LẠC BANG VĂN LOẠI

SỐ 1969a

QUYỂN 05

Sa-môn Thạch Chi Tông Hiểu, ở đất Tứ minh biên soạn.

Loại Phú và Minh:

  1. Bài phú: Thần Thê An dưỡng của Thiền sư Trí Giác Diên Thọ.
  2. Tấn An dưỡng Phú, phụng chế văn của Ngô Việt Tiền Vương Thục.
  3. Bài Minh: Nhật Quán (Quán mặt Trời) của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Loại kệ (6 bài).

  1. Kệ vẽ tượng Phật A-di-đà của Cư sĩ Đông Pha Tô Thức.
  2. Kệ khen ngợi của ngài Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm khen Phật của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.
  3. Kệ vãng sinh y kinh mà lập của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.
  4. Kệ phát nguyện viết kinh Di-Đà Ấn Thí của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.
  5. Kệ Diêu Hạnh Bà quán mặt trời thấy Phật.
  6. Kệ Tán Dụ Di Tôn của Triêu Nghị Đại Phu Đinh Tánh.

Loại Tụng (20 bài):

  1. Thập Lục Quán Tụng, hai mươi ba bài, của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.
  2. Thập Lục Quán Tụng, mười sáu bài, của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.
  3. Thập Lục Quán Tụng, hai mươi bốn bài, của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.
  4. Tụng khuyến hóa đường tắt tu hành của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở Kinh đô.
  5. Tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Giác Tông Trách.
  6. Tụng Tây phương Tịnh độ, mười ba bài, của Thiền sư Từ Giác Tông Trách.
  7. Tụng Quán Phật Tam-muội của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.
  8. Tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm.
  9. Tụng chỉ bày Hạnh Bà, hai bài, của Từ Biện Pháp sư Tùng Giám.
  10. Tụng khuyên tu Tịnh Nghiệp, hai bài, của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.
  11. Tụng Hóa Đạo Niệm Phật, ba bài, của Luật sư Thanh Chiếu Tuệ Hanh.
  12. Tụng Niệm Phật Tâm Yếu của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân.
  13. Tụng khắc tượng thơm Di-đà của Pháp sư Giải Không Khả Quán.
  14. Tụng Tịnh độ và Từ biệt đời của Pháp sư Pháp Cảnh Nhược Ngu.
  15. Tụng khen ngợi Tây phương của Cư sĩ Huyễn Trụ Nhâm Bưu.
  16. Tụng khuyên tu Tịnh độ của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh.
  17. Tụng Bạch Liên Tịnh Xã của quan Hữu Nhai Giám Nghĩa Tùng Chánh.
  18. Tụng Tịnh Nghiệp Phật Ma của Pháp sư Thọ An Lương Bật.
  19. Tụng khuyên tu Tịnh Nghiệp của Xương Quốc Tể Vương Tồn Chi.
  20. Tụng khuyên đời niệm Phật (mất tên người soạn).

Loại Thơ (22 bài):

  1. Vịnh Tịnh độ của Tấn Khang Lạc Tạ Linh Vận.
  2. Thơ Niệm Phật Tam-muội bốn bài của Tấn Lang Da Vương Kiều Chi.
  3. Thơ Niệm Phật Tam-muội bốn bài của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.
  4. Thư giả biệt Lý Bí ở chùa Thỉ hưng của Cư sĩ Thảo Đường Đỗ Tử Mỹ.
  5. Ngồi bên bờ nước chùa Đông lâm của Cư sĩ Hương Sơn Bạch Cư Dị.
  6. Đại Sư Điếu Thiên Trúc Bảo Nguyệt của Cư sĩ Đông Pha Tô Thức.
  7. Trừ Dạ và ba, bốn câu của Cư sĩ Hậu Sơn Trần Vô Dĩ.
  8. Tiền Đường Thắng Sự Ký mã Thị Lang của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.
  9. Thụy Trúc Ngộ Lão trồng sen của Thứ Công Dương Kiệt.
  10. Lô sơn Bạch Liên xã của Ngự Khê Thích Hoài Ngộ.
  11. Tặng Di-đà Đạo giả của Trực Tác Hoàng Cáo.
  12. Thơ Cận Thể về mười sáu pháp quán (mười sáu bài) của Samôn Xung Mặc.
  13. Lô sơn Liên xã (hai bài) của Giám Bạc Du Lương Năng.
  14. Thứ Vận Liên xã của Thích Hạt Thuần Tẩu.
  15. Mười tám vị hiền ở Lô sơn của Đông Khê Thích Tổ Khả.
  16. Thơ nhớ quê cũ An dưỡng (bốn bài) của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.
  17. Thơ nhớ Tây phương, hai bài ngũ ngôn, của vị Tăng giảng kinh tên Khả Mân ở Bắc sơn.
  18. Gác Giác Hải Di-đà ở Hồ châu của Từ Bộ Trương Cảnh Tu.
  19. Thơ Tây Quy Hiên (mười bài) của Thiền sư La Nguyệt Đàm Oánh.
  20. Thơ bên hiên Nhớ Phật (mười bài) của Thủ tọa Tuyết Khê Hy Nhan.
  21. Đọc Vãng Sinh Truyện có xúc cảm của Pháp sư Vân Am Liễu Hồng.
  22. Tịnh độ Vịnh Sử (hai mươi lăm bài) của Cư sĩ Tây Hồ Lý Tế.

Loại từ (7 bài)

  1. Họa Uyên minh Quy khứ lai hề của quan Cấp sự phùng tập.
  2. Nghĩ Uyên minh Quy khứ lai hề của Huyễn Trụ Nhâm Bưu.
  3. Truy Họa Uyên Minh Quy khứ lai của Luật sư Thuyết Am Giới Độ.
  4. Tán Tây phương Ngư Gia Ngạo (hai mươi bài) của vị Tăng giảng kinh tên Khả Mân ở Bắc sơn.
  5. Tám Tây phương Ngư Gia Ngạo của Thiền sư Tây Dư Pháp Đoan.
  6. Ta-bà khổ vọng Giang Nam (sáu bài) của Pháp sư Bạch Vân Tịnh Viên.
  7. Tây Quy Hảo Vọng Giang Nam (sáu bài) của Pháp sư Bạch Vân Tịnh Viên.

1. Bài Phú: Thần nương An dưỡng của Thiền sư Trí Giác Diên Thọ.

Di-đà cõi báu, An dưỡng tên hay. Ở báo độ mà rất vui, ở mười phương mà rất tịnh. mười sáu pháp quán tu định ý mà ngầm đến, bốn mươi đại nguyện, vận tán tâm mà hóa sinh. Đây bèn trọn đời thọ trì, suốt kiếp quy mạng tiên nhân. Cỡi mây mà nghe pháp, cõi không tán tụng mà khen ngợi, thân bước lên đài vàng tím nên bổn nguyện không dối. Thần hóa trong sợi lông ngọc trắng mà nhất tâm tự mừng. Lành thay tướng lưỡi rộng dài mười cõi đồng khen nói. Chỉ nêu tâm khế hợp cả, không phải ý dối truyền luống. Cái trục trên mặt đất quay, hoa trời tung rải ở trước, một niệm hoa nở, thấy Phật mà đều lên quả mầu. Ngàn trùng chiếu sáng, chứng pháp mà hết cấu bẩn. Các bậc tiên hiền khảo xưa suy nay vãng sinh chẳng phải một. Vận đến mà thiên nhạc đầy trời, thời đến mà hương lạ đầy thất. Trong một chân cảnh hiện tướng mà nhờ uy Phật, trong ao bảy báu thấy cảnh đều từ tâm sinh ra. Cho nên biết Thánh chỉ khó lường, cảm ứng vẫn thường biến phàm thành Thánh. Mà khoảnh khắc tức mê là ngộ mà chiếu bày. Xuất phát từ sách tiên mà thật là thụât sống lâu chỉ quy về cõi Tịnh, ở mãi quê hương bất tử, lại có bậc cao nhân ra đời, đại sĩ ở giữa trần thế, đốt thân và tay để phát hạnh, treo ruột mổ tim mà lập phép. Nhạc tiên đến rước mà từ chối, thiên đồng đến thỉnh mà chẳng vui. Hoặc lửa bày đỉnh núi, trong cảnh sáng suốt mất hẳn tên đường ác. Bỏ luôn sự dơ bầu của thai ngục, mắt mỡ lưỡi chắc mà lập nghiệm. Trâu húc gà mổ mà bỗng ngưng ở thành sắt, chống lại lệnh vua. Phải chết theo lòng son ngồi đài sen mà nhờ ân Phật, khó bỏ chỗ chí lý. Hoặc kẻ chê bai Tam bảo, phá hoại luật nghi. Trong lúc gió cắt xẻ thân bén như dao, gương nghiệp soi sáng thi thể mà gặp Thiện tri thức hiện ra thật chẳng thể suy nghĩ bàn luận, rừng dao biến thành bảy lớp cây báu, xe lửa hóa ra ao sen nước tám đức. Địa ngục biến mất mà tâm sợ hãi tiêu tan, hoa trời bay phấp phới. Bỗng nhiên Hóa Phật đến đón mời. Tuệ nhãn sáng lòng, lò hương tay cầm. Ứng lời sấm mà hoa sen chẳng héo. Được thọ ký mà rừng báu chẳng lâu. Lạ thay năng lực Phật khó nay nghĩ bàn luận, xưa nay chưa từng có. Thiền sư một chí Tây phương hết lời ngợi khen. Như đây đến cả muôn đều lành cùng trở về, cũng cố sức khuyên tu trì. Mới biết kẻ thông suốt, chẳng tiếc tuệ lợi, nhiều cách khảo xét, mà lìa xa sự đắm chìm vắng lặng. Phú này sư có chú thích nhiều đây không chép ra. Nhìn chung đều là văn kinh lời mầu. Và các linh tích trong truyện vãng sinh. Kẻ học rộng chuộng đạo xem đây sẽ nắm được chỗ cốt yếu.

2. Lời vua gởi về người viết An dưỡng Phú của vua nước Ngô Việt là Tiên Thục.

Có nghe ở nước An dưỡng Phật Di-đà đem Tịnh độ hóa độ muôn loài, một niệm chẳng mê liền gá vào thai Thánh dễ như trở bàn tay. Tin và không tin đều là chân như. Ta luôn bình yên vui vẻ sáng suốt, sư dắt dẫn bốn chúng quyết chí Nhất thừa, khuyên ta bằng nhân trăng sáng, giúp ta bằng quả sen xanh. Bạn lành của trời người chẳng phải sư thì còn ai nữa. Ta luôn nhớ khanh, sớm tối để lòng. Nên ban lời khen thưởng để khiến biết rõ lòng ta. Thư chẳng hết ý.

3. Lời Minh và lời tựa về am Nhật Quán của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Ngày 13 tháng 2 mùa Xuân Canh Thân, thuộc niên hiệu Thiên Hy thứ , ở phía Nam ngọn kỳ xà Phi Lai chùa cổ Thiên trúc, Sa-môn Tuân Thức ở ngọn phía Đông chùa, bên động Hương Lâm xây cất Am Nhật Quán đã thành, nay khắc đá viết bài minh Nhật Quán: (Xuất xứ từ kinh Thập Lục Quán).

Ta đối Diệu Linh

Tâm luôn quỳ khuynh

Nước về hơn trượng

Sáu rồng ngưng làm

Như chiếc trống treo

Như ngọc tinh anh

Trừng mắt nhìn thẳng

Niệm mãi chú thành

Hình tròn đỏ chói

Hoảng hốt trung sinh

Đạp sương vững đến

Còn phần sáng tỏ

Dắt tưởng phương Tây

Giữ thần đi xa

Ở ngay tại nhà.

Trước mắt còn mãi.

LOẠI KỆ

1. Kệ vẽ tượng Phật A-di-đà (và lời tựa) của Cư sĩ Đông Pha Tô Thức.

Luật sư Nguyên Chiếu ở Tiền Đường khuyên khắp người tại gia, xuất gia chí thành nương về Thế giới Cực lạc Tây phương. Ở Mi Sơn,

Tô Thức vâng lời người mẹ đã mất là Thục quận Thái quân họ Trình ở Thục quận, đem kỷ vật là cây trâm báu đổi tiền nhờ thợ khéo là Hồ Tích vẽ tượng Phật A-di-đà để tiến vong linh cầu phước. Có kệ tụng rằng:

Phật có đại Viên giác

Tràn khắp mười phương cõi

Con vì tưởng điên đảo

Ra vào biển sinh tử

Vì sao chỉ một niệm

Được vãng sinh Tịnh độ

Ta tạo nghiệp vô thỉ

Một niệm lại có dư

Đã từ một niệm sinh

Liền theo một niệm diệt

Chỗ sinh diệt diệt hết

Thì ta với Phật đồng

Như rót nước vào biển

Như trong gió đánh trống

Tuy có trí Đại Thánh

Cũng không thể phân biệt

Nguyện cha mẹ đời trước

Cùng tất cả chúng sinh

Chỗ sinh đều Tây phương

Nơi gặp đều Cực lạc

Người người Vô Lượng Thọ

Không đến cũng không đi.

2. Giải thích bài kệ khen ngợi Phật của ngài Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Lại ánh sáng gọi là thấy Phật

Sáng này giác ngộ người sắp chết

Khiến tùy ngộ niệm thấy Như Lai

Chết rồi được sinh về Tịnh độ

Thấy người sắp chết khuyên niệm Phật

Và bày tôn tượng khiến kính lạy.

Khiến ở trước Phật rất quy kính

Như thế thì thành ánh sáng này.

Hai bài kệ này bốn câu trước khen Phật phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy tên là thấy Phật, có công năng khiến cho người sắp chết thấy Phật vãng sinh. Bốn câu sau khen Phật tu nhân ánh sáng này. Nhân ấy chỉ là khuyên người sắp chết niệm Phật và bày tượng Phật, nên khi thành Phật thì có được ánh sáng này. Nay rộng thí kệ này là khuyên người tin sâu chắc. Hễ gặp bà con và tất cả mọi người khi sắp chết thì trước giường bày tượng Phật để cho người ấy thấy Phật và khuyên niệm Phật. Nếu người bị đau đớn ép ngặt hoặc từ trước không có tâm tin tưởng không chịu niệm Phật, thì phải dùng các phương tiện dạy họ xưng niệm ít nhất là mười câu thì diệt hết các tội nặng mà vãng sinh Tịnh độ. Đây là một lợi ích chẳng thể suy nghĩ bàn luận. Nếu khuyên một người được sinh Tịnh độ thì nếu mình không tu hành cũng được cùng sinh về cõi Phật. Huống gì đều đương lai khi thành Phật thì sẽ phát ra ánh sáng này chiếu khắp tất cả chúng sinh khi qua đời sẽ được thấy Phật. Phần nhiều thấy người đời vì ân ái mà dụm đầu khóc lóc, chẳng lo việc cứu độ. Thật khổ thay, khổ thay! Gọi đó là bạn ác. Ân ái trói cột sẽ bị đọa vào đường dữ không có ngày ra. Ở đời có năm hạng người chẳng chịu niệm Phật.

  1. Trước không có tín tâm.
  2. Luyến tiếc tiền của.
  3. Không bỏ vợ con.
  4. Tự tiếc thân mạng mình.
  5. Tội nghiệp ngăn che.

Chết rồi phải bị đọa địa ngục, xin sớm giác ngộ.

3. Kệ y theo kinh mà lập chánh tín Vãng sinh của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Đảnh lễ cõi An lạc Tây phương

Di-đà Thế Chủ đấng Đại Từ Tôn

Nay con y theo Tu-đa-la

Thành tựu lòng tin chắc vãng sinh

Người trụ Đại thừa tâm thanh tịnh

Mười niệm niệm Phật Vô Lượng Thọ

Lâm chung mộng Phật chắc vãng sinh

Kinh Đại Bảo Tích dạy như thế.

Năm nghịch các lửa địa ngục hiện

Gặp Thiện tri thức phát tâm mạnh

Mười niệm niệm Phật liền vãng sinh

Kinh Thập Lục Quán dạy như thế

Nếu người vui vẻ tâm ưa thích

Ít nhất mười niệm liền vãng sinh

Nếu không như thế không thành Phật

Bốn mươi tám nguyện dạy như thế.

Những ai nghe tên mà dốc lòng

Một niệm hồi hướng liền vãng sinh

Chỉ trừ năm nghịch, chê chánh pháp

Kinh Vô Lượng Thọ dạy như thế

Khi chết không thể quán và niệm

Chỉ lo buôn bán biết có Phật

Người này dứt hơi liền vãng sinh

Kinh Đại Pháp Cổ dạy như thế

Một ngày một đêm treo lọng lụa

Chuyên niệm vãng sinh tâm không dứt

Ngủ mộng thấy Phật liền vãng sinh

Kinh Vô Lượng Thọ dạy như thế

Suốt ngày đêm niệm danh hiệu Phật

Siêng năng tinh tấn không đứt quãng

Lần lượt khuyên nhau cùng vãng sinh T

rong kinh Đại Bi dạy như thế.

Một ngày, hai ngày hoặc bảy ngày

Chấp trì danh hiệu tâm không loạn

Phật hiện trước mắt liền vãng sinh

Kinh A-di-đà dạy như thế.

Nếu người nghe A-di-đà kia

Một ngày, hai ngày hoặc hơn nữa

Giữ niệm hiện tiền liền vãng sinh

Trong kinh Ban-chu dạy như thế

Mười ngày mười đêm trong sáu thời

Năm vóc lạy Phật, niệm không dứt

Hiện thấy Phật ấy liền vãng sinh

Kinh Cổ Âm Vương dạy như thế.

Mười ngày mười đêm giữ trai giới

Treo phướn lọng lụa, đốt hương đèn

Giữ niệm không dứt được vãng sinh

Kinh Vô Lượng Thọ dạy như thế

Nếu người chuyên niệm Phật một phương

Hoặc đi hoặc ngồi bốn mươi chín ngày

Hiện thân thấy Phật liền vãng sinh

Trong kinh Đại Tập dạy như thế

Nếu ai tự thệ đi kinh hành

Trong chín mươi ngày chẳng ngồi nằm

Ở trong Tam-muội thấy Di-đà

Trong kinh Phật lập dạy như thế

Nếu người ngồi thẳng xoay hướng Tây

Trong chín mươi ngày luôn niệm Phật

Thành tựu Tam-muội sinh trước Phật

Văn-thù Bát-nhã nói như thế

Tôi đối các kinh trích làm vài tụng

Như thế mà nói mãi vô cùng

Nguyện ai cùng nghe sinh chánh tín

Lời Phật chắc thật không dối gạt.

Có người nghi hỏi:

– Thấy bài kệ này nói có mười niệm, cho đến chỉ một niệm sinh tin ưa, cho đến chỉ lo làm ăn nhưng biết có Phật thì cũng sinh về nước ấy. Lại có người bốn mươi chín ngày hay chín mươi ngày niệm Phật thì mới được vãng sinh. Há chẳng phải Tịnh độ là một sao nhân tu lại có khác?

Giải thích: Tịnh độ tuy một nhưng người sinh tự khác. Kinh Vô Lượng Thọ tự chia có ba bậc. Kinh Thập Lục Quán thì chia làm chín bậc. Nếu chia kỹ thì cũng vô lượng.

Lại có người nghi hỏi: Bậc hạ phẩm (bậc thấp nhất) do nhân tu cạn nên cũng có lui sụt phải không?

Giải thích: Không phải như thế. Chỉ chín phẩm hoa nở là có nhanh chậm, cách Phật có xa gần, được đạo có nhanh chậm mà người sinh nước ấy thì đều là bậc không lui sụt. Kinh nói: người sinh về đó đều trụ vào chánh định. Lại nói: Chúng sinh sinh về đó đều là A-bệ-bạt trí, nghĩa là không lui sụt. Luận Thập Nghi nói có năm nhân duyên không lui sụt.

  1. Phật A-di-đà có nguyện lực đại Bi giữ gìn nên không lui sụt.
  2. Ánh sáng Phật luôn soi chiếu, nên tâm Bồ-đề luôn tinh tấn không lui sụt.
  3. Nước chim, cây rừng, tiếng gió, giọng nhạc nói khổ không, người nghe thường khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng nên không lui sụt.
  4. Nước ấy thuần là các Bồ-tát làm bạn lành không có duyên ác, cảnh ngoại không có quỷ thần tà ma, trong không có ba độc, phiền não rốt ráo chẳng khởi cho nên không lui sụt.
  5. Người sinh về nước ấy tuổi thọ lâu dài bằng với Phật Bồ-tát cho nên không lui sụt.

Huống ở đời ác này chẳng những không có năm duyên ấy, mà còn bị ác tri thức, thanh sắc làm say loạn, ma quỷ mạnh mẽ, tuổi thọ ngắn gấp. năm thứ đều xấu ác phá hại tu đạo, uổng phí nhiều kiếp. Xin nghĩ kỹ, nghĩ kỹ!

Có người hỏi: Tất cả các Pháp vốn không sinh không diệt, bình đẳng vắng lặng sao phải gắng gượng khuyên bỏ đây cầu kia?

Giải thích: Nếu bảo cầu sinh Tây phương là lấy bỏ, trái với, lý bình đẳng thì anh lại bỏ kia chấp đây, há chẳng trái lý ư? Nếu cho rằng ta chẳng cầu sinh ở đó cũng chẳng cầu sinh đây thì đó là sinh “Kiến chấp đoạn diệt”. Kinh Kim cang Bát-nhã nói: Há chẳng bàn về không, Phật răn Tu-bồ-đề rằng: Ông chớ nghĩ rằng người phát tâm Bồ-đề đối với Pháp chẳng nói tướng đoạn diệt. Kẻ thật hiểu không là đối với pháp nhân duyên hiểu rõ tánh sinh mà không sinh, tánh diệt mà không diệt. Không phải gọi là đoạn, vô vi chẳng sinh diệt vậy. Trung luận chép: Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là Không, Không nói Diệt, Không nói sau Không. Kinh Duy-ma nói: Biết các cõi Phật và chúng sinh không mà luôn tu Tịnh độ giáo hóa các chúng sinh.

Có người hỏi: Tịnh độ ở tâm đâu cần phải tìm ở bên ngoài. Hễ Tâm tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Há lại xa xôi cầu sinh Tịnh độ phương khác ư?

Giải thích: Ông lại chẳng hiểu rõ nghĩa của Tâm cõi. Tâm ông bị hạn cục ở nơi chốn nên mới thấy Tây phương là cõi ngoài cõi này. Sao lại nói tâm tịnh thì cõi Phật tịnh ư? Kinh Hoa Nghiêm nói: ba thứ Tâm, Phật và chúng sinh không khác nhau. Phật pháp đã khắp thì tâm pháp cũng khắp. Nếu đều có phương hướng thì đâu gọi là không khác. Lại nói tâm đi khắp pháp giới như hư không với hư không, đâu thể phân cách. Nếu rõ được một niệm tâm khắp, một trần cũng khắp, mười muôn ức cõi chỉ khoảng một bước, đâu ở ngoài tâm. Người đời nếu nói lý không liền bác bỏ nhân quả, nếu nói tự tâm thì chẳng tin có các pháp bên ngoài. Há chỉ chê pháp mà chê cả tâm mình, tội đáng đọa lạc muôn kiếp, thật đáng thương thay. Vọng nói phải trái mà ngăn người khác tu Tịnh độ, thật là ác tri thức. Kinh Vô Lượng Thọ có nói Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng công đức trí tuệ của trời, người và các Thanh văn, Bồ-tát ở nước Vô Lượng Thọ không thể nói hết. Lại nước ấy nhiệm mầu an vui thanh tịnh. Như thế vì sao chẳng cố gắng làm lành, niệm đạo tự nhiên, phải đều tinh tấn gắn sức tự cầu sẽ được vượt lên, vãng sinh về nước An

lạc. Dứt ngang năm đường ác, đường tự nhiên đóng, tiến đạo vô cùng. Rất dễ đến mà không có người đi. Nước ấy không có trái nghịch tự nhiên, sao chẳng bỏ việc đời mà siêng năng cầu đạo đức, sẽ được sống lâu, an vui vô cùng cực.

3. Kệ viết kinh Di-đà Chánh Tín Phát Nguyện của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Kính lạy Phật mười phương

Di-đà Thánh trong Thánh.

Phương đẳng Tu-đa-la

Tất cả kho pháp báu

Quán Âm và Thế Chí

Vô số Bồ-tát Tăng

Con đem tâm tín thành

Khắc in và ấn tống,

Quyển kinh A-di-đà

Và cả kệ chánh tín

Đều đủ cả một muôn

Thí bốn chúng thọ trì

Kệ để phát tín tâm

Kinh để giúp đọc tụng

Nếu ai trong mỗi ngày

Tụng ít nhất ba quyển

Năm tụng ngàn tám mươi mười năm muôn tám trăm

Huống lại tụng nhiều hơn

Và trải nhiều năm tháng

Như thế chứa công đức

Tự nhiên sinh trước Phật

Nay tôi muôn quyển kinh

Hễ nơi nào truyền đến

Được ít nhất một người

Tụng trì sinh Tịnh độ

Tôi nguyện nhờ sức này

Chắc chắn sinh nước ấy

Huống lại có nhiều người

Người mất kinh vẫn còn

Xoay vần truyền cho nhau

Gọi là đèn vô tận

Các ngọn chiếu sáng nhau,

Phá đêm dài sinh tử

Hiển sáng Phật Bồ-đề

Rốt ráo đều cùng sinh

Tịnh độ Thường Tịch Quang

Đem phước thanh tịnh này

Hồi hướng vua, cha mẹ

Thánh đế vua nước tôi

Cùng hoàng hậu Thánh vị

Tuổi thọ đều muôn năm

Che chở khắp chúng sinh

Cha mẹ bà con tôi

Oán thân, chẳng oán thân

Đều nhờ gốc lành này

Đồng sinh nước An dưỡng.

5. Kệ Diêu Hạnh Bà trong vầng mặt trời thấy Phật (và lời tựa) của Pháp sư Diệu Hạnh Pháp Di.

Phật A-di-đà ở Tây phương có bốn mươi tám nguyện trong đó có một nguyện nói rằng: Khi tôi thành Phật, chúng sinh mười phương muốn sinh về nước tôi, niệm danh hiệu tôi mười câu mà chẳng sinh thì tôi thề không thành Phật. Nếu ai mỗi ngày buổi sáng chắp tay xoay mặt về hướng Tây niệm danh hiệu Phật mười hơi thì hiện đời tiêu tai được sống lâu, tương lai chắc chắn được vãng sinh. Thấy Dụ Di-đà ở Tiền đường, vẽ tượng Di-đà mà Diêu Hạnh Bà thấy được trong mặt trời có hình Phật A-di-đà. Người nào dụng tâm chuyên chú thì cũng cảm ứng như thế. Tỳ-kheo Diệu Hạnh Pháp Di dùng kệ khen rằng:

Thế giới Cực lạc có nơi chốn

Chỉ ở nơi mặt trời thường lặn

Do đó Phật dạy Vi-đề-hy

Quán kỹ trời lặn như trống treo

Hay thay một bà lão họ Diêu,

Đã dùng tâm ấy cầu Tịnh độ

Sáng quán chiều tưởng không tháng năm

Ngồi niệm hành trì quên lạnh nóng

Di-đà bỗng từ tâm tưởng sinh

Trong lúc hoảng hốt lại thấy rõ

Lúc ấy, giữa trời không áng mây

Nằm yên hòa trên ngọn tang du

Mặt trời Phật chiếu sáng rực rỡ

Mắt xanh lông trắng tướng đẹp lạ

Mắt tâm kinh hãi mừng lại lo

Chạy bảo Đạo sư Di-đà Dụ

Thuật đủ các việc rất ít có

Nguyện vẽ kim dung gá lông trắng

Tôi nghe việc lạ khen ít có

Bèn viết lời kệ mở chưa ngộ

Nên biết cách Phật không hề xa

Xiển đề đâu được nói như thế.

Tuy qua mười ức cõi Phật

Một niệm vượt qua trong tích tắc

Như có người quên hỏi đường đi

Vì sao hướng đạo không chỉ thẳng.

6. Kệ khen Dụ Di-đà (và lời tựa) của Tả Triều Nghị đại phu Đinh Chú.

Tịnh Sư bỏ vợ con làm đồ đệ Như Lai, nhóm muôn người kết hội Tịnh độ. Người trong làng là Đinh Chú làm kệ khen rằng:

Tâm tịnh, cõi Phật tịnh

Pháp vương chẳng nói dối

Đem thân khỏi trần cấu

Bèn thấy sen trong lò

Một niệm khởi chẳng dứt

Cực lạc liền hiện tiền

Đại thiên đồng cảnh này

Há chỉ duyên muôn người.

7. Bài tụng về kinh Thập lục Quán của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Phần tựa:

Vi-đề thành kính thỉnh

Năng nhân Nguyện nói nhân cõi tịnh Tây phương.

Mười sáu quán gồm ba tịnh nghiệp

Tu lành sẽ được thân vãng sinh.

Quán mặt trời:

Một, ngồi hướng Tây tưởng mặt trời

Thấy mặt trời lặn như trống treo

Thấy xong nhắm mắt và mở mắt

Đều hiện rõ ràng ở trong tâm.

Quán nước:

Hai, quán tưởng nước thấy Tây phương

Tất cả đều là nước Tịnh độ

Đã thấy nước rồi tưởng thành băng

Sáng lòa trong suốt đất lưu ly.

Quán đất:

Ba, chánh quán đất báu lưu ly

Quán kỹ rõ ràng nước Cực lạc

Tám thứ gió mát khua tiếng nhạc

Khúc “Khổ, không, vô ngã, vô thường”.

Quán cây:

Bốn quán cây báu bảy hàng lớp

Hoa báu trưng bày cung điện báu

Cờ phướn, lọng báu hình lớp lớp

Cõi Phật mười phương hiện trong đó.

Quán ao:

Năm, tưởng ao bảy báu Tịnh độ

Trong ao có nước tám công đức

Tuôn chảy niệm rõ Phật, Pháp, Tăng

Hoa sen đẹp báu ngàn muôn ức.

Quán chung:

Sáu, quán cõi báu, lầu gác báu

Cây báu lại gồm cả ao báu

Đây là quán chung nếu được thành

Là thấy Cực lạc về phần thô.

Quán tòa hoa:

Bảy tưởng đài tòa hoa sen đẹp

Nguyện lực, Di-đà rộng lớn thành

Khi khởi quán này tâm không loạn

Tưởng chắc Cực lạc sẽ được sinh.

Quán tượng:

Tám, quán giới Phật Như Lai pháp giới thân

Khắp vào tất cả tưởng chúng sinh

Người trí phải quán tâm tưởng này

Tâm ấy tức tượng Phật, Bồ-tát.

Quán Vô Lượng Thọ:

Phật Vô Lượng Thọ thân màu vàng

Sáng suốt chiếu khắp các chúng sinh

Người trí siêng tu giữ tâm quán

Các Phật hiện tiền đồng thọ ký.

Quán Quán Thế Âm:

Bồ-tát Quán Âm thân sắc vàng

Hào tướng giữa mày màu bảy báu

Phát ra ánh sáng khắp mười phương

Trong có vô số ức Hóa Phật.

Quán Đại Thế Chí:

Kế quán thân Bồ-tát Thế Chí

Bằng với Quán Âm không gì khác

Chỉ ở nhục kế trong bình báu

Có đầy ánh sáng hiện Phật sự.

Quán vãng sinh khắp:

Ngồi tưởng thân sinh cõi Cực lạc

Hoa sen khép mở, mình ngồi trong

Hoa nở thấy Phật đầy hư không

Nước chim, cây rừng nói kệ pháp.

Quán Tạp vãng sinh:

Lại tưởng Di-đà hai Bồ-tát

Thần thông biến hiện việc như trước

Quán tạp mà thành vô lượng phước

Chắc sinh An dưỡng hầu Phật-đà.

Quán Thượng phẩm thượng sinh:

Tâm từ không giết, giữ các giới

Đọc tụng kinh Đại thừa Phương đẳng

Tu hành sáu niệm nguyện hồi hướng

Khi chết Hóa Phật đều đến rước.

Thượng phẩm trung sinh:

Người không thọ trì kinh Phương Đẳng

Hiểu Đệ nhất nghĩa, rõ nhân quả

Đài vàng tía hiện lúc qua đời,

Tự thấy thân mình ngồi trên đài.

Thượng phẩm hạ sinh:

Tin sâu nhân quả, tu Đại thừa

Chỉ phát tâm Vô thượng Bồ-đề

Hồi hướng công đức nguyện vãng sinh

Sinh rồi sẽ trụ Hoan hỷ địa.

Trung phẩm thượng sinh:

Thọ trì năm giới, tán giới trai

Tu hành các giới nguyện hồi hướng

Chết rồi vãng sinh nghe pháp âm

Ngay đó liền chứng A-la-hán.

Trung phẩm trung sinh:

Nếu người dốc lòng một ngày đêm

Giữ giới trì trai không thiếu sót

Hồi hướng công đức nguyện vãng sinh

Bảy ngày hoa nở được thọ ký.

Trung phẩm hạ sinh:

Hiếu dưỡng cha mẹ, hành nhân nghĩa

Khi chết lại gặp tri thức tốt

Nói rộng nhân nguyện lớn Di-đà

Trong khoảng duỗi tay sinh nước ấy.

Hạ phẩm thượng sinh:

Nếu người tuy chẳng chê tôn kinh

Gây các nghiệp ác không hổ thẹn

Sắp chết được khuyên niệm Di-đà,

Vãng sinh mười kiếp chứng Sơ địa.

Hạ phẩm trung sinh:

Nếu có chúng sinh phạm các giới

Trộm cắp các vật của Tam bảo

Sắp chết được khuyên niệm Di-đà

Chỉ trong một niệm sinh nước ấy.

Hạ phẩm hạ sinh:

Gây năm tội nghịch, mười điều ác

Đáng đọa địa ngục, chịu các khổ.

Sắp chết được khuyên niệm Di-đà.

Chắc chắn siêu sinh về nước ấy.

8. Bài tụng về mười sáu pháp quán của Pháp Sư Tra Am Hữu Nghiêm

1- Quán mặt trời.

Mặt trời lặn hình chiếc trống treo

Ngồi kiết già xoay mặt hướng

Tây Thân tuy chưa đến trong ao hoa,

Trước đã đưa tâm về Cực lạc.

2- Quán nước.

Tưởng nước thành băng suốt đáy trong

Tiêu biểu lưu ly cột báu nâng

Sáng suốt rực rỡ trăm mặt trời

Đây gọi “nước tâm thiền” quán thành.

3- Quán đất.

Đất báu trong nghiêm khi mưa hoa

Cờ phướn lầu gác thích suy tư

Đất bằng huống là tâm ngàn pháp

Gá cảnh sáng tâm chẳng thể dời

4- Quán cây.

Cây báu lớp lớp tướng dựa cao

Trang nghiêm lưới châu giăng mấy lớp

Nếu hiểu rõ được cảnh do tâm

Tuy ở Tây phương đường chẳng xa.

5- Quán ao.

Tám đức lắng trong gọi ao đức

Đáy bằng cát vàng chiếu sáng trưng

Nước chảy lại nói kệ vô sinh

Nghe rồi đều quán tâm. Giữ niệm

6- Quán chung.

Cõi nước nghiêm báu bảy báu thành

Ở trong lầu gác nhạc trời trổi

Cây ngọc ao hoa gọi quán chung

Quán rõ diệt tội việc không nhỏ.

7- Quán tòa hoa.

Hoa sen tám mươi bốn ngàn cánh

Các mầu trang nghiêm vô số quang

Lấy hoa sen này làm tòa báu

Mở bày ngồi đợi pháp trung vương.

8- Quán Phật, Bồ-tát.

Quán chân thân Phật, tuệ chưa khai

Trước dạy quán tượng ngồi đài hoa

Phật, Bồ-tát thân đầy nước ấy

Phải rõ tượng kia từ đâu lại.

9- Quán Vô Lượng Thọ.

Phật kia vòi vọi thân cao quý

Sáng suốt chiếu khắp số như bụi

Chúng sinh được chiếu tâm quy Phật

Liền là người Tịnh độ Tây phương.

10. Quán Quán Thế Âm.

Bồ-tát tên là Quán Thế Âm

Tâm đại Bi trùm khắp mười phương

Ánh sáng vàng tím , sức oai thần

Biển thệ sâu, dắt dẫn chúng sinh.

11. Quán Đại Thế Chí.

Sức vô thượng gọi Đại Thế Chí

Sạch đẹp sáng gọi vô biên quang

Nếu người quán niệm Bồ-tát này

Chẳng ở bào thai đầy hôi hám.

12. Quán vãng sinh khắp.

Khi khắp quán thành liền có công

Tưởng thân về Tây rừng hoa đẹp

Hoa sen khép mở thấy rõ ràng Bồ-tát,

Như Lai đầy hư không.

13. Quán tạp tưởng.

Phật hiện oai quang thân lớn nhỏ

Quán Âm, Thế Chí ở hai bên

Nếu tu tạp quán được thành tựu

Đây lại gọi là nhân thanh tịnh.

14. Quán ba bậc thượng.

Bậc thượng có đưa ra ba phẩm,

Khi chết, các Phật phát ánh sáng

Đài hoa đón nước sinh An dưỡng

Biết là Viên tông thập tín tâm.

15. Quán ba bậc trung.

Bậc Trung chia làm năm hạng người

Ngoài tu giới phẩm trong tu chân

Chết rồi năm đường liền ra khỏi

Liền được thân vô lậu Tây phương.

16. Quán ba bậc hạ.

Phàm phu tuy gây rất nhiều nghiệp

Trời lặn bên ao luôn quán tưởng

Được gọi là người sinh Tịnh độ

Phải biết không dễ cũng chẳng khó.

9. Các bài tụng về mười sáu pháp quán của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

Linh Sơn chúng hội

Núi Kỳ-xà mất

Cung vua hiện ra

Việc xong trở về

A-nan kể lại.

Vi-đề hỏi pháp:

Nhốt ở cung sâu,

Phát khởi việc lớn

Chúng sinh ác trược

Đều khiến được ban

1- Quán mặt trời.

Trời lặn trống treo

Thoát đường sinh tử

Trong mười hai thời

Giữ niệm một chỗ.

2- Quán nước.

Nước lớn lắng trong

Đóng lại thành băng

Làm đất lưu ly

Trong ngoài trong suốt.

3- Quán đất.

Trên đất lưu ly

Các tướng trang nghiêm

Thấy rất rõ ràng

Trừ nghi phá chướng.

4- Quán cây.

Bảy lớp hàng cây

Lưới châu cung hoa

Giăng mắc rợp trời

Đẹp đẽ vô cùng.

5- Quán ao.

Nước ao tám đức

Sắc đẹp bảy báu

Sen nở chim hót

Rửa sạch phiền não.

6- Quán chung.

Nhạc trời trong lầu

Khen Phật Pháp Tăng,

Cây, đất, ao báu

Một niệm viên thành.

7- Quán tòa ngồi.

Tòa hoa sen lớn

Trang sức trăm báu

Đẹp đẽ khó lường

Nguyện lực Pháp tạng.

8- Quán tượng.

Mượn tượng ngưng chân

Thấy chân quên tượng

Ba Thánh sáng rõ

Vẫn gọi tưởng thô.

9- Quán Phật.

Quán Phật tướng tốt

Tông yếu một kinh

Tam-muội hiện tiền

Mới biết sâu mầu.

10- Quán Quán Âm.

Sáng đến năm đường

Mão có Phật đứng

Nghe tên được phước

Huống là quán kỹ.

11- Quán Thế Chí.Sáng chung các Phật

Cứu giúp các khổ

Bình đầu đầy sáng

Hiện khắp cõi Phật.

12- Quán khắp.

Kiết già trong sen

Hoa sen khép mở

Y, chánh trang nghiêm

Tất cả đều nhiếp.

13- Quán tạp.

Chót vót trên ao

Tượng một trượng sáu

Biến hiện lớn nhỏ

Rõ tướng vô định.

14- Thượng phẩm thượng sinh.

Ba tâm phát đủ,

Đế lý sáng sâu

Đài vàng theo về

Liền chứng vô sinh.

Thượng phẩm trung sinh.

Rõ các pháp không

Chẳng hề kinh động

Có nguyện liền sinh

Chẳng cần đọc tụng.

Thượng phẩm hạ sinh.

Chỉ phát tâm đạo

Chưa cùng lý mầu,

Đến đó mở sáng

Được ký Bồ-đề.

15- Trung phẩm thượng sinh.

Giữ lâu các giới

Vãng sinh như nguyện

Nghe nói khổ không

Chứng A-la-hán.

Trung phẩm trung sinh.

Một ngày một đêm

Giữ giới nguyện cầu

Hoa nở thấy Phật

Liền vào dòng Thánh.

Trung phẩm hạ sinh.

Hiếu nghĩa nhân từ

Tri thức khai ngộ

Gặp hai Bồ-tát

Nghe Pháp được độ.

16- Hạ phẩm thượng sinh.

Bình thường làm ác

Chết gặp thầy lành

Xưng một câu Phật

Sinh ao hoa sen.

Hạ phẩm trung sinh.

Phá giới nghiệp sâu

Lửa địa ngục hiện

Nghe pháp hồi tâm

Các Thánh rước đi.

Hạ phẩm hạ sinh.

Mười ác, năm nghịch

Khi chết khổ bức

Dạy xưng mười niệm

Hoa nở màu vàng.

10. Tụng: Khuyến hóa đường tắt tu hành của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh đô:

Dần dà da mồi tóc bạc

Lần hồi từng bước run run

Dẫu cho vàng ngọc đầy nhà

Ai khỏi suy tàn già bệnh

Mặc tình muôn ngàn vui sướng

Vô thường rốt sẽ đến nơi Chỉ có đường tắt tu hành Chỉ niệm A-di-đà Phật.

11. Bài tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Giác Tông Trách:

1. Ba cõi nóng phừng như đống lửa

Chẳng phải chỗ an thân đạo nhân

Hoa sen bạn lành đợi đã lâu

Hãy thu xếp thân tâm trở về.

2. Mắt tưởng tâm luôn giữ hình Thánh

Cần phải niệm niệm chớ sinh nghi

Năm nào Tịnh độ hoa sen nở

Nhớ mãi lúc niệm Phật Ta-bà.

3. Cực lạc chẳng lìa chân pháp giới

Di-đà tức là vua tâm mình

Lông trắng giữa mày không nơi chốn

Cột lồng đèn cũng phát sáng.

4. Gấp tu trai giới chớ dần dà

Ngàn Thánh đồng mở pháp niệm Phật

Một mai công thành về Tịnh độ

Trong sáng lông trắng hầu Từ Tôn.

12. Bài tụng nói về Tịnh độ Tây phương của Thiền sư Từ Giác Tông Trách:

Tây phương nhiều việc vui

Nhiều kiếp khó nói hết

Tuổi thọ thật vô tận

Ánh sáng không bờ mé

Gió đạo thổi tuệ duyên

Nước định mọc sen hồng.

Hải hội cùng hội họp

Hoa trời rơi chỗ ngồi

Hải chúng đều thanh tịnh

Đạo Bồ-đề dễ thành

Tâm tâm đều chánh niệm

Vật vật hợp Chân thừa

Đất tánh ngọc lưu ly

Viên âm các chim hót

Cần phải lên bờ Giác

Chớ để theo nghi thành

Chân đạp đất Vô ưu

Thân ở không chỗ nơi

Sáu thời chầu Thánh chưa

Buổi sáng đến phương khác

Điện báu tùy thân đi

Hoa trời khắp cõi thơm

Trở về lại nơi ở

Thiền duyệt vị nào hơn

Chớ nói Tây phương xa

Tây phương trước mắt ta

Nhưng cách hơn mười muôn

Không hề lìa ba ngàn

Vừa mở miệng niệm Phật

Ao sen hoa đã mọc

Tín tâm luôn không lùi

Quyết định lễ Phật-đà

Ao lắng nước công đức

Gió động tiếng đờn sáo

Lưới báu khắp khoảng không

Lầu đài sáng rừng báu

Sáu căn thường hợp đạo

Muôn cảnh chỉ do tâm

Không phải người khó đến

Do tín tâm chưa sâu

Hạnh nghiệp chia ba bậc

Hoa sen cùng một ao

Rõ ràng lên Cực lạc

Quyết định được La-hán

Chướng hết, mặt trời sáng

Khi tâm mở thấy Phật

Trong đó vui vô hạn

Chỉ đồng đạo mới biết

Cực lạc lý chân như

Di-đà trí tuệ quang

Khi mê chìm cõi này

Lúc ngộ về Tây phương

Rỗng sáng luân hồi dứt

Mênh mông tuổi thọ dài

Tín căn vừa một niệm

Tâm địa đã mát trong

Tin sâu rồi sẽ đến

Nghi nhiều không thể biết

Tâm tịnh nương một niệm

Công hạnh vượt tăng-kỳ

Liền vào vị A-duy

Lại ngang hàng Bổ xứ

Tiến tu thật mạnh mẽ

Chẳng cần đợi tu lâu

Người hỏi người tu thiền

Tông môn muôn việc quên

Thì siêu sinh Cực lạc,

Cần gì đến Tây phương

Chẳng nghe nhà Thiền nói

Tây phương là quê xưa

Mã Minh đã dạy kỹ

Long Thọ cũng ngợi khen

Chớ nói Ta-bà khổ

Khổ Ta-bà giết người

Tham, sân, si loạn ý

Da thịt máu thành thân

Hang oán tắng la-sát

Làng ấm nhập vô minh

Hãy mau sinh Cực lạc

Nẻo về chớ dần dà

Chớ nói Ta-bà khổ

Ta-bà khổ rất sâu

Tà ma luôn là bạn

Tật bệnh thường xâm hại

Thanh sắc đất yêu dâm

Tâm Thiền-na lạnh nhạt

Hãy mau sinh Cực lạc

Nẽo về chớ trầm ngâm

Chớ nói Ta-bà khổ

Khiến người khóc sụt sùi

Xoay vần trong ba tai

Bị lửa năm thống đốt

Cây hạc sáng bị che

Hội Long Hoa còn xa

Hãy mau sinh Cực lạc

Nẽo về chớ từ nan

Chớ nói Ta-bà khổ

Vi-đề bạch Thế Tôn

Gặp kiếp phiền não trược

Con gọi Vi Sinh Oán

Tâm Điều-đạt nào nghịch

Hận Bình-sa chớ bàn

Hãy mau sinh Cực lạc

Ác này không hề nghe.

13. Bài tụng nói về Tam-muội Quán Phật của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm:

Nếu người nguyện được sinh An dưỡng

Bậc trí khiến nên tu quán tưởng

Chân thân Di-đà thật khó quán

Người sơ tâm quán tượng vẽ khắc

Tưởng thành tướng khởi mắt tâm mở

Thân mầu vàng ròng như chỉ tay

Một niệm dứt ngang năm đường ác

Ai bảo không người khiến dễ đến?

14. Bài tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm.

1. Muôn người cùng chí niệm Di-đà

Các lực thành nhau nguyện lực nhiều

Hoa sen nở đích thân thấy Phật

Mới biết Tịnh độ hơn Ta-bà.

2. Cây rừng chim nước đều nói pháp

Lưới báu đài vàng đều đạo tràng

Hiểu được tiếng chuông và tiếng trống

Chỗ nào Di-đà cũng phóng quang.

3. Râu tóc dần dần điểm tuyết sương

Tâm vượn ý ngựa còn điên cuồng

Một ngày nhắm mắt trở về không

Mới biết Nê-lê tháng năm dài.

4. Nghiệp báo khác nhau việc bất đồng

Mệt nhọc cả đời không thoát lồng

Muốn biết tự tánh Di-đà Phật

Sớm chiều một niệm trong tâm ông.

5. Chúng sinh biển khổ nghiệp chìm sâu

Chẳng tin nhân duyên chìm đắm lâu

Nghe được âm thanh bèn niệm Phật

Mới hay vợ con tâm lão bà.

6. Chẳng phải sơn tăng nói đúng sai

Tu hành việc ma cần biết rõ

Ngay đây vứt hẳn đôi giày cỏ

Vượt thoát ao năm dục Ta-bà.

15. Bài tụng chỉ bày Hạnh Bà (và lời tựa) của Pháp sư Từ Biện Tùng Gián.

Hạnh Bà gặp sư, sư hỏi tu hành được bao lâu? Bà thưa tu hành đã nhiều năm. Sư hỏi từng thấy A-nan chưa? Bà thưa đã gặp nhiều Thiện tri thức. Sư hỏi, họ chỉ bày như thế nào? Bà thưa: Cắt đứt cội gốc, cũng chẳng xem kinh, cũng chẳng niệm Phật. Sư nói: Lầm rồi! Nhân đó nói Pháp. Bà tin phục, Bèn nói hai bài tụng rằng:

1. Cắt đứt cội gốc chẳng cần tu

Đến nay các lời ít nguyên do,

Phải nên nắm gốc thoát sinh tử

Niệm niệm Di-đà chớ cầu ngoài.

2. Niệm Phật xem kinh là đường đi

Phải tin từ xưa nước là băng

Chỉ hướng cội nguồn nghiên cứu sâu

Từng tiếng đề khởi cho rõ ràng.

16. Bài tụng khuyên tu Tịnh nghiệp của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

1. Nghe nói Tây phương rất dễ cầu

Muôn duyên từ đây buông bỏ hết.

Luân châu lớp lớp đều đầy đủ

Chỉ trước Di-đà xin cúi đầu.

2. Nghe giáo tham thiền tìm bên ngoài

Không hề quay đầu suy nghĩ lại.

Khi sắp qua đời, đường trước tối

Mới hay bình sinh dụng tâm lầm.

17. Bài tụng hóa đạo niệm Phật của Luật sư Thanh Chiếu Huệ Hanh:

1. Thích-ca như thật khen Tây phương

Y, chánh vượt xa ý đã bày

Tín nguyện trì danh không tưởng khác

Từng tiếng tâm trụ ánh sáng lông trắng.

2. Nhiều kiếp huân thành thân công đức

Vô biên quang, thọ lập tên tốt

Do đây các Phật đều khen ngợi

Vì sao chúng con chẳng cất tiếng.

3. Hồng danh bốn chữ miệng vàng nói

Công thành chỉ ở tâm ta bền

Pháp thần giản dị thật ít có,

Thoát rồi vui thay sen báu khắp nơi.

18. Bài tụng niệm Phật tâm yếu (và lời tựa) của Pháp sư Hoa Âm Đạo Nhân:

Đức Thích-ca Như Lai nói Phật A-di-đà là thân pháp giới. Ngài Thiên Thai Trí Giả lại nói: Thật tướng là thể. Dựa vào hai cách nói này xem là tâm yếu, thì mười muôn ức cõi như ở trong gương sáng. Nay làm bài tụng vụng về để ấn tâm. Kẻ tri âm nào đó có vui theo chăng?

Vô biên là biển cùng hư không

Biển, không toàn là cung hoa sen

Cung sen cùng khắp đầy biển, không

Biển, không riêng bày Phật Di-đà.

A-di-đà Phật chẳng sinh diệt

Khó tìm khó vớt trăng trong nước.

Dứt phi lìa cú thân như thế

Cảm thông như thế, nói như thế.

Ta và Di-đà vốn chẳng hai

Vọng giác ngầm sinh chợt thành khác

Từ nay quét sạch không có bụi

Cha con tự nhiên lại gặp nhau

Thệ tu ba phước hành sáu niệm

Nghiệp thân, miệng, ý không tỳ vết

Nay tôi do đó niệm Di-đà

Không thấy Di-đà không thỏa mãn.

19. Bài tụng khắc tượng thơm A-di-đà (và lời tựa) của Pháp sư Giải Không Khả Quan:

Ở Hồ tây thuộc Tứ Minh có Sùng giáo theo học với Phạm Cần Hành nhân. Vì nguyện xưa mà vào quán đường Diên Khánh hành trì sám Phổ Hiền, tụng kinh Pháp Hoa, trong mộng được xoa đầu mà không hay biết. Do đó hồi hướng Tây phương, thêm vững Tam-muội niệm Phật. Khắc gỗ Tử Đàn Hương làm tượng Phật A-di-đà như trăng trong nước, không bao giờ được. Bèn cầu Lão Trúc Am chứng minh cho, không lấy ra được cái gì, chỉ có cái đó.

Lông bạch ngọc trắng do tâm ta

Tướng sáng vàng tím là tánh ta.

Tướng sáng thảy đều không thật có

Ngay đó đều là định diệu thắng.

20. Bài tụng nói về Tịnh độ và bài Tụng nói về tạ thế của Pháp Cảnh giảng chủ Nhược Ngu:

Trong không ngàn hoa giăng lưới

Trong mộng bảy báu ao hoa Y

ên ổn đạp lên đất Tây phương

Liền không một chút nghi ngờ.

Vốn không có nhà biết về đâu

Bên mây một nẻo có ai hay

Trăng non Tây sắp lặn nơi khen sáng

Chính là lúc mộng đầu tiên dứt.

21. Khen ngợi Tây phương của Cư sĩ Huyễn Trụ Nhậm Bưu:

1. Ao sen bảy báu nước công đức

Sáu thời chim cùng nói Pháp âm

Ánh Từ xen chiếu không ma não

Tự tại bay đi chẳng tử sinh.

2. Lầu gác trang nghiêm, đường bằng vàng

Hoa sen thơm sạch ánh sáng báu

Tràng hoa chuỗi ngọc cùng gặp gỡ

Đều nói do nhân niệm Phật sinh.

22. Bài tụng khuyên tu Tịnh độ của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh:

Khổ thay, khổ thay, thật khổ thay

Rốt cuộc lồng vòng chẳng chịu về

Nhà trên cha lành luôn buồn nhớ

Muốn giao gia nghiệp đợi con về.

23. Bài tụng nói về Bạch Liên Tịnh Xã của quan Hữu Nhai Giám Nghĩa Tùng Chánh:

 Về đi thôi, hãy về đi thôi

Tây phương Tịnh độ sen trắng nở

Từng đợt gió thơm thổi chẳng động

Tiêu dao vui sướng đài vàng tím.

24. Bài kệ nói về Phật và ma khi tu tịnh nghiệp của Pháp sư Thọ An Lương Bật:

Di-đà lễ Di-đà

Bước bước dứt Ta-bà

Phật còn chẳng được

Phật Ma chỗ nào là ma.

25. Kệ khuyên tu Tịnh nghiệp của Xương Quốc Tể Vương Tồn Chi:

Việc đời như giấc mộng

Người đời ai trăm năm

Niệm niệm Di-đà Phật

Sen báu mọc trong ao.

26. Bài tụng khuyên người đời niệm Phật (mất tên tác giả).

1. Kiếp người phù sinh việc ra sao?

Như én mùa xuân làm tổ cao

Lăng xăng sóng động lo sinh sống

Chẳng bằng an phận niệm Di-đà.

2. Văn chương luận giỏi đậu khoa cao

Cửa tía lầu son ý khí cao

Quan cao ai khỏi vô thường đến

Không bằng phương tiện niệm Di-đà.

3. Múa giáo bắn cung khó ai qua

Ngựa giỏi phóng nhanh mau như thoi

Sức địch muôn người cũng già bệnh

Chi bằng luyện giỏi niệm Di-đà.

4. Giàu sang tiền của chẳng thoả mãn

Sáng tối tính đếm sợ lầm lẫn

Ưu phiền bất giác đầu bạc trắng

Chẳng bằng biết đủ niệm Di-đà.

5. Âm thanh trong trẻo tiếng ngâm ca

Một bài ca mới nhạc dịu hòa

Bỗng cất cao giọng Hành

Vân trụy Chi bằng tịnh khẩu niệm Di-đà.

6. Mày liễu mắt sáng tợ hằng nga

Vóc ngọc lại trang điểm lụa là

Đẹp đẽ chỉ khi còn trẻ tuổi

Không bằng mau sớm niệm Di-đà.

7. Lắm khoe địch quốc lắm trí mưu

Nhiều bận tranh hơn lắm cam go

Thì giờ một nửa đành bỏ mất

Chẳng bằng ngồi thẳng niệm Di-đà.

8. Buôn bán bươn chải lắm bôn ba

Đất khách xa xôi đâu chẳng qua

Sông hồ sóng gió đầy nguy hiểm

Chẳng bằng trở về niệm Di-đà.

9. Quen việc công tổn hại người khác

Khéo bày lời lẽ đám lâu la

Gia tài dần phá bị người oán

Không bằng dẹp việc niệm Di-đà.

10. Nghiệp giết thù hận chứa càng nhiều

Ăn nói sao đây gặp Diêm-la

Dạy anh một pháp siêu sinh nhé

Hãy nên sám hối niệm Di-đà.

Loại Thơ

1. Ca vịnh Tịnh độ.

(Trích trong luận Bảo Vương) của Tấn Khang Lạc Tạ Linh Vận:

Pháp Tạng trong cung vua

Mang đạo ra khỏi thành

Phát ra bốn mươi tám nguyện

Thệ lớn cứu chúng sinh

Tịnh độ cõi diệu nào

Đến đó đều anh hào

Lời suy đâu thể gởi

Nương hóa ắt sớm đi.

2. Thơ niệm Phật Tam-muội của Tấn Lang Da Vương Kiều Chi:

Diệu dụng tại đây

Có thấy hay không

Thần do muội suốt

Thức bởi chiếu thô

Chứa vi tự dẫn

Vì công vốn dối

Mất ba quán kia

Quên lông trắng đây

Yên lặng gì đầu

Bước trên huyền vi

Chứa quên thích hợp

Thông suốt linh sáng

Tâm đến cõi xa

Được cơ chẳng hành

Dùng đó làm xung

Biết là rất hiếm

Thần đọng trời ngưng

Viên chiếu mây sáng

Cùng hóa mà gồm

Cùng các vật này

Chẳng nên dùng phương

Người nhận phân biệt

Nháy mắt gương vực

Vàng nước bụi phấn,

Đã từ một sinh

Có tuệ thức xưa

Nương người sâu kín

Nhờ có sức ngầm

Nghĩ chuyển hào công

Sâu xa chẳng lường

Còn khởi niệm này

Chú tâm Tây phương.

(Trích ở Lô sơn Tập).

3. Thơ niệm Phật Tam-muội (và lời tựa) của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức:

Tựa rằng: Tam-muội niệm Phật là đạo mầu của bậc Thánh. Phàm khích lê dòng pháp đâu gì hơn đây. Sư tuệ Viễn Đời Tấn, hóa đạo ở Tầm dương, nhóm họp các bậc hiền người thừa hành đúng quy tắc nhất có Lang điện da Vương Kiều Chi, đến khi các bậc Hiền đều làm thơ về niệm Phật Tam-muội thì Tuệ viễn soạn lời tựa. Hoàng Tông Bính Thân, Sa-môn Tuân Thức hội các khách cao thượng ở Tứ minh hơn một trăm vị hai tháng giữa Đông, giữa Xuân thì một ngày một đêm hợp ở giảng đường Bảo Vân quán tưởng Vô lượng giác hạnh. Thời Hán ngụy suốt năm Nhâm Dần đã bị phá bỏ ở. Đông Sơn Bỗng nghĩ thành tựu việc cũ. Sự tích không kể ở đây. Bèn định các bậc Hiền đời Tấn làm thơ gởi đề khắc đá truyền lại đời sau.

Muôn cảm ngoài hình hài

Nghiễm nhiên nhà trống vắng

Lông trắng sáng nhiều mầu

Thần tối nhờ nối sáng.

Tượng đẹp chẳng vốn dự

Xem tục há thấy tốt

Chặt bỏ hội nhập vi

Dạo chơi tâm không vui

Đá vàng muội thấy chân

Chánh nghe ngu tám tiếng

Huyền không chẳng nương giá

Can thiệp đâu có gắng

Sum la hiểu đều vắng

Hư không tiêu khí độc

Lành thay đạt quán này,

Cục sĩ còn nói gì.

Bao dung mà khúc chiếu

Đẹp như bóng trong gương

Xem kỹ không khiển tâm

Luống cầu không trệ tưởng

Theo mộng quên thỉ chung

Thông kín rõ như đến

Nhờ đây gặp dáng Thần

Tiêu dao hẹn đến Tây

Soi hết huyền tưởng cô

Động tịnh như là khu

Đại tượng nào hình nghi

Đại phương gì rèm góc

Chánh thưởng chẳng ngầm gồm

Bước diệu không vòng vo

Tâm lắng biết khắp biển

Gạo tốt thân vàng ròng.

4. Từ biệt Lý bí thư ở chùa Thỉ hưng của Cư sĩ Thảo Đường Đỗ Tử Mỹ:

Chẳng thấy bí thư tâm như mất

Thấy bí thư rồi liền mất tâm

Sao vì động chủ lý tin rõ,

Ta là độc giác thần sung thật

Lại nghe kinh Quán nói Tây phương

Thân già chùa cũ gió vi vu

Vợ con đợi gạo lại ra đi

Ngày nọ gậy lê đến nghe pháp.

5. Ngồi bên bờ nước ở chùa Đông lâm của Cư sĩ Hương Sơn Bạch Cư Dị:

Xưa là khách trong thành Đông dịch Nay làm người ở xã Tây phương. Tay nhành dương chi ngồi bên nước Nhớ nghĩ việc qua như thân trước.

6. Điếu Đại Sư Thiên Trúc Bảo Nguyệt của Cư Sĩ Đông Pha Tô Thức:

Sinh tử cũng như duỗi cánh tay

Tình chung ta nhắp một chua cay

Lạc thiên chẳng phải Bồng Lai khách

Nương nhờ Tây phương làm chủ nhân.

7. Đêm trừ tịch (2) của Cư sĩ Hậu Sơn Trần Vô Dĩ:

Bảy mươi đã hơn nữa

Việc làm được bao nhiêu

Mới hay tối gấp đến

Liền biết nhiều đời sau

Lánh đời nhiều phiền lụy

Nhiều năm phải làm ma Về Tây nên dấn bước

Chẳng sống mãi Ta-bà.

Cư sĩ Hậu Sơn lại có ba bài thơ cũng có chí Tây phương. Nay tóm tắt một vài câu. Như bài gởi Tham Liêu thì nói: Bình sinh nguyện Tây phương, duyên với việc lấy bỏ, chỉ theo người ngoài đời, từ đâu mà quên năm. Bài gởi Lý học sĩ: “Vừa tìm đến cõi Đông, luận việc này có nhờ, Tây phương làm xe sau”: Bài giả biệt Thiền sư Viên Chứng nói: Bình sinh theo Tây phương, đến già còn mê nhân gian là có ý gì? Năm nào Phật gặp Đầu-đà biết đó là Lão cư sĩ năm ấy. Cư sĩ Hậu sơn là người làm thơ cận đại nổi tiếng nhất chuyên chú với Lạc bang. Như thế thì những kẻ phong tao đâu thể chỉ vì một chữ mà kéo hết mấy cộng râu mép ư?

8. Việc tốt ở Tiền Đường, gởi người đứng đầu Giang Ninh Mã Thị Lang của Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức:

Vãng tuế Tiền Đường việc tốt thay

Trong đó An dưỡng rất chí thành

Ao tâm sen nở như còn mãi

Nên hành Tây phương Phật ở trên.

9. Đoan Trúc Ngộ Lão trồng sen của Vô Vi Tử Dương Kiệt:

Nghe nói Đông Lâm rừng suối đẹp

Hội xã xinh tươi nối trăm năm

Lệnh vật gì bằng trúc họ Thôi

Ao vuông trồng mới sen Tuệ Viễn

Hoa nghiêm mau tịnh tam thiên giới,

Non Lô lại cảm mười tám hiền

Đáng cười Đào Tiềm lại trở về

Bạch Vân chim hót bạn về vườn.

10. Lô sơn Bạch Liên xã của Sa-môn Ngự Khê Hoài Ngộ:

Nhà Tấn lăng trì vua chép bày

Người tài dấu cũ bóng khuông sơn

Lâu phiền Đại Sĩ còn sáng mãi

Mười bảy cao hiền chọn ghế ngồi

Tài cao ai bảo rồng trong chữ

Phản sử người kia nghĩ Tạ Công

Khói bay sương giọt ao ngọc vắng

Bóng sen nay tuyết gió thu lay.

11. Tặng Di-đà Đạo giả (tức Dụ Di-đà) của Trực Bí Các Hoàng Cáo:

Tịnh Công ngày nọ gọi lương y

Nhất ngộ chân không liền hết nghi

Hiếu hạnh không nên quên cha mẹ

Tín tâm không còn nhớ vợ con

Lộc môn so Bàng Cư sĩ

Liên xã may gặp Pháp sư Viễn.

Lại thành quán Tây phương thanh tịnh

Bạch hào luôn hiện năm Tu-di.

12. Thơ cận thể về mười sáu pháp quán của Sa-môn Xung Mặc:

1- Quán mặt trời.

Năm nay hương lửa tấc lòng sáng

Định vượt đường xa xôi mười muôn

Thường hướng về nơi mặt trời lặn

Ngưng tâm quán tưởng công phu thành

Linh đơn đâu riêng trị các khổ

Xương huyễn hãy nên hẹn năm thanh

Núi non trước mắt nào nước cũ

Trở về An dưỡng là thần kinh.

2- Quán nước.

Nước lớn ngưng băng không bến bờ

Sáng trưng trong suốt khắp sông hồ

Trên không chẳng biết trời đất lớn

Ngoài tâm vốn không có mây mù

Tự hận đời này vào đạo muộn

Nhân vì các vọng lạc không tà

Giữa rừng chẳng bỏ quán cây chuối

Chỉ đợi thuyền sen mau đến nhà.

3- Quán đất.

Chỗ dung tâm hết chẳng đất đai

Đường nhỏ làm sao có đất to

Nhạc trời đầy không vang kinh Phạm

Phướn vàng rủ đất ánh lưu ly

Không hề mắc mưu thần rỗng sáng

Chẳng sợ trôi nổi gấp bóng dời

Thử xem núi biển luôn còn mãi

Đâu bằng phút chốc về Liên Trì.

4- Quán cây.

Chớ dùng danh ngôn tìm ở ngoài

Biết cảnh giới trời rất cao sâu

Lớp lớp châu báu không vật khác

Mỗi tia sáng châu từ tâm ra

Vượt thoát chưa thành do thiếu tụng

Chứa công chẳng hề chán xỏ kim

Bạn vô sinh xã nên mời gọi

Cùng ta đồng tham ngộ tức thì.

5- Quán ao.

Nước chảy tám đức lạnh ngưng thần

Sen phát các sáng khiến lóa mắt

Trong hoa gương sóng truyền tuyệt âm

Chim bên bờ báu bóng theo hình

Nhiều năm dấu sóng quên việc về

Ngày nay nhớ lại định ở ao

Nghỉ chút giường kia như mộng tưởng

Giác rồi tâm địa riêng hân hoan.

6- Quán chung.

Trời dục giàu vui mấy từng cao

So cát sông Hằng chẳng là nhiều

Các tiên ẩn khuất vui lầu các

Tuyên dương Tam bảo thổi sinh tiêu

Chẳng có cảnh nào chẳng phàm tưởng

Trong ánh giải thoát chưa tự tại

Nhìn chung ân cần sư tử rống

Dã can sợ hãi phá tà yêu.

7- Tòa hoa.

Khắp biết nguyện xưa nhiều gò đồi

Đất bằng mọc sen hợp tự nhiên

Tòa báu vòi vọi khó sánh ví,

Cờ báu vượt cao vừa tròn vuông

Tưởng thành pháp pháp không dấu vết

Tận mắt trần trần vốn hư không

Kỵ nhất mảy may lạc lưới ma

Ngay đây dứt hết việc đời này.

8- Quán tượng.

Chân cảnh rất cao mắt phàm tối

Trước bày tượng quán nêu thường dung

Phải biết tướng tốt từ đâu khởi

Chỉ thẳng nguồn tâm có nẻo đường

Tướng vàng sáng rực như trời lên

Ánh sáng lông trắng mềm như nhung

Lại chúng sinh, Phật trong gang tấc

Bỗng phá bụi tối nghìn muôn lớp.

9- Chân thân.

Tám muôn tôn sùng toàn thể hiện

Ánh sáng luôn chiếu cõi như bụi

Sinh tử nhiều kiếp khó gặp gỡ

Thức ngủ chí thành vẫn không quên

Thề nguyện đục núi làm thắng nghiệp

Làm đồng hồ nước theo ánh dương

Phong lưu Liên xã nay ngàn năm

Cũng còn tiếng tăm thơm rất thơm.

10- Quán Âm.

Ba mươi sáu lớp đầy cảm ứng

Vớt hết chúng sinh thoát nổi trôi

Mũ trời hóa Phật lưu dấu vết

Sa giới tùy cơ nói tiếng mầu

Anh lạc đầy thân trăng lấp lánh

Cành dương trong tay bày vàng ròng

Đời ta nhiều bệnh thường quy ngưỡng

Chuột uống nước biển chẳng biết sâu.

11- Thế Chí.

Mão có bình vàng hoa trăm ức

Ni-mi báu lạ ánh xa cừ

Trong ánh có cõi nghiêm thân tướng

Gió động vạt áo ngọc leng keng

Niệm Phật viên thông công trước có

Nhiếp sinh phương tiện nghiệp trước bỏ

Chân Từ sáng sạch không bờ mé,

Cả ngày thần quang che lều tranh.

12- Quán khắp.

Quán Thánh vừa dung vọng hoặc nhẹ

Trong khoảng chớp mắt đến bờ hoa

Chín đài sen ẩn vượt phàm thế

Trăm tia sáng báu chiếu huyễn thân

Chim hót cây khua vang nhạc trời,

Ao vàng sóng động hợp lời kinh

Biết bao nhiêu kiếp linh đinh khổ

Rửa tai sáng nay thử lắng nghe.

13. Tạp quán.

Sáu mươi muôn ức cao vòi vọi

Dằng dặc phàm phu thấy gì đâu

Ao báu thường tưởng là thô tướng

Trần sát hình kia dáng lạ lùng

Lời Thánh nêu bày khó bàn luận

Thân Phật hơn kém nên biết trước

Tư lương ngày ngày tưởng Tây phương

Dè dặt chớ sinh tâm nghi lớn.

14- Ba phẩm Thượng.

Thoát được rừng gai chứng thượng phẩm ,

Hoa Phân-đà-lợi nở trong lửa

Thiền kia vắng lặng đã không sóng

Gương tâm vốn sáng chẳng bụi trần

Bỏ đây liền thành vô thượng nhẫn

Mới dạo tranh nhau vượt quần tài

Các Thánh đầy không hoa sen nở,

Đặc biệt là đài mầu Kim cương.

15- Ba phẩm Trung.

Tiểu giáo đâu thể tu Tịnh nghiệp

Hồi tâm về đại mới nên biết

Do kính các giới không tỳ vết

Quả chứng tam minh dứt vọng si

Tai nghe Pháp xuất gia lìa khổ

Tâm giữ vô ngã là nền chắc

Co duỗi cánh tay ra ba cõi

Một đóa sen kia mọc ao báu.

16- Ba phẩm Hạ.

Bọn ngu làm ác đã thành quen.

Từ xưa nào biết dấu trắng đen

Đến khi sắp chết nghiệp ác hiện

Mới hay rắn dữ bốn con tranh

Nếu không sức thiện từ xưa có

Đâu có công phu xưng danh mạnh

Bỗng biết gió mát thổi lửa nghiệp

Trong ánh lông trắng có mặt Phật

Lô sơn Liên xã của Giám bạ Dụ Lương Năng

Tuệ Viễn kết xã chuyên thanh tu

Sáng mãi sấm tông cùng tuấn du

Ngàn xưa không khác tên tuổi cũ

Sen trắng rơi rụng chẳng hơn thu

Đời trước ta là thân Tỳ-kheo

Nơi nơi núi mây có nhân xưa

Ngày nào trần duyên đều sạch hẳn

Vì người trong xã lo lửa hương.

4. Thứ vận Liên xã của Thích Hạt Lưu Thuần Tẩu:

Mua rượu để khích Đào Uyên đến

Đóng cửa chẳng thả Tạ công ra

Phong lưu xưa nay không người hiểu

Nhàn ngắm sen kia mấy độ thu.

5. Mười tám bậc Hiền của Lô sơn, của Đông Khê Thích Tổ Khả:

Chẳng thể phò nhà Tấn đảo điện

Bèn làm người Liên xã Tây phương

Há ý một thời việc ít có

Lại khiến Nguyên Lượng giữa hai mày.

6. Thơ nhớ An dưỡng quê xưa của Pháp Sư Tra Am Hữu Nghiêm:

Tôi xem An dưỡng là cố hương bởi ngay nơi tâm này là Tịnh độ, tuy nghĩ về đã lâu nhưng dời bước thật đáng buồn thay.

Nhân làm thơ này, xin người đọc chớ nên chê trách là lấy bỏ.

1. Người rõ thân tâm chẳng gần xa

Tuy rằng bốn biển đều là nhà

Sao bằng quê cũ dạo cây ngọc

Huống được thông thương với xe báu

Tính ra nhiều năm chẳng trở về

Luận việc phàm tình không bến bờ

Không phiền cha mẹ tựa cửa đợi

Đợi gá thai vào chín phẩm sen.

2. Mấy năm vạt áo lấm bụi trần

Chí khí cao xa khó tự bày

Nam nhạn mấy tiếng mộng quê dứt

Chiều đông gió thu lệ đầm đìa

Đây lại nếu chẳng nhớ trở về

Sau này cùng ai kết bạn lành

Xin xem bên đường chôn xương mục

Trong ấy phần nhiều người chưa về.

3. Tây phương chân tịnh vốn nhà ta

Nay nhớ đường về mười muôn xa.

Nẻo khách linh đinh đều đã khốn

Phong trần cô khổ rất thở than

Bảy lớp hàng cây ngàn muôn nhạc

Nước ao tám đức bốn màu hoa

Chớ lạ gần đây mộng quê cũ

Làm sao vinh nhục việc không bờ.

4. Vô ý mà nay tóc như tuyết

Nhớ nhung mang nặng ánh trăng Tây

Trong mơ bỗng nghĩ chim về tổ

Gian ngoài bỗng sợ lá thu bay

Một thỏi hương trầm một tiếng khánh

Trông xa bỗng lệ vội vàng rơi.

Pháp sư Tra Am chuyên tu Tịnh nghiệp, tâm tha thiết kính mến thấy rõ ở thơ, há ý: “Mà nay tóc như tuyết, nhớ nhung mang nặng ánh trăng Tây.” Nếu chẳng phải là người biết sự nhiệm mầu thì đâu thấy được như thế. Song thơ này rất nhiều ở đây không chép hết. Riêng Bảo Phước Tuân Sư có. Đoản Cảnh chỉ than rằng: Cá ít nước mà đường dài, sợ voi không có móc. Lại khiến người nói cho sướng miệng mà Thảo Am Lục đã ghi lầm.

7. Thơ nhớ Tây phương của Pháp sư Bắc Sơn Khả Mân:

1. Góc trời nhà hướng mặt trời lặn

Ở giữa hàng cây cách khói mây

Tuy đến được chỉ trong chốc lát

Nhưng ba tăng-kỳ vẫn chẳng đến

Lưới châu bảy báu sáng mấy lớp

Hoa sen bốn mầu sắc xinh tươi

Lúc về bạn lành đều ra đón

Han hỏi cách xa đã mấy năm.

2. Chỉ luôn ưa chán mãi hành trì

Bổn tánh duy tâm há chẳng hay

Ba cõi rối bời tình nhiễm nặng

Bốn loài trôi dạt sức gầy mòn

Lồng lộng trăng kia vừa mới mọc

Vàng võ mặt trời khi sắp lặn

Mặt vàng lão thân luôn nhờ cậy

Mau sửa soạn xe mà trở về.

3. Đã biết từ xưa có lỗi gì

Đóng chặt cửa sài nhìn trời lặn

Ngọn trúc nhẹ lay trăng mới mọc

Rèm tre cuốn nửa mây xưa về

Núi rừng khí vị đầy hoài bão

Khói hương tòng bách thấm áo gai

Bồ đoàn trên đá luôn tĩnh tọa

Tấc lòng luôn gởi ráng chiều bay.

4. Tây chỉ hướng Tây lại hướng Tây

Hướng Tây về Tây có chiêu đề

Hoa sen tươi nở sáng không đêm

Đất trải lưu ly ngọc sạch bùn

Gió động Pháp âm rao tám vịnh

Ao tuôn nước đức hơn song khê

Qua đời sẽ được siêu sinh nhé

Chín phẩm sen vàng bước thẳng lên.

Lại hai bài thơ năm chữ:

5. Ta-bà cõi kham nhẫn

Trẻ nhỏ thích dạo chơi

Gởi tưởng về trời lặn

Thương tâm đã bạc đầu

Sen xinh tươi ngàn đóa

Vằng vặc một vầng trăng

Chưa biết ngày nào đến

Khoảnh khắc ở lầu quỳnh,

Rễ cành đều dứt đoạn

Ngàn hoa ai sánh bằng

Nở bày dưới chân Phật

Kỳ diệu vào kinh đề

Lá non trên nước vàng

Rễ linh ngọc dưới đáy

Thề hẹn ngày hết duyên, Bước bước đi về Tây.

7. Gác Giác Hải Di-đà ở Hồ châu của Từ Bộ Trương Cảnh Tu:

Đầm tiên bể giác đường hưng thiện

Tượng bày ngọc quý từ xưa nay

Cột điện nghiêng sách sấm rền lửa

Vượt cầu kia tượng gỗ Quán Âm

Trước song bóng trúc lay chim vàng

Gió thổi hương sen chìm đáy nước Huống có gác Di-đà mới lập

Động tâm người vãng sinh vô hạn.

8. Tây Quy Hiên của Thiền sư La Nguyệt Đàm Oánh:

Anh nói lạc quốc là nhà ta

Tự cười khách phiêu linh đường xa

Một điểm quy tâm mặt trời treo

Trăm năm việc huyễn gởi hoa đốm

Trống kia chẳng đánh kinh rèm cuốn

Mũi kia luôn thông, triện bị tà

Tướng chánh niệm thành không vật ngoài

Trước song hàng cây càng thêm xanh.

9. Thơ nhớ Phật làm bên mái hiên (và lời tựa) của Thủ tọa Tuyết Khê Hy Nhan:

Từ xưa có câu: đời người trăm năm được bảy mươi tuổi là ít có. Tôi mười sáu tuổi xuất gia làm Tăng đến nay được bảy mươi tuổi ở đời chưa phải lâu. Sớm chiều luôn tụng kinh niệm Phật chỉ hận là chưa thật chuyên chú. Bèn mở kinh Thủ-lăng-nghiêm ở chương Thế Chí có câu: “Nếu người nhớ Phật, niệm Phật, thì hiện tiền tương lai chắc chắn thấy P, sai viết bài “Nhớ Phật” dán ở mái hiên nhỏ, ngõ hầu lâm chung thấy hình dáng của Phật mà thôi. Lại làm bài kệ để một bên. Kệ rằng:

1. Nhiều năm trốn chạy tóc như tơ

Nhớ Phật khó quên mười hai thời

Ủ dột tự than là đãng tử

Mấy phen hoa nở cành bên đường.

2. Tự thương nhớ Phật ngày càng sâu

Trừ Phật không ai hiểu lòng ta

Đường nào muôn kim mà làm khách

Chẳng bằng cơm rau ở nhà ta.

3. Lặn hụp theo sóng nhanh vun vút

Chỉ chốc lát đã bảy mươi năm

Há chẳng hướng về mà nhớ Phật

Sắp già đi rồi thêm gắng công

Quét sạch ý địa cho vắng lặng

Rồi đốt tâm hoa rực sáng người

Quyết định thân này như đã thấy

Sạch bụi, lột xác cười ha ha.

4. Có bạn tuổi già lại đến tìm

Chỉ là chăm chăm nhớ tâm Phật

Mấy nén hương xuân giờ đã lạnh

Một khám đèn đêm chiếu qua song

Khoảnh ruộng mưa thưa hương thấm đượm

Gió luồn khe sâu phát tiếng mầu

Tự hận không về đành tự bỏ

Đã về đâu cần hơn người ngâm.

5. Kèo cột đã cũ chịu an bần

Chỗ tốt không bằng nhớ Phật chân

Muôn việc rõ biết còn rơi nồi

Trăm năm chỉ đây mà nghỉ ngơi

Sườn núi đêm lặng trải bồ-đoàn

Dưới thông một mình bưng chén xuân

Đóng cửa chẳng quên thường nhớ

Phật Nguyện thường như thế bóng theo hình.

6. Ngày thường rừng thông thấy Tổ sư

Lại như nhớ Phật vào lúc này

Chỉ hay ở yên trong hang sâu

Bụng chẳng đeo theo mãy may nào

Đường tắt hoa rơi nổi khe nước

Song cửa nắng xế dưới cành thông

Vắng yên chân cảnh nào ai biết

Chỉ Phật thường hay vào mộng tưởng.

7. Sớm tìm Hán sử học làm văn

Tự nhủ còn sóng luôn học rộng

Bỏ mất thời gian theo nước chảy

Suy tư rốt lại chỉ mây trôi

Trong nhàn tự biết sống ẩn thân

Chỗ tốt ai hay siêng nhớ Phật

Ngầm bỏ uống ăn nay ở đây

Cỏ xanh ba thước chỉ mồ hoang.

8. Tôi muốn đời này thấy Phật đến

Phật nay đối tôi đâu luống dối

Chỉ giữ nhất niệm tâm không mỏi

Chẳng chờ tam kỳ mà mắt mở

Yến tía oanh vàng hót ý mầu

Khe xanh đá trắng bày đài báu

Nên biết hiện ra đường về nhà

Đường nào không người vì xoay lại.

9. Danh lợi dây lông cắt oán cừu

Vườn sơn tự so với loài sên

Phù sinh rốt lại chỗ vô song

Nhớ Phật phải biết liêu lạc nhất

Mẹ con có thể ở cùng nhà

Gió bụi đâu cần đến phương xa

Đường trước chớ hỏi, nay bắt đầu

Trang giấy, trải bồ đoàn ngồi yên.

10. Đọc truyện vãng sinh có xúc cảm của Pháp sư Vân Am Liễu Hồng:

Sách ghi Phi Sơn

Phương Kim ở Tây

Hiền xưa trở về

Sao chẳng nghĩ bằng

Tóc bạc dễ già

Lữ khách không nhà

Ý chí trở về

Nương đây chỉ mê.

11. Thơ vịnh sử Tịnh độ của Cư sĩ Tây Hồ Lý Tế:

Cư sĩ đạo hiệu là Tây Quy tử, vốn là người ở Vũ Lâm, cư ngụ ở Đài Khê. Tiên tổ bốn đời thi đỗ, ăn ở thanh bạch. Hiểu rõ giáo pháp Tịnh độ. Thường làm các bài vịnh về sử và thơ khen ngợi các bậc thượng thiện Tịnh độ có hơn năm trăm bài. Bởi người ở Tịnh độ đúng lý mà tu thì đều nối hạnh nghiệp. Nêu sự tích ở bài dù thiện nhỏ cũng không bỏ sót, gọi là người vui đạo. Văn lưu truyền ở đời, này tóm tắt ghi lại, về Thánh sư có hai mươi lăm bài để giúp người thấy nghe.

1- Nối Phật hóa duyên.

Như Lai hiện uế cõi Ta-bà

Chiết nhiếp cang cường, phương tiện nhiều

Cắt ngang sông ái không pháp khác

Chỉ dạy chuyên chí niệm Di-đà

Vô biên cõi nước đều thanh Tịnh

Chỉ Phật Di-đà biển nguyện sâu

Mười niệm công thành được dắt dẫn

Chính như điểm sắt hóa vàng ròng.

2- Thuật nói tác ý.

Xưa qua nay lại đã nhiều kiếp

Hai vầng nhật, nguyệt gấp như thoi

Tuần hoàn sáu đường không ngơi nghỉ

Chẳng biết Tây quy thì thế nào

Xưa nay anh hùng chỉ một huyệt

Hiền xưa còn có tâm phải quấy

Nay ta kính đọc truyện vãng sinh Bắt chước Chu Đàm làm sử thi.

3- Bồ-tát Văn-thù.

Cúi lạy Mạn-thù Đại Thánh sư

Bàn sâu niệm Phật dắt các cơ Bèn khiến pháp chiếu truyền giáo này Năm hội trong cung đạo càng sáng.

4- Bồ-tát Phổ Hiền.

Khắp dạy mọi người mười nguyện vương

Chỉ quy An dưỡng lý sáng trưng

Xưa nay từ giác Liên Hoa xã

Thường dùng hồng danh khuyên mọi người.

5- Bồ-tát Phổ Tuệ.

Trong hội Vi Giang hộp các hiền

Đại sĩ anh em đều tham dự

Cốt để tuyên dương chân Phật hóa,

Chỉ ứng bi nguyện rộng vô biên.

6- Bồ-tát Thiên Thân.

Duy Thức Luận sư có nói kệ

Di-đà lạc quốc nguyện vãng sinh

Chỉ do quả báo không các khổ

Các Thánh về tông hành hóa đạo.

7. Bồ-tát Mã Minh.

Soạn luận thông tông trăm lạc-xoa

Dẹp tà bày chánh nhiếp các ma

Dạy người chẳng lui có thuật lạ

Chỉ dạy chuyên tâm niệm Phật-đà.

8- Bồ-tát Long Thọ.

Khuông phò tượng vận làm huân dung

Nói kệ Bà-sa trong Đại luận

Nguyện cùng chúng sinh sinh nước ấy

Khắp khiến phàm phu thoát buộc ràng.

9- Bồ-tát Ngũ Thông.

Người Ta-bà chưa biết Di-đà

Lên thẳng Tây phương mà thỉnh cầu

Phật và Bồ-tát đồng thời hiện

Bèn đem lá báu khắp vẽ hình.

12. Pháp sư Lô sơn Tuệ Viễn.Liên xã bày ra dẫn người sau

Hợp với đạo tục cùng quy ngưỡng

Mười năm ba lần thấy Phật hiện

Chắc chắn đài vàng sinh thượng thượng.

13. Đại Thiền sư Nam Nhạc Tuệ TưMộng thấy Di-đà nói pháp nghe,

Không trung tượng báu hiển thần linh

Thiên đồng hầu hạ bình thường đầy B

ỏ thức thân được Thánh chúng rước.

14. Đại sư Thiên Thai Trí Giả.

Xưa cùng Nam Nhạc thấy ánh sáng,

Vừa tụng Pháp Hoa ngộ Dược Vương

Luận giải mười nghi truyền vạn đại

Đọc kinh huống lại bày Tây phương.

15. Pháp sư Bích Cốc Thần Loan

Lưu-chi chỉ thẳng Phật sống lâu

Đốt bỏ đào tiên mười quyển kinh

Long Thọ hiện hình căn dặn kỹ

Khi mất đều nghe tiếng đờn sáo.

16. Hòa thượng Thiện Đạo ở kinh đô.

Vẽ ba trăm bích hoạ Tịnh độ

Viết mười vạn quyển kinh Di-đà

Sang hèn chẳng luận đều khuyên dạy

Lại lên cây liễu mà cầu sinh.

17. Pháp sư Tân Định Thiếu Khang

Sách Lạc Dương nhiều lần phóng quang

Hành hóa Tân Định ở phương xa

Mở miệng niệm Phật, Phật bay ra

Lại được trẻ con ủng hộ theo.

18. Thiền sư Ngũ Đài Pháp Chiếu.

Thường thấy ba Thánh hiện hư không

Tạ ân Văn-thù chỉ bày công

Cảm được thần tăng đến dự báo

Ba năm ông sẽ sinh hoa báu.

19. Thiền sư Vĩnh Minh Trí giác.

Bảy lần rút nhằm thăm Tịnh độ

Suốt đời chẳng bỏ việc tinh tu

Thần nương An dưỡng nhân thành phú

Lại được từ dung treo địa ngục.

20. Pháp sư Lô Sơn Trung Dung

Thông kinh mười sớ luận nghiêng sông

Tuyệt bút Di-đà tịnh nghiệp thành

Hủ gốm trong mộ thân huyễn chất

Chiếu sáng rực rỡ quyết sinh Tây.

21. Pháp sư Tứ Minh Pháp Trí

Mười tăng cùng hẹn sám ba năm

Sám xong thiêu thân nguyện vãng sinh

Tuy rằng, Từ Vân thỉnh trụ thế,

Rốt tu Tam-muội để về Tây.

22. Thiên Trúc Từ Vân sám chủ.

Ban-chu Tam-muội chín tuần tu

Đại, tiểu Di-đà sám để lại

Sao rụng hương tan chợt về

Tây Khoảng không ngàn năm trọng đạo tốt.

23. Thiền sư Trường Lô Từ giác.

Phát minh năm hoặc soạn cao văn

Cần khiến người mê biết tịnh nhân

Cảm được Phổ Hiền và Phổ Tuệ

Hoa sen bạn tốt về Tây nhanh.

24. Luật sư Linh Chi Đại Trí.

Đạo nối Nam Sơn mở Luật tông

Chí lớn lạc độ quyết về Tây

Lâm chung kiết già nói kệ, hóa

Trên hồ đều nghe tiếng nhạc trời.

25. Pháp sư Nam Chiêu Khánh Thường.

Khách Xã Tây Hồ ngàn người họp

Sáng cả Lô sơn ai sánh tày

Phải biết việc đặc biệt năm ấy

Xin xem bia khắc đều bậc Hiền.

Họa bài Quy khứ lai hề của Đào Uyên Minh, của quan Cấp sự Phùng Cơ. Quan Cấp sự ở đất Thục, người Ninh phủ, đạo hiệu là Bất Động cư sĩ. Thuở nhỏ đã nổi tiếng, đỗ đầu đại học, soạn các bài văn trường ốc. Phần nhiều dùng lời trong kinh Viên Giác, minh ngộ lý tánh, các sĩ luận khâm phục. Lại tham vấn khắp các thiền lâm, thấu suốt tông phái năm nhà. Về già dốc Tu-di-đà giáo, sớm tối chẳng ngủ, chuyên ý Tịnh nghiệp. Ông có làm lễ Tây phương ba quyển, Di-đà Sám một tập. Ở Hương quận có lập hội Tịnh độ, cảm được Xá-lợi trong lò hương ứng hiện hào quang khắp trời từng lấy bổng lộc giúp tạo Đại Tạng kinh và bốn Đại bộ Tạng mỗi thứ đều có bốn mươi tám phần để cúng thí các chùa biểu thị cho thệ nguyện Phật. Một hôm, cảm hoài bèn họa bài Quy Khứ Lai của Uyên Minh để nói về pháp môn Tịnh độ. Lời từ rằng: Về đi thôi! Liên xã đã mở, sao không về. Nhớ ta năm nào đã già yếu, huống là thế thái rất đáng buồn! Buồn nghĩ di tích Đông Lâm, nhớ các Tiên Hiền. Hướng về đời này mà sám hối. Sáu mươi năm trước chẳng như đàn mới rửa, giặt mũ mặc áo mới, rửa sạch trần cấu để được thanh tịnh, tạo đạo mầu để thoát ly. Ngắm kỹ đường trước mà quy tâm. Hãy mau vào nhà từ bi, lên cửa giải thoát. Muôn cảnh đều vắng, nhất chân riêng còn. Lò hương đầy rót đầy chén nước sạch. Hướng về Tây phương tu quán, cầu mong mau thấy từ nhan, vào Tam-muội niệm Phật, biết thân tâm nhẹ nhàng. Sinh về phẩm thượng của chín sen, mở cửa tối, vượt sáu đường. Hội tinh thần ở chánh thọ, đóng tai mắt không nhìn bất chánh. Đợi báo thân này mất chỉ Cực lạc mà về nhanh, quanh cây báu mà kinh hành, dạo vườn hoa mà trở về. Về đi thôi, chỉ Tịnh độ mới nên đến, nghĩ Diêm-phù vẩn đục. Bỏ cõi này mà cầu chi. Mừng được sống lâu vô lượng, không hề khổ vì bào thai. Cùng các bậc thượng thiện gặp gỡ, cùng Bổ xứ làm bạn thân. Ao kia đủ bảy báu, vàng ròng làm thuyền. Đất lưu ly bằng phẳng, không gò hầm cao thấp. Âm nhạc gió lay cây, tiếng Phật dòng nước chảy. Người nghe vui cảm, niệm Phật Pháp Tăng, trần duyên tự dứt hết.

Ôi đời người như mộng, nào có bao lâu. Sao vì bả danh lợi mà lưu lại báo này. Hãy xem hết phù thế đều là huyễn cảnh. Còn cõi Cực lạc kia mới thật đẹp. Sen trồng trong ao, luôn niệm Phật để nuôi lớn. Mong khi qua đời được Phật rước, giã biệt để lại thơ. Từ đây địa địa tăng tiến, quyết chứng Bồ-đề, còn có nghi gì?

Làm theo bài Quy Khứ Lai của Uyên Minh của Cư sĩ Huyễn Trụ Nhậm Bưu.

Về đi thôi! Tịnh độ Tây phương thệ nương về. Đã thoát khõi cõi năm trược sinh tử, cũng nương nhờ ba Thánh Từ bi. Than ôi, đời người là huyễn hóa, qua nhanh khó theo. Biết duyên đời như giấc mộng đêm qua, thương việc đã qua đều luống dối. Đến già mới học đạo, khác nào lúc lạnh lắm mới may áo ấm. Hồi lúc thanh xuân nhiều buông lung, lầm nghiệp trắng mà kém thiếu. Mê mãi dãi dầu trong ba đường khổ thì ức kiếp mê, làm sao được giải thoát. Có đại pháp môn mà nghi thì ắt xa. Người tin đây thì còn tin gì ở ai. Đức Di-đà Thế Tôn bày sợi lông trắng mầu ngọc, hiện dung nhan vàng ròng che khắp đại chúng đến nương, hiển sáng núi vàng ấy là giới thì phải bền giữ ba nhóm, trai thì siêng tu tám quan. Lại thêm niệm Phật để tinh tiến, lạy nhiều mà quán kỹ, may mắn được thân người mà không được thế, cũng giống như đến đảo châu báu mà về tay không. Dẫu Thánh phàm có siêu tuyệt cũng dụ như trăng nước có khó gì.

Về đi thôi. Tịnh độ Tây phương nhiều cảnh đẹp. Hàng cây lưới báu phát tiếng mầu, cơm thuần-đà áo trời chẳng cần cầu, chỉ hưởng các điều vui, dứt hẳn các điều khổ. Di-đà Thế Tôn phát bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh, trăm ngàn Tam-muội mau huân tu. Ở biển thệ lớn nương thuyền đại nguyện, không bị ma Ba-tuần oán hại. Chỉ có Thanh văn Tỳ-kheo nghe các chim biến hóa nói tiếng pháp mà truyền bá. Quán Âm, Thế Chí sức bền bỉ dắt dẫn người tu không ngơi nghỉ. Than ôi, chúng sinh mạt pháp nhiều tệ ác, cảnh giới khổ nào kia há ở lâu. Hãy về đi thôi! Đâu-suất còn bị đọa, Long Hoa chưa hẹn ngày. Chỉ có cõi nước Cực lạc công đức trang nghiêm như thế, hoa sen mầu sáng nở chín phẩm, thanh tịnh hải chúng đợi từ lâu. Chỉ cần tín tâm không lui sụt thì chắc chắn vãng sinh, không có gì đáng nghi.

Truy họa theo bài Quy khứ lai từ của Uyên Minh (và lời tựa) của Chuyết Am Tông sư Giới Độ.

Chuyết Am Dã Phu bị bệnh trong rừng. Một hôm, đọc bài từ Quy Khứ Lai Hề của Đào Uyên Minh bỗng ném sách mà than dài. Bởi ta có thể ôm nỗi lòng qua đời khác. Uyên Minh là một kẻ tục bị nghèo hèn ép bức mà còn chê năm đấu gạo chẳng chịu mọp lưng. Nơi quê nhà sống với lũ trẻ con mà từ bỏ chức tước, làm Lạc Phú để quay về. Huống bọn ta là con nhà Phật vì giải thoát mà cầu xuất gia lại rong ruổi trong cõi trần mà chẳng biết ngừng bỏ. Thật hổ thẹn với Uyên Minh. Tôi một lòng lấy An dưỡng làm quê cũ, muốn viết nên hoài bão thấp hèn để tự khuyên gắng. Bèn họa theo, người xem chớ cười là kẻ bắt chước nhăn mày thấy giống, cũng để nói lên chí mình. Ngày rằm, tháng cuối thu, năm Đinh Dậu. Viết lời từ rằng:

Về đi thôi! Quay đầu quê cũ ngày nào về. Biết lạnh đến thì nóng đi, nhọc mộng mơ mà ngầm buồn tiếc, bỗng tình cờ gặp mà từ biệt, nay hối hận là chẳng nhớ gì. Nhìn bạn lành ở ao sen thật thẹn mà chẳng biết ai. Than ôi, mấy đời phiêu bạc mất hạt châu cài vạt áo. Lại nghĩ sâu mà tỉnh ngộ mạnh mẽ, sao tiết tháo quá yếu hèn, muốn về liền về, một chí về Tây, sống mải không chết là cửa các điều nhiệm mầu. Chỉ tâm vốn đủ, chân tánh thường còn. Bỏ quên Chu Đỉnh, lại nhận chung rượu, không chịu tước ban. Ở nhà đẹp bỗng rơi lệ, đối từ thân cảm thấy các khổ ép ngặt sẽ bỏ chỗ nguy hiểm mà đến chỗ yên vui. Tuy không đến mà chẳng biết làm sao. Khách lỡ đường nương vào mười sáu cảnh mầu, vào Chánh Thọ quán xa, bỗng toàn tâm phát hiện, mừng châu về hiệp phố, trộn uế tịnh ở cõi bụi, tùy bước mà bàng hoàng. Về đi thôi, dứt hết các duyên ngoài, lại nép mình mà hoại phục (mặc áo nhà tu). Chí cầu giải thoát, sao chỉ bo bo theo vật, điềm nhiên mà chẳng lo mất của báu trong nhà. Vất bỏ ruộng vườn của Tổ phụ mà chịu đói khát, muốn cứu vớt kẻ chìm thuyền phải lội vào dòng tục. Nếu như thế thì bảo dẫu Tỳ-kheo nghe nghĩa mà chẳng dời. Bởi tìm nguồn mà chặn dòng. Xét muôn duyên vắng lặng thì sáu dụng nghỉ ngơi. Than ôi, đời người biến hóa theo bốn mùa. Chân trời, nhật nguyệt chẳng dừng lâu, từ đó mà tính việc yên thân. Có sinh phải có tử, trăm năm có ai hẹn. Ruộng đất phải cày bừa, cỏ Ái phải nhổ sạch, kết Tịnh Xã ở Lô sơn, ngâm thơ mới của Tra Am. Hướng tâm tưởng về nơi mặt trời lặn, vỗ cánh hóa thân, không còn nghi ngờ gì.

Khen Tịnh độ Ngư Gia Ngạo (và lời tựa) của Pháp sư Khả Mân ở Bắc Sơn.

Ngư phụ nhà tôi luôn chẳng rời thân một trượng sáu có ba mươi hai trướng đẹp nói là thông minh. Khổng Tử Trọng Ni đâu dám sánh vai luận đạo đức.

Lý Bá Dương phải rúc đầu dứt thiên võ lược mà một mình đánh tan tám vạn bốn ngàn ma là bậc tài ba, luận thắng cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo đem thân thề ngồi bên nước, đoạn ái hà, khoác áo nhẫn nhục ngăn mưa khói vô minh, treo buồm Từ bi, thổi gió phương tiện, chống đỡ thuyền Bát-nhã, đạo thuyền trong biển khổ sinh tử, thề núi trăng sáng, biển giác gió thanh mà câu vớt chúng sinh chìm sâu, cho ở trong lồng Niết-bàn. Chỉ thú như thế tức là bình sinh tạm dứt cần câu. Bèn để thơ rằng:

Nhà cửa thường vắng vốn ưu du

Đến đầu biển khổ cầm cần câu

Đợi khi chúng sinh vào tay hết

Bấy giờ mới bỏ hẳn cần câu

Từng giảng Di-đà mười lượt

Lô Sơn sớ sao ra nhiều quyển

Nghĩa lý viên dung văn nghĩa sáng

Phương tiên nhiều

Đáo đầu chỉ khuyên sinh hoa sen

Bổn tánh Di-đà tùy thể hiện

Duy tâm Tịnh độ nào có xa

Mười vạn đường xa từ sự thấy,

Thôi phân biệt

Qua đời chỉ tự chuyển đổi mình.

1. Giữa sen bốn mùa xen màu lục

Mỗi hoa sen một Phật Di-đà

Chớ nghi Tịnh độ đường đi xa

Ngày ngày đời người nhiều mưa rơi

Phật ta hoa sen tùy bước đến

Vàng ròng tướng đẹp búi tóc xanh

Nhân địa có phát thệ nguyện lớn

Bốn mươi tám nguyện

Chúng sinh độ hết thành Bồ-đề

Cung điện hợp bóng cùng hương hoa

Thềm báu ba đường lưu ly rộng

Nước chim cây rừng đều niệm pháp

Tiếng rầm rì

Không trung hoa trời rơi như mưa.

2. Hàng cây rợp bóng bày bảy lớp

Hoa báu lưới châu ngọc leng keng

Trăm ngàn thứ nhạc cùng trổi lên

Trời mưa Mạn-đà khắp hư không

Cõi ấy vì sao tên Cực lạc

Hoa sen chín phẩm không ba ác

Tuy có Tần-già và hạc trắng,

Chẳng sáng bày

Như Lai biến hóa để tuyên lưu

Chín phẩm một đời lìa năm trược

Tự nhiên thân đeo chuỗi ngọc báu

Lông trắng mền mại ở trên trán Chiếu sáng rực

Trăm ngàn nghiệp chướng đều tiêu tan.

3. Các Phật sáu phương đều khen ngợi

Tướng lưỡi tam thiên rộng khen bày

Trên ao thác sinh sen chín phẩm

Chưa biết sinh về ở cành nào

Phật khen Tây phương kinh hiện tại

Rộng dài tướng lưỡi cõi tam thiên

Cốt yếu chúng sinh sinh tín hiểu

Lâm chung xa

Chẳng tu Tịnh nghiệp còn đợi gì

Ao bằng bảy báu sóng lăn tăn

Hoa sen từng đóa như bánh xe

Trong hoa thác sinh chân tự tại

Chia ba bậc A-bệ-bạt trí không lui sụt.

4. Chỉ được trong hoa mà hóa sinh

Theo giáo trải kiếp hoa chưa nở

Trong hoa vui sướng như Đao lợi

Chẳng so thai mẹ ở nhân gian

Anh võ, Tần-già biết mấy con

Âm thanh hoa nhã hót sớm chiều

Giảng nói năm căn và năm lực

Khiến người nhớ

Tâm bay hận thân không mọc cánh

Từ đó Tây phương mười muôn ức

Nước xa núi cao ai hay biết

Chỉ là quán môn thẳng đường về

Thật dứt hết

Ngồi lắng kiếp nước ngọc lưu ly.

5. Ngồi sửng mới tu quán nước thành

Gió nhẹ chẳng động sóng xanh yên

Cảnh giới kín sâu ai người thấy

Một mảnh lưu ly chiếu sáng mắt

Lạc bang thanh tịnh quê cũ ta

Ta-bà trôi dạt do tham ái

Dần dà nghĩ về sương thấm tóc,

Hận sai lầm, Tắc Hồng không hiểu tin truyền âm

Mặt trời lặn rồi cát ẩn ẩn

Hướng Tây trông vời nên về gần

Lúc đó nhạc trời liền dắt dẫn,

Phải tinh tấn, trên đài vàng tím ai vô phần.

6. Lạc Bang thanh tịnh vốn nhà ta

Đã có hẹn về há lo xa

Định hội tu cần nên cố gắng

An nhiên không nghĩ ngợi mé trời xa

Lý tánh xưa nay luôn tự tại

Linh thông soi chiếu sáng vô ngại

Vì bị gió vô minh não hại

Biển chân như

Hiu hiu thổi động sóng ngàn sâu

Năm uẩn đầu non mây mù mịt

Ngăn trăng trong tâm chẳng chiếu sáng

Sáu giặc hội nhau biết sửa đổi,

Trừ tham ái, Sát-na thoát khỏi cõi Ta-bà.

7. Đông vầy Phàm Thánh đi cùng đường

Một điểm linh minh thể như một

Chỉ vì vọng tình chuyển theo vật

Đến nay điên đảo chưa trở về

Vì chán Ta-bà cầu Tịnh độ

Theo tình đón tưởng suốt sớm chiều

Ai tin chẳng nhọc dời một bước

Về Tây phương

Lâu đài ẩn hiện trong mây xa

Lưới châu mưa rơi các hoa sáng

Cát vàng trải đất không bụi đất

Chợt chẳng dạy người nghĩ đường về

Tâm chuyên chú

Ngồi quán trời lặn như trống treo.

8. Gió mát vì ta khởi vắng lặng

Chẳng chịu mây tàn che góc nhà

Sống thiền sâu che chắn không người

Ngồi xem vầng mặt trời đang lặn

Bốn tướng tranh nhau sinh bệnh chết

Ma chết không hẹn khó giữ được

Tranh nhau sớm tối trì Phật hiệu

Tây phương đẹp

Cây rừng chim nước niệm Tam bảo

Mài mòn các thứ râu tóc bạc

Lạc bang nên về sớm lo toan

Muôn ức cõi nước đường không xa

Dứt phiền não

Chỉ một khoảnh khắc liền đến nơi.

9. Kinh khen Di-đà nguyện lực mạnh

Dụ như người kém theo Chuyển luân

Một ngày đi khắp bốn thiên hạ

Về Tây đường xá chẳng hề xa

Người đời tội oán biết bao nhiêu

Đường trước chẳng phải không minh phủ

Tranh nhau mà đốt một nén hương

Không đi đứng

Từng câu xưng niệm cha Di-đà

Tội nghiệp tiêu hết có chỗ sinh

Di-đà nguyện lực đáng nương nhờ

Mười niệm nhất tâm luôn sáng tối

Đường Tây phương

Công thành chân bước đến sen hồng.

10. Ai biết ngồi thẳng mà lại đi

Khoảnh khắc tâm bay đến lầu ngọc

Bóng trúc ánh trăng dời đến ngõ

Liền ngỡ hàng cây ở đầu rèm

Muôn việc rốt lại đều vô ích

Nghĩ sâu chỉ phải nên tu hành

Nếu đưa tâm này dạo đất báu

Rất dễ dàng

Ngồi quán mặt trời lặn hướng Tây

Muôn tia sáng hồng thu vào mắt

Mở mắt nhắm mắt thấy rõ ràng

Quán này khi thành biết pháp vị

Tâm vui mừng, khi chết chắc chắn sinh trong sen.

11. Chín phẩm hoa sen thứ lớp bày

Sen kia lá xanh cùng chen chúc

Chẳng biết ngày nào sinh cõi sen

Ngại gì ngày đêm luôn đeo mang

Lạc bang trời Tây mây ngăn cách

Một vầng trăng trong chiếu sáng ngời

Ý muốn vãng sinh luôn khuyên gắng

Nhọc hồn phách

Di-đà một niệm tiếng trăm ngàn

Điện vàng lầu ngọc là nhà cửa

Bảy lớp hàng cây hơn tòng bách

Gá sinh trong hoa không mạch máu

Rất cao xa

Nhạc trời chẳng phải khách bồng lai.

12. Khắp xem trục ngọc và hộp ngọc

Nhọc lời khuyên gắng thoát phàm trần

Tịnh độ khéo tu lại chẳng chịu

Trong kinh nói nhiều về cõi Tịnh

Xích châu mã não để trang sức

Chúng sinh cõi ấy đang hiển sắc

Nâng vạt áo

Hoa đẹp cúng dường Phật phương khác

Trẻ con ham dạo chơi ngụp lặn

Ta-bà là khổ sao không răn

Ưa chán từ lâu mới có sức

Theo sớm tối, lặng đốt nén hương khói ngưng đọng.

13. Đã có thân tâm cầu Tịnh độ

Hãy bỏ đường lối đến Ta-bà

Tu hành cũng chỉ không nhiều kẻ

Mười niệm công thành một sát-na

Văn chương thi phú không chỗ dùng

Và xem danh lợi chỉ như mộng

Một xâu chuỗi kia thường trong tay

Dẹp ngàn thứ

Chỉ nghe niệm Phật tâm mạnh mẽ

Dìu dặt trên không nhạc gió đưa

Dịch tiêu sáo trúc gió vẳng đưa

Dắt dẫn phàm phu lên các chúng

Mây hương dâng

Nam nhi ngày này mới kính trọng.

14. Xem khắp kinh văn và luật nghi

Khắp nơi chỉ khuyên niệm Di-đà

Một câu tiêu hết nghiệp ngàn đời

Huống là nối nhau luôn trì tụng

Dứt hẳn tâm vượn và ý ngựa

Nắm chặt đầu dây luôn giữ niệm

Nói phá mười nghi do Trí Giả

Chép mà truyền

Lô sơn lại kết Xã Liên Hoa

Mười tám Đại hiền cùng nhóm họp

Công thành mây năm màu về Tây

Các bậc Thượng thiện đều ở đó

Cùng đón chào

Dụm đầu chỉ nói chuyện vô sinh.

15. Bên ao hàng cây không che khuất

Cong cong cầu vàng lộ nửa bên

Chợt thấy hóa sinh làm con Phật

Ở trong sen hồng ngồi kiết già

Ba mươi sáu thứ gồm một đãy

Túi nhỏ hôi hám đầy tham ái

Khác nào bọ hung đẩy hòn phân

Không dừng đợi

Sớm sớm ở trần luôn cố gắng

Lại phải bền tâm mà sám hối

Sao bắt ác nghịch và đao phủ

Một niệm tiêu trừ tội ngàn kiếp

Sinh trong hoa

Đầy thân chuỗi ngọc kêu leng keng.

16. Lăng xăng tình đời như hoa đốm

Ngoài giảng giải, không còn gì nữa

Một xâu chuỗi kia luôn lần hạt

Phật A-di-đà là kẻ thù

Một điểm thần hồn mới gá phách

Trong hoa sen xanh nhà lưu ly

Hào tướng pháp âm không đứt quãng

Tuy sáng rỡ

Đáo đầu chẳng giống khách đài vàng

Chín phẩm cao thấp tùy báo được

Hoặc trải mấy kiếp hoa mới nở

Nếu ta sinh tâm tánh chật hẹp

Phải gấp bỏ

Hoa sen chưa nở hãy mở ra.

17. Đọt cúc gừng non một bữa cơm

Ngoài ra nào dám phí công phu

Từ nay mười ngón không rảnh rỗi

Hết cả cuộc đời mà lần chuỗi

Tịnh độ quê xưa bỗng từ biệt

Góc trời trôi giạt mãi đến nay

Tuổi già mày râu cũng nhuốm bạc

Nghĩ trở về

Nghe tiếng nguyện gởi trăng trời xa

Luôn luôn nghĩ lo tu tịnh nghiệp

Khi chết chắc chắn Phật đến rước

Có thệ tiêu biểu lời nói thật

Lưỡi rộng dài

Tam thiên che khắp lá sen hồng.

18. Chỉ tụng, đốt hương làm việc thường

Đêm đêm đọc tụng một hai canh

Chiếc bóng tự thương ngoài trần thế

Dưới trăng gió nhẹ đi kinh hành

Thiện Đạo thở than nay đã qua

Dạy cho già trẻ đều về nhà

Niệm Phật một câu cho một tiền

Tiếng mới vang

Một câu một Phật trên hư không

Tám mươi bốn ngàn tướng nhiệm màu

Ánh sáng, tuổi thọ đều vô lượng

Rũ tay màu vàng ngàn muôn trượng

Tay ngỗng chúa

Thệ đến đón trước về An dưỡng.

19. Sáng gà chiều trống luôn thúc giục

Rụt rè dung mạo biến suy đồi

Chớ bảo tóc bạc là rảnh việc

Rốt lại vô thường đưa tin mời

Cõi Tây dệt thành cõi Đông hoại

Sao bay một điểm ngàn cõi đẹp

Chớ ngờ thần hồn sinh quái lạ

Không ngăn ngại

Lạc bang chỉ ở trong Đồng cư

Ao tám đức sâu, hoa lại lớn

Ngồi kiết già thẳng trên hoa sen

Tai nghe tiếng pháp tâm giải ngộ

Cúi đầu lạy

Từ nay thoát hẳn ngoài bào thai.

Khen Tây phương ngư gia ngạo của Thiền sư Tây Dư Pháp Đoan:

Trong ao bảy báu mà thả câu

Nước tám công đức khói sóng xa

Đáy ao cát vàng trải khắp chốn

Đi nhiễu quanh

Vàng ròng lót đất làm đường đi

Hạc trắng, chim công, anh võ hót

Di-đà tiếp dẫn lời khuyên

Chẳng phải tu hành sao đến được

Một loại tốt

Tây phương Tịnh độ không phiền não.

Bài hát theo điệu vọng Giang nam (12 bài) của Pháp sư Bạch Vân Tịnh Viên.

Ta-bà khổ:

  1. Ta-bà khổ, nhiều kiếp chịu luân hồi

Chẳng dứt nhân khổ lìa nhà lửa

Chỉ theo nghiệp báo vào bào thai

Bội bạc Đài linh này

Sáng lại chiều, lạnh nóng thôi thúc

Một thân huyễn này được mấy ngày

Trăm mối khéo léo áo đầy bụi Đâu được xuất đầu ra!

2. Ta-bà khổ, thân thế một cánh bèo

Trong mắt muỗi ong tranh lợi nhỏ

Trên sừng ốc sên nghĩ hư danh

Một điểm khí khó bằng

Ngày đầy nhân ngã đêm dài vô minh

Địa ngục tranh nhau nhào đầu vào

Tây phương không ai chịu tu hành

Chết uổng lại sống uổng.

3. Ta-bà khổ, tình niệm chợt như gió

Sáu giặc trong làng chẳng tạm yên

Bốn rắn trong tháp tranh nhau mổ

Ai là người chủ nhà

Không có tuệ lực, lưới ái đổi thành lồng

Một hướng bốn góc thấp dưới đất

Chẳng nghĩ hai chân muốn tiêu không

Đường trước càng phải gấp!

4. Ta-bà khổ, sinh già bệnh vô thường

Chín lỗ tanh hôi chảy nước dơ

Một bao máu mũ là đãy da

Tranh yếu lại tranh mạnh

Theo vọng tưởng, đắm dục lại hoang đường

Niệm Phật xem kinh bảo chấp tướng

Hủy giới phá trai không đề phòng

Chỉ sợ có Diêm vương.

5. Ta-bà khổ, suốt ngày theo trần hoàn

Chẳng biết ngày tháng theo nước trôi

Sao kham tóc bạc đổi má hồng

Sáu đường thường trôi lăn

Xưa và nay ai chịu chết trước nhàn

Lợi danh nguy ách vừa vào tay

Hư hoa tài sắc liền vinh theo

Vinh nhục mảnh thời gian.

6. Ta-bà khổ, thời gian như nước trôi

Vinh nhục buồn sợ ngày nào dứt

Phải quấy nhân ngã lúc nào thôi

Đường sinh tử mênh mông

Mặt nước ba cõi nổi một bọt

Giả sử anh hùng công trùm đời

Chỉ để xương trắng trên gò hoang

Sao bằng sớm quay đầu.

Tây phương vui:

1. Tây phương vui, tùy niệm liền vượt lên

Một điểm linh quang theo mặt trời lặn

Muôn mối việc đời giao mây nổi

Người đời tự lăng xăng

Chỗ ngưng trông, quyết định nương thần

Đất vàng kinh hành bước trong sáng

Lầu ngọc ngồi yên thân trong định

Mới ham được thiên chân.

2. Tây phương vui, cây ngọc vượt lên cao

Che khắp bảy lớp lưới châu báu

Trang nghiêm trăm ức cung hoa đẹp

Trong cung các thiên đồng

Đất vàng lan can rào lớp lớp

Hoa mưa phơi phới hương tản mạn

Âm nhạc dìu dặt trống xa đưa

Người nghe vui vô cùng.

3. Tây phương vui, bảy báu chạm trổ ao

Hoa sen bốn màu cùng khoe sắc

Nước tám công đức sóng lăn tăn

Hết khát lại hết đói

Trên bờ ao lầu điện cao chất ngất

Rào khắc bích ngọc trám mã não

Cột cao vàng rồng điểm pha-lê

Chỗ nào cũng sáng rực.

4. Tây phương vui, đàn chim hót tiếng hay

Dưới hoa cùng hót bài lục độ

Trong sáng hòa nhã khen tam thừa

Người nghe ngộ vô sinh

Ba đường ác còn chẳng có tên

Đều là Phật Từ bi hóa hiện

Muốn nói lời pháp nhắc mê tình

Tâm địa mau sáng tỏ.

5. Tây phương vui, buổi sáng cúng rất tốt

Xa tít mây tiên theo gậy báu

Nhẹ nhàng vạc áo đầy hoa trời

Mười muôn đi chẳng xa

Các cõi Phật tùy niệm biến hà sa

Tay sen vỗ đầu thân thọ ký

Tiếng sóng trong veo vang tần-già

Đến giờ liền trở về.

6. Tây phương vui, Phật ta đại Từ bi

Chỉ đủ ba tâm tròn mười niệm

Liền lên chín phẩm vượt ba kỳ

Thần lực chẳng nghĩ bàn

Khi chết tiếp dẫn quyết không nghi

Nguyện khắp chúng sinh cùng giữ niệm

Đài vàng nhạc trời sẽ đón rước

Phút chốc đến ao sen.

 

BÀI TỰA SAU

Người tu Tịnh độ, phần nhiều được môn ấy mà đi đường tắt thì không có mấy người. Còn luận về Tịnh độ nhiều người được pháp yếu mà chỉ thẳng thì rất ít. Không hề nghe ai đem cái ngăn, cái che của mình mà nói ra. Vì cái tự ngăn không gì bằng ái, cái tự che không gì bằng nghi. Chỉ cần dứt hẳn hai thứ ái và nghi, không còn chướng ngại thì pháp môn Tịnh độ không hề gián cách.

Di-đà nguyện lớn thường tự nhiếp giữ đó là lý tất nhiên như thế. Xưa, Vô Vi tử soạn lời tựa cho Luận Thập Nghi của ngài Thiên Thai có nói: Ái không nặng thì không sinh Ta-bà, niệm bất nhất thì không sinh Cực lạc. Lời nói này có thể gọi là biết từ gốc rễ vậy. Xin thử lấy một việc mà đính ước. Như Pháp sư Tuệ Viễn đời Tấn vang tiếng Tây phương, có kết Liên xã ở Lô sơn mời Uyên Minh xem là quý vì các vị đã dứt bỏ được ái, còn Tạ Linh Vận thì ngăn không cho vào xã vì ông còn tạp tâm mà niệm không chuyên. Há chẳng phải đây là bờ bến Tịnh độ. Tôi do đó được thuyết Tịnh độ, khác với xưa như thế mà thôi. Bởi có nói người mến mộ tu tịnh nghiệp như Đào Uyên Minh thì được, tuy mời nhưng không đến. Nếu nguyện thì sẽ đạt. Cần yếu là ở trong ngực rốt không có một vật. Cầu niệm còn chẳng được, làm sao đoạn được ái. Cho nên không cầu thì thôi, cầu thì lấy chống ngăn nào để đè nén. Tôi có nghĩ khen ngợi Tịnh độ rằng: Chỉ trừ mình tự chướng ngại, nếu cầu sinh thì liền sinh. Lại nói nếu không kéo dây neo chỉ uổng sức đẩy thuyền. Bởi cũng có lời khích rằng: Tông ta, giảng sư Tông Hiểu đã lấy Tịnh nghiệp làm sức mình lại suy ra các vật khác, biên tập văn Lạc bang từ kinh luận trở đi mà cùng với xưa nay nổi tiếng, còn văn của Phật ta hễ những gì có quan hệ đến Tịnh độ thì đều phát huy mà ghi chép vào làm sách, để khuyên rộng người tin rất rõ ràng. Còn việc chỉ rõ tu trì thì không phải một mối mà rốt được dụng tâm. Có thể nói là vừa siêng lại đẹp. Tuy nhiên ta sợ nhiều cách quá sẽ làm mê hoặc ý chí mà không nhất niệm, không dứt ái, để tự ngăn che mình rồi than thở đau buồn. Cho nên đặc biệt nêu ra thuyết ấy để được thông suốt. Nguyện các bạn đồng tu một là chuyên niệm mà dứt ái là gốc, hai là thêm nguyện lành thì pháp môn Tịnh độ đoán chắc sẽ đến. Văn này há luống uổng ư?

Ngày lành tháng tốt năm Canh Thân, niên hiệu Khánh Nguyên Bách Đình ở Nam Hồ, Thiện Nguyệt kính ghi lời tựa.

 

Pages: 1 2 3 4 5