LẮNG NGHE LỜI KÊU GỌI CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA VỚI THẾ GIỚI

Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị tái sanh lần thứ mười bốn thuộc dòng truyền thừa hình thành với sự hóa thân Giác Ngộ từ bi lần thứ nhất của Gendun Drup vào năm 1391. Đức Đạt Lai Lạt Ma đàm luận về những giai thoại và những thành tựu của các kiếp sống trước của ngài một cách tự nhiên cũng như ngài liên hệ đến những ký ức thời thơ ấu của ngài. Ngài duy trì một nối kết sống động với mười ba vị tiền thân của ngài, thường đề cập đến sự hiện diện quý yêu, quen thuộc của họ. Ngài bây giờ bảy mươi bốn tuổi, nhưng từ khi đảm trách gánh nặng lãnh đạo tâm linh và thế quyền của Tây Tạng, sự tỉnh giác của ngài bao hàm bảy thế kỷ lịch sử.Trong quyển sách này, chúng tôi đã gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma vào lúc ngài đang quán chiếu vào sự hóa thân kế tiếp của ngài, và ngài biết rằng sự tồn tại hiện tại của ngài đang đi đến chỗ kết thúc. Nhưng ngài cũng biết rằng sự sống của ngài sẽ không chấm dứt với sự chết của ngài.

Tuy nhiên, ngài thừa nhận rằng ngài “không là một người đặc biệt” nhưng là “một con người” như mọi người khác. Việc gặp gở ngài chắc chắn gợi lên nhiều câu hỏi, vì không gian “loài người” của ngài không biểu lộ những giới hạn bình thường trong điều kiện của chúng ta; tôi thường tự hỏi sự giảng dạy tinh hoa mà chúng ta tiếp nhận từ ngài có phải đơn giản về việc trở thành con người trọn vẹn không.

Tôi tự hỏi mình câu hỏi này một lần nữa vào ngày 10 tháng Ba năm 2006 ở Dharamsala, khi tôi lắng  nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma nói chuyện để kỷ niệm cuộc khởi nghĩa ở Lhasa. Tôi có cảm giác rằng những lời nói của ngài vượt xa khỏi các đám mây phủ trên những đỉnh núi và hàng trăm người tập họp trong một cơn mưa lạnh lẽo, đều đều để  nghe ngài. Ngài kêu gọi cho nhân quyền được tôn trọng ở Tây Tạng, nhưng lĩnh vực những lời nói của ngài là phổ quát. Đó là con người chúng ta, ngài đang bảo vệ để chống lại sự dã man và vô nhân dạo. Đức Đạt Lai Lạt Ma đang kêu gọi lương tâm của nhân loại.

Trong mười lăm năm, tôi đã đi theo và thông dịch lời giảng dạy của ngài trong hệ thống thiền tập Thời Luân – Kalachakra, được xem như tối thượng bởi những Phật tử Tây Tạng và hồi hướng cho hòa bình thế giới. Ngày hôm ấy tôi đã thấy một sự liên hệ liền lũy thậm thâm giữa tính nhân bản phi thường và ngôn ngữ của ngài như một đạo sư của Thời Luân, và bài diễn thuyết chính trị của ngài. Nghĩ lại điều này, tôi đã hiểu rằng là con người đối với ngài có nghĩa là sống một tính chất tâm linh đến từ trái tim và được biểu hiện đồng thời trong đời sống thường nhật của ngài, như trong sự trao đổi với những nhà khoa học nổi tiếng của thế giới hay những tuyên bố của ngài trong những diễn đàn quốc tế. Chắc chắn rằng không phải bởi may mắn mà Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma Thứ Mười Bốn đã đề xuất và thực hiện một chính sách gọi là “Trung Đạo” đối với Trung Cộng, vì Trung Đạo trình bày tinh hoa của tuệ giác nhận thức về tánh không, trong Phật Giáo.

Tôi nhận ra rằng với một sự tiếp cận tâm linh như vậy, người ta có thể phá vở những hàng rào thường ngăn cách những hành động, tư tưởng, và cảm giác và tiến gần tới tính phổ quát của trái tim. Và khi tôi đồng ý để những hàng rào ấy hạ xuống, tôi có một kinh nghiệm về sự chuyển hóa trong sáng nội tại. Tôi đã hiểu rằng, đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, việc cầu nguyện vượt khỏi những hình thức của tin tưởng. Cầu nguyện bắt đầu từ những gì phổ quát của tất cả những tôn giáo gọi mời chúng ta khám phá chiều kích bên trong loài người chúng ta và cải hóa “phẩm chất con người của chúng ta.”

Tôi thảo luận phạm vi của điều này với Samdhong Rinpoche, thủ tướng của chính  phủ Tây Tạng lưu vong và là bạn của Đức Đạt Lai Lạt Ma; tôi đã gặp ông khi tôi đang học ở Ấn Độ tại Đại học Tây Tạng ở Sarnath, ông là hiệu trưởng. Tôi đề nghị làm chứng nhân cho tâm linh “cởi mở” này của Đức Đạt Lai Lạt Ma bằng việc xuất bản những bài vở chọn lọc chưa từng được xuất bản trước đây ở Pháp, kể cả bài diễn thuyết ngày 10 tháng Ba và những bài thuyết giảng được thực hiện trên diễn đàn quốc tế. Việc xuất bản này sẽ cho thấy sự ảnh hưởng của tính nhân bản của Đức Đạt Lai Lạt Ma với thế giới chúng ta vào một thời kỳ khủng hoảng trong lịch sử khi sự sống còn của những thế hệ tương lai dường như bị đe dọa. Những sự tuyên bố của ngài, kêu gọi cho một cuộc cách mạng tâm linh và đó cũng là một cuộc cách mạng đạo đức, cố gắng thuyết phục chúng ta công nhận nhân loại là một, trong sự phù  hợp với nguyên tắc của Phật Giáo về liên hệ hổ tương. Sự tỉnh thức rằng mọi thứ là liên hệ với nhau trong trong thực tế chung sức của đời sống được biểu  hiện trong mức độ cá nhân bằng bi mẫn và trên mức độ tập thể bằng trách nhiệm phổ quát. Những quan điểm này đã góp phần cho việc đổi mới thuật ngữ và sự tiến bộ tinh thần của những tài liệu của Liên Hiệp Quốc cống hiến cho một nền văn hóa hòa bình.

Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý dàn bài tổng quát tác phẩm của tôi, mà lúc mới đầu tôi đặt tựa đề là Lời Kêu Gọi đến Thế Giới, tôi tự hiến dâng cho nó, và trong phạm vi sự nghiên cứu của tôi cho một hình thức thứ hai liền lũy đã đánh động tôi: đó là sự tương tục thế gian của tư tưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thực tế, mặc dù trải qua năm tháng, những thông điệp của ngài đã được hổ trợ với những liên hệ mới và được nối kết với những sự kiện hiện tại và đến sự phát triển của xã hội đương thời, nhưng việc phân tích những thông điêp đó đã đi theo một chiều hướng dẫn chúng ta trở lại cùng nguồn gốc – một tuệ giác và ân cần dường như không mệt mõi và một lẽ thật bất tận.

Tôi có một kinh nghiệm ấn tượng về điều  này trong tháng Hai năm 2008, vào cuối một buổi phỏng vấn dài cho bộ phim Đức Đạt Lai Lạt Ma, Đời Nối Tiếp Đời. Khi Lhasa và Tây Tạng bừng cháy lên một tháng sau đó, có một thời khắc của  nghi ngờ. Trong sự trình chiếu của nó, như được dự định cho tháng Tám, không phải bộ phim đã được thấy như lạc đề với những sự kiện hiện tại hay sao? Nhưng một cách rất nhanh chóng, rõ ràng rằng trước và sau những sự kiện này, chí nguyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với bất bạo động, hòa giải, và đối thoại vẫn không thay đổi. Tôi đã đi đến kết luận rằng những từ ngữ của ngài có một sự thích hợp không thay đổi với những sự kiện của lịch sử. Lẽ phải của ngài sở hữu một phẩm bất biến hiếm có.

Tôi tự hỏi tại sao điều này như vậy. Lý do dường như là tầm nhìn của Đức Đạt Lai Lạt Ma bao quát cuộc sống phổ biến, trong sự nhân nhượng hoàn hảo. Những ai đạt đến trình độ lẽ thật này – được Thánh Gandhi gọi là sự kháng cự thụ động, satyagraba, một vĩ nhân khác của nhân loại và là một bậc quý kính đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma – những sự đối kháng bây giờ không còn phản đối nhau nữa mà ngồi lại với nhau trong sự bổ khuyết hòa hiệp. Vì vậy, người Trung Cộng, thí dụ thế, không phải là những “kẻ thù” mà là “những anh chị em”. Sự thử thách của tôi là tạo một cảm quan thâm thúy như vậy trong cấu trúc của quyển sách.

Trong phương diện cuối cùng của công việc tôi nhận ra rằng những bản văn của người đầu tiên mà tôi đã lựa chọn để dựng lên một tự truyện tâm linh. Tôi sử dụng thuật ngữ “tâm linh” ở đây trong ý nghĩa mà Đức Đạt Lai Lạt Ma cho nó – được gọi là, sự phát triển toàn diện những giá trị nhân bản là thiết yếu cho sự tốt lành của tất cả. Tôi đã nói chuyện với Samdhong Rinpoche về ý tưởng này vào tháng Mười Hai năm 2008, khi tôi ở Dharamsala. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận thức điều ấy vào đầu tháng Giêng năm 2009, ngài chấp nhận, nói rằng ngài rất vui với khái niệm ấy. Ngài thấy rằng những thông điệp của ngài như được trình bày trong quyển sách này phù hợp với những nguyện vọng căn bản của ngài, và cũng cho phép việc xuất bản những bản ghi chép diễn thuyết của ngài vào ngày 10 tháng Ba năm 2007, được chú thích với những ghi chép tay của ngài và được Samdhong Rinpoche giữ gìn.

Tôi hiểu rằng với sự phê chuẩn này thì tôi chạm với thử thách mà tôi đặt ra trong việc viết quyển sách này – sự thử thách của việc làm cho nó thành hiện thực sống động và đem độc giả đến gần đúng mức những từ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt Ma để họ nghe chúng và thiền quán về chúng trong một cuộc đối thoại mạnh mẽ vô tư mà từ đấy hy vọng có thể tỏa sáng.

Sofia Stril-Rever/ Sarnath, Tháng Giêng năm 2009

Ẩn Tâm Lộ, Friday, January 01, 2016

 

BA CHÍ NGUYỆN CỦA TÔI TRONG ĐỜI SỐNG

Chí nguyện thứ nhất của tôi trong đời sống, như một con người, là thúc đẩy những giá trị nhân bản và những phẩm chất đó của tâm linh là những nhân tố then chốt trong một cuộc sống hạnh phúc, cho dù là một cá nhân, một gia đình, hay một cộng đồng. Ngày nay, dường như đối với tôi thì chúng ta không trau dồi những phẩm chất nội tại này đầy đủ; đó là tại sao ưu tiên của tôi là phát triển chúng.

Chí nguyện thứ hai của tôi trong đời sống, như một tu sĩ Phật Giáo, là thúc đẩy sự hòa hiệp giữa những tôn giáo khác nhau. Trong dân chủ, chúng ta thừa nhận sự cần thiết của chủ nghĩa đa  nguyên trong đời sống chính trị. Nhưng chúng ta do dự khi nó là một vấn đề của sự phân hóa niềm tin và tôn giáo. Mặc dù những khái niệm và triết lý khác nhau, nhưng tất cả những truyền thống tôn giáo đem đến cho chúng ta cùng thông điệp của từ ái, bi mẫn, bao dung, sự chừng mực, và kỷ luật tự giác. Chúng cũng có cùng năng lực phổ quát để giúp đưa chúng ta hướng đến một đời sống hạnh  phúc hơn.

Chí nguyện thứ ba của tôi trong đời sống, như một Đức Đạt Lai Lạt Ma, là vấn đề của Tây Tạng, là điều liên quan với tôi một cách rất đặc biệt. Tôi có một trách nhiệm đặc biệt với người Tây Tạng, vì họ tiếp tục đặt hy vọng của họ và tin tưởng tôi trong thời điểm nghiêm trọng của lịch sử chúng tôi. Sự cát tường của người Tây Tạng là động lực liên tục của tôi, và trong sự đấu tranh cho công lý của họ tôi tự xem mình là phát ngôn viên tự do của họ trong lưu vong.

Chí nguyện sau cùng sẽ đi đến chấm dứt ngay khi có một giải pháp thỏa mãn hổ tương được tìm ra giữa người Tây Tạng và người Trung Cộng. Đối với hai chí nguyện đầu, tôi sẽ duy trì chúng cho đến hơi thở cuối cùng của tôi.

Ẩn Tâm Lộ, Friday, January 01, 2016

 

TÔI KHÔNG PHẢI LÀ MỘT NGƯỜI ĐẶC BIỆT

Tôi Chỉ Là Một Con Người

THUẬT NGỮ “ĐẠT LAI LẠT MA” có những ý nghĩa khác nhau tùy theo những con người khác nhau. Đối với một số người, thuật ngữ này tuyên bố rằng tôi là một vị Phật Sống, hóa thân trên trái đất của Quán Thế Âm, một vị Bồ tát của Từ Bi. Đối với một số người khác, nó có nghĩa rằng tôi là một vị “Thánh Vương.” Vào cuối những năm 1950, một vị Đạt Lai Lạt Ma có nghĩa là thi hành chức năng của “Phó Chủ Tịch Quốc Hội Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.” Sau đó, vào lúc đầu của sự lưu vong sau sự đào thoát của tôi, tôi được gọi là một “kẻ phản cách mạng” và một “kẻ ăn bám.” Nhưng không tên gọi nào tương ứng với tôi.

Như tôi thấy nó, danh hiệu “Đạt Lai Lạt Ma” tương ứng trách nhiệm giao xuống cho tôi. Đối với tôi, tôi chỉ là một con người, và nó rất ngẫu nhiên rằng tôi cũng là một người Tây Tạng được chọn để là một tu sĩ Phật Giáo. Cho nên trước khi tôi kể những sự kiện về hành trình tâm linh của tôi, tôi muốn quán chiếu trên những gì đã ràng buộc tất cả chúng ta với nhau, những yếu tố căn bản của con người thông thường chúng ta và sự từ bi mà nó kêu gọi đến.

Một Nhu Cầu Quan Trọng Cho Tình Cảm Trong Dòng Máu Của Chúng Ta

ĐỜI SỐNG CỦA CHÚNG TA LỆ THUỘC VÀO NHỮNG NGƯỜI KHÁC rất nhiều, ở tại gốc rể sự tồn tại của chúng ta có một nhu cầu nền tảng cho từ ái. Đó là tại sao thật tốt đẹp để trau dồi một cảm nhận xác thật của trách nhiệm và sự quan tâm chân thành cho lợi ích của những người khác.

Bản chất thật sự như những con người là gì? Chúng ta không chỉ là những thứ vật chất, và thật sai lầm khi đặt tất cả những hy vọng cho hạnh phúc trong sự phát triển ngoại tại. Không cần đi vào cuộc tranh luận ồn ào về sự tạo hóa và tiến hóa của vũ trụ, thì tất cả chúng ta đều đồng ý rằng mỗi con người là sản phẩm của cha mẹ họ. Phần quan trọng nhất, sự thụ thai của chúng ta liên hệ không chỉ là khát vọng dục tình mà cũng là quyết định của họ để có một đứa con. Dự tính của  họ được căn cứ trên trách nhiệm vị tha và chí nguyện chăm sóc chúng ta cho đến khi chúng ta trở thành độc lập. Cho nên ngay chính lúc thụ thai của chúng ta, tình thương của cha mẹ chúng ta là nhân tố thiết yếu.

Hơn thế nữa, chúng ta lệ thuộc hoàn toàn vào sự chăm sóc của mẹ chúng ta vào buổi đầu sinh ra đời. Theo một số nhà khoa học, tình trạng của tâm thức – tĩnh lặng hay khích động – của một bà mang thai có một tác động vật lý ngay lập tức vào đứa bé trong bụng.

Biểu lộ của tình thương cũng thiết yếu lúc sinh ra. Vì động tác đầu tiên của chúng ta là bú sửa từ vú bà mẹ, cho nên một cách bản năng chúng ta cảm thấy gần gũi với mẹ chúng ta, người cũng cảm thấy tình yêu nhằm để nuôi dưỡng chúng ta, vì nếu bà giận dữ hay không vui, dòng sửa mẹ sẽ không tuôn chảy thoải mái.

Rồi thì có thời điểm quan trọng cho việc cấu thành não bộ, từ lúc mới sinh cho đến ba hay bốn tuổi. Sự xúc chạm tình cảm của thân thể là nhân tố chính cho đứa bé lớn lên một cách bình thường. Nếu nó không được nuông chiều, ôm ấp, yêu thương, sự phát triển của nó sẽ bị giới hạn và não bộ của nó sẽ không lớn mạnh với khả năng trọn vẹn của nó.

Vì đứa bé không thể sống còn mà không có sự săn sóc của người khác, cho nên tình thương là thiết yếu. Ngày nay nhiều trẻ con lớn lên trong những gia đình không hạnh phúc. Thiếu thốn tình cảm, sau này trong đời sống chúng sẽ hiếm hoi yêu thương cha mẹ chúng và sẽ thường gặp rắc rối trong việc yêu thương người khác. Điều này là rất đáng buồn.

Vài năm sau, khi trẻ con đến trường, chúng cần được giúp đở bởi giáo viên của chúng. Nếu một giáo viên không tự giới hạn mình với việc dạy dỗ, nếu vị ấy cũng lãnh lấy trách nhiệm chuẩn bị cho học trò của vị ấy cho cuộc sống, thì chúng sẽ phải tôn trọng giáo viên ấy và tin tưởng vị ấy. Những điều chúng học hỏi từ giáo viên sẽ để lại ấn tượng mãi mãi trong tâm thức chúng. Ngược lại, những chủ đề được dạy bởi người nào đó không quan tâm đến sự cát tường của học trò sẽ chỉ thoáng qua chúng và sẽ bị quên lãng không lâu sau đó.

Tương tự thế, khi một người bệnh được chửa trị tại bệnh viện bởi một bác sĩ biểu lộ tình người nồng ấm, bệnh nhân sẽ cảm thấy thoải mái. Bác sĩ mong ước tận dụng không tiếc những y cụ chửa trị, bất chấp những chi tiết kỷ thuật của tiến trình y khoa. Trái lại khi một bác sĩ thiếu sự thấu cảm và dường như không thân thiện, không kiên nhẫn, hay khinh thường, ngay cả nếu vị ấy là rất nổi tiếng, đoán bệnh đúng, và vị ấy quy định những phương pháp hiệu quả nhất, thì bệnh nhân vẫn ở trong tình trạng phiền muộn.

Trong trường hợp của một cuộc đối thoại hàng ngày, khi người nói chuyện của chúng ta nói với chúng ta với một cảm giác nhân bản, thì chúng ta lắng nghe và đáp lại với sự vui vẻ, vì thế cuộc đối thoại trở thành hấp dẫn mặc dù nó thật bình thường. Trái lại, nếu người nào đó nói một cách lạnh lùng hay thô lỗ, chúng ta cảm thấy phiền toái và muốn chấm dứt cuộc đối thoại một cách nhanh chóng. Từ những sự kiện nhỏ nhất đến những sự kiện lớn nhất, tình cảm và sự tôn trọng người khác là nhân tố quan trọng.

Mới đây, tôi đã gặp một nhóm các nhà khoa học Hoa Kỳ, họ nói rằng tỉ lệ người mắc bệnh tâm thần ở xứ sở họ là khá cao – khoảng 12 phần trăm dân số. Theo cuộc thảo luận, nó nổi bật lên rõ ràng rằng nguyên nhân chính không phải là thiếu thốn vật chất mà là thiếu tình cảm.

Một điều dường như rõ ràng. Cho dù chúng ta có cảnh giác về nó hay không, từ lúc chúng ta mới ra đời, nhu cầu cho tình cảm vốn ở chính trong dòng máu của chúng ta. Tôi tin tưởng rằng không ai được sinh ra mà không có nhu cầu yêu thương này. Và trái lại với những trường phái tư tưởng hiện đại nào đó, điều này chứng minh rằng loài người không bị giới hạn với trình độ vật chất mà thôi. Bất chấp đối tượng vật chất, bất chấp nó đẹp đẻ và quý giá đến thế nào đi nữa, lại có thể cho chúng ta cảm giác của việc được yêu thương được, bởi vì bản chất sâu xa hơn, đặc tính chân thật của chúng ta có gốc rể trong tính tự nhiên khách quan của tâm thức.

Từ bi, là điều đôi khi tôi cũng gọi là tình cảm con người, là nhân tố quyết định của đời sống chúng ta. Liên hệ với lòng bàn tay của chúng ta, năm ngón tay trở thành chức năng: cắt đứt nó ra, chúng vô dụng. Tương tự thế, mỗi hành động của con người trở thành nguy hiểm khi nó thiếu vắng cảm giác con người. Khi chúng được được biểu hiện với cảm giác và sự tôn trọng cho những giá trị của loài người, thì tất cả mọi hành động trở thành xây dựng.

Mẹ Tôi, Một Người Phụ Nữ Từ Bi

TÔI ĐƯỢC SINH RA TRONG MỘT GIA ĐÌNH GIẢN DỊ từ một vùng xa xôi hẻo lánh của tỉnh Amdo ở Tây Tạng. Như một đứa bé, tôi lớn lên trong vòng tay yêu thương từ ái của mẹ tôi, một người phụ nữ đại bi. Và sau khi tôi đến Lhasa vào lúc bốn tuổi, mọi người chung quanh tôi, những vị thầy của tôi và những người phục vụ, đã dạy tôi điều gì có  nghĩa là tốt lành, trung thực, và quan tâm. Đó là môi trường mà tôi lớn lên.

Sau này, sự giáo dục cổ điển trong tư tưởng Phật Giáo phơi bày cho tôi với những nhận thức chẳng hạn như liên hệ nhân duyên hổ tương và khả năng con người cho lòng từ bi vô hạn. Điều đó cho tôi tỉnh giác với tầm quan trọng của trách nhiệm toàn cầu, bất bạo động, và sự thấu hiểu trong những tôn giáo. Niềm tin ngày nay trong những giá trị này cho tôi một động cơ để thúc đẩy những phẩm chất nhân loại căn bản. Trong phạm vi của cuộc chiến đấu của tôi cho nhân quyền và một sự tự do rộng rãi hơn của dân tộc Tây Tạng, thì những giá trị này tiếp tục hướng đạo những chí nguyện của tôi đến con đường bất bạo động.

Đã Đến Lúc Để Suy Nghĩ Trong Mô Thức Loài Người

KHI TÔI NÓI CHUYỆN VỀ ÂN CẦN VÀ TỪ BI, tôi không bày tỏ tự thân tôi như một Phật tử, hay như một Đức Đạt Lai Lạt Ma, hay như một người Tây Tạng, mà đúng hơn tôi là một con  người. Và tôi hy vọng rằng quý vị cũng tự xem mình như những con người, chứ không là những người Mỹ, những người phương Tây, hay những thành viên của nhóm này hay nhóm khác. Những sự phân chia như vậy là thứ yếu. Khi chúng ta nói như những con người, thì chúng ta có thể chạm vào vấn đề thiết yếu. Nếu tôi nói, “tôi là một tu sĩ,” hay, “tôi là một Phật tử”, đó là một vấn đề của những thực tế tạm thời trong sự so sánh với bản chất con người của tôi. Sự thật được sinh ra như con người là căn bản và sẽ không thay đổi cho đến khi chết. Những phần còn lại, cho dù chúng ta có nghiên cứu hay không, giàu hay nghèo, là thứ yếu.

Ngày nay chúng ta đối diện với nhiều vấn nạn. Trách nhiệm của chúng ta liên hệ trực tiếp với những xung đột bị khích động bởi tư tưởng, tôn giáo, và kinh tế. Do đó, đã đến lúc cho chúng ta suy nghĩ trong dạng thức con người, trên một trình độ sâu sắc hơn nơi chúng ta quan tâm một cách tôn trọng phẩm chất của người khác, vì họ cũng là những con người như chúng ta. Chúng ta phải xây dựng những mối quan hệ gần gũi trong lòng tin hổ tương, thấu hiểu và hổ trợ lẫn nhau, mà không chú ý nhiều tới những khác biệt về văn hóa, triết lý, tôn giáo, hay tín ngưỡng.

Xét cho cùng, tất cả con người là giống nhau – được làm bởi thịt, xương, và máu. Tất cả chúng ta muốn hạnh phúc, và tất cả muốn xa lánh khổ đau. Chúng ta là những thành viên của một gia đình nhân loại duy nhất, và những sự tranh cải của chúng ta được sinh ra từ những nguyên nhân thứ yếu. Những sự tranh chấp, dối trá, và giết chóc là vô ích.

Mỗi Người Chúng Ta Gặp Là Anh Chị Em Của Chúng Ta

TÔI MUỐN NHẤN MẠNH VÀO ĐIỂM NÀY, mà tôi nghĩ là thiết yếu. Sự hạnh phúc của mỗi người có thể làm thành một sự cống hiến thậm thâm, hiệu quả và nó có thể cải thiện toàn bộ cộng đồng nhân loại.

Bằng việc nhận ra rằng chúng ta cùng chia sẻ nhu cầu để được yêu thương, chúng ta có cảm giác rằng trong mỗi hoàn cảnh mỗi con người chúng ta gặp gở là anh chị em của chúng ta. Không hề gì nếu khuôn mặt của họ là không quen thuộc hay nếu hiện tướng và thái độ của họ là bất thường. Không có sự ngăn cách quan trọng giữa chúng ta và người khác. Thật vô lý để chú ý vào những sự khác biệt bên ngoài, vì nền tảng tự nhiên của chúng ta là đồng nhất.

Trong sự  phân tích rốt ráo, nhân loại chỉ là một, và ngôi nhà duy nhất của chúng ta là hành tinh nhỏ bé này. Nếu chúng ta muốn bảo vệ nó, mỗi người chúng ta phải trải nghiệm lòng vị tha phổ quát. Chỉ có cảm nhận này mới loại trừ được những động cơ vị kỷ thúc ép người ta lợi dụng nhau. Với một trái tim chân thành và cởi mở, tự nhiên chúng ta vững tin và bảo đảm với chính chúng ta, và chúng ta không có gì để lo sợ từ những người khác.

Tôi tin rằng trong tất cả mọi trình độ của xã hội – gia đình, quốc gia, và quốc tế – chìa khóa cho một thế giới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn là lòng đại bi. Không nhất thiết để đi theo một tôn giáo, hay tin tưởng trong một hệ tư tưởng nào. Điều quan trọng là phát triển những phẩm chất nhân bản tối đa như có thể. Tôi cố gắng để xử sự với mỗi người mà tôi gặp như một người bạn cũ, và điều ấy cho tôi một cảm giác thật sự của hạnh phúc.

Từ Ái, Điều Kiện Cho Sự Sống Còn Của Chúng Ta

LÚC MỚI SINH RA, con người tự nhiên được phú cho những phẩm chất chúng ta cần có cho sự tồn tại của chúng ta, chẳng hạn như quan tâm, nuôi dưỡng, và từ ái yêu thương. Mặc cho sự thật là chúng ta đã sở hữu những phẩm chất tích cực, tuy thế, chúng ta có xu hướng quên lãng nó. Như một kết quả, loài người đối diện những vấn nạn không cần thiết. Chúng ta cần thực hiện thêm những nổ lực để duy trì và phát triển những phẩm chất căn bản này. Đó là tại sao việc thúc đẩy những giá trị nhân bản là điều quan trọng chính yếu. Chúng ta cũng cần tập trung trong việc nuôi dưỡng những mối quan hệ nhân bản tốt đẹp vì, cho dù những sự khác biệt quốc gia, tôn giáo tín ngưỡng, chủng tộc, sự giàu sang, hay học vấn của chúng ta là gì, thì tất cả chúng ta cũng là những con người. Đối diện với những khó khăn, chúng ta luôn luôn gặp gở những người  nào đó, có lẻ là những người xa lạ, cũng tự động dành sự giúp đở cho chúng ta. Tất cả chúng ta lệ thuộc vào nhau trong những hoàn cảnh khó khăn và chúng ta cũng làm như thế vô điều kiện. Chúng ta không hỏi người đó là ai trước khi chúng ta giúp đở họ. Chúng ta giúp đở họ bởi vì họ là những con người như chúng ta.

Tôi Cầu Nguyện Cho Một Gia Đình Nhân Loại Yêu Thương Nhau Hơn

Ngay cả khi gặp một người xa lạ

Mỗi lần ấy tôi đều có một cảm giác như nhau

“Người ấy là một thành viên khác trong gia đình nhân loại của tôi.”

Một thái độ như vậy làm sâu sắc hơn

Tình cảm và sự tôn trọng của tôi cho tất cả chúng sanh.

Nguyện cho lòng từ ái tự nhiên này

Trở thành sự cống hiến nhỏ nhoi của tôi cho thế giới hòa bình!

Tôi cầu nguyện cho một thế giới thân hữu hơn,

Yêu thương nhau hơn, và cho một sự thấu hiểu tốt đẹp hơn

Trong gia đình nhân loại trên hành tinh này.

Đó là lời kêu gọi mà tôi thực hiện từ đáy lòng của tôi

Đến tất cả những ai chán ghét khổ đau

Và yêu thương hạnh phúc bền lâu.

Tất Cả Chúng Ta Là Giống Nhau (*)

BẤT KỂ CHÚNG TA ĐẾN từ nơi nào trên thế giới, một cách căn bản tất cả chúng ta là những con người như nhau. Tất cả chúng ta tìm cầu hạnh phúc và muốn lẫn tránh khổ đau. Một cách chính yếu tất cả chúng ta có những nhu cầu giống nhau và những quan tâm tương tự. Như những con người, tất cả chúng ta muốn được tự do để có quyền quyết định vận mạng của chính mình như những cá nhân cũng như vận mạng của dân tộc chúng ta. Đó là tính nhân bản tự nhiên.

Những vấn nạn đối diện với chúng ta ngày nay được tạo bởi con người, cho dù là những xung đột bạo lực, sự tàn phá môi trường, sự nghèo cùng hay đói khát. Những vấn nạn này có thể được giải quyết, cảm ơn những nổ lực của con người, bằng việc thấu hiểu rằng chúng ta là những anh chị em và bằng việc phát triển ý nghĩa tình anh em này. Chúng ta  phải nuôi dưỡng một trách nhiệm toàn cầu đối với mỗi người và mở rộng nó ra toàn hành tinh mà chúng ta phải chia sẻ.

Tôi cảm thấy lạc quan rằng những giá trị cổ truyền vốn đã giữ vững loài người đang được củng cố ngày nay, đang chuẩn bị cung cách cho thế kỷ 21 tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.

Tôi cầu nguyện cho tất cả chúng ta, kẻ áp bức và bè bạn, vì thế tất cả chúng ta có thể xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn qua sự thấu hiểu hổ tương và yêu thương, và trong việc làm như vậy chúng ta có thể giảm thiểu đau đớn và khổ sở của tất cả chúng sanh.”

***

(*) Vào ngày 10 tháng Chạp năm 1989, Đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu nhận giải Nobel Hòa Bình, được trích dẫn ở trên, đã được truyền thông trên toàn thế giới. Vấn đề Tây Tạng đã trở thành quốc tế. Nhưng không như một lãnh tụ của chính  phủ Tây Tạng lưu vong, hay như một người Tây Tạng, mà Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel. Ngài chia sẻ vinh dự này như một con người với tất cả những ai nhìn nhận những giá trị căn bản loài người của mỗi người chúng ta. Bằng việc xác nhận tình người của ngài trong ngôn ngữ quốc tế của trái tim, nó đã vượt khỏi những rạn nứt tư tưởng và khái niệm của đặc tính văn hóa, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa lại tình người cho chúng ta.

Ở Oslo, ngày 10 tháng Chạp năm 1989, tất cả chúng ta đã nhận giải Nobel Hòa Bình.

Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, January 05, 2016

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

CHO ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG, TÔI SẼ THỰC HÀNH TỪ BI

Chúng Ta Muốn Nói Gì Với “Từ Bi”?

TỪ BI CÓ THỂ BỊ trộn lẫn với khao khát và dính mắc: tình thương của cha mẹ dành co con cái, thì dụ thế, thường phối hợp với nhu cầu cảm xúc của chính họ và vì vậy không phải toàn bộ từ bi. Tương tự thế, trong hôn nhân tình yêu giữa vợ và chồng – một cách đặc biệt vào lúc mới đầu, khi một người không nhận thức toàn bộ đặc tính của người kia – thì thường giống dính mắc hơn là tình yêu thật sự. Khát vọng của chúng có thể rất mạnh và người chúng ta dính mắc dường như tốt đẹp, ngay cả nếu người kia thật sự là rất tiêu cực. Điều chi hơn nữa, chúng ta có xu hướng thổi phồng những phẩm chất khiêm tốn nhất. Cho nên khi thái độ của người ta thay đổi, thì người kia thường thất vọng, và thái của người kia cũng thay đổi như một kết quả. Đó là một dấu hiệu cho thấy tình yêu được thúc đẩy nhiều từ nhu cầu cá nhân hơn là từ sự quan tâm xác thật cho người yêu. Từ bi thật sự không chỉ là một đáp ứng cảm xúc: nó là một chí nguyện kiên cố, vô tư. Do vậy, một thái độ đáng tin của từ bi không thay đổi, ngay cả phải đối diện với thái độ tiêu cực của một người khác.

Dĩ  nhiên, thật sự không dễ dàng để phát triển hình thức này của từ bi. Để bắt đầu, chúng ta phải thấu hiểu rằng những cá thể kia cũng là những con người như chúng ta. Họ muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Khi quý vị biết rằng tất cả chúng sanh là bình đẳng trong nguyện ước cho hạnh phúc và quyền của họ để đạt được nó, quý vị tự động cảm thấy một sự thấu cảm và nó đem quý vị gần gũi hơn với họ. Bằng cách tập cho quen tâm thức quý vị với một lòng vị thay phổ quát, thì quý vị sẽ phát triển một cảm giác trách nhiệm cho người khác và nguyện ước giúp đở  họ vượt thắng khổ đau của họ một cách hiệu quả. Một khát vọng như vậy không phải là lựa chọn mà là được áp dụng tới mọi người một cách không thiên vị. Cho đến khi mà con người còn cảm thấy vui sướng và khổ đau như quý vị, thì không có một căn bản hợp lý nào cho phép chúng ta thiết lập những sự phân biệt hay giảm bớt niềm ước ao cho họ, ngay cả khi thái độ của họ là tiêu cực.

Với sự nhẫn nại và thời gian, quý vị sẽ phát triển hình thức từ bi này. Dĩ nhiên, vị kỷ và dính mắc với cảm giác một tự ngã độc lập, tự trị là những nhân tố làm hạn chế từ bi. Trong thực tế, lòng từ bi chân thành, chỉ có thể trải nghiệm được khi sự chấp thủ vào tự ngã được loại trừ. Nhưng điều ấy không ngăn trở chúng ta trong việc thực hiện một sự bắt đầu và tiến trình trên con đường ấy bây giờ.

Từ Bi Chân Thành Là Phổ Quát

CHÚNG TA ĐÔI KHI XEM  từ bi giống như là một cảm giác thương hại. Chúng ta nên phân tích bản chất của từ bi chân thành một cách sâu sắc hơn.

Chúng ta cảm giác gần gũi với bạn bè của chúng ta một cách tự nhiên, nhưng đó không phải là lòng từ bi xác thật. Nó là một cảm giác cục bộ, trái lại lòng từ bi chân thành là phổ quát.

Lòng từ bi chân thành không phải xuất phát từ cảm giác vui sướng gần gũi người này hay người nọ, nhưng từ niềm tin chắc chắn rằng những  người khác cũng giống như tôi và không muốn khổ đau mà là hạnh phúc, và từ một chí nguyện giúp đở họ vượt thắng những nguyên nhân làm họ đau khổ. Chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta có thể giúp họ ít khổ đau hơn. Đó là lòng từ bi chân thành, chính đáng, vô tư.

Thái độ đó không bị giới hạn trong phạm vi những người thân và bè bạn của chúng ta. Nó cũng phải được mở rộng đến những kẻ thù của chúng ta. Lòng từ bi chân thành là không thiên vị và mang với nó một cảm giác trách nhiệm vì lợi ích và hạnh phúc của người khác.

Lòng từ bi chân thành mang theo với nó việc làm nguôi những mãnh liệt nội tại, một thể trạng yên bình và tĩnh lặng. Nó thành ra rất hữu ích trong đời sống hàng ngày khi chúng ta đối diện với những hoàn cảnh đòi hỏi sự tự tin. Và một con người từ bi tạo ra một không khí ấm áp, thoải mái của sự hoan nghênh và thấu hiểu chung quanh người ấy. Trong những  mối quan hệ nhân bản, từ bi cống hiến đến sự thúc đẩy hòa bình và hòa hiệp.

Năng Lực Của Từ Bi

SÂN HẬN VÀ THÙ OÁN là những chướng ngại chính cho lòng từ bi. Những cảm xúc mạnh mẽ này có năng lực tràn ngập hoàn toàn tâm thức, nhưng đôi khi chúng ta có thể kiểm soát chúng. Nếu chúng ta không quản lý chúng, thì chúng sẽ liên lục giày vò chúng ta, ngăn trở chúng ta đạt đến sự tĩnh lặng là đặc tính của một tâm từ ái.

Thật lợi lạc để tự hỏi mình trước nhất rằng sân hận có bất cứ giá trị nào hay không. Đôi khi chúng ta bị tràn ngập với chán nản và đối diện với một hoàn cảnh khó khăn, sân hận dường như đem đến một  khối lượng năng lượng, tự tin và quyết tâm bổ sung. Đó là lúc thật hữu ích để thẩm tra thể trạng tâm thức của chúng ta một cách cẩn thận. Mặc dù thật đúng là sân hận ban cho một năng lượng nào đó, nhưng khi chúng ta quán sát nó thì chúng ta khám phá ra rằng nó là mù quáng. Thật không thể quyết định giá trị của nó sẽ là tích cực hay tiêu cực, bởi vì sân hận che phủ phần tuyệt với nhất của não bộ, là lý trí. Đó là tại sao năng lượng của sân hận phải được đưa ra để cảnh cáo. Nó có thể châm ngòi cho một cách cư xử tàn phá và bất hạnh kinh khủng. Khi nó được đẩy tới cực độ, sân hận có thể làm người ta điên cuồng, đến mức họ hành động làm phương hại cho chính họ và  người khác.

Chúng ta vẫn có thể phát triển một năng lượng cũng mạnh mẽ như thế, nhưng kiểm soát tốt đẹp hơn là sân hận, nhằm để đối diện với những hoàn cảnh khó khăn. Năng lượng được kiểm soát này đến từ một thái độ từ bi và cả từ lý trí, phối hợp với nhẫn nại. Đây là những đối trị rất hiệu quả chống lại sân hận. Bất hạnh thay, nhiều người khinh thường những phẩm chất này, đồng hóa chúng với yếu kém. Trái lại, tôi tin tưởng rằng chúng là những dấu hiệu thật sự của sức mạnh nội tại. Từ bi bản chất vốn ân cần, hòa bình, và tế nhị, trong khi vẫn rất mạnh mẽ. Những người dễ dàng đánh mất sự kiên nhẫn là không vững vàng và không ổn định. Đó là tại sao trong sự đánh giá của tôi sự bùng phát của sân hận là một dấu hiệu không sai lầm được của yếu kém.

Đối diện với một vấn nạn, sau đó, hãy cố gắng dể duy trì sự khiêm hạ, trong khi giữ một thái độ chân thành, và hãy nghĩ về một giải pháp đúng đắn. Không nghi ngờ gì một số người nào đó sẽ lợi dụng thái độ của quý vị. Nếu sự tĩnh lặng của chúng ta dường như khuyến khích một sự công kích bất công, hãy kiên quyết, nhưng với từ bi. Nếu hóa ra chúng ta cần thiết chứng tỏ quan điểm của chúng ta bằng những biện pháp đối phó, thì hãy làm như thế mà không có mục đích của phẩn uất hay xấu xa.

Chúng ta phải thấu hiểu rằng ngay cả nếu những đối thủ của ta dường như đang làm tổn hại chúng ta, vào lúc kết thúc hành động tàn phá của họ sẽ trở ngược chống lại họ. Để kềm chế sự thôi thúc vị kỷ trả thù, hãy nhớ khao khát thực tập từ bi và trách nhiệm để giúp đở người khác tránh khổ đau và những hậu quả do chính hành động của họ. Một cách trầm tĩnh trong việc chọn lựa những biện pháp nào sẽ hiệu quả hơn, áp dụng tốt đẹp hơn, và năng lực hơn, trái lại việc trả thù căn cứ trên năng lượng mù quáng của sân hận hiếm khi đạt được mục tiêu của nó.

Tôi Là Một Cây Cười Chuyên Môn

TÔI ĐÃ TỪNG CHẠM TRÁN với nhiều  hoàn cảnh khó khăn trong cả đời tôi, và quê hương tôi đang trải qua một thời điểm nghiêm trọng. Nhưng tôi cười thường xuyên, và nụ cười của tôi là lây lan. Khi người ta hỏi tôi là tôi tìm thấy sức mạnh để cười bây giờ như thế nào, tôi trả lời rằng tôi là một cây cười chuyên môn. Cười là một đặc trưng của người Tây Tạng, những người khác biệt với điều này là người Nhật Bản và Ấn Độ. Người Tây Tạng rất vui vẻ, như người Ý Đại Lợi, chứ không hơi kín đáo như người Đức và Anh.

Sự vui vẻ của tôi cũng đến từ gia đình tôi. Tôi đến từ một ngôi làng nhỏ, không phải một thành phố lớn, và lối sống của chúng tôi là vui tính hơn. Chúng tôi luôn luôn chọc cười chúng tôi, trêu ghẹo nhau, nói đùa với nhau. Đó là thói quen của chúng tôi.

Thêm vào đó, như tôi thường nói, trách nhiệm là thực tế. Dĩ nhiên, những rắc rối vẫn đấy. Nhưng suy nghĩ chỉ về khía cạnh tiêu cực không giúp tìm ra giải pháp, và nó phá hoại sự bình an của tâm  hồn. Tuy nhiên mọi thứ là tương đối. Quý vị có thể thấy khía cạnh tích cực của những thảm kịch ngay cả tệ hại nhất nếu quý vị tiếp nhận một quan điểm toàn diện [thấy mối quan hệ hữu cơ giữa những thành phần và tổng thể]. Tuy nhiên, nếu quý vị lấy sự tiêu cực như tuyệt đối và dứt khoát, quý vị sẽ gia tăng sự lo lắng và băn khoăn, trái lại bằng việc mở rộng cung cách chúng ta nhìn vào một vấn nạn, thì chúng ta thấu hiểu điều gì tệ  hại cho nó, nhưng chúng ta chấp nhận nó. Thái độ này xảy đến với tôi, tôi nghĩ, theo việc thực hành của tôi từ triết lý Phật Giáo, và đã giúp đở tôi vô kể xiết.

Thí dụ lấy việc mất nước của chúng tôi. Chúng tôi là những người không quốc gia, và chúng tôi phải đối diện với bất hạnh cùng với nhiều hoàn cảnh đau thương ở chính Tây Tạng. Tuy thế, những kinh nghiệm như vậy cũng đem đến nhiều lợi lạc.

Như đối với tôi, tôi đã là  người không nhà trong hơn nửa thế kỷ. Nhưng tôi đã tìm thấy rất nhiều ngôi nhà khắp nơi trên thế giới. Nếu tôi vẫn ở điện Potala, tôi không nghĩ là tôi sẽ có cơ hội để gặp gở rất nhiều người, rất nhiều vị nguyên thủ quốc gia ở Á châu, Đài Loan, Hoa Kỳ, và Âu châu, các vị giáo hoàng cũng như nhiều nhà khoa học và kinh tế gia nổi tiếng.

Cuộc sống lưu vong là một đời sống bất hạnh, nhưng tôi luôn luôn cố gắng để nuôi dưỡng một thể trạng hạnh phúc của tâm, biết ơn những cơ hội cho sự hiện hữu này đã cống hiến cho tôi, dù không quê  hương, xa cách tất cả những nghi thức. Cách này tôi đã có thể bảo tồn sự hòa bình nội tại của tôi.”

Tôi Là Một Phụng Sự Viên Tận Tâm Của Từ Bi (*)

SỰ THỰC HÀNH TỪ BI cho tôi một sự toại nguyện lớn nhất. Bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ thảm kịch nào tôi đối diện, thì tôi thực hành từ bi. Điều đó củng cố sức mạnh nội tại của tôi và đem hạnh phúc đến cho tôi bằng việc cho tôi cảm giác rằng sự sống của tôi là hữu ích. Cho đến bây giờ, tôi đã cố gắng thực hành từ bi hoàn hảo nhất như tôi có thể, và tôi sẽ tiếp tục làm như thế cho đến ngày cuối cùng của tôi, cho đến hơi thở cuối cùng của tôi. Vì trong chiều sâu thẩm nhất của tôi, tôi cảm thấy rằng tôi là một phụng sự viên tận tâm của từ bi.

***

(*) Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng khi ngài rời Tây Tạng, ngài bỏ tất cả tài sản lại phía sau, nhưng ngài mang trong tim ngài kho tàng vô giá là lòng từ bi vô hạn.

Từ Bi Con Đường Hạnh Phúc Của Tôi

MỘT CÂU HỎI LỚN tiềm tàng trong kinh nghiệm chúng ta, cho dù chúng ta có nhận thức về nó hay không: Sự sống có ý nghĩa gì? Tôi đã nghĩ về điều này, và tôi  muốn chia sẻ suy nghĩ của tôi về đề tài này.

Tôi tin rằng mục tiêu của đời sống là hạnh phúc. Từ lúc mới ra đời, mỗi con người ngưỡng vọng hạnh phúc và không muốn khổ đau. Những điều kiện xã hội, giáo dục, tư tưởng không ảnh hưởng những xu hướng này trong sự hiện hữu sâu thẩm nhất của chúng ta. Đó là tại sao thật quan trọng để thấy điều gì sẽ mang đến hạnh phúc nhất cho chúng ta.

Thứ nhất, chúng ta phân chia hạnh phúc và khổ đau thành hai đặc phạm trù chính, tinh thần và vật chất. Nhưng chính tâm thức hoạt động là ảnh hưởng nhất đối với chúng ta. Điều kiện vật chất của chúng ta đóng một vai trò thứ yếu trong đời sống, ngoại trừ chúng ta bị bệnh trầm trọng hay bị tước đi những thứ cần thiết. Khi thân thể được thỏa mãn, chúng ta gần như không nhận thức điều ấy. Tâm thức, trái lại, nghi nhận sự kiện nhỏ nhiệm nhất, bất chấp nó là nhỏ bé thế nào. Cho nên chúng ta phải tận hiến nổ lực của chúng ta để phát triển sự hòa bình của tâm thức.

Theo kinh nghiệm của riêng tôi, trình độ cao nhất của sự tĩnh lặng nội tại đến từ việc phát triển từ ái và bi mẫn. Chúng ta càng quan tâm đến hạnh phúc của người khác, sự cát tường của chúng ta càng tăng trưởng. Thân hữu và ấm áp đối với người khác làm thư giản những căng thẳng tinh thần để xua tan sợ hãi hay bất an vì thế chúng ta có thể vượt thắng những chướng ngại. Đó là cội nguồn căn bản cho sự thành công trong cuộc đời.

Trong thế giới  này, nơi chúng ta bị ràng buộc để chạm trán với những khó khăn, nếu chúng ta đánh mất hy vọng và trở  nên ngã lòng, chúng ta sẽ giảm thiểu khả năng để đối diện với sự việc. Điều gì hơn nữa, nếu chúng ta nhớ rằng mọi người, không chỉ chúng ta, phải trải nghiệm khổ đau, nhận thức thực tiển này củng cố quyết tâm và năng lực của chúng ta để vượt thắng khó khăn. Trong thực tế, với thái độ này, mỗi chướng ngại mới sẽ được xem như một cơ hội tốt để cải thiện thể trạng tâm thức của chúng ta.

Đó là vấn đề chúng ta có thể dần dần cố gắng để từ bi hơn như thế nào – bằng việc trau dồi cả sự thông cảm thật sự khi đối diện với khổ đau của người khác và một khát vọng giúp đở họ giải thoát chính họ khỏi khổ đau. Trong cách này sự tĩnh lặng và sức mạnh nội tại của chúng ta sẽ gia tăng.

Tôi Yêu Sự Mĩm Cười, Đặc Thù Của Loài Người

NẾU CHÚNG TA BẰNG LÒNG với việc nghĩ rằng từ bi, sự hợp lý, và kiên nhẫn là tốt lành, như thế không thật sự đủ để phát triển những phẩm chất này. Những khó khăn cung ứng hoàn cảnh cho chúng ta đưa chúng vào thực tập. Ai có thể làm cho những hoàn cảnh như vậy sinh khởi? Chắc chắn không phải bè bạn chúng ta, nhưng đúng hơn là những kẻ thù của chúng ta, vì họ là những người khiến hầu hết các rắc rối sinh ra. Vì thế, nếu chúng ta thật sự muốn tiến bộ trên con đường tu tập, chúng ta phải xem những kẻ thù như những vị thầy tốt nhất của chúng ta.

Vì bất cứ ai giữ lòng từ ái và bi mẫn trong sự quý trọng cao cả, thì sự thực hành về bao dung là thiết yếu, và nó đòi hỏi một kẻ thù. Chúng ta phải biết ơn những kẻ thù của chúng ta, bởi vì họ giúp chúng ta sinh ra một tâm thức tĩnh lặng tốt nhất! Sân hận và thù oán là những kẻ thù thật sự mà chúng ta phải đối diện và đánh thắng chúng, không phải là những “kẻ thù” xuất hiện lúc này lúc nọ trong đời sống chúng ta.

Dĩ nhiên, tự nhiên và đúng là tất cả chúng ta muốn có bạn bè. Tôi thường nói đùa rằng một người thật sự vị kỷ thì phải vị tha. Quý vị phải chăm sóc những người khác, sự cát tường của họ, bằng việc giúp đở họ và phụng sự họ, để có thêm những người bạn và để làm rộ nở thêm những nụ mĩm cười. Kết quả? Khi chính quý vị cần giúp đở, quý vị sẽ thấy tất cả mọi người quý vị cần! Trái lại, nếu quý vị phớt lờ hạnh phúc của người khác, thì quý vị sẽ là người thua cuộc về lâu về dài. Có phải tình bạn sinh ra tranh cải, sân hận, ghen tỵ, và ganh đua không kềm chế? Tôi không nghĩ như thế. Chỉ có tình cảm mới sản sinh những người bạn xác thật.

Trong xã hội vật chất đương thời này, nếu quý vị có tài lực và quyền lực, thì quý vị sẽ có ấn tượng rằng quý vị có nhiều bè bạn. Nhưng họ không phải là bạn của quý vị, họ là bạn của tiền và quyền lực. Nếu quý vị không còn tiền tài và ảnh hưởng, thì quý vị sẽ khó để tìm thấy những người này một lần nữa.

Bất hạnh thay, miễn là mọi thứ diễn tiến tốt đẹp, thì chúng ta nghĩ là chúng ta có thể sinh hoạt hoàn toàn với tự chính chúng ta. Tuy thế, khi hoàn cảnh và sức khỏe của chúng ta suy đồi, thì chúng ta nhanh chóng nhận ra chúng ta đã sai lầm như thế nào. Đó là lúc chúng ta hiểu ai thật sự giúp đở chúng ta. Để chuẩn bị cho chúng ta vào những lúc như thế, bằng việc nối kết tình bạn thật sự, người nào hữu ích khi chúng ta cần họ nhất, thì chúng ta phải trau dồi lòng vị tha.

Đối với tôi, tôi luôn luôn muốn thêm bạn. Tôi thích mĩm cười, và mong ước của tôi là thấy thêm những nụ cười mĩm, những nụ cười mĩm thật sự, vì có nhiều loại – chế nhạo, giả tạo, hay ngoại giao. Một số nụ cười mĩm không đánh thức bất cứ sự châm biếm nào, và một số gây ra sự nghi ngờ hay sợ hãi. Một nụ cười đáng tin, dường như, đánh thức một cảm giác tươi mát thật sự, và tôi nghĩ nụ cười chỉ thuộc về nhân loại mà thôi. Nếu chúng ta muốn những nụ cười đó, thì chúng ta phải tạo những lý do để chúng xuất hiện.

Ẩn Tâm Lộ, Thursday, January 07, 2016

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

ĐỜI SỐNG CỦA TÔI KHÔNG CÓ BẮT ĐẦU HAY CHẤM DỨT

Ở Dharamsala, trong những người Tây Tạng lưu vong, chúng ta đi gặp người này, một con người trọn vẹn mà chỉ tiếp cận với người ấy có thể thay đổi chúng ta. Đó là kinh nghiệm được liên hệ bởi nhà tâm lý học nổi tiếng Paul Ekman: khi ông bắt tay Đức Đạt Lai Lạt Ma, ông nói rằng ông có cảm giác ông đang “chạm” lòng từ bi. Ông khám phá rằng sự ân cần có thể “sờ mó” được, và đời sống của ông đã được chuyển hóa bởi kinh nghiệm này.Quá khứ cá nhân của Ekman được đánh dấu bởi thời thơ ấu khó khăn, trang bị cho ông những cảm giác của sân hận và phẩn uất. Sau khi gặp gở Đức Đạt Lai Lạt Ma, ông tìm thấy sức mạnh của sự tha thứ và không bao giờ phát sinh sân hận một lần nữa. Đã trở thành một người khác, ông tự hỏi về sự biến thái này. Ông đi đến kết luận rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể làm cho những người khác tốt lành hơn bởi vì trong phạm vi của sự thiền quán thường nhật, ngài cũng hoàn toàn tưới tẩm tâm thức của ngài trong từ ái và bi mẫn cho nên ngài có thể trao truyền những phẩm chất này một cách trực tiếp đến những  người khác.

Để gặp Tenzin Gyatso, Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn, chúng ta đi đến bang Himachal Pradesh của Ấn Độ. Cũng được gọi là “Vùng đất của Chư Thiên”, vùng này ở Tây Bắc Ấn Độ trải dài đến chân núi của dãy Hy Mã Lạp Sơn, những vùng mà đỉnh núi được bao phủ bởi tuyết trắng trong những tầng ở trên bình nguyên Kangra. Kangra một lần đã là thành phố của những đại vương (maharajas) và ngã tư của những nền văn hóa Ấn Độ – Moghul, Sikh, rồi Anh Quốc, và cuối cùng là Tây Tạng.

Về địa lý chúng ta ở Ấn Độ, nhưng về tâm linh chúng ta ở trong lãnh địa của Tây Tạng. Tại những không gian thông thường, thung lũng vang dội với lời kêu gọi sâu lắng từ những âm thanh của nghi lễ Tây Tạng: radong [kèn khổng lồ kêu như voi rống], gyaling [như kèn cổ truyền Việt Nam], và kangling [kèn làm từ một lóng xương ống]. Trong những nhạc cụ này, có thứ thường được làm từ những xương của một con bò bướu trẻ (Brahman), những tu sĩ trên Nóc Nhà Thế Giới đã trích ra những âm thanh uy nghiêm, cao vút để khai mở tâm thức đến những không gian thiêng liêng.  Cầu nguyện có mặt ở mọi nơi, được thì thầm bởi những người hành hương tay lần chuỗi hạt, được chạm khắc trên những bức tường nhà, được in bằng mực đen trên những tấm vải vuông của bốn đại và cột vào những cột trụ. Gió thổi qua những mẫu tự thiêng liêng và mang chúng đi đến những không gian xa xôi rộng lớn, truyền đi những sự gia hộ đến tất cả chúng sanh mà nó chạm đến.

Khu cư trú của Đức Đạt Lai Lạt Ma được xây dựng trên đỉnh một ngọn đồi nhìn khắp vùng McLeod Ganj. Đồi trạm này được đặt tên của một Thống đốc người Tô Cách Lan của bang Punjab, được sử dụng như trại nghĩ hè của những viên chức hoàng gia Anh Quốc; ngày nay nó đã trở thành một “tiểu Lhasa”. Đó là ngôi nhà của hơn mười nghìn người – một phần tư là tăng ni – sống trong những tu viện được sơn màu đất vàng hay nâu đỏ và chen chúc nhau trên những chân đồi cao của rặng Dhauladhar. Nhiều khách sạn rải rác khắp vùng, vì mọi người đến từ khắp nơi trên thế giới đến để viếng thăm thị trấn này với những con đường nhỏ và dốc của nó, họ đến để thấm nhuần những giáo huấn của Đức Đạt Lai Lạt Ma ban bố trong Đại Cầu Nguyện Pháp Hội (Great Monlam), lễ hội của những lời cầu nguyện ngưỡng vọng bắt đầu ở Lhasa trong tháng đầu tiên của lịch Tây Tạng. Truyền thống đã được tiếp tục trong lưu vong, hấp dẫn không chỉ hàng trăm người viếng thăm Tây Tạng mà cả đến những người Âu châu, Úc châu, và Mỹ châu. Họ đến như những người hoặc là Phật tử hay quan sát viên tò mò, và đến với họ là những người Á châu từ Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan, Việt Nam, Mã Lai, Singapore, Hồng Công, và Đài Loan. Với việc phục hồi giới luật tu sĩ ở Mongolia và và những nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ như Kalmykia, Buriatia, và Tuva, những nhóm từ Trung Á cũng đã đến hơn một thập niên qua để tỏ lòng tôn kính với Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Trên  khu cư trú vây quanh bởi những cây sồi, cây vân sam, và cây tuyết tùng Hy Mã Lạp Sơn với những bóng cây mảnh khảnh, tráng lệ, những con đại bàng trắng mõ vàng lượn vòng, cùng với những con diều và những con chim ăn thịt khác. Những con chim sải cánh từng đôi, một con đại bàng và một con quạ bay với nhau, tạo thành những vòng cung chớp nhoáng trên bầu trời, lên và xuống với vận tốc chóng mặt.

Đó là vào tháng Hai năm 2008, chỉ trước tết Tây Tạng, Losar, ngày đầu tiên của năm âm lịch. Vào sáng sớm, những tu sĩ Tây Tạng với áo quần sặc sở biểu diễn những điệu múa cham, nghi lễ nhằm mục đích xua tan những tiêu cực của năm cũ và để tránh những linh thức xấu ác. Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong khóa tu, chỉ cho phép một vài cuộc phỏng vấn. Một nhóm tu sĩ Mongolia tập họp trước chung quanh cửa ra vào khu vực biệt điện trong những y áo nghi lễ dệt bằng lụa thổ cẩm với trang sức bạc.

Theo lịch sử, những người mãnh liệt này đã bảo vệ Đức Đạt Lai Lạt Ma chống lại người Mãn Châu xâm nhập; những vị Khan – vua Mông Cổ – này đã thề bảo vệ chủ quyền của Nóc Nhà Thế Giới, người họ xem như lãnh đạo tinh thần của họ. Ở Mongolia ngày nay Phật Giáo đã hồi sinh, những chùa viện bị tàn phá trong những thập niên cộng sản đã được hồi phục. Nhưng chỉ có một phần năm dân số Mongolia là người Mông Cổ – đa số là người Hoa. Đây là hoàn cảnh mà Đức Đạt Lai Lạt Ma lo ngại cho quê hương của ngài. Tây Tạng trong thực tế bị sự tấn công dân số của người Hán và bị buộc đồng hóa.

Những người Mongolia đã phải đi ra, với đôi mắt đẫm lệ của họ, sau khi dâng cúng vị lãnh đạo tinh thần một kata, khăn choàng nghi lễ, được làm bằng lụa xanh và thêu tám biểu tượng cát tường. Vị thư ký riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Tenzin Taklha, gọi tôi khi Đức Thánh Thiện ra dấu bằng đôi tay của  ngài, mời tôi đến với ngài mà không còn chuyện gì làm trong phòng phỏng vấn. Những cửa sổ màu hồng rộng mời bầu trời vô tận vào căn phòng dài được trang bị khiêm tốn, những bức tường phủ đầy những tranh thangka, những bức họa vải trình bày những hình ảnh của những bậc đại bi Giác Ngộ.

Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về ngài trong riêng tư, cũng với sự vui vẻ, tự nhiên, giản dị như ở trên diễn đàn quốc tế. Sự vui tươi lây lan của ngài có thể nhanh chóng nhường cho nổi buồn khi những khổ đau của thế giới được đề cập: “Nhiều Đức Phật đã đến trong chúng ta, tuy thế loài người tiếp tục khổ đau. Đó là thực tế của cõi luân  hồi. Đó không phải là sự thất bại của chư Phật, nhưng là do con người không đem giáo huấn vào thực tập.”

Ẩn Tâm Lộ, Saturday, January 09, 2016

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

TÔI HOAN HỈ LÀ CON CỦA NHỮNG NÔNG DÂN GIẢN DỊ

Đời Sống Mỗi Ngày Của Tôi

NHỮNG NGÀY TRONG ĐỜI TÔI bắt đầu vào khoảng ba đến ba giờ rưởi sáng. Khi thức dậy, tôi nghĩ về Đức Phật, và tôi trì tụng những lời tán thán được viết bởi đại hiền nhân Ấn Độ, Long Thọ. Tôi đọc lời cầu nguyện nằm xuống, hai tay chấp lại, nửa tôn kính, nửa như ngủ, …

Như một tu sĩ hành giả, ngay khi thức dậy tôi tỏ lòng quy kính Đức Phật, và tôi cố gắng để chuẩn cho tâm tư tôi vị tha hơn, từ bi hơn, trong ngày ấy để tôi có thể làm lợi ích cho chúng sanh. Rồi tôi tập thể dục – tôi đi trên máy đi bộ treadmill.

Khoảng năm giờ tôi ăn điểm tâm; sau đó tôi có thêm vài buổi thiền tập nữa, và tôi trì tụng cho đến tám hay chín giờ. Sau đó tôi thường đọc báo, nhưng đôi  khi tôi cũng đi vào phòng phỏng vấn cho những cuộc hội kiến. Nếu không có chuyện gì khác để làm, chính yếu tôi học tập kinh điển mà những vị thầy đã dạy cho tôi trong quá khứ, nhưng tôi cũng đọc một số sách vở mới đây.

Sau đó tôi thực tập thiền phân tích về lòng vị tha, mà tôi gọi là bodhicitta, hay “tâm giác ngộ”, tâm bồ đề, trong thuật ngữ Phật Giáo. Tôi cũng thiền quán về tánh không. Tâm giác ngộ và tánh không là những để mục thiền quán quan trọng nhất trong sự thực tập hàng ngày của tôi, vì chúng sẽ hổ trợ tôi suốt cả ngày. Bất cứ khó khăn gì, những sự kiện buồn, hay tin tức xấu có thể hiện lên, những thiền quán này cho phép tôi ổn định tâm thức tôi một cách sâu sắc và hổ trợ nó từ bên trong.

Sau buổi ăn trưa, tôi trở lại phòng phỏng vấn cho những buổi hội kiến khác. Vào lúc này [tết Tây Tạng], hầu như mỗi tuần, tôi tiếp những người Tây Tạng vừa mới đến từ quê hương Tuyết Sơn.

Khoảng năm giờ là thời uống trà buổi chiều của tôi. Như một tu sĩ Phật Giáo, tôi không ăn tối. Nếu đói bụng, tôi nhẫm một miếng bánh ngọt, thỉnh cầu Đức Phật tha thứ. Sau đó tôi tận tụy cho những buổi cầu nguyện và thiền tập nữa…

Khoảng bảy hay tám giờ tôi đi ngủ – không phải không có sự thẩm tra lại những gì tôi đã làm suốt trong ngày trước. Nhiều đêm tôi đã ngủ bảy hay chín giờ đồng hồ. Đó là lúc tuyệt vời nhất! Hoàn toàn thư giản … (Cười).

Trong vòng tay của mẹ

Tôi Được Sinh Ra Vào Ngày Năm Tháng Năm

TÔI ĐƯỢC SINH RA VÀO ngày năm tháng Năm, năm Con Heo Gỗ của lịch Tây Tạng, hay sáu tháng Bảy năm 1935, của Dương Lịch. Tôi được đặt tên là Lhamo Thondup, có nghĩa là, “Thiên nữ, người hoàn thành mọi ước nguyện.” người Tây Tạng đặt tên người, nơi chốn, và sự vật thường nghe rất tượng hình khi được phiên dịch. Tsangpo, thí dụ thế, tên của con sông lớn nhất ở Tây Tạng – sẽ trở thành dòng Brahmaputra dễ sợ ở Ấn Độ – có nghĩa là “Người Làm Cho Trong Sạch”.

Tên của ngôi làng tôi là Takster, hay “Tiếng Rống của Cọp”.  Khi tôi là một đứa bé, đó là một làng xã nhỏ nghèo, ở trên đồi nhìn xuống một thung lũng rộng. Đất đai không phải để cho những nông dân mà cho những  người du mục, do bởi thời tiết không thể dự đoán được trong vùng. Khi tôi còn nhỏ, gia đình tôi, cùng với khoảng hai mươi gia đình khác, kiếm được ít ỏi cho cuộc sống trên vùng đất này.

Takster tọa lạc ở vùng cực đông bắc của xứ sở, trong tỉnh Amdo. Ngôi nhà mà tôi sinh ra là đặc thù của vùng đó ở Tây Tạng – được xây dựng bằng đá và đất, với nóc bằng phẳng. Những máng xối làm bằng nhánh cây bách xù xoi thủng đến đường nước mưa, đó là vật liệu bất thường trong khối kiến trúc đó. Ngay phía trước căn nhà, giữa hai cánh là một sân  nhỏ, giữa sân, là một trụ cao để treo lá cờ với nhiều lời cầu nguyện được đính vào.

Thú vật được nhốt phía sau nhà, vốn có sáu phòng: nhà bếp, nơi mà hầu như chúng tôi dành nhiều thời gian nhất trong mùa đông, phòng cúng kiến với một bàn thờ  nhỏ, nơi mà tất cả chúng tôi tập họp vào buổi sáng để cúng dường; phòng ngủ của cha mẹ tôi; một phòng khách; một kho chứa những vật thực, và cuối cùng là chuồng cho thú vật.

Trẻ con không có phòng riêng cho chúng. Như một bé con, tôi ngủ với mẹ tôi, và sau đó trong nhà bếp, gần lò lửa. Chúng tôi không có ghế hay giường, nói một cách chính xác, nhưng có những tấm gỗ phẳng được dựng lên để ngủ trong phòng cha mẹ tôi và trong phòng khách. Chúng tôi cũng có vài thùng gỗ, được sơn màu sắc sáng chói.

Tôi Có Thể Nhìn Thấy Những Tâm Hồn Khiêm Hạ Nhất

GIA ĐÌNH TÔI SỐNG trong một vùng rất xa xôi hẻo lánh. Sining, thủ phủ của Amdo, là thị trấn gần nhất, nhưng cũng phải mất ba giờ đồng hồ đi bằng ngựa hay lừa để đến đấy. Làng chúng tôi rất nghèo, chỉ có thể nói lời cảm ơn người anh tôi, người được nhìn nhận là một vị lạt ma tái sanh từ đại tu viện Kumbum, đó là điều chúng tôi hơi hơn những người khác.

Tôi luôn luôn vui thích với sự nguyên sơ của tôi. Nếu tôi được sanh ra trong một gia đình giàu có hay danh giá, thật khó để tôi chia sẻ những sự quan tâm cho những người Tây Tạng giản dị. Những năm tháng thơ ấu của tôi ở Takster có một ảnh hưởng sâu sắc với tôi. Chúng cho phép tôi nhìn thấy vào trong những tâm hồn khiêm hạ nhất, để đồng cảm với họ, khi tôi cố gắng để làm cho những điều kiện sống của họ tốt đẹp hơn.  

Tôi có nhiều anh chị em; mẹ tôi sinh ra mười sáu đứa con trong thế giới này, nhưng chỉ có bảy đứa sống còn. Chính là người chị tôi đã giúp mẹ tôi khi tôi được sinh ra, vì lúc ấy chị đã mười chín tuổi. Chúng tôi rất gần gũi với nhau, và có rất nhiều niềm vui trong đời sống khó khăn ấy.

Cha mẹ chúng tôi là những nông dân nhỏ, nói một cách nghiêm túc, nhưng không phải là những bần nông, vì họ mướn một thửa đất đai cho chính họ. Lúa mạch và lúa mạch đen là những hạt chính ở Tây Tạng. Gia đình tôi gieo trồng chúng, cùng với khoai tây. Nhưng nhiều khi nổ lực cả năm bị tiêu tan bởi những trận mưa bảo hay khô hạn.

Chúng tôi cũng có một ít gia súc, là một nguồn lợi đáng tin cậy hơn. Tôi nhớ năm hay sáu con dzomo (thú lai giữa yak và bò), mà mẹ tôi thường vắt sửa. Ngay khi tôi đứng được trên bàn chân tôi, tôi liền đi với mẹ tôi đến chuồng thú. Trong áo tôi, tôi mang theo một cái chén, và bà sẽ đổ sửa vào, vẫn còn ấm, ngay trong ấy.

Chúng tôi cũng có một đàn thú nuôi khoảng tám mươi con, cả cừu và dê, và cha tôi luôn luôn có một hay hai con ngựa, đôi khi ba con ngựa, mà ông rất gắn bó. Trong vùng này, ông có tiếng là biết chăm sóc ngựa và thậm chí biết chửa trị chúng nếu gặp dịp.

Cuối cùng, gia đình tôi nuôi hai con tuyết ngưu (yak), là tặng phẩm của thiên nhiên cho loài người, vì chúng có thể sống còn ở một độ cao trên mười nghìn bộ. Chúng tôi cũng nuôi những con gà mái để lấy trứng, mà tôi chịu trách nhiệm để lùa chúng vào chuồng. Tôi thường tự thích thú bằng việc leo lên ổ gà, mà ở đấy tôi thích ngồi trên cao và túc túc như một con gà mái!

Cha Mẹ Tôi Không Bao Giờ Nghĩ Tôi Có Thể Là Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Mười Bốn

CHÍNH MẸ TÔI đã nhắc tôi về những ký ức hai năm đầu trong đời tôi. Bà ngạc nhiên khi nghe tôi lập đi lập lại rất sớm: “Tôi đến từ vùng trung Tây Tạng, tôi phải trở lại đấy! Tôi sẽ đem cả nhà đi với tôi.” Và trò chơi thích thú của tôi là khăn gói đồ đạc của tôi; sau đó tôi sẽ nói lời giả biệt với mọi người và giả vờ ra đi, ngồi dạng chân như cởi ngựa. Thân quyến tôi nghĩ đó là trò chơi của trẻ con, và không ai chú ý đến. Chỉ sau này chính mẹ tôi mới nghĩ rằng tôi có một trực giác về số phận nào đó sẳn dành cho tôi.

Thành thật mà nói, cha mẹ tôi không bao giờ nghĩ rằng tôi có thể là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn. Vài tháng trước khi tôi ra đời, cha tôi đau khổ với cơn bệnh kỳ lạ làm ông mất ý thức nhiều lần và những cơn chóng mặt lập đi lập lại, cho đến cuối cùng ông phải nằm liệt giường để lại tất cả công việc nhà cho một bà bầu. Một cách kỳ lạ, vào buổi sáng tôi ra đời ông cảm thấy được chửa trị, ngồi dậy như không khỏe mạnh, và đọc lời cầu nguyện, giống như ông chưa từng bệnh tật. Khi ông biết là con trai ông vừa được sinh ra vào lúc bình minh ngày may mắn ấy, ông nói với mẹ tôi rằng đứa bé này chắc chắn không giống như những đứa khác, và nó nên trở thành một tu sĩ.

Tôi Nhận Ra Xâu Chuỗi Của Tôi

TÔI VẪN TỰ HỎI cho đến ngày hôm nay, làm thế nào đoàn tìm kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn có thể khám phá ra ngôi làng bé nhỏ của tôi vốn rất xa với mọi nơi, lạc lõng trong những đồng cỏ mênh mông của Amdo.

Năm 1933, tiền thân của tôi, Thubten Gyatso, đã rời thế giới này vào tuổi năm mươi bảy. Thân thể của ngài được xông ướp theo phong tục, và những vị tu sĩ đã giật mình khám phá vào một buổi sáng rằng đầu của ngài, vốn được hướng về phía nam, đã quay về phía đông bắc. Chuyển động bất thường này đã được diễn dịch như một dấu hiệu chắc chắn chỉ đến một vùng của hóa thân tiếp theo của ngài.

Chẳng bao lâu sau đó, giấc mộng của vị quan nhiếp chính xác nhận dấu hiệu này. Trên mặt nước thiêng liêng của Lhamo Lhatso, ông đã thấy mẫu tự Ah, Ka, và Ma của Tây Tạng lấp lánh. Sau đó có sự hình thành hình ảnh một tu viện ba tầng, với một mái màu ngọc lam và vàng, và rồi một ngôi nhà nhỏ xuất hiện. Nó có những máng xối với cấu trúc kết nối bất thường. Không nghi ngờ gì đối với vị nhiếp chính rằng mẫu tự Ah biểu thị cho tỉnh Amdo, đối với việc tiền thân quá cố của tôi đã quay đầu ngài sau khi chết. Ka dường như được trình bày một cách hợp lý là viết tắt của tu viện Kumbum, với ba tầng của nó và mái ngọc lam. Họ vẫn phải xác định ngôi nhà nhỏ với những máng xối kỳ lạ.

Khi đoàn tìm kiếm thấy, trong thung lũng, những nhánh cây bách xù xoắn lại với nhau chạy dưới mái nhà một nông dân, thì rõ ràng với mọi người là Đức Đạt Lai Lạt Ma mới đang sống ở đây. Và sau khi khảo sát, họ nghiên cứu một đứa bé được sinh ra trong căn nhà này, những thành viên trong nhóm quyết định hiện diện tại cửa nhà chúng tôi và hỏi thăm để tạm trú qua đêm.

Vị lạt ma, người hướng dẫn phái đoàn giả dạng như người phục vụ và đi vào nhà bếp. Tôi chạy đến ông ta, ngồi trên vạt áo ông, và đòi xâu chuỗi mà ông đang đeo, thừa nhận đó là của tôi. Sự thân mật này làm mẹ tôi xấu hổ, nhưng vị lạt ma đề nghị tặng tôi xâu chuối ấy nếu tôi có thể nói tên ông. Tôi trả lời không do dự: “Ông là Sera Aga,” bằng tiếng địa phương, có nghĩa: “Ông là lạt ma ở Sera.” Tôi cũng gọi tên những vị đồng hành của ông và đùa vui với ông trong suốt buổi tối đó, cho đến khi đi ngủ. Buổi sáng hôm sau đoàn tìm kiếm trở lại Lhasa, không nói gì với cha mẹ tôi.

Tôi Vượt Qua Những Kiểm Nghiệm Về Việc Nhớ Kiếp Sống Trước Của Tôi

BA TUẦN SAU, một phái đoàn đầy đủ những lạt ma và chức sắc tôn giáo đến thăm viếng chúng tôi một lần nữa. Lần này họ mang theo vài vật dụng cá nhân của vị tiền thân tôi, để lẫn với những thứ khác không liên quan đến ngài. Việc này để cho thấy rằng những vị tái sanh non trẻ kia nhớ lại những vật dụng và những người từ kiếp sống trước hay có thể đọc tụng những bài kinh trước khi được  học.

Khi họ chỉ tôi hai cây gậy, tôi chạm vào một cây một cách do dự, nhìn nó trong một vài giây và sau đó lấy cây kia, vốn thuộc về Đức Đại Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba. Sau đó tôi nhẹ nhàng vỗ vào tay của vị lạt ma đang nhìn chăm chăm vào tôi, thừa nhận rằng cây gậy này của tôi và trách ông ta sao lấy cây gậy ấy của tôi.

Giống như thế, tôi nhận ra, trong vài xâu chuỗi đen và vàng, những thứ thuộc về vị tiền thân của tôi. Cuối cùng, họ ra hiệu cho tôi chọn một trong hai cái trống: một nhỏ và giản dị, thuộc về Đức Đạt Lai Lạt Ma 13 sử dụng để gọi thị giả; và cái kia lớn và trang trí với những viền vàng. Tôi đã chọn cái giản dị, mà tôi dùng để rung lên bắt đầu theo phong tục của những sự thực hành nghi lễ.

Những việc kiểm nghiệm này, mà tôi đã vượt qua thành công, đã làm cho những thành viên của đoàn tin rằng họ đã tìm ra được hóa thân tái sanh mà họ đang tìm kiếm. Đó cũng là một điềm lành là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đã ở lại tu viện bên cạnh khi ngài từ Trung Hoa trở về. Ngài đã được chào đón ở đó bằng một nghi lễ, và cha tôi được chín tuổi vào lúc đó, đã hiện diện trong buổi lễ đó. Vị trưởng đoàn tìm kiếm nhớ rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đã quên một đôi hia vàng ở tu viện, và điều đó được diễn dịch như một dấu hiệu rằng ngài sẽ trở lại. Ông cũng ngắm nhìn một cách nhanh chóng ngôi nhà nơi tôi được sanh ra và lưu ý rằng khung cảnh nơi ấy thật là xinh đẹp.

Ẩn Tâm Lộ, Sunday, January 10, 2016

Trích từ quyển My Spiritual Jouney của Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

DÒNG TRUYỀN THỪA HÓA THÂN CỦA TÔI

Tôi Được Triệu Đến Để Trở Thành Đức Đạt Lai Lạt Ma Để Phụng Sự Người Khác

TÔI THƯỜNG NÓI CHUYỆN một cách liên tục với những người làm vườn, những người phục vụ, những người quét tước. Hầu hết họ là những người bình dị, xử sự với tôi một cách cung kính, vì tôi là Đức Đạt Lai Lạt Ma. Cũng có những người già hơn, những người đang biểu lộ hy vọng của họ, ngay vào lúc mới mẻ ấy, cho một tương lai tốt đẹp hơn với sự trị vì của tôi.

Những người quét dọn già nhất đã biết Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, vì họ đã phục vụ dưới triều đại của ngài. Họ nói với tôi nhiều giai thoại về đời sống của ngài. Họ giúp tôi tỉnh thức về những trách nhiệm tương lai của tôi. Sau này, tôi nghĩ rằng làm Đức Đạt Lai Lạt Ma là một vị trí khó khăn, phức tạp. Tôi tượng trưng cho một sự thử thách thật sự, và nhu cầu để đối diện nó sắp xảy ra đang gia tăng. Như một tu sĩ Phật Giáo, tôi cảm kích giá trị những đời sống quá khứ của tôi. Đạo đức của nghiệp lành được tích tập trong những kiếp sống trước đây cho tôi, trong đời sống hiện tại, nhiều khả năng để giúp đở người khác và để phụng sự Đạo Phật. Nghĩ lại tất cả những điều này, tôi đã thấy và tiếp tục thấy một động cơ bổ sung – một mong muốn được củng cố để làm mọi việc tôi có thể vì lợi ích của những người khác.

***

Dần dần, cậu bé hiểu rằng cậu được gọi đến để đảm đương những chức năng cao cả, một trách nhiệm khác với những người anh em và thân quyến kia của cậu. Từ cung cách người khác xem cậu và hành động đối với cậu, cậu nhận ra rằng cậu là Đức Đạt Lai Lạt Ma ngay cả trước khi cậu biết một cách chính xác điều gì được hàm ý trong danh hiệu ấy. Cậu thấy rằng những điều to lớn đang được mong đợi ở cậu, và cậu muốn sống xứng đáng với hy vọng mà người ta có với cậu. Nhiệm vụ nặng nề trong phạm trù chính trị nơi mà những quốc gia lớn, Ấn Độ và Trung Hoa, bị biến động chưa từng có khi những đế quốc Anh và Nga tranh cải về Nóc Nhà Thế Giới. Nhưng vị quốc vương trẻ đã thấy một thử thách trong hoàn cảnh này, một khi cậu quyết định đương đầu bằng việc đặt tất cả những khả năng của cậu để phụng sự con người.

Phần phỏng vấn này mà trong ấy Đức Đạt Lai Lạt Ma liên hệ đến những năm đầu tiên ở Lhasa phải chấm dứt, chúng tôi bị cắt ngang. Một tu sĩ đi vào phòng phỏng vấn và thì thầm vài điều gì đó với Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài lập tức đứng dậy, xin lỗi, và rời phòng.

Thư ký riêng của ngài giải thích rằng một vị đại sư đã lìa thân xác. Mindroling Rinpoche đã qua đời hai ngày trước đây. Một phái đoàn từ tu viện của ngài đã đến để thỉnh cầu những hướng dẫn về các nghi thức để tiến hành và những sắp xếp để thực hiện.

Mindroling Rinpoche

Hai mươi phút sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma trở lại. Có một biểu lộ nghiêm trọng trong mắt ngài, nhưng không buồn thảm. Trong một giọng quả quyết, ngài nói về vị lạt ma này, người rất gần gũi với ngài và chỉ hơi già hơn một tí. Sự viên tịch của ngài là một dịp nhắc nhở về tính vô thường, trong ý nghĩa của Phật Pháp, nó thừa nhận tính chất tạm thời của chúng sanh và các hiện tượng. Mọi thứ được sinh ra từ các nguyên nhân và điều kiện là không bền. Vô thường mâu thuẩn với cảm giác của chúng ta về tính chất trường cửu của thời gian và sự khao khát bất tử của con người. Nó là không thể chịu nổi đối với những người bình thường, những người chưa được rèn luyện tâm thức của họ để nhận thức về sự trống rỗng của thế giới hiện hữu. Phủ nhận tính vô thường tương ứng với những nguyên nhân chính của khổ đau trong sự tồn tại của chúng ta. Giáo huấn nhà Phật kêu gọi chúng ta quán chiếu và chấp nhận nó.

Người Tây Tạng Sẽ Quyết Định Họ Có Muốn Một Vị Đạt Lai Lạt Ma Thứ 15 Hay Không

MINDROLING RINPOCHE viên tịch hai ngày trước đây. Vì từ thời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, những liên kết rất đặc biệt đã tồn tại giữa những dòng truyền thừa của chúng tôi. Ngài bảy mươi tám tuổi, gần tám mươi…

Tôi không biết tôi sẽ sống bao nhiêu năm nữa, tám mươi, chín mươi, một trăm. Tôi không biết … (cười).

Hôm nay tôi hơn bảy mươi, chính xác là bảy mươi hai. Thế nên rõ ràng … tôi là vị Đạt Lai Lạt Ma, và bên cạnh vị thứ nhất, tôi là một trong những vị sống lâu nhất. Tất cả những vị khác dừng lại trước tuổi bảy mươi … (cười) Tôi rất may mắn (cười).

Cùng lúc, như một hành giả Phật Giáo, tôi thiền quán liên tục về vô thường. Bây giờ, trường hợp của riêng tôi, vô thường đang trở thành hiện thực. Một hiện thực càng ngày càng gần hơn…

Từ năm 1969, tôi đã tiên liệu về điều đó và đã thực hiện những sự sắp xếp, tuyên bố rõ ràng rằng việc đó hoàn toàn tùy thuộc vào người Tây Tạng trong việc quyết định về thể chế Đạt Lai Lạt Ma nên tiếp tục hay không. Vào lúc ấy, một số người Tây Tạng bày tỏ sự quan tâm của họ về những gì sẽ xảy ra sau tôi và trong khoảng thời gian theo sau sự qua đời của tôi. Tôi đã tuyên bố ý kiến rằng nếu đại đa số người Tây Tạng muốn bảo tồn thể chế của những Đức Đạt Lai Lạt Ma, thì họ nên xem xét vài lựa chọn.

Mọi thứ thay đổi liên tục. Chúng ta phải hành động tùy vào thực tế mới, chỗ Tây Tạng được quan tâm và đưa vào nghiên cứu, ngày nay, không chỉ người Tây Tạng mà người Mongolia cũng vậy, những người theo truyền thống liên hệ rất gần gũi với thể chế của những Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nếu những người này muốn giữ thể chế những Đức Đạt Lai Lạt Ma, họ phải tôn trọng phong tục tìm kiếm một vị hóa thân mới phù hợp với nghi thức. Đưa ra điều đó để cho thấy xu hướng rõ ràng của một vị hóa thân là để tiếp tục nhiệm vụ chưa được hoàn tất bởi vị tiền thân, cho nên một cách hợp lý, nếu cái chết của tôi xảy ra khi tôi đang ở bên ngoài Tây Tạng, thì sự tái sanh của tôi cũng sẽ biểu hiện ở quốc ngoại để hoàn thành những gì tôi đã để lại chưa hoàn tất.

Nhưng cũng có những khả năng khác. Nhiều năm trước, tôi đã giải thích rằng theo truyền thống Tây Tạng, tiến trình của sự thừa kế có thể quyết định trong một cách khác.

Chức Đạt Lai Lạt Ma Của Tôi

MONG ƯỚC CỦA TÔI  là thế quyền sẽ được trao lại cho một vị thủ tướng, Kalon Tripa, và ông ấy được bầu cử lần đầu tiên vào năm 2001. Cho nên bây giờ tôi làm việc bán thời gian, và đôi khi tôi hỏi tôi có dự định về hưu không. Việc đó có thể không? Một Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể về hưu chứ?

Không, tôi không thể trở thành một người hưu trí (cười). Ngoại trừ đại đa số không còn xem tôi như một Đức Đạt Lai Lạt Ma nữa mà thôi – sau đó tôi sẽ có thể hưu trí! (cười).

Tôi đang đùa!

Từ năm 2001, chúng tôi đã có một lãnh đạo của ngành hành pháp được bầu lên mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Đó là vấn đề tôi có thể trở thành bán hưu trí trong chính trị như thế nào. Ở Tây Tạng năm 1952, tôi đã bắt đầu những sự thay đổi cho việc chuẩn bị dân chủ hóa. Nhưng chúng tôi không thể thiết lập việc vận động cho chương trình hiện đại hóa của chúng tôi, vì có quá nhiều sự thay đổi xảy ra.

Sau đó chúng tôi đến Ấn Độ như những người tị nạn, tất cả chúng tôi đều thích chế độ dân chủ. Từ năm 2001, những quyết định chính đã được thực hiện bởi những người được bầu lên, chứ không phải tôi. Trong thực tế, tôi hành động như một cố vấn kinh nghiệm. Trong năm 2006, Samdhong Rinpoche đã tái đắc cử, và quy định là mỗi người chỉ có thể phục vụ hai nhiệm kỳ. Cho nên trong bốn năm một người mới sẽ được chọn qua bầu cử.

Tôi không nghĩ việc duy trì thể chế Đạt Lai Lạt Ma là quan trọng. Chúng tôi có thể thực hiện một sự phân biệt rõ ràng giữa việc bảo vệ văn hóa Tây Tạng và Phật Giáo Tây Tạng, một mặt, và bảo tồn văn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma về mặt kia. Thể chế này, giống như những thứ khác, xuất hiện trong một thời điểm nào đó và rồi biến mất; nhưng Phật Giáo Tây Tạng và di sản văn hóa của nó, sẽ tồn tại cùng với người Tây Tạng.

Đó là tại sao, trong năm 1992, tôi đã tuyên bố rằng, khi thời điểm đến cho chúng tôi trở về quê hương chúng tôi, Tây Tạng – đó là khi chúng tôi có được một khu tự trị thật sự – thế thì tôi sẽ trao toàn bộ thẩm quyền hành pháp của tôi như một Đức Đạt Lai Lạt Ma cho chính phủ Tây Tạng.

Tại Sao Tôi Không Thể Tái Sanh Như Một Phụ Nữ Xinh Đẹp?

TRONG QUÁ KHỨ, những hóa thân nào đó được nhìn nhận trước khi cái chết của vị tiền nhiệm của họ xảy ra, vị ấy chọn lựa những người thừa kế tương xứng. Trong thế hệ của tôi, sự kiện này có thể hình thành, tùy thuộc vào những hoàn cảnh cụ thể vào những thời điểm nhất định.

Những người phương Tây hấp dẫn với ý kiến rằng vị hóa thân tiếp theo của Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể là nữ. Một cách lý thuyết, vâng, điều ấy là có thể. Lý do sâu sắc của việc tái sanh là để đảm đương nhiệm vụ vốn không được hoàn tất bởi vị tiền nhiệm. Một cách hợp lý, nếu cái chết của tôi xảy ra trong lưu vong, thì sự tái sanh của tôi sẽ đến từ quốc ngoại nhằm để hoàn thành những gì tôi đã bắt đầu.

Mục đích chính yếu của việc tái sanh là để phục vụ Phật Đạo. Trong giáo huấn nhà Phật, nam và nữ có cùng những quyền lợi căn bản. Nhưng trong thực tế, hai nghìn năm trăm năm trước, truyền thống Ấn Độ thừa nhận tính ưu việt của Tăng. Mặc dù những việc truyền tỳ kheo ni giới một cách lý thuyết cũng dành cho ni trong cộng đồng Phật Giáo, nhưng ở Tây Tạng, Tích Lan, và Thái Lan chư ni bị ngăn trở đối với việc nhận những giới luật cao nhất [là tỳ kheo ni]. Ở Tây Tạng, loại truyền giới này được trao cho tăng sĩ bởi Tịch Hộ trong khi chư ni bị loại ra. May mắn thay, ở Trung Hoa [cũng như Việt Nam] việc truyền cụ túc giới cho chư ni được duy trì cho đến ngày hôm nay. Có những sự thảo luận ngày nay về việc lập lại sự truyền đại giới cho chư ni.

Ngay cả thế, truyền thống Tây Tạng có những dòng truyền thừa của những sự tái sanh nữ cao cấp, như Dorje Phagmo, một dòng truyền thừa hơn sáu trăm năm. Tôi không biết những người nữ tái sanh này đều là ni hay  không, nhưng trong hầu hết mọi trường hợp, tôi nghĩ họ phải thọ giới. Do đó, tùy theo những trường hợp, nếu một Đức Đạt Lai Lạt Ma là nữ có thể hổ trợ chúng sanh tốt đẹp hơn phụng sự cho Phật đạo, thì tại sao chúng ta lại bỏ lở dịp này?

Hảo tướng là một trong tám phẩm chất của thân thể con người quý giá về trình độ vật lý. Rõ ràng nếu một nữ Đạt Lai Lạt Ma hình tướng xấu xí, thì vị ấy sẽ hấp dẫn ít người hơn. Mục tiêu của một tái sanh nữ là để trao truyền giáo huấn nhà Phật cho công chúng trong một cách thuyết phục. Không cần phải dành hai mươi bốn giờ một ngày để hành thiền và tụng niệm. Từ quan điểm này, vấn đề xuất hiện có tầm quan trọng của nó. Do đó, đôi khi tôi nói với mọi người, nửa đùa rằng, nếu tôi tái sanh như một người nữ, tự nhiên tôi sẽ là một phụ nữ với thân thể rất xinh đẹp.

Tôi không biết là tôi sẽ chỉ định một vị Đạt Lai Lạt Ma kế tiếp trong kiếp sống này của tôi không. Điều đó là có thể, tôi đang quán chiếu. Hãy để mọi  người cho ý kiến của họ, sau đó chúng ta sẽ thấy. Trong quá khứ, khoảng một thập niên trước, vấn đề này được tranh luận trong những vị thủ hộ của những dòng truyền thừa chính của Tây Tạng. Trong những tháng tới, chúng ta chắc chắn sẽ thấy một cuộc hội họp về chủ đề  này, cũng như việc truyền đại giới cho ni.

***

Giáo sĩ Tây Tạng bao gồm đại đa số những nam lạt ma, và tái sanh trong nam tướng theo truyền thống được xem như là tốt đẹp hơn, mặc dù thế, Phật tử Tây Tạng tuyên dương nữ tính như biểu tượng của trí tuệ và tôn kính Tara, Bậc Giải Thoát đã hoàn thành, người đã nguyện thành tựu Giác Ngộ trong thân nữ.

Có những dòng truyền thừa của nữ lạt ma, nhưng hiếm khi những lạt ma tái sanh không cùng giới tính với những hóa thân trước đó của họ. Cho nên Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố về người thừa kế như vậy là bất thường. Thật đúng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 tiếp tục làm mọi  người ngạc nhiên với sự cải cách táo bạo của ngài; trong việc áp dụng những phong tục cổ truyền của Tây Tạng vào thế giới hiện đại, ngài liên quan với việc bảo tồn tâm linh của những tập quán này hơn là hình thức bên ngoài của chúng. Dường như là ngài đang chuẩn bị để mở ra một vị thế mới trong vấn đề người thừa kế nhạy cảm của ngài, là điều nhắc lại vấn đề hệ thống tulku – hóa thân, nền tảng của Phật Giáo Tây Tạng.

Chúng Ta Không Có Bắt Đầu Hay Chấm Dứt

KHÁI NIỆM về một tuyến tái sanh cho những Đức Đạt Lai Lạt Ma coi như là sự tương tục giữa sự sống của hai người: vị tiền thân và sự tái sanh của vị ấy.

Phật Giáo chấp nhận sự tồn tại tương tục của một chúng sanh. Giáo thuyết của Đạo Phật về “vô ngã” có nghĩa là không có một tự ngã tồn tại độc lập bên ngoài thân thể, bởi vì “tự ngã” hay con người là được mệnh danh bởi sự phối hợp của thân thể và tâm thức. Có một tự ngã, nhưng không có một tự ngã độc lập tuyệt đối. Với việc quan tâm đến sự tiếp tục, Phật Giáo chấp nhận sự tương tục của chúng sanh, nhưng cũng tán thành khái niệm của một tự ngã “vô thỉ”, đó là một tự ngã không có bắt đầu và không có chấm dứt cho đến khi Quả Phật được thành tựu.

Có những loại tái sanh khác nhau. Một hóa thân của Đức Phật hay Bồ tát, có thể biểu hiện vài lần một cách đồng thời; những vị Bồ tát thấp tái sanh trong chỉ một người – đó là, chỉ một lần trong một thời kỳ. Nhưng bất cứ người nào, bất kể họ là một Bồ tát hay một người bình thường, là tái sanh từ “vô thỉ” và sẽ được sanh ra một cách vô tận. Sự tương tục luôn luôn ở đấy và sẽ luôn luôn ở đấy, trả nghiệp. Bây giờ, ở một cấp độ, nếu quý vị phát triển một sự thực chứng tâm linh nào đó, thế thì sự sanh ra qua nghiệp sẽ chấm dứt. Rồi thì, với năng lực ý chí, quý vị có thể chọn lựa sự tái sanh của quý vị. Loại tái sanh này chúng tôi gọi là hóa thân.

Tôi Có Thể Hóa Thân Trong Hình Thể Một Côn Trùng

TRƯỚC TIÊN NHẬN THỨC  những lạt ma hóa thân, hay tulku, là có vẻ  hợp  lý hơn. Niềm tin của Phật Giáo là nguyên lý của sự hóa thân là thực tế dĩ nhiên, rằng khái niệm duy nhất của một sự hóa thân là để cho phép người nào đó tiếp tục những nổ lực của vị đó để giải thoát tất cả chúng sanh khỏi khổ đau, chúng ta có thể hiểu rằng thật có thể nhận ra những đứa trẻ mà chúng là những sự tái sanh của những người nào đó. Điều đó cho phép chúng ta rèn luyện chúng và đưa chúng vào thế giới vì thế chúng có thể tiếp tục những nhiệm vụ của chúng ngay khi có thể. Dĩ nhiên những sai lầm có thể xảy ra trong tiến trình nhìn nhận, nhưng hiệu quả của hệ thống được chứng thực bởi đời sống của đại đa số những tulku – hóa thân. (Vài trăm vị đã được nhìn nhận ngày nay, trái lại ở Tây Tạng, trước khi sự xâm lăng của Trung Cộng, chắc chắn hàng nghìn vị).

Tiến trình của việc xác nhận có thể ít huyền bí  hơn là quý vị nghĩ. Trước tiên nhất, người ta tiến hành bằng việc loại trừ. Hãy nói về việc tìm kiếm một vị tu sĩ nào đó. Thứ nhất quý vị phải thiết lập thời gian và nơi chốn của người chết. Nếu quý vị nghĩ, theo kinh nghiệm của quý vị, theo nguyên tắc, rằng sự hiện thân mới sẽ được thai nghén trong năm tới, quý vị vẽ ra thời dụng biểu. Thế thì nếu lạt ma X chết năm Y, sự hiện thân tiếp theo chắc chắn sẽ được sanh ra mười tám tháng hay hai năm sau. Trong năm Y cộng năm (Y+5), đứa bé chắc chắn khoảng 3 đến 4 tuổi. Vậy là quý vị đã thu hẹp lãnh vực khảo sát xuống.

Sau đó quý vị xác định rõ nơi sanh có thể nhất. Thông thường điều đó rất dễ dàng. Đầu tiên quý vị tự hỏi nó là ở trong Tây Tạng hay nơi nào khác. Nếu là ở quốc ngoại, có một con số giới hạn những nơi chốn – trong những cộng đồng Tây Tạng ở Ấn Độ, Nepal, Thụy Sĩ, thí dụ thế. Sau đó quý vị quyết định trong thành phố nào quý vị có thể dễ tìm thấy đứa bé nhất. Điều này chắc chắn được suy diễn với sự liên hệ đến đời sống của vị tiền thân.

Bước tiếp theo là tập họp lại một đoàn tìm kiếm với nhau. Điều này không nhất thiết có  nghĩa là một nhóm người sẽ được hình thành gấp, giống như cho một cuộc săn tìm báu vật. Một cách tổng quát, khảo sát trong một cộng đồng để tìm kiếm là đủ nếu có đứa bé 3 hay 4 tuổi là một ứng viên khả dĩ. Thường thì quý vị có những dấu hiệu hữu ích, như những hiện tượng bất thường xảy ra lúc sanh. Hay khác hơn là đứa bé có thể chứng tỏ những phẩm chất khác thường.

Đôi khi có hai hay ba khả năng – hay hơn – tự biểu hiện ở cấp độ này. Hay một đoàn tìm kiếm có thể chứng tỏ là không cần thiết, vì vị tiền thân đã để lại thông tin chi tiết về tên của vị thừa kế và tên của cha mẹ vị ấy. Nhưng điều đó là rất hiếm hoi. Trong những trường hợp khác, những đệ tử của tu sĩ có thể có những giấc mộng rõ ràng hay những ảo giác biểu thị nơi vị hóa thân có thể được tìm thấy. Những quy tắc không cứng nhắc hay cố định.

Mục tiêu của một vị hóa thân là để làm cho thuận tiện sự tiếp tục hoạt động của vị ấy, là điều có thể có những hệ quả quan trọng, tùy thuộc vào vị đang được tìm kiếm. Thí dụ, trong trường hợp của tôi, ngay cả nếu những nổ lực của tôi trong phổ quát là để hiến dâng cho việc phụng sự tất cả chúng sanh, thì tôi hướng dẫn họ một cách đặc biệt hơn đối với những đồng bào của tôi. Cho nên nếu tôi chết trước khi Tây Tạng tìm lại được sự tự do, thì một cách hợp lý tôi sẽ được tái sanh ở bên ngoài Tây Tạng. Nếu vào lúc ấy, đồng bào tôi không cần một Đức Đạt Lai Lạt Ma nữa, thế thì sẽ không cần thiết để tìm kiếm tôi. Vì thế tôi có thể tái sanh như một con côn trùng, hay một con thú, hay một hình thể nào khác của sự hiện hữu mà ích lợi cho nhiều chúng sanh nhất.

***

Để bảo đảm sự kiểm soát toàn xã hội Tây Tạng, Đảng Cộng Sản Trung Quốc tự cho mình có quyền kiểm soát những dòng hóa thân truyền thừa. Vì để họ không bị khống chế bởi thẩm quyền của Bắc Kinh, những lạt ma nhi đồng được đặt dưới sự bảo vệ cẩn thận của gia đình họ. Trong một sự bí mật tuyệt hảo, những người làm ăn bất hợp pháp sẽ đưa họ đến Nepal hay Ấn Độ. Ở đấy, họ sẽ gia nhập vào những tu viện và được cung ứng một sự học tập tôn giáo thích hợp cho trách nhiệm tương lai của họ.

Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ 11

Tháng Năm năm 1995, Đức Đạt Lai Lạt Ma xác nhận Gendhun Chokyi Nyima, một nhi đồng sáu tuổi, như hóa thân của Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ 10, vị chức sắc cao cấp thứ hai của Phật Giáo Tây Tạng. Hai ngày sau Ban Tôn Giáo Trung Cộng tuyên bố sự lựa chọn này là “bất hợp lệ và vô giá trị”. “Cùng ngày vị chức sắc tôn giáo chịu trách nhiệm tìm kiếm lạt ma hài đồng, Chadral Rinpoche, bị bắt giam vì đã cấu kết với bè lũ Đạt Lai Lạt Ma.” Vài tuần sau  Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ 11 cùng với cha mẹ biến mất. Từ tháng Bảy 1995, ngài bị giữ ở một nơi bị giám sát bí mật, vì vậy ngài trở thành tù nhân chính trị nhỏ tuổi nhất trên thế giới. Luật pháp giống như vở kịch Vua Ubu, Ban Tôn Giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã chọn một nhi đồng khác và làm lễ đăng quang trong một nghi lễ bù nhìn. Mặc dù liên tục có những cuộc biểu tình chống đối của cộng đồng quốc tế, chúng ta vẫn không có tin tức về Gendhun Chokyi Nyima, Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ 11 được nhìn nhận theo nghi thức truyền thống.

Mới đây, chính quyền Trung Cộng đã cho biết khát vọng gia tăng hành động trong việc kiểm soát những dòng truyền thừa. Vì vậy, tháng Tám năm 2007, thông tin chính thức của Trung Cộng đã tuyên bố một quy tắc mới về việc công nhận những “vị Phật Sống”, một thuật ngữ mà người Trung Hoa dùng để chỉ định những đại sư hóa thân. Từ nay về sau, “tất cả những yêu cầu cho việc công nhận một sự hóa thân của một ‘vị Phật sống’ phải được sự chấp thuận của Ban Tôn Giáo”, dưới kết quả của luật lệ.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã bình luận về những tiêu chuẩn này với sự tiếu lâm: “Quyết định kỳ quái này chứng tỏ những tác giả của nó, thế nào đấy tự hào trong việc ban hành ‘các giấy phép của sự hóa thân,’ là những kẻ không hiểu gì về việc hóa thân hay Phật Giáo. Họ nghĩ rằng tất cả việc đó là cần thiết như một chiếu chỉ hay một quy định để mở rộng sự kiểm soát của họ đối với tâm thức con người. Nó sẽ không như thế. Nếu họ thậm chí có một chút chú ý vào thực tế chung quanh họ, họ sẽ nhận ra điều này.”

Quy định kiểm soát đối với những dòng truyền thừa xảy ra trong phạm vi thời đại của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 không tránh khỏi đặt ra vấn đề người thừa kế của ngài. Bắc Kinh đã quyết định quy định sự kế vị, không thèm đếm xỉa đến quyền đạo đức và tâm linh của người Tây Tạng. Theo Samdhong Rinpoche, thủ tướng của chính phủ Tây Tạng lưu vong, “Không phải Đức Đạt Lai Lạt Ma khởi xướng việc nói về người kế vị ngài, mà chính là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Họ rất băn khoăn về sự hóa thân của ngài, mà vốn họ muốn tự chọn theo ý họ. Cho nên họ hy vọng rằng vị thứ 14 giữ danh hiệu này không sống lâu quá, và họ phao tin rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma bị ung thư giai đoạn cuối, vì vậy họ cố gắng để phỏng đoán việc đề cử người kế vị. Rõ ràng rằng họ đang cố làm mọi việc để áp đặt một Đức Đạt Lai Lạt Ma mới dưới sự khống chế của họ. Nhưng chính người Tây Tạng sẽ vạch rõ tiến trình chọn lựa Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 15.

“Đức Thánh Thiện là người duy nhất, từ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất, đã sống trường thọ, và ngài phải quyết định người kế vị của ngài, vì công việc của ngài chưa chấm dứt. Rắc rối của chức vụ hiện ra. Thật quá phức tạp để chờ một nhi đồng Đạt Lai Lạt Ma lớn lên cho đến khi trưởng thành. Đức Thánh Thiện đã phải lãnh trách nhiệm khi ngài rất trẻ, và việc đó là rất khó khăn. Người kế vị ngài phải ở một độ tuổi để tiếp nhận những chức năng của ngài khi đến lúc. Đó là tại sao Đức Đạt Lai Lạt Ma nghĩ về việc chỉ định một vị hóa thân được hình thành (a madé tulku) trong khi ngài tại thế, nghĩa đen là, một ‘hóa thân trước khi chết,’ theo một truyền thống mà theo đó vị đại sư, trước khi chết, trao chuyển tinh hoa chứng ngộ tâm linh của vị ấy cho người thừa kế.”

Trong bài diễn thuyết khi nhận giải Nobel Hòa Bình của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Egil Aarvik nhận xét: “Tiến trình của việc công nhận một vị hóa thân hàm ý việc thâm nhập vào điều, đối với người phương Tây, là vùng đất không biết, terra incognita, nơi những niềm tin, tư tưởng và hành động tồn tại trong một chiều kích hiện hữu mà chúng ta mù tịt, hay có lẻ đơn giản là chúng ta đã quên.”

Ngay cả khi Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố không khó khăn gì rằng ngài “không phải là người đặc biệt,” nhưng cuộc sống của ngài không là bình thường, trong ý nghĩa là nó không bắt đầu với sự ra đời của ngài và sẽ không chấm dứt với sự qua đời của ngài. Vị thủ hộ của dòng truyền thừa Giác Ngộ Từ Bi, ngài tỏa chiếu từ một chiều kích phổ quát. Những thể trạng thậm thâm của sự tỉnh giác cống hiến cho điều này, được thấy bằng việc hành thiền và thực tập Phật Giáo như thế nào? Đó là điều mà những tuyên bố của ngài như một tu sĩ trong những chương tiếp theo sẽ khơi mở. Chúng làm sáng tỏ tính nhân bản mãnh liệt của một con người đã “làm chúng ta cảm thấy tốt lành là được làm người. Về việc sống trong thời đại khi có người nào đó như ngài hiện hữu với chúng ta.”

Ẩn Tâm Lộ, Thursday, January 14, 2016

 

LÝ TƯỞNG CỦA TÔI: BỒ TÁT ĐẠO

Đặc Tính Của Tôi Như Một Tu Sĩ

TÔI THƯỜNG TỰ GIỚI THIỆU mình như một tu sĩ Phật Giáo giản dị vì cá nhân và tính cách của tôi được xây dựng chung quanh chí nguyện của tôi như một tu sĩ. Mặc dù tôi khi tôi cảm thấy một liên kết rất mạnh mẽ với những Đức Đạt Lai Lạt Ma trước đây, nhưng tôi tự xem tôi như một tu sĩ trước nhất. Tôi là một tu sĩ trước khi là Đạt Lai Lạt Ma!

Điều này rõ ràng chắc chắn như vậy, và nó bén rể một cách thật sâu xa trong tâm thức tôi, và tôi thậm chí nhớ tôi là một tu sĩ ngay trong giấc mộng. Ngay cả trong những phần tệ hại nhất của cơn ác mộng tôi cũng không quên tôi là một tu sĩ. Nhưng tôi chưa bao giờ mơ thấy tôi là một Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Bằng tuệ giác của tôi, những phản ứng tại một trình độ ngoài tầm kiểm soát của tri thức chứng tỏ rằng ở tận đáy tâm hồn tôi có một dấu ấn không phai mờ của thể trạng như một tu sĩ của tôi. Tôi cảm thấy một cách rất mãnh liệt rằng tôi là một tu sĩ Phật Giáo.

Thệ Nguyện Một Tu Sĩ Của Tôi

TRONG ĐỜI SỐNG XUẤT GIA của Tây Tạng, có 253 giới cho tăng và 364 giới cho ni. Bằng việc quán chiếu chúng một cách nghiêm cẩn tối đa như có thể, tôi thoát khỏi những cám dỗ vô ích và những sự quan tâm mỗi ngày. Một số giới này có nhiều việc phải làm với nghi lễ – quy định, thí dụ một vị tu sĩ phải đi sau vị trụ trì bao xa. Những điều khác phải làm với những hạnh kiểm.

Bốn giới căn bản đáp ứng đến bốn việc cấm kỵ giản dị: một tu sĩ không giết hại, trộm cắp, hay nói dối về sự thực chứng tâm linh của vị ấy, và vị ấy cũng quán sát trinh tiết nghiêm ngặt. Nếu vị ấy phá vở một trong bốn thệ nguyện này, thì vị ấy không còn là một tu sĩ nữa.

Đôi khi tôi được hỏi có kỳ vọng thật sự để duy trì thệ nguyện về trinh tiết và một thệ nguyện như vậy có thể giữ được không. Điều ấy nên được nói là sự thực tập này không có nghĩa là đè nén khát vọng dục tình. Trái lại, thật cần thiết để chấp nhận toàn bộ sự hiện hữu của một khát vọng như vậy và để chuyển hóa nó qua sự rèn luyện của lý trí. Khi quý điều khiển đưa việc ấy vào trong tu tập, sẽ đưa đến kết quả một sự tinh thông về tâm thức rất lợi lạc. Khát vọng dục tình là mù quáng, và nó đưa đến một rắc rối. Khi quý vị tự nói với mình, tôi muốn làm tình với người kia , quý bị đang bộc lộ một khát vọng mà không phải sự thông minh hướng dẫn. Trái lại, khi quý vị nghĩ, tôi muốn xóa bỏ sự nghèo đói khỏi thế giới, đó là một mong muốn có thể kiểm soát được bởi trí tuệ. Điều gì nữa, sự vừa ý dục tình tượng trưng một sự hài lòng không bền. Như một đại hiền nhân Ấn Độ Long Thọ nói: “Khi quý vị có một vết ngứa, quý vị tự gãi ngứa. Nhưng hoàn toàn không có một cơn ngứa thì tốt hơn là tự gãi ngứa trong một hồi lâu.”

Những Sự Thiền Tập Hằng Ngày Của Một Tu Sĩ Phật Giáo

TÔI DÀNH TỐI THIỂU là năm tiếng rưởi đồng hồ một ngày để cầu nguyện, hành thiền, hay học tập. Tôi cũng cầu nguyện trong tất cả những lúc không có việc gì làm suốt cả ngày, trong những buổi ăn hay du hành. Như một Phật tử, tôi không thấy bất cứ sự khác biệt nào giữa sự thực tập tôn giáo và đời sống hàng ngày. Sự thực tập tôn giáo một công việc 24/7. Cũng có những sự cầu nguyện bắt phải thực hành trong mỗi hành vi, từ thức dậy đến tắm rửa, ăn uống, và ngay cả ngủ nghỉ. Đối với một hành giả mật tông tantra, những sự tu tập diễn ra trong cơn ngủ sâu và giấc mộng là một thứ nào đó quan trọng nhất, vì chúng chuẩn bị cho sự chết.

Việc hành thiền chính của tôi liên hệ đến tánh không và cốt ở việc tập trung vào sự liên hệ hổ tương trong trình độ vi tế nhất. Một phần của sự thực tập này liên hệ đến “bổn tôn du già”, mà trong ấy tôi sử dụng những mạn đà la khác nhau, quán tưởng tự thân tôi như một loạt các bổn tôn. (Tôi không muốn nói qua việc này, những nhân vật ấy tồn tại bên ngoài hay độc lập). Khi tôi làm việc ấy, tôi tập trung tâm thức tôi trên một trình độ đến mức nó không còn bị thu hút bởi những dữ liệu mà nhận thức giác quan truyền đạt. Đó không phải là một trạng thái xuất thần, vì tôi vẫn hoàn toàn sáng suốt, nhưng đúng hơn là một sự rèn luyện trong sự tỉnh giác thuần khiết.

Thật khó để nhận biết những gì tôi muốn nói qua điều này, cũng khó như một nhà khoa học giải thích qua từ ngữ điều gì ông muốn nói qua không-thời gian (space-time). Ngôn ngữ và kinh nghiệm hàng ngày không thể chuyển dịch kinh nghiệm của sự tỉnh giác thuần khiết, mà việc làm chủ nó đòi hỏi qua nhiều năm.

Một  khía cạnh quan trọng của sự thực tập hàng ngày của tôi liên hệ ý tưởng về sự chết. Theo quan điểm của tôi, chỉ có hai thứ để làm trong sự sống với chủ đề về sự chết. Hoặc là quý vị chọn lãng quên nó – mà trong trường hợp ấy quý vị có thể may mắn đủ để xua đuổi ý tưởng ấy đi nơi khác trong một lúc – hay quý vị đối diện với khía cạnh này, quý vị cố gắng phân tích nó, và bằng việc làm như vậy quý vị cố gắng để giảm bớt những nguyên nhân của những nổi khổ đau không thể tránh khỏi nào đó. Cũng không phương pháp nào có thể đạt đến mục tiêu này trọn vẹn.

Như một Phật tử, tôi chấp nhận sự chết như một tiến trình bình thường của sự sống. Tôi chấp nhận nó như một thực tế và nó sẽ xảy ra cho đến khi nào tôi vẫn còn trong cõi sanh tử luân hồi. Biết rằng tôi không thể trốn thoát khỏi nó, tôi không thấy điểm nào để lo lắng về nó. Tôi nghĩ rằng chết hơi giống như bỏ lại sau lưng một mãnh áo quần cũ đã sử dụng. Tự trong nó không phải là chấm hết.

Như một Phật tử, tôi cũng tin rằng việc tu tập về sự chết là thiết yếu. Chính thời điểm ấy, những kinh nghiệm thậm thâm và lợi lạc nhất có thể biểu hiện. Vì lý do này, có nhiều đại sư tâm linh chọn lìa thế gian này trong lúc hành thiền. Khi điều đó xảy ra, thân thể họ không bị phân hủy rất lâu sau sự chết lâm sàng.

Sống Như Một Vị Bồ Tát

NHƯ CHO SỰ THỰC TẬP tôn giáo cá nhân của tôi, tôi cố gắng để sống đời sống của tôi bằng việc đi theo những gì tôi gọi là “lý tưởng Bồ tát”. Trong nhận thức Đạo Phật, một vị bồ tát là một chúng sanh dấn thân trên con đường hướng đến Quả Phật và hoàn toàn hiến dâng để hổ trợ chúng sanh giải thoát khỏi khổ đau. Chữ bodhisatva – bồ đề tát đỏa – bồ tát, dễ dàng để hiểu nếu nghiên cứu hai thuật ngữ làm nên nó, bodhi – bồ đề và sattva – tát đỏa được phiên dịch riêng rẻ. Bodhi – bồ đề biểu thị tuệ giác thông hiểu bản chất cứu kính của thực tại, và sattva – tát đỏa là một cá nhân được động viên bởi lòng từ bi phổ quát. Cho nên lý tưởng bodhisatva – bồ đề tát đỏa – hay lý tưởng bồ tát có nghĩa là một nguyện vọng thực hành lòng từ bi vô hạn với tuệ giác vô biên.

Thực Hành Tâm Linh Nhằm Để Trở Thành Những Con Người Tốt Đẹp Hơn

ĐỪNG MONG ƯỚC những thứ phi thường với tôi, như những sự gia hộ quyền năng vô hạn có thể chuyển hóa đời sống của quý vị một cách kỳ diệu và ngay lập tức. Quý vị sẽ sai lầm để ấp ủ những tư tưởng như vậy – chúng không có gì đối với thực tế. Tôi là một tu sĩ Phật Giáo giản dị vốn đã thực tập từ lúc mười tuổi và cố gắng để sống phù hợp với giáo lý nhà Phật.

Như một tu sĩ giản dị, tôi là một người thông dịch của những đạo sư siêu phàm và tôi lễ phủ phục một cách khiêm tốn trước các vị ấy. Khi Đức Phật còn tại thế, ngài giống như một tu sĩ bình thường; ngài du hành bằng chân, tay cầm bình bát khất thực. Sau ngài, nhiều hành giả vĩ đại đã có cùng hiện tướng bên ngoài, trông có vẻ nghèo nàn nếu người ta không nhìn vượt khỏi hiện tướng ấy.

Chúng ta chia sẻ chung với Đức Phật cùng năng lực cho từ tâm và tĩnh lặng. Nhưng chúng ta không phải luôn luôn biết điều này, và đôi khi chúng ta cố gắng để tàn phá cả hạnh phúc của người khác lẫn sự yên bình nội tại của chúng ta. Tất cả chúng ta muốn tránh khổ đau và được hạnh phúc. Chúng ta có một tri thức kinh nghiệm uyên thâm của cả hạnh phúc lẫn khổ đau vốn thông thường với tất cả chúng sanh.

Tôi đang chia sẻ với quý vị kinh nghiệm sống của tôi, căn cứ trên giáo lý nhà Phật và sự thực hành, không có bất cứ tham vọng nào trong việc tuyên truyền Phật Giáo hay có thêm những môn nhân mới. Những truyền thống tâm linh lớn, tất cả đều rất sống động trên năm lục địa, quán chiếu những tính khí khác nhau của con người trên thế giới. Họ làm sáng tỏ những nền tảng và nguyên tắc đạo đức cho phép chúng ta trở nên tốt đẹp hơn bằng việc phát triển những phẩm chất nhân bản như yêu thương, nhẫn nại và bao dung và bằng việc chiến đấu với những tham dục quá đáng của chúng ta.

Thật thích đáng hơn để giữ những truyền thống tâm linh vốn có của chúng ta. Đó là con đường xác thật hơn. Tôi luôn luôn hơi nghi ngờ khi tôi giảng dạy Phật Giáo trong một quốc gia như Pháp, vốn hầu hết là Ki Tô Giáo và Thiên Chúa La Mã, vì tôi tin rằng luôn luôn thỏa mãn hơn để làm sâu sắc và bảo tồn tôn giáo của tổ tiên họ. Không cần thiết để trở thành Phật tử khi quý vị là một người phương Tây.

Nếu quý vị thẩm tra những tôn giáo lớn trên thế giới, thì quý vị có thể phân biệt về một mặt những quan điểm triết lý và siêu hình, và mặt kia là sự thực tập tâm linh hàng ngày. Mặc dù những quan điểm triết lý khác biệt và đôi khi mâu thuẩn với nhau, nhưng trong sự thực tập tâm linh, tất cả những tôn giáo liên hệ với nhau. Tất cả đều giới thiệu sự chuyển hóa dòng suối ý thức nội tại của chúng ta và điều đó làm chúng ta tốt đẹp hơn, những con người sùng mộ hơn.

Thật tốt đẹp để tạo nên bất cứ hệ thống nào trong những truyền thống tôn giáo nhưng tốt hơn là thấu hiểu rằng tất cả những giáo lý ấy vốn để thích nghi đến những tính khí đa dạng của con người. Điều gì hơn thế nữa, trong chính Phật Giáo quý vị có thể thấy nhiều giáo huấn của Đức Phật, Ngài đã dạy một giáo thuyết được diễn tả như có “84 nghìn cửa.” Tùy chúng ta nhận ra nhu cầu nào trong những quan điểm triết lý khác nhau và để biết rằng mỗi một truyền thống tâm linh vốn đều là thánh thiện, vì mỗi tôn giáo đã hổ trợ hàng triệu người để tiến bộ và ít khổ đau hơn bằng việc trở thành tốt đẹp hơn. Đối với mỗi người, có một con đường duy nhất và một lẽ thật duy nhất để thành tựu, nhưng mỗi người vẫn phải chấp nhận chân lý của những truyền thống khác. Ngay cả nếu một truyền thống khác chống lại niềm tin của chính chúng ta, nhưng nó có lý do riêng của nó để hiện hữu, trong việc hổ trợ nó cung ứng cho người khác. Thế nên, về một mặt, chúng ta nên có niềm tin của chính chúng ta, nhưng về mặt khác, chúng ta nên giữ tâm tư chúng ta cởi mở và bao dung đối với những ai không muốn chia sẻ chúng.

Ẩn Tâm Lộ, Friday, January 15, 2016

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

NHỮNG CHÙA VIỆN ÂN CẦN TRONG TRÁI TIM CỦA CHÚNG TA

Hướng Giao Lưu Anh Em Giữa Các Tôn Giáo

KHI CHÚNG TA TIẾP CẬN thế kỷ 21, thì những truyền thống tôn giáo thích đáng hơn bao giờ  hết. Tuy thế, như trong quá khứ, những xung đột và khủng hoảng sinh khởi nhân danh những truyền thống tôn giáo khác nhau. Điều này rất, rất là bất hạnh. Chúng ta phải vận dụng mọi nổ lực để vượt thắng tình cảnh này. Trong kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã thấy rằng phương pháp hiệu quả nhất để chiến thắng những xung đột này là sự tiếp xúc thân cận và sự trao đổi giữa những niềm tin khác nhau đó, không chỉ ở trình độ của tri thức nhưng trong những kinh nghiệm tâm linh sâu sắc. Đây là một phương pháp đầy năng lực để phát triển những sự thấu hiểu và tôn trọng hổ tương, Qua sự trao đổi này, một nền tảng hòa hiệp chân thành mạnh mẽ có thể được thiết lập.

Thêm nữa những cuộc gặp gở giữa những học giả và hành giả kinh nghiệm cũng là quan trọng, một cách đặc biệt trong những con mắt công cộng, những lãnh tụ của những truyền thống tôn giáo khác nhau thỉnh thoảng đến với nhau để gặp gở và cầu nguyện, như trong cuộc gặp gở quan trọng ở Assisi năm 1986. Đây là một cách đơn giản nhưng hiệu quả để thúc đẩy sự bao dung và thông hiểu.

Cuộc gặp gở Liên Tôn tại Bali, tháng Bảy 2007

Những Nhà Chính Trị Cần Tôn Giáo Hơn Những Người ẩn Dật

TÔI CÓ NHIỀU CUỘC đối thoại say mê với Tổng Giám Mục Canterbury, Tiến sĩ Robert Runcie (đại diện đáng khâm phục của ngài là Terry Waite, tôi luôn luôn giữ trong sự cầu nguyện của tôi). Chúng tôi chia sẻ quan điểm rằng tôn giáo và chính trị có thể đến với nhau một cách hiệu quả, và cả hai chúng tôi đều đồng ý rằng, một cách rõ ràng, nhiệm vụ của tôn giáo là để phụng sự con người. Tôn giáo không nên phớt lờ thực tế. Làm thành viên của tôn giáo nhằm để tận tụy cầu nguyện là không đủ. Tín đồ, một cách đạo đức, mang trách nhiệm cống hiến một cách tối đa như có thể trong việc giải quyết những vấn nạn của thế giới.

Tôi nhớ một chính trị gia Ấn Độ, người mời tôi thảo luận quan điểm này với ông. Ông nói với tôi, với sự khiêm hạ chân thành, “Ô, nhưng chúng tôi là những chính trị gia, không phải là những tu sĩ!” Tôi đáp lại với điều đó: “Những chính trị gia cần tôn giáo thậm chí hơn là những ẩn sĩ tu hành. Nếu những ẩn sĩ hành động bị xúi giục bởi động cơ xấu, người ấy chỉ tổn hại tự thân. Nhưng nếu một chính trị gia, người có thể ảnh hưởng trực tiếp đến toàn xã hội, lại hành động với động cơ xấu, thì vô số người sẽ trải nghiệm những hậu quả tiêu cực.”

Tôi không thấy bất cứ sự mâu thuẩn nào giữa chính trị và tôn giáo. Vì trong thực tế, tôn giáo là gì? Chỗ tôi quan tâm đến là tôi xem mỗi hành vi diễn ra với một động cơ tốt lành như tôn giáo. Trái lại, nếu người ta tập họp trong Phật đường hay Thánh đường mà không có động cơ tốt lành thì không đang cư xử một cách tôn giáo khi họ cầu nguyện với nhau.

Những Cuộc Hành Hương Của Tôi Từ Lourdes Đến Jerusalem

TÔI TIN TƯỞNG MỘT cách chắc chắn rằng chúng ta có thể đẩy mạnh sự thông hiểu và hòa hiệp giữa các tôn giáo để thúc đẩy thế giới hòa bình. Để hoàn thành điều này, tôi cổ vũ những cuộc trao đổi liên tôn, một cách đặc biệt những cuộc hành hương. Đó là tại sao tôi đã viếng thăm Lourdes, ở miền nam nước Pháp, không phải là một du khách mà như một người hành hương. Tôi đã uống nước thánh, tôi đã dừng lại trước tượng của Đức Bà Maria, và tôi nhận ra rằng ở địa điểm này hàng triệu người đã nhận sự phù hộ hay một cảm giác tĩnh  lặng. Khi tôi nhìn vào bức tượng Maria, tôi cảm thấy một sự ngưỡng mộ chân thành và một sự tôn kính xác thật sinh khởi trong tôi đối với Ki Tô Giáo, vốn lợi lạc đến một số đông con người như vậy. Dĩ nhiên, Ki Tô Giáo có một triết lý khác biệt với tôn giáo của tôi, nhưng sự cứu giúp và những lợi ích cụ thể mà nó mang đến là không thể phủ nhận.

Đức Đạt Lai Lạt Ma bên bức tường Than Khóc

Cùng với tinh thần ấy, tôi đã đến Jerusalem, thánh địa của nhiều tôn giáo trên thế giới, tôi đã hành thiền tại Bức Tường Than Khóc với những người bạn Do Thái, và sau đó, trong những đền Ki Tô Giáo, tôi cầu nguyện với những người bạn Ki Tô, Sau đó tôi đã thăm viếng những thánh tích của những người bạn Hồi Giáo và tôi đã cầu nguyện ở đó với họ.

Tôi cũng đã đi đến những đền đài khác nhau của đạo Hindu, Jain, và Sikh, những thánh địa của Bái Hỏa Giáo ở Ấn Độ. Mỗi buổi sáng chúng tôi ngồi dưới gốc cây bồ đề để hành thiền chung. Vì thời đại của Đức Phật hơn 2,500 năm trước và Chúa Giê-su là 2,000 năm trước, cho nên tôi nghĩ đó là lần đầu tiên có một sự gặp gở như vậy xảy ra.

Có một nơi mà tôi đã muốn viếng thăm từ lâu, nhưng mong ước này chưa được toại nguyện. Đó là Ngũ Đài Sơn, được tôn kính ở Trung Hoa và dành cho Mạn Thù Thất Lợi, vị Bồ tát của tuệ trí. Vị tiền nhiệm của tôi, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, đã đến đấy để tỏ lòng tôn kính, và trong cuộc viếng thăm Trung Hoa lần thứ nhất năm 1954, tôi mong ước đi theo dấu chân của ngài. Lúc ấy nhà cầm quyền Trung Cộng đã từ chối lời yêu cầu của tôi, viện lý do là đường xá không tiện cho việc du hành.

Một Cuộc Sống Để Quán Chiếu Từ Ái

TRONG CUỘC VIẾNG THĂM Đại Tu Viện ở Montserrat ở Tây Ban Nha, tôi đã gặp gở một tu sĩ dòng Biển Đức ở đấy. Ông đặc biệt đến để thăm tôi – và tiếng Anh của ông lại dở hơn tôi, cho nên tôi cảm thấy can đảm hơn để nói chuyện với ông. Sau buổi ăn trưa, chúng tôi đã có những thời gian riêng tư với nhau, mặt đối mặt, tôi được cho biết là tu sĩ này đã ở nhiều năm trong núi ngay phía sau tu viện, tôi hỏi ông đã quán chiếu điều gì khi thực hành trong những năm cô lập đó. Câu trả lời của ông thật đơn giản: “Từ ái, từ ái, từ ái.” Kỳ diệu làm sao! Tôi cho rằng đôi khi ông cũng ngủ. Nhưng trong tất cả những năm đó ông thiền quán một cách đơn giản về yêu thương. Và ông không chỉ quán chiếu trên từ ngữ. Khi tôi nhìn vào đôi mắt ông, tôi thấy chứng cứ của tâm linh và từ ái thậm thâm – như tôi có trong những cuộc gặp gở với Thomas Merton.

Những Chùa Viện Nội Tại

TÔI TIN MỤC TIÊU của tất cả những tôn giáo quan trọng trên thế giới không phải là xây dựng những chùa viện to lớn bên ngoài, nhưng là tạo dựng những chùa viện của từ bi và thánh thiện nội tại, bên trong những trái tim của chúng ta.

Một số người tin rằng cách hợp lý nhất để thành tựu sự hòa hiệp và giải quyết những vấn nạn liên hệ đến sự bao dung tôn giáo là thiết lập một tôn giáo chung cho mọi người. Tuy nhiên, tôi luôn luôn cảm nhận rằng chúng ta nên có những truyền thống tôn giáo khác nhau bởi vì con người sở hữu rất nhiều khuynh hướng tinh thần khác nhau: một tôn giáo đơn giản là không hài lòng nhu cầu của những con người đa dạng như vậy. Nếu chúng ta cố thống nhất những tín ngưỡng của thế giới vào một tôn giáo, thì chúng ta cũng sẽ đánh mất nhiều phẩm chất và những phong phú của mỗi tôn giáo đặc thù. Do thế, tôi cảm thấy tốt hơn là duy trì sự đa dạng của những truyền thống tôn giáo, mặc dù có nhiều tranh cải nhân danh tôn giáo. Bất hạnh thay, trong khi sự đa dạng những truyền thống tôn giáo là thích hợp hơn để phục vu nhu cầu cho khuynh hướng tinh thần đa dạng, thì sự đa dạng này tự nhiên cũng sở hữu khả năng cho sự xung đột và bất đồng ý kiến. Do đó, mọi người trong những truyền thống tôn giáo phải thực hiện một nổ lực vượt trội để chuyển hóa sự thiếu bao dung và thiếu hiểu biết và để tìm kiếm sự hòa hiệp.

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Ẩn Tâm Lộ, Saturday, Sunday, January 17, 2016

 

CHUYỂN HÓA TÂM THỨC CHÚNG TA

Phân Tích Tâm Thức Như Một Sự Chuẩn Bị Cho Việc Thực Tập Tâm Linh

ĐỂ GIẢI THOÁT CHÚNG TA khỏi khổ đau, chúng ta phải thấu hiểu những gì xảy ra trước khi khổ đau. Bởi vì không điều gì xuất hiện mà không có những nguyên nhân hay điều kiện. Tùy chúng ta nhận ra những nguyên nhân làm gia tăng hay giảm thiểu khổ đau. Đó là phần của việc phân tích tâm thức, một sự chuẩn bị cần thiết không thể bỏ qua để thực hành tâm linh.

Tâm thức là đối tượng của những áp lực do hoàn cảnh; nó dao động với chúng và tương tác với tác động của những cảm giác. Tiến trình vật chất và một tiêu chuẩn cao độ của đời sống cải thiện cho sự thoải mái và sức khỏe nhưng không hướng đến một sự chuyển hóa tâm thức, và tâm thức là điều duy nhất có thể cung ứng sự hòa bình bền lâu. Sự hạnh phúc thậm thâm vốn là bản chất tâm linh, không giống như cảm giác vui sướng khoái lạc. Nó tùy thuộc vào sự hạnh phúc của những người khác, và nó căn cứ trên từ ái và sự tế nhị. Chúng ta sẽ sai lầm khi nghĩ rằng hạnh phúc là nắm bắt tối đa được sự tiêu xài của người khác. Sự thiếu vắng lòng vị tha, là thứ làm cho gia đình bất hòa và rối rắm, những nguyên nhân của cô đơn. Chúng ta nên chú ý không phải quá nhiều quan tâm với thế giới ngoại tại, nhưng là việc nhận ra rằng chấp thủ và sở hữu tài sản vật chất là củng cố tính vị kỷ.

Chìa khóa cho hạnh phúc nằm trong sức mạnh của tâm thức, sự tĩnh lặng nội tại, và một phẩm chất như tính kiên định. Chúng ta có thể tiếp cận điều này bằng việc phát triển sự tế nhị và từ ái, là những thứ đáp ứng với tính bản nhiên thậm thâm của mỗi con người. Mối quan hệ mẹ – con , chắc chắn là một thí dụ hoàn hảo nhất của sự yêu thương không bình thường của việc thương mến người nào khác hơn chính ta. Tiếng đầu tiên mỗi chúng ta phát ra là “mama” “mẹ” hay “má”, và đúng là trong nhiều ngôn ngữ chữ này chứa đựng âm “ma”. Một đơn âm trong hầu hết mọi ngôn ngữ trên thế giới, ngoại trừ tiếng Nhật, mệnh danh cho tự ngã: “tôi” (hay “của tôi”) biểu lộ sự dính mắc cực kỳ mà chúng ta có cho con người của chính chúng ta. Đó là một sự dính mắc mà chúng ta phải chiến đấu nhằm để truyền bá những phẩm chất của lòng vị tha.

Dĩ nhiên, chúng ta có thể trau dồi những phẩm chất nhân bản mà không cần có một tôn giáo. Nhưng như một quy tắc phổ thông, tôn giáo cho phép chúng ta tăng trưởng những phẩm chất này một cách hiệu quả hơn.

Vô Thường Và Nhân Duyên Hay Việc Thấy Thế Giới Như Nó Là

PHẬT GIÁO CUNG ỨNG  một phương pháp cải thiện chúng ta trong khi quán chiếu bản chất của mọi thứ, không để chúng ta bị lừa dối bởi những hiện tướng. Những hiện tượng, biểu hiện đến những khả năng nhận thức của chúng ta, vốn không có thực tại cứu kính. Chúng ta hãy lấy thí dụ của một ngọn núi. Hôm nay nó dường như cũng giống như hôm qua. Được hình thành từ hàng nghìn năm trước, nó tượng trưng cho một sự tương tục trong thế giới hiện tượng. Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy sự ổn định tương đối trong hiện tướng của nó ở trình độ thô, nhưng chúng ta cũng phải nhận biết rằng mỗi một  phân tử của nó, ở trình độ rất vi tế, đang thay đổi từ thời khắc này đến thời khắc khác. Trong trình độ vô cùng nhỏ, sự thay đổi đồng hành cùng với tâm thức chúng ta bởi một hiện tướng của sự tương tục. Tuy thế, sự tương tục được nhận thức như vậy là vọng tưởng. Vì không có gì duy trì không thay đổi, và không có hai thời khắc liên tiếp nào là giống nhau.

Sau khi thẩm tra thí dụ của ngọn núi, chúng ta hãy lấy một bông hoa, mà bản chất mong manh và không bền của nó là rõ ràng. Bông hoa đang nở hôm nay đầu tiên là một hạt, sau đó là một mầm non. Những sự thay đổi của tình trạng  này minh họa sự vô thường vi tế của mỗi thời khắc, nó là bản chất thật sự của bông hoa: nó cam chịu một sự tàn hoại nhanh chóng. Cho dù nó là một ngọn núi hay một bông hoa, chúng ta phải thấu hiểu nhuần nhuyển rằng thời khắc một hiện tượng xuất hiện thì nó cũng mang theo trong nó nguyên nhân của sự kết thúc chính nó.

Sự vô thường của những hiện tượng tùy thuộc vào những nguyên nhân và điều kiện bên ngoài. Nói rằng tất cả mọi vật là nhân duyên hay liên hệ hổ tương có nghĩa là chúng không có sự tồn tại cố hữu, vô tự tánh. Chính năng lực cho sự chuyển hóa hoạt động trong những hiện tượng là một dấu hiệu của tính hổ tương nền tảng trong sự sống.

Chúng ta có thể xác định rằng thực thể “một bông hoa” như vậy là tồn tại trong tự chính nó không? Câu trả lời là không. Bông hoa chỉ là tập họp của những đặc trưng – hình thể, màu sắc, mùi hương – nhưng không có “bông hoa” tồn tại một cách độc lập với những hiện tướng của nó.

Nhận thức của chúng ta về thời gian cũng dựa vào một sự hiểu biết sai lầm về thực tại. Quá khứ là gì trong thực tế? Quá khứ không phải là một thực tại; nó chỉ là một khái niệm. Tương lai tương ứng với những phóng chiếu, những sự tiên liệu cũng không bất cứ thực tại nào. Quá khứ đã xảy ra; tương lai thì chưa hiện hữu. Những ý tưởng này ảnh hưởng chúng ta như những thực tế, mặc dù chúng không có thực chất. Hiện tại là lẽ thật mà chúng ta đang trải nghiệm, bây giờ và ở đây, nhưng là một lẽ thật khó nắm bắt mà nó vốn không bền lâu. Chúng ta thấy chính chúng ta trong một hoàn cảnh ngược đời mà trong ấy hiện tại hình thành một biên giới, một sự giới hạn giữa quá khứ và tương lai không có bất cứ thực tế cụ thể nào. Hiện tại là một thời khắc khó nắm bắt giữa những gì không còn tồn tại nữa và những gì chưa xảy ra.

Những khái niệm này chúng ta xem như “thực tại” hoàn toàn là trí năng giả tạo vốn không liên hệ gì với một thực tại độc lập, tồn tại trong chính nó. Theo Đức Phật, những hiện tượng được nhận thức chỉ tồn tại theo quan điểm mệnh danh của chúng mà thôi – đó là, những tên gọi và khái niệm mà chúng ta gán ghép vào chúng. Chức năng của những hiện tượng không biểu lộ một thực thể chạm xúc được là của chúng một cách riêng biệt. Chúng ta có thể so sánh những hiện tượng với một ảo ảnh: chúng ta càng đến gần đến nó, chúng ta càng xa nó, cho đến khi nó biến mất. Đối diện tương tự với tâm thức, khi phân tích chúng, những hiện tượng tan dần.

Do thế, chúng ta nên phân biệt hai chân lý (nhị đế): chân lý tương đối (tục đế), quan tâm đến hiện tướng của những hiện tượng, bề nổi của chúng, biểu hiện của chúng, và sự chấm dứt của chúng; và chân lý tuyệt đối (chân đế), nhận ra sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu trong các hiện tượng. Bằng việc nói rằng những hiện tượng vắng mặt sự tồn tại cố hữu, chúng ta đang tuyên bố không phải sự không hiện hữu của chúng nhưng là sự liên hệ hổ tương của chúng – nhân duyên sanh, sự vắng mặt thực tại cụ thể của chúng. Và tánh không của các hiện tượng tương ứng với thực tại của chính nó trong thế giới hiện tượng, vốn xa vời với việc là một cấu trúc tinh thần hay một khái niệm.

Đức Phật không phủ nhận mọi vật xuất hiện, nhưng đặt ở vị trí kết hợp của hiện tướng và tánh không. Vì vậy, bông hoa tồn tại: những hình sắc và đặc tính của nó được khắc sâu trong tâm thức chúng ta. Nhưng bản chất của nó là trống rỗng sự tồn tại cố hữu.

Chuyển Hóa Tâm Thức Chúng Ta Trên Con Đường Của Đức Phật

KHÔNG CHỈ LÀ MỘT quan điểm triết lý của thế giới, Đạo Phật trình bày một con đường chuyển hóa tâm thức, với mục tiêu của việc giải thoát chúng ta khỏi khổ đau và những nguyên nhân của nó. Chuyển  hóa tâm thức liên hệ trước nhất với việc nghiên cứu để biết nó, sau đó nhận ra nó biểu hiện chức năng như thế nào để loại trừ ba độc tố tinh thần chính là si mê, tham lam, và thù hận. Cho nên thật lợi lạc để phân tích dòng suối tâm thức của chúng ta và những biến thể của nó. Việc thấu hiểu bản chất tối hậu của tâm thức là vô thỉ và vô chung, và sự tương tục của nó là khác biệt với sự hổ trợ vật lý của thân thể thô phù, là nền tảng cho phép chúng ta nhận ra tính thuần khiết nguyên sơ của tâm thức.

Sự phân tích của Phật Giáo về thực tại nhất trí với những kết luận của vật lý lượng tử, theo đó các hạt của vật chất là thật trong khi vẫn trống rỗng sự cụ thể. Tương tự thế, trong Phật Giáo những hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ hổ tương là trống rỗng thực chất, hay không có sự tồn tại tự hữu, vô tự tánh. Mối liên hệ hổ tương hay nhân duyên là một khái niệm phổ quát. Không một điều gì có thể xuất hiện mà không có những nhân duyên – nguyên nhân hay điều kiện. Quan hệ nhân quả, hay karma – nghiệp, là quy luật chi phối thế giới hiện tượng. Một thông lượng năng động của việc thay đổi hiện tướng xảy ra, thì tương ứng với những nguyên nhân và hệ quả. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải nghĩ là có một nguyên nhân gốc rể, thường tại, không thay đổi giống như một nguyên tắc tổ chức. Trong một thế giới thay đổi liên tục, những sự đột biến là do những phẩm chất vốn có trong các hiện tượng.

Một khi chúng ta đã thiết lập những điều kiện cho sự xuất hiện của các yếu tố của thế giới hiện tượng, thì chúng ta có thể tiến hành một sự phân tích về cơ chế đã tạo nên những tình trạng mâu thuẩn của hạnh phúc và khổ đau trong tâm thức chúng ta.

Mỗi chúng sanh có một nguyện vọng căn bản để đạt được hạnh phúc và xa lánh khổ đau. Hạnh phúc và khổ đau mà chúng ta trải nghiệm liên kết với thế giới bên ngoải chúng ta như thế nào? Đối diện với thế giới bên ngoài, chúng ta có những phản ứng được biểu hiện trong hình thức của những cảm giác vốn sở hữu những đặc tính khác biệt. Sau đó chúng ta đánh giá những cảm giác này và nối kết kinh nghiệm của chúng với chính chúng ta như những người trải nghiệm.

Hạnh phúc và khổ đau không nhất thiết có một nguyên nhân cảm giác tức thời. Theo khoa học, những tiến trình điện hóa bên trong não bộ là nguồn gốc của tất cả những kinh nghiệm tinh thần của chúng ta. Nhưng chức năng sinh lý học không giải thích cho những kinh nghiệm của sự tỉnh giác vi tế. Phật Giáo không giới hạn ý thức với não bộ. Thiền định và thiền quán gây ra những tình trạng vi tế thậm thâm của tâm đó là chính chúng có năng lực để điều chỉnh những tiến trình sinh lý. Quả vậy, ý thức được nối kết với thân thể vật lý của chúng ta, nhưng không bị giới hạn với nó. Ý thức tiêu biểu một tính năng rõ ràng và trong sáng nhờ đó cho phép chúng ta nhận thức và hiểu biết các hiện tượng bằng sự lãnh hội trực tiếp.

Ý thức sản sinh những kinh nghiệm như các giấc mơ, mà ở đấy chúng ta trải nghiệm hạnh phúc hay khổ đau, nhưng những cảm giác này không có đối tượng thực tế như căn bản của chúng. Chúng ta phân biệt giữa ý thức lúc thức, ý thức trong mộng, và ý thức của giấc ngủ sâu vốn không lệ thuộc duy nhất vào những giác quan. Khi chúng ta lơ đãng, mắt thấy nhưng ý thức không ghi nhận hình ảnh. Ý thức thuần khiết là tính năng thuần khiết của nhận thức trong thể trạng bản chất không thêm bớt của nó.

Dĩ nhiên, ý thức phối hợp với thân thể, nhưng phẩm tính khác biệt với thân thể vật chất thô phù, vì những nguyên nhân và điều kiện duy trì nó có sự tự trị của chúng. Ý thức không bị gián đoạn, ngay cả khi chúng ta mệt lã, và nó vẫn còn trong những tình trạng của mộng và ngủ, ở đó sự nối kết với việc hổ trợ của thân thể được thay đổi. Chúng ta có thể tiến rất xa để nói rằng sự hổ trợ vật lý không cần thiết cho những kinh nghiệm khi ý thức được tách rời tự nó khỏi thân thể và thay đổi mà không được nối kết với thân thể. Nếu ý thức chỉ đơn thuần là thực thể vật chất, thế thì chỉ giống như có một sự tương tục sinh lý giữa cha mẹ và con cái, cho nên sẽ có những kinh nghiệm tương tự giữa họ ở trình độ ý thức. Rõ ràng, không phải là như vậy.

Nếu chúng ta phải nhận thức sự bắt đầu của hiện tượng ý thức, nó sẽ là trong hình thức của nguyên nhân đầu tiên, và có lẻ chúng ta có thể tranh luận rằng nó sinh khởi từ những sự chuyển hóa trong thế giới vô sinh. Như vậy thì không thể hài lòng trên trình độ luận lý, cho nên thích hợp hơn để suy xét một sự tương tục của ý thức. Mỗi thể hiện của ý thức phát khởi từ một thể hiện ý thức trước. Điều chúng ta gọi một người là một khái niệm được gán ghép với một dòng suối ý thức. Dòng suối này, giống như một người, không có bắt đầu và kết thúc. Nó là một vấn đề của một sự tương tục không bền tùy thuộc vào sự thay đổi của những nguyên nhân và điều kiện.

Hiện Thực Năng Lực Của Chúng Ta

SI MÊ CÓ THỂ ĐƯỢC định nghĩa như một kiểu nhận thức sai lầm đặt tin tưởng vào sự hiện hữu độc lập cứng nhắc của tự ngã và các hiện tượng. Một kiểu mẫu nhận thức như vậy tương ứng với chức năng tự nhiên của tâm thức, được tăng thêm sức mạnh bởi thói quen lâu đời. Việc phân tích cho chúng ta khám phá ra rằng mọi vật không có thực chất cũng không vững chắc. Nhận thức đưa đến kết quả từ sự phân tích cơ bản của mọi vật phải được trau dồi và được sử dụng như sự đối trị. Đó là vấn đề chúng ta phải chiến đấu với xu hướng ăn sâu đã hướng chúng ta tin tưởng vào thực tại của tự ngã và thế giới.

Đấu tranh với si mê cũng là đấu tranh với khổ đau. Si mê là nguồn gốc của những độc hại và chướng ngại tinh thần. Bằng việc phát triển lòng vị tha, từ ái, tế nhị, và bi mẫn, chúng ta giảm thiểu thù oán, tham dục, và tự kiêu. Nhưng hình thức vi tế của chướng ngại tinh thần tồn đọng có thể vượt thắng bằng một đối trị duy nhất, đó là việc thực chứng một sự vắng mặt hoàn toàn thực chất của hiện tượng  và bản chất của tự ngã (pháp vô ngã và nhân vô ngã). Cho đến khi mà sự chấp trước và bám chặc vào tự ngã và hiện tượng vẫn còn dai dẵng, thì nguyên nhân của khổ đau không thể được loại bỏ. Để tiêu trừ khổ đau, chúng ta phải trau dồi những phẩm chất ổn định trong sự tương tục tinh thần, vốn chúng sẽ trở thành bản chất thứ hai. Những phẩm chất này được sinh ra từ những nhận thức đúng đắn về thực tại. Tuệ giác và sự tĩnh lặng bền lâu là kết quả từ điều này, vì chúng được nối kết với chính ý thức.

Sự trong sáng tự nhiên của tỉnh giác là sự đối trị với những thuốc độc tinh thần. Và những thuốc độc tinh thần tác động đến những chướng ngại tinh thần căn cứ trên những màn che ngoại lai giả dối bề ngoài (khách trần phiền não).Và những màn che ngoại lai giả dối bề ngoài làm chướng ngại sự tỉnh giác tự nhiên và làm khổ đau. Thế thì, chúng ta làm vắng mặt khổ đau như thế nào?

Tuệ giác là sự đối trị bảo đảm nhất có thể xua tan nền tảng si mê của chúng ta. Giáo huấn – những điều giảng dạy của Đức Phật – đem đến những tri thức hữu dụng cho việc loại bỏ những cảm xúc phiền não và những hình thức vi tế nhất của si mê. Giáo huấn dẫn chúng ta vượt qua khỏi khổ đau để chứng đạo Giác Ngộ. Đức Phật được gọi là Thế Tôn – trong tiếng Tây Tạng “Bậc đã tiêu diệt được bốn loài ma,” đó là ma chết, ma thất niệm, ma tự kiêu và những chướng ngại cảm xúc. Lời dạy của Đức Phật cho phép chúng chinh phục những nhân tố tinh thần vốn đã hành động như những chướng ngại cho việc Giác Ngộ. và nó cho chúng ta lối vào niết bàn, một thể trạng vượt khỏi những chướng ngại cảm xúc.

Aryadeva – Thánh Thiên

Thánh Thiên nói với chúng ta: “Vào lúc khởi đầu, chúng ta phải từ bỏ tất cả những hành vi tiêu cực; ở lúc giữa, toàn bộ sự dính mắc vào cái “tôi”, và vào lúc cuối, tất cả những cực đoan, ý tưởng và khái niệm.” Để thành tựu một sự thân chứng như vậy, chúng ta phải hợp nhất tuệ giác với thành tựu nội tại. Tri thức lý thuyết và sự tin tưởng trí năng chưa đủ. Chính chúng ta phải quán chiếu, học hỏi thực tế trong đời sống, nhằm để đánh giá giáo thuyết bằng phương tiện của kinh nghiệm cá nhân và sự phổ biến xác thật. Thiền tập là một tiến trình dần dần làm chúng ta thích nghi với một quan kiến mới.

Việc học hỏi sản sinh sự chắc chắn nào đó chỉ khi, qua sự thực hành vững vàng, chúng ta chuyển hóa tâm thức mình và làm chủ không gian nội tại của sự tỉnh giác. Trường hợp thường được trích dẫn về một học giả tận tụy học hỏi nhưng lại không trau dồi bất cứ sự thành tựu nội tại nào, và đã tái sanh như một con quỷ với cái đầu của một con lừa.

Để chiến thắng những điều kiện sẽ cho chúng ta thấu hiểu bản chất cùng tột của sự vật – và lòng từ bi bao la kết quả từ sự thân chứng đó – chúng ta trước nhất sử dụng tâm thức cho việc suy nghĩ rời rạc, sau đó dần dần để sự tương tục của sự trong sáng tự nhiên xuất hiện trên bề mặt của tâm thức. Có nhiều phương pháp: Hệ Quả Du Già (Anuyoga), thí dụ thế, dựa vào hơi thở, những kinh mạch, và những yếu tố của thân vi tế để tuệ giác nguyên sơ sinh khởi; hệ thống Thời Luân hiện thực bản chất cùng tột của tâm thức bằng việc hợp nhất diệu lạc và tánh không, và Atiyoga lãnh hội sự Giác Ngộ hiện diện một cách trực tiếp. Điểm trọng tâm của tất cả những phương pháp khác biệt này là hòa tan các tập họp uẩn vào ánh sáng quang minh. Trong truyền thống của chúng tôi, chính là thân ánh sáng cầu vồng mà những đại hành giả biểu hiện khi họ viên tịch.

Vì thế, ở miền đông Tây Tạng, người ta nói rằng trước khi viên tịch một vị tu sĩ đã yêu cầu không ai chạm vào thân thể ngài trong một tuần và cửa phòng của ngài phải được đóng kín. Sau bảy ngày, khi họ đi vào trong phòng, thân thể của ngài đã hoàn toàn tan biến. Người ta chỉ thấy y áo của vị ấy, móng tay chân và tóc cũng biến mất. Vị tu sĩ này là một ẩn sĩ sống rất giản dị, không có bất cứ biểu hiện thân chứng nào hiện ra bên ngoài trong suốt cuộc đời ngài tận tụy cho việc quán chiếu. Ngài đã điều khiển, qua sự thực hành của  ngài, để hiện thực sự tinh khiết nguyên sơ của tâm thức.

Tất cả chúng ta không cần phải có một sự thành tựu như vậy. Tốt hơn, trong sự thực tập hàng ngày của chúng ta, ở tại nhà, tiếp tục đời sống chuyên môn và gia đình trong khi vẫn học hỏi để trở thành tốt hơn ngày qua ngày và giữ vững một kiểu mẫu tích cực của đời sống cống hiến cho sự tốt lành của xã hội, theo những nguyên tắc của giáo huấn. Chúng ta nên chọn lựa những nghề  nghiệp trong những lãnh vực của giáo dục, sức khỏe, và phục vụ xã hội. Chúng ta nên tránh việc từ bỏ mọi thứ cho một đời tu hành cô độc. Mục tiêu là không tự tận tụy một cách đơn độc với sự thực hành tâm linh, để hướng đến một đời sống mất hút trong những dòng sông băng. Chúng ta nên tiến hành bằng những cấp độ, một cách vững chắc, chú ý để không có một quan điểm cực đoan, trong một tinh thần đều đặn và kiên trì.

Tsongkhapa – Tông Khách Ba

Thực hành là thiết yếu, vì nó làm mới đời sống nội tại. Kỷ luật, quán chiếu, và tuệ giác là sự rèn luyện cho phép một sự chuyển hóa xác thật. “Nếu chúng ta không chuyển hóa chính mình, làm thế nào chúng ta giúp người khác chuyển hóa họ?” Tông Khách Ba, vị thánh nhân Tây Tạng đã hỏi như thế.

Tiến triển một cách không ngừng, chúng ta dần dần quen thuộc với sự chuyển hóa những nhận thức, cung cách suy nghĩ, và thái độ của chúng ta. Trong vấn đề mang đến một sự thay đổi hoàn toàn những thói quen tinh thần bằng việc làm giảm thiểu những cảm xúc trong một tiến trình từ từ của học tập, quán chiếu, và hành thiền – nói cách khác, việc làm cho quen thuộc. Đó là vấn đề chúng ta tinh luyện tâm thức và làm thuần khiết nó qua một sự tu tập vốn để hiện thực năng lực của nó. Chúng ta nghiên cứu để làm chủ dòng suối ý thức của chúng ta, để kiểm soát những chướng ngại cảm xúc, mà không để chúng ta bị chúng khống chế. Đó là con đường hướng đến sự thân chứng tuyệt đối. Sự thực tập của chúng ta hợp thành một thể thống nhất tất cả những phương diện và tất cả những trình độ khác nhau trong giáo huấn của Đức Phật.

Đối diện với những chướng ngại cảm xúc, chúng ta phải học hỏi để cẩn trọng một cách liên tục. Khi một chướng ngại cảm xúc hiện diện trong tâm thức chúng ta, thì chúng ta phải phản ứng giống như một tên trộm vừa đột nhập vào nhà chúng ta, và chúng ta nên nhanh chóng xua đuổi nó đi. Vì những sự thực chứng tâm linh của chúng ta sắp bị kẻ trộm lấy mất. Nếu những độc tố tinh thần cuối cùng có thể được chuyển hóa thành tuệ giác, đó là bởi vì bản chất rốt cùng của nó được phú cho sự thuần khiết trong sáng nguyên sơ một cách tự nhiên.

Rèn Luyện Đời Sống Cảm Xúc Của Chúng Ta

TỰ NGÃ LÀ GỐC RỂ của những độc tố tinh thần. Tâm thức chúng ta chế tạo, phóng chiếu, và dính mắc những khái niệm với con người và sự vật. Sự định hình vị kỷ tăng cường những phẩm chất hay khuyết điểm mà chúng ta cho là do người khác. Từ điều này đưa đến một sự củng cố tính riêng biệt giữa tôi và không phải tôi, của tôi và không phải của tôi. Mọi vật chúng ta nhận thức như riêng rẻ thật sự là liên hệ với nhau, nhưng cái “tôi” của chúng ta tách riêng chúng. Cho nên cho đến khi mà chúng ta vẫn còn trong sự si mê và chưa kinh nghiệm được sự vắng mặt của thực tại tự ngã, tâm thức chúng ta vẫn tin tưởng trong sự cứng nhắc của nó. Việc nhận ra sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu của tự ngã là một đối trị hiệu quả đối với sự định hình vị kỷ và nó là một điểm trọng tâm của giáo huấn trên con đường của Đức Phật.

Dưới tác động của sự hấp dẫn và tham dục, tâm thức trộn lẫn với và những sự dính mắc với đối tượng của sự tham dục. Tham dục cho sự sở hữu là rất mạnh mẽ; nó kết tinh sự dính mắc với tự ngã và đến những gì là “của tôi”. Chúng ta cảm thấy sự ghét ghê đối với những gì tổn hại chúng ta, và sự ghê tởm này sẽ biến thành sự thù oán, rồi thành một tâm phiền não, những lời nói tai hại, bạo động. Những cảm xúc tiêu cực này là nguyên nhân của sức khỏe tệ hại. Những nghiên cứu y khoa cho thấy rằng những người, trong ngôn ngữ hàng ngày thường sử dụng những  chữ “tôi”, về “tôi”, và “của tôi” hầu hết là đối tượng của những cơn bệnh kích thích hơn là những người khác. Rồi thì, tại gốc rể của những cảm xúc tiêu cực, chúng ta thấy tự ngã và một sự tin tưởng về sự cứng nhắc của vật chất. Chúng ta phải cố gắng để xua tan sự tin tưởng này ở những trình độ vi tế hơn bao giờ hết.

Rèn luyện đời sống cảm xúc của chúng ta tiêu biểu cho một công việc của nhiều thập niên tu sửa những cảm giác tiêu cực vốn đã trở thành một tình trạng bình thường của tâm thức chúng ta. Nhưng vì chúng ta chưa bao giờ cố gắng để nghiên cứu chúng ta thật sự là ai. Việc cụ thể hóa tự ngã và những hiện tượng tạo ra một sự phân chia giữa chủ thể và đối tượng. Khi chúng ta xua tan sự tin tưởng trong thực tại của tự ngã và thế giới, thì chúng ta khám phá rằng tuệ giác tự nó không có bất cứ sự tồn tại cố hữu nào, nó vốn vô tự tánh. Rõ ràng, điều đó tương ứng với một giai tầng tiến bộ trên con đường tu tập của Phật Giáo.

***

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kinh nghiệm những từ ngữ của Đức Phật, Ngài kêu gọi đệ tử ngài hãy thẩm tra kinh điển như người thợ kim hoàn thử vàng. Trong những lời giảng dạy của ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trao truyền những tinh hoa trong sự thực tập của  ngài qua trái tim vô cùng phong phú của ngài. Đôi lúc ngài rơi lệ khi diễn tả về năng lực của tâm giác ngộ, vốn yêu thương người khác hơn chính mình, hay ngược lại là ngài bùng nổ những cơn cười khi đề cập về tánh ngây thơ và ngắn ngủi của đời người. Những giọt nước mắt và nụ cười tự nhiên của ngài là những giáo huấn trong giáo huấn, nhắc nhở chúng ta về không gian hiện thân của tuệ giác.

Trong tấm gương sự rộng lượng vô hạn của Đức Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta có cơ hội để đánh giá về con đường của đời sống chúng ta. Vì nó chính là những thông số trong mối liên hệ của chúng ta với thế giới mà vị đạo sư tâm linh đặt vấn đề thách thức. Thực tại là gì mà chúng ta phải chỉ định đến điều chúng ta xem như “thực tại”? Lý luận của sự phân tích khảo sát lột đi những lớp cấu trúc và giải tỏa cấu kết của người nói “tôi”, “của tôi”, vì vậy thích hợp với kinh nghiệm của sự tỉnh giác về thế giới có thể tri nhận được. Trong không gian của Descartes, dường như đột nhiên tự tin thật sự để thừa nhận, “tôi nghĩ cho nên có tôi.”

Sự giảng dạy của những đạo sư Tây Tạng thử thách những sự chắc chắn như vậy: “Gương mặt của ngươi hiện tại không phải là ngươi,” Lạt ma Yeshe viết thế.

Xương thịt của ngươi không phải là ngươi. Cũng không phải máu, cơ bắp, cũng không phải những phần khác của thân thể ngươi là bản chất của ngươi … Thân thể thô phù vật lý của chúng ta không phải là thân thể duy nhất chúng ta sở hữu … Trong những sự hạn chế của hình thể vật lý thông thường của chúng ta tồn tại những trình độ sâu xa của ý thức. Chính là từ những trình độ vi tế hơn này mà năng lượng tiềm tàng của tuệ giác diệu lạc sinh khởi, một năng lượng có khả năng chuyển hóa phẩm chất của đời sống chúng ta một hoàn toàn … [Nó] tiêu biểu cho bản chất của vấn đề chúng ta là ai và chúng ta có thể trở thành điều gì.”

Qua sự hành thiền, tính chất thông thường được chiến thắng bằng năng lượng của Giác Ngộ. Lối vào cho việc thâm nhập một trình độ của tỉnh giác nơi những hiện tướng không còn biểu hiện mà không có sự thực chứng về mối liên hệ hổ tương của chúng, vì thế “chúng tôi” trở thành thật sự hơn là “tôi”. Việc nhận ra rằng chúng ta không có nguyên nhân cho sự tồn tại của chúng ta bên trong chúng ta và rằng chúng ta lệ thuộc vào những người khác cho sự tồn tại của chúng ta là bước đầu tiên của thực tại đưa chúng ta đến việc thấu hiểu rằng mọi thứ là liên hệ với nhau và từ bi là tính bản nhiên chân thật của chúng ta.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thường so sánh các tôn giáo với y dược, bổ sung những sự điều trị khác nhau là cần thiết để cứu chửa những bệnh tật khác nhau. Nhưng tất cả những tôn giáo là giống nhau vì đều kê toa thuốc vị tha. Tại sao? Bởi vì lòng từ ái tiêu biểu cho sức khỏe nền tảng tương ứng với bản chất thật sự của thực tại. Những thái độ vị kỷ, tổn hại tự thân và người khác, chống lại lẽ thật của sự sống và con người. Chúng phát khởi từ si mê và đưa đến những sự lệch lạc tinh thần cần được chửa trị. Tuệ giác, nhận thức thực tại như nó là, tượng trưng cho phương thuốc siêu việt của lòng vị tha. Với lý do này mà Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể thừa nhận: “Tôi gọi từ ái và bi mẫn là tôn giáo phổ thông. Đấy là tôn giáo của tôi.”

Bây giờ chúng ta có thể thấu hiểu rằng bằng việc trình bày tự thân ngài như một con người, Đức Đạt Lai Lạt Ma muốn nói rằng ngài đã thực hiện một tiến trình chuyển hóa nội tại vốn đã cho phép ngài nhận ra thực tế đòi hỏi của sự sống và trải  nghiệm sự thánh thiện căn bản của nó. Nhưng theo quy luật hổ tương phối hợp với nguyên tắc nhân duyên, chúng ta là một bộ phận của thế giới cũng như thế giới là một bộ phận của chúng ta.

Bất cứ người nào đã chuyển hóa tự thân thì cũng chuyển hóa thế giới.

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, January 20, 2016

 

TÔI KÊU GỌI  MỘT CUỘC CÁCH MẠNG TÂM LINH

Chúng Ta Có Thể Sống Không Cần Tôn Giáo, Nhưng Không Thể Không Có Tâm Linh

NHƯ MỘT TU SĨ Tây Tạng, tôi được giáo dục để tôn kính những nguyên tắc của Phật Giáo. Toàn bộ cung cách suy nghĩ của tôi được hình thành bởi sự kiện tôi là một là một đệ tử của Đức Phật, nhưng tôi muốn vượt qua khỏi những ranh giới tín ngưỡng của tôi để làm sáng tỏ những nguyên tắc phổ thông nào đó, với mục tiêu giúp đở người khác tìm hạnh phúc.

Dường như là quan trọng đối với tôi để phân biệt giữa tôn giáo và tâm linh. Tôn giáo bao hàm một hệ thống những niềm tin căn cứ trên nền tảng siêu hình, cùng với những giảng dạy về giáo lý, nghi lễ, hay cầu nguyện. Tuy nhiên, tâm linh, tương ứng với sự phát triền những phẩm chất nhân bản chẳng hạn như từ ái, bi mẫn, kiên nhẫn, bao dung, tha thứ, hay một ý nghĩa của trách nhiệm. Những phẩm chất nội tại này, là nguồn gốc của hạnh phúc cho tự thân và những người khác, là độc lập với bất cứ tôn giáo nào. Đó là tại sao, thỉnh thoảng toi đã tuyên bố rằng chúng ta có thể sống mà không cần tôn giáo, nhưng không thể không có tâm linh. Và một động cơ vị tha là một yếu tố tổng hợp những phẩm chất mà tôi định nghĩa như tâm linh.

Cách Mạng Tâm Linh Và Cách Mạng Đạo Đức

TÂM LINH, TRONG QUAN ĐIỂM của tôi, bao hàm sự chuyển hóa tâm thức. Cách tốt nhất để chuyển hóa nó là làm quen thuộc với sự suy nghĩ trong một cung cách vị tha hơn. Thế nên đạo đức là căn bản cho mọt tâm linh thế tục cho tất cả mọi người, ta không bị giới hạn trong một nhóm những người tin tưởng trong một tôn giáo này hay tôn giáo kia.

Cuộc cách mạng tâm linh mà tôi chủ trương không phải là một cuộc cách mạng tôn giáo. Nó tương ứng với một sự định hướng lại thái độ đạo đức của chúng ta, vì nó là một vấn đề của việc học hỏi để đem những nguyện vọng của người khác vào sự quan tâm của chúng ta tối đa cũng như của chính chúng ta.

Cuộc cách mạng tâm linh mà tôi chủ trương không tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài nối kết với tiến trình vật chất hay kỷ thuật. Nó sinh ra bên trong, và được động viên bởi một khát vọng thâm sâu là để chuyển hóa tự thân nhằm để trở thành một con người tốt đẹp hơn.

Người ta có thể phản đối rằng một cuộc cách mạng tâm linh không thể giải quyết những vấn nạn của thế giới đương thời. Họ có thể thêm rằng, trên trình độ xã hội, bạo động, say sưa, ma túy, hay sự mất mát những giá trị gia đình nên được đối phó với căn bản của chính họ qua những lượng định đặc thù. Nhưng chúng ta biết rằng từ ái hơn và bi mẫn hơn sẽ giới hạn sự mở rộng và tính nghiêm trọng của những vấn nạn này. Không phải tốt hơn để tiếp cận chúng và xử sự với chúng như những vấn nạn của một trật tự tâm linh hay sao?

Tôi không cho rằng những vấn nạn như vậy sẽ biến mất ngay lập tức, nhưng tôi thật sự nói rằng bằng việc giảm thiểu chúng đối với lãnh vực xã hội và bằng việc thờ ơ không gian tâm linh của chúng, thì chúng ta không đang cho chúng ta phương tiện để giải quyết chúng trong một cung cách lâu dài. Tâm linh, khi chúng ta thấu hiểu như sự phát triển những giá trị nhân bản nền tảng thì chúng ta có mọi cơ hội để cải thiện cuộc sống của những cộng đồng chúng ta.

Sự Bệnh Hoạn Của Tính Hai Mặt

THẬT QUAN TRỌNG ĐỂ tỉnh giác với sự liên hệ hổ tương bằng việc nhận ra rằng một hiện tượng xảy ra do bởi nhiều nguyên nhân và điều kiện phức tạp. Giảm thiểu thành một nhân tố đơn độc sẽ đưa đến một sự phân liệt thực tại. Việc nhận thấy sự liên hệ hổ tương cuối cùng đưa đến một sự ít bạo động hơn. Hơn thế nữa vì khi chúng ta đặt mình vào một phạm vi rộng rãi hơn, chúng ta trở nên ít bị tổn thương hơn với những hoàn cảnh ngoại tại và có được một sự phán xét lành mạnh hơn. Bất bạo động không giới hạn trong một sự vắng mặt bạo lực, vì nó là vấn đề của một thái độ năng động, được động viên bởi mong ước mang lại sự tốt lành cho người khác. Nó tương đương với lòng vị tha.

Lòng yêu thương vị tha thường bị hiểu sai. Nó không là vấn đề của việc quên lãng chính mình vì lợi ích của người khác. Trong thực tế, khi quý vị làm lợi ích cho người khác, quý vị làm lợi ích cho chính mình do bởi nguyên tắc liên hệ nhân duyên hổ tương.  Tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng tâm hồn quý vị và đem nổi khổ đau của người khác vào trong chính mình. Lòng vị tha thay đổi tính khí của chúng ta, tính tiếu lâm của chúng ta, những nhận thức của chúng ta và cho phép chúng ta phát triển một sự thanh thản hơn, một tính khí bình lặng hơn. Ngược lại với lòng vị tha làm chúng ta dễ bị tổn thương với những hoàn cảnh ngoại tại hơn.

Chủ nghĩa vị kỷ chống lại tự nhiên, vì nó phớt lờ sự liên hệ nhân duyên hổ tương. Nó là một thái độ đóng lại tất cả những cánh cửa, trái lại lòng vị tha phát triển một tầm nhìn sâu sắc. Chúng ta nên phát triển cảm giác thuộc về một gia đình nhân loại rộng lớn. Những nguyên nhân và điều kiện của tương lai chúng ta một cách rộng rãi nằm trong tay của chúng ta.

Việc Không Để Ý Mối Liên Hệ Nhân Duyên Hổ Tương Của Những Người Phương Tây

MỘT CÁCH TỔNG QUÁT, tôi rất ấn tượng với xã hội phương Tây; tôi đặc biệt ngưỡng mộ năng lượng của nó, sự sáng tạo của nó, và lòng khao khát tri thức của nó. Tuy thế, một số yếu tố nào đó trong cung cách sống của phương Tây dường như đáng lo ngại đối với tôi. Tôi đã chú ý, thí dụ, người ta đã sẳn sàng nghĩ về mọi thứ như hoàn toàn trắng hay hoàn toàn đen, như hoặc là thế này hay thế kia, quên lãng thực tại của mối liên hệ nhân duyên hổ tương và tương đối. Họ có khuynh hướng đánh mất tầm nhìn của những vùng xám bất định giữa những ý kiến.

Một điều nữa trong sự quán sát của tôi là có nhiều người ở phương Tây sống một cách rất thoải mái trong những thành phố lớn, trong khi vẫn duy trì sự cô lập với đại đa số nhân loại. Thật đáng ngạc nhiên rằng với một sự nhàn hạ vật chất như vậy và với hàng nghìn anh chị em hàng xóm, một số lớn con người như vậy lại chỉ có thể biểu lộ tình cảm thật sự với những con chó và con mèo của họ. Trong nhãn quan của tôi, điều đó chứng tỏ một sự thiếu vắng những giá trị tâm linh. Một phần của vấn nạn có thể là sự ganh đua căng thẳng – một nguồn gốc của sợ hãi và bất an sâu sắc – liên hệ với đời sống trong những xứ sở như vậy.

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, January 20, 2016

 

TÔI KHÔNG TIN VÀO NHỮNG HỆ TƯ TƯỞNG

Nhân Loại Là Một

CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một. Trong quá khứ, những cộng đồng khác nhau có thể cho phép họ nghĩ rằng họ là riêng biệt. Nhưng ngày nay, như những sự kiện bi thảm gần đây ở Hoa Kỳ đã cho thấy, những gì xảy ra trong một nước ảnh hưởng đến nhiều xứ khác. Thế giới đang trở thành càng ngày càng liên hệ hổ tương hơn. Trong phạm vi của mối liên hệ hổ tương mới này, việc quan tâm chính mình đòi hỏi lưu ý đến những quan tâm của người khác. Không có sự thấu hiểu và thúc đẩy ý nghĩa trách nhiệm toàn cầu của chúng ta, thì tương lai của chúng ta tự nó bị đe dọa. Tôi tin tưởng một cách vững chắc rằng chúng ta phải trau dồi một cảm nhận lớn hơn về trách nhiệm toàn cầu. Chúng ta phải nghiên cứu để hành động không phải cho chính chúng ta, gia đình chúng ta, hay quốc gia của chúng ta, nhưng vì sự tốt lành của nhân loại. Trách nhiệm toàn cầu là căn bản khả dĩ nhất để bảo đảm cho hạnh phúc cá nhân và hòa bình thế giới. Nó  hàm ý rằng tất cả mọi người được tiếp cận bình đẳng những nguồn tài nguyên thiên nhiên, bằng việc bảo vệ môi trường cho những thế hệ tương lai. Nhiều vấn nạn trên thế giới phát sinh vì chúng ta đã đánh mất nhãn quan nhân loại căn bản vốn đã thống nhất tất cả những thành viên của gia đình loài người. Chúng ta có khuynh hướng quên lãng rằng mặc dù có sự khác biệt về chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, và tư tưởng, nhưng tất cả có một quyền bình đẳng và căn bản với hòa bình và hạnh phúc. Mỗi chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Tuy thế, mặc dù một cách lý thuyết, chúng ta ca ngợi sự đa nguyên, bất hạnh thay chúng ta thường thất bại trong việc đem nó vào thực hành. Trong thực tế, bất lực trong việc nắm lấy tính đa dạng của chúng ta đã trở thành một nguồn gốc quan trọng cho xung đột giữa những dân tộc.

Liên Hệ Nhân Duyên Hổ Tương Là Quy Luật Của Tự Nhiên

LIÊN HỆ HỔ TƯƠNG  là một quy luật nền tảng của tự nhiên. Nó liên quan nhiều hơn chỉ là hình thức tiến hóa hơn của cuộc sống, vì ngay cả những côn trùng bé nhỏ cũng là những chúng sanh xã hội đã tồn tại, căn cứ trên việc nhận thức bẩm sinh về sự tương quan của chúng, cho dù côn trùng vốn không có một chút tôn giáo, luật lệ hay giáo dục nào, cảm ơn sự hợp tác hổ tương. Vô số hình thức của sự sống cũng như những trình độ vi tế nhất của những hiện tượng vật chất bị chi phối bởi tính liên hệ nhân duyên hổ tương. Tất cả những hiện tượng trên hành tinh mà chúng ta đang sống, từ những đại dương đến những đám mây, những khu rừng, và những bông hoa chung quanh chúng ta, vốn tồn tại trong sự lệ thuộc phù hợp với những hình thức vi tế của năng lượng. Không có sự tương tác thích đáng, chúng sẽ tàn  hoại và biến mất.

Một Cảm Nhận Trách Nhiệm Được Sinh Khởi Từ Lòng Từ Bi

Ở TÂY TẠNG CHÚNG TÔI nói rằng nhiều bệnh tật có thể được chửa trị duy nhất bằng phương thuốc của từ ái và bi mẫn. Những phẩm chất này là nguồn gốc tột cùng của hạnh phúc, và chúng ta cần chúng trong chiều sâu thẩm nhất của con người.

Bất hạnh thay, từ ái và bi mẫn vốn đã bị khai trừ khỏi rất nhiều lãnh vực của sự tương tác xã hội, từ lâu lắm rồi. Bị giam hảm trong môi trường riêng tư gia đình, cho nên những biểu lộ công cộng của chúng được xem là ngượng ngùng hay ngay cả ngây thơ. Đây là một bi kịch, vì trong ý kiến của tôi sự biểu lộ của từ bi, hoàn toàn không là một dấu hiệu của chủ nghĩa lý tưởng xa rời thực tế, nhưng là cách hiệu quả nhất để phục vụ những sự quan tâm của người khác cũng như của chính chúng ta.

Một tâm thức dâng hiến cho từ bi, giống như một hồ chứa đầy tràn: nó là một cội nguồn liên tục của năng lượng, quyết tâm, và thánh thiện. Chúng ta có thể so sánh từ bi như một hạt giống. Nếu chúng ta nuôi dưỡng nó, nó sẽ làm thành một sự rộ nở những phẩm chất tuyệt vời khác một cách phong phú, chẳng hạn như tha thứ, bao dung, sức mạnh nội tại, và tự tin, cho phép chúng ta chinh phục sợ hãi và băn khoăn. Tâm từ ái bi mẫn giống như linh đan diệu dược: nó có sức mạnh đảo ngược những nghịch cảnh thành những hoàn cảnh thuận lợi. Do thế, chúng ta không nên giới hạn biểu lộ của chúng ta về từ ái và bi mẫn chỉ cho gia đình và bạn bè chúng ta. Từ bi cũng không là trách nhiệm đơn thuần của những giáo sĩ, nhân viên bảo vệ sức khỏe và  xã hội. Nó nhất thiết phải quan tâm đến tất cả mọi lãnh vực của cộng đồng nhân loại.

Khi một xung đột phát sinh từ lãnh vực chính trị, thương mại, hay tôn giáo, sự tiếp cận vị tha thường là giải pháp khả dĩ duy nhất. Đôi khi những sự tranh luận được sử dụng như phương tiện của hòa giải thì tự chính nó là nguyên nhân của rắc rối. Trong một trường hợp như thế, khi một giải pháp dường như không thể, cả hai phía nên nhớ nền tảng nhân bản tự nhiên mà thông thường họ có. Như thế sẽ giúp họ tìm ra một lối thoát cho ngõ cụt, và về lâu về dài mọi  người có thể đạt đến mục tiêu của họ một cách dễ dàng. Rất có thể là không ai sẽ hoàn toàn hài lòng, nhưng nếu cả hai phía đều nhượng bộ, tối thiểu hiểm họa của xung đột sẽ được xoa dịu. Tất cả chúng ta đều biết rằng những sự hứa hẹn như thế là cách tốt nhất để giải quyết những vấn nạn. Vậy thì tại sao chúng ta không sử dụng chúng thường xuyên hơn?

Khi quán chiếu về sự thiếu vắng hợp tác trong xã hội, tôi tự nói với mình rằng đó là qua sự si mê hay không biết bản chất liên hệ hổ tương của chúng ta. Tôi thường xúc động bởi những côn trùng nhỏ như những con ong. Những quy luật tự nhiên ra lệnh chúng làm việc với nhau để tồn tại, vì chúng được phú cho một cảm nhận bẩm sinh về trách nhiệm xã hội. Chúng không có hiến pháp, luật lệ, cảnh sát, tôn giáo, hay giáo dục đạo đức, nhưng chúng làm việc một cách trung thành với nhau do bởi bản chất của chúng. Có những lúc chúng có thể phải chiến đấu, nhưng trong tổng quát toàn bộ bầy đàn tồn tại, cảm ơn sự hợp tác. Con người có hiến pháp, những hệ thống hợp pháp phức tạp và lực lượng cảnh sát, tôn giáo, sự thông minh phi thường, và những trái tim được phú cho năng lực của yêu thương. Nhưng mặc cho những phẩm chất ngoại hạng như vậy, trong sự thực tập thật sự chúng ta tụt hậu xa những con côn trùng nhỏ nhất. Trong những cách nào đó, tôi cảm thấy rằng chúng ta tệ hơn những con ong.

Mặc dù chúng ta là những động vật xã hội, buộc phải sống với nhau, nhưng chúng ta thiếu một cảm nhận trách nhiệm đối với những đồng loại con người của chúng ta. Có phải sự sai sót vốn ở trong cấu trúc căn bản của gia đình và xã hội? Tôi không nghĩ như thế.

Tôi nghĩ rằng mặc cho những sự tiến bộ nhanh chóng mà nền văn minh đã thực hiện trong thế kỷ qua, nhưng nguyên nhân trước mắt của tình trạng hiện tại là việc dành đặc quyền cho tiến trình vật chất trên tất cả những thứ khác. Chúng ta đã buông mình một cách thật điên cuồng vào mục tiêu của nó mà chúng ta đã quên lãng việc chú ý và những nhu cầu thiết yếu của yêu thương, ân cần, hợp tác, và chăm sóc. Thật rõ ràng đối với tôi là một cảm nhận xác thật về trách nhiệm chỉ có thể thúc đẩy nếu khi chúng ta phát triển từ bi. Chỉ một cảm giác tự nhiên của thấu cảm đối với người khác mới có thể động viên chúng ta hành động nhân danh họ.

Chiến Tranh Là Một Việc Lỗi Thời

CHIẾN TRANH, hay bất cứ hình thức nào của việc tổ chức chiến đấu, được phát triển cùng với nền văn minh và dường như là một bộ phận của lịch sử và tính khí con người.

Tuy nhiên, thế giới đang thay đổi, và chúng ta phải hiểu rằng chúng ta không thể giải quyết những vấn nạn của loài người với vũ khí. Những sự tranh chấp vốn kết quả từ những sự khác biệt ý kiến phải nên được dàn xếp dần dần qua đối thoại.

Rõ ràng, những cuộc chiến tranh sản sinh ra những kẻ chinh phục và người bị chinh phục, nhưng chỉ tạm thời. Những sự chiến thắng hay chiến bại hệ quả từ những cuộc chiến tranh không thể tồn tại lâu. Hơn thế nữa, thế giới chúng ta đã trở thành quá liên hệ hổ tương với nhau mà sự chiến bại của một xứ sở có những tiếng vang khắp thế giới còn lại và đưa một cách trực tiếp hay gián tiếp nổi khổ hay mất mát cho mỗi chúng ta.

Ngày nay, trong một thế giới liên hệ hổ tương như vậy, khái niệm về chiến tranh dường như lỗi thời, phát xuất từ những thái độ cổ lỗ sĩ của chúng ta. Chúng ta luôn luôn nói về sự đổi mới và thay đổi. Nhiều truyền thống từ quá khứ không còn thích hợp với hiện tại và ngay cả là chướng ngại ẩn tàng và vì vậy đã bị bỏ vào thùng rác của lịch sử. Chiến tranh cũng nên được ký gửi cho thùng rác của lịch sử.

Bất hạnh thay, mặc dù chúng ta đã đi vào thế kỷ 21, nhưng chúng ta chưa thực hiện sự cắt đứt rõ ràng với những thói quen quá khứ: tôi ám chỉ đến sự tin tưởng rằng chúng ta có thể giải quyết những vấn nạn với vũ khí. Chính là do bởi ý tưởng này mà thế giới tiếp tục trải nghiệm tất cả những loại khó khăn. Nhưng chúng ta nên làm gì? Điều gì nên được hoàn tất khi mà những cường quốc quan trọng trên thế giới đã có những quyết định của họ rồi? Chúng ta có thể mong cầu cho một sự chấm dứt dần dần đối với truyền thống chiến tranh.

Đương nhiên, chúng ta không thể chấm dứt truyền thống quân sự một cách dễ dàng. Nhưng hãy nghĩ về điều ấy. Nếu có một sự chém giết, người có quyền hay những lãnh tụ sẽ có những nơi trú ẩn an toàn; họ sẽ trốn khỏi những hậu quả đau đớn bằng việc tìm ra những nơi ẩn náo. Nhưng điều gì sẽ xảy ra cho những người nghèo, con nít, người già, người bệnh? Họ là những kẻ sẽ phải chịu đựng sự xung đột.

Khi vũ khí nói chuyện, chúng sẽ tạo ra sự chết chóc và tàn phá mà không phân biệt giữa kẻ vô tội và người tội lỗi. Những hỏa tiển được kẻ thù phóng đi không tôn trọng người vô tội, người nghèo, người không có khí giới – chính những người xứng đáng với lòng từ bi. Như một kết quả, những người mất mát thật sự là những người có đời sống giản dị.

Điểm tích cực duy nhất: những tổ chức từ thiện mang thuốc men và vật dụng cứu trợ nhân đạo và len lõi trong những vùng bị tan nát bởi những cuộc xung đột. Việc phát triển những tổ chức này là một chiến thắng của trái tim trong kỷ nguyên hiện đại.

Hãy hy vọng và cầu nguyện để hoàn toàn không có chiến tranh, nếu có thể. Nếu một cuộc chiến tranh bùng nổ, chúng ta hãy cầu nguyện để có thể chỉ có sự chém giết và khổ đau tối thiểu. Tôi không biết sự cầu nguyện của chúng ta sẽ có đem đến bất cứ sự trợ giúp nào  không, trong hình thức cụ thể, nhưng đó là tất cả mà chúng ta có thể làm lúc này.

***

Tuyên bố này được thực hiện ở Dharamsala ngày 11 tháng Ba năm 2003, khi hiểm họa của cuộc chiến ở Iraq đang ló dạng. Sáu tháng sau, tháng 10 năm 2003, trong khi đang giảng dạy ở Paris, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rằng, trong những sự buộc tội chống lại lãnh tụ Iraq, Saddam Hussein, không đề cập nào được thực hiện về sự kiện rằng những vũ khí của nhà độc tài đã được làm với việc sử dụng những kỷ thuật phương Tây. Ngài chỉ ra rằng sự tham lam của những kẻ buôn bán vũ khí nên được lên án cùng với kẻ bạo chúa khát máu.

Tháng Giêng 2009 ở Sarnath, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc lại thí dụ này nhằm để làm sáng tỏ sự lệ thuộc hổ tương và nhu cầu của mỗi con người nên nhận thấy trách nhiệm toàn cầu mà tất cả chúng ta chia sẻ và việc nhận ra rằng một hành vi nhỏ nhất cũng ảnh hưởng đến thế giới.

Mỗi Người Phải Gánh Vác Sự Chia Sẻ Trách Nhiệm Toàn Cầu

TÔI KHÔNG TIN TRONG việc tạo ra các phong trào quần chúng hay trong những hệ tư tưởng. Và tôi cũng không đánh giá cao kiểu tạo ra một tổ chức nhằm để thúc đẩy một ý tưởng này hay nọ, là điều hàm ý rằng một nhóm nhỏ chịu trách nhiệm đơn thuần trong việc đưa ra một chương trình nào đó, với việc loại trừ những người khác. Trong những hoàn cảnh hiện tại, không người nào nên cho rằng người khác nào đó sẽ giải quyết vấn đề của ta. Mọi người phải đảm đương sự chia sẻ của chính mình trong trách nhiệm toàn cầu. Cách này, như con số được quan tâm, những cá nhân chịu trách nhiệm sẽ gia tăng – những chục người đầu tiên, rồi hàng trăm, hàng nghìn và ngay cả hàng trăm nghìn – không khí phổ quát sẽ được cải thiện.

***

Đức Đạt Lai Lạt Ma không tán thành những hệ tư tưởng nào vốn làm con người xa rời với sự nhận thấy cần thiết gánh vác tính nhân bản tròn vẹn của họ. Vị thế mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma cốt đặt trọng tâm việc giải quyết những rắc rối về con người và đạo đức

Từ bi là lẽ thật của con người, và nó hình thành bằng việc phát triển thái độ vị tha trên trình độ cá nhân. Trên trình độ toàn cầu, từ bi hướng đến việc phát triển trách nhiệm toàn cầu. Trong thời kỳ toàn cầu hóa lịch sử và văn minh, tất cả chúng ta gánh vác sự chia sẻ của chúng ta về trách nhiệm toàn cầu dù cho chúng ta sống ở nơi nào đi nữa. Mỗi hành động cá nhân có ảnh hưởng rộng khắp. Lãnh vực hành động của mỗi người đã trở thành toàn cầu, với sự tự do cá nhân kết hợp những nhiệm vụ lẫn quyền lợi.

Như một kết quả sự lệ thuộc hổ tương của chúng ta, việc làm kiệt quệ một quốc gia, một dân tộc, hay một nền văn hóa tước đi của nhân loại sự đa dạng phong phú của nó, một sự chia sẻ không thể thay thế. Việc tấn công vào những quyền căn bản của một người trở thành một sự tấn công vào phẩm cách của tất cả.

Điều gì hơn thế  nữa, theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, việc nhận biết trách nhiệm toàn cầu nên mở rộng đến thế giới khoa học. Vì chân giá trị của con người bị coi thường không chỉ bởi sự áp chế của cảnh sát và sự chuyên chế của chính quyền hay bởi sự xung đột quân sự. Đạo đức trung thực trong nhiều thập niên đã phải đối diện với một sự thử thách mới trở thành cấp thiết hơn khi khoa học và kỷ thuật tiếp tục hiện thực những tiến bộ mới. Những kỷ luật này bây giờ có sức mạnh để vận dụng các mã di truyền thật sự trong đời sống.

Để cho phép khoa học gánh vác trách nhiệm trong việc phục vụ con người, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tham gia vào những cuộc đối thoại với những học giả nổi tiếng trên thế giới. Trên căn bản của Phật Giáo, được thấu hiểu như một môn khoa học về tâm thức, ngài đã nhấn mạnh những sự hội tụ giữa truyền thống quán chiếu của chính ngài và khoa học thần kinh hiện đại. Như một kết quả của sự đối thoại này, một định nghĩa về những nguyên tắc đạo đức có thể áp dụng được cho thế giới khoa học đã được nổi lên cùng với những triển vọng nghiên cứu sáng tạo.

Trích từ quyển My Spiritual Journey của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Ẩn Tâm Lộ, Friday, January 22, 2016

 

SỰ ĐỐI THOẠI CỦA TÔI VỚI NHỮNG NHÀ KHOA HỌC

Tại Sao Một Tu Sĩ Phật Giáo Lại Quan Tâm Đến Khoa Học?

TRONG NHỮNG THẬP NIÊN gần đây, chúng ta đã chứng kiến những sự tiến bộ phi thường trong sự thấu hiểu của khoa học về não bộ và thân thể con người, và cùng với những sự phát triển mới về di truyền học, sự khảo sát về chức năng của sinh vật sống bây giờ đã đạt đến một trình độ rất vi tế về gien cá nhân. Những khả năng không tưởng đến trước đây cho việc vận dụng chính những mã của con người đã có kết quả từ việc này. Một hình thể mới toàn bộ về thực tại bây giờ đang hiện lên cho con người.

Ngày nay câu hỏi về sự tương tác giữa khoa học và con người không còn chỉ là một vấn đề có tính chất học thuật nữa nhưng phải có một ý nghĩa cấp bách cho tất cả những ai quan tâm đến vận mạng của loài người. Cho nên, dường như đối với tôi thì một cuộc đối thoại giữa khoa thần kinh học và xã hội có thể giúp để làm sâu sắc hơn sự thấu hiểu căn bản của chúng ta về điều gì có nghĩa là con người bằng việc xác định rõ đặc điểm những trách nhiệm đối với tự nhiên mà chúng ta chia sẻ với những chúng sanh khác. Tôi vui mừng để đề cập rằng,  như một bộ phận của sự tương tác rộng rãi hơn này, một số nhà thần kinh học đang cho thấy ngày càng thích thú hơn trong việc tham gia vào những cuộc đàm luận sâu sắc hơn với những nguyên tắc quán chiếu của Đạo Phật.

Tôi đã bắt đầu tiếp cận đến khoa học với sự tò mò của một cậu bé không thể thỏa mãn vốn lớn lên ở Tây Tạng. Sau đó tôi dần dần nhận biết về tầm quan trọng to lớn của khoa học và kỷ thuật trong sự thấu hiểu thế giới đương thời. Không phải tôi chỉ cố gắng để hiểu những khái niệm khoa học, nhưng tôi cũng muốn khám phá quan hệ mật thiết rộng rãi hơn của những tiến bộ gần đây trong khoa học về lãnh vực tri thức con người và năng lực kỷ thuật. Những thế giới đặc thù của khoa học mà tôi đã khám phá trải qua bao năm là vật lý hạ nguyên tử, vũ trụ học, sinh học, và tâm lý học. Sự hiểu biết giới hạn mà tôi có được trong những môn này, tôi nhờ và hàm ơn Carl von Weizsacker và David Bohm đã rộng rãi chia sẻ với tôi. Tôi biết ơn họ một cách sâu sắc, và tôi xem họ như giáo sư của tôi về cơ học lượng tử. Về sinh học và thần kinh học, vị thầy của tôi là Robert Livingstone và Francisco Varela, cả hai đều đã qua đời. Tôi cũng hàm ơn rất nhiều đến nhiều vị học giả ưu việt mà với các vị ấy tôi đã có đặc ân đàm luận dưới sự bảo trợ của một học viện khởi đầu những hội nghị “Tâm Thức và Đời Sống” tại nơi cư trú của tôi ở Dharamsala, Ấn Độ, năm 1987. Những cuộc đàm luận này tiếp tục theo thời gian, và chúng tôi đã kết thúc lần cuối cùng ở thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa Kỳ, vào tuần này.

Carl von Weizsacker  và Đức Đạt Lai Lạt Ma

Tôi hiểu rằng nhiều người trong quý vị tự hỏi, “Tại sao một tu sĩ Phật Giáo lại quá thích thú với khoa học? Có sự liên kết gì ở đấy giữa khoa học và Phật Giáo, một truyền thống triết học cổ xưa của Ấn Độ và tâm linh? Lợi ích gì có thể để cho một môn như thần kinh học có được bằng việc dấn thân trong một cuộc đàm luận với truyền thống quán chiếu của Phật Giáo?

Mặc dù truyền thống của chúng tôi và khoa học đương đại đã tiến hóa từ những nguồn gốc lịch sử, trí tuệ, và văn hóa khác nhau nhưng tôi tin tưởng rằng từ chiều sâu, chúng chia sẻ một quan điểm triết học và phương pháp học giống nhau. Ở trình độ triết học, Phật Giáo và khoa học hiện đại đều nghi ngờ về bất cứ khái niệm tuyệt đối nào, cho dù nó trình bày tự nó như một bản chất siêu việt, một nguyên tắc vĩnh cửu, bất biến, chẳng hạn như linh hồn, hay như một nền tảng cơ bản của thực tại. Phật Giáo và khoa học đưa ra tầm quan trọng của sự tiến hóa và sự hiện hữu của vũ trụ và đời sống, trong hình thức của những mối liên hệ hổ tương phức tạp xuất phát từ quy luật tự nhiên của nhân quả.

Như đối với phương pháp học của chúng, cả hai truyền thống đều nhấn mạnh vào vai trò của kinh nghiệm luận. Vì vậy, trong sự khảo sát của Phật Giáo, từ ba nguồn tri thức – kinh nghiệm, lý trí, và sự chứng nhận – bằng chứng thực nghiệm là đầu tiên, với lý trí thứ hai và sự chứng nhận là cuối cùng. Điều đó có nghĩa là, trong Phật Giáo vấn đề thực tại, tối thiểu ở trình độ nguyên tắc, bằng chứng thực nghiệm giữ vai trò thống soái đối với thẩm quyền của kinh điển, bất chấp một kinh điển có thể được tôn kính như thế nào. Thậm chí trong trường hợp tri thức bị giảm thiểu bởi lý trí hay suy luận, thì giá trị rốt cùngcủa nó phải được thừa nhận bằng kinh nghiệm thực tế.

Do bởi quan điểm phương pháp học này, tôi thường trình bày với những đồng nghiệp Phật Giáo của tôi rằng những khám phá được thẩm tra thực nghiệm qua thiên văn học hiện đại bắt buộc chúng  ta phải điều chỉnh, và trong một vài trường hợp, phải phủ nhận nhiều khía cạnh của vũ trụ học truyền thống được giải thích trong những luận điển tôn giáo cổ truyền.

David Bohm và Đức Đạt Lai Lạt Ma

Vì Phật Giáo phân tích về thực tại với động cơ chính là việc tìm kiếm cơ sở để vượt thắng khổ đau và hoàn thiện tình trạng con người, cho nên định hướng chính của truyền thống khảo sát là để thấu hiểu tâm thức con người và những cách biểu hiện khác nhau các chức năng của nó. Sự tiên đoán là bằng việc thu thập một sự thấu hiểu thậm thâm hơn về tinh thần, thì chúng ta sẽ tìm ra cách để chuyển hóa những tư tưởng, cảm xúc của chúng ta, và những xu hướng tiềm ẩn của chúng để vạch ra một cung cách sống lành mạnh hơn, thỏa mãn hơn.

Trong một phạm trù như vậy, truyền thống Phật Giáo đã cung cấp một sự phân loại đầy đủ những tình trạng tinh thần, cũng như những phương pháp quán chiếu hướng đến việc làm tinh tế hơn những phẩm chất nào đó của tâm thức. Một sự thay đổi xác thật đã được thiết lập giữa kiến thức và kinh nghiệm tích tập của Phật Giáo và khoa học hiện đại trên những vấn đề lớn hơn đối diện với tâm thức con người, từ việc nhận thức và những cảm xúc đến sự thấu hiểu về năng lực vốn có của não bộ cho việc chuyển hóa. Sự đối thoại này hóa ra là việc rất hấp dẫn và lợi ích sâu sắc. Về phần của tôi, tôi đã rút ra nhiều điều từ cuộc trò chuyện của tôi với những nhà thần kinh học và tâm lý học khi chúng tôi thảo luận về bản chất và vai trò của những cảm xúc tích cực và tiêu cực, của sự chú ý, tưởng tượng, và tính tạo hình của não bộ. Bằng chứng không thể chối cãi được được trang bị bởi thần kinh học và y học về vai trò thiết yếu của tình cảm được truyền đạt bởi sự xúc chạm thân thể giản dị trong việc quan tâm đến sự phát triển vật lý của não bộ một trẻ em mới sanh trong tuần lễ đầu tiên của đời sống xác nhận sự nối kết giữa từ bi và sự tìm kiếm của con người cho hạnh phúc.

Nhân Loại Đang ở Tại Một Bước Ngoặt

TÔI TIN CHẮC RẰNG một sự hợp tác gần gũi giữa hai truyền thống, Phật Giáo và khoa học, có thể đóng góp một cách quan trọng cho việc phát triển một sự thấu hiểu về thế giới phức tạp nội tại của kinh nghiệm chủ quan mà chúng ta gọi là tâm thức. Những lợi ích của một sự hợp tác như vậy là đã được chứng tỏ rồi. Theo các báo cáo sơ khởi, những  hiệu quả của việc rèn luyện tâm thức, chẳng hạn như thực tập chính niệm đơn giản trên căn bản thông thường hay việc phát triển từ bi trong ý nghĩa của Phật Giáo, đã kích thích cho những thay đổi có thể thấy được trong những lãnh vực của não bộ liên hệ tới các thể trạng tích cực tinh thần. Những sự thay đổi này đã được lượng định, và những khám phá mới đây trong thần kinh học đã chứng minh sự nhu nhuyến của não bộ, trong dạng thức của cả những nối kết của thời kỳ tiếp hợp và sản sinh những thần kinh mới qua sự kích thích ngoại tại chẳng hạn như những rèn luyện thân thể tự nguyện hay một môi trường phong phú.

Francisco Javier Varela và Đức Đạt Lai Lạt Ma

Truyền thống quán chiếu của Phật Giáo có thể giúp để mở rộng lãnh vực nghiên cứu này của khoa học bằng việc cung ứng những hình thức của việc rèn luyện tâm thức phối hợp với sự nhu nhuyến của não bộ. Nếu nó chứng tỏ, như truyền thống Phật Giáo đề cập, rằng sự thực hành tinh thần có thể ảnh hưởng đáng kể thời kỳ tiếp hợp và sự thay đổi các thần kinh trong não bộ, thì điều này có thể có những ý nghĩa quan trọng. Những kết quả của sự nghiên cứu như vậy sẽ không bị giới hạn với sự phát triển kiến thức của chúng ta về não bộ con người. Có lẻ một cách quan trọng hơn, chúng có thể cống hiến đến sự thấu hiểu của chúng ta về giáo dục và sức khỏe tinh thần. Tương tự thế, nếu, như truyền thống Phật Giáo thừa nhận, sự thực tập cẩn trọng về từ bi có thể mang đến một sự thay đổi rõ ràng trong quan điểm của một cá nhân, dẫn đến một sự thấu cảm lớn hơn cho người khác, điều này có thể có những hệ quả quan trọng cho xã hội một cách tổng quát.

Cuối cùng tôi tin rằng sự hợp tác giữa thần kinh học và truyền thống quán chiếu của Đạo Phật có thể tỏa ra một ánh sáng mới cho những cái chung giữa đạo đức học và thần kinh học, vốn quan trọng cho sự sống. Bất cứ điều gì chúng ta nghĩ về mối quan hệ giữa đạo đức học và khoa học, trong thực hành thật sự, khoa học liên hệ trước như một nguyên tắc kinh nghiệm, đạo đức, trung tính. Thành ra nó được nhìn nhận một cách chính yếu như một phương pháp khảo sát vốn cung ứng một kiến thức chi tiết của thế giới kinh nghiệm và những quy luật tiềm tàng của tự nhiên.

Từ một quan điểm thuần khoa học, việc tạo ra vũ khí nguyên tử đại diện cho một thành tựu đáng chú ý. Tuy nhiên, vì những vũ khí này có năng lực gây ra một sự khổ đau rộng lớn khủng khiếp bằng việc làm chết chóc và sự tàn phá vô số, cho nên chúng ta phải xem sự thành tựu này như một điều sai lầm của khoa học.

Chính sự lượng định đạo đức cho phép chúng ta quyết định điều gì là tích cực hay tiêu cực trong khoa học. Cho mới đến gần đây, dường như rằng đạo đức học và khoa học đã được phân chia một cách thành công, với sự thấu hiểu rằng năng lực con người cho việc suy nghĩ đạo đức tiến hóa cùng với tri thức. Tuy  nhiên, ngày nay, tôi tin rằng nhân loại đang ở tại một bước ngoặt. Những tiến bộ căn bản trong thần kinh  học, một cách đặc biệt trong di truyền học, vào cuối thế kỷ 20, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người. Chúng ta đã đạt đến một chỗ mà những thách thức đạo đức được đưa ra bởi những sự tiến bộ này là quá rộng lớn.

Rõ ràng, tư duy đạo đức của chúng ta đã không theo kịp sự phát triển tri thức và năng lực mà nó có như vậy. Nhưng sự phân nhánh của những khám phá mới này và sự áp dụng của chúng là rất hiệu quả mà chính nhận thức của chúng ta về bản chất con người và sự duy trì loài người chúng ta phải thử thách với sự chính xác của nó. Cho nên không còn có thể chấp nhận việc thừa nhận quan điểm rằng trách nhiệm của chúng ta như một xã hội một cách đơn giản là để hổ trợ tri thức khoa học và củng cố năng lực của kỷ thuật, chúng ta hãy để mở vấn đề những gì nên được thực hiện. Chúng ta phải tìm một cung cách để cho phép những sự cân nhắc nhân đạo và đạo đức quyết định phương hướng của tiến trình khoa học, một cách đặc biệt trong khoa học đời sống.

Bằng việc viện dẫn những nguyên tắc đạo đức, tôi không đang tán thành một sự hợp nhất giữa đạo đức tôn giáo và nghiên cứu khoa học. Đúng hơn là tôi đang liên hệ đến điều tôi gọi là “đạo đức thế tục,” nó bao gồm những nguyên tắc đạo đức then chốt  chẳng hạn như từ ái, bi mẫn, bao dung, ân cần, và việc sử dụng có trách nhiệm khoa học và năng lượng. Những nguyên tắc này vượt lên trên ranh giới giữa tín ngưỡng và không tín ngưỡng, cũng như giữa những môn đồ của các tôn giáo khác  nhau. Thế giới mà chúng ta sống là một thế giới. Kinh tế, truyền thông, du lịch quốc tế, và những vấn nạn môi trường, tất cả, nhắc chúng ta nhớ một căn bản hàng ngày vấn đề liên hệ nhân duyên hổ tương như thế nào trong thế giới hiện đại. Những cộng đồng khoa học đóng một vai trò quan trọng trong thế giới liên hệ nhân duyên hổ tương này. Khoa học ngày nay có được một sự tôn trọng và tin tưởng của xã hội, lớn hơn nhiều so với những nguyên tắc triết lý và tôn giáo của tôi. Tôi kêu gọi những nhà học giả đem vào việc làm chuyên môn của họ những giá trị xuất phát từ những nguyên tắc đạo dức căn bản mà tất cả chúng ta chia sẻ như những con  người.

Đạo Đức Trong Khoa Học Để Cứu Hộ Sự Sống

TÔI THẤY MỘT DẤU HIỆU đáng khích lệ trong tính thích hợp gia tăng giữa khoa học và tôn giáo. Suốt thế kỷ 19 và phần lớn thế kỷ 20, có một sự hổn độn sâu sắc do bởi xung đột  giữa hai quan điểm dường như mâu thuẩn này của thế giới. Vật lý học, sinh học và tâm lý học ngày nay đạt đến một những trình độ phức tạp đến nổi nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu bằng việc hỏi những câu hỏi sâu sắc về bản chất rốt ráo của vũ trụ và sự sống – những câu hỏi tương tự là cho sự quan tâm chính yếu về lãnh vực của những tôn giáo. Thế nên năng lực thật sự cho một viễn kiến thống nhất hơn thật sự hiện hữu. Một cách đặc biệt hơn, một khái niệm mới về tâm thức và vật chất dường như hiện lên. Một cách lịch sử, phương Đông quan tâm hơn về việc thấu hiểu tâm thức và phương Tây liên hệ hơn trong việc thấu hiểu vật chất. Bây giờ cả hai đã gặp nhau, những khái niệm về tâm linh và vật chất về sự sống có thể gặp gở để làm hài hòa nhau.

Chúng ta phải làm mới những chí nguyện của chúng ta với những giá trị nhân bản trong khoa học. Mặc dù mục tiêu chính của khoa học là để thành tựu những tri thức chưa bao giờ có về thực tại, thì mặt khác mục tiêu của nó là để cải thiện phẩm chất của đời sống. Không có động cơ vị tha, các  nhà khoa học không thể phân biệt giữa những kỷ thuật lợi ích và những thủ đoạn tai hại ngắn hạn. Sự tổn hại đối với môi trường chung quanh chúng ta là hậu quả rõ ràng nhất cho sự rối rắm này. Một động cơ thích hợp thậm chí cấp bách hơn khi nó là một câu hỏi của việc quản lý quang phổ ngoại hạng của công nghệ sinh học mới mà với nó bây giờ chúng ta có thể tác động đến những cấu trúc vi tế của sinh vật sống. Nếu chúng ta không đặt căn bản những thao tác này trên nền tảng đạo đức, thì chúng ta có hiểm họa làm ra những tổn hại không thể khắc phục với mạng lưới phức tạp của sự sống.

***

Đức Đạt Lai Lạt Ma nghĩ rằng Phật Giáo hiện nay của chúng ta nên lãnh một trách nhiệm đặc biệt, một thứ xuất phát từ giáo huấn của Đức Phật vốn đặt vị trí của việc thiền tập vào mối lệ thuộc hổ tương như không thể tách rời với sự thực hành về từ bi. Khái niệm lệ thuộc hổ tương, như nó được trình bày bởi Đức Phật 2,500 năm về trước và sau đó được luận giải bởi những hiền nhân của Ấn Độ và Tây Tạng cổ xưa, thích hợp với quan kiến của thế giới xuất phát từ sự tương đối phổ thông và sự phát triển tiếp theo đấy. Trong chủ đề này, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường trích dẫn Abdul Kalam, người mà ngài gọi là “Shakharov của Ấn Độ.” Vị cựu tổng thống Ấn Độ này, một chuyên gia về vật lý nguyên tử, đã nói với Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng ông đã khám phá bản chất không chắc chắn của lượng tử trong tư duy của hiền nhân Ấn Độ, Long Thọ, như được biểu lộ trong những dòng kệ tán dương Đức Phật:

Tôi kính lễ Ngài, bậc siêu việt thế giới,

Thiện xảo trong trí tuệ của sự không có!

Vì lợi ích của thế giới

Ngài đã khổ đau trong một thời gian dài, với lòng đại bi

Ngài thừa nhận rằng bên cạnh với những tập hợp uẩn đơn giản

Không có chúng sanh nào tồn tại.

Tuy nhiên, Ô bậc Đại Hiền Nhân, Ngài liên tục duy trì

Hoàn toàn tận tụy vì lợi ích của chúng sanh.

Một vật hiện hữu là không sanh,

Cũng không là một vật không tồn tại, cũng không phải cả hai.

Nó được sanh không phải từ tự nó cũng không phải từ thứ khác,

Cũng không phải từ cả hai, vậy thì làm sao có sự sanh?

Trước tiên nhất, không hợp lý cho một kết quả hiện ra

Từ một nhân mà nó tự hủy diệt;

Nó cũng không được sanh từ một nhân không hủy diệt.

Cho nên Ngài chấp nhận sự sanh giống như một giấc mộng.

Sự hiện ra của những kết quả từ một nhân

Qua sự tàn phá hay không tàn phá,

Sự sanh này giống như sự biểu hiện của một vọng tưởng,

Và Ngài đã dạy rằng điều này là thật đối với mọi thứ.

Bất cứ điều gì được sanh ra trong sự lệ thuộc

Ngài xác nhận là trống rỗng

Rằng nó không tồn tại như một thực thể độc lập,

Đó là điều mà Ngài tuyên bố với tiếng rống của sư tử,

Ô bậc Đạo sư vô tỉ

Vì Ngài dạy về cam lồ tánh không

Nhằm để giúp chúng ta từ bỏ mọi khái niệm,

Ngài lên án một cách mạnh mẽ

Hành động bị dính mắc với tánh không này,

Vì mọi hiện tượng là trì trệ, lệ thuộc, và trống rỗng,

Tương tự như một ảo ảnh và được sanh từ những điều kiện

Ngài làm nó được biết rằng chúng không có thực tại.

Không thâm nhập vào thiền quán,

Như đấng Tôn Quý đã chứng minh,

Sự tỉnh giác có bao giờ hành động mà không có biểu tượng không?

Không có sự thâm nhập vào sự vắng mặt của những biểu tượng

Thì không có sự giải thoát, Ngài đã tuyên bố.

Thế nên Ngài trình bày sự vắng mặt của biểu tượng

Một cách hoàn toàn trong những kinh điển Đại Thừa.

Bằng việc tán thán Ngài, Ô bậc hiện thân từ bi tôn kính

Cảm ơn tất cả những công đức mà tôi đã đạt được,

Nguyện cho tất cả chúng sanh, không trừ một ai,

Giải thoát khỏi sự nô lệ với những biểu tượng.

Thảm Họa 11 Tháng Chín 2001,

Đã Dạy Tôi Rằng Chúng Ta Không Được

Tách Rời Đạo Đức Với Sự Tiến Bộ

NHỮNG CẢM XÚC TÀN PHÁ như sân hận, sợ hãi, hay thù oán có thể có những  hệ quả tàn phá trên thế giới. Khi những sự kiện hiện tại cung ứng cho chúng ta một sự nhắc nhở bi thảm của sức mạnh tàn phá của những cảm xúc này, thì chúng ta nên hỏi chính mình rằng chúng ta có thể kiểm soát chúng như thế nào. Dĩ nhiên, chúng luôn luôn là một bộ phận của điều kiện con người. Nhân loại đã bám víu chúng hàng nghìn năm. Nhưng tôi tin rằng chúng ta nên nắm bắt cơ hội này để chuyển hóa chúng, cảm ơn một cách đặc biệt sự hợp tác giữa tôn giáo và khoa học. Chính là với tư tưởng này trong đầu mà bắt đầu từ năm 1987 tôi đã trở thành liên hệ với một loạt những cuộc đối thoại được tổ chức bởi viện Tâm Thức và Đời Sống; tôi thấy rằng trong khi những khám phá khoa học cống hiến một sự thấu hiểu sâu sắc hơn trong những lãnh vực của tri thức như vũ trụ học, thì những sự giải thích của Phật Giáo có thể giúp những học giả thấy lãnh vực nghiên cứu của  họ trong một ánh sáng khác.

Sự đối thoại của chúng tôi không chỉ lợi ích cho khoa học mà cả tôn giáo. Mặc dù người Tây Tạng có những tri thức giá trị về thế giới nội tại, nhưng chúng tôi vẫn xa rời với sự tiến bộ vật chất do bởi thiếu tri thức khoa học. Giáo huấn nhà Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thấu hiểu thực tại; do thế, chúng ta nên thẩm tra vấn đề những nhà khoa học đương đại thấy thực tại như thế nào qua sự khám phá bằng những thực nghiệm của họ và chỉ số của họ.

Vào lúc đầu của những cuộc đối thoại này, không có nhiều Phật tử. Tôi là người duy nhất, làm việc với hai người thông dịch. Nhưng gần đây, chúng tôi đã bắt đầu giới thiệu những môn khoa học hiện đại trong các tu viện của chúng tôi, và trong những buổi đối thoại gần đây có khoảng hai mươi tu sĩ Tây Tạng trong tham dự.

Mục tiêu của những cuộc đàm luận này là hai phần. Một là của tính chất học thuật: việc phát triển tri thức. Trong tổng quát, khoa học tiêu biểu cho một khí cụ phi thường để thấu hiểu thế giới vật chất, và nó đã tạo ra những sự tiến bộ khổng lồ trong đời sống của chúng ta, mặc dù nhiều thứ vẫn còn đang được khám phá. Nhưng khoa học hiện đại dường như không tiến triển nhiều tương hợp với sự chú ý kinh nghiệm nội tại.Về mặt khác, Phật Giáo, một hệ thống tư tưởng Ấn Độ cổ xưa, biểu lộ một sự phân tích thậm thâm về vấn đề tâm thức thể hiện chức năng như thế nào. Qua hàng thế kỷ, rất nhiều những thiền giả đã sử dụng tất cả tri thức thuận tiện đối với họ và đã đưa đến những gì được gọi là “những cuộc thí nghiệm” trong thế giới này và đã đạt đến những kết quả đáng chú ý và đôi khi là phi thường. Một cuộc thảo luận sâu hơn cùng với sự nghiên cứu được tiến hành với cả những nhà khoa học và học giả Phật Giáo có thể rất lợi ích trên trình độ học thuật trong việc hổ trợ cho tri thức của nhân loại.

Trên một trình độ khác, nếu nhân loại tồn tại, thì hạnh phúc và sự hòa bình nội tại  là thiết yếu. Bằng khác đi, sự sống của con cháu chúng ta và người khác có hiểm họa bất hạnh, thất vọng, và ngắn ngủi. Thảm họa 11 tháng Chín 2001, cho thấy rằng kỷ thuật hiện đại và sự thông minh của con người, được hướng dẫn bằng thù hận, có thể đưa đến những sự tàn phá khủng khiếp. Dĩ nhiên, sự tiến bộ vật chất đóng góp cho hạnh phúc đến một mức độ rộng rãi nào đó và cho sự thoải mái của đời sống. Nhưng như vậy không đủ. Để đạt đến một trình độ sâu xa hơn của hạnh phúc, thì chúng ta không thể lãng quên sự phát triển  nội tại của chúng ta. Tôi nghĩ rằng cảm nhận của chúng ta về những giá trị con người căn bản phải được theo đuổi nhịp nhàng cùng tốc độ như sự gia tăng hiện tại của những năng lực vật chất.

Đó là tại sao tôi đã động viên những học giả thẩm tra những thiền giả Tây Tạng tiến bộ nhằm để quyết định vấn đề sự thực tập tâm linh của họ có thể lợi ích hơn cho những người khác ở bên ngoài phạm vi tôn giáo như thế nào. Vì thật quan trọng để có một sự thấu hiểu tốt hơn về thế giới của tâm thức, về sự tỉnh giác, và về những cảm xúc.

Những cuộc thí nghiệm đã được tiến hành chứng tỏ rằng những thiền giả có thể đạt đến một thể trạng của hòa bình nội tại và duy trì nó, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn. Những kết quả chứng tỏ rằng họ hạnh phúc hơn, ít lệ thuộc với những cảm xúc tàn phá, và dễ tiếp thu những cảm giác của người khác hơn. Những phương pháp quán chiếu không chỉ hữu dụng mà cũng không đắc tiền! Quý vị không phải mua bất cứ thứ gì hay làm bất cứ điều gì trong một nhà máy. Quý vị không cần phải uống thuốc hay chích thuốc.

Câu hỏi là làm sao để chia sẻ những kết quả này với những người không phải Phật tử. Vì vấn đề là sự khám phá này không bị giới hạn cho Phật Giáo hay với bất cứ tôn giáo nào khác, nhưng là sự hiểu biết tốt hơn năng lực của tâm thức con người. Nhưng phương pháp tâm linh là sự tùy ý sử dụng của chúng ta, nhưng chúng ta phải làm sao cho chúng có thể tới được đại đa số những người không thích thú với tâm linh. Đây là cách duy nhất mà chúng sẽ có tác động hiệu quả lớn nhất.

Một sự khởi đầu như vậy là quan trọng vì chỉ riêng khoa học và kỷ thuật mà thôi thì không thể giải quyết tất cả những vấn nạn của chúng ta. Chúng ta phải phối hợp sự tiến bộ vật chất với sự phát triển nội tại của những giá trị nhân bản của từ ái, bi mẫn, bao dung, tha thứ, tiết độ, và kỷ luật tự giác.

***

Trong sự tiếp cận với thảm kịch 11 tháng Chín 2001, như một vấn nạn “tâm linh”, Đức Đạt Lai Lạt Ma vạch ra việc vắng mặt của quy tắc đạo đức trong nghiên cứu khoa học. Như kết quả của sự vắng mặt này, những hành động quan trọng được thai nghén bởi tâm thức con người chống lại con người, cho dù trong vụ tấn công khủng bố tòa tháp đôi của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới, trong những thí nghiệm di  truyền không kiểm soát được, hay trong sự suy thoái nhanh chóng môi trường vốn đe dọa những thế hệ tương lai. Như một tu sĩ Phật Giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố rằng cũng trong câu hỏi này, tâm linh, sự thấu hiểu như một sự trở lại những giá trị nhân bản cần yếu, là chìa khóa cho sự sống còn của chúng ta.

Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, January 26, 2016

 

TRÁCH NHIỆM VỚI  SINH QUYỂN

Tôi Đã Học Với Những Vị Thầy Của Tôi Về Việc

Chăm Sóc Môi Trường Khi Còn Là Một Đứa Trẻ

KHI CÒN LÀ MỘT cậu bé con, lúc tôi đang học hỏi Đạo Phật, tôi được dạy để chăm sóc thiên nhiên, vì sự thực tập về bất bạo động áp dụng không phải chỉ với con người mà đến tất cả chúng sanh. Mọi thứ có sức sống của ý thức sở hữu. Bất cứ nơi nào có ý thức, thì có những cảm giác như đau đớn, vui sướng, hân hoan. Không chúng sanh nào muốn khổ đau. Trái lại, tất cả chúng sanh tìm cầu hạnh phúc. Trong sự thực hành của Đạo Phật, chúng ta thường dùng ý tưởng bất bạo động này và với nguyện ước làm chấm dứt tất cả mọi khổ đau, và chúng ta cẩn thận để không tấn công hay hủy hoại sự sống một cách vô tình. Rõ ràng, chúng ta không tin tưởng rằng cây cối và bông hoa có tâm thức, nhưng chúng ta đối xử với chúng một cách tôn trọng. Cho nên chúng ta thừa nhận một ý thức trách nhiệm toàn cầu đối với con người và thiên nhiên.

Niềm tin trong sự tái sanh của chúng ta giải thích sự quan tâm của chúng ta đối với tương lai. Nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ tái sanh, chúng ta biến nó thành bổn phận của chúng ta để bảo vệ những thứ nào đó vì thế, trong tương lai, sự tái sanh của chúng ta sẽ thích ứng với nó. Mặc dù chúng ta có thể tái sanh trong một hành tinh khác, thì ý tưởng về sự tái sanh động viên ta chăm sóc Trái Đất cho những thế hệ tương lai.

Ở phương Tây, khi chúng ta nói về “con người”, chúng ta thường chỉ liên hệ đến thế hệ hiện tại. Con người của quá khứ không còn hiện hữu nữa. Con người của tương lai, như sự chết, chưa hiện hữu. Theo quan điểm của phương Tây, chúng ta quan tâm với khía cạnh thực tế của mọi thứ, đơn thuần cho thế hệ hiện tại.

Cảm nhận của người Tây Tạng đối với thiên nhiên xuất phát từ tập quán của chúng tôi một cách phổ thông và không chỉ từ Phật Giáo. Nếu quý vị lấy thí dụ Phật Giáo từ Nhật Bản hay Thái Lan, trong những môi trường khác với chúng tôi, văn hóa và thái độ không giống nhau. Môi trường thiên nhiên của Tây Tạng vốn không giống nơi nào khác, có một ảnh hưởng mạnh mẽ với chúng tôi. Người Tây Tạng không sống trên một hòn đảo nhỏ quá nhiều người. Suốt chiều dài lịch sử, chúng tôi không lo lắng về lãnh thổ rộng lớn dân cư thưa thớt của chúng tôi, hay về những láng giềng xa xôi của chúng tôi. Chúng tôi không có cảm nhận bị áp bức, không giống như nhiều cộng đồng khác.

Có thể thực tập một cách hoàn hảo tinh hoa của một niềm tin hay một nền văn hóa mà không cần phối hợp nó với một tôn giáo. Nền văn hóa Tây Tạng của chúng tôi, mặc dù được truyền cảm hứng bởi Phật Giáo một cách sâu đậm, nhưng không phải thảo ra tất cả triết lý của nó từ Đạo Phật. Một lần nọ tôi đã đề nghị một tổ chức cứu trợ người tị nạn Tây Tạng rằng chắc là thích thú để nghiên cứu vấn đề đồng bào chúng tôi đã được định hình như thế nào qua kiểu mẫu đời sống của họ. Những nhân tố nào đã làm người Tây Tạng tĩnh lặng và bản tính tốt? Người ta thường tìm câu hỏi từ tôn giáo của chúng tôi, điều ấy là đặc biệt, nhưng quên rằng môi trường của chúng tôi cũng đặc biệt.

Việc bảo vệ thiên nhiên không nhất thiết là một hành vi thiêng liêng, và nó không luôn luôn đòi hỏi từ bi. Như những Phật tử, chúng tôi từ bi đối với tất cả chúng sanh, nhưng không nhất thiết đối với mỗi viên đá, cây cối, hay chỗ ở. Hầu hết chúng tôi chăm sóc ngôi nhà của chúng tôi, mà không có bất cứ cảm nhận từ bi nào với nó. Tương tự thế, hành tinh của chúng ta là ngôi nhà của chúng ta, và chúng ta nên bảo vệ nó với sự ân cần, để bảo đảm sự hạnh phúc của chúng ta và sự hạnh phúc của con cháu chúng ta, bạn bè chúng ta, và cho tất cả chúng sanh, những kẻ chia sẻ với chúng ta nơi cư trú vĩ đại này. Nếu chúng ta nghĩ hành tinh của chúng ta như ngôi nhà của chúng ta hay “bà mẹ” của chúng ta, Bà Mẹ Trái Đất, thì chúng ta nhất thiết sẽ chăm sóc nó.

Ngày nay chúng ta hiểu rằng tương lai của nhân loại tùy thuộc vào hành tinh của chúng ta, mà vốn tương lai của nó lệ thuộc vào loài người. Nhưng không phải luôn luôn rõ ràng như vậy. Cho đến bây giờ, Bà Mẹ Trái Đất của chúng ta có thể bao dung sự quên lãng của chúng ta. Tuy nhiên, ngày nay, thái độ của con người, dân số, và kỷ thuật đã đạt đến một mức độ mà Bà Mẹ Trái Đất của chúng ta không thể chấp nhận trong sự im lặng nữa. “Con cái của tôi đang cư xử một cách tệ hại,” bà cảnh báo để làm cho chúng ta nhận ra rằng có những giới hạn không nên vượt qua.

Như những người Phật tử Tây Tạng, chúng tôi ủng hộ cho sự chừng mực, vốn không tách rời với môi trường, vì chúng tôi không tiêu dùng bất cứ thứ gì một cách không điều độ. Chúng tôi lập những giới hạn trong thói quen tiêu xài của chúng tôi, và chúng tôi biết ơn một lối sống giản dị, trách nhiệm. Mối liên hệ của chúng tôi với môi trường luôn luôn đặc biệt. Những kinh luận cổ xưa của chúng tôi nói về vật chứa và nội dung của nó. Thế giới là một vật chứa, ngôi nhà của chúng ta, và chúng ta, sự sống, là những nội dung của nó.

Kết quả của điều này là một mối quan hệ đặc biệt với thiên nhiên, vì, không có vật chứa, những nội dung của nó không thể có chỗ để tồn tại. Hoàn toàn không phải là sự khiển trách con người về việc sử dụng những tài nguyên thiên nhiên để phục vụ nhu cầu của họ, nhưng chúng ta nên nghiêm túc, không khai thác thiên nhiên vượt quá nhu cầu cần thiết. Thật cần thiết để tái thẩm tra lại từ quan điểm đạo đức về sự chia sẻ mà chúng ta đã nhận được, sự chia sẻ với điều mà tất cả chúng ta có trách nhiệm, và sự chia sẻ mà chúng ta sẽ trao lại cho những thế hệ tương lai. Rõ ràng, thế hệ của chúng ta đang trải qua một thời kỳ nghiêm trọng. Chúng ta đi vào những hình thức của sự giao tiếp toàn cầu, và tuy thế, những sự xung đột lại xảy ra thường xuyên hơn những cuộc đối thoại để xây dựng hòa bình. Những kỳ diệu của khoa học và kỷ thuật cùng tồn tại với với nhiều bi kịch của thế giới như sự đói kém và sự diệt chủng của những hình thức sống nào đó. Chúng ta tận tụy với sự khám phá không gian, trong khi những đại dương, biển cả, và các nguồn nước ngọt đang ngày càng ô nhiễm hơn. Có thể là những thế hệ tương lai sẽ không biết những dân tộc trên trái đất, những thú vật, côn trùng, và ngay cả những vi sinh vật. Chúng ta phải hành động trước khi quá muộn.

Tây Tạng Thời Thơ ấu Của Tôi Là Vườn Địa Đàng Của Đời Sống Hoang Dã

TÂY TẠNG MÀ TÔI đã lớn lên là một vườn địa đàng của đời sống hoang dã. Ngay cả ở Lhasa, người ta cũng không cảm thấy bị xa cách với đời sống hoang dã. Trong phòng của tôi ở sân thượng điện Potala, cung mùa đông của những Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã dành vô số thời giờ như một đứa trẻ để nghiên cứu thái độ của những con chim mỏ đỏ khyungkar làm tổ trên những kẻ nứt của các bức tường. Và phía sau Norbulingka, cung mùa hè, tôi thường thấy một cặp chim trung trung (cò cổ đen Nhật Bản), những con cò đối với tôi như sự toát yếu của tính tao nhã và duyên dáng, vốn sống trong những đầm lầy ở đấy. Không thể không đề cập đến vẻ rực rở của những động vật Tây Tạng: những con gấu, và cáo núi, những con chó sói chanku, những con beo tuyết sazik xinh đẹp, những con gấu trúc khổng lồ với khuôn mặt hiền hòa, vốn sinh trưởng ở vùng biên giới Tây Tạng và Trung Hoa, và những con linh miêu sik, vốn ở trong trái tim của những nông dân du mục.

Buồn thay, đời sống hoang dã phong phú này không còn thấy nữa. Không ngoại lệ, mỗi người Tây Tạng tôi nói chuyện vốn từng trở lại thăm viếng Tây Tạng sau khi xa vắng bốn năm mươi năm đã cho biết sự vắng mặt đáng chú ý của đời sống hoang dã. Trước đây, những con thú hoang thường đến cạnh nhà; ngày nay rất khó khăn để thấy chúng.

***

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhớ lại thời thơ ấu mê ly với nhiều loại thú hoang, đặc biệt những con thú ngài đã nhìn thấy trong ba tháng hành trình xuyên Tây Tạng để được đăng quang ở Lhasa. Chính quyền Tây Tạng bảo vệ đời sống hoang dã một cách chính thức, công bố những bảng tuyên cáo mỗi năm rằng “giàu hay nghèo, không ai được làm tổn hại hay bạo hành với những tạo vật trên đất và dưới nước.” Nhưng từ khi Trung Cộng chiếm đóng, việc phát triển đất đai và săn bắn thú cùng câu lưới cá đã làm giảm thiểu rõ ràng đời sống hoang dã hiện tại. Thú vật bị săn bắt lấy lông, da, len, và nội tạng, và nhiều chủng loại hiện nay đã bị diệt chủng hay bị đe dọa biến mất.

Những Ngọn Núi Tây Tạng Đã Trở Thành

Trống Trải Như Đầu Trọc Của Tu Sĩ

NHỮNG VẤN NẠN SINH THÁI là mới đối với tôi. Ở Tây Tạng chúng tôi thườn nghĩ rằng thiên nhiên là thuần khiết. Chúng tôi chưa từng bao giờ tự  hỏi mình uống nước sông có sao không. Nhưng hoàn cảnh đã thay đổi trong thời gian chúng tôi lưu vong ở Ấn Độ và những nước khác. Thụy Sĩ, thí dụ thế, một vùng đất tráng lệ, ấn tượng. Nhưng cư dân của nó nói với chúng tôi, “Đừng uống nước từ dòng suối này; nó bị ô nhiễm!” Thế nên từng chút một, người Tây Tạng đã  học hỏi và nhận ra rằng những thứ nào đó là dơ bẫn và không thể dùng được. Thật sự, khi chúng tôi định cư tại Ấn Độ, nhiều người trong chúng tôi đã bị chứng đau bụng vì chúng tôi đã uống nước ô nhiễm. Chính là qua kinh nghiệm và gặp gở với những nhà chuyên môn mà chúng tôi đã học hỏi về sinh quyển.

Tây Tạng là một đất nước rộng lớn với một lãnh địa bao la ở trên một độ cao và khí hậu lạnh và khô. Những điều kiện này chắc chắn đã cung ứng một môi trường với một hình thức bảo vệ tự nhiên bằng việc giữ nó sạch và lạnh. Trong những đồng cỏ  phía bắc, trong những khu vực khoáng sản, trong những khu rừng và thung lũng của những dòng sông, có nhiều thú vật hoang dã, cá và chim.

Một lần nọ tôi được nghe kể một chuyện lạ. Những người Hoa định cư ở Tây Tạng sau 1959 là những nông dân, cũng là những người xây dựng đường xá và rất thích thịt. Họ thường đi săn vịt, họ mặc đồng phục quân đội Trung Cộng hoặc áo quần người Hoa và như thế không khác gì báo động cho những con chim vì thế chúng bay đi rất xa. Cuối cùng, những người thợ săn này dùng đến áo quần Tây Tạng để mặc. Đây là một chuyện thật! Điều này xảy ra đặc biệt trong những năm 1970 và 1980, vào lúc ấy vẫn còn một số lớn chim chóc.

Mới đây, vài nghìn người Tây Tạng đã trở lại nơi sinh quán của họ ở quê hương Tuyết Sơn, tất cả cũng đều nói như vậy. Họ nói rằng bốn hay năm mươi trước, rừng rậm bao la phủ đầy đất đai bản địa của họ. Ngày nay những ngọn núi đã hói như đầu tu sĩ. Không còn những cây cao, và đôi khi ngay cả rể cây cũng bị đào lên và đem đi. Đó là tình trạng hiện tại. Trong quá khứ người ta có thể thấy những đàn thú hoang dã đông đảo, nhưng ngày nay hầu như không còn nữa.

Sự tàn phá rừng trên diện rộng đang làm kiệt quệ môi trường và đời sống hoang dã ở Tây Tạng. Đó không chỉ là điều đáng tiếc về phía tự nhiên vì đã mất vẻ đẹp hoang sơ của nó, nhưng cũng cho cư dân của nó bây giờ khó tìm ra củi để sưởi ấm cho nhà cửa của họ. Đây chỉ là một điểm tương đối nhỏ so sánh với những hậu quả rộng lớn của việc tàn phá rừng nhìn từ một quan điểm rộng lớn hơn.

Phần lớn Tây Tạng bao gồm những vùng đất khô cằn ở trên những độ cao. Vì vậy, đất đai cần thêm thời gian hơn để tự tái tạo so với những vùng thấp với khí hậu ẩm ướt. Những ảnh hưởng tiêu cực tồn tại trong một thời gian dài. Hơn thế nữa, những dòng sông tưới tẩm hầu hết Á châu, kể cả Pakistan, Ấn Độ, Trung Hoa, Lào, Cam pu chia và Việt Nam – các sông: Hoàng hà, Brahmaputra, Dương Tử, Salween, và Cửu Long – đều xuất phát từ Tây Tạng. Làm ô nhiễm những dòng sông này có những tác động thảm khốc với những nước vùng hạ lưu. Tuy thế, ở cội nguồn của chúng có cả sự tàn phá rừng và đào tìm khoáng sản đang xảy ra.

Theo thống kê của chính quyền Bắc Kinh, có 126 loại khoáng sản ở Tây Tạng. Khi những tài nguyên được khám phá, nhà cầm quyền khai thác chúng một cách kịch liệt, không lượng định đến việc bảo vệ môi trường, vì thế việc tàn phá rừng và khai khoáng đang gây ra lũ lụt ngày càng nhiều  hơn những vùng thấp ở Tây Tạng.

Theo những chuyên gia khí tượng thủy văn, việc tàn phá rừng ở cao nguyên Tây Tạng sẽ làm thay đổi tác động bức xạ vũ trụ (vì những khu rừng hấp thụ nhiều bức xạ mặt trời hơn) và điều đó sẽ ảnh hưởng đến  những cơn  mưa mùa, không chỉ ở Tây Tạng mà cả những vùng lân cận. Do thế, việc bảo tồn môi trường rất mong manh ở cao nguyên có tầm quan trọng chính yếu. Bất hạnh thay, trong thế giới Cộng Sản, như chúng ta đã từng thấy ở Liên Sô, Ba Lan, và Đông Đức cũ, nhiều vấn đề về ô nhiễm đã được tạo ra vì sơ suất. Nhà máy sản xuất gia tăng không quan tâm đến việc tránh làm tổn hại môi trường. Tình trạng tương tự đang lập lại ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Trong những năm 1970 và 1980, không ai chú ý đến việc làm ô nhiễm, nhưng sau đó người ta đã bắt đầu có ý thức. Tôi nghĩ những hoàn cảnh trước đó xảy ra là do thiếu hiểu biết.

Ở Tây Tạng dường như rằng, khi nói đến môi trường, nhà chức trách Trung Cộng đã áp dụng sự lượng định phân biệt: hờ hững dường như đang xảy ra ở những vùng dân cư thuộc những nhóm thiểu số nào đó. Một người Tây Tạng đến từ vùng Dingri của nam Tây Tạng đã nói với tôi về một con sông mà dân làng lấy nước để uống. Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc sống ở trong vùng được chỉ dẫn là không được uống nước sông, nhưng không thông tin nào đến với người dân trong vùng về hiểm họa liên hệ đến việc dùng nước. Cho nên họ tiếp tục uống nước ấy. Điều này cho thấy người Trung Cộng không quan tâm tiếp tục coi thường và không phải là do thiếu tin tức mà là vì những lý do khác.

Sự sống còn của sáu triệu người dân Tây Tạng đang ở trong hiểm họa lớn do bởi ô nhiễm. Trẻ con đã bị những chứng bệnh liên hệ đến không khí ô nhiễm rồi. Có vô số đớn đau và khổ sở đã không được nghe thấu đến nước ngoài mà chỉ bí mật trong những ngôi nhà khiêm tốn. Đó là nhân danh những người vô tội mà tôi lên tiếng.

***

Chính sách phá rừng có hệ thống, vì lợi ích của Trung Cộng, đã cướp mất phân nửa diện tích rừng ở Tây Tạng. Hậu quả, do Đức Đạt Lai Lạt Ma tố giác, đang tàn phá và ảnh hưởng toàn Á châu. Trong những vụ lụt lội của sông Dương Tử đã là một thảm họa của Trung Hoa trong tháng Tám 1998, chính quyền Bắc Kinh thừa nhận rằng thảm kịch xảy ra là do việc tàn phá rừng chung quanh nguồn sông trong tỉnh Kham của Tây Tạng. Hiện tại, những chỉ tiêu được ban hành nhằm bảo vệ rừng, nhưng họ hiếm khi tôn trọng. Trong những điều kiện này, cây cỏ sẽ không sinh trở lại nữa, và sự sa mạc hóa cao nguyên Tây Tạng tiếp tục, làm giảm thiểu năng lượng sản xuất của những dòng sông chính một phần tư. Bốn trăm thành phố lớn của Trung Hoa bây giờ khổ sở vì khan hiếm nước, và ở những vùng nông thôn việc thu hoạch bị ảnh hưởng vì  thiếu sự tưới tiêu.

Như Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc nhở chúng ta, tầng đất cát của cao nguyên Tây Tạng giàu khoáng sản, nhiều và đa dạng. Sự giàu có về nguồn khoáng sản là một trong những lý do chính cho việc xâm lăng của Trung Cộng năm  1949. Người Trung Cộng tiếp tục khai thác rộng lớn những khoáng sản như uranium, kền, vàng, lithium, hàn the, sắt, và bạc. Dầu lửa và khí thiên nhiên dự trử trong vùng Tsaidam cấu thành một năng lượng chính cung ứng cho việc đẩy nhanh tiến độ công nghệ hóa của Trung Hoa.

Khoáng sản được khai thác không quan tâm đến môi trường có những hậu quả thảm khốc cho tầng đất cát và lớp bảo hòa hay tầng ngậm nước dưới những mạch nước ngầm, ngày nay đã bị ô nhiễm bởi nước chất thải độc sử dụng trong việc khai thác. Thay vì dừng lại những việc này, những ngành công kỷ nghệ Trung Hoa lại đang cố gắng gia tăng chúng bằng việc thu hút những nhà đầu tư ngoại quốc. Những người Tây Tạng có can đảm đứng lên chống lại việc tàn phá môi trường bị bắt bớ, tra tấn, và kết án tù dài hạn.

MỘT TU SĨ PHẬT GIÁO QUÁN CHIẾU TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA VỀ MÔI TRƯỜNG

Theo dòng diễn tiến của những cuộc du hóa qua những quốc gia trên thế giới, giàu và nghèo,  Đông và Tây, chúng tôi đã từng thấy con người say sưa với niềm vui sướng, và những con người khổ đau.  Những phát triển của khoa học kỷ thuật dường như nghiêng về một phía và sự cải thiện định lượng của việc phát triển có đạt được thêm một ít đường nét, một số cải tiến; phát triển thường có nghĩa thêm ít nhiều những tòa nhà ở thành thị.  Như một kết quả, sự cân bằng sinh thái – căn bản chính của đời sống chúng ta trên mặt đất –  đã bị ảnh hưởng vô cùng rộng lớn.

Mặt khác, trong những ngày quá khứ, người dân Tây Tạng đã sống một đời sống hạnh phúc, không có vấn nạn ô nhiễm, trong những điều kiện thiên nhiên.  Ngày nay, khắp thế giới, kể cả Tây Tạng, môi trường sinh thái thoái hóa nhanh chóng vượt qua chúng ta.  Chúng tôi hoàn toàn bị tin rằng, nếu tất cả chúng ta  không làm một sư phối hợp năng động, với một ý nghĩa trách nhiệm toàn cầu, chúng ta sẽ thấy “sự sụp đổ dần dần những hệ thống sinh thái mong manh đã nâng đở chúng ta, kết quả trong sự thoái hóa không thể đảo ngược không thể hồi phục của Hành Tinh Trái Đất.

Những đoạn thơ đã được viết nên để nhấn mạnh sự quan tâm sâu xa của chúng tôi, và để kêu gọi sự lưu tâm của tất cả mọi người để tiếp tục làm nên những tác động để bảo tồn và cứu chửa sự thoái hóa môi trường của chúng ta.

1. Ôi Đức Thế Tôn

Đản sinh từ cội Vô ưu

Đấng vô tỉ, không ai sánh bằng

Người, thấy sự tỏa khắp tất cả thiên nhiên

Của tương liên phụ thuộc

Giữa môi trường và tất cả chúng sinh

Luân hồi và Niết bàn

Động và bất động

Ôi, Ngài đã Giáo huấn thế gian về bi mẫn

Ban lòng từ ái bao la cho tất cả chúng con!

2. Ôi Đấng cứu độ

Chúng con khẩn cầu danh hiệu Quán Tự Tại

Bởi vì Ngài là hiện thân từ bi của tất cả chư Phật

Chúng con khẩn cầu Ngài làm cho tâm thức chúng con được chín muồi.

Và làm cho kết quả

Để chúng con quán chiếu thực tại.

Để tan đi vọng tưởng

3. Tính vị kỷ của chúng con như là đá khối

Thâm căn cố đế trong tâm thức chúng con

Từ vô thỉ kiếp

Làm nhơ bẩn, đục ngầu và ô nhiễm môi trường

Tạo thành nghiệp báo chung

Của tất cả chúng sinh

4. Ao và hồ đã biến mất sự trong sáng, mát tươi

Không khí bị nhiễm ô

Vòm trời tự nhiên nóng như lửa cháy

Nổ tung từng mãnh

Và chúng sinh đau khổ vì bệnh tật vốn chưa từng được biết trước đây

5. Núi tuyết vĩnh cửu lâu đời rực rở lộng lẫy vinh quang

Quỵ xuống và đổ sụp, và chảy tan thành   nước

Những đại dương uy nghiêm mất sự cân bằng muôn thuở

Vượt qua giới hạn từ xưa nhấn chìm hải đảo

6. Những sự nguy hiểm của lửa, nước và gió là không hạn chế

Hơi nóng ngột ngạt phơi khô rừng xanh tươi tốt của chúng ta

Bạo hành thế giới chúng ta với cuồng phong chưa từng nghe thấy.

Và những đại dương dâng muối cho sức mạnh thiên nhiên.

7. Mặc dù con người không thiếu giàu sang

Họ không thể mua sự xa hoa để thở không khí trong lành

Những cơn mưa và những dòng suối không còn làm sạch sẽ bất cứ gì

Nhưng trở thành những dung dịch trơ trơ và bất lực

8. Chủng loại con người

Và vô số chúng sinh

Sống trên cạn và nơi ẩm thấp

Quay cuồng dưới ách của khổ đau thân thể

Nguyên nhân bởi dịch bệnh hiểm nguy

Tâm thức họ yếu đuối

Bởi lười biếng, ngu dại và tối tăm.

Hỉ lạc với thân thể và tâm linh

Ngày càng xa, xa lắc ở nơi vô tận

9. Chúng ta làm ô nhiễm không cần thiết

Tâm tư kiều diễm của Bà Mẹ Đất chúng ta

Xé toạc những cây cối của bà để nuôi dưỡng những tham lam thiển cận.

Biến đất đai phì nhiêu của chúng ta thành sa mạc cằn khô.

10. Thiên nhiên lệ thuộc tương liên

Của môi trường ngoại tại

Và tự nhiên nội tại loài người

Như được diễn tả trong mật điển tantra

Và những luận điển về y dược và thiên văn học

Quả thực đã được chứng minh

Bằng những kinh nghiệm hiện tại của chúng ta

11. Trái đất là nhà để muôn loài sinh sống

Bình đẳng và công bằng đến động và bất động

Vì thế lời dạy của Phật là âm thinh chân lý

Với trái đất vĩ đại là chứng nhân

12. Như những chúng sinh cao quý nhận thức lòng ân cần

Của bà mẹ thông tuệ

Và biểu lộ báo lòng biết ơn ấy

nên chúng ta đối xử với tình cảm chân thành

Vì thế trái đất bà mẹ toàn cầu

Ban cho sự dưỡng nuôi bình đẳng

Chúng ta hãy từ bỏ sự lãng phí và sự nhiễm ô

13. Của thiên nhiên sạch sẽ sáng trong

Của bốn yếu tố

Chúng ta hãy từ bỏ việc tàn phá sự cát tường của nhân loại

Nhưng hãy miệt mài chính mình trong những hành động ngược lại

Làm lợi ích cho toàn nhân loại1

14. Dưới gốc cây là câu chuyện vĩ đại Đức Phật đản sinh

Dưới gốc cây, Ngài vượt thắng đam mê

Và đạt  đến giác ngộ hoàn toàn

Dưới hai cây sala Ngài đã nhập niết bàn

Quả thực, Đức Phật đã gìn giữ cây cối trong một sự quý mến vô vàn.

15. Nơi đây, phát nguyên của Văn Thù Sư Lợi

Đạo Sư Tông Khách Ba thân hiển lộ rực rở tươi đẹp

Được ghi dấu bởi cây trầm hương

Mang hàng trăm nghìn hình tượng của Phật

16. Có phải không được biết rõ

Rằng một số bổn tôn siêu việt

Những tâm linh và bổn tôn địa phương cao cả

Xây dựng những lâu đài của họ trong cây?

17. Cây xum xuê tịnh hóa làn gió

Giúp chúng ta thở không khí duy trì sự sống

Chúng làm vui ánh mắt và tâm chân thật

Bóng của chúng làm một nơi ngơi nghĩ hân hoan

18. Trong luật tạng, Phật dạy tu sĩ

Chăm sóc cho những cây yếu mềm

Từ đây, chúng con học đạo đức

Của trồng trọt và bảo dưỡng cây xanh

19. Đức  Phật cấm tu sĩ cắt cây

Nguyên nhân làm những người khác chặt cây đang sống

Phá hoại những hạt giống hay làm ô uế làn cỏ xanh tươi

Điều này nên làm cảm hứng cho chúng ta

Yêu mến và bảo vệ môi trường chứ?

20. Họ nói rằng, trong thế giới thiên đàng

Cây cối khởi sinh

Sự gia hộ của Đức Phật

Và tiếng dội của âm thanh

Của những giáo lý đạo Phật căn bản

Như vô thường

21. Nó là cây mang đến mưa

Cây giữ bản chất của đất

Kalpa-Taru, cây của ước nguyện đủ đầy

Những sự cư trú thật sự trên đất

Để phục vụ tất cả những mục tiêu

22. Ngày  xửa ngày xưa ấy

Ông bà tổ tiên ta đã ăn trái trên cây

Mặc áo quần bằng lá cây

Khám phá ra lửa bằng sự cọ xát gỗ

ẩn náo giữa những tàng cây

khi họ chạm trán phải hiểm nguy

23. Ngay cả trong thời đại của khoa học

Của kỷ thuật

Cây cung cấp cho ta nơi trú ngụ

Ghế cho ta ngồi lên

Giường cho ta nằm xuống

Khi trái tim rực cháy

Với ngọn lửa của giận hờn

Nhiên liệu của cải vả xung đột

Cây mang đến sự tươi vui, đón chào mát mẻ

24. Trên cây mang những tiếng gầm vang

Của tất cả đời sống trên mặt đất

Khi nó bị quét sạch đi

Mặt đất được minh họa bằng thí dụ

Của cây Jambu

Sẽ chỉ còn lại chẳng gì khác hơn là một sa mạc buồn thảm hoang tàn.

25. Không có gì thân thiết đến đời sống hơn là sự sống

Liễu ngộ điều này, như trong Luật tạng

Đức Phật đã ban điều ngăn cấm

Như dùng nước có những vi sinh

26. Trong những vùng hẻo lánh của Hy Mã Lạp Sơn

Vào những ngày xưa, vùng đất Tây Tạng

Tuân theo sự ngăn cấm săn bắt hay câu cá

Và, trong những thời điểm định rõ, ngay cả xây dựng

Những truyền thống này là quý báo

Bởi vì chúng bảo vệ và ấp ủ

Sự sống của những tạo vật thấp hèn, bơ vơ, không khả năng tự vệ

27. Vui chơi với sự sống của những tạo vật khác

Mà không có chút cảm thương hay ngượng ngịu

Là trong hành động của săn bắt hay câu cá hay thể thao

Là một hành vi bạo động không chú ý và vô ích

Một sự vi phạm những quyền nghiêm trọng

Của tất cả mọi sự sống và chúng sinh

28. Chăm chú ân cần đến thiên nhiên

Của sự tương tức tương nhập của tất cả tạo vật

Của cả sinh vật lẫn những vật vô tri

Chúng ta không bao giờ nên dễ duôi trong nổ lực

Để bảo tồn và duy trì năng lượng của thiên nhiên

29. Trong một ngày, tháng, năm nào đấy chúng ta nên tiến hành

Buổi lễ về trồng cây

Do thế, chúng ta phải đầy đủ ý thức trách nhiệm

Phục vụ những thành viên của chúng ta

Không chỉ mang đến niềm hạnh phúc cho một người

Mà làm lợi lạc cho tất cả.

30. Nguyện cho năng lực về tuân thủ điều này là đúng đắn

Và sự ngăn ngừa những thực hành sai lầm và những hành động xấu ác

Nuôi dưỡng và tăng thêm sự thịnh vượng của thế giới

Nguyện cho nó làm cho cường tráng chúng sinh và giúp chúng nở hoa

Nguyện cho niềm vui sướng núi rừng và niềm hạnh phúc nguyên sơ

Mãi mãi gia tăng, mãi mãi lan tỏa và bủa khắp tất cả.

Thi kệ được phát hành nhân dịp Đức Đạt Lai Lạt Ma tặng một bức tượng Phật đến nhân dân Ấn Độ, đánh dấu việc khai mạc Hội Nghị Quốc Tế về Trách Nhiệm Sinh Quyển: Một đối thoại với Phật Giáo vào ngày 2 tháng Mười, 1993, tại New Delhi.

Ẩn Tâm Lộ, Monday, February 01, 2016

 

THIẾU NHI CỦA TÔI, CÁC CHÁU LÀ TƯƠNG LAI CỦA TÂY TẠNG

Bị Buộc Phải Lưu Vong

CHÚNG TÔI PHẢI TRÔNG thật là thảm não khi được chào đón bởi những binh lính biên phòng Ấn Độ. Có tám mươi người chúng tôi, thân thể tất cả đều kiệt lực qua hành trình và về tinh thần bị choáng ngợp bởi thử thách.

Khi chung tôi đến Tezpur, hàng trăm thông điệp, thư từ, và điện tín đang chờ tôi. Mọi người từ khắp nơi trên thế giới gởi cho tôi những lời chào mừng và động viên. Tôi tràn ngập lòng biết ơn, nhưng cũng với một cảm giác cấp bách. Ưu tiên là việc chuẩn bị một tuyên bố súc tích cho nhiều người đang chờ đợi một lời từ tôi để gởi đến các phương tiện truyền thông. Thế nên tôi thuật lại những sự kiện một cách thẳng thắn và trong những thuật ngữ vừa phải. Thế rồi, sau một bửa ăn trưa nhẹ, chúng tôi lên xe lửa đi Mussoorie.

Thủ tướng Ấn Độ Nehru và Đức Đạt Lai Lạt Ma tại  Birla House, Mussoorie, Ấn Độ, 1959

Hàng trăm hay ngay cả hàng nghìn người đổ đến để xem chúng tôi khi chúng tôi du hành ngang qua, vẩy tay chào chúng tôi và mong chúng tôi được hậu đãi. Ở một vài nơi người ta thậm chí còn dọn đường rầy để chúng tôi có thể di chuyển nhanh hơn. Tin tức lan truyền một cách nhanh chóng khắp hang cùng ngỏ hẻm ở Ấn Độ, và dường như là mọi người đều biết về sự hiện diện của tôi trên chuyến xe lửa ấy. Hàng nghìn người liên tiếp đổ đến hoan nghênh tôi với những lời hô vang “Đức Đạt Lai Lạt Ma Ki Jai! Đức Đạt Lai Lạt Ma Zindabad!” (Đức Đạt Lai Lạt Ma trường thọ! Cầu cho Đức Đạt Lai Lạt Ma sống lâu!

Tôi rất xúc động. Trong ba thành phố lớn mà tôi đi qua – Siliguri, Benares, và Lucknow – tôi phải rời xe lửa và tham gia vào những buổi tụ hội không chuẩn bị trước với những đám đông mênh mang chào mừng tôi bằng việc tung hoa. Toàn bộ hành trình dường giống như một giấc mơ lạ thường. Khi nghĩ lại việc ấy, tôi biết ơn vô vàn với người dân Ấn Độ vì sự ân cần tử tế dạt dào vào thời điểm ấy của đời tôi.

Vài ngày sau đó, một thông cáo từ cơ quan truyền thông của Trung Cộng đến, lên án tuyên bố Tezpur của tôi như  “một tài liệu đầy sai trái của biện luận, dối trá và lẫn tránh.” Theo sự diễn dịch của Trung Cộng về những sự kiện, tôi đã bị bắt cóc bởi những kẻ nổi loạn ở Lhasa, hành động được trả lương bởi “những đế quốc xâm lược.”

Tôi bị choáng váng khi thấy rằng Trung Cộng đang cáo buộc những đế quốc tưởng tượng, chẳng hạn như người Tây Tạng ở Ấn Độ, Chính  phủ Ấn Độ, và “phe nhóm quyền lực” của tôi, thay vì thừa nhận sự thật rằng đồng bào tôi đang đòi hỏi tự do đã nổi lên chống lại họ.

***

Trong năm 1959, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gặp thế giới và thế giới đã gặp Tây Tạng. Nhưng truyền thông quốc tế chỉ nhấn mạnh về bản chất huyền bí của văn hóa Tây Tạng, với những tiêu đề vốn nổi bật một sự pha lẫn về sự dị thường và tôn giáo và  hạ thấp những vấn đề chính trị về sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng ở Tây Tạng ở phía sau. Vì vậy, Paris Match, trong số ngày 28 tháng Tư năm 1959, vinh danh “Joan of Arc của Tây Tạng” người được cho là có sự hướng dẫn kỳ diệu Đức Đạt Lai Lạt Ma trong hành trình của ngài qua những đường đèo cao nhất trên thế giới. Tạp chí này không tiếc lời ca ngợi sức mạnh siêu nhiên của vị đạo sư trẻ tuổi, người được họ so sánh với một nhà huyển thuật triệu hồi sự bảo vệ của những linh thức nhân từ vốn ngài biết thuần hóa như thế nào.

Tuy nhiên, hoàn cảnh chỉ trở nên tệ hại hơn ở Tây Tạng. Biết rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tìm cách đến Ấn Độ, Mao được nói là đã la lên, “Chúng ta đã thua trận!” Nhưng tốc độ của cái được gọi là cải cách dân chủ chỉ tăng tốc trong tất cả mọi vùng của Tây Tạng, không chỗ nào được loại trừ. Chính quyền Trung Cộng đã xóa bỏ tầng lớp cai trị của Tây Tạng; tất cả những người đối kháng bị tàn sát, các lạt ma bị bắt giữ, và những kho tàng tôn giáo và nghệ thuật của các tu viện bị cướp bóc. Ở trung tâm Tây Tạng, trong 2,500 tu viện chỉ còn sót lại 70 ngôi mà thôi.

Quân chiếm đóng Trung Cộng đã làm hàng chục nghìn người chết trong vài năm, nhiều lời nhân chứng đều nói giống nhau: người Tây Tạng không chỉ bị đưa ra xử bắn mà thiêu sống, dìm chết, bóp cổ, treo cổ, chôn sống, xé đôi, phanh thây làm tư, chặt đầu.

Giữa năm 1959 và 1960, có tám mươi nghìn người theo chân Đức Đạt Lai Lạt Ma trên con đường lưu vong. Sự hổ trợ của Nehru cần thiết để được thành công nếu đời sống của những người Tây Tạng bây giờ tị nạn ở Ấn Độ được tổ chức thành một cộng đồng. Tuy nhiên, Nehru mặc dù muốn giúp đở người Tây Tạng một cách chân thành, lại nóng lòng muốn duy trì những mối quan hệ tốt đẹp với Trung Hoa Mao-ít.

Ưu Tiên Của Tôi Là Chấm Dứt Sự Tắm Máu

VÀO NGÀY 24 THÁNG BA 1959, Pandit Jawaharlal Nehru tự thân đến để gặp tôi ở Mussoorie. Chúng tôi nói chuyện với nhau khoảng vài giờ đồng hồ, trong sự hiện diện của một người thông dịch duy nhất. Tôi hiểu để kể cho ông nghe chi tiết về những gì xảy ra từ khi tôi trở lại từ Bắc Kinh đến Tây Tạng, theo sự cố vấn lập đi lập lại của ông. Tôi tiếp theo tuyên bố rằng tôi sẽ hành động đối với người Trung Cộng như ông đề nghị, với công lý và trung thực, bình phẩm họ khi họ không có lý do để làm như vậy, trong khi vẫn cố gắng để bảo toàn những thuật ngữ của Thỏa Ước Mười Bảy Điểm.

Ở những điểm nào đó trong sự đối thoại của chúng tôi, Nehru đấm vào bàn với nắm tay của ông. “Làm sao có thể như thế!” ông la lên một hay hai lần như vậy. Tôi tiếp tục, mặc dù rõ ràng là ông hơi bị sốc. Để kết luận, tôi nói với ông rất chắc chắn rằng quan tâm chính của tôi có hai phần: “Tôi quyết định giành lại sự độc lập của Tây Tạng, nhưng bây giờ, ưu tiên của tôi là làm chấm dứt sự tắm máu.” Với những lời này, Nehru không thể kiềm chế được nữa. “Điều đó là không thể,” ông nói trong một giọng đầy cảm xúc. “Ngài nói ngài muốn độc lập và đồng thời ngài không muốn một cuộc tắm máu. Không thể được!” Làn  môi dưới của ông rung lên dữ đội khi ông nói.

Tôi đã bắt đầu nhận ra rằng vị thủ tướng tự thấy mình ở trong một vị trí cực kỳ phức tạp và lúng túng. Trong quốc hội Ấn Độ, một cuộc tranh luận căng thẳng mới về vấn đề Tây Tạng đã tiếp theo sau tin tức về sự đào thoát của tôi. Trong nhiều năm Nehru đã bị bình phẩm bởi nhiều chính trị gia về vị thế của ông đối với tôi. Tôi hiểu rằng tương lai của tôi và tương lai của đồng bào tôi rất bấp bênh hơn là tôi tưởng.

***

Một lớp học chưa có mái che do Viện Giáo Dục Tây Tạng tị nạn  phụ trách năm 1960 ở Mussoorie, Đức Đạt Lai Lạt Ma đang quán sát lúc ngài 25 tuổi.

Sự ủng hộ chính trị dè dặt của Nehru đồng hành cùng với một cam kết kiểu mẫu về việc tổ chức giáo dục cho trẻ em Tây Tạng. Nhiều trẻ em Tây Tạng đã đến Ấn Độ với gia đình, những người vốn mất mát tất cả mọi thứ, và Nehru, nhận ra thảm kịch của họ, đề nghị Đức Đạt Lai Lạt Ma thành lập những trường học đặc biệt cho họ cũng như để bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa Tây Tạng. Một tổ chức độc lập cho sự giáo dục của người Tây Tạng, trong Bộ Giáo Dục của Ấn Độ, được thành lập, và việc xây dựng trường học được tiến hành với sự tài trợ của chính phủ.

Trẻ Em Của Hy Vọng

KHÔNG BAO LÂU SAU sự đào thoát ồn ào của chúng tôi đến Ấn Độ, tôi đã đưa ra những ngôn từ sau đây để động viên cộng đồng tị nạn mới của chúng tôi:

“Các thiếu nhi của tôi, chúng tôi muốn làm cho các cháu trở thành những thành viên tận tụy, hữu dụng của cộng đồng chúng ta. Các cháu phải hành động với cả trái tim của các cháu vì đồng bào, tôn giáo, và vấn đề Tây Tạng.

“Các cháu thiếu nhi của tôi, các cháu là những con người. Các cháu không phải là cây cỏ cũng không phải là bông hoa, vốn bị tàn phai trong nắng nóng hay bị tan hoang bởi mưa đá và bảo giông. Không giống như cây cỏ, các cháu có thể nắm lấy vận mạng các cháu trong tay. Bất cứ các khổ đau thân thể nào các cháu có thể chịu đựng, thì các cháu nên luôn luôn giữ một ý thức trong sáng và một tâm hồn vững vàng, cứng rắn.

“Hồng Quân Trung Cộng đã làm mỗi chúng ta đau khổ vô vàn. Chúng ta không nên lãng quên những tàn bạo này. Các cháu phải làm việc cần mẫn để thu thập kiến thức và đấu tranh với những vũ khí của công lý và luật lệ. Ngày và đêm, các cháu phải cố gắng để có được sự tu dưỡng rộng lớn hơn nhằm để phục vụ tôn giáo của các cháu và đồng bào của các cháu. Đó là trách nhiệm cá nhân của các cháu.

“Các cháu thiếu nhi, các cháu nên tiếp tục công việc đã được bắt đầu bởi những người lớn. Không nên đứng qua một bên và không làm gì, giống như chúng ta đang chờ đợi mưa rơi xuống từ bầu trời. Tất cả chúng ta phải làm việc năng nổ. Trẻ cũng như già, chúng ta hãy cố gắng để nhận ra mục tiêu chung của chúng ta.

“Các cháu thiếu nhi của tôi, càng nhìn các cháu, tôi càng cảm thấy hạnh phúc hơn. Các cháu đại diện cho sự hy vọng của một tương lai tốt đẹp hơn, và các cháu sẽ xoay sở để vượt thắng những khó khăn đang nằm phía trước. Các cháu là ngưỡng cửa của sự tồn tại; các cháu phải trở nên mạnh mẽ hơn mỗi ngày, đừng lãng phí thời gian quý báu của các cháu. Các cháu là tương lai của Tây Tạng.”

***

Đức Đạt Lai Lạt Ma và thiếu nhi Tây Tạng

Tháng Tư năm 1960, một năm sau khi lưu vong, phát ngôn viên một trại ở Jammu đã đến gặp Đức Thánh Thiện với một tin tức báo động. Trong một cuộc chuyển tiếp của một nhóm tị nạn ở Ladakh, một trận bảo tuyết đã bùng lên. Bị tấn công với cơn lạnh thêm vào sự thiếu dinh dưỡng và thiếu sự chăm sóc y tế, trẻ em đã bị giết chết rất nhiều.

Vận mạng của trẻ em là một ưu tiên tuyệt đối của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ở Tây Tạng Trung Cộng đã bắt đầu một cuộc vận động “học tập yêu nước”, tách rời trẻ em khỏi cha mẹ của chúng và ngay cả lưu đày những thành phần thông minh nhất sang Trung Hoa. Đối với những người tị nạn trẻ tại Ấn Độ, họ bị đe dọa với nạn đói và bệnh tật. Toàn bộ một thế  hệ đang ở trong hiểm họa.

Quyết định của Đức Đạt Lai Lạt Ma là ngay lập tức. Ngài yêu cầu những thành viên trong gia đình ngài và những viên chức trong đoàn tùy tùng của ngài lãnh trách nhiệm săn sóc những trẻ em bệnh tật hoặc suy dinh dưỡng bằng việc tạo nên cơ quan vì mục tiêu đó với sự giúp đở của chính phủ Ấn Độ. Một phái viên được gửi tới những người tị nạn với thông điệp sau:

“Sự sống của đồng bào là rất gian khó. Tôi đã quyết định thành lập một cơ sở để chào đón con em của chúng ta. Nếu đồng bào giao phó chúng cho tôi, như vậy sẽ đơn giản hóa đời sống của đồng bào và con em của chúng ta sẽ được học hỏi để sống độc lập và kỳ vọng ở chính chúng.

“Điều gì hơn thế nữa, chúng sẽ trở thành những người Tây Tạng thật sự, những kẻ thừa kế sự tự do mà chúng ta mới tìm được. Chúng sẽ không bao giờ quên cha mẹ chúng, tổ tông chúng, anh chị em chúng, đồng bào chúng những người đã hy sinh cho chúng. Dĩ nhiên, tôi không áp đặt việc này; cha mẹ và con cái có thể thực  hiện lựa chọn của họ một cách tự do.”

Trong những năm đầu thập niên 1960, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường gặp gở những thiếu nhi Tây Tạng vào buổi chiều tại Swarg Ashram, nơi thường trú cũ của ngài.  

Khi phát ngôn viên vừa dứt lời, có một thời khắc im lặng. Sau đó, người cha của một đứa bé gái bốn tuổi lên tiếng. Ông đã không chấp nhận sự truyền thụ vốn ngăn chặn người Tây Tạng trở thành người Tây Tạng trong chính xứ sở của họ và buộc họ lên án dân tộc họ, quê hương họ, và tôn giáo họ. Cho nên với đứa con gái của ông trên vai, ông và vợ đã theo chân Đức Đạt Lai Lạt Ma vượt Hy Mã Lạp Sơn. “Tôi nghĩ,” ông kết luận, “đó là một cơ hội tuyệt vời cho chúng tôi trong việc cống hiến sự chăm sóc và giáo dục con em chúng ta.”

Một bà cụ tật nguyền của một cậu bé Tây Tạng đứng lên và nói, “tôi đã cầu nguyện để thấy bằng chính mắt tôi sự chết của những kẻ đã thi hành sự diệt chủng như vậy trên quê hương chúng ta. Bất hạnh thay, tôi đã quá già; tôi nghĩ tôi sẽ chết ở đây. Nhưng có cháu ngoại trai tôi và tất cả những trẻ em khác. Thế nên tôi cầu nguyện chúng có thể được chăm sóc để chúng có thể chuẩn bị báo thù cho tất cả những người chúng ta đã chết một cách mau chóng.

Cha của một trẻ em khác cũng tuyên bố, “Tôi cầu nguyện để thấy Tây Tạng được tự do trước khi tôi chết. Đức Đạt Lai Lạt Ma muôn năm!” Những người tị nạn lập lại, “Đức Đạt Lai Lạt Ma muôn năm!” Và những trẻ em yêu cầu cha mẹ chúng để chúng đi với Đức Đạt Lai Lạt Ma, đến cơ sở đã được thiết lập cho chúng.

Năm 1960, cùng lúc đoàn tùy tùng của Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh trách nhiệm với các trẻ em, chính phủ Ấn Độ mở trường tiểu học và trung học dưới thẩm quyền của sự quản lý tự trị. Cùng năm ấy một viên chức bộ nội vụ của Tây Tạng, trong sự phối hợp với những thẩm quyền Ấn Độ và quốc tế, lãnh trách nhiệm trông nom sự hòa nhập của người tị nạn, những người bây giờ lan tõa khắp Ấn Độ trong khoảng năm mươi trại.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng tổ chức một bộ Văn Hóa và Tôn Giáo để tái tạo những đại tu viện và những trường đại học của chúng trong vùng đất lưu vong.

Trong triều đại ngắn ngủi của ngài ở chính Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiến hành hiện đại hóa xã hội phong kiến Tây Tạng. Trong lưu vong, ngài giới thiệu dân chủ với chính quyền của ngài bằng việc áp dụng một hiến pháp tạm thời phân quyền, bình đẳng mọi công dân trước luật pháp, tự do bầu cử, và chính trị đa nguyên.

Việc dân chủ hóa này, cùng với việc bắt đầu của sự thế tục hóa cơ cấu chính trị Tây Tạng, là câu trả lời tuyệt vời nhất đối với sự tuyên truyền của Trung Cộng cáo buộc rằng ngài muốn tái lập quyền lực cá nhân của ngài.

Tôi Là Người Đề Xướng Chế Độ Dân Chủ Thế Tục

MẶC DÙ CHƯA TỪNG  CÓ một xã hội Phật Giáo nào phát triển một hệ thống dân chủ trong chính quyền của nó, nhưng cá nhân tôi vô cùng ngưỡng mộ sự dân chủ thế tục. Khi Tây Tạng vẫn còn tự do, chúng tôi nuôi dưỡng một sự cô lập mà thiên nhiên đã cho chúng tôi, suy nghĩ sai lầm rằng chúng tôi có thể bảo đảm cho sự hòa bình bên trong và bảo vệ cung cách ấy. Không chú ý đến những thay đổi mà thế giới đang trải qua, chúng tôi hầu như không lưu tâm rằng Ấn Độ, một trong những người láng giếng gần gũi nhất của chúng tôi, đã trở thành một nền dân chủ lớn nhất trên thế giới sau khi giành độc lập thắng lợi một cách hòa bình. Sau này, chúng tôi phải đau khổ để biết rằng, trên trường quốc tế cũng như tại quê hương, tự do phải được chia sẻ và thụ hưởng trong sự sống chung với những người khác. Người ta không thể sử dụng độc quyền của tự do.

Mặc dù người Tây Tạng bên ngoài quê  hương Tuyết Sơn đã bị biến thành người tị nạn, nhưng chúng tôi có tự do để thực hành những quyền của chúng tôi. Những anh chị em của tôi bên trong Tây Tạng không có cùng những quyền để sống ngay trên chính quê hương của họ. Đó là tại sao những người tị nạn chúng tôi có trách nhiệm dự đoán và tưởng tượng về một Tây Tạng của tương lai. Trải qua nhiều năm chúng tôi đã đưa vào thực hành một kiểu mẫu dân chủ chân thật trong những cung cách đa dạng. Sự thật là chữ dân chủ đã quen thuộc với tất cả những người Tây Tạng tị nạn và họ minh chứng cho điều này.

Tôi đã chờ đợi từ lâu lúc chúng tôi có thể định nghĩa một hệ thống chính trị được áp dụng cho cả truyền thống chúng tôi và sự đòi hỏi của thế giới hiện đại, một nền dân chủ có gốc rể trong bất bạo động và hòa bình. Chúng tôi gần đây đã đưa ra những thay đổi sẽ củng cố nền dân chủ của chính phủ chúng tôi trong lưu vong. Với vài lý do, tôi đã quyết định rằng tôi sẽ không là lãnh tụ, hay ngay cả là một phần trong chính quyền, ngày Tây Tạng giành lại được nền độc lập của nó. Vị lãnh tụ tiếp theo của chính quyền Tây Tạng nên được bầu ra trong một cuộc phổ thông đầu phiếu. Có nhiều thuận lợi cho một sự cải cách như vậy vốn sẽ cho phép chúng tôi trở thành một nền dân chủ chân thật và hoàn toàn. Tôi hy vọng rằng, cảm ơn cho những sự thay đổi này, đồng bào tôi sẽ có thể biểu lộ một cách rõ ràng về những quyết định liên quan đến tương lai của Tây Tạng.

Tiến trình của chúng tôi về dân chủ hóa đã ảnh hưởng đến mọi người Tây Tạng trên toàn thế giới. Tôi nghĩ rằng những thế hệ tương lai sẽ nhìn vào những sự chuyển biến như những hoàn thành chính yếu của kinh nghiệm chúng tôi trong lưu vong. Giống như sự truyền bá Phật Giáo vào Tây Tạng đã trui rèn xứ sở chúng tôi. Tôi tin chắc rằng sự dân chủ hóa xã hội chúng tôi sẽ củng cố sức sống của đồng bào Tây Tạng và cho phép thể chế chính quyền chúng tôi phản chiếu khát vọng và ngưỡng mộ thân thương nhất của họ.

Tự Do, Bình Đẳng Và Huynh Đệ Cũng Là Những Nguyên Tắc Của Phật Giáo

Ý TƯỞNG RẰNG CON NGƯỜI có thể sống một cách tự do như những cá nhân, những kẻ bình đẳng trong nguyên tắc và vì thế có trách nhiệm với nhau là tuyệt hảo trong liên đới với Phật Giáo. Như những Phật tử, những người Tây Tạng chúng tôi quý trọng đời sống con người như tặng phẩm quý giá nhất, tin tưởng rằng triết lý và giáo lý Phật Giáo là con đường để đến sự tự do tối thượng – một mục tiêu có thể đạt đến được bởi những người nam và nữ bình đẳng như nhau.

Đức Phật thấy rằng mục tiêu của đời sống là hạnh phúc. Ngài cũng thấy rằng, trong khi si mê đưa chúng sanh vào thất bại và khổ đau vô tận, thì tuệ giác giải thoát họ. Nền dân chủ hiện đại căn cứ trên nguyên tắc tất cả mọi người là bình đẳng, rằng mỗi chúng ta có quyền để sống một cách tự do và hạnh phúc. Đạo Phật cũng nhận ra rằng con người có quyền quyết định vận mệnh của mình, rằng tất cả những thành viên của gia đình nhân loại có quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm. Sự tự do này không chỉ ở trên bình diện chính trị mà cũng ở trên trình độ căn bản, nơi mọi người phải được tự do với sợ hãi và nghèo khổ. Cho dù giàu hay nghèo, có học hay không, đến từ bất cứ xứ sở nào, theo bất cứ tôn giáo nào, lý tưởng nào chúng ta tán thành, thì mỗi chúng ta ở trên tất cả những thứ ấy và là một con người như tất cả những người khác. Không chỉ chúng ta muốn hạnh phúc và cố gắng để xa rời khổ đau, mà chúng ta có quyền chính đáng để theo đuổi những mục tiêu này.

Hiến chế được Đức Phật thiết lập là Tăng Già (Sangha), hay cộng đồng tu sĩ, và  nó vốn tuân thủ những quy luật của dân chủ. Trong một tình huynh đệ như thế, các cá nhân là bình đẳng, bất chấp tầng lớp xã  hội hay đẳng cấp bẩm sinh. Sự phân biệt vi tế duy nhất nằm dựa trên sự thâm niên trong thụ giới.

Sự tự do cá nhân, trong kiểu mẫu của sự Giải Thoát và Giác Ngộ, là mục tiêu chính yếu của cộng đồng, và nó được hoàn thành bằng việc tu dưỡng tâm thức trong thiền tập. Những mối quan hệ hàng ngày căn cứ trên sự bố thí, tôn trọng, và chú ý đến người khác. Bằng việc hướng dẫn đời sống mà không có một chỗ ở nhất định, tu sĩ tự tách rời khỏi sự sở hữu, mà không sống trong sự cô lập hoàn toàn. Tập quán khất thực chỉ củng cố tính tỉnh giác về sự lệ thuộc của họ. Trong cộng đồng, những quyết định được hiện thực bằng bỏ phiếu, và những bất đồng được giải quyết bằng đồng thuận. Vì vậy, Tăng Già là một mẫu mực trong dạng thức của sự bình đẳng xã hội, chia sẻ tài vật, và tiến trình dân chủ.

***

Trong chuyến du hành sang Trung Hoa năm 1954, Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố sự nhiệt tình của ngài với chủ nghĩa Mác-xít, vốn cho phép nền kinh tế xã hội chủ nghĩa gần với lý tưởng Phật Giáo hơn là chủ nghĩa tư bản. Trong triết lý Mác-xít, ngài thấy những nguyên tắc bình đẳng và công bằng xã hội thân thiết với Đạo Phật: “Tâm trí tôi có thể đỏ đẹp hơn những nhà lãnh đạo Trung Cộng. Ở Trung Hoa chế độ Cộng Sản đang thống trị mà không có lý tưởng Cộng Sản,” ngài tuyên bố một lần nữa năm 2008, trong việc biểu lộ giấc mơ của ngài về một sự tổng hợp giữa Phật Giáo và chủ nghĩa Mác-xít vốn có thể có hiệu quả cao nhất trong chính trị.

Tôi Yêu Hình Ảnh Những Thanh Gươm Biến Thành Những Lưỡi Cày

Vào ngày 17 tháng Mười năm 2007, trong mái vòm của điện Capitol ở thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa Kỳ, một lần nữa trong năng lực của ngài như một con người, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhận Huân Chương Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ, gần hai mươi mốt năm sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình ở Oslo, Na Uy.

Tổng thống Bush trao Huân chương vàng Quốc hội Hoa Kỳ  cho Đức Đạt Lai Lạt Ma

Ngài bước lên bục trong y áo tu sĩ truyền thống: chiếc y vàng nghệ rộng phủ trên bộ đồ màu đỏ sậm, để  hở vai bên phải. Chung quanh ngài, những bức tượng trang nghiêm được tạc bằng đá cẩm thạch để nhớ lại thời gian oai hùng của Thomas Jefferson và những vị cha già khai sinh nước Mỹ, và những bích họa kỷ niệm những chiến trận mà trong ấy George Washington, Lafayette, và những nhà yêu nước khác đã chiến đấu vì sự độc lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

Tổng thống George W. Bush đã làm thính chúng xúc động khi ông đề cập rằng lúc còn là một cậu bé, Đức Đạt Lai Lạt Ma “đã giữ một mô hình tượng Thần Tự Do bên cạnh ngài”. Những năm sau này, trong lần thăm đầu tiên Hoa Kỳ, ngài đã đến Công viên Battery ở thành phố New York để ngài có thể thấy bức tượng thật sự cao lớn ngay trước mắt.

Tổng thống tiếp tục với chủ đề quyền tự do, nhắc lại tổ tiên ông đã giành được nền độc lập qua một cuộc cách mạng và rằng ”Jefferson đã xem việc tự do thờ phụng là một trong những phước lành lớn nhất của Hoa Kỳ.” Theo tổng thống, “Sự tự do này không thuộc vào một đất nước, nó thuộc về cả thế giới.”

Tổng thống đã nói nhân danh chính quyền Hoa Kỳ. Để bảo vệ tự do, đất nước của ông đã nhờ đến sức mạnh. Nói như một cảnh sát viên thế giới và như nguyên thủ của một quốc gia quân sự hùng mạnh nhất thế giới, George W. Bush đã biện giải về một nền hòa bình bị đe dọa bởi khủng bố.

Tuy nhiên, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói như một con người và biện hộ cho một con đường của hòa bình tiến tới hòa bình.

***

Có một thông điệp tuyệt vời trong Thánh Kinh vốn thôi thúc chúng ta biến những thanh gươm thành những lưỡi cày. Tôi yêu hình ảnh này của một vũ khí làm thành một khí cụ để phục vụ cho nhu cầu căn bản của con người. Đó là biểu tượng của một thái độ giải trừ vũ khí nội tại và ngoại tại. Trong tinh thần của thông điệp cổ xưa này, dường như quan trọng đối với tôi với ngày nay là việc nhấn mạnh tính cấp bách của một chính sách dài lâu là: phi quân sự hóa toàn hành tinh.

***

Hòa bình không phải được ra lệnh, cũng không phải được áp đặt bằng sức mạnh. Kết quả của từ bi, hòa bình “chín muồi từ trái tim con người và chiếu soi trên thế giới,” Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với chúng ta như vậy.

Loài Người Thích Cung Cách Hòa Bình Hơn

TÔI BẢO ĐẢM RẰNG mọi  người đều đồng ý với nhu cầu cho việc chiến thắng bạo động, nhưng nhằm để loại trừ nó một cách  hoàn toàn, trước nhất nó phải được phân tích.

Ở một quan điểm cực đoan thực tiển, chúng ta chú ý rằng bạo lực đôi khi có thể hữu dụng. Một vấn nạn được giải quyết một cách nhanh chóng hơn bằng sức mạnh. Nhưng một sự thành công như vậy thì thường đạt được bằng sự hy sinh những quyền lợi và sự cát tường của kẻ khác. Bất cứ vấn nạn nào được giải quyết bằng cách ấy lại gây ra một vấn nạn khác.

Nếu một lý trí vững chắc được đặt vào việc phục vụ cho một nguyên nhân, thì bạo lực là vô ích. Khi người ta bị thúc đẩy bởi một mong ước vị kỷ và không thể có được những gì người ta muốn qua lý luận hợp lý, thì người ta viện đến sức mạnh. Ngay cả trong khuôn khổ của sự tranh cải gia đình hay sự bất đồng thân hữu, nếu bạn tự hổ trợ bạn với một lý luận có căn cứ, thì bạn sẽ bảo vệ một cách không mệt mõi vị thế của bạn, từng điểm một. Tuy nhiên, nếu bạn thiếu những động cơ hợp lý, thì bạn sẽ mau chóng bị tràn ngập bởi sân hận, là thứ vốn không bao giờ có dấu hiệu của sự mạnh mẽ, mà là của sự yếu kém.

Cuối cùng, thật quan trọng để thẩm tra động cơ của chúng ta, cũng như của những kẻ đối nghịch. Bạo động và bất bạo động có thể có nhiều hình thức, vốn khó để phân biệt nếu chúng ta chỉ nhắm đơn thuần vào quan điểm ngoại tại. Một động cơ tiêu cực sản sinh một hành vi bạo động sâu sắc, ngay cả khi nó dường như thân hữu và tế nhị. Trái lại, một động cơ chân thành tích cực nhất thiết là bất bạo động trong thực tiển, ngay cả nếu những hoàn cảnh áp đặt một mức độ nghiêm trọng nào đó. Trong bất cứ trường hợp nào. Tôi có cảm giác rằng chỉ sự quan tâm từ bi cho người khác thì mới có thể biện minh cho phương sách với sức mạnh.

Tôi đã từng nghe nhiều người phương Tây nói rằng về lâu về dài những phương pháp bất bạo động của sự phản kháng thụ động được Thánh Gandhi bênh vực là không thích hợp cho mọi người và chúng thì thích đáng hơn ở phương Đông. Hãy năng động hơn. Những người phương Tây yêu cầu những kết quả tức thời, bất cứ tình cảnh nào, ngay cả với giá của sinh mạng họ. Tôi nghĩ thái độ này không phải luôn luôn là tuyệt hảo nhất. Trái lại, sự thực hành bất bạo động là lợi ích trong bất cứ trường hợp nào. Nó đơn giản đòi hỏi sự quyết tâm. Mặc dù những phong trào tự do ở Đông Âu đạt được mục tiêu nhanh chóng của họ, sự phản kháng bất bạo động, chính bản chất của nó, thường đòi hỏi sự kiên nhẫn.

Với điều này trong tâm, tôi cầu nguyện cho những ủng hộ viên của phong trào dân chủ ở Trung Hoa duy trì sự hòa bình, mặc cho sự đàn áp dã man và những khó khăn trước mắt của họ. Tôi chắc chắn rằng họ sẽ duy trì sự bình lặng. Đại đa số những người Trung Hoa trẻ, những thành viên của phong trào đều sinh ra và lớn lên trong một chế độ Cộng Sản rất khắc nghiệt. Nhưng trong mùa xuân 1989, họ đã tự động đưa vào thực hành sách lược phản kháng thụ động rất thân thiết với Mahatma Gandhi. Tôi thấy trong điều này một sự biểu hiện rõ ràng rằng, như một phương sách cuối cùng, loài người thích cung cách của hòa bình, mặc dù tất cả những chỉ dấu là đối nghịch lại.

***

Gandhi là một kiểu mẫu chính trị đầu tranh bất bạo động, và ảnh của ông hiện diện trong nhiều văn phòng hành chính Tây Tạng. Một nhân vật vĩ đại của hòa bình và hòa giải, Mahatma, nhân cách vĩ đại được vinh danh sau khi chết đồng thời như Đức Đạt Lai Lạt Ma trong lúc được trao giải Nobel hòa bình. Bằng việc làm như vậy, Hội đồng Nobel muốn sửa chửa lỗi lầm của họ vì đã không trao danh hiệu này cho Gandhi trước đây.

Để giành độc lập cho Ấn Độ từ sức mạnh thuộc địa của Anh, Gandhi đã tổ chức không chỉ phản kháng bất bạo động mà cũng là bất tuân dân sự, bất hợp tác với những kẻ chiếm đóng, và tuần hành chống đối. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma bị phiền trách vì đã giới hạn di sản bất bạo động của Gandhi, ngài chỉ ra rằng phạm vi không cho phép người Tây Tạng sao chép lại ở Tây Tạng phương pháp vốn đã giành lại tự do cho Ấn Độ khỏi sự thống trị của Anh Quốc. Gandhi trong thực tế có thể tự bảo vệ cho ngài trước một tòa án của luật lệ, và mặc dù chế độ thuộc địa của Anh Quốc ở Ấn Độ rất khắc nghiệt, nhưng vẫn tôn trọng những quyền cá nhân, vốn không phải là trường hợp của nhà đương cục Trung Cộng. Do vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma biện hộ cho việc nuôi dưỡng tinh thần đấu tranh của Gandhi trong khi áp dụng nó trong hoàn cảnh của Tây Tạng.

Gandhi  Sẽ Làm Gì ở Vị Trí Của Tôi?

CHUYẾN THĂM NEW DELHI lần đầu tiên của tôi là đến Rajghat, nơi hỏa táng của Mahatma Gandhi. Tôi tự hỏi nếu ngài vẫn còn sống thì ngài sẽ cho tôi một lời khuyên bảo khôn ngoan như thế nào. Tôi nghĩ ngài chắc chắn sẽ dùng tất cả sức mạnh của ngài, tất cả ý chí của ngài, và toàn bộ cá tính của ngài vào một cuộc vận động bất bạo động vì sự tự do của đồng bào Tây Tạng. Điều đó làm tôi thư thái trong quyết định của tôi là luôn luôn đi theo tấm gương của ngài, cho dù bất cứ chướng ngại nào có thể sinh khởi. Và hơn thế nữa, tôi quyết tâm không liên kết bản thân tôi với bất cứ hành vi bạo động nào.

***

Đức Đạt Lai Lạt Ma không bao giờ dao động với quyết định ban đầu của ngài để trả lời với sự hung hãn của Trung Cộng bằng bất bạo động. Kể từ lúc bắt đầu cuộc chiếm đóng, ngài đã cố gắng để mở ra một cuộc đối thoại với Bắc Kinh và bảo vệ quyền lợi của Tây Tạng trong phạm vi của Thỏa Ước Mười Bảy Điểm, mặc cho sự bất công trắng trợn của nó. Trong năm 1958, khi quân kháng chiến của những người Khampa trở nên triệt để hơn ở miền Đông Tây Tạng, ngài yêu cầu họ giao nộp vũ khí. Những Chiến Sĩ Tự Do này đã thề chiến đấu đến chết cho Tây Tạng. Vì họ không thể phá vở lời thề này cũng không thể bất tuân Đức Đạt Lai Lạt Ma, cho nên nhiều người đã tự sát.

Đến ngày nay, vị lãnh đạo tinh thần của người Tây Tạng đã kiên trì con đường bất bạo động. Trong những cuộc bạo động ở Lhasa năm 1987 và 1988, ngài vui mừng khi thấy những tu sĩ đã cầm những súng trường của Trung Cộng đập vở chúng thay vì quay lại chống lại những kẻ chiếm đóng, như vậy là nói không với ngôn ngữ của vũ khí.

Tháng Ba năm 2008, khi những cư dân của Lhasa nổi dậy và cam kết bạo động chống lại Trung Cộng, chính quyền Bắc Kinh buộc tội Đức Đạt Lai Lạt Ma xúi giục những hành động này. Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời rằng trong trường hợp ấy họ có thể lấy lại giải Nobel Hòa Bình của ngài, và  ngài thách thức nhà cầm quyền Trung Cộng đến Dharamsala để điều tra và chứng minh cho những lời tố cáo của họ.

Biểu tình ở Lhasa năm 1987-1988

Nhưng ngài ân hận sự kiện là cùng lúc những tu sĩ tham gia những cuộc chống đối một cách hòa bình lại bị trấn áp tàn bạo, một người Tây Tạng trẻ đã tổ chức ăn trộm, đốt phá và cướp giật. Trong khi thừa nhận rằng những hành động của họ xảy ra do bởi thất vọng và do bị đối xử như những công dân hạng hai ngay trên quê hương của họ, ngài lên án việc sử dụng bạo lực và tuyên bố nếu đồng bào của ngài xa rời con đường bất bạo động thì ngài có thể không còn là phát ngôn viên cho họ nữa.

Bình luận vào việc lựa chọn bất bạo động từ quan điểm chính trị, Samdhong Rinpoche xác nhận rằng phương pháp này đã sản sinh ra những kết quả bất ngờ trong hình thức của sự thông cảm quốc tế cho vấn đề Tây Tạng. Nếu chiến trận quân sự được Đức Đạt Lai Lạt Ma động viên, nó sẽ không thành công, và bây giờ Tây Tạng có thể đã chìm vào sự lãng quên.

Ẩn Tâm Lộ, Thursday, February 18, 2016