể cho những người xung quanh biết, những người này nên ghi chép lại. Giả như người ấy không tiện nói thì người xung quanh đặt câu hỏi là đã thấy cảnh giới gì, nếu người ấy bảo là thấy các cảnh tượng tội lỗi, thì mọi người nên niệm Phật và Sám hối trợ duyên giúp tội ác của người ấy được tiêu diệt. Nếu thật sự tội được tiêu diệt thì sẽ thấy Thánh chúng nâng đài hoa sen đến tiếp dẫn và sự kiện này cũng nên ghi chép lưu lại. Mặt khác, những Bà con quyến thuộc đến viếng thăm người sắp lâm chung, không nên ăn thịt uống rượu và dùng năm gia vị cay nồng (như hành, tỏi, ném v.v…); nếu đã dùng thì những người ấy không nên đến gần người sắp chết vì sẽ làm cho đương sự mất Chánh niệm để Quỷ, Thần ác dữ lộng hành, đưa đến người ấy chết một cách si cuồng và đọa vào Ba đường ác dữ. Qua đó, nguyện cầu những Hành giả hãy tự mình chú tâm cẩn thận, nghĩa là hãy kính ngưỡng thực hành lời Phật dạy, cùng nhau xây dựng nhân duyên để được thấy Phật. Những lời trình bày trên là phương pháp áp dụng trong Đạo tràng tu tập và thăm viếng người sắp lâm chung vậy.”
—————————

[1] Đại Sư Thiện Đạo (613-681): Một vị Tổ Sư của Tông Tịnh Độ, sống vào thời nhà Đường. Tác phẩm Đại Sư gồm có: Quán Kinh sớ, Vãng sanh lễ tán, Pháp sự tán, Bát chu tán và Quán niệm pháp môn.

[2] Niệm Phật tam muội: Gồm có hai: 1- Nhân tu tập:Quán tưởng tướng trang nghiêm của Phật hay quán tưởng thực tướng Pháp thân của Phật, hoặc nhất tâm niệm danh hiệu Phật – Đó là ba pháp tu niệm Phật Tam muội. 2- Quả tu tập: Do ba pháp tu trên, tâm nhập vào thiền định và hoặc thấy đức Phật hiện ra trước mắt hay chứng đắc thực tướng Pháp thân.

III. Những câu văn trọng yếu trong tập “Bí Quyết Giữ Chánh Niệm Lúc Lâm Chung”.

Những Đệ tử tu học theo đức Phật, nhiều người đã làm cho Ba nghiệp của mình trong sáng thanh tịnh; tuy vậy, trong đó rất nhiều người chưa từng nghe Bổn nguyện của đức Phật A-Di-Đà, nên dù suốt đời tinh tấn niệm Phật, nhưng đến giờ lâm chung thì hầu hết ai cũng bị sự đau đớn bức bách không biết cách gì để niệm Phật; hoặc do những chướng ngại của thể xác mà đánh mất Chánh niệm hay do những oan nghiệp của tự thân cản ngăn sự niệm Phật. Bấy giờ, nếu được Thiện tri thức cảnh tỉnh về việc niệm Phật và hoan hỷ cùng niệm Phật trợ duyên, thì người lâm chung có thể nương vào đây để được vãng sanh. Trong Luận Đại Trí Độ, Bồ-Tát Long Thọ bảo: “Trong giây lát ngắn ngủi khi lâm chung, năng lực của tâm rất mạnh mẽ và lanh lợi, vượt xa năng lực của tâm lúc bình thường”. Và, Đại Sư Thiện Đạo Khai thị sự Chánh niệm lúc lâm chung cũng chú ý, khích lệ cái tâm ấy rất đặc biệt khẩn thiết.

  1. Trong tập “Bí Quyết Giữ Chánh Niệm Lúc Lâm Chung” Hòa Thượng Thiện Đạo viết:

“Trí Quy Tử đến thăm và hỏi Hòa Thượng Thiện Đạo: “Bạch Ngài! Việc lớn trong đời không có điều gì có thể vượt qua vấn đề “Sanh – Tử”, một hơi thở ra mà không trở vào là đã qua đời khác, trong thời điểm ấy nếu một ý tưởng sai lầm là rơi vào vòng luân hồi; Đệ tử đã được Hòa Thượng nhiều lần dạy bảo về phương pháp niệm Phật vãng sanh, nghĩa lý thì Đệ tử đã hiểu rõ; song sợ rằng, khi bị bệnh sắp chết, tâm thức bị tán loạn và sợ người nhà có những hành động làm mất Chánh niệm, đánh mất những chủng tử đã tu lập, ngưỡng mong Hòa Thượng chỉ dạy hướng tu tập rất nhanh gọn để sớm thoát khỏi khổ đau của bể cả luân hồi?”

Hòa Thượng đáp: “Hy hữu thay! – Điểm chủ yếu giải đáp cho câu hỏi là: Trường hợp khi một người sắp chết muốn được vãng sanh về Cực Lạc, điều cần phải chuẩn bị trước là đừng có tư tưởng “tham sống sợ chết”, thường ngày tự suy nghĩ: Thân thể hiện tại của ta chứa đựng biết bao nhiêu sự khổ đau về cả thân lẫn tâm bởi những nghiệp ác mà ta đã làm, chúng xiết chặt trói buộc ta trong sanh tử luân hồi, nếu xả bỏ cái thân ô-uế này thì sẽ được vãng sanh Cực Lạc, giải thoát mọi khổ đau hưởng thọ vô lượng sự an lạc, lại được thấy Phật nghe Kinh, tâm ý hoàn toàn hỷ lạc, điều ấy tương tự như cởi bỏ chiếc áo hôi thối xấu xí mặc vào chiếc áo thơm tho quý đẹp; vì vậy, cần được xả bỏ cả thân lẫn tâm đừng lưu luyến bất cứ một điều gì. Khi vừa bị bệnh không phân biệt là bệnh nặng hay bệnh nhẹ, điều cần thiết là nên nghĩ đến sự vô thường, và sẵn sàng chờ chết; bên cạnh, nên lưu ý dặn bảo với người nhà rằng: “Những Bà con thân hữu đến thăm viếng tôi, thì hãy chấp tay vái chào họ và thưa với họ là, nếu đến gần chỗ tôi nằm thì hoan hỷ vì tôi mà niệm Phật trợ duyên, chứ đừng nói những chuyện trong gia đình, những chuyện trong cuộc đời, hay tình cảm an ủi điều này điều kia hoặc đọc những câu thần chú để cầu lành bệnh. Tất cả những lời lẽ và hành động ấy như hoa đốm giữa hư không, chẳng được ích lợi gì mà ngược lại là gây nên tai họa lớn lao. Đến khi bệnh của tôi đã trầm trọng, mạng sống sắp kết thúc thì Bà con thân thuộc trong gia đình không nên đến gần tôi mà khóc lóc, kể lể thảm thiết, vì sẽ làm thần thức của tôi bị tán loạn và mất Chánh niệm; mà nên hội ý với nhau vì tôi mà cất tiếng niệm lớn “A-Di-Đà Phật”, niệm cho đến khi hơi thở đã đoạn tận hoàn toàn, đến thời điểm này thì có thể khóc lóc được; cần nói thêm, nếu được thì nên mời thỉnh trước những vị thông hiểu về Pháp môn Tịnh Độ, để vị ấy khuyên bảo những điều thiết thực thì tốt đẹp hơn.” Nếu thực hiện được như vậy thì chắc chắn ngàn vạn lần sẽ được vãng sanh, chứ đừng khởi tâm nghi ngờ. Đây chính là “Yếu chỉ vừa gọn vừa nhanh” để thoát khỏi luân hồi; cho nên cần khởi tâm tin tưởng và thực hiện.

Hỏi: Bạch Ngài! Có cần dùng thuốc để chữa bệnh không?

Đáp: Điều ấy thì tùy ý! – Thuốc là để chữa bệnh, nếu thấy không trở ngại thì cứ dùng; tuy vậy, thuốc chỉ chữa được thân bệnh mà không thể cứu được mạng sống, nếu mạng sống đã chấm dứt thì thuốc men làm gì được!

Hỏi: Bạch Ngài! Có thể cúng bái các vị Quỷ, Thần để cầu khẩn tăng tuổi thọ, việc này được phước hay mang họa?

Đáp: Tuổi thọ của con người ngắn hay dài khi mới chào đời đã định sẵn (do biệt nghiệp của bản thân), làm sao Quỷ, Thần có thể tăng được! Người đời do mê lầm cầu khẩn những điều Tà đạo, việc sát hại sinh vật bái tế Quỷ, Thần chỉ làm cho nghiệp ác của mình nặng hơn, oán thù tăng thêm và tuổi thọ sẽ bị giảm bớt. Khi thọ mạng đã đến thời điểm chấm dứt thì Quỷ, Thần làm gì được! Vấn đề không có gì cả mà tự mình lo sợ, nhưng kết quả cũng chẳng được gì! Thế nên, việc cụ thể là dán những lời này (việc cúng tế Quỷ, Thần…) ở phòng ăn, hay những chỗ thường qua lại, để khi nào cũng nhìn thấy, nhằm ghi khắc rõ vào tâm niệm hầu tránh khỏi việc “tiền mất tật còn” và tai hại cho sự lâm chung.

Hỏi: Bạch Ngài! Một người chưa từng niệm Phật, bây giờ có thể niệm được không?

Đáp: Pháp môn niệm Phật này dù xuất gia hay tại gia hoặc những người chưa từng niệm Phật vẫn áp dụng được, không có gì trở ngại và bất cứ ai áp dụng đều có thể vãng sanh, đó là sự thật chứ đừng nghi ngờ! Tôi đã thấy nhiều người hằng ngày thường lễ bái, niệm Phật phát nguyện vãng sanh, nhưng đến khi lâm bệnh sắp chết thì tư tưởng chỉ xoay quanh vấn đề “sợ chết”, chẳng đề cập gì đến việc niệm Phật vãng sanh, đợi đến khi hơi hết thân chết, thần thức rơi vào chỗ tối tăm (Tam Ác đạo), người nhà mới tụng Kinh, niệm Phật, thì giống như giặc cướp đã đến tận nhà thì làm sao cứu giúp được? – Thế nên, “sự chết” là việc lớn cần phải tự mình sắp đặt nghiêm túc trước; bởi lẽ, một tư tưởng khi lâm chung sai lầm thì thiên thu chịu khổ, ai là người thay thế cho ta? – Hãy suy nghĩ kỹ! Tư duy kỹ! Tự mình đắn đo kỹ điều này!”.

  1. Những câu văn trọng yếu trong “Lược Luận An Lạc Tịnh Độ Nghĩa” (Quyển Luận tóm lược ý nghĩa Tịnh Độ Cực Lạc).

Tập văn này là lược bàn về Chánh báo, Y báo trang nghiêm của Tịnh Độ Cực Lạc và Nhân duyên của sự vãng sanh, nội dung gồm Sáu cặp vấn đáp để làm sáng tỏ các điểm ấy. Trong này, ý nghĩa trình bày về Chánh báo, Y báo trang nghiêm là căn cứ vào “Luận Vãng Sanh”; về Y báo là lược thuật Mười bảy loại trang nghiêm của Tịnh Độ Cực Lạc, về Chánh báo là trình bày về Tám công đức trang nghiêm của đức Phật (A-Di-Đà) và Bốn công đức trang nghiêm của chư vị Bồ-Tát. Còn Nhân duyên của sự vãng sanh là căn cứ vào kinh Vô Lượng Thọ (Đại kinh) để trình bày tóm lược về Ba bậc vãng sanh; sau cùng, phần vấn đáp về “Mười niệm liên tục” thì tương đồng như “An Lạc tập” đã trình bày.

  1. Trong “Lược Luận An Lạc Tịnh Độ Nghĩa” Đại Sư Đàm Loan(1) ghi:

“Hỏi: Trong đoạn “Sanh vào phẩm Trung bậc Hạ” có câu: “Mười niệm liên tục thì được vãng sanh”, sao gọi là “Mười niệm liên tục”?

Đáp: Giả như có người đang đi ở nơi vắng vẻ bỗng gặp kẻ thù, kẻ này tuốt dao hùng hổ chạy đến giết hại, người ấy vội vàng tẩu thoát, được một đoạn lại gặp con sông cản đường, nếu qua bờ bên kia mới có thể bảo toàn được cái đầu. Bấy giờ người ấy chỉ nghĩ đến cách thức vượt qua bờ bên kia, nghĩ rằng: “Để bơi qua bờ bên kia, ta cứ mặc áo quần như thế này hay phải cởi ra? Nếu vẫn mặc thì sợ gây trở ngại mà cởi ra thì sợ không kịp”. Tức là, chỉ có ý nghĩ (niệm) làm sao vượt qua sông chứ không nghĩ gì khác, đó là ý nghĩa được gọi là “Nhất niệm” (ý nghĩ thuần nhất không pha tạp), với “Nhất niệm” này được tiếp nối liên tục không bị gián đoạn, không bị pha trộn thì được gọi là “Mười niệm liên tục”. Hành giả niệm Phật cũng tương tự như người muốn vượt qua sông ấy; nghĩa là, khi niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà cũng phải vượt qua Mười niệm; cụ thể là, hoặc niệm danh hiệu đức Phật, hoặc nghĩ nhớ tướng hảo của đức Phật, hoặc tư duy hào quang của đức Phật, hoặc quán niệm thần lực của đức Phật, hoặc trầm tư công đức của đức Phật, hoặc suy tưởng trí tuệ của đức Phật, hoặc quán chiếu Bổn nguyện của đức Phật… tâm ý gắn kết liên tiếp như vậy cho đến Mười niệm không có bất cứ ý nghĩ gì xen vào thì được gọi là “Mười niệm liên tục”. Trên lý thuyết “Mười niệm liên tục” xem ra không có gì khó, nhưng đối với hạng phàm phu thì “Tâm” rong ruỗi như ngựa hoang, “Thức” chạy nhảy như khỉ vượn, luôn chạy theo Ngũ dục(2), Lục-trần(3) không hề nhàm chán, không biết dừng nghỉ. Thế nên, cần phải có Tín tâm kiên cố để tự mình chế ngự, hướng dẫn tâm ý của mình theo hướng hiền thiện, thực hiện lâu ngày như vậy thì tâm ý sẽ thuần thành, thiện căn sẽ vững mạnh. Như đức Phật dạy vua Tần-Bà-Sa-La(4) rằng: “Người tích tập thiện căn thì khi chết không có ý nghĩ xấu ác, giống như một cây đã nghiêng về phía Tây thì sẽ ngã về phía Tây”. Khi sắp chết “phong đại” trong thân thể di chuyển như ngàn lưỡi dao cùng đâm vào toàn thân đau đớn vô vàn, nếu không niệm Phật chuẩn bị trước thì bấy giờ làm sao niệm được? Thêm nữa, cần kết giao một số Thiện hữu đồng lý tưởng độ năm bảy người và ước hẹn với nhau rằng, ai lâm chung trước thì những người còn lại hãy cùng đến Khai Thị Trợ Niệm giúp đương sự thức tỉnh, để niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà cầu sanh Cực Lạc, niệm với tiếng tiếng liên tục thì sẽ hoàn thành được “Mười niệm”. Ví như bôi sáp ong để in, hết in thì chữ hiện; cũng vậy, khi thân mạng kết thúc chính là thời điểm vãng sanh Cực Lạc nhập vào Chánh định, thì có gì nữa để âu lo!.

—————————

[1] Đại sư Đàm Loan (476-542): Một Tổ Sư Tông Tịnh Độ, sống vào thời Nam Bắc Triều.

[2] Ngũ dục: Năm dục lạc của thế gian. Đó là tài dục, sắc dục, danh dục, thực dục và thụy dục.

[3] Lục trần: Sáu cảnh trần trong thế gian. Đó là sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần.

[4] Vua Tần-Bà-Sa-La: Vua nước Ma-Kiệt-đà thời đức Phật tại thế.

  1. Những câu văn trọng yếu trong “Đại Sư Ấn Quang Văn Sao(1)” (Bản văn viết tay của Đại Sư Ấn Quang).

Từ xưa đến nay trải qua nhiều thời đại, đối với Giáo pháp Tịnh Độ chư Tổ rất sùng kỉnh, cho nên các Ngài chẳng sợ mệt nhọc đã chú thích, trước tác nhiều bản văn, bản luận. Tuy nhiên, bản văn có ảnh hưởng sâu rộng, được các Hành giả Tịnh Độ tâm đắc kính ngưỡng và thực hiện là “Bản Văn Viết Tay của Đại Sư Ấn Quang”. Nội dung được viết trong bản văn này là lời giải đáp của Đại Sư cho các thư từ của Tứ chúng từ bốn phương gửi đến thưa hỏi, Ngài đã y cứ vào căn cơ của đại chúng để khích lệ, trao đổi và giáo dục; những bài trả lời ấy xét về ý nghĩa thì xuất phát từ Kinh điển, xét về chân lý thì hợp với ý Phật; không chữ nào là không biểu thị Chân đế Bát Nhã, không câu nào là không minh hiển Diệu nghĩa Tịnh Độ, chuyển giáo lý thâm sâu trở thành dễ hiểu, bao hàm hết thảy giáo nghĩa của các Tông phái, xiển dương rõ ràng Nhân quả, thâu nhiếp toàn bộ giáo pháp thế gian và xuất thế gian. Thế nên, đọc bản văn này như được đọc cả Tam tạng Kinh điển. Nếu ai đọc bản văn này rồi thực hành, thì như được rưới “Cam lồ” vào đầu; vì vậy, những Hành giả Tịnh Độ, ai là người thành thật muốn trở về quê cũ của mình thì phải đọc bản “Chỉ Nam Tịnh Độ” này.

Trong bản này, đa phần Đại Sư trình bày về sự khuyến khích trợ niệm vì lòng thương người, lợi người; thế nên, bất cứ người nào, xứ nào cũng có thể đọc và sử dụng. Nơi đây, sẽ trích dẫn một số đoạn văn làm bằng chứng.

  1. Thư phúc đáp mọi người trong bản Viết Tay của Đại Sư Ấn Quang ghi:

(Ngôn ngữ tuy mộc mạc, vụng về; nhưng ý nghĩa vốn từ Kinh Phật, nếu ai tin tưởng thực hành thì lợi lạc vô cùng).

“Pháp môn Tịnh Độ là Pháp tu bao gồm cả ba căn cơ(2), từ hạng thông minh lanh lợi đến hạng ngu dốt chậm chạp. Đây là lý do mà đức Như Lai vì hết thảy Thánh, Phàm tuyên dương Đại Pháp Tịnh Độ, để giúp họ chấm dứt sự sanh tử ngay trong đời này. Thế nên, đối với Pháp Tịnh Độ mà không tin, không tu tập thì đáng tiếc lắm thay!

Pháp môn Tịnh Độ thiết lập ba Pháp: Tín, Nguyện, Hạnh làm tôn chỉ.

– Tín: Tin thế giới của chúng ta là bất toàn, khổ đau; tin thế giới Cực Lạc là hoàn hảo, an lạc; tin chúng ta là những kẻ phàm phu đầy nghiệp chướng không thể chỉ nhờ Tự lực mà đoạn tận lậu hoặc, chứng Chân như, chấm dứt sanh tử; tin đức Phật A-Di-Đà có thệ nguyện rộng sâu, nếu người nào niệm danh hiệu Ngài, cầu sanh về nước Ngài, người ấy khi lâm chung sẽ được Ngài tiếp dẫn sanh về Tây Phương Cực Lạc.

– Nguyện: Nguyện sớm thoát khỏi thế giới bất toàn, khổ đau này; nguyện chóng được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

– Hạnh: Chí thành tha thiết luôn niệm “Nam-mô A-Di-Đà Phật”, dù thời điểm nào cũng đừng lãng quên; đồng thời, tùy theo công việc để quy định thời khóa tụng Kinh, lễ sám hoặc ngày hay đêm cho mỗi ngày; ngoài ra, khi đi – đứng – nằm – ngồi hay làm việc bằng tay, chân đều nên niệm Phật. Khi đi ngủ tốt nhất là mặc niệm chứ đừng niệm thành tiếng và nên niệm bốn chữ “A-Di-Đà Phật” sẽ dễ hơn là sáu chữ. Trường hợp khi mặc áo quần không đứng đắn, hoặc khi tắm giặt, đi vệ sinh hay đang ở chỗ không sạch sẽ đều nên mặc niệm, vì niệm ra tiếng thì không đúng nghi thức, hơn nữa công đức mặc niệm cũng tương đồng với công đức niệm lớn tiếng. Mặt khác, dù niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng, niệm Kim cang(3) hay mặc niệm thì tâm thức đều nhận rõ từng chữ, từng câu; miệng niệm rõ từng chữ, từng câu; tai nghe rõ từng chữ, từng câu. Thực hiện được như thế thì tâm thức không còn hướng ngoại, mọi vọng tưởng tạm đình chỉ, sự niệm Phật tương đối đã thuần thục và sẽ thành đạt công đức rất lớn lao.

Người tu Pháp môn niệm Phật (Tịnh Độ), hẳn nhiên phải hiếu thảo chăm sóc Cha Mẹ, tôn kỉnh hầu hạ các bậc Tôn trưởng(4), nuôi dưỡng lòng Từ không nên sát hại chúng sanh(5), tu tập Thập Thiện nghiệp(6). Lại nữa, là Cha Mẹ thì phải thương yêu (Con cái), Con cái thì phải hiếu thảo, Anh thì phải thân thiện, Em thì phải kỉnh nhường, Chồng thì phải hòa hợp, Vợ thì phải tùy thuận, Người chủ thì phải nhân từ, Tôi tớ thì phải trung thành; nghĩa là ai cũng phải làm tròn trách nhiệm của mình. Hơn nữa, dù ai đối xử với ta có tròn trách nhiệm hay không, việc ấy không quan trọng, điều thiết thực là ta phải luôn luôn hoàn thành trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội, như thế mới gọi là người Hiền thiện. Người Hiền thiện mà niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chắc chắn khi lâm chung sẽ được vãng sanh, bởi lẽ tâm Thiện thì khế hợp với tâm Phật, cảm ứng đến lòng Từ nên Ngài tiếp dẫn. Trường hợp những người thường niệm Phật, nhưng tâm thức không có Đạo đức, nghĩa là không làm tròn trách nhiệm đối với Cha Mẹ, Anh Em, Vợ Chồng, Con cái, Bạn bè, Bà con làng xóm, thì khó được vãng sanh; bởi lẽ, tâm bất Thiện là mâu thuẫn với tâm Phật và tự gây chướng ngại cho mình, nên không có nhân duyên cảm ứng đến lòng Từ để đức Phật tiếp dẫn.

Lại nữa, nên khuyến khích Cha Mẹ, Anh Em, Chị Em, Vợ Chồng, Con cái, Bạn bè, Bà con làng xóm đều phát tâm thường niệm “Nam-mô A-Di-Đà-Phật” và “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-Tát”(7). Vì sự trì niệm này có công đức rất lớn lao, có thể giúp Cha Mẹ, Bà con nội ngoại, Bạn bè gần xa v.v… đón nhận được lợi ích ấy. Huống nữa, hiện tại mọi người đang đối diện với những hoạn nạn tai ách vô phương cứu chữa, nếu phát tâm trì niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà hay Bồ-Tát Quán Thế Âm, chắc chắn sẽ được lòng Từ của Phật che chở, nên gặp việc xấu trở thành tốt, gặp họa trở thành phúc. Nghĩa là được thoát khỏi mọi tai nạn, nghiệp chướng được tiêu trừ, trí tuệ được khai mở, phiền não được diệt tận, phước thiện được tăng trưởng. Hơn nữa, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chính là giúp họ chuyển địa vị phàm phu trở thành Phật quả  thì công đức rất tối thắng. Nếu đem công đức khuyên người niệm Phật này hồi hướng, để cầu nguyện vãng sanh thì chắc chắn được mãn nguyện.

Trường hợp thực hành các việc như tụng Kinh, trì Chú, Bái sám, Lễ lạy, Bố thí, Cứu nạn v.v… thì nên đem hồi hướng các công đức hiền thiện này để cầu nguyện vãng sanh Tây Phương, việc quan trọng là không nên hồi hướng để cầu đời sau được phước báo ở cõi Người hay cõi Trời, nếu có tư tưởng đó thì không có nhân duyên để được vãng sanh. Vì rằng, “khi chưa thoát khỏi sanh tử nếu phước báo càng lớn thì nghiệp chướng càng mạnh”, đời sau khó tránh khỏi đọa vào Ba đường ác như Địa Ngục, Ngạ Quỷ hay Súc Sanh; bấy giờ, muốn tái sanh làm người, gặp lại Pháp môn Tịnh Độ – là Pháp thoát khỏi sanh tử, thì rất khó như lên Trời vậy. Đức Phật dạy mọi người niệm Phật cầu sanh Tây Phương chính vì giúp mọi người chấm dứt sanh tử ngay trong đời này; trái lại, nếu cầu đời sau được phước báo ở cõi Người hay cõi Trời là mâu thuẫn với lời dạy của đức Phật. Ví như đem một hạt bảo châu vô giá mà đổi một hạt đường để ăn, thì không tiếc lắm sao! – Người vô trí niệm Phật không vì cầu vãng sanh Tây Phương mà cầu đời sau được phước báo ở cõi Người hay cõi Trời cũng tương tự như thế.

Người tu Pháp môn niệm Phật không nên đến học tập Đạo Thiền với các Thiền Sư; vì giáo lý Thiền không chú trọng đến Tín và Nguyện để cầu sanh Tịnh Độ. Trong Pháp niệm Phật chỉ chú trọng sự quán chiếu xem người niệm Phật là ai để được ngộ Đạo mà thôi. Vấn đề vãng sanh Tây Phương không phải là không cần ngộ Đạo, nếu ngộ Đạo thì phiền não, nghiệp chướng sẽ hoàn toàn thanh tịnh và sanh tử được đoạn tận. Trường hợp phiền não, nghiệp chướng chưa trừ diệt thì không thể nhờ Tự – lực mà thoát khỏi sanh tử; mặt khác, không có Tín, Nguyện thì cũng không thể nhờ Phật lực để thoát khỏi sanh tử. Như thế, Tự lực và Phật lực đã không thể nương tựa mà mong muốn thoát khỏi luân hồi sanh tử thì làm sao hiện thực được! Nên hiểu rằng, hàng Pháp thân Bồ-Tát(8) khi chưa thành Phật đều phải nương nhờ uy – đức của Phật, huống gì là những kẻ phàm phu nghiệp chướng nặng nề mà chủ trương Tự lực không cần Phật lực; điều này trên lý thuyết thì thật cao siêu, nhưng khi thực hành thì quá thấp kém. Sự rộng sâu của Phật lực và sự nông cạn của Tự – lực sai khác nhau quá nhiều như trời và vực thì làm sao so sánh được! Rất mong mọi người tu Tịnh Độ đều hiểu rõ ý nghĩa này!

Người tu Pháp môn niệm Phật không nên bắt chước người vô trí làm những Phật sự như kinh Hoàn Thọ Sanh bảo là để “Gởi vào kho”, vì kinh Hoàn Thọ Sanh không phải Kinh Phật mà do người đời sau ngụy tạo. “Gởi vào kho” là của cải được tích chứa sẵn lúc đang sống để sau khi chết làm Quỷ(9) mà tiêu dùng. Khi đã có tâm niệm nguyện làm Quỷ thì rất khó để được vãng sanh; cho nên, ai chưa khởi tâm niệm ấy thì không nên khởi, ai đã khởi rồi thì nên đến trước Phật đài bộc bạch rõ rằng: “Đệ tử tên là… duy nhất chỉ cầu vãng sanh mà thôi, những việc đã làm “Gởi vào kho” cõi Âm, kể cả việc cứu giúp các loại cô hồn sẽ không gây trở ngại cho việc vãng sanh”. Trường hợp về các Kinh, như kinh Hoàn Thọ Sanh, kinh Huyết Bồn, kinh Thái Dương, kinh Thái Âm, kinh Nhãn Quang, kinh Long Vương, kinh Thai Cốt, kinh Phân Châu, kinh Diệu Sa v.v… là các Kinh do những kẻ bất chính ngụy tạo, không nên đọc tụng. Những kẻ vô trí không thích đọc tụng Kinh điển Đại Thừa(10) mà lại tin tưởng đọc tụng những Kinh sai lầm của ngụy tạo; họ cho rằng, đó là những việc làm cần thiết để được làm Quỷ trường thọ ở Âm Ty, để mở cửa Địa Ngục phá bỏ những hình phạt ác độc mới được an tâm. Nếu là người Chánh kiến thì nên vì những người này mà phân tích cho họ biết, Kinh nào là thật, Kinh nào là giả để đừng tin tưởng sai lầm nữa. Nên biết rằng, trong các Phật sự thì công đức niệm Phật là tối thắng nhất. Nên đem số tiền của dùng vào việc cầu làm Quỷ trường thọ, phá bỏ những cực hình ở Địa Ngục v.v… mà cung thỉnh các Tỷ-kheo Đạo cao Đức trọng niệm Phật, để cầu nguyện thì được lợi ích thiết thực và lớn lao hơn.

Người tu Pháp môn niệm Phật nên ăn Trường trai, nếu chưa đủ duyên thì nên dùng Lục trai(11) hay Thập trai(12), nhờ vậy lâu dần sẽ chấm dứt việc ăn mặn và có như thế mới đúng nghĩa lý tu tập. Trường hợp chưa ăn Trường trai được thì các thứ thịt nên mua để dùng, chứ không nên sát sanh tại nhà; bởi lẽ, gia đình mình luôn luôn nguyện cầu sự an lành, nếu ngày nào cũng sát sanh hại mạng thì nhà mình trở thành chỗ chém giết, mà chỗ chém giết chính là nơi tụ hội của loài Quỷ dữ, chúng sẽ gây ra những tai họa lớn lao. Vì vậy không nên sát sanh hại mạng tại nhà.

Người tu Pháp môn niệm Phật nên khuyến khích Cha Mẹ niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Nhưng muốn Cha Mẹ khi lâm chung chắc chắn vãng sanh Tây Phương thì không thể không giải thích cho Bà con quyến thuộc biết rõ sự lợi ích của việc trợ niệm và hành động phi Đạo lý như la khóc, kêu réo khi lâm chung. Vì thế, muốn Cha Mẹ lúc lâm chung đón nhận được sự lợi ích do sự trợ niệm của Bà con quyến thuộc và không bị họ phá hoại Chánh niệm, thì hằng ngày phải vì họ mà giảng giải sự lợi ích của việc niệm Phật, giúp họ đều phát tâm niệm Phật. Làm được như thế thì không những chỉ có Cha Mẹ được lợi ích mà tất cả Bà con quyến thuộc hiện tại đều được lợi lạc và còn lợi lạc cho các thế hệ Con Cháu về sau nữa. Tóm lại, sự trợ niệm khi lâm chung đối với người lớn hay kẻ nhỏ đều được thực hiện như thế.

Những Phụ Nữ khi sinh sản cứ mỗi cơn đau là một lần đau đớn không chịu nỗi, giả như vài ngày mà chưa sinh được thì có thể chết. Lại có trường hợp sau khi sinh xong, Mẹ thì bị băng huyết, Con thì bị kinh phong, đủ mọi thứ nguy hiểm. Nếu trước khi sinh, người sản phụ chí thành tha thiết cất tiếng niệm lớn “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-Tát”, không nên mặc niệm vì mặc niệm thì năng lực của tâm rất yếu kém khó cảm ứng đến Bồ-Tát; hơn nữa, lúc đang sinh là lúc dùng sức lực để tống hài nhi ra, nếu mặc niệm thì làm cho khí chất ngưng trệ phát sinh bệnh tật. Tóm lại, nếu chí thành tha thiết niệm danh hiệu Bồ-Tát Quán Thế Âm thì chắc chắn người sản phụ thoát khỏi các tai họa của sự khổ đau cùng cực vì khó sinh, vì băng huyết sau khi sinh và vì hài nhi bị kinh phong hoành hành. Gặp trường hợp sinh sản rất khó khăn cận kề cái chết, thì nên khích lệ người sản phụ ấy và những người trợ giúp xung quanh đồng phát tâm niệm danh hiệu Bồ-Tát Quán Thế Âm; ngoài ra, những người trong nhà dù không ở cùng phòng với sản phụ cũng cần niệm theo, nếu thực hiện được như vậy thì chắc chắn sự sinh sản rất dễ dàng và an toàn. Xét về Ngoại đạo, thì họ không thông suốt nghĩa lý này do vì chẳng biết suy xét sự việc để tìm ra sự thật, mà cứ suốt đời cố chấp thiên kiến của mình, cho rằng chỗ sinh sản là nơi ô – uế nhơ bẩn không được niệm danh hiệu Bồ-Tát Quán Thế Âm; do hiểu như thế, nên ngay cả Con gái hay Con dâu khi sinh sản cũng không dám đến chăm sóc, huống gì là khuyên Dâu – Con niệm danh hiệu Bồ-Tát Quán Thế Âm! Trên sự thật, nên biết rằng, “Cứu khổ” là tâm niệm của Bồ-Tát Quán Thế Âm, dù khi sinh sản thân thể sản phụ trần truồng nhơ bẩn, nhưng không vì vậy mà gây trở ngại sự cứu độ của Bồ-Tát; mặt khác, niệm Phật trong hoàn cảnh này hoàn toàn không có tội mà còn giúp cho Mẹ Con sản phụ gieo trồng thiện căn lớn lao, do thế không nên tùy tiện nói sai sự thật. Đây là ý nghĩa mà đức Phật đã dạy trong kinh Dược Sư, nay thuận duyên tôi gởi đến quý vị chứ không phải ý riêng của tôi.

Thông thường, Phái Nữ từ 12, 13 tuổi đến 48, 49 tuổi là giai đoạn có kinh nguyệt. Từ lâu có quan niệm rằng, khi đang bị kinh nguyệt thì không được tụng Kinh, lễ Phật… quan niệm này chẳng thông tình đạt lý gì cả. Đến kỳ kinh nguyệt, ngắn hạn là độ 2, 3 ngày, dài hạn là độ 6, 7 ngày mới hết; dù vậy, là người tu hành thì lúc nào cũng tu, sao có thể vì một chút bệnh sinh lý mà bỏ quyên sự tu tập được! Nghĩa là, trong thời gian kinh nguyệt có thể giảm bớt sự lễ lạy(13) còn vấn đề niệm Phật, tụng Kinh… vẫn sinh hoạt như thường lệ; ngoài ra, phải thường thay băng vệ sinh, giặt rửa băng và tay cầm băng sạch sẽ… Trong Phật pháp thì mọi pháp dung nhiếp lẫn nhau, nhưng Ngoại đạo thì luôn luôn thiên chấp(14), thế mà người đời đa phần lại tin theo Ngoại đạo mà không tin Chánh pháp như thật của đạo Phật; do vậy, hầu hết mọi người không thể hưởng được sự lợi ích của Phật pháp.

Thệ nguyện “Tầm thanh cứu khổ” của Bồ-Tát Quán Thế Âm rất sâu rộng. Bất cứ người nào, nếu đang đối diện với những tai họa như Chiến tranh, Nước lửa, Đói khát, Sâu bọ, Bệnh dịch, Hạn hán, Trộm cướp, Oán thù, Rắn độc, ác Quỷ, Yêu mị, bệnh do Nghiệp báo, Tiểu nhân hảm hại… mà phát tâm bỏ ác làm lành đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân, đồng thời chí thành tha thiết niệm danh hiệu Bồ-Tát Quán Thế Âm không chút xao lãng, gián đoạn, thì chắc chắn sẽ được Ngài từ bi cứu hộ không luận là tai nạn gì. Trường hợp, những người thường niệm Phật nhưng tâm niệm vẫn chất chứa các điều ác, thì vấn đề niệm Phật này chỉ gieo một chút thiện căn cho mai sau, chứ hiện tại không thể cảm ứng đến đức Phật, Bồ-Tát được. Bởi lẽ, chư Phật, chư Bồ-Tát chỉ cứu hộ cho những người có Thiện tâm và tuyệt đối không cứu hộ cho những kẻ Ác độc. Do vậy, nếu không phát tâm bỏ ác làm lành mà đem tâm bất chánh để niệm danh hiệu đức Phật hay Bồ-Tát nhằm mong cầu những việc làm độc ác ấy có kết quả như ý, thì nhất định không bao giờ có linh nghiệm. Thế nên, đừng phát khởi những tâm niệm mâu thuẫn đầy điên đảo như vậy. Thật sự, vấn đề niệm Phật điều tối trọng yếu là phải trung thực và tinh tấn ngăn chặn các việc gian tà, bảo lưu các điều chân thực; nghĩa là, chớ làm các điều ác, thực hiện các việc lành; cũng có nghĩa là, luôn giữ tâm ý thiện, lời nói thiện và việc làm thiện. Người thực hiện được như vậy là người “tri-hành hợp nhất”, nếu ai chưa làm được thì nên phát khởi thiện tâm, như khích lệ những người có khả năng siêng làm điều thiện, hoặc thấy những kẻ làm việc thiện phước nên khởi tâm hoan hỷ, ngỏ lời tán thưởng, đây cũng là nhân duyên tạo công đức tốt cho ý nghiệp, khẩu nghiệp của mình. Trái lại, những ai không làm được việc thiện mà thấy kẻ khác làm, lại khởi tâm ganh ghét, thì sẽ trở thành những kẻ tiểu nhân tâm địa đầy gian ác, dẫn đến phước-thọ bị tổn giảm và tương lai chẳng có gì tươi sáng tốt đẹp, đây là điểm cần hết sức lưu tâm. Bên cạnh, điều thiết thực là không nên sống Đạo đức giả để mong cầu danh thơm tiếng tốt; bởi lẽ, với tâm địa ấy chỉ làm cho Trời, Đất, Quỷ, Thần chán ghét. Do đây, ai đã phạm phải thì hãy cải đổi, ai chưa làm thì đừng bao giờ làm.

Trên đời, có một số Phụ Nữ vì không thông tình, đạt lý nên đã có thái độ bất hiếu với Nhạc Phụ, Nhạc Mẫu; hà hiếp khinh chê Phu Quân, cưng chìu Con cái, đánh đập Tôi tớ… mà không biết hiếu thảo với Nhạc Phụ, Nhạc Mẫu, tôn kính Phu Quân, răn dạy Con cái, thương yêu bảo bọc Tôi tớ… thì đó chính là không thực hiện Đạo đức thế gian mà các bậc Thánh Hiền đã dạy và cũng chẳng khế hợp với Thiện pháp căn bản của đạo Phật. Giả như người nào có cuộc sống Hiền thiện như thế mà phát tâm tu tập Tịnh Độ, thì chắc chắn danh thơm tiếng tốt mỗi ngày mỗi lan xa, phước báo được tăng trưởng, tuổi thọ sẽ dài thêm, đến khi lâm chung được đức Phật Di Đà tiếp dẫn, sanh về chín phẩm hoa sen. Nên hiểu rõ rằng, có Nhân ắt có Quả, nếu mình đã gieo trồng các Nhân như hiếu thảo, tôn kính, thương yêu, và giúp đỡ thì mình sẽ đón nhận kết Quả tốt đẹp như thế, đây là ý nghĩa “giúp đỡ người khác chính là tự giúp mình, làm hại kẻ khác chính là tự hại mình”. Thế nên, cần tích cực hoàn thiện trách nhiệm của mình thì sẽ được Trời, Phật chứng minh gia hộ.

Đối với Trẻ con, kể từ khi biết nhận thức thì nên dạy bảo chúng về Đạo đức như: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ; cùng Nhân quả ba đời và hiện tượng Luân hồi trong Sáu đường(15)giúp chúng hiểu rõ rằng, tâm niệm của mình luôn luôn thông đồng với tâm niệm của Trời, Đất, Quỷ, Thần, Bồ-Tát, chư Phật; nếu khởi lên một tâm niệm bất chánh hay làm một việc gian tà thì tức khắc bị Trời, Đất, Quỷ, Thần, Bồ-Tát, chư Phật thấy rõ, biết rõ; như mặt bẩn mà soi gương thì tướng mặt dơ bẩn sẽ hiện rõ không thể che dấu được, nhờ vậy có thể làm cho chúng biết sợ hãi mà nỗ lực làm việc lương thiện. Bất cứ là hạng Trẻ con nào, dù chúng là những kẻ Tôi tớ cũng không nên mắng chửi đánh đập, mà cần dạy dỗ chúng biết tôn kỉnh người lớn tuổi, nuôi dưỡng đức tính khiêm nhường, biết yêu kỉnh sách vở, quý trọng ngũ cốc, y phục, vật dụng; thương mến bảo vệ các loài côn trùng; tuyệt đối là không ăn uống lặt – vặt để tránh bệnh tật. Nếu chúng được giáo dục tốt như thế chắc chắn sẽ trở thành những người Hiền thiện. Trái lại, nếu lúc thiếu thời không được giáo dục tốt, các điều xấu trở thành quán tính, dần dần rơi vào cuộc sống phóng túng để thành giặc cướp, khi ấy mới hối hận cũng chẳng ích gì. Ngạn ngữ có câu: “Dạy Con dạy thuở lên ba, dạy Vợ dạy thuở Mẹ Cha đem về”; vì rằng, được học hỏi ngay từ buổi ban đầu, lâu dần sẽ thành tập quán tốt, vậy nên cần chú trọng đến sự giáo dục ở thời điểm ban đầu này. Vấn đề hòa bình hay chiến tranh trên thế giới căn bản là phát xuất từ điểm này đây, đó là sự thật chứ đừng bảo lão Tăng nói chuyện viển vông, không thực tế.

Ấn Quang tôi nay đã già rồi, sức khỏe mỗi ngày mỗi suy yếu nên không thể trả lời toàn bộ những thư từ đã gởi đến. Hiện giờ, ngành bưu điện phát triển rộng rãi nên mọi người xa – gần nghe hư danh của tôi đều gửi thư đến thăm hỏi, nếu không trả lời thì quá phụ lòng người gởi, còn thư nào cũng hồi âm thì thật bất kham. Đây là lý do mà “Lá thư dài” này được ra đời, trong này được trình bày vắn tắt những vấn đề liên quan đến Tu tập, Đạo lý lập thân xử thế và Giáo dục Con cái… Sau này, nếu có thư nào gởi đến thì tôi sẽ trả lời bằng thư này; giả như người viết thư có hỏi một vài điểm đặc biệt, thì tôi chỉ giải đáp ngắn gọn hy vọng sẽ giải tỏa được nghi vấn đó. Nếu vị nào muốn hiểu rộng Phật pháp thì nên mời thỉnh những Pháp Sư uyên thâm Giáo điển thăng tòa thuyết giảng. Tuy nhiên, vấn đề cần được chú tâm là: Hiểu rộng Phật pháp chưa hẳn sẽ đoạn tận sanh tử trong đời này, mà muốn chấm dứt sanh tử, điều quan trọng là phải thực hiện Tín – Nguyện – Hạnh của Pháp môn Tịnh Độ để cầu sanh Cực Lạc Tây Phương vậy”.

  1. Ba điểm trọng yếu đối với người lâm chung trong bản Viết Tay của Đại Sư Ấn Quang ghi:

“Cõi trần thế thật là bi thảm! Bất cứ ai cũng phải đối diện với cái chết, từ thế hệ này đến thế hệ khác chẳng ai có may mắn thoát được cái chết ấy. Do vậy, ai là người có Lương tri muốn Tự lợi – lợi Tha thì không thể không sớm tư duy để tìm ra phương án cho vấn đề này.

Thật ra, chữ “Chết” chỉ là một giả danh, do nghiệp lực đời trước chiêu cảm nên có thân này, đến khi nghiệp báo chấm dứt thì sẽ bỏ thân này để chiêu cảm một thân thể khác. Nếu không thông hiểu Phật pháp thì chẳng có phương án gì để giải quyết mà chỉ lưu chuyển thuận theo nghiệp lực mà thôi. Giờ đây, chúng ta được biết đức Như Lai đã dạy Pháp môn Tịnh Độ để cứu độ mọi người, mọi chúng sanh; thế thì, chúng ta cần vận dụng Tín – Nguyện – Hạnh (Niệm Phật) làm tư lương, dự bị cho sự vãng sanh, để đoạn tận sự khổ đau huyễn mộng của sanh tử luân hồi, chứng ngộ Niết – bàn thường trú thường lạc. Khi gặp trường hợp Cha Mẹ, Anh Em hay Bà con quyến thuộc lâm trọng bệnh khó có thể bình phục, thì nên phát tâm từ bi, hiếu thuận khích lệ họ niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc; đồng thời, cần trợ niệm giúp họ, giả như bệnh nhân lâm chung trong giờ phút này thì sẽ được vãng sanh Tịnh Độ. Pháp môn có lợi ích thiết thực như thế nên cần được giới thiệu.

Dưới đây xin nêu lên ba điểm trọng yếu làm cơ sở cho người lâm chung đạt được sự vãng sanh. Ngôn ngữ được trình bày dù thô thiển nhưng xuất phát ý nghĩa trong kinh Phật, người nào có duyên bắt gặp được thì nên thực hành cụ thể. Ba điểm trọng yếu đó là: Thứ nhất, tế nhị Khai Đạo, an ủi giúp bệnh nhân phát khởi Chánh tín; thứ hai, Bà con thân hữu luân phiên niệm Phật, trợ duyên cho bệnh nhân được Chánh niệm; thứ ba, không được khóc than, đụng chạm thân thể bệnh nhân, nhằm đề phòng hậu quả tai hại. Nếu thực hành đúng ba điểm này thì chắc chắn bệnh nhân sẽ được tiêu trừ những nghiệp chướng các đời trước, sẽ được tăng trưởng những chủng tử thanh tịnh và sẽ được đức Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Khi được vãng sanh chính là thời điểm thoát khỏi cõi Phàm – tục nhập vào cõi Thánh – Hiền, đoạn tận sanh tử, từ đây tinh tấn tu tập dần dần viên mãn quả vị Phật-Đà. Có được lợi ích thiết thực này hoàn toàn là nhờ vào năng lực trợ niệm của Bà con thân hữu. Người nào thường thực hành đối với Cha Mẹ như vậy, gọi là hiếu thảo chân chính; đối với Anh hay Em, Chị gái hay Em gái, gọi là hoà thuận chân chính; đối với Con cái, gọi là thương yêu chân chính; đối với Bạn bè gọi là tình nghĩa chân chính; đối với Bà con làng xóm, gọi là giúp đỡ chân chính. Với hành động hiền thiện như thế sẽ bồi đắp chủng tử thanh tịnh cho tự thân và tạo đức tin cho mọi người, cứ thực hành lâu ngày như vậy sẽ trở thành phong cách của mình. Bây giờ, chúng tôi sẽ lần lượt giải thích ba điểm trên để thuận tiện khi đối diện với sự lâm chung.

– Thứ nhất: Tế nhị Khai Đạo, an ủi giúp bệnh nhân phát khởi Chánh tín.

Điều thiết thực là khuyên bệnh nhân hãy xả bỏ hết thảy mọi thứ trong đời chỉ thuần nhất niệm Phật mà thôi. Trường hợp có những dữ kiện cần phải giao phó thì nên giao phó gấp, sau khi đã giao phó thì mọi việc hãy bỏ ngoài tâm để tập trung vào việc hiện tại, là làm cho mình được theo đức Phật vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Thật ra, tất cả những hiện tượng trong đời, như sự Giàu sang, sự Khoái lạc, Bà con thân thích nội ngoại… chính là những nhân duyên gây nên phiền não để phải chịu những hậu quả xấu ác; vì thế, không nên khởi lên một tư tưởng luyến tiếc. Chúng ta nên hiểu rằng, Chơn Tánh của mình vốn không bao giờ chết (không sanh tử), cái được gọi là “Chết” chỉ là sự kiện từ bỏ thân này để thọ nhận một thân mới khác, nếu không niệm Phật thì tùy theo nghiệp lực Thiện hay Ác của mình để sanh về một trong hai đường thiện ác ấy(16); ngược lại, vào thời điểm lâm chung mà mình nhất tâm chí thành niệm “Nam-mô A-Di-Đà Phật”, nhờ tâm tha thiết niệm Phật này, chắc chắn sẽ cảm ứng đến Tâm Đại từ bi của đức Phật để Ngài trực tiếp đến tiếp dẫn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Chúng ta không nên nghi ngờ rằng, mình là kẻ phàm phu đang bị nghiệp lực trói buộc, thì làm sao chỉ niệm Phật trong chốc lát mà có thể thoát ly sanh tử, vãng sanh Tây Phương? – Điều này chúng ta nên hiểu rằng, đức Phật là vị Đại Từ Đại Bi, dù những người tạo các tội rất nặng như Thập ác(17), Ngũ nghịch(18), khi lâm chung cảnh Địa Ngục hiện ra trước mắt, lúc này nếu gặp được Thiện tri thức khuyên niệm Phật, bệnh nhân vâng lời hoặc niệm Mười niệm hay chỉ Một niệm vẫn được đức Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

Làm sao những người nghiệp chướng sâu dày như thế, chỉ niệm ít câu danh hiệu đức Phật vẫn được vãng sanh mà không nghi ngờ được? – Điều này chúng ta cần hiểu rõ rằng, tất cả mọi người đều sẵn Chơn Tánh (Phật tánh) như chư Phật, song hiện tại mọi người đang bị nghiệp chướng sâu dày ngăn che nên không thể sử dụng được, giờ đây hết lòng đem sinh mạng nương tựa đức Phật, tương tự như Con trẻ bỏ nhà đi hoang lưu lạc giang hồ, nay được gặp Cha để trở về nơi chôn nhau cắt rốn thì đâu có gì lạ! Hơn nữa, thuở xưa đức Phật A-Di-Đà đã từng phát nguyện rằng: “Nếu chúng sanh nào được nghe danh hiệu của Ta, hết lòng vui thích tin tưởng, dù chỉ niệm Mười niệm mà không được vãng sanh, thì Ta nguyện không thành Chánh – Giác (Phật)”. Qua đó, hết thảy mọi người khi lâm chung nên khởi tâm chí thành niệm Phật cầu sanh Tây Phương, vì chẳng có trường hợp nào mà đức Phật chẳng từ bi tiếp dẫn. Thế nên, chúng ta hãy đừng bao giờ hoài nghi, nếu hoài nghi là tự tạo lỗi lầm cho mình để phải đón nhận tai họa không phải là nhỏ, huống hồ xa lìa thế giới khổ đau để được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, thì đó là điều rất vui sướng cần được phát tâm hoan hỷ. Mặt khác, đừng bao giờ “Sợ chết”; hơn nữa, dù sợ chúng ta cũng không thể thoát chết mà còn trái với nhân duyên vãng sanh Tây Phương, do tâm chúng ta không khế hợp với tâm Phật, mặc dầu đức Phật luôn sẵn Tâm Đại từ bi cũng không làm sao cứu độ được những người không thực hành theo lời đức Phật dạy. Danh hiệu đức Phật A-Di-Đà chứa đựng vô lượng vô biên công đức thâm diệu ví như “Lò lửa cực lớn”, còn những người tạo nhiều nghiệp chướng như “Miếng tuyết”; kẻ phàm phu mang nhiều nghiệp chướng nhờ niệm Phật mà nghiệp chướng tiêu diệt tương tự như “Miếng tuyết” ở cạnh “Lò lửa cực lớn” thì lập tức tiêu mất. Khi nghiệp chướng đã tiêu trừ thì thiện căn hẳn nhiên tăng trưởng một cách thù thắng, như vậy tại sao có thể nghi ngờ không được vãng sanh và đức Phật không đến tiếp dẫn? Với sự Khai Đạo, an – ủi dịu dàng tế nhị như vậy thì bệnh nhân sẽ khởi tâm Chánh tín, sự Khai Đạo này rất hệ trọng đối với bệnh nhân. Nếu chúng ta là người chân thành chí hiếu, trong những trường hợp này không nên tin theo những tập tục thường tình, là cầu khẩn Quỷ, Thần chỉ dạy thuốc thang chữa trị; bởi lẽ, khi thọ mạng đã hết thì thuốc thang của Quỷ, Thần làm sao cứu người khỏi chết được! Nếu thuận theo thường tình làm những việc vô ích như vậy, thì làm sao sự niệm Phật được thành khẩn để cảm ứng đến đức Phật? Trong đời này có nhiều người khi Cha Mẹ lâm chung không tiếc tiền của để tìm mời rất nhiều thầy thuốc đến thăm hỏi, điều này gọi là “mua danh hiếu thảo” để mong cầu mọi người ca ngợi mình là người đại hiếu với Cha Mẹ; song họ không biết rằng, tâm địa của mình như thế nào thì Trời – Đất – Quỷ – Thần đều rõ hết. Do vậy, khi lo lễ tang cho Cha Mẹ mà làm những việc sai lầm, sai với Đạo lý, thì không gặp tai họa do Trời cũng gặp hoạn nạn bởi Người. Đã làm người thì cần chú trọng đến thần thức của Cha Mẹ, làm sao giúp thần thức của Cha Mẹ được thanh tịnh, an lạc. Chúng ta cần ghi nhớ rằng, điều mà người Thế tục ca ngợi thì người Hiền trí chẳng tán đồng; huống nữa, điều ước vọng lớn nhất của con người là lo sợ mình phạm phải trọng tội “đại bất hiếu vậy”!

– Thứ hai: Bà con thân hữu luân phiên niệm Phật, trợ duyên cho bệnh nhân được Chánh niệm.

Vừa rồi đã Khai Đạo giúp bệnh nhân khởi tâm Chánh tín; tuy vậy, tâm lực bệnh nhân rất yếu kém; hơn nữa, trước đây bệnh nhân đâu phải là người thường xuyên niệm Phật, mà bây giờ phải chú tâm duy nhất vào việc niệm Phật là điều rất khó thực hiện; chính vì thế, chỉ nhờ vào sự niệm Phật trợ duyên của người xung quanh mới có kết quả tốt đẹp. Thế nên, Bà con quyến thuộc đều nên phát tâm từ bi, tâm hiếu thảo vì bệnh nhân mà niệm Phật trợ niệm. Trường hợp bệnh nhân chưa lâm chung, thì cần chia thành ba nhóm, mỗi nhóm quy định bao nhiêu người để luân phiên trợ niệm. Khởi đầu điểm một tiếng chuông, nhóm thứ nhất niệm (lớn tiếng),  nhóm thứ hai và ba thầm niệm trợ duyên; khi nhóm thứ nhất hết phiên điểm hai tiếng chuông, thì nhóm thứ hai thay thế, nhóm thứ nhất và ba lại thầm niệm trợ duyên; cứ tuần tự thay phiên nhau như thế để trợ niệm cho bệnh nhân. Những người trong hai nhóm bên ngoài nếu có việc lặt – vặt cần giải quyết, thì vẫn thầm niệm để trợ duyên, riêng nhóm đang trực thì cần thành tâm với sự trợ niệm không nên rời chỗ. Niệm liên tục như vậy có thể kéo dài hết ngày sang đêm, cho đến khi chấm dứt (bệnh nhân đã lâm chung), nhưng đừng bao giờ tỏ ra mệt mỏi, khổ nhọc. Người trợ niệm nên rõ rằng, đã phát tâm trợ niệm kẻ khác có Chánh niệm để được vãng sanh, thì chắc chắn sẽ được phước báo là kẻ khác sẽ trợ niệm cho mình; điều cần lưu tâm tại đây, là đừng bao giờ tuyên bố rằng: “Vì Cha Mẹ nên phải hết lòng như thế”, nếu nói như vậy, sẽ trở thành một người rất tầm thường. Bên cạnh, cũng cần nắm rõ rằng, phát tâm trợ niệm cho kẻ khác không chỉ làm lợi cho người, mà trên sự thật, cũng chính là làm lợi cho mình, nghĩa là, sẽ làm cho phước báo của mình tăng gấp đôi và thiện căn càng vững mạnh; đồng thời, giúp một người được vãng sanh Tịnh Độ chính là giúp một chúng sanh trở thành một vị Phật, công đức này thật khó nghĩ bàn được!

Trở lại, ba nhóm luân phiên niệm, đừng để tiếng niệm Phật bị gián đoạn nhằm giúp cho bệnh nhân dựa vào đây để có thể niệm nhỏ theo; nếu bệnh nhân không thể niệm thành tiếng được, thì hãy chú tâm lắng nghe thật rõ từng chữ từng câu, đừng để tâm niệm bị phân tán, thực hiện được như vậy là khế hợp với sự cứu độ của đức Phật. Về vấn đề niệm Phật, không nên niệm với giọng quá cao sẽ tổn hại khí lực và không thể niệm lâu được; đồng thời, cũng không nên niệm với giọng quá thấp vì sẽ làm bệnh nhân nghe chẳng rõ ràng. Lại nữa, không nên niệm quá nhanh vì bệnh nhân nghe không kịp để niệm theo, cũng không nên niệm quá chậm vì bệnh nhân hơi không đủ. Do vậy, không nên niệm quá cao hay quá thấp, quá nhanh hay quá chậm, mà nên niệm với mức độ trung bình, làm sao mỗi chữ mỗi câu thật rõ ràng giúp bệnh nhân dễ tiếp nhận ghi vào trong tâm thức.

Về Pháp khí dùng để niệm Phật, chỉ nên dùng khánh, các loại khác không nên dùng. Khánh có âm thanh trong trẻo, khi nghe tâm thức bệnh nhân dễ được thanh tịnh; còn âm thanh của mõ thì trầm đục, không nên sử dụng để trợ niệm khi lâm chung. Ngoài ra, khi bắt đầu niệm Phật thì niệm sáu chữ, sau đó nên niệm bốn chữ “A-Di-Đà Phật”, vì ít chữ sẽ dễ niệm hơn và giúp bệnh nhân dễ niệm theo hoặc dễ ghi nhận và tâm thức làm tâm thức được tỉnh táo. Cần được niệm liên tục, chứ không nên niệm một lát rồi nghỉ, nghỉ một lát rồi niệm, niệm như thế sẽ làm tâm thức bệnh nhân bị gián đoạn sự giao cảm với Tâm từ bi của đức Phật. Đến giờ dùng cơm thì hãy thay phiên nhau đi ăn, không nên để tiếng niệm Phật bị gián đoạn. Khi bệnh nhân sắp tắt thở thì cả ba nhóm đều trợ niệm, khi đã tắt thở lại chia ba nhóm để luân phiên trợ niệm, đến khi kết thúc thì điểm ba tiếng chuông, sau đó theo Đạo lý mà tổ chức tang lễ. Về vấn đề trợ niệm, hoặc do Bà con quyến thuộc đảm trách hoặc Bà con cùng các thân hữu được mời, dù nhiều hay ít người cũng cần áp dụng những điều đã nói ở trên. Một điều quan trọng nữa cần chú ý là, trong khi đang niệm Phật trợ duyên không nên để Bà con, thân hữu đến gần bệnh nhân thăm hỏi việc này điều kia. Những người đã có thiện cảm đến thăm thì không nên gây trở ngại cho sự niệm Phật, có như thế mới là những người có tình thương chân chính đem lại lợi ích thiết thực cho bệnh nhân; ngược lại, nếu xuất xử theo tình cảm thế tục thì chính việc này đã vô tình xô đẩy bệnh nhân rơi vào bể khổ trầm luân. Thật ra, việc thăm hỏi là biểu hiện tình cảm tốt đẹp, nhưng trên sự thật là hành động gây tai họa đáng thương tâm; do thế, người chủ động trong gia đình bệnh nhân cần trao đổi rõ với Bà con đến thăm, để họ đừng trực tiếp đến chào hỏi bệnh nhân, nhằm khỏi gây tai họa làm cho bệnh nhân bị phân tâm mà không được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

– Thứ ba: Không được khóc than, đụng chạm thân thể bệnh nhân, nhằm đề phòng hậu quả tai hại.

Khi bệnh nhân sắp lâm chung chính là thời điểm mà các Thánh, Phàm, Người, Quỷ… đến tiếp nhận đem về trú xứ của mình, đây là thời điểm rất khẩn thiết như sợi tóc treo ngàn cân; vì vậy, chỉ thuần nhất niệm danh hiệu đức Phật để Khai Đạo cho thần thức bệnh nhân. Điều quan trọng là không được tắm rửa, thay y phục hay dời bệnh nhân sang chỗ khác, bệnh nhân đang trong tư thế nào thì nên giữ nguyên như vậy, không nên sửa đổi bất cứ hình thức gì; đồng thời, trước mặt bệnh nhân không nên biểu lộ nét mặt bi thương sầu khổ hay khóc – lóc than thở. Ở thời điểm này thân thể bệnh nhân đang biến hoại, nếu đụng chạm vào bất cứ chỗ nào cũng đều làm cho bệnh nhân rất đau đớn, khi bị đau đớn bệnh nhân sẽ khởi tâm sân hận làm cắt đứt nhân duyên đang giao cảm với đức Phật, liền thuận theo tâm sân hận ấy mà đọa lạc vào các loài ác dữ, đây là điều rất đáng hãi sợ. Mặt khác, khi thấy nghe sự bi thương, sầu khổ, khóc than… của những người xung quanh, bệnh nhân sẽ khởi dậy tâm luyến ái, cũng sẽ cắt đứt sự giao cảm với đức Phật, rồi cũng thuận theo sự luyến ái ấy để đời đời kiếp kiếp trôi lăn trong bể sanh tử luân hồi khó mong giải thoát. Thế nên, để được lợi ích một cách hoàn hảo, sự niệm Phật trợ duyên phải được thực hiện thật nghiêm túc để khỏi gây tai họa lớn cho bệnh nhân; bên cạnh, Bà con quyến thuộc bệnh nhân cũng không được gây nên lỗi lầm, như khóc than hay đụng chạm đến thân thể bệnh nhân, làm bệnh nhân khởi dậy tâm luyến ái hay sân hận, thì việc vãng sanh Tây Phương Cực Lạc khó có hy vọng.

Ngoài ra, khi bệnh nhân vừa qua đời, nếu hơi nóng ở nửa phần trên của thân thể đó là hiện tượng siêu thăng về các Thiện xứ, hơi nóng ở nửa phần dưới của thân thể đó là hiện tượng đọa lạc xuống các Ác xứ. – Cổ Đức bảo rằng: “Nóng ở đỉnh đầu sanh về cõi Thánh, nóng ở mắt sanh lên cõi Trời, nóng ở ngực (tim) tái sanh làm Người, nóng ở bụng đọa làm Ngạ Quỷ, nóng ở đầu gối đọa làm Súc Sanh, nóng ở bàn chân đọa xuống Địa Ngục”. Dù vậy, nếu Bà con thân hữu chí thành trợ niệm thì bệnh nhân chắc chắn được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, không nên chú tâm đến việc phải rờ xem bệnh nhân nóng ở chỗ nào; bởi lẽ, nếu thần thức bệnh nhân chưa xuất khỏi thân thể thì hành động này sẽ làm bệnh nhân khởi phát phiền não, sân hận gây trở ngại rất lớn cho việc vãng sanh, tội lỗi này thật vô lượng, vô biên! Qua đó, mong rằng tất cả Bà con thân hữu của bệnh nhân, mỗi người hãy chí thành tha thiết niệm Phật, chẳng cần phải xem người lâm chung nóng ở chỗ nào để biết sẽ đi về đâu. Đã nhân danh là Người thì phải chú tâm minh bạch điều này, đó mới gọi là sự hiếu thảo chân chính; nếu hành động theo cảm tính thế tục thì chính đó là động thái chẳng hề thương tiếc xô đẩy người thân của mình rơi vào bể khổ trầm luân, nhằm mong cầu hạng người vô trí ngợi khen mình là kẻ đại hiếu thảo, lòng hiếu thảo này cũng tương tự như lòng thương người của Nữ La-Sát. Khế Kinh ghi rằng: “Nữ La-Sát ăn thịt người nói: Tao thương mầy nên mới ăn thịt của mầy”. Hành động hiếu thảo làm người thân của mình bị đọa đày khổ sở của những kẻ vô trí cũng không khác gì với Nữ La-Sát vì thương người mà ăn thịt người vậy!

Cần nói rõ thêm rằng: “Nóng ở đỉnh đầu sanh về cõi Thánh, nóng ở mắt sanh lên cõi Trời…”; nghĩa là, khi bệnh nhân đã tắt thở, toàn thân đều lạnh, độc nhất chỉ nóng ở đỉnh đầu, đó là hiện tượng siêu Phàm nhập Thánh, xa lìa sanh tử, nếu chỉ nóng ở mắt hay trán là sanh lên cõi Trời, chỉ nóng ở ngực hay tim thì tái sanh làm Người, chỉ nóng ở bụng thì đọa làm Ngạ Quỷ, chỉ nóng ở đầu gối thì đọa làm Súc Sanh, chỉ nóng ở bàn chân thì đọa xuống Địa Ngục. Có kết quả này do bởi khi đang sống mỗi người làm Thiện, làm Ác khác nhau, nên khi lâm chung chiêu cảm các cảnh giới sai khác như thế, chứ không do bất cứ một uy lực nào, một vị Thần linh nào sắp đặt như vậy. Thế nên, trong giờ phút lâm chung nếu bệnh nhân chí thành niệm Phật, cộng thêm năng lực trợ niệm của Bà con thân hữu, chắc chắn sẽ mang nghiệp (đới nghiệp) vãng sanh, siêu Phàm nhập Thánh; chứ không cần phải chú ý đến việc kiểm tra xem người qua đời nóng ở chỗ nào mà làm hỏng việc lớn!

Những điểm được trình bày trên chỉ mong muốn mọi người ai cũng thành thật hướng thượng để cầu nguyện những người qua đời đều được vãng sanh, những người đang sống đều được phước đức, nhằm được toại nguyện tâm niệm “máu huyết tình thâm” của Con hiền Cháu thảo… Đây là điểm mà bất cứ ai yêu thương chân chính người thân của mình, không thể không tiếp nhận! – Xin chân thành trao đến quý vị.

 

* Sự tích vãng sanh.

– Phút lâm chung Oan hồn xuất hiện – Niệm Phật vãng sanh.

Quách Á Chương là người Thôn Vương Giang, Trấn Giáo Mỹ thuộc Thành phố Long Hải; vốn là một nông dân, vào năm 60 tuổi ngày 26 tháng 8 nhuận (Nông Lịch), khi đang niệm Phật ông an nhiên vãng sanh Tịnh Độ Cực Lạc Tây Phương.

Ông Chương vốn làm nghề nông từ thuở nhỏ, trong ba năm vừa qua ông trở thành người chủ nuôi cá, từ đó ông thường bị đau bụng, đến hiện tại thân thể ông bị suy yếu nhiều, phải đến bệnh viện để xét nghiệm, kết quả là bị khối u trong dạ dày, ông mua thuốc về nhà điều trị. Đến tháng 8 bệnh tình trở nên trầm trọng, bụng của ông to như cái trống, đau đớn đến nỗi cặp mắt lồi to và tánh tình trở nên hung dữ như cọp, cứ cách nhau hai tiếng đồng hồ thì phải châm kim để giảm bớt sự đau đớn, và thỉnh thoảng ông bảo với người xung quanh rằng, ông xuống dưới sông dưới biển thấy những con cá hình thù rất quái dị, rất hung dữ, bà vợ của ông lại nói rằng, thỉnh thoảng bà thấy những con Quỷ thò đầu vào cửa nhìn ngó như kiếm tìm ai.

May mắn là được gặp Thiện Tri Thức, vị ấy khuyên ông nên niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà, nếu tuổi thọ chưa hết thì có thể bình phục khỏe mạnh, còn tuổi thọ đã hết thì có thể cầu đức Phật tiếp dẫn vãng sanh về Tịnh Độ Cực Lạc Tây Phương. Được nghe như vậy, ông Chương rất cao hứng tay cầm tràng hạt cất tiếng niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà, người trong nhà cũng niệm theo trợ duyên.

Sau khi ông Chương phát tâm niệm Phật cơn đau đớn được giảm bớt, mỗi ngày chỉ còn châm kim hai lần, không còn mộng thấy xuống sông xuống biển gặp những con cá quái dị nữa nên tinh thần rất thoải mái. Niệm Phật đến ngày thứ năm, ông Chương rất khỏe nên bước xuống giường đi tìm đồ ăn, bỗng thấy bức ảnh Tam Thánh treo ở phòng phát chiếu hào quang rực rỡ, ông biết thời điểm vãng sanh của mình đã đến, bèn trở lại giường ngồi kiết già chắp tay nghiêm trang, đôi môi mỉm cười, rồi an nhiên vãng sanh, hiện tượng bụng to như cái trống bây giờ trở lại bình thường. Tám giờ sau, toàn thân ông Chương đều giá lạnh chỉ còn nóng trên đỉnh đầu, khi tắm để thay áo quần thì thân thể tay chân rất mềm dẻo, nét mặt rất hồng hào như đang sống. Những tướng trạng tốt đẹp khi lâm chung của ông Chương là bằng chứng của sự vãng sanh, và sau đó một tháng, người nhà của ông mộng thấy ông Chương theo sau Ba vị Thánh, Phật(19) trở về nhà an ủi mọi người. (Trích từ: Niệm Phật Cảm Ứng Lục – Lâm Vũ Xuyên ghi ngày 25/11/1995).

– Thi Tĩnh Nham – đời nhà Thanh.

Thi Tĩnh Nham là người Giang Tô, trong cuộc sống hằng ngày tánh tình rất đứng đắn nghiêm túc, bất cứ làm việc gì cũng rất cẩn thận tốt đẹp, giúp việc gì cho ai thì rất nhiệt tâm tận lực; qua cuộc sống như vậy nên Bà con xa gần đều tin tưởng và ngưỡng mộ anh Nham.

Vào mùa xuân năm thứ XXIII đời vua Thanh Nhân Tông, hiệu Gia Khánh (1818 TL), anh Nham lâm bệnh, đã dùng rất nhiều thuốc thang nhưng không thuyên giảm, qua đến mùa hạ thì bệnh tình của anh trở nên trầm trọng. Vào một ngày, người Anh con ông Cậu tên là Trịnh Huệ An đến thăm, ân cần bảo rằng: “Này Em! Bệnh tình của Em quá nguy cấp rồi, sao Em không niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà? Trong kinh Phật đã dạy: “Khi lâm chung chỉ cần niệm Mười niệm là có thể vãng sanh Cực Lạc”. Thi Tĩnh Nham nói: “Em rất hối hận là trong thời gian qua không niệm Phật, thì bây giờ làm sao niệm được!”. Nói xong khóc thảm thiết, Trịnh Huệ An bảo: “Vấn đề ấy không có gì quan trọng, Em cứ lắng nghe Anh niệm Phật và quán tưởng đức Phật A-Di-Đà là được”. Liền đó, Trịnh Huệ An niệm lớn danh hiệu đức Phật và Thi Tĩnh Nham cũng lớn tiếng niệm theo, niệm khoảng mười hơi thì Thi Tĩnh Nham bỗng nhiên nói: “Đức Phật A-Di-Đà và chư vị Bồ-Tát đã đến trước mắt Em!” Nói xong, an nhiên vãng sanh. (Trích từ: Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Dị Giải).

– Niệm Phật giúp Vong linh hồi Dương rồi vãng sanh.

Giang Nhậm Thuyên là người ở An Huy, Vụ Nguyên, khi đang nhỏ vốn có tánh tình đặc biệt, đó là nết hạnh rất đứng đắn, thận trọng và lễ phép, lớn lên làm Giáo viên, rất tận tụy thao thức với chức năng của mình. Đến tuổi trung niên được biết Cư sĩ Giang Dị Viên xiển dương Phật pháp với Pháp môn Tịnh Độ, Giang Nhậm Thuyên rất kính tin, từ đó hằng ngày tinh tấn lạy Phật, tụng Kinh. Vào năm Dân Quốc thứ XX (1941 TL) anh Thuyên lâm bệnh, đến mùa xuân năm Dân Quốc thứ XXI thì bệnh trở nên nghiêm trọng, nhưng anh vẫn tinh tấn niệm Phật chẳng hề rên rỉ. Đến ngày 23 tháng 04 đột nhiên anh chết, người nhà vội đi mời các Liên hữu đến trợ niệm, khi các Liên hữu niệm Phật trợ niệm không lâu thì anh Thuyên tỉnh lại và nói với người nhà: “Vì nghiệp báo đời trước nên vừa rồi tôi đến cung vua Diêm La, vua ấy bảo rằng, với nghiệp báo đời trước của ngươi thì phải bị đọa vào loài Ngạ Quỷ, nhưng nhờ ngươi đã quy y Tam Bảo, lại thành khẩn kiên cố niệm Phật trong đời này, cộng thêm sự trợ niệm của Bà con thân hữu, nên nghiệp báo ấy được tiêu trừ, giờ đây ta cho ngươi trở về nhân gian”. Sáng sớm hôm sau, anh Thuyên bảo người con trai và bà vợ chắp tay niệm Phật, một lát sau anh nói: “Chư Thánh chúng đã đến tiếp dẫn tôi về Tây Phương, tôi đi nhé!”. Nói xong, trong thế ngồi nghiêm trang mà vãng sanh. (Trích từ: Tịnh Độ Thánh Hiền Dị Giải).

– Dân Quốc, Bà họ Tưởng.

Cư sĩ Tưởng Hoài Anh pháp danh Trí Đạt là vợ của ông Tôn Huệ Giáp. Khi còn trẻ Tôn Huệ Giáp chẳng tin tưởng Phật pháp, thậm chí còn hủy báng đạo Phật, Tưởng Hoài Anh thường trao đổi khuyến khích chồng mình bỏ quan điểm ấy. Năm Dân Quốc thứ XXV Pháp Sư Bảo Tịnh muốn phổ biến Phật pháp nên lập Hội “Cư Sĩ Lâm” tại Đường Áp, Trưởng hội là Cư sĩ Trần Huệ Cung, vị Trưởng hội này mời Tôn Huệ Giáp làm Thư ký, do nhân duyên này ông Giáp bỗng tỉnh ngộ, chân thành sửa đổi những lỗi lầm của mình đã làm từ trước, bà vợ cũng trợ lực giúp ông sám hối và theo dõi để động viên ông tinh tấn thực hành, sau đó ông phát nguyện quy y với Đại Sư Ấn Quang, là vị mà vợ ông đã quy y; đồng thời, ngày nào ông cũng rất thích thú tìm đọc những tác phẩm của Hội viết bằng “Bạch thoại”(20) để xiển dương Phật pháp, thích thú đến độ tay không rời sách.

Bà Tưởng Hoài Anh vốn là người có thể chất yếu kém, sau năm Dân Quốc thứ XXVII, tại địa phương vợ chồng đang sinh sống xảy ra nhiều biến cố, bà vì lo sợ mà sinh bệnh lúc khỏe lúc mệt. Trong thời điểm này, may mắn là chồng bà đã từ Quan nên thường ở nhà, nhân dịp tốt ấy bà nhờ chồng giảng giải về Pháp môn Tịnh Độ và những Kinh Luận liên quan đến tông Tịnh Độ, hằng ngày bà nhiệt tình lắng nghe từ buổi trưa cho đến nửa đêm mà không biết mệt mỏi. Người chồng biết bà vừa yếu đuối vừa bệnh hoạn khuyên bà đi ngủ sớm, bà buột miệng nói: “Sáng được nghe Đạo lý chiều chết cũng vui lắm rồi!” để trả lời chồng. Vào tháng giêng năm Dân Quốc thứ XXXI (1942 TL), bà bỗng nhiên nói: “Vấn đề trọng đại trong đời đó là việc Sanh tử, Quỷ vô thường sẽ đến rất nhanh, sự tu tập hằng ngày hẳn nhiên là tư lương cho việc vãng sanh, nhưng mà, chuẩn bị cho việc lâm chung là sự kiện chính yếu để được vãng sanh về thế giới Cực Lạc; do vậy, ông hãy vui lòng giảng cho tôi nghe về những yếu tố cần thiết khi lâm chung”. Chồng bà liền nói những yếu tố cần thiết để đến bờ bên kia (vãng sanh) mà Kinh Luận đã dạy cho bà nghe, sau khi nghe xong bà vui buồn lẫn lộn.

Đến ngày 21 tháng 12 bệnh của bà đến hồi nguy kịch, tinh thần đờ đẫn, lưỡi cứng không nói được. Người chồng thấy vậy phát nguyện trì tụng một bộ kinh Pháp Hoa và Khai thị cho bà rằng: “Vấn đề Sanh – Lão – Bệnh – Tử không ai có thể tránh được, cho nên mong bà chớ nên bi thương, bà cần hiểu rõ vấn đề chấp trước Ái ân và Tam độc Tham – sân – si là nguyên nhân trở ngại rất lớn cho việc vãng sanh, cho nên bà phải xả bỏ tất cả, giờ phút này giống như ngàn cân treo bởi sợi tóc, kết quả như thế nào hoàn toàn do bà quyết định; cõi Cực Lạc không xa, chúng ta sẽ gặp lại sau, trăm vạn lần bà hãy trân trọng nỗ lực tinh tấn”. Nghe xong, bà Tưởng Hoài Anh gật đầu mỉm cười, ngủ thiếp một lát rồi tỉnh lại, bà cảm thấy tinh thần thoải mái và nói được. Vào chiều ngày 25, bỗng nhiên bà dặn dò chồng rằng, sáng sớm ngày mai hãy mời người đến trợ niệm. Trước giường có tôn trí Thánh ảnh đức Phật A-Di-Đà và Bồ-Tát Quán Thế Âm, bà ngắm nhìn Thánh ảnh và lâm râm niệm Phật. Sáng sớm hôm ấy, bà thấy các Liên hữu đến lòng rất vui mừng, và luôn chắp tay vái lạy Phật. Đến giờ Tuất (từ 19 đến 21 giờ), bất chợt bà cất tiếng niệm Phật lớn theo chúng ba lần, rồi an nhiên vãng sanh, lúc đó bà 38 tuổi. Qua ngày 27 nhập liệm thân thể của bà vẫn mềm mại như lúc đang sống.

(Trích từ: Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Dị Giải – Do Nguyệt San Hoằng Hóa xuất bản kỳ 44 ghi).

* Dân Quốc – Trương Khải Oánh.

Cư sĩ Trương Khải Oánh pháp danh Hoằng Tải, người ở Triết Giang, quy y Tam Bảo vào năm Dân Quốc thứ XVI, là người luôn kính ngưỡng và tin tưởng Phật pháp một cách trung thực; song, thể trạng của Cư sĩ vốn suy yếu nên mang nhiều bệnh tật, do vậy mà sự tu tập không được nghiêm túc. Mùa trung thu năm Dân Quốc thứ XVII (1928 TL), bệnh cũ của Cư sĩ tái phát, gặp lúc giữa đêm nên không thể mời người trợ niệm, Cư sĩ bèn mở máy thâu băng niệm Phật để được nghe danh hiệu của Phật, người nhà nghe thấy vậy liền niệm lớn để trợ duyên, đến giờ Tý, Trương Khải Oánh bỗng nhiên chấp tay hướng về Cha Mẹ và bà Vợ vái ba lần, gật đầu ba lần với ý nghĩa vái chào từ biệt, sau đó liền an nhiên vãng sanh.

Sau khi lâm chung, người nhà phát hiện trên thân thể của Trương Khải Oánh còn nóng ở ngực, Phụ thân của Cư sĩ liền kề miệng vào tai Cư sĩ ân cần tha thiết niệm lớn danh hiệu đức Phật để giúp Cư sĩ khởi phát Chánh niệm, hầu được vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Đến khi toàn thân Cư sĩ đều lạnh chỉ còn đỉnh đầu thì nóng với nhiệt độ dị thường. (Trích từ: Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Dị Giải).
——————————————

[1] Đại Sư Ấn Quang: Đại Sư pháp danh là Thánh Lượng, pháp hiệu là Trường Tâm, người ở Thiểm Tây, cùng thời với Đại Sư Thái Hư (tiền thế kỷ XIX). Bản “Văn Sao” ban đầu tìm thấy chỉ có 95 thiên, hiện nay tìm thấy trên 300 thiên chia thành 4 quyển.

[2] Ba căn cơ (Tam căn): Ba hạng có Thiện căn sai khác: Mạnh, vừa, yếu.

[3] Niệm Kim Cang: Niệm có tiếng nhưng người xung quanh không nghe được.

[4] Bậc Tôn trưởng: Thầy dạy Đạo và các vị Đạo cao Đức trọng.

[5] Nên ăn Trường trai hoặc Lục trai, Thập trai. Nếu vẫn còn ăn mặn thì không nên tự mình Sát sanh.

[6] Thập thiện nghiệp: Mười hành động thiện, gồm: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói ác độc, không tham dục, không sân hận và không ngu si.

[7] Nếu mỗi ngày niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà một vạn lần, thì niệm danh hiệu Bồ-Tát Quán Thế Âm năm ngàn lần. Lấy đây làm cơ sở để tăng hay giảm theo hoàn cảnh.

[8] Pháp thân Bồ-Tát: Còn gọi Pháp thân Đại Sĩ – là hàng Bồ-Tát từ Sơ Địa trở lên.

[9] Người Trung Hoa tin rằng, sau khi chết mọi người đều biến thành Quỷ, có cuộc sống tương tự người.

[10] Như kinh A-Di-Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Bát Nhã, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng Nghiêm…

[11] Lục trai: Gồm các ngày: 8, 14, 15, 23, 29 và 30.

[12] Thập trai: Sáu ngày trên và thêm bốn ngày: 1, 18, 24 và 28 – Nếu tháng thiếu thì thụt lùi 1 ngày, – Đồng thời, gặp ba tháng: 1, 5 và 9 nên trường trai và làm các Phật sự.

[13] Chứ chẳng phải tuyệt đối không lễ lạy.

[14] Chấp một phía.

[15] Sáu đường (Lục đạo): Tức sáu cảnh giới, gồm Trời, A-tu-la, Người, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục.

[16] Đường thiện (Thiện đạo): Cõi Trời và cõi Người. Đường ác (Ác đạo): cõi A-tu-la, cõi Súc sanh, cõi Ngạ quỷ và cõi Địa ngục.

[17] Thập ác: Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo, nói thêu dệt, nói hai chiều, nói thô ác, tham lam, sân hận và ngu si.

[18] Ngũ nghịch: Giết Cha, giết Mẹ, hại A-la-hán, phá hòa hiệp Tăng và làm thân Phật chảy máu.

[19] Ba vị Thánh Phật: Thuật ngữ gọi là Tây Phương Tam Thánh – Tức đức Phật A-Di-Đà, Bồ-Tát Quán Thế Âm và Bồ-Tát Đại Thế Chí.

[20] Bạch thoại: Loại ngôn ngữ mới của Trung Quốc. Là Quốc ngữ của Trung Quốc hiện tại.

Chương Bốn

SỰ KHÍCH LỆ TINH TẤN

CỦA CHƯ ĐẠI ĐỨC XƯA VÀ NAY

  1. Trong tập “Lâm Chung Cảnh Sách” Đại Sư Ưu Đàm ghi:

“Trường hợp người niệm Phật muốn vãng sanh về Tịnh Độ thì mỗi ý nghĩ thường nghĩ rằng, hết thảy mọi hiện tượng trong thế gian đều vô thường, nghĩa là “có Thành thì có Hoại, có Sanh thì có Tử”, nếu không trực tiếp học tập Phật pháp thì khi bỏ thân này để lãnh thọ thân khác, cứ mãi luân lưu trong Bốn loài Sáu nẻo của Tam giới khó có ngày thoát khỏi. Đời này, chúng ta có duyên lành được nghe Chánh pháp, được tu Tịnh nghiệp, chỉ thuần túy niệm Phật nên sẽ được sanh về Tịnh Độ nhập vào hoa sen đón nhận nguồn thanh thoát an vui, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử, không còn thối chuyển đối với quả vị Bồ-đề, đây là việc cần phải làm của đấng Đại trượng phu trên đời. Trường hợp khi bị bệnh tật việc chủ yếu là hướng về việc vãng sanh, nên giữ thân tâm thanh thản chớ khởi tâm nghi nan lo lắng, lúc ấy cần ngồi nghiêm trang mặt hướng về phía Tây, tâm niệm chỉ tưởng nhớ đức Phật A-Di-Đà, Bồ-Tát Quán Thế Âm, Bồ-Tát Đại Thế Chí cùng vô số chư vị hóa Phật, hóa Bồ-Tát đang hiện hữu trước mắt; đồng thời, chí tâm thành khẩn niệm Phật liên tục không gián đoạn. Mặt khác, tất cả những sự việc trong cuộc sống không nên suy nghĩ, tham luyến, giả như có một ý nghĩ về sự đời khởi lên, thì lập tức tiếp tục niệm danh hiệu Phật, vì rằng năng lực của mỗi câu niệm Phật sẽ trừ diệt được vô số tội chướng. Nếu người bị bệnh hôn mê không thể tự niệm được, thì những người xung quanh tìm phương tiện để khích lệ thức tỉnh thần thức đương sự giữ Chánh niệm, với sự dụng tâm như vậy sẽ trợ duyên người lâm chung đi đúng đường. Cho nên, cần trung thực duy trì duy nhất sự niệm Phật thì chắn chắn sẽ được vãng sanh Tịnh Độ Cực Lạc, nếu thọ mạng chưa hết thì bệnh tình sẽ bình phục. Do vậy, cần thận trọng không nên khởi tâm lưu luyến việc thế gian, không suy nghĩ được sống hay chết, chỉ đơn thuần chuẩn bị cho việc vãng sanh – Được thế, thì nghi nan gì? Âu lo gì?”

  1. Trong tập “Nhân Sanh Chi Tối Hậu” (Phút lâm chung của đời người), Đại Sư Hoằng Nhất(1) ghi:

“… Khi bị bệnh nhẹ thì có thể dùng thuốc, nhưng việc quan trọng là phải tinh tấn niệm Phật, đừng ỷ lại vào thuốc men có thể chữa khỏi bệnh mà không cần niệm Phật. Khi lâm bệnh nặng thì có thể không cần dùng thuốc men mà việc thiết yếu là cần xả bỏ tất cả những việc trong gia đình và việc của bản thân, để chí thành tha thiết niệm Phật cầu nguyện vãng sanh về Tịnh Độ Cực Lạc. Người nào thực hiện được như vậy, giả như thọ mạng của họ đã hết thì chắc chắn sẽ được vãng sanh, nếu thọ mạng chưa hết thì sẽ sớm bình phục, đó là kết quả do nhất tâm niệm Phật mà nghiệp ác các đời trước được tiêu trừ. Trường hợp bệnh tình trở nên nguy kịch, điều quan trọng là bệnh nhân không nên sợ hãi âu lo mà cần hiểu rằng, những nghiệp ác mình đã làm các đời trước đáng lý các đời sau phải bị đọa vào Ba đường ác dữ, nhưng do hiện tại chí thành niệm Phật, nhờ công đức này các nghiệp ác đó đa phần được tiêu trừ, chỉ còn sót lại một phần nhỏ là phải chịu đau đớn thể xác khi kết thúc đời này mà thôi. Nếu tinh thần bệnh nhân vẫn sáng suốt thì người nhà nên mời Thiện tri thức đến để thuyết Pháp, sách tấn bệnh nhân, những việc hiền thiện mà suốt đời bệnh nhân đã làm cần nên nhắc lại và hết lời khen ngợi giúp bệnh nhân khởi tâm hoan hỷ không còn lo nghĩ nghi ngờ, để tự biết rằng những công đức mình đã làm, sau khi lâm chung chắc chắn sẽ được vãng sanh.

Về vấn đề di chúc thì nên lo liệu khi còn khỏe mạnh, những gì cần thiết phải giao cho ai thì nên viết trước, chứ giờ phút lâm chung điều thiết yếu là không nên hỏi han nói phô về việc di chúc cũng như tất cả mọi chuyện khác, để tránh khơi dậy lòng thương mến lưu luyến thế gian, gây trở ngại việc vãng sanh. Mặt khác, bệnh nhân thích ngồi hay nằm thì người nhà nên tùy thuận theo, nếu bệnh nhân cảm thấy sức lực suy kiệt chỉ nằm mà thôi, thì điểm căn bản là cần nằm nghiêng xoay mặt về hướng Tây, đầu gối lên tay phải, tay trái duỗi thẳng theo hông trái, giả như nằm với tư thế ấy bệnh nhân quá đau đớn thì không nên miễn cưỡng, nằm tư thế nào cũng được. Ngoài ra, nếu bệnh nhân yêu cầu lau chùi thân thể hay thay đổi y phục thì người nhà nên tùy thuận thực hiện theo ý kiến của bệnh nhân; ngược lại, nếu bệnh nhân không yêu cầu thì người nhà không nên tùy tiện làm, để tránh đụng chạm thân thể gây thêm đau đớn và làm mất Chánh niệm khiến bệnh nhân khó được vãng sanh. Bên cạnh, khi đại chúng niệm Phật trợ niệm thì cần thiết trí hình ảnh “đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn”(2)tại phòng của bệnh nhân để đương sự chiêm ngưỡng. Theo kinh nghiệm của tôi, vào giờ phút lâm chung thần kinh của bệnh nhân đã suy kiệt, nếu sử dụng khánh hay mõ nhỏ để trợ niệm, âm thanh của hai Pháp khí này rất sắc nhọn sẽ chấn động thần kinh bệnh nhân làm tinh thần đương sự bất an, ổn thỏa nhất là chỉ niệm Phật trợ niệm mà không dùng một loại Pháp khí gì cả. Hoặc là, có thể dùng chuông lớn, khánh lớn hay mõ lớn, âm thanh của ba Pháp khí này rất hùng tráng sẽ giúp bệnh nhân khởi tâm kính ngưỡng. Về việc niệm Phật, có thể niệm sáu chữ hay bốn chữ, có thể niệm nhanh hay niệm chậm. Tuy nhiên, các điểm vừa đề cập nên hỏi bệnh nhân, để biết hằng ngày đương sự đã có thói quen sử dụng như thế nào, rồi theo đó để áp dụng hộ niệm, giả như bệnh nhân không có thói quen gì thì những người trợ niệm tùy duyên hành sự để có kết quả tốt đẹp, không nên chấp thủ điều này điều nọ.

Trước và sau giờ phút lâm chung, trăm vạn lần người nhà bệnh nhân không nên khóc than, mà cần chí tâm niệm Phật trợ niệm thì sẽ đem đến lợi ích cho vong linh. Nếu muốn khóc thì nên đợi đến Tám tiếng đồng hồ sau khi tắt thở và cũng sau Tám tiếng mới có thể tắm rửa thay đổi y phục, nếu tay chân cong cứng thì không nên bẻ uốn mà dùng khăn nhúng vào nước nóng đắp vào các chỗ cứng đó, sau một lát thì tay chân sẽ mềm mại như khi đang sống. Về liệm áo quần thì nên liệm đồ cũ, áo quần mới nên đem bố thí cho người khác thì sẽ tạo thêm phước đức cho vong linh. Không nên sử dụng quan (hòm) quá tốt, xây lăng mộ quá lớn và sang trọng, những việc làm này đều không có lợi cho vong linh. Trong vòng 49 ngày nên thỉnh Chư Tăng cầu siêu cho vong linh, cần áp dụng nghi thức niệm Phật làm chủ yếu, về việc tụng Kinh, Bái sám hay Bạt độ, Chẩn tế… tuy có công đức bất khả tư nghị, nhưng Tăng chúng hiện giờ nếu xét kỹ thì sự tu tập của họ rất hời hợt, nên sự ứng phó đạo tràng của họ cũng chỉ làm cho xong việc, không đúng với Chánh pháp, và hiếm có lợi ích thiết thực. Trong bản “Văn sao” của Đại Sư Ấn Quang, Ngài đã cảnh báo hàng Phật tử nhiều lần là hãy luôn luôn chú ý điểm này.

Vấn đề lo tang lễ, về ăn uống thì nên dùng thực phẩm chay, ngàn vạn lần không nên sát sanh ăn mặn, chẳng lợi ích gì cho vong linh. Về nghi thức tổ chức, không nên phô trương để cầu tiếng khen của xóm làng, mà cần chú tâm làm những gì tăng thêm phước đức cho vong linh. Sau 49 ngày, hằng ngày người nhà cũng cần niệm Phật cầu nguyện cho vong linh, có như thế mới gọi là người Đại hiếu chân thật.

Tóm lại, giờ phút lâm chung là giờ phút sau cùng của một đời người, nếu chưa dự bị ổn thỏa tư lương để vãng sanh, khi ấy tất cả những nghiệp ác đã làm cùng lúc xuất hiện thì làm sao được giải thoát? – Dù có thể dựa vào sự trợ niệm đúng Pháp của Thiện hữu cũng không bằng tự mình hằng ngày tu tập dự bị tư lương vãng sanh cho mình, để đến giờ phút lâm chung sẽ được an nhàn tự tại. Xin khuyên quý Phật tử hãy dự bị trước “Tư lương vãng sanh” cho mình!”

[1] Đại Sư Hoằng Nhất: Thời cận đại, sau Đại Sư Ấn Quang.

[2] Ảnh đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn: Là ảnh diễn tả tay trái của đức Phật nâng đài hoa sen, tay phải duỗi ra để tiếp dẫn.

Chương Năm

NHÂN QUẢ CỦA SỰ TRỢ NIỆM

Trên đời, có Nhân ắt phải có Quả, có Quả hẳn phải có Nhân. Nếu chúng ta thường phát tâm giúp đỡ người khác niệm Phật để được vãng sanh Tịnh Độ, thì đến giờ phút chúng ta lâm chung hẳn nhiên sẽ có người phát tâm đến giúp đỡ chúng ta niệm Phật để vãng sanh về Tịnh Độ; đồng thời, những người giúp chúng ta niệm Phật, tương lai họ cũng sẽ được các người khác đến khuyến trợ niệm Phật để được vãng sanh. Lại nữa, chúng ta thường hay giúp đỡ người này người kia niệm Phật để được vãng sanh, hoặc đối với những người sắp lâm chung, vì họ mà giảng giải minh bạch Đạo lý Chánh – Tà, giúp họ thấy rõ con đường trong sáng để đi, thì đây là kinh nghiệm để trong tương lai khi lâm chung, chúng ta sẽ vận dụng kinh nghiệm ấy để ra khỏi những tâm niệm thường tình Phi pháp, duy trì tâm niệm đúng Chánh pháp để chắn chắn được vãng sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây.

Chúng ta cần hiểu rằng, sở dĩ đức Như Lai ra đời, việc chủ yếu là cứu độ hết thảy chúng sanh, để bất cứ ai cũng được thành Phật. Đức Thích Ca Như Lai thuyết Pháp trải qua 49 năm cũng chỉ muốn làm sáng tỏ 48 Đại nguyện để trang nghiêm thế giới Cực Lạc ở phương Tây của đức Phật A-Di-Đà. Tất cả giáo nghĩa tu tập chỉ dựa vào Tự lực, nghĩa là Hành giả phải đoạn tận hoàn toàn phiền não mới thoát khỏi sanh tử, đây là các Pháp môn tu tập rất khó. Pháp môn Tịnh Độ là dựa vào nguyện lực tiếp dẫn của đức Phật A-Di-Đà (Tha Lực) để được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, chưa đoạn trừ hết phiền não mà vẫn ra khỏi sanh tử, chỉ trong một đời là hoàn thành quả vị Phật-Đà, đây là Pháp môn tu tập rất dễ. Hiện tại, chúng ta giúp đỡ người khác niệm Phật để được vãng sanh chính là thay thế đức Như Lai mà gánh vác trách nhiệm cứu độ chúng sanh. Pháp mà chúng ta giúp người khác được vãng sanh Cực Lạc là Pháp dễ tu, là Pháp nương vào nguyện lực của đức Phật A-Di-Đà để sớm thoát ly sanh tử, chóng thành Phật quả; sự trợ niệm này có công đức rất lớn. Chính công đức lớn này sẽ là “Nhân” giúp chúng ta thành Phật; nghĩa là, trong tương lai khi chúng ta lâm chung sẽ nhờ công đức này mà được vãng sanh, thoát khỏi sanh tử và chúng ta sẽ vận dụng cái “Nhân” tốt ấy để đạt được “Quả” – thành Phật. Đây là Đạo lý Nhân – Quả như thật vậy.

Chương Sáu

GIẢI THÍCH SỰ NGHI NGỜ

  1. Hỏi: Tại sao Bổn nguyện của Hành giả cần thiết phải “Khai Thị Trợ Niệm” cho người lâm chung?

Đáp: Người theo đạo Phật không ai là không “Thượng cầu Phật đạo, Hạ hóa chúng sanh”, Bổn nguyện của các Hành giả cũng không nằm ngoài tôn chỉ ấy. Trong đời, những người có duyên được học, được nghe Giáo pháp Tịnh Độ, biết về Đại nguyện tiếp dẫn của đức Phật A-Di-Đà nên khởi phát đức tin kiên cố, đến khi lâm chung sẽ được vãng sanh đạt Bất thối chuyển; nghĩa là, giờ phút lâm chung sẽ được Báo-thân Phật và Thánh chúng đến tiếp đón, trong giây lát theo sau Thánh, Phật, trở về Báo độ Cực Lạc, về đến đây được nghe Pháp thấy Phật chứng Vô Sanh Nhẫn, với những người này thì không cần phải trợ niệm. Về những Liên hữu đến niệm Phật trong hoàn cảnh này là chuyên chở ý nghĩa:

– Một: Chúc mừng đương sự thành tựu Đạo nghiệp,

– Hai: Tiễn biệt và ghi nhớ ân đức người quá cố,

– Ba : Tạo niềm tin cho những người chưa tin,

– Bốn: Đem lợi ích đến cho quyến thuộc người quá cố,

– Năm: Giúp đỡ hậu sự cho người quá cố.

 

Kết quả này, há chẳng phải thù thắng, khó được hay sao!

Huống nữa, Bổn nguyện của Hành giả còn có bổn phận đối với đa phần những người trong gia tộc chưa biết Phật pháp, không biết xử trí chính xác khi có người sắp lâm chung như thế nào, thông thường họ xử sự theo tập quán thế tục, như uốn nắn tay chân, thay đổi thế nằm làm cho người lâm chung đau đớn vô cùng. Giả như có các Liên hữu giúp đỡ hộ trì trong giờ phút sắp lâm chung, thì sẽ có phương pháp chuẩn mực làm giảm bớt sự đau đớn cho đương sự.

Lưu Nhược Doanh múa kiếm vô ý bị chết, Lâm Chương Thu bị nhồi máu cơ tim mà chết, La Thụy Tuyết bị xe tông mà chết, ba người này vốn là những vị đang thực hành Bổn nguyện, do duyên chết đột ngột người nhà của họ đều hoảng hốt rối loạn chẳng biết làm gì, những trường hợp này nếu không được gặp Thiện hữu “Khai Thị Trợ Niệm” thì hậu quả làm sao tốt đẹp được! Trường hợp những người có Tín tâm kiên cố, Chánh niệm rõ ràng, biết trước giờ lâm chung và tự tại vãng sanh thì những Liên hữu niệm Phật trợ duyên bên cạnh, sao có thể gọi là gây trở ngại tai hại? Mặt khác, những người được học được nghe Bổn nguyện của đức Phật A-Di-Đà khi còn khỏe mạnh, đến khi lâm chung chưa hẳn Tín tâm của họ đã vững mạnh; thế thì, “Khai Thị Trợ Niệm” trong giờ phút sắp lâm chung cho những người ấy, giúp họ tỉnh giác niệm Phật cầu nguyện vãng sanh, thì sự giúp đỡ này há không ổn thỏa sao!

Pháp của đức Phật vốn không tách rời Pháp thế gian, đứng trên tình đời mà nói, như tập thể Liên hữu hằng ngày cùng học cùng tu với nhau, nếu có người vãng sanh Cực Lạc trước thì trong đoàn Liên hữu ấy, há không có ai nghe, ai đến niệm Phật trợ duyên hay sao! Cho nên, cần lưu tâm về sự lâm chung để niệm Phật trợ duyên, khéo léo Khai Đạo giúp mọi đối tượng phát khởi Chánh tín; như vậy, Pháp thế gian và xuất thế gian cả hai đều viên mãn, tự mình thực hiện trợ niệm chính là giáo hóa tha nhân, Âm – Dương đều được lợi lạc. Nếu ai phản đối gây trở ngại cho người trợ niệm, nếu xét về mặt sâu xa thì trái ngược với lời dạy của chư Tổ, chư Phật, xét về mặt thô thiển thì trái ngược với Đạo lý Nhân quả, người như thế không phải là Đệ tử của đức Phật vậy.

  1. Hỏi: Bổn nguyện của Hành giả (tu Tịnh Độ) sẽ được tự mình tu tập hằng ngày để thành tựu mục đích vãng sanh của mình, chứ đâu phải chờ đợi ai đến tiếp dẫn, như vậy tại sao phải thành lập “Đoàn Trợ Niệm” để sẵn sàng đi trợ niệm khắp nơi?

Đáp: Hai chữ “Trợ niệm” là biểu thị ý nghĩa giúp đỡ người sắp lâm chung hay người vừa chết khởi phát Chánh niệm, đó là việc làm giúp đỡ người khác được vãng sanh Cực Lạc, thành tựu quả Phật. Lời dạy của đức Phật, ngôn ngữ của chư Tổ vì thương yêu mà sách tấn khuyên bảo chúng ta nỗ lực tu tập, điều này đã được ghi trong Kinh – Luận, nếu chúng ta tinh tấn làm theo cũng khó viên mãn, thì tại sao mê lầm mà gây trở ngại? Bổn nguyện của Hành giả là chính mình phải thực hiện cụ thể Giáo pháp Tịnh Độ, phát tâm Bồ đề vì người mà trợ niệm, chứ không phải làm để mong cầu tương lai người khác sẽ đến trợ niệm cho mình vãng sanh Tịnh Độ, tâm nguyện của “Đoàn Trợ Niệm” là cùng nhau giúp đỡ những người chưa có duyên để họ biết được Đại nguyện của đức Phật A-Di-Đà. Nhân vì trong cộng đồng nhân loại, người không học Phật thì quá nhiều mà người học Phật thì quá ít, người không niệm Phật thì đa phần mà người niệm Phật thì thiểu phần, người niệm Phật cho mình thì đông mà niệm Phật cho kẻ khác thì hiếm. Hiện tình của mọi người như vậy, nên khi sắp lâm chung việc cấp thiết là phải có người trợ niệm giúp đương sự giải thoát, thời điểm này chỉ có Hành giả với Bổn nguyện của mình là thích hợp nhất để gánh vác trách nhiệm của đức Phật, bởi vì Bổn nguyện của Hành giả là hiểu rõ đức tính Đại từ, Đại bi, Bình đẳng, chủ động cứu độ mọi người vô điều kiện của đức Phật A-Di-Đà, qua đó Hành giả vì những người sắp lâm chung mà “Khai Thị Trợ Niệm” giúp bệnh nhân nhất tâm niệm Phật để được đức Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Sự kiện này há chẳng phải truyền bá rộng rãi tuyệt đẹp Bổn nguyện của đức Phật A-Di-Đà và là nhân duyên lưu truyền sáu chữ Hồng danh của Ngài hay sao? Huống nữa, trong quá khứ Tỷ-kheo Pháp Tạng đã từng phát Đại nguyện: “Giả như Tôi thành Phật, nếu chúng sanh nào trong mười phương hết lòng tin tưởng vui thích muốn sanh về thế giới của Tôi, dù chỉ niệm danh hiệu Tôi Mười niệm mà chẳng được sanh về, thì Tôi nguyện không thành Chánh Giác (Phật)“.

Chúng sanh trong mười phương là bao gồm hết thảy ba loại, loại đang sống, loại đang lâm chung và loại sau khi lâm chung (Trung ấm). Như vậy, những chúng sanh khó giáo dục chẳng phải là chúng sanh trong mười phương hay sao? Và họ chẳng phải là đối tượng mà đức Phật A-Di-Đà thệ nguyện cứu độ hay sao? Tâm nguyện cứu độ của đức Phật A-Di-Đà thì vô hạn lượng và Bổn nguyện nhiếp thọ mọi căn cơ chúng sanh của Ngài thì không bỏ sót một ai. Không nên tuỳ tiện lý giải Bổn nguyện của đức Phật làm nghèo nàn tâm nguyện Ngài, rồi cho rằng ý kiến của mình là đúng, ý kiến của kẻ khác là sai, như cho rằng đức Phật chỉ nguyện cứu độ những người đang sống mà không nguyện cứu độ những kẻ đang lâm chung hay đã chết. Thật ra, những kẻ đang lâm chung thì tuổi thọ đã hết, còn những người đang sống thì tuổi thọ còn dài, tâm niệm lấy ít mà bỏ nhiều, quên việc khẩn cấp mà cứu giúp điều thong thả, chọn một mà bỏ rơi hàng vạn, đó là người bất toàn. Vấn đề hoằng dương Phật pháp không thể dựa vào ý kiến riêng tư của mình để làm, đây chỉ là cái thấy biết hạn hẹp để rồi khen việc làm của mình chê bai việc làm của kẻ khác, muốn làm Phật sự cần phải học tập tâm niệm của Phật và bắt chước việc làm của Ngài, có thế mới gọi là tin Phật chân thật. Mong rằng, những Hành giả Tịnh Độ với Bổn nguyện của mình cần nên phát nguyện làm Sứ giả của đức Phật A-Di-Đà, chứ đừng bao giờ làm kẻ phản bội đức Như Lai!

III. Hỏi: Sau khi con người chết là đi vào trạng thái “Trung ấm(1)”, thì làm sao thấy được Phật, nghe được âm thanh niệm Phật và nghe được thuyết giảng Chánh pháp?

Đáp: Có thể! Như kinh Trung Ấm ghi rằng: “Chúng sanh mang thân Trung ấm có tuổi thọ là bảy ngày, hình tướng giống như Trời Hóa-tự-tại(2), đức Như Lai dùng thần lực đi vào cảnh giới Trung ấm để giáo hóa cho những chúng sanh này”. Kinh Trung Ấm lại ghi: “Chúng sanh Trung ấm ở trong trạng thái mù mờ chẳng biết gì về Tam Bảo, khi chuyển thân thì tùy hành nghiệp để đi vào Một trong Năm đường, hoặc đi vào Hai đường Hiền thiện hay đi vào Ba đường Ác dữ. Đáng thương thay nhưng tốt đẹp thay! Giờ đây đức Như Lai đã đến cảnh giới Trung ấm để hóa độ cho họ”. Lại ghi: “Khi thọ thân Trung ấm tùy theo lời giáo dục hướng dẫn, dù không thể phát tâm nhưng nhờ được nghe Pháp mà được cứu độ”. Lại ghi: “Những chúng sanh ở dạng thức Trung ấm được nghe và thọ lãnh Giáo pháp do đức Như Lai thuyết giảng”. Lại ghi: “Bấy giờ, những chúng sanh Trung ấm được nghe đức Phật thuyết Pháp liền chứng quả A-la-hán”.

Lại nữa, quyển IX Luận Câu Xá ghi rằng: “Những chúng sanh “Trung hữu” ở Dục giới hình dáng như đứa bé 5, 6 tuổi, nhưng chức năng các giác quan rất bén nhạy.” – Câu này là giải thích rõ những chúng sanh mang thân Trung ấm ở Dục giới, thân hình lớn cỡ đứa bé 5, 6 tuổi, nhưng các căn rất lanh lợi, thấy – nghe – nhận thức – ghi nhớ còn hơn khi còn sống. Lại nữa, quyển IX, Luận Câu Xá ghi: “Trong tất cả dữ kiện thông suốt, thì “Nghiệp” là thông suốt nhanh nhất. Đi lại nhanh chóng tự tại trong hư không gọi là “thông suốt”, năng lực vận hành của sự thông suốt này quá nhanh chóng gọi là “nhanh nhất”. Những chúng sanh Trung hữu vốn đầy đủ cái nghiệp “thông suốt nhanh nhất” này, thậm chí ngay Đấng cao cả như đức Thế Tôn cũng không thể cản ngăn được, vì năng lực nghiệp của họ hết sức mạnh mẽ; đồng thời, hết thảy chúng sanh Trung hữu đều đầy đủ cả Năm căn”. – Đoạn văn này là giải thích rõ rằng, thân Trung ấm có nghiệp lực thông suốt rất mạnh mẽ, đức Thế Tôn cũng không thể ngăn cản; vì vậy, thân Trung ấm có khả năng thấy, nghe người trên Dương trần “Khai Thị Niệm Phật” cho họ, đây là lý tất nhiên!

Kinh Trung Ấm đã ghi: “Những chúng sanh Trung ấm được nghe đức Phật thuyết Pháp liền chứng quả A-la-hán”, “Nhờ được nghe Pháp mà được cứu độ” là thế nào? – Những chúng sanh Trung ấm được nghe những Hành giả với Bổn nguyện của mình giảng về phương pháp cứu độ vi diệu của đức Phật A-Di-Đà giúp họ niệm Phật, há có thể không được vãng sanh hay sao? Dù Hành giả đang là phàm phu chưa có trí tuệ và phước đức; nhưng mà, Hành giả đâu chỉ sử dụng năng lực của tự thân mà còn trượng thừa năng lực gia hộ của đức Phật A-Di-Đà, để khích lệ vong linh (Trung ấm) tinh tấn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, sự khích lệ trợ duyên này cũng giống như giúp đỡ người đang sống học Phật pháp hay niệm Phật vậy. Khuyến khích hướng dẫn người đang sống niệm Phật để cầu được vãng sanh Cực Lạc thì họ có thể nỗ lực để thực hiện, còn khuyến khích vong linh (Trung ấm) niệm Phật để cầu vãng sanh, nhưng họ không có năng lực thực hiện, dù vậy họ vẫn được vãng sanh, sự kiện này há không phải kỳ diệu hay sao? Trong cuộc sống, chúng ta được biết Bổn nguyện của đức Phật A-Di-Đà nên nhất tâm trì niệm để cầu mong giải thoát thành tựu Phật quả, đó là vấn đề trọng yếu nhất của đời chúng ta; tuy nhiên, nếu thiếu duyên, trong đời chúng ta không gặp được Pháp môn Tịnh Độ, sau khi chết mới có duyên nghe người khác nói Chánh pháp và niệm danh hiệu đức Phật cầu nguyện cho chúng ta vãng sanh; như thế, thời điểm ấy chẳng phải là giây phút quan trọng và khẩn cấp hay sao! Trong thời điểm này, ai là người vì kẻ đã chết mà Khai thị về Bổn nguyện cứu độ của đức Phật A-Di-Đà, hướng dẫn vong linh niệm Phật để được vãng sanh Tịnh Độ? – Đó là những Bổn nguyện Hành giả vậy. Bổn nguyện Hành giả “Khai Thị Trợ Niệm” như thế là để báo đáp ân đức chư Phật hoặc cảm niệm công đức của đức Phật đối với chúng sanh, chứ không phải thực hiện để tích chứa công đức làm tư lương nhằm hồi hướng cầu nguyện vãng sanh Cực Lạc cho mình. Những ngôn ngữ, việc làm của những Hành giả như thế, há chẳng phải không tương đồng với sự giáo hóa của đức Thích Ca Như Lai hay sao! Những tác ý, hành hoạt của những Hành giả như vậy, há chẳng phải không đồng loại như Phật sự của chư Phật trong mười phương hay sao! Với thân phận phàm phu mà thực hiện Phật sự cứu độ chúng sanh không phải là việc khó làm, đáng tôn quý và hy hữu tuyệt diệu hay sao! – Chính thế, Tổ Ấn Quang đã dạy: “Giúp một người được vãng sanh Tịnh Độ, chính là giúp một chúng sanh trở thành một vị Phật, công đức này thật khó nghĩ bàn được!”

  1. Hỏi: Có người nói: “Khi con người chết rồi thì đi xa mù tịt, một đi không trở lại như đá chìm xuống đáy biển, như vậy việc niệm Phật cầu nguyện cho người ấy được vãng sanh Cực Lạc đâu có ích gì”, câu nói ấy chính xác không?

Đáp: Lời nói ấy rất sai lầm, đấy là người chẳng hiểu gì về Giáo pháp của đức Phật, thích nói sai bàn bậy di họa cho mọi người, tự mình sai lầm lại còn đem sai lầm cho người khác. Quyển V kinh Ưu Bà Tắc Giới ghi: “Nếu người Cha chết bị đọa trong loài Ngạ Quỷ, người Con làm việc thiện phước để hồi hướng cho Cha, thì người Cha sẽ nhận được công đức ấy.” – Đã đọa vào trong loài Ngạ Quỷ mà vẫn có thể thừa hưởng được công đức làm việc phước thiện của Bà con quyến thuộc trên Dương gian để được cứu độ, huống gì trong thời gian còn mang thân Trung ấm được người niệm Phật cầu nguyện, há không được tiếp nhận hay sao? Theo quyển LX Luận Đại-Tỳ-Bà-Sa ghi: “Có Bốn loại “Hữu”, đó là Bổn Hữu, Tử Hữu, Trung Hữu và Sanh Hữu”. Đây là bốn giai đoạn của một đời sanh và tử con người: “Bổn Hữu” là chỉ giai đoạn con người đang sống, “Tử Hữu” là chỉ giai đoạn đã hết thở, tử vong, “Trung Hữu” là chỉ giai đoạn sau khi chết mà chưa sanh về một loài nào, “Sanh Hữu” là chỉ giai đoạn đã đi vào Một trong Sáu loài.

Trừ trường hợp những người Đại thiện hay Cực ác, còn lại hết thảy mọi người sau khi chết đều phải trải qua giai đoạn mang thân Trung ấm, chỉ vì kẻ phàm phu mắt thịt không thấy đấy thôi, như kinh Trung Ấm ghi: “Thân Trung ấm ấy rất vi tế, chỉ có đức Thế Tôn mới thấy mà thôi”. Lại nữa, Luận Đại-Tỳ-Bà-Sa ghi: “Sau khi con người chết thì mang thân Trung ấm, với thiên nhãn rất thanh tịnh mới có thể thấy được”. Với cái thấy của đôi mắt kẻ phàm phu thì rất hạn cục, nên cho rằng không có thân Trung ấm, đó là tư tưởng đoạn diệt, tà kiến.

“Trung ấm” còn gọi là “Trung hữu”, chúng sanh Trung ấm tiếp nhận rất nhanh nhẹn và cao độ, như quyển LXX Luận Đại Tỳ-Bà-Sa ghi: “Thân hình của chúng sanh Trung hữu dù nhỏ nhoi nhưng các quan năng rất bén nhạy như thời kỳ đang sống xuất xử mọi việc”. Do vậy có thể biết rằng, “Trung hữu” thấy rất rõ, nghe rất xa, ngửi rất tinh tường, nếm rất thiện xảo, cảm giác rất bén nhạy, còn dễ dàng và phong phú hơn người đang sống. Điểm này thì những kẻ phàm phu đang mang nhục thân với đôi mắt trần thì không thể biết được.

Bấy giờ Thiện và Ác chưa phân biệt rõ ràng, nên “Trung hữu” lo âu sợ hãi khổ não vô cùng, như kinh Địa Tạng dạy: “Trong thời gian bốn mươi chín ngày, người mới chết như ngây như điếc, bị dẫn đến những tòa án liên hệ với Địa Ngục để tra hỏi luận bàn về những việc đã làm để định quả báo, sau khi đã thẩm định mới tùy theo nghiệp lực mà đi thọ báo, trong thời gian chưa có kết quả mà khổ sở đã hàng ngàn hàng vạn lần rồi”. Do vậy, trong thời gian này người mới chết rất trông ngóng Bà con quyến thuộc hay bất cứ ai làm việc phước thiện cứu độ họ. Như kinh Địa Tạng dạy: “Người mới chết ấy khi chưa đi thọ báo, tức trong thời gian bốn mươi chín ngày, từng giây từng phút luôn trông chờ Bà con ruột thịt làm việc thiện để cứu vớt”. Bấy giờ, nếu người nào vì họ mà “Khai Thị Niệm Phật” giúp họ giải thoát, há không phải cứu một mạng người hay sao!

Phật pháp vốn phong phú và thù thắng có rất nhiều Pháp môn để cứu thoát những người mới chết (Vong linh, Hương linh), giả như chỉ cứu độ cho những người đang sống mà không có khả năng cứu độ những kẻ đã chết, thì Giáo nghĩa và Chân lý của Phật pháp chưa được trọn vẹn, chưa đạt cứu cánh; đồng thời, Từ bi và Trí tuệ của đức Phật cũng chưa được viên mãn, chưa đạt tuyệt đối. Tuy nhiên, sự thật trong Tam Tạng Kinh điển đã chứng minh rằng, với uy lực thần thông của mình, đức Thế Tôn đã tùy duyên đi vào cảnh giới Trung ấm và Lục đạo để cứu độ cho tất cả chúng sanh. Hạng phàm phu chẳng tu học Giáo pháp, tâm ý mù mờ thấy biết điên đảo; cho nên, với nhục nhãn của mình không thể thấy biết các thế giới sau khi chết, dẫn đến phủ nhận một cách lệch lạc.

Sau đây sẽ nêu lên một trường hợp thân Trung ấm được cứu độ để làm bằng chứng:

* Dân Quốc – Lục Mẫn Quân.

Cư sĩ Lục Mẫn Quân hiệu là Đình Anh, nguyên quán Tỉnh Giang Tô, sanh ra và lớn lên tại Thượng Hải; vốn là người đoan trang hiền thục, xưa nay chưa từng cau có, giận dữ, luôn cư xử với mọi người một mực từ hòa trong sáng. Vào năm Dân Quốc thứ LI, Lục Mẫn Quân kết hôn với Cư sĩ Trương Kiếm Phần người Hồ Nam tại Đài Bắc, Trương Kiếm Phần khuyên vợ nên phát tâm tin tưởng Phật pháp và niệm Phật, Lục Mẫn Quân tuy miệng vâng – dạ, nhưng không tin. Đến năm Dân Quốc thứ LVI, Pháp Sư Sám Vân chứng minh Phật thất cho Đạo tràng Tịnh Độ niệm Phật, Trương Kiếm Phần dẫn vợ đến tham dự Phật thất, nhân đây Lục Mẫn Quân được quy y Tam Bảo. Từ đó Lục Mẫn Quân phát tâm dõng mãnh, nỗ lực niệm Phật, đồng thời công khóa hằng ngày là trì tụng Chú Đại Bi và Phẩm Phổ Môn. Hằng năm, Phật thất được tổ chức vào tháng mười hai, Lục Mẫn Quân không có khóa nào là không tham gia tinh tấn niệm Phật; bên cạnh, khi nào có thuyết Pháp giảng Kinh thì Lục Mẫn Quân cùng chồng đến tham dự không hề bỏ sót.

Vào năm Dân Quốc thứ LXI (1972 TL), Lục Mẫn Quân bị bệnh ở mắt phải, đã tiểu phẩu bốn lần, cuối cùng phải vào Tổng y viện Vinh Dân để đại phẩu, do dây thần kinh bị chấn động mạnh dẫn đến bị xuất huyết não, hôn mê liên tục năm ngày rồi qua đời, bấy giờ là giờ Hợi ngày mười hai tháng mười một, hưởng dương 57 tuổi. Trương Kiếm Phần vô cùng thương đau không biết cách gì giúp vợ siêu độ, nhân nhà bên cạnh có bàn “Cơ Bút”, bèn thử dùng, Cơ viết chữ “Anh”, Trương Kiếm Phần rất vui mừng biết vợ mình ứng hiện, nên hỏi: “Bây giờ Em đang ở tại đâu?” – Đáp: “Ở cạnh nhà đốt vàng mã công cộng”. Hỏi: “Sau này sẽ đi về đâu?” – Đáp: “Sẽ được tái sanh làm người”. Hỏi: “Ở địa phương nào?”. – Đáp: “Ở đảo Hải Nam, nhưng làm thôn nữ nghèo nàn, chắc có thể phát tâm xuất gia tu hành”.

Được nghe vậy, Trương Kiếm Phần vội đến thỉnh Pháp Sư Sám Vân về nhà để “Khai Thị Niệm Phật” khích lệ vợ mình phát tâm cầu nguyện vãng sanh Cực Lạc, chứ không nên tái sanh làm người, đồng thời cũng mời Đạo tràng niệm Phật đến trợ niệm và niệm Chú Vãng Sanh một vạn biến, bên cạnh còn phát tâm chẩn tế Cô hồn nhằm trợ duyên cho vợ được vãng sanh chắc chắn.

Ngày hôm sau, Trương Kiếm Phần lại cầu “Cơ Bút”, vong linh vợ bảo: “Em đã được thấy đức Phật A-Di-Đà, Ngài bảo ba ngày sau sẽ đến tiếp dẫn sanh vào phẩm Thượng bậc Hạ ở hồ sen báu, Bồ-Tát Đại Thế Chí sẽ nâng đài sen trắng, Bồ-Tát Quán Thế Âm sẽ rưới nước Cam lồ mát mẻ giống như Kinh điển đã dạy vậy”. Hỏi: “Thật sự Em được vãng sanh chứ?” – Đáp: “Hẳn nhiên là sự thật”. Hỏi: “Sau khi vãng sanh, Em có thể nhờ Thần Thổ địa báo cho Anh rõ được không?” – Đáp: “Có thể”. Sau đó, vong linh dặn dò người trong gia đình không nên sử dụng “Cơ Bút” để tránh các loài Quỷ dối lừa nói bậy.

Sau khi niệm Phật, niệm Chú hoàn tất thì đúng ba ngày, tức vào tối ngày mồng bảy tháng mười hai, Thần Thổ địa báo mộng rằng: “Lục Mẫn Quân nhờ tôi đến báo với ông rằng, bà đã vãng sanh, và khuyên ông hãy tinh tấn niệm Phật”. (Trích từ: Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Dị Giải).

  1. Hỏi: Có người nói: “Thực hành việc “Khai Thị Trợ Niệm” phải là người có Đạo đức, người ăn chay… mới có thể làm được”, câu nói ấy chính xác không?

Đáp: Trợ niệm là giúp khác khởi phát tâm ý thanh tịnh để niệm danh hiệu đức Phật, giúp đỡ người thì cần gì phải phân biệt người có Đạo đức hay Vô Đạo đức, người ăn chay hay ăn mặn? Nhưng mà, Đại Sư Thiện Đạo đã răn dạy: “Chớ để những người uống rượu, ăn mặn, ăn năm gia vị cay nồng (hành, tỏi, ném…) đến gần người sắp lâm chung”. Có sự kiêng cử này là sợ làm cho người sắp lâm chung mất Chánh niệm đưa đến Quỷ, Thần ác dữ lộng hành mà bị đọa vào Tam đồ Ác đạo. Vì vậy, giả như người trợ niệm đã ăn mặn, ăn năm gia vị cay nồng ấy, thì trước khi trợ niệm hãy đánh răng súc miệng thật kỹ, còn người đã uống rượu say sưa thì không nên trợ niệm, ngoài các dữ kiện ấy thì ai cũng có thể tham gia trợ niệm.

Khai thị cho người lâm chung thì cần phải khéo léo, linh động để giúp đương sự phát khởi Chánh tín, vì đương sự mà nói về Chánh báo, Y báo trang nghiêm và sự an lạc của cõi Tịnh Độ, để đương sự vui mừng cầu nguyện vãng sanh, bên cạnh cũng nên nói về Đại thệ nguyện thuở xưa của Tỷ-kheo Pháp Tạng để làm sáng tỏ phương pháp vãng sanh giúp đương sự niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Do thế, những người có khả năng hiểu rõ giáo pháp Tịnh Độ thì có thể vì người khác mà trợ niệm. Một điểm cần lưu ý, trước khi Khai thị thì phải hiểu rõ tánh tình của đương sự mới có thể tùy theo tâm lý ấy để giảng giải. Mặt khác, mục đích Khai thị chính là giúp người lâm chung phát tâm cầu sanh Tịnh Độ, để đạt được mục đích ấy đòi hỏi người Khai thị phải có đường hướng khéo léo, đại khái là phải có thái độ chân thành, ngôn ngữ nhã nhặn, tùy lúc để ân cần khích lệ, tán thán giúp đương sự tin tưởng thực hiện.

  1. Hỏi: Có người nói: “Trợ niệm cho người thì dễ bị Hung Thần, Ác Quỷ nhập vào thân”, câu nói ấy chính xác không?

Đáp: Câu nói ấy là hiểu sai nói bậy, thấy biết đảo điên hư dối. Dưới đây sẽ trích dẫn Kinh Luận để minh chứng:

Như kinh Thập Vãng Sanh dạy: “Nếu người nào niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà để cầu nguyện vãng sanh, thì Ngài sẽ cử hai mươi lăm vị Bồ-Tát hộ vệ người ấy, người ấy dù đi, đứng, nằm, ngồi, đêm hay ngày, tất cả mọi lúc mọi chỗ đều khiến các Hung Thần, Ác Quỷ không có cơ hội quậy phá người ấy”. – Hai mươi lăm vị Bồ-Tát ngày đêm bảo vệ người niệm Phật, nếu để cho Hung Thần, Ác Quỷ nhập vào thân người niệm Phật, thì uy lực của chư vị Bồ-Tát bỏ ở đâu? Há lời đức Phật dạy vọng ngữ sao!

Lại như trong Phẩm Phổ Môn dạy: “Giả sử trong Ba ngàn triệu thế giới có vô số loài Dạ-Xoa, La-Sát muốn đến làm hại người, mà nghe người ấy niệm danh hiệu Bồ-Tát Quán Thế Âm thì không dám nhìn người ấy bằng cặp mắt hung dữ, huống gì là làm hại”. Niệm danh hiệu Bồ-Tát Quán Thế Âm mà Ác Quỷ không dám nhìn người ấy bằng cặp mắt hung dữ, vậy niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà mà Ác Quỷ có thể làm hại được sao?

Lại như trong kinh Địa Tạng dạy: “Những người ở Nam Diêm-Phù-Đề khi sắp chết vẫn có hàng trăm hàng ngàn Quỷ, Thần ác độc hóa hiện giống như Cha Mẹ, Bà con quyến thuộc để dẫn dụ người ấy sa lạc vào đường ác, huống gì những kẻ chỉ biết làm ác. Bạch Thế Tôn! Như thế, bất cứ đàn ông hay đàn bà ở Châu Diêm-Phù-Đề, khi sắp chết hầu hết thần thức của họ đều mê mờ chẳng phân biệt được đâu là Thiện, đâu là Ác, và cả thính giác thị giác cũng chẳng nghe thấy được gì. Lúc này, Bà con quyến thuộc cần nên phát tâm bố thí cúng dường, đọc tụng Kinh điển, niệm danh hiệu chư Phật, chư Bồ-Tát. Với những thiện duyên này sẽ có năng lực giúp người chết thoát ly các đường ác, hết thảy Ma, Quỷ, Thần đều lùi bước và biến mất”. – Người niệm danh hiệu của chư Phật, của Bồ-Tát làm cho hết thảy Ma, Quỷ, Thần đều lùi bước và biến mất mà đức Phật đã dạy như trong Kinh điển ghi; đấy là “Lời vàng Ý ngọc”, sao có thể hồ nghi?

Lại như trong “Hiện Thế Lợi Ích Hòa Tán” ghi:

 

“Người niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật,

Được Phạm thiên(3), Đế Thích(4)vui quy kỉnh,

Bao nhiêu chư Thiên, tất cả thiện Thần,

Hết lòng bảo hộ suốt trọn ngày đêm.

Người niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật,

Bốn vị Đại Thiên Vương(5) đều chung sức,

Hết lòng bảo hộ suốt trọn ngày đêm,

Ác Quỷ bốn phương chẳng dám đến gần.

Người niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật,

Thần Kiên Lao Địa Kỳ(6) cũng tôn kỉnh,

Như bóng theo hình không phút xa lìa,

Hết lòng bảo hộ suốt trọn ngày đêm.

Người niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật,

Hai anh em Nan-Đà, Bạt-Nan-Đà(7),

Với vô lượng Thần Rồng đều tôn kỉnh,

Hết lòng bảo hộ suốt trọn ngày đêm.

Người niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật,

Vua Viêm Ma(8) Địa Ngục lửa thứ sáu,

Thần khuất mặt Năm đường(9)đều chung sức,

Hết lòng bảo hộ suốt trọn ngày đêm.

Người niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật,

Đại Ma Vương trời Tha-Hóa tự – tại(10)

Cũng đến trước đức Phật Thích-Ca Văn,

Phát thệ nguyện ngày đêm thường bảo vệ.

Các Thần trời và Thần đất vừa kể,

Đều có thể gọi là Quỷ Thần thiện,

Những Quỷ Thần thiện ấy đều chung sức,

Suốt ngày đêm bảo hộ người niệm Phật.

Tín tâm, nguyện lực không thể nghĩ bàn,

Chính đấy cũng là tâm Đại Bồ-đề,

Bao nhiêu Quỷ Thần ác trong trời đất,

Hết thảy cùng cung kỉnh và khuất phục.

Người niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật,

Và niệm Bồ-Tát Quán Âm, Thế Chí,

Thì được vô lượng vô số Bồ-Tát,

Như bóng theo hình ngày đêm bảo hộ”.

Ngôn ngữ chuyển tải trong Kinh Luận, chữ nào cũng đều biểu thị uy – thần của sáu chữ “Nam-mô A-Di-Đà Phật”, câu nào cũng phô diễn công đức vĩ đại của danh hiệu ấy, toàn bộ ý nghĩa đó được lưu xuất từ Trí tuệ của chư Tổ, chư Phật. Là Đệ tử của đức Phật, hẳn nhiên phải tin sâu lời đức Phật dạy, gạt bỏ những lời tà kiến, nếu Phật tử mà không tin đức Phật thì tin ai?

Nguyện rằng, những tháng năm sắp đến, với tấm lòng chân thành, tôi(11) sẽ trợ niệm cho mọi người tối thiểu cũng không dưới một ngàn lần. Thông thường, tôi thấy những người chuyên lo việc an táng, họ vì kế sinh nhai mà tìm cầu tài lợi, vì thế chẳng ngại đêm khuya tăm tối, chẳng quản mưa sa gió táp, chẳng ngại người chết nơi nào, chỉ cần biết tin tức là tức khắc đến đấy không chút chậm trễ, không chút ngại ngùng; bởi lẽ, họ sợ rằng, nếu chậm bước sẽ có người khác đến nhận trước. Thậm chí họ còn nhận lãnh những việc như tắm rửa, thay y phục, nhập liệm người lâm chung và cả việc khiêng hòm mà nét mặt vẫn vui vẻ, tinh thần vẫn hân hoan. Vì sao họ vui như vậy? – Vì sẽ có tiền! Lại nữa, tôi cũng thường thấy những người đến đám ma để tụng Kinh, họ hướng dẫn quyến thuộc đến trước bàn Hương linh người quá cố, rồi đánh chuông gõ mõ tụng, xướng; sau đó nhận tiền, lễ của gia chủ mà không một chút uý kỵ, tàm quý. Riêng đối với các Liên hữu trợ niệm cho người lâm chung, thì không bao giờ nhận tiền của gia chủ; bởi lẽ, họ là những người phát tâm Bồ-đề cùng với hiếu quyến vì người lâm chung mà niệm danh hiệu của đức Phật, cầu nguyện cho đương sự được vãng sanh, chứ không vì mưu lợi. Đa phần những người chuyên lo lễ tang là những người không học Phật pháp, không cầu giải thoát, họ tụng Kinh chỉ vì lợi lộc chứ chẳng nghiên cứu giáo nghĩa niệm Phật (Tịnh Độ). Người đời vì cầu cái lợi nhỏ nhoi như đầu con ruồi, mà trong tâm chẳng có một chút Phật pháp nên chẳng sợ những việc úy kỵ, phi Đạo đức; còn người tu theo Pháp môn niệm Phật vì cầu lợi lộc vĩ đại vô thượng, trong tâm luôn hiện hữu Phật pháp nên sẵn sàng từ chối những việc úy kỵ, phi Đạo đức, đấy chẳng phải là điều lạ thường hay sao!

VII. Hỏi: Có người nói: “Trợ niệm cho người lâm chung giúp họ được vãng sanh Cực Lạc, thì người trợ niệm phải gánh lấy những nghiệp chướng đang còn của người đó”, câu nói ấy chính xác không?

Đáp: Câu nói ấy rất sai lầm! Chẳng biết gì về Phật pháp mà mù mờ nói càn, chẳng hiểu gì về Nhân quả mà điên đảo nói bậy. Theo nguyên lý Nhân quả, người làm Thiện sẽ gặp quả báo Lành, người làm Ác sẽ gặp quả báo Dữ, Nhân như vậy thì Quả như vậy, tại sao lại có lý lẽ tạo Nhân thiện mà gặp Quả báo ác? Hơn nữa, sự báo ứng của Nhân quả thì người nào làm người ấy chịu, thân thiết như tình Cha Con cũng không thể chịu thay cho nhau được, tương tự như người nào ăn thì người ấy no bụng vậy. Các đấng Như Lai là các bậc Đại từ Đại bi xem tất cả chúng sanh như “con một”, quên thân mạng cứu độ hết thảy chúng sanh, xem đây là trách nhiệm chính. Nhưng trái lại, mọi người chẳng tin Phật pháp, không Bái sám, không niệm Phật, không Tu hành, như vậy, làm sao nghiệp chướng tiêu trừ, thoát khỏi hoạn hạn?

Trong kinh Lăng Nghiêm ghi rằng: “Tỷ-kheo ni Bồ-Tát Bảo Liên Hoa lén lút làm chuyện dâm dục, rồi nói bậy rằng: “Hành dâm chứ đâu phải sát sanh, trộm cướp mà có quả báo?”. Vừa nói xong, trước hết phần sinh dục của cô phát lửa lớn, kế tiếp tay chân thân hình của cô bị thiêu cháy và bị đọa vào Địa Ngục Vô gián”. Lại nữa, kinh Sư Tử Nguyệt Phật Bổn Sanh ghi rằng: “Tỷ-kheo ni Liên Hoa thường liên hệ với nhiều thành phần như Vua, Quan, Trưởng giả, Cư sĩ… kết làm bè bạn thân thiết, để rồi rơi vào cuộc sống bợ đỡ, nịnh hót tà mạng, quên mất hành trì Giới luật, vì nhân duyên ấy sau khi chết, đọa vào đại Địa Ngục A-Tỳ”.

Thời đức Phật tại thế, những Đệ tử xuất gia theo Ngài tu học, lỡ tạo tội ác phải bị quả báo là đọa vào Địa Ngục, huống gì là kẻ phàm phu há có thể gánh chịu tội chướng của người khác được sao! Riêng những người trợ niệm hoàn toàn không gánh chịu nghiệp chướng đang còn của người lâm chung, đấy là chưa nói quả báo tốt đẹp của những người phát nguyện trợ niệm cho kẻ khác vậy .
—————————————

[1] Trung ấm: Còn gọi là “Trung hữu”. Là thân trung gian (Trung) sau khi chết và trước khi sanh về một trong sáu đường (Lục đạo). Thân ấy vẫn có đủ Năm ấm (ấm) hay Năm uẩn (sắc – thọ – tưởng – hành và thức).

[2] Trời Hóa-tự-tại: Còn gọi là Trời Hóa lạc. Là cõi trời thứ năm thuộc Lục Dục thiên kể dưới lên.

[3] – Phạm Thiên: Chỉ chung Chư Thiên ở Sơ Thiền Sắc Giới. Thông thường, chỉ vị Đại Phạm thiên Vương, là vị rất tin Phật pháp và khi có một đức Phật ra đời là đến cầu thỉnh Ngài chuyển Pháp luân.

[4] – Đế Thích: Vua cõi trời Đao Lợi, là cõi thứ 2 trong 6 cõi trời Dục giới.

[5] – Bốn vị Đại Thiên Vương (Tứ đại thiên vương): Bốn vị vua trời ở 4 châu xung quanh núi Tu-di, là ngoại tướng của Đế Thích, là cõi trời thứ nhất trong sáu cõi trời Dục giới.

[6] Thần Kiên Lao Địa Kỳ: Còn gọi là Kiên Lao Địa Thần, Kiên Lao Địa Thiên, là tên của nữ thần Đại Địa.

[7] – Nan-Đà, Bạt-Nan-Đà: Tên hai anh em Vua rồng.

[8] – Vua Viêm Ma: Vua của địa ngục cực nóng thứ 6, một trong 8 đại địa ngục cực nóng.

[9] – Thần khuất mặt năm đường: Các vị Quỷ Thần mà con người không thấy được trong 5 đường, đó là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A-tu-la, Trời.

[10] – Đại Ma Vương trời Tha Hóa tự tại: Là Ma Vương làm chủ cõi trời thứ 6 – Trời Tha Hóa tự tại, là vị luôn phá hoại Phật pháp

[11] Tôi: Là Pháp Sư Tín Nguyện, vị trích thuật quyển này.

PHỤ BẢN

LƯỢC TRÍCH PHÁP NGỮ

CỦA ĐẠI SƯ ẤN QUANG(1)

          I/ TÁN THÁN PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ LÀ TỐI THẮNG.

Vĩ đại thay, giáo nghĩa Pháp môn Tịnh Độ! Siêu việt cả Pháp “Đốn Tu”, là Pháp chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật; và thù thắng hơn cả Pháp “Tiệm Tu”, là Pháp tu tập nhiều đời mới thành Phật. Giáo nghĩa Tịnh Độ xiển dương: “Chính ý nghĩ (niệm) nghĩ Phật, chính ý nghĩ thành Phật”. Đây là Pháp tu thích ứng cả ba hạng Thượng căn, Trung căn, Hạ căn; thâu nhiếp hết thảy các Tông phái như Thiền, Luật, Thiên Thai, Hoa Nghiêm.v.v. Tương tự như cơn mưa thấm ướt cả vạn vật, hay như đại dương đón nhận nguồn nước của cả ngàn vạn con sông. Tất cả Pháp tu như Thiên, Viên, Đốn, Tiệm(2) không Pháp nào không phát xuất từ Pháp tu Tịnh Độ; hết thảy phương pháp độ sanh như Quyền, Thật, Đại, Tiểu(3) không Pháp nào không quy về Pháp môn Tịnh Độ. Chưa đoạn tận hoặc-nghiệp(4)mà vẫn được dự vào hàng Bổ-Xứ(5), tức chỉ còn một đời này là viên mãn quả vị Giải Thoát. Chín cõi(6) chúng sanh lìa Pháp Tịnh Độ thì không thể hướng Thượng để tu tập viên mãn cứu cánh Phật Đà, và mười phương chư Phật không sử dụng Pháp Tịnh Độ thì không thể hướng Hạ để đem lợi lạc cho chúng sanh.

Pháp môn Tịnh Độ vĩ đại vô biên, bao gồm hết thảy Phật pháp cả ba thời kỳ đầu-giữa-cuối; thích ứng cả ba hạng Thượng căn, Trung căn, Hạ căn. Tu tập dễ dàng đơn giản mà thành tựu cao sâu, dùng năng lực tối thiểu mà đạt kết quả mau chóng, chỉ trong đời này chắc chắn sẽ thoát ly sanh tử, không cần phải trải qua nhiều kiếp mới chứng Pháp thân(7). Đây là Pháp môn đặc biệt trong 49 năm hoằng hoá của đức Như Lai, là Đạo lý trọng yếu trong tất cả Pháp môn tu, để giúp chúng sanh thoát khổ nhờ nương vào Từ bi lực của đức Phật A-Di-Đà. Nếu tu tập chỉ nương vào Tự lực thì lợi ích của Pháp tu này so với Pháp tu Tịnh Độ, xa cách nhau như trời và vực; bởi lẽ, người lâm chung sắp đọa vào địa ngục A-Tỳ mà chỉ niệm Mười niệm liền được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc; cho đến, những vị đã chứng Đẳng Giác vẫn phát nguyện vãng sanh về Tịnh Độ Cực Lạc. Thế nên, cần ghi nhận rằng, hết thảy chư Phật trong mười phương đều nương vào Pháp môn Tịnh Độ này, trên hết là để viên mãn quả vị Phật-Đà, dưới là để hoá độ tất cả chúng sanh; đây là Pháp môn nắm giữ sự thành tựu cả Thượng lẫn Hạ, cả Thỉ lẫn Chung vậy.
———————————-

[1] Tập sách này do các Đệ tử của Đại Sư Ấn Quang lược trích nhân lễ lạc thành Tu Viện và Bảo Tháp của Ngài vào ngày 19-09-1947 (Đinh Hợi). Do Đài Trung Liên Xã ấn hành.

[2] Thiên, Viên, Đốn, Tiệm: Bốn pháp tu, bốn cách tu. Thiên: Cách tu lệch về một bên. Viên: Cách tu trọn vẹn, viên mãn. Đốn: Cách tu chóng đạt Đạo. Tiệm: Cách tu dần dần mới đạt Đạo.

[3] Quyền, Thật, Đại, Tiểu: Bốn cách giáo hoá. Quyền: Cách phương tiện. Thật: Cách cứu cánh. Đại: Cách rộng sâu. Tiểu: Cách hạn hẹp.

[4] Hoặc Nghiệp: Những phiền não như  tham, sân, si…gọi là Hoặc. Các hành động thiện ác nương vào tham, sân, si… để thực hiện gọi là Nghiệp.

[5] Bổ-Xứ: Nói đủ là “Nhất Sanh Bổ Xứ”, tức đời kế tiếp sẽ thành Phật.

[6] Chín cõi(cửu giới): Gồm ba cõi Thánh, là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát; và sáu cõi Phàm là Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Tu La, Người, Trời.

[7] Pháp Thân:Thật thân của Đại Bồ Tát và chư Phật.

II/ KHUYÊN BẢO CHÂN THÀNH THA THIẾT VỀ TÍN, NGUYỆN.

          

Phải chăng chúng ta là những Người chân thật! – Thế thì, được nghe Pháp môn Tịnh Độ cần tin rằng, thế giới Ta-Bà là cực Khổ còn thế giới Tây Phương là cực Lạc; tin rằng, trải qua nhiều kiếp đến nay nghiệp chướng của chúng ta quá sâu nặng, nếu không nương nhờ Phật lực thì rất khó đoạn trừ; tin rằng , cầu nguyện vãng sanh Tây Phương thì chắc chắn vãng sanh; tin rằng, niệm Phật thì hẳn nhiên sẽ được đức Phật từ bi tiếp dẫn. Do vậy cần ổn định tâm lý một cách kiên cố để nhất tâm nguyện cầu thoát ly thế giới Ta-Bà, như kẻ tù tội mong cầu sớm ra khỏi lao ngục, tuyệt đối không nên khởi lên một niệm luyến tiếc; nguyện cầu vãng sanh Tây Phương như kẻ lữ khách ước vọng mau được trở về cố hương; vì vậy, nên hết lòng vui mừng để thực hiện. Qua đó, cần tuỳ theo chức phận và năng lực để chí tâm trì niệm Thánh hiệu đức Phật A-Di-Đà, không kể là niệm lớn tiếng hay niệm thầm, không kể khi tiếp khách, khi tiệc tùng, hoặc khi đang mặc quần áo, uống ăn v.v… thận trọng làm sao để Phật không bao giờ lìa Tâm hay Tâm không bao giờ lìa Phật.

Chúng ta cần hiểu rõ diệu dụng của thế giới Cực Lạc để đừng cho rằng, những kẻ phàm phu kể cả các vị Thánh nhân Tiểu thừa không thể vãng sanh về Cực Lạc,  vì Cực Lạc là cảnh giới  bất tư nghị của Đại thừa. Thật ra, nếu chư Thánh Tiểu thừa chuyển tâm hướng về Đại thừa thì vẫn được vãng sanh; còn những kẻ phàm phu nếu không có Tín và Nguyện để giao cảm đến đức Phật, thì cho dù tu tập hết thảy các Pháp và trì niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà, với công phu rất thù thắng (Hạnh) cũng không thể vãng sanh được; do vậy, yếu tố Tín và Nguyện rất cấp thiết và trọng yếu. Ngài Ngẩu Ích dạy rằng: “Được hay không được vãng sanh hoàn toàn là do có hay không có Tín, Nguyện; chứng phẩm cao hay thấp trong chín phẩm hoàn toàn là do trì niệm danh hiệu đức Phật Sâu hay Cạn. Sự chính xác này giả như hàng ngàn đức Phật ra đời cũng không thể thay đổi; do vậy, người nào tin tưởng thì sẽ có phần ở thế giới Cực Lạc và sẽ đạt hiệu quả như ý”.

III/GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT.

Đề cập đến vấn đề niệm Phật-thông thường, khi niệm Phật tâm hay bị vọng động, tán loạn; vì vậy,cần phải nhiếp tâm tha thiết niệm Phật thì sự định tâm sẽ được dễ dàng. Vấn đề tiên quyết của sự nhiếp tâm là phải “chí thành khẩn thiết” để niệm Phật, nếu tâm không chí thành mà mong cầu tâm đừng tán loạn là điều không có cơ sở. Trường hợp khi tâm đã chí thành nhưng vẫn chưa được thuần nhất thì cần chú tâm vào việc lắng nghe. Dù niệm lớn tiếng hay mật niệm… tất cả sự niệm ấy phải được phát xuất từ tâm, rồi âm thanh phát xuất từ miệng, âm thanh này lại từ tai đi vào tâm; tức là, “Tâm – Miệng – Sự Niệm” phải được minh bạch rõ ràng, Tai Nghe phải được minh bạch rõ ràng, với sự nhiếp tâm như vậy thì vọng niệm hẳn nhiên vắng bóng. Giả như bất chợt vọng niệm khởi lên thì đếm (ghi nhớ) câu niệm Phật tuần tự từ số Một đến số Mười, nhờ đó mà năng lực của tâm sẽ gắn vào từng câu niệm Phật, dù vọng niệm muốn khởi lên cũng không có cơ hội để khởi. Đây chính là phương pháp vi diệu và rốt ráo để nhiếp tâm niệm Phật mà thời xưa khi hoằng dương Tịnh Độ chư Tổ chưa đề cập đến; bởi lẽ, hầu hết mọi người thời ấy đều có sẵn lợi căn không cần sử dụng phương pháp này mà tâm vẫn định tĩnh. Thời đại này, tâm của chúng ta rất khó điều phục nên tôi mới giới thiệu phương pháp vi diệu này để cùng thực nghiệm, chứ không phải do tôi tuỳ tiện đặt ra, rất mong mọi người căn cơ không được lanh lợi trong hiện tại và mai sau đều được thừa hưởng phương pháp này để vạn người tu là vạn người được vãng sanh. Trở lại vấn đề đếm câu niệm Phật tuần tự từ số Một đến số Mười nghĩa là, trong khi niệm Phật, xong câu đầu tiên thì đếm Một, tuần tự đếm như thế đến câu số Mười, mỗi câu cần phải ghi nhớ rõ ràng, không lẫn lộn; khi đã đếm xong câu số Mười thì trở lại đếm từ Một đến Mười chứ đừng đếm đến 20, 30. Chỉ nên theo dõi từng chữ, từng câu để đếm bằng Tâm chứ không nên dùng tràng hạt. Trong trường hợp một hơi thở không niệm đủ Mười câu thì chia làm hai phần, hơi đầu niệm từ câu số Một đến câu số Năm, hơi kế niệm từ câu số Sáu đến câu số Mười. Giả như vẫn còn thiếu hơi thì chia làm ba phần, hơi đầu niệm từ câu số Một đến câu số Ba, hơi kế niệm từ câu số Bốn đến câu số Sáu, hơi tiếp theo niệm từ câu số Bảy đến câu số Mười. Tóm lại, với sự Niệm Phật minh bạch rõ ràng, Đếm số minh bạch rõ ràng và Tai nghe minh bạch rõ ràng, thì vọng niệm sẽ không có căn cứ để sinh khởi; cứ thực hiện nghiêm túc như thế dần dần sẽ đạt “Nhất Tâm Bất Loạn”.

IV/ BÌNH GIẢI CÁC PHÁP MÔN TU TẬP.          

          Tâm tánh chúng ta vốn tương đồng với tâm tánh chư Phật, nhưng bởi chúng ta mê lầm đã quay lưng với tâm tánh ấy để mãi bị luân hồi sanh tử không biết bao giờ chấm dứt. Đức Như Lai từ mẫn xót thương trước cảnh tử sanh đau khổ triền miên đó, nên đã tuỳ theo mỗi căn cơ chúng sanh để giáo hoá, nhằm giúp tất cả mọi sanh linh thấy rõ con đường mà quay về cố hương của mình, Pháp môn tu tập thì rất nhiều, song trọng yếu thì chỉ có hai Pháp, đó là Thiền và Tịnh giúp Hành giả thoát ly sanh tử dễ dàng. Pháp tu Thiền Định chỉ dùng Tự lực còn Tịnh Độ thì kiêm thêm Phật lực, hai Pháp tu này tương hệ với nhau. Xét về Pháp tu Tịnh Độ thì rất khế hợp với mọi căn cơ, tương tự như có người muốn qua sông mà dùng đến tàu thuyền, thì sẽ đến bờ bên kia một cách nhanh chóng và bình an vô sự. Con người trong thời đại Mạt pháp này duy nhất chỉ có thể tu tập Pháp môn Tịnh Độ là thích ứng với căn cơ, còn các Pháp tu khác thì rất khổ nhọc mà khó thành tựu Đạo quả. Thế nên, hãy phát tâm Đại Bồ-đề, khởi Tín-Nguyện một cách chân thành kiên cố và duy nhất niệm Phật, niệm đến chỗ không còn dụng công, tức đạt đến trạng thái “Niệm mà Vô Niệm”. Đây là thời điểm mà diệu-nghĩa Thiền, Giáo(1) hiện hữu viên mãn, đến khi lâm chung sẽ được đức Phật tiếp dẫn vãng sanh thăng toà “Thượng phẩm, chứng Vô Sanh Nhẫn(2)”. Với bí quyết tu tập chính yếu này, xin cung kính và chân thành giới thiệu đến quý vị: “Diệu-Diệu-Diệu-Diệu”!.

Các Tông phái như Luật, Thiên Thai, Duy Thức hay Thiền v.v… khi bắt đầu tu tập phải nghiên cứu học hỏi một cách sâu sắc về sự-lý giáo nghĩa của Tông phái mình, sau đó nương tựa vào đấy để tu tập. Trải qua thời gian tu tập dài lâu khi có công đức sâu dày mới đoạn tận được lậu-hoặc, thoát khỏi sanh tử luân hồi, chứng đạt Chân Như (Niết-Bàn). Giả như không thông hiểu nghĩa lý thì sự tu tập sẽ rơi vào mù mờ lệch lạc, nếu không chấp kết quả tu tập yếu kém ấy cho là viên mãn thì cũng ngông nghênh điên loạn (tẩu hoả nhập ma). Trường hợp thông hiểu giáo nghĩa minh bạch, công đức tu tập thâm sâu thì lậu hoặc sẽ được đoạn trừ, nhưng nếu lậu hoặc vẫn còn sót lại chút ít, thì vẫn chưa thể thoát ly khổ hải luân hồi, phải đợi đến khi lậu hoặc hoàn toàn đoạn tận rốt ráo mới ra khỏi sanh tử. Như thế, để đạt được địa vị Phật-Đà phải mất một thời gian rất dài lâu và phải trải qua nhiều kiếp tinh tấn tu tập mới đạt kết quả viên mãn. Xét về Pháp môn niệm Phật thì không nhất thiết phải thông hiểu  giáo lý, không đòi hỏi phải đoạn tận lậu hoặc mà chỉ cần thực hiện đầy đủ Tín-Nguyện và Trì danh (Hạnh) để cầu sanh Tịnh Độ, thì khi lâm chung sẽ được đức Phật A-Di-Đà trực tiếp đến tiếp dẫn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Về đến Cực Lạc sẽ được thấy Phật, nghe Pháp, chứng Vô Sanh Nhẫn và đời kế tiếp sẽ được thành tựu quả vị Phật-Đà.
—————————-

[1] Thiền, Giáo: Giáo lý đạo Phật gồm hai loại, đó là Mật giáo và Hiển giáo. Hiển giáo lại chia hai thứ , đó là Thiền và Giáo, Thiền là Thiền Tông, còn Giáo gồm Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Duy Thức Tông v.v…

[2] Vô Sanh Nhẫn: An trú vào thực tại vô sanh-vô diệt của các pháp một cách tự tại vô ngại. Theo Đại Thừa Nghĩa Chương quyển 12, Bồ-Tát Long Thọ bảo: “Từ Sơ Địa trở lên cũng được gọi là Vô Sanh”. Theo kinh Địa Trì: “Vô Sanh là Địa thứ  7, Địa thứ 8 và Địa thứ  9”.

 

V/ KHUYÊN CỐ GẮNG AN TRÚ VÀO TÂM CHÂN THÀNH VÀ TÂM CUNG KỈNH.

Đi vào đạo Phật thì có nhiều cửa, nhưng người có lập trường muốn đi đến cùng đích thì ban đầu phải có một cửa nhất định, đó là cửa Chân-Thành và Cung-Kỉnh. Hai tâm lý này dù hết thảy chư Phật ra đời đến cùng tận thời đại vị lai cũng không thể thay đổi. Chúng ta vốn là những người nằm trong phạm vi phàm phu, muốn đoạn trừ gấp những nghiệp chướng lâu đời để sớm chứng đạt Vô Sanh Nhẫn, mà không dụng công đúng đắn như thế thì tương tự như cây không có rễ mà muốn tốt tươi, như chim không có cánh mà muốn bay cao, điều này không bao giờ xảy ra.

Muốn được lợi ích thiết thực của Phật pháp, hẳn nhiên phải sống với tâm Chân thành, Cung kỉnh; Nếu Chân thành, Cung kỉnh một phần thì được tiêu trừ một phần tội nghiệp, tăng trưởng một phần phước đức trí tuệ; Chân thành, Cung kỉnh mười phần thì được tiêu trừ mười phần tội nghiệp, tăng trưởng mười phần phước đức trí tuệ. Trường hợp không có tâm Chân thành Cung kỉnh mà lại có thái độ khinh mạn ngông cuồng thì sẽ làm tội nghiệp của mình càng nặng thêm, phước đức trí tuệ càng hao tổn.

Thời xưa, các vị tu tập đều chứng Đạo; bây giờ, người tu tập ít ai được “Minh tâm kiến tánh”, điều này phải chăng căn cơ bất đồng hay do thái độ người xưa thì Chân thành Cung kỉnh, còn người bây giờ thì khinh mạn ngông cuồng? Nếu đọc các sách ghi lại các hành trạng của chư vị Tổ Sư thì chúng ta sẽ thấy rằng, bất cứ vị nào khi thấy Kinh điển hay Tượng, Ảnh của chư Bồ-Tát, chư Phật thì như được thấy chư Bồ-Tát, chư Phật đang sống. Sự Cung kỉnh tôn trọng di tích này dù kẻ trung thần phụng thờ Thánh Chúa hay người đại hiếu đọc di chúc của Cha Mẹ cũng chỉ gần giống một vài phần mà thôi. Bởi lẽ, sự Cung kỉnh Kinh, Tượng tuyệt đối như thế sẽ là nhân duyên để đoạn trừ lậu hoặc, chứng đạt Niết Bàn, siêu Phàm nhập Thánh. Chúng ta không thấy thái độ Cung kỉnh Chân thành cầu Đạo mà kham nhẫn đứng giữa trời tuyết suốt mấy ngày đêm của nhị Tổ Huệ Khả(1) đấy sao! Trái lại, người tu hành thời nay khi thấy tượng Bồ-Tát, tượng Phật như thấy gỗ, thấy xi măng; khi thấy những Kinh điển như thấy những sách vở cũ kỹ, giả như có chút Tín tâm đọc tụng tu hành thì cũng chỉ là “đầu môi chót lưỡi”. Thế thì, làm sao có kết quả lợi ích thiết thực được! Với sự kiện gây nhân không Cung kỉnh Kinh, Tượng này xem có vẻ thông thường, nhưng mang tội khinh mạn rất lớn khó có thể nghĩ suy được.

 

[1]  Huệ Khả: Vị Tổ thứ hai của Thiền Tông Trung Hoa.

VI/ LUẬN GIẢI VỀ SỰ-LÝ NHÂN QUẢ.

Nhân quả là Đạo lý mà các bậc Thánh nhân trong thế gian và xuất thế gian đã sử dụng làm cho thế giới hòa bình và cứu vớt mọi chúng sanh. Nếu không có Đạo lý Nhân quả thì sẽ không có cơ sở để khích lệ người làm Thiện, răn đe người làm Ác; đồng thời làm sao để xiển dương giá trị Đạo Đức để hướng đến Chân Thiện, nhằm đoạn tận phiền não lậu hoặc chứng ngộ Bồ-đề! Do mọi người đều biết có Nhân quả, nên ai cũng hướng về sự Hiền thiện, xa lánh sự Xấu ác, bằng cách chế ngự dục vọng của mình để sống theo Đạo đức, nghĩa là hoán cải điều tội lỗi, thực hiện việc tốt lành, ngăn chặn điều tà kiến, bảo vệ việc chân thật, để hy vọng được sống trong phạm vi của Hiền Thánh, đến kỳ hạn được sanh về Tịnh Độ Cực Lạc. Trong những người bỏ Ác làm Lành cầu sanh Cực Lạc này có ba hạng, hạng Thượng căn thì an nhiên tu tập, hạng Trung căn thì vì lợi lạc mà tu tập, hạng Hạ căn thì tu tập một cách miễn cưỡng; dù vậy, tất cả đều đi tìm Chân lý để Lương tri (Phật Tánh) hiển hiện, nhằm thoát khỏi bờ Mê trở về bến Giác.

Với sự vận hành Nhân quả của thế giới hiện nay, chúng ta gặp phải vô số tai họa, điều đó là do chúng ta gây những Ác nghiệp trong quá khứ, nên hiện tại chiêu cảm Quả khổ xuất hiện. Đã biết Quả khổ mà chúng ta đang chịu là do chính chúng ta đã tạo các Nhân ác độc trong quá khứ, giờ đây muốn thoát khỏi Quả khổ, điều cần làm là phải trừ diệt các Nhân ác độc mà chúng ta đã tạo trong quá khứ – hành động Sám hối, niệm Phật chính là phương pháp thích ứng để trừ diệt các Nhân ác độc ấy. Nếu hiện tại không tái phạm gây các Nhân ác độc nữa, thì chắc chắn trong tương lai sẽ không chịu Quả khổ. Vậy, Nhân của Khổ là gì? – Đó là Tam độc Tham-Sân-Si. Còn, Nhân của Thiện là thế nào? – Đó là những hành động Hiền thiện đem lại lợi ích cho mọi người, mọi loài. Giả như mọi người ai cũng thông hiểu sự thật của Đạo lý Nhân quả thì sẽ không làm các điều ác siêng làm các việc lành; song, hiện giờ thì ngược lại, ai cũng vị kỷ đầy lòng, nên không có điều ác nào không làm, sống chỉ biết bản thân chứ chẳng hề đoái hoài đến người khác. Há sao không chịu hiểu: “Làm lợi người chính là làm lợi bản thân, làm hại người chính là làm hại tự thân”!

VII/ GIẢI RÕ ĐIỂM TRỌNG YẾU CỦA SỰ GIỮ GIỚI.

Cảm thương thay cho chúng sanh! – Kể từ vô thỉ cho đến ngày nay vẫn mãi bị luân hồi trong Tứ sanh(1); Lục đạo; không có Ai cứu giúp, không có Chỗ trở về, không có Nơi nương tựa, không có Người để cậy trông, như Con côi mất Cha, kẻ Bần cùng mất gia sản v.v… Tổng quát để nói, hiện tượng này là do những nguyên nhân mà chúng sanh đã tạo các Ác nghiệp, nên chiêu cảm quả khổ là bị sanh tử luân hồi, chúng sanh vốn vô minh chẳng có trí tuệ nên không thể thoát ly sự luân hồi ấy được. Đấng Đại Giác Thế Tôn vì thương xót chúng sanh, nên Ngài đã xuất hiện thế gian để thuyết Pháp cứu độ, khích lệ họ thọ Tam quy là điểm căn bản để bỏ Tà theo Chánh, khích lệ họ giữ Năm giới là căn nguyên để chấm dứt điều Ác tu tập việc Thiện, khích lệ họ thực hiện Thập thiện là cốt lõi để giúp Ba nghiệp Thân-Miệng-Ý thanh tịnh, từ đây sống theo đường hướng: “Không làm các điều Ác, siêng làm các việc Lành”. Khi Ba nghiệp được thanh tịnh, bây giờ mới có thể nương theo các Pháp khác để tu tập nhằm xa lìa Trần cảnh, thích ứng bến Giác, chuyển địa vị Phàm phu thành quả vị Thánh Hiền, đoạn trừ cội rễ phiền não là Tam độc Tham-Sân-Si, hình thành đại Đạo Bồ-đề là Tam học Giới-Định-Tuệ. Đấy là lý do mà đấng Thế Tôn đã thuyết giảng vô lượng Pháp môn, như Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo v.v… Hơn nữa, vì muốn chúng sanh thoát ly sanh tử, mau chứng đạt quả vị Phật Đà, nên Ngài đã đặc biệt giảng giải Pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật cầu nguyện vãng sanh, nhằm trợ duyên họ ít tốn công phu mà thành đạt viên mãn.

Tam quy và Năm giới là Giới pháp đầu tiên mà khi bước vào ngưỡng cửa đạo Phật cần phải thọ lãnh để hành trì, sau đó nếu phát tâm tu tập thêm các Pháp khác thì cũng nương vào đây làm cơ sở, huống gì là tu Pháp môn Tịnh Độ, là Pháp bất khả tư nghì, Pháp rất viên mãn và mau chứng đạt, nhưng lại rất dễ dàng và đơn giản để thoát ly sanh tử ngay trong đời này. Nếu không chế ngự Ba nghiệp, không hành trì Năm giới thì sẽ không có căn cứ để trở lại làm Người, huống chi là mong cầu được hóa sanh ngồi tòa hoa sen với sắc thân đủ mọi tướng tốt, hào quang rực rỡ v.v…

[1] Tứ  Sanh: Đó là thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hoá sanh.

VIII/ GIẢI THÍCH Ý NGHĨA GIỚI SÁT SANH.

“Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật”. Bất cứ chúng sanh nào trong thời quá khứ ít nhất đã một lần hoặc là Cha hay là Mẹ của chúng ta, và tương lai họ sẽ là những vị Phật, nếu tìm mọi cách để cứu giúp họ cũng không thể cứu hết, thế thì tại sao vì một chút khoái khẩu của ba tấc lưỡi mà cam tâm sát hại thân mạng Cha Mẹ của chúng ta? Chúng ta nên hiểu rằng, tất cả loài động vật dù lớn hay nhỏ, ở trên đất hay ở dưới nước, ở trong hư không hay ở chỗ khuất kín đều có tánh linh sáng suốt như chúng ta, chỉ vì nghiệp chướng của chúng trong quá khứ quá sâu dày nên kết quả mang vô số thân hình sai khác và không thể nói năng được. Cứ nhìn vào tâm lý tham sống sợ chết của chúng thì đủ rõ không khác gì tâm lý của con người. Chúng ta may mắn thừa hưởng phước đức đời trước nên được sanh vào loài người có đủ tư duy và trí thức, thích hợp tình-nghĩa với Cha là Trời, với Mẹ là Đất và thương yêu mọi người mọi vật để không trái ngược với ý nghĩa Tam tài “Trời-Đất-Người”, hầu dự vào vòng chuyển hoá sinh tồn của Trời-Đất, giúp mọi người, mọi vật đều được Trời che Đất chở, đều được hạnh phúc suốt đời. Giả như con người không tiếp nạp cái Đức hiếu sinh của Trời Đất mà tự mình phóng túng với thái độ hung ác tham ăn háu uống, bằng cách dùng sức mạnh xâm phạm đến mạng sống các con vật yếu đuối để ăn nhậu xác thịt của chúng cho thoả thích cái miệng, cái bụng của mình. Cứ thế đến khi phước xưa đã hết, nghiệp sát xuất hiện trước mắt dẫn sang đời khác để trả nợ máu huyết, khi ấy dù muốn sống thêm để tiếp tục ăn nhậu cũng chẳng thể được.

Trong tất cả nghiệp Ác thì nghiệp Sát sanh là tội nặng nhất. Khắp trên thế giới hầu như không có chỗ nào là không có người tạo nghiệp Sát sanh, nghĩa là chưa có người nào suốt đời chưa từng giết hại sinh vật. Ngày nào cũng ăn thịt thì hẳn nhiên ngày nào cũng phải Sát sanh vì không Sát sanh  thì sẽ không có thịt để ăn nhậu. Do đây mà những người đồ tể, những kẻ săn bắt cầm thú, cá tôm.v.v… đều vì cung cấp  nhu cầu ăn nhậu thịt cá cho mọi người mà cả đời vui lòng làm nghề Sát sanh. Vì vậy, vấn đề ăn mặn và ăn chay rất quan trọng; bởi lẽ, đó chính là điểm căn bản để chúng ta siêu sanh về các Thiện xứ hay đọa lạc vào các Ác xứ, và cũng là điểm làm thế giới Hoà bình hay Chiến tranh; Do đó, đây là điểm rất trọng yếu chứ không nên ngộ nhận là điểm vụn vặt. Qua trên, ai là những người yêu thương bản thân chân thật, yêu thương đồng loại trên hoàn cầu chân thật, đang ước vọng được trường thọ hạnh phúc không gặp những tai họa ngoài ý muốn, thì hãy hoan hỷ tiếp nhận Diệu Pháp siêu tuyệt, là “Không Sát sanh và Trường trai” để không gặp lại những hoạn nạn hoặc do Trời hay do Người nữa!

IX/ LÀM SÁNG TỎ ĐẠO LÝ LUÂN THƯỜNG.

Trên thế gian này không thể có hai Đạo lý; Thánh, Phàm cũng không thể có hai Tâm; bằng chứng là, từ xưa đến nay trong nước cũng như các nước khác không ai là không sử dụng sự-lý: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ. Nhân quả báo ứng và Sanh tử luân hồi làm căn bản để “lập Thân hành Đạo, trị Quốc an Dân”. Các điểm sự-lý tốt đẹp này luôn hiện hữu trong tâm tánh của mọi người, không kể là người Trí hay kẻ Ngu, người Hiền hay kẻ Dữ… tất cả đều sẵn đủ; dù vậy, khi hành hoạt thì có sự mâu thuẫn người làm đúng kẻ làm sai. Đây là kết quả của hai hạng người, hạng ngăn chặn điều tà kiến, bảo lưu điều chân thật, chế ngự dục vọng của mình để sống theo Đạo đức; và hạng tâm ý mê mờ, phóng túng rong ruỗi theo vật dục tiền tài không bao giờ biết chán.

Muốn học Phật, học Tổ thì trước hết phải thọ trì Chánh pháp Thánh Hiền, giả như thực hành Đạo lý luân thường khiếm khuyết, sai lầm thì đã là một tội nhân rồi, làm sao gọi là Đệ tử của đức Phật được? Đạo Phật tuy là Đạo xuất thế, nhưng khi gặp người làm Vua thì giảng về lòng Nhân, gặp người làm Quan thì giảng về lòng Trung, gặp người làm Cha thì giảng về lòng Từ, gặp người làm Con thì giảng về lòng Hiếu…Tức là, tu học từ cấp dưới mới tiến lên cấp trên, từ thô thiển mới đi vào uyên thâm. Nên đọc kỹ quyển “An Sĩ Toàn Thư” thì có thể hiểu rõ điều này.

Vấn đề học Phật, điều cốt yếu trước tiên là phải sống đúng với Đạo lý làm Người, sau đó mới đi vào đạo Phật. Nếu như đối với các điều “Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ” không có điều nào hoàn thiện, thì dù suốt đời tôn sùng đức Phật, Ngài cũng không làm sao cứu hộ được. Vì thế, muốn đi vào đạo Phật để học Pháp xuất thế gian thì phải hoàn thiện bổn phận của mình đối với Pháp thế gian – Đạo lý làm Người vậy!

X/ XIỂN DƯƠNG VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH.

Gia đình hạnh phúc là do ban đầu mọi người trong nhà đều biết sống theo gia phong nghiêm chỉnh; trái lại, gia đình rối loạn cũng do ban đầu mọi người trong nhà sống theo nề nếp suy bại. Do vậy, muốn Con cái trở thành người Đạo đức thì bậc Cha Mẹ phải biết sống đúng với phép tắc gia phong, để Con cái được học tập ngay từ buổi còn non dại, đây là nguyên tắc cố định.

Hiện nay, tình hình trên thế giới rất loạn ly, nguyên nhân cũng xuất phát từ các bậc  Cha Mẹ không biết giáo dục Đạo lý cho Con cái, không biết đem Đạo đức “Nhân, Nghĩa… Nhân quả báo ứng” dạy bảo Con cái. Mà, chỉ biết yêu thương chìu chuộng nuôi dưỡng và dạy bảo một cách máy móc sai lầm; do đó, những đứa trẻ dù có tính bẩm sinh hiền thiện cũng trở thành kẻ xấu xa, ngông cuồng, còn những trẻ vốn có tính bẩm sinh xấu ác lại càng xấu ác ngông cuồng hơn nữa, tức là Con cái đã vượt khỏi lễ nghi chức phận của mình. Hiện trạng này cũng đều do các bậc Cha Mẹ không tận tình dạy bảo Đạo đức tốt cho Con cái ở thuở ban đầu. Đã không có thái độ giáo dục nghiêm túc Con cái, thì chúng sẽ trở thành những kẻ đại bất hiếu và là những con sâu mọt của xã hội. Thế nên, nếu không giáo dục Con cái tốt thì hậu quả tồi tệ không thể tưởng tượng được, đây là điểm rất quan trọng xin nhắn gởi đến tất cả mọi người.

Sở dĩ trong đời ít có người Đạo đức, ít có người Hiền thiện, do bởi không có sự giáo dục tốt trong mỗi gia đình, mà sự giáo dục tốt trong gia đình thì vai trò người Mẹ rất quan trọng; bởi lẽ, khi con người vào tuổi ấu thơ, ngày nào cũng ở cạnh Mẹ, thì sự huân tập những tánh tình tốt đẹp từ sự giáo dục của Mẹ là thuận tiện nhất, cho nên người vợ cần hợp tác với chồng để giáo dục Con cái mới đúng với “thiên chức” của mình. Giả sử trong đời không có người “con gái hiền thục” thì làm sao có được “hiền thê”, “hiền mẫu”? Do thế, có thể bảo rằng: “Giáo dục Con cái tốt đẹp giúp chúng hiểu rõ ba đời Nhân quả, thì đó là điểm căn bản làm cho thế giới hoà bình, mọi người hạnh phúc, và là Đạo lý căn bản trong sáng Chánh chân vậy./.

Lời Kết

Để tiện lợi, chúng tôi rút tỉa các điểm chủ yếu mà chư Tổ đã dạy, nhằm ứng dụng trước, trong và sau khi bệnh nhân lâm chung, để đương sự chắc chắn được Vãng Sanh Cực Lạc Tây Phương.

I ) Về phía người bệnh:

1)      Những gì cần Di chúc thì Di chúc khi còn khoẻ mạnh.

2)      Tâm niệm cần Xả bỏ hết thảy mọi việc trong thế gian, không nên vướng bận một điểm gì để khỏi gây trở ngại cho việc vãng sanh.

3)      Đừng có tư tưởng Sợ chết, vì sợ chết là đánh mất Chánh niệm sẽ không được vãng sanh.

4)      Chỉ thuần tuý niệm Phật chứ không nói gì với bất cứ ai – Trừ việc rất cần thiết (khi còn khoẻ) thì có thể nói với Thị giả (người chăm sóc bên cạnh).

II ) Về phía Đệ tử, môn đồ (Hoặc con cháu, bà con):

1)      Trao đổi với khách đến thăm là không nên hỏi chuyện với người bệnh – Để bệnh nhân tỉnh tâm niệm Phật.

2)      Tán thán công đức tu tập (hay những điểm tốt trong cuộc đời) của bệnh nhân để bệnh nhân khởi tâm hoan hỷ và tin tưởng được vãng sanh (chọn người mà bệnh nhân thương mến để thưa trình).

3)      Niệm Phật trợ duyên theo sở thích của người bệnh – dùng mõ hay khánh cũng vậy… <Nếu hằng ngày bệnh nhân không niệm “Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A-Di-Đà Phật” thì đừng niệm – Vì sẽ gây xáo trộn sự niệm đã quen>.

4)      Treo hình ảnh đức Phật Di-Đà hay hình ảnh Tam Thánh Tây Phương ở phòng bệnh nhân để người bệnh chiêm ngưỡng <Hình ảnh nào mà bệnh nhân thích>.

5)      Trong giờ phút lâm chung cho đến 8 tiếng đồng hồ sau khi hết thở, không được sờ mó thân thể bệnh nhân, không được khóc than hay gây tiếng động mạnh… làm trở ngại vấn đề vãng sanh của bệnh nhân.

6)      Niệm Phật trước và sau khi lâm chung thì chia phiên, trong lúc hấp hối thì tất cả đều niệm – Trợ niệm cho đến 8 tiếng sau khi hết thở thì có thể nghỉ.

7)      Chú tâm giúp bệnh nhân Chánh niệm để niệm Phật cầu vãng sanh là điều tối quan trọng – Mọi việc trong thời gian tang lễ chỉ là nghi thức theo tập quán, ít có lợi ích thiết thực cho việc vãng sanh của bệnh nhân.

III. Kết Luận:

1) Trọng tâm để được vãng sanh Cực Lạc là “Chánh Niệm” – Tức niệm Phật không gián đoạn – Cho nên, người bệnh thì cần duy trì sự niệm Phật liên tục, thân nhân thì cần tha thiết trợ niệm.

2)      Kết quả niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà:

    • Nếu thọ mạng bệnh nhân đã hết thì được vãng sanh.
    • Nếu thọ mạng chưa hết thì bệnh nhân chóng bình phục.

Cước chú: Nếu người tại gia, về việc ăn uống trong tang lễ thì nên dùng đồ chay để đem đến lợi ích cho kẻ sống người chết – Nếu quá kẹt phải dùng đồ mặn thì nên mua ở chợ, trăm vạn lần tránh việc Sát sanh.

Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung,

Cửu phẩm Liên hoa vi Phụ Mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ Vô sanh,

Bất thối Bồ-Tát vi Bạn lữ.