Lời bạt[1] cho Quy Tâm Đường

Tâm vừa tịch vừa chiếu, bất sanh bất diệt, rộng rãi, thấu triệt, linh thông, viên dung sống động, là cội nguồn của hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Dù ở địa vị phàm phu hôn mê điên đảo đầy dẫy phiền hoặc, tâm vẫn cùng một thể giống hệt như tam thế chư Phật, trọn chẳng khác gì. Vì thế, nói: “Tâm, chúng sanh, Phật, ba thứ không sai biệt”. Nhưng do chư Phật rốt ráo chứng đắc, nên công đức lực dụng được phô bày trọn vẹn triệt để, còn phàm phu toàn thể là mê trái nên đâm ra dùng sức công đức lực dụng ấy khởi tham – sân – si nơi sáu trần cảnh, tạo giết – trộm – dâm. Do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp cảm khổ. Ba món Hoặc – Nghiệp – Khổ dẫn khởi lẫn nhau, nhân nhân quả quả liên tục không ngừng, trải trần điểm kiếp luân hồi dài lâu. Dù muốn thoát lìa cũng không có cách gì! Ví như trong nhà tối chạm phải vật báu, chẳng những không thọ dụng được, trái lại còn bị thương tổn! Mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác hiệp trần cũng giống như thế. Như Lai thương xót giảng cho diệu pháp, khiến cho bỏ vọng về chân, khôi phục tâm tánh. Thoạt đầu thì từ nơi vọng liền thấu hiểu tột cùng chân, kế đến thì toàn bộ vọng chính là chân, như gió lặng ắt sóng êm, trời nóng băng phải tan, sóng lẫn băng trở thành nước, nhưng sóng – băng và nước vốn chẳng phải là hai vật! So lúc sóng chưa êm, khi băng chưa tan với lúc sóng đã êm, băng đã tan thì thể tánh trọn chẳng hai, nhưng Tướng – Dụng thật sự khác biệt rất lớn. Do vậy, có câu: “Tu đức hữu công, tánh đức mới tỏ”.

Nếu chỉ cậy vào Tánh Đức chẳng chú trọng Tu Đức thì đến tột cùng đời vị lai vĩnh viễn vẫn là chúng sanh uổng có Phật tánh, nhưng không nơi nương tựa! Vì thế, Bát Nhã Tâm Kinh chép: “Quán Tự Tại Bồ Tát khi thực hành sâu xa Bát Nhã Ba La Mật Đa, chiếu thấy năm Uẩn đều không, độ hết thảy khổ ách”. Toàn thể của Ngũ Uẩn chính là Chân Như Diệu Tâm, nhưng do cứ một bề mê trái nên trở thành tướng huyễn vọng. Vọng tướng đã thành lập thì Nhất Chân liền bị mê. Nhất Chân đã bị mê thì các khổ đều nhóm họp. Giống như gió dậy thì toàn thể nước biến thành sóng, trời lạnh thì nước đang mềm biến thành cứng. “Chiếu” là dùng Bát Nhã rất sâu bèn hiểu rõ “do mê chân nên biến thành vọng, toàn thể vọng chính là chân”, như gió lặng, trời ấm lại khôi phục bản thể của nước vậy!

Do vậy, biết hết thảy pháp đều do vọng tình biến hiện. Nếu lìa được vọng tình thì bản thể hoàn toàn là không; do vậy Tứ Đại đều mất bản tánh, sáu căn có thể dùng lẫn cho nhau. Vì thế, Bồ Tát chẳng khởi Diệt Định mà hiện các oai nghi, nhãn căn có thể làm được Phật sự của nhĩ căn, nhĩ căn làm được Phật sự của nhãn căn, vào trong đất như vào nước, đi trong nước như đang đi trên đất, nước – lửa chẳng thể thiêu đốt, cuốn trôi được, tùy ý đi đứng trên hư không. Cảnh không tự tánh, đều tùy tâm chuyển. Do vậy, kinh Lăng Nghiêm chép: “Nếu có một người nhận ra lẽ thật trở về nguồn thì mười phương hư không đều bị tiêu tan”, đấy chính là hiệu quả thật sự của việc “chiếu thấy Ngũ Uẩn đều không”.

Quy là “quy đầu” (gieo trở vào), “quy hoàn” (trở về), có nghĩa là phản chiếu hồi quang khôi phục tâm tánh vốn có vậy. Nhưng muốn phản chiếu hồi quang, khôi phục tâm tánh vốn có mà nếu trước hết chẳng quy tâm nơi Tam Bảo, y giáo phụng hành sẽ không thể được! Đã có thể quy tâm Tam Bảo y giáo phụng hành thì sẽ tự có thể khôi phục nguồn tâm, triệt chứng Phật tánh. Đã khôi phục được nguồn tâm triệt chứng Phật tánh rồi thì mới biết tự tâm quý báu nhất, nơi mê chẳng giảm, nơi ngộ chẳng tăng. Chỉ là thuận theo pháp tánh bèn thọ dụng được, hễ trái nghịch pháp tánh bèn bị thương tổn, lợi – hại khác biệt như trời với vực. Cư sĩ Châu Sư Đạo muốn cho con cái cháu chắt đời đời phụng hành Phật pháp nên lấy chữ Quy Tâm đặt tên cho ngôi nhà lớn, thỉnh Quang đề ý nghĩa. Do vậy, bèn viết lời này cho xong trách nhiệm.

***

[1] Thông thường, Bạt là phần giới thiệu ở một tác phẩm và được ghi ở cuối sách. Ở đây, Tổ còn dùng chữ Bạt với ý nghĩa “một bài viết nhằm giải thích ý nghĩa tên gọi của một công trình đã xây dựng xong”.