LÁ THƯ TÂY DU
Như Thủy

 

Chị qua cầu sinh tử
Cười chào biệt nhân gian
Em gom thư quá khứ
Chia sẻ cùng tri âm…
Nguyện mãi là pháp lữ
Tuyên dương pháp nhiệm mầu
Giới Phật nguyền nghiêm giữ
Giúp người lìa khổ đau.
 
Hạnh Đoan

***

“Chị sang Mỹ với tiếng là du lịch, nhưng thật ra chị vẫn đi theo hạnh nguyện lợi tha của mình. Bao giờ đối với Ni chúng, chị cũng có thương cảm, xót xa… Với Phật tử, chị tâm nguyện đó là cha mẹ nhiều đời của mình. Thôi để chị đi thuyết pháp cho cha mẹ quá khứ và tương lai nghe vậy…”

Nếu không đủ sức viết nên một tác phẩm để đời thì hãy biến đời mình thành một tác phẩm…

Món quà nào cũng có giá của nó, ta phải trả bằng sự hao tổn phước đức của mình!

Khi nhận một món đồ, lập tức một phần phước báu của mình đã bị trừ bớt, cái thẻ tín dụng vô hình của mình đã bị ố màu … và coi chừng, mình sẽ bị một tai họa ập đến khi … phước hết.

NHƯ THỦY

***

THAY LỜI TỰA    

Lúc chị Thủy mới đi du lịch Mỹ, chị viết thư cho tôi rất nhiều, (khoảng trên 70 lá)… hào hứng tả cảnh nước ngoài cho tôi xem. Mới đầu tôi hí hửng đọc, còn phát biểu là sau này sẽ kết tập lại, tung ra… chia vui cùng thiên hạ… Do chị viết hết tám phần mười là thư không bỏ dấu và chính vì ỳ vào cụm từ “sẽ kết tập lại”, nên có nhiều lúc bận quá, tôi đành lướt sơ qua, rồi bỏ hết thư vào kho, tự nhủ rằng: Sau này sẽ lôi ra đọc kỹ, bỏ dấu, đóng tập, in làm thư liệu…

Những số thư đầu tôi còn cẩn thận lưu hai ba chỗ, trong máy và đĩa lẫn USB, những lá thư thuộc các năm sau, tôi lười nên chỉ lưu trong máy. Kết quả là khi máy hư, USB cũng hư, nên thư bị mất khá nhiều… Do vậy mà bây giờ đa phần chỉ là loạt thư 2005…

Sau đó do chị quá bận rộn giảng dạy, không còn thời gian viết thư, nên muốn chia sẻ, tâm tình gì thì cứ nhắn tin. Thành thử mấy năm gần đây liên lạc giữa hai chị em chỉ là nhắn tin, chị có thói quen trao đổi cùng tôi mọi thứ, mọi chuyện trên đời… đủ thứ chuyện mật lẫn hiển… và tin cứ nhắn xong rồi xóa, cho nhẹ máy… nhẹ lòng…

Nên các thư tín lần này giữa chị và tôi giống như bóng chim in trên nước, không còn lưu dấu tích.

Loáng một cái đã 13 năm trôi qua. Chị mất, khi tôi nhận tin chị đang hấp hối, nước mắt bỗng tuôn trào, tim nhói đau.

Nhưng đã là người xuất gia, học giáo lý Phật, thì không thể để phiền não hay cơn buồn đóng chiếm, trụ lâu… nên tôi ráng cắt đứt cơn buồn, nhưng nó vẫn âm ỉ, lẩn khuất… khiến tôi vừa nhìn hình chị là khởi buồn, thấy trên youtube tung cảnh chị giảng khá nhiều, nhưng tôi không dám bấm vào, vì sợ nghe tiếng chị, sẽ thêm buồn nhớ…

Kỷ niệm mới nhất (còn sót lại giữa chị và tôi) là những dòng tin nhắn cuối cùng:

Vào ngày 12 tháng 3 năm 2018, khi chị nằm bệnh viện (Lúc đó là 2 giờ khuya ở Việt Nam) tôi cứ trằn trọc không ngủ được, bèn nhắn tin cho chị:

– Chị bệnh hả?

– Ai đồn với em là chị bệnh vậy?

– Em nằm mơ!

– Sao không mơ thấy chị làm hoa hậu hay trúng số? Mà lại thấy chị bệnh?

– Có trúng số chị cũng đâu ăn được bao nhiêu? Còn hoa hậu? Ban giám khảo sáng mắt hết nên… họ không chấm chị đâu!

– Hi hi… Cũng may là chị không còn khoái làm hoa hậu, vì thấy người đẹp tính thường kiêu ngạo, sống dễ huân tập khí xấu, chỉ được mấy tên háo sắc ái mộ, sau khi chết… còn sinh vào cõi không lành.

– Dạ hoa hậu ưa mặc bikini. Điều này không hay và rất là thiệt thòi, xui xẻo cho mấy cổ!…

– Nhớ hồi xưa ở Viên Chiếu, chị bệnh muốn chết mà không được nghỉ giảng, xin không ai cho! Mọi người cứ đinh ninh là chị giở trò làm…nư.

– Đó là tại vì chị thuyết pháp hay, thu hút người nghe quá… nên mới phải… khổ… vậy đó!

– Khi mình thuyết giảng, nếu khởi tâm kiêu mạn, là bị ma túc oán báo liền. Vì vậy, mà bây giờ chị giảng luôn phải thận trọng, không dám khinh thường!

Chị mới đọc chuyện con lừa xuống phố, thấy người ta sùng bái, lễ lạy, nó liền sinh tâm kiêu mạn, sau khi về núi, không chịu làm công quả nữa… Nó đâu biết rằng: Sở dĩ người ta sùng bái là do nó có chở xá lợi Phật trên lưng!

Cũng giống vậy đó, nhờ mình khoác Tăng bào, mang pháp phục Như Lai nên Phật tử mới kính trọng, nhưng cởi pháp phục ra… thì lại khác! Vì vậy mà không nên khởi tâm kiêu ngạo giống con lừa kia. Còn nữa, những lời chúng sanh khen hay phong tặng cho mình… không có chính xác đâu Heo Ú ơi! Chừng nào được chư Phật, Bồ tát khen mới là thứ thiệt! Mới đáng tin và hãnh diện! Chị nghĩ làm việc gì cũng cần có cái tâm, tấm lòng… đối với mọi người, vậy thôi! Danh lợi dù có nỗi cao, thì mình cũng ăn nhiêu đó. Khi mình bệnh chẳng ai gánh thay dùm! Em mơ thấy gì, kể chị nghe với?

– Em mơ thấy chị bệnh nặng. Không trụ thế lâu. Hèn gì mà gần đây chị than ăn không vô. Sức khoẻ chị giờ ra sao rồi? Chị bệnh nặng lắm hả?

– Bệnh thì lúc nào mà chẳng có? Còn nặng hay nhẹ thì… tuỳ hứng thôi!

– Mơ thấy chị bệnh em buồn quá. Không ngủ được. Tự dưng em nhớ tới câu: “Nhìn người dưng chết, mình tỉnh khô, nhưng… thấy người thân chết thì khóc chảy máu mắt!”…

– Nhưng chị chưa đến nổi chết đâu, út cưng à… chị là chuyên gia hù dọa thiên hạ mà, lâu lâu chị bệnh một cái, cũng là cách hâm nóng tên tuổi mình…

– Giờ chị đang nằm bệnh viện, mỗi ngày có bác sĩ, y tá người Mỹ đến phục vụ tận nơi.., sướng như… vua vậy! …Nhưng nằm bệnh viện rất tốn kém, dù họ trị cho chị miễn phí, nhưng chị không thể thụ hưởng quá nhiều, vì những thụ hưởng này cũng lấy từ tiền thuế của dân. Bệnh chị không cứu được, thì cũng không nên tiếp tục phung phí thuốc, làm bệnh viện tốn kém vì mình quá nhiều! Mai chị xin xuất viện, chị không muốn làm rùm beng, không muốn nhọc công khách đến thăm, vừa tốn thời gian, tốn tiền xe…

Ông bác sĩ Mỹ khám bệnh, hỏi chị: Phật giáo dạy cái gì là then chốt? Chị đáp: Không hại mình, không hại người, sống chu toàn bổn phận và có trách nhiệm với xã hội chung quanh…

Họ hỏi chị: Cô nghĩ sao về cái chết?

Chị đáp: Đó là món quà, mà ai cũng phải nhận một lần trong đời!…

– Sức khỏe em cũng đang yếu dần đi nè… Cứ tưởng là chị chết sau em, ai dè chị lại đi trước…

– Mấy mươi năm nay chị toàn sống kiếp lưu linh, có được chỗ ăn chỗ ở… là hạnh phúc rồi. So với Phật lúc 80 tuổi vẫn không mái nhà che thân, chị thấy mình còn sướng quá trời!

Chị được bệnh viện tận tâm chữa trị, không tính phí thuốc men. (Nhờ có Phật tử Nguyên Dung làm y tá lo dùm, nên chị mới được vậy.) Nhưng nghe nói nếu có trả, cũng không đủ tiền trả! Mà bệnh chị không thể chữa hết. Nên thôi, chị không muốn thọ nhận tiếp nữa, phí hoài lắm! Quả phúc này chị xin hồi hướng cho việc cầu giải thoát chứ nhất quyết không thèm tiêu tốn cho cái xác thân đang rệu rã! Còn mơ ước duy trì sự sống làm chi nữa khi mà xác thân đã hết… xí quách? Chị không thể vì nó mà mắc nợ, hưởng thụ thêm!

Bữa đầu, họ nghi chị ung thư tử cung, bữa sau, họ nói chị ung thư buồng trứng… Bây giờ thì họ rối beng, vì các triệu chứng bệnh của chị không rõ ràng. Họ hẹn vài hôm nữa mới có kết quả đích xác… Nhưng, chị không cho họ rút máu hay rút nước từ bụng đi xét nghiệm nữa! Nằm bệnh viện có mấy hôm mà chi phí tính ra cả tỷ rồi, dù mình không trả tiền, nhưng tốn kém này cũng là tiền thuế của dân. Chị không muốn mắc nợ nước Mỹ!

Chị hỏi họ: Bệnh này chữa có hết được chăng? Họ đáp: Không hết, nhưng có thể kéo dài… thời gian… bệnh hoạn!…

Chị nói: Vậy chữa chi cho tốn tiền? Họ bảo: Có bảo hiểm trả…

Chị nói với bác sĩ: Bảo hiểm cũng lấy từ tiền thuế của dân, nên thôi, xin hãy để dành tiền đó chữa cho những người còn trẻ, tốt hơn là một người già như tôi!… Thế là họ ngẩn ngơ nhìn nhau.

Khi nói chuyện, có máy thông dịch của một người từ xa. Người nầy luôn cam kết: Sẽ giữ kín những gì mình nói. Chú thông dịch sau khi hỏi tên chị, chú bày tỏ rằng rất ái mộ và thích nghe chị giảng pháp. Sau này nếu chị thuyết giảng ở đâu, xin cho biết, để chú đến nghe…

– Chị có đau lắm không?

– Chị đang uống thuốc giảm đau, nên chắc là không đau rồi. Chung quanh chị toàn là người Mỹ, họ đẹp như tranh, lúc nào cũng tươi cười…

Bác sĩ bên nầy tốt lắm, khi thăm hỏi, khám cho bệnh nhân, luôn kèm theo một nụ cười… Họ nói: Thời gian sống của cô tính bằng tuần hay tháng chứ không phải năm.

Chị đáp: Còn bên tu sĩ Phật giáo chúng tôi, tính trong hơi thở, còn ngắn hơn cả ngày và giờ!

Chị kể: Tui bị tuyên án tử từ 30 năm trước lận, nhưng sống được tới giờ mà chưa chết là dài lắm rồi. Nếu quá thời gian quý vị tiên đoán mà tui còn sống thì sẽ vào đây thăm lại tất cả.

Họ nói, họ rất thích chị, nhưng hoàn toàn không muốn gặp ở bệnh viện!…

– Em có viết bài “Chuyện Đuối Nước”… để giải thích cho người ta hiểu mà cảm thông về chuyện bốn cô mất… Giác Ngộ đăng rồi. Nếu chị xem thì em sẽ gởi qua…

– Gởi đi! Chị đang ăn ở không mà! Nếu em viết hay, chị sẽ khen! Còn nếu dở, chị sẽ… moi vọng tưởng, viết một bài… đăng báo chơi!

(Một lúc sau chị nhắn tiếp):

– Bài em viết vậy là hay rồi… Vì nó phát xuất từ trái tim của mình. Nhờ vậy, chị khỏi phải tốn công viết…

Sang Mỹ, chị tình cờ đọc được tuyển tập “100 bài thơ hay nhất”, trong đó có bài: “Diệu Pháp Liên Hoa” và bài thơ chị làm lúc nhỏ Huệ Phước mất…

Bà y tá vừa mới vô cho chị uống thuốc. Họ chăm sóc mình như con nít, đến giờ là cho thuốc, mang nước đến tận giường… chứ không giao mình tự uống như ở Việt Nam.

(Chị chụp hai tấm hình gởi cho tôi và phụ đề): Phần ăn chiều của chị trong bệnh viện nè. Chị ngự ở lầu 5, phía dưới là Boston…

Em thấy cảnh bệnh viện nhìn từ phòng chị xuống đẹp không? Sân ngập đầy tuyết trắng…

Chơi với em nãy giờ, chị mới đi… tiểu được đó, bị bí hai hôm rồi, hy vọng chút nữa sẽ xổ…

Bệnh viện khuyến khích thân nhân đến thăm cho bệnh nhân vui. vẻ, chứ không xua đuổi như Việt Nam. Gặp giờ khám bệnh, họ còn nhường cho người nhà thăm, chơi xong, mới khám…

Hôm sau, tôi nhắn tin hỏi thăm:

– Chị ngủ được không? Ăn được không? Bớt đau chưa?

– Chị ra bệnh viện, về chùa rồi… vẫn ăn ngủ bình thường, sướng như vua vậy! Nhưng… nếu chị chết… Út cưng đừng buồn nghe!

– Dạ, chị cũng giống như mẹ, có ân nuôi dưỡng, dạy dỗ em nên người, thì tất nhiên là phải… rất buồn rồi! Nhưng em hiểu, có buồn cũng vậy thôi, không cứu vãn được. Vì đây là điểm cuối, là con đường phải đến của chị em mình. Em cầu chị ra đi tỉnh sáng. Đời đời được gặp chư Phật, Bồ tát dìu dắt tu hành, trí tuệ tăng trưởng, sáng đời này… và sáng mãi các đời sau!

Rồi ngày hôm sau, khi tôi nhắn tin, chị không còn có thể hồi âm vì đã quá yếu. Hai hôm sau chị mất.

Bây giờ, thể theo yêu cầu thiết tha của chư vị mến mộ chị, tôi đã lục lại kho thư, tìm những lá có thể công bố đại trà, chia sẻ cùng quý vị, để đáp lại thịnh tình yêu thương quý vị dành cho chị.

Nếu nội dung trong đây có điều chi sơ sót, xin hãy lượng tình, tha thứ cho.

Kính bút,

Hạnh Đoan

***

LẦN ĐẦU ĐẾN TRỜI… TÂY

Lá thư 1
Thứ Ba, ngày 19 tháng 04 năm 2005.

Heo Ú ơi!

Chị đã qua Mỹ được 15 ngày, đi qua 3 tiểu bang, lên xuống 4 chuyến máy bay, đi xe hơi hơn 20 giờ… và vẫn còn mạnh khỏe, ăn no, ngủ kỹ như ở Việt Nam vậy. Đất Mỹ rộng bao la. Từ tiểu bang này sang tiểu bang khác bằng cỡ Cà Mau đi Hà Nội là ngắn nhất. Nơi nào cũng có cỏ cây xanh tươi, rừng núi bạt ngàn, hoa nở cực kỳ diễm lệ. Trẻ con Mỹ thì xinh và dễ thương như búp bê. Chị chỉ trắng hơn tụi Mỹ đen một chút, chứ so với dân Mỹ chị giống như giai nhân thành Ca Tỳ La Vệ so với các tiên nữ cõi trời… híc híc! Không ai hâm mộ nhan sắc của chị… híc híc! Nhưng bù lại, khi chị cất tiếng nói chuyện hay giảng kinh thì thiên hạ lắng nghe, vỗ tay khen là “danh bất hư truyền!” Hi… hi!

Nước Mỹ đón chào chị bằng cái lạnh khủng khiếp. Nơi chị đến đầu tiên là chùa Kim Sơn, lạnh quá sức tưởng tượng. Chùa lại ở trên núi cao nên cái lạnh càng gia tăng gấp bội. Cô Đồng Kính và Thuần Bạch có cứu nguy bằng cách tặng chị cái áo gió mới. Mặt chị xám xịt, môi sưng vù, nứt nẻ… thấy mà ghê! Ai thấy chị cũng mủi lòng đem áo lạnh tặng nên hậu quả là đến nay mới nửa tháng là chị có đến ba rương đồ lạnh!

Đến sáng Friday, chị sẽ bay về vùng bắc Cali, ở đây vài hôm rồi về nam Cali… Sau đó sẽ di chuyển đến vùng Arizona, Texas, Indiana, Florida, New York rồi mới qua lại San Francisco để về Việt Nam.

Tu ở chùa Việt Nam tại Mỹ cực kỳ sung sướng. Ăn bằng chén đũa giấy, ăn xong bỏ vào thùng rác, khỏi phải rửa. Khi đi từ Cali sang Washington bằng xe hơi, chị thấy rừng thông bạt ngàn, cứ vài kí lô mét là có một nhà nghỉ, trong đó có toilet, có nước nóng, giấy vệ sinh, nước uống cho khách lữ hành. Có chỗ, họ còn đãi cafe và bánh ngọt miễn phí nữa. Thức ăn thừa mứa, ai cũng ăn uể oải chứ không ăn kiểu Việt Nam. Chị nhờ ăn chực và ngủ nhờ nên không tốn tiền, chứ nếu chị mua thức ăn và ở khách sạn thì đã về nước từ lâu rồi.

Cô bạn ở Mỹ nói giá một trái mướp là 400.000 Vnd, mấy cọng rau om là 1 USD… Ai cũng đãi chị món ăn Việt Nam bằng cái giá mắc như vàng. Chị tiếc tiền đòi ăn đồ Mỹ, dè đâu dở ẹt, nuốt không vô, đồ ăn kiểu Ý còn tệ hơn, vừa chua vừa mặn.

Chị đã thăm TL và hai chiếc lều của nó. Đừng tưởng nó đói khổ mà lầm, nó có một cái tủ lạnh bự tổ chảng, chất đầy thức ăn ngon, ăn một tuần chưa hết. Nó có một cái xe hơi chất đủ thứ thau thùng lỉnh kỉnh nhưng cực kỳ hiện đại. Trông bề ngoài xấu xí nhưng có phone chỉ đường, muốn tìm nhà ai, nó hướng dẫn tới liền lập tức.

Chuyện nước Mỹ còn dài, lâu lâu chị mới mượn được computer để gởi mail, lại còn phải tranh thủ ngủ nghỉ, đi chơi… nên mãi đến hôm nay chị mới mail về cho em được.

Muốn biết thêm, hãy đón xem hồi sau sẽ rõ. Chị đói bụng rồi, phải đi ăn cơm đây.

Chị Ba

 

Lá thư 2 
Thứ Bảy, ngày 30 tháng 04 năm 2005, 2:29 sáng.

Hạnh Đoan cưng của chị

Nếu em thấy có lúc chị gởi thư tới tấp, có lúc tịt ngắt thì em thừa thông minh hiểu rằng, chị không mượn được máy, mọi việc phải tùy thuộc gia chủ, thời gian… máy bên đây bán rẻ lắm, xài hai năm là họ vứt đi, thay máy mới. Điện rất rẻ, đèn bật sáng trưng, chẳng nghe ai phàn nàn chuyện mình xài ít hay nhiều. Đồ ăn thừa thì dại gì không ăn. Dĩ nhiên câu: “Miếng ăn là miếng tồi tàn” đối với nơi này sai 100%. Lợi thế đầu tiên của cư dân ở đây là thời tiết mát mẻ khiến người ta ít nổi quạu, tiện nghi đầy đủ, hoa nở khắp nơi, ai siêng cắm hoa cúng Phật, kiếp sau có nhiều cơ hội dự thi hoa hậu. Máy chụp hình rẻ rề, toàn là kỹ thuật số, chụp xong đem về chiếu lên tivi xem thoải mái. Chỗ nào cũng có gương soi, kính chiếu… to tướng để những ai có nhan sắc cỡ chị, phải ráng cười thật tươi để vớt vát lại những gì thua thiệt!

Ăn ngủ là hai thứ mà người tu cảm thấy bị bóc lột nhiều nhất, thì ở đây được tự do. Chị là kẻ duy nhất trong chùa lúc nào cũng ôm kè kè túi xách sợ bị mất trộm, lo lắng cho mấy bộ đồ xấu xí của mình, chứ chùa họ toàn đồ xịn, khăn trắng muốt lót tận nhà tắm cho mình chùi chân, ai đâu mà thèm ăn cắp đồ của mình. Nhà nào cũng có hàng chục chiếc tivi, họ còn trông ai khuân bớt cho rảnh nợ!

 

Lá thư 3 
Thứ Hai, ngày 02 tháng 05 năm 2005, 10:42 sáng.

Heo Ú ơi

Chị gởi mấy tấm hình chụp chung với con trai yêu quí của tía để em thấy sự nghiệp chàng ta có gì sau bao năm lập nghiệp? Cái lều nhỉnh hơn lỗ mũi một chút (nhưng cũng là mượn của người khác) ai vô lều của nó cũng thấy mủi lòng bèn bỏ lương thực lại, hóa ra cái lều cũng là cần câu cơm khi cần thiết!!! Quý cô ở Cali đưa chị đến tận nơi và chụp hình trước khi từ giã. Chị đi chơi ké với quí cô này, họ lái xe thiệt giỏi, 20 người chất trên ba chiếc xe, đi qua ba tiểu bang, ngao du sơn thủy đã đời rồi ghé thăm ông thầy núi này. Cầu cho ổng làm thầy núi trọn đời.

 

Lá thư 4 
Thứ Ba, ngày 03 tháng 05 năm 2005, 10:42 sáng.

Chị Ba ơi

Dữ hông, bữa nay mới đọc thư tiếng Việt của chị. Em xem hình anh TL rồi. Cốc ảnh tuy mượn nhưng đẹp cực kỳ. Ai mà tốt thế? – Cho ảnh mượn cốc.

Nhờ hình em mới thấy vách trúc pha kính thật thơ mộng, chị tả em không tưởng tượng được nhưng dòm hình là đã thấy khoái. Vâng em cũng cầu ảnh làm thầy núi suốt đời, ném hết mọi sự, gì cũng không bằng làm tu sĩ, dù có thường độc hành thường độc bộ thì cũng sẽ sớm đến ngày “du Niết bàn lộ” thôi, hi hi. Thấy ảnh mập mạp, cảnh cư trú thơ mộng em cũng yên tâm, có dịp sẽ kể cho gia đình mình nghe để cùng vui hùn và bớt lo lắng.

 

TIÊU CHUẨN XÂY CẤT VÀ SINH HOẠT

Lá thư 5 
Thứ Ba, ngày 03 tháng 05 năm 2005, 12: 42 khuya.

Hạnh Đoan cưng!

Bây giờ là 12 giờ khuya ngày Friday, chị đang ở chùa Đức Viên, thuộc Bắc Cali, chị vừa nói chuyện xong với ni chúng trong chùa. Đại chúng đi ngủ hết, chị lén ra mở laptop và gởi mail cho em. Chị đang bị cảm vì không quen với khí hậu lạnh. Hôm kia chị giảng pháp cho một số Phật tử nghe, họ hỏi chuyện lâu quá, trời sụp tối, chị lạnh run mà cái áo lạnh kẹt ngoài xe nên mới bị cảm. Thời tiết bên này kỳ lắm. Chỉ mình chị kêu lạnh chứ ai cũng than nóng hết. Chị đi đâu cũng kéo theo hai ba rương quần áo, toàn là đồ lạnh. Chị thường mặc bốn lớp đồ: Bên trong là một bộ đồ thun dày, kế đó là đồ vạt khách, sau đó là áo trắng, ngoài là cái áo gió, ngoài cái áo gió đôi khi chị còn quấn mền nữa… vậy mà vẫn lạnh. Mấy cô ni ở đây vừa sướng vừa cực. Sướng là được ở nhà đẹp sang trọng, đầy đủ tiện nghi, nhưng cực là do chùa phải cất theo tiêu chuẩn chính phủ đề ra:

Phải có bãi đậu xe hơi và lối đi cho người tàn tật, mỗi cô phải có một phòng, nhà bếp phải đủ tiêu chuẩn vệ sinh, thoáng mát, sạch sẽ,… tức là những thứ tốn tiền. Muốn vậy phải vay bank hàng triệu đô la, trả suốt đời cũng chưa hết. Nếu không đáp ứng các tiêu chuẩn đó thì họ không cho mở chùa.

Cất chùa thì phải mướn nhà thầu, không ai được vô làm công quả như ở Việt Nam mình đâu. Một cái chùa Việt Nam chỉ cất khoảng ba trăm ngàn đô là đã to lớn nguy nga rồi, nhưng ở Mỹ phải tốn ba triệu mới cất được một cái nhà tầm thường. Chú MN nói đúng ở chỗ nhà cửa Cali rất mắc, phòng trọ cũng vậy.

Mỹ không cho ở chung giống như Việt Nam mình, phòng trọ nào cũng phải có toilet nhà tắm… nên mắc là phải.

Giá sinh hoạt bên này cũng cao lắm, nhưng do chị ở nhờ ăn chực nên không tốn tiền, chị chưa dám mua cái gì bởi món nào cũng tính bằng đô la, đồ Việt Nam thứ gì cũng có, từ giá, đậu bắp đến rau om, ngò gai nhưng muốn nấu một nồi canh chua, tính ra phải tốn vài trăm ngàn Việt Nam! Đồ ăn Mỹ tuy rẻ nhưng vẫn vuột khỏi tầm tay mình. Nếu chị tự mua thức ăn, có lẽ mỗi ngày phải tốn ít nhất một triệu đồng Việt Nam, ngán không? Cũng may là có Phật gia hộ, Phật tử thương chị, cho ăn ngủ miễn phí nên mới được như vầy, chứ chị mà tự túc thì chỉ đủ tiền ở Mỹ một ngày thôi.

Bên này, tự do nên tình gia đình lỏng lẻo lắm, ít có nhà nào con cháu ở chung như bên Việt Nam, hễ lớn rồi chúng ra riêng, cha mẹ già cũng  ở một mình, nghèo thì vô viện dưỡng lão. Vì vậy, người già rất cô đơn, họ tìm đến chùa, nghe pháp như một nơi an ủi sau cùng. Đi đâu gặp họ cũng đòi nghe kinh nghe pháp, những đồng tiền chắt chiu của họ làm mình cảm động muốn khóc khi nhận.

Ba má chú MN ở căn nhà rất to, có đến cả chục phòng, nhưng các con đều ở riêng, mỗi năm phải nằn nỉ mới chịu sum họp một lần, nhưng họp mặt là phải ở khách sạn chứ không chịu về nhà ba mẹ, vì họ chê thiếu tiện nghi, hai ông bà già 80 tuổi, sống cùng nhau trong căn nhà rộng, nội quét dọn cũng đủ mệt rồi. Có điều, điện nước ở đây rất rẻ, xài thả ga. Vừa thắp, sưởi, nấu nướng, và xài đủ thứ hầm bà lằng khác mà mỗi tháng chỉ tốn 30 USD, trong khi ở Việt Nam nếu xài kiểu đó phải đóng gấp sáu lần.

Vài hàng thăm và tả cho em rõ, chị đi dỗ giấc cho bớt bệnh đây.

 

Lá thư 6 
Thứ Tư, ngày 04 tháng 05 năm 2005, 10:40 sáng.

Chị Ba ơi,

Giờ em mới có thời giờ đọc cái thư chị gởi. Chị bịnh hả? Thiệt là tội nghiệp cho người không quen cảnh “thiên đường’’ hi hi. Nhìn cảnh tuyết thấy đẹp ơi là đẹp, còn các ni cô ở Mỹ thật hồng hào, nhưng ngắm chị thì tưởng chị bị sốt rét, chắc là lạnh quá?

Chúc chị hồi phục mau, ngao du thỏa mộng giang hồ, nhắm được, thì ở luôn đi, vì… giang hồ hiểm ác. Hi hi!

Heo Ú.

 

CÁI GÌ HIẾM MỚI QUÝ

Lá thư 7 
Thứ Tư, ngày 04 tháng 05 năm 2005, 12:15 chiều.

Ê, đừng có xúi dại! Vàng quý nhờ hiếm. Chị được hưởng phước như vậy là nhờ 15 năm nay tuyệt tích giang hồ, bây giờ mới ló mặt ra là một sự kiện vĩ đại (trong mắt thiên hạ). Việc chị biệt tích hay xuất hiện cũng gây ồn ào không kém gì nhau. Gây tiếng vang xong thì phải lui về Việt Nam trốn biệt, còn ở lại Mỹ (chỉ cần nhấc phone lên là gặp, người ta đâu có trân trọng mình. Ông thầy núi TL ẩn dật như vậy, nhưng đi đâu cũng kè kè cái Cell phone, hễ ai gọi đến là “Nam mô A Di Đà Phật! Thầy nghe đây!”… ngó oai ra phết.

Em đừng hà tiện, nhớ gọi phone kể cho tía và Phượng nghe, nếu hai vị này thấy thân nhân mình “danh lợi phục hồi” đầy đủ, thế nào cũng sốt sắng phát tâm tu hành, thì hỏa diệm sơn sẽ hóa thành băng sơn ngay thôi. Hi hi.

Không phải chị giữ chủ trương “cái gì hiếm mới quý,” nên gởi mail không dấu, mà tại vị ni cô chỉ cách gõ mail có dấu đi ngủ rồi, một mình chị mò không ra đành gởi không dấu cho em. Thêm nữa, chị phải viết và xử lý rất nhiều mail, nên viết thư bỏ dấu cho em không nổi vì lâu quá, thôi chịu khó vừa đọc vừa đoán đi. Khoa học có nhắc rằng: Vận động não nhiều thì về già sẽ đỡ bị lú lẫn.

 

Lá thứ 8 
Thứ Năm, ngày 05 tháng 05 năm 2005, 8:15 tối.

Chị Ba ơi!

Em đọc thư rất cức khô – À không, cực khổ! Chị viết “an dat” em đọc thành “ăn đất”, hóa ra là ẩn dật, hang dong em đọc thành “hàng đống”, hóa ra là “hang động”, dan do em tưởng là “dặn dò” té ra là “đắn đo”… Có rất nhiều từ phải động não rất lâu mới hiểu đúng đó chị à!

 

CẢNH SỐNG Ở CHÙA BÊN MỸ

Lá thư 9 
Thứ Năm, ngày 05 tháng 05 năm 2005, 10:16 sáng.

Heo Ú cưng!

Chịu khó tự suy nghĩ và bỏ dấu đi em! Chị hiện vẫn chưa hết khan tiếng. Sau hai thời thuyết giảng hôm chủ nhật, chị bị tắt tiếng luôn, phải nằm dài ở chùa Đức Viên, thuộc miền bắc Cali, đợi khi nào bình phục mới lên đường đi tiếp sang nơi khác… Chùa này có mấy cô ni là học trò cũ của chị ngày xưa nên ở đây khỏe hơn mọi nơi khác.

Qua đây rất khó kiếm được cái nhà hợp ý để ở nhờ. Ai cũng đi làm, đến cuối tuần mới nghỉ. Mình đến nhà, họ phải xin nghỉ việc nên thật ngại, ở chùa này, toàn là ni, chị chiếm một cái phòng, tha hồ nằm và ăn uống theo ý mình. Thức ăn nơi đây thừa thãi và rất hợp vệ sinh. Món nào cũng từ hộp khui ra, chén muỗng đũa thì ăn xong là vứt, sữa bánh, đường là những thứ ai muốn ăn lúc nào cũng có. Cam táo nho nhiều lắm, không ai ngó ngàng tới, giống như mấy mùa nhãn và mận của mình vậy. Các chùa ở đây không thể ở dơ như chùa ở Việt Nam. Nhà bếp phải đủ tiêu chuẩn, sạch sẽ, có nước nóng, nước lạnh, phòng lạnh để chứa thức ăn, tủ lạnh thì to bằng cái phòng của chị, không tìm thấy một con gián hay kiến, nào hết. Lâu lâu chính phủ đi kiểm soát, thấy không đủ tiêu chuẩn là bị phạt rất nặng, những ngày rằm lớn, thiên hạ đến đông, rủi có ai trượt chân té là cảnh sát vào lập biên bản ngay, lập xong họ sẽ đến kiểm tra, nếu cần, bắt buộc sửa đường, sửa nền nhà cho khỏi … ai bị té. Chùa phải có đủ chỗ cho mỗi người một phòng, phòng phải có toa lét đầy đủ tiện nghi, nếu không họ bắt dẹp chùa. Vì vậy chùa mà đông người thì phải làm lớn, hàng triệu đô la lận!

 

CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

Hôm nay mấy cô đưa chị đi thăm các trường trung học cao đẳng và đại học ở vùng stanford. Đại học Y stanford nổi tiếng nhất nước Mỹ và toàn thế giới. Con nhà giàu mới học nơi đây. Học phí mỗi năm là 60.000 USD. Trường lớn như một cái làng. Bên này vùng Cali là hay động đất nên họ không cất lầu, nhà cửa thấp nhưng xinh xắn, và đồng nhất với nhau. Trường có cả siêu thị, bán đủ thứ món ăn trên thế giới, sinh viên các nước tha hồ vào đây chọn. Chị đoán chừng mỗi phần ăn không dưới 5 USD. Trường còn có cả một bệnh viện lớn cho sinh viên thực tập. Chỉ có con nhà giàu mới vào học trường này, giàu không chưa đủ, phải giỏi nữa. Họ cũng có cấp học bổng, nhưng phải là người đậu thật xuất sắc mới được. Người ta nói, sinh viên trường này học 7 năm ra trường, người nào cũng mắc nợ vài trăm ngàn đô la. Họ phải làm hơn 20 năm mới trả hết nợ. Bác sĩ nơi đây khác hẳn Việt Nam, họ phải đích thân chích thuốc và chăm sóc bệnh nhân. Làm bác sĩ cực hơn y tá. Chị theo người quen vào bệnh viện thấy họ lịch sự dịu dàng. Thấy bệnh nhân có người nhà đi kèm, họ nhắc ghế cho ngồi một bên chứ không quát tháo xua đuổi. Bệnh nhân ở đây cũng kỳ cục lắm, họ hay ăn vạ và kiện tụng để bắt đền tiền. Bác sĩ mà có tì vết gì, phải đền tới hàng triệu đô la… nên chị thấy bác sĩ là nghề dễ bị bắt nạt nhất ở xứ Mỹ.

Đời sống Mỹ đầy đủ tiện nghi, vật chất thừa thãi nên ít thấy ai nổi quạu. Bên này người ta vô chùa là để tụng kinh, nghe giảng, chứ muốn làm công quả cũng không có chuyện để làm. Chùa xây cất thì đã cỏ nhà thầu lo trọn gói. Họ khoán hết, mình khỏi lo ăn uống. Giao kèo hai bên có luật sư làm chứng, trễ hẹn là phải bị phạt tiền.

Luật pháp Mỹ rất gắt, tài xế vượt đèn đỏ buổi sáng, trưa đã có thư gởi đến nhà. Trong thư họ phóng to bốn tấm hình: Tấm chụp số xe, chụp toàn xe, tấm chụp rõ mặt tài xế, tấm chụp chiếc xe và khúc đường vi phạm. Người bị phạt đóng 400 USD và đi học luật giao thông một tuần. Cáinhà ở của dân cũng hiện đại. Mình vừa bước vô sân là đèn bật sáng, ở trong nhà mới sờ tay định mở cửa bước ra thì chuông đã reo báo động… y như có ma xó vậy.

Vài hàng thăm và báo tin cho em rõ. Chị đi ngủ đây.

 

BÁC SĨ BÊN NÀY

Lá 10- viết tiếp theo

Heo Ú ơi!

Sáng nay chị đi bác sĩ, ông này có bà vợ là bạn học thời trung học của cô Đức, ông hy vọng với số thuốc tây ông cho, chị sẽ mau hết bệnh hơn. Chùa đang chiếu phim sóng thần và núi lửa cho đại chúng coi. Ở đây người ta tu tân tiến lắm, cái vọng nào cũng phải coi cho biết, nhất là những phát minh khoa học. Bác sĩ ở đây cũng lạ, họ cho chị uống mỗi ngày có một viên trụ sinh thôi. Thuốc ở đây phải có toa bác sĩ mới mua được. Việt Nam mình sướng thiệt, muốn mua bao nhiêu trụ sinh cũng có, miễn là có tiền. Chị bị ăn cháo trắng nhưng được uống cam và sữa ensure… Chắc phải ráng cho mau hết bệnh để còn đi thuyết pháp trả nợ thiên hạ. Thời tiết bên này hiện đang tốt nhất trong năm, chứ sang mùa đông tuyết phủ đầy đường còn tệ hơn. À, đám ma ở đây cũng khác bên mình, người ta có một cái nhà đặc biệt để tổ chức đám tang. Cái nhà đó trồng đầy hoa, rất đẹp. Người chết được quàn tại đó, thân hữu kéo đến chia buồn. Xong tối họ đóng cửa lại, đem quan tài cất vô phòng lạnh, thân nhân kéo về nhà hết, không có ai trực đêm, người ta khóa cửa lại. Xong, muốn đi chôn phải lựa ngày chủ nhật, mới có người đi tiễn đưa, không phải tổ chức rình rang, ngồi cạnh đám tang ăn uống nhậu nhẹt như Việt Nam mình.

Muốn biết thêm xin xem hồi sau sẽ rõ. 

Chị Ba.

 

Lá thư 11

Chị Ba ơi!

Cái này kêu là phước báo đó, hễ không thuyết pháp thì không được hưởng phúc… Nghe chị ăn cháo em cũng đỡ ghen tị… hí hí!

Nói đùa vậy chứ bên đây em cũng ăn cháo, nhưng mà là cháo nêm, nhỏ H nấu y như tiệm rất là ngon.

 

PHẬT TỬ BÊN ĐÂY

Lá thư 12 
Thứ Sáu, ngày 06 tháng 05 năm 2005, 8:00 sáng.

Heo ú ơi!

Sáng nay chị vẫn còn tắt tiếng, định ca bài đào tẩu thì Phật tử kéo tới đông quá trời, chị không trốn đâu cho thoát, tinh thần tu học của Phật tử ở đây cao. Có lẽ vì xã hội văn minh quá. Con cái nuôi dạy cực khổ, tới hồi trưởng thành, chúng bỏ đi biệt dạng. Người già sống hoài niệm với quá khứ, đành mượn Phật pháp an ủi những năm tháng thu tàn. Pháp môn tu thông dụng ở đây là Tịnh độ.

Sáng nay, sau 15 năm tuyệt tích giang hồ, chị mặc ba bộ đồ một cái áo tràng, đắp y đường hoàng (không phải chị làm dáng đâu, mà do trời lạnh quá, phải quấn càng nhiều càng tốt), chị xuất hiện trước bốn trăm người để thuyết giảng, khuyên họ tu niệm Phật… cho chắc ăn. Mình chỉ là kẻ ngắm cành xem hoa, với những Phật tử ở Mỹ mình với họ chỉ là “bèo nước gặp nhau” Nên cứ tùy hỉ tùy duyên mà thuyết là tốt nhất.

Sau thời thuyết pháp chị nhất định không chịu nhận tiền, viện cớ: mình là dân Nam kỳ chính hiệu, hễ mà “vừa đủ xài” là chỉ nằm ca vọng cổ chứ không thèm làm ăn gì hết.

Buổi chiều, chị có một buổi nói chuyện với hai trăm đứa con nít từ 5 đến 15 tuổi, con của người Việt Nam sinh ra tại Mỹ. Tụi nó không đẹp bằng Mỹ con nhưng cũng sạch sẽ, tươm tất hơn trẻ Việt Nam bản xứ. Chị khạp khạp mấy tiếng rồi tắt đài, phải nhờ người kể chuyện, ngồi cười trừ rồi dặm thêm mấy tiếng “yes’ hoặc “no”.

Sau đó chị có gặp cậu mợ Hai Tài, cùng Hải Đường, cậu Hai già, râu tóc bạc phơ, nhưng hồng hào, khỏe mạnh chứ không rầu rĩ như hồi ở Việt Nam. Nghe nói Thanh Phượng con dì ba Lệ cũng sắp qua Mỹ.

Ngày Phật đản chị sẽ đến ngôi chùa ở vùng Indiana để thuyết giảng, sau đó qua Texas… Arizona rồi đi lòng vòng về phía Nam…

Những đứa bé ở đây được đến chùa học tiếng Việt Nam, lớn lên một chút, chúng thường bỏ nhà đi, sống phóng túng. Sau khi nếm trải khổ đau, chúng thường tìm đường quay về ngôi chùa mà thời thơ ấu chúng đã theo ông bà cha mẹ đến đó chơi đùa ăn uống.

Chư ni ở chùa Đức Viên rất tội nghiệp, chỉ có khoảng mười người mà phải lo đủ mọi chuyện. Tổ chức thuyết giảng hàng tuần, mỗi ngày ba thời khóa công phu tu tập, mỗi tuần dạy 400 thiếu nhi học chữ Việt, chứng minh đám cưới, đi đám ma, cầu an cầu siêu v.v… họ sống lục hòa như thiền viện, nhưng chỉ niệm Phật, lâu lâu lái xe chở nhau đi chơi, du ngoạn ngắm cảnh đẹp rồi trở về làm việc như cũ. Có một số em đã học kinh với chị hồi còn ở Việt Nam, nên chị được tiếp đãi, đi chơi ké, chỉ cần lâu lâu nói một bài pháp ngắn là đủ… kiếm ăn rồi.

Chị đi chơi ba tháng rồi về, không có nhiệm vụ sứ mạng gì trọng đại nên khoái chí. Không cần biểu diễn sự tu hành cho thiên hạ nể, đi đâu cũng khai trước là tui nói được nhưng làm chưa được nên ai cũng tội nghiệp, không dám hỏi những câu rắc rối, miễn ai cũng vui vẻ niệm Phật là tốt rồi,‘ chị theo ni chúng niệm Phật thấy cũng vui. Người ta mở sẵn cái băng niệm Phật có tiếng niệm sẵn theo nhịp mõ, mình đắp y, đi chậm rãi lòng vòng. Mỏi chân thì lễ Phật chừng 20 phút, sau đỏ hồi hướng và kết thúc. Phật tử già cũng đến chùa niệm Phật theo, thấy ai cũng hoan hỷ, tu xong, kéo nhau xuống nhà bếp ăn chè, ăn cháo. Hớn hở hẹn nhau mai tu tiếp nữa.

Chùa thì đẹp, bếp thì sạch và đầy nhóc đồ ăn, toilet thì thơm phức, hoa nở tứ bề, đèn đuốc sáng choang, xài thoải mái, chả nghe ai càm ràm chuyện xài nước điện tốn kém nhiều, cũng chẳng nghe ai kể công nuôi nấng mình cực khổ… Chị cảm thấy hối hận: Tại sao có một pháp tu ngon lành như thế này mà đến bây giờ mình mới biết chứ hả?

Vài hàng thông tin, chuyện còn dài, đón xem hồi sau sẽ rõ.

Chị Ba.

 

DU LỊCH VÀ ẨM THỰC

Lá thư 13 
Thứ Sáu, ngày 06 tháng 05 năm 2005, 3:00 chiều.

Heo Ú thương mến!

Món quà nào cũng có cái giá của nó. Sau 15 năm làm thinh, bây giờ chị tha hồ nói, tha hồ cười đùa và hậu quả là bây giờ bị viêm họng, nói không ra tiếng.

Sáng nay mấy sư em bắt chị bỏ lên xe hơi chạy vòng vòng, ở đây Phật tử được nghỉ hai ngày cuối tuần nên hai ngày này là cực nhất, 5 ngày còn lại họ đi làm, chùa nghĩ xả hơi.

Chị hơi mệt là vì lúc nào cũng bị bắt thuyết pháp. Có người thấy chị mệt quá, đem về nhà để trốn bớt Phật tử, cho ăn uống ngủ nghỉ… xong, thấy chị vừa lai tỉnh tinh thần, là họ vội ngoắc con cháu, bạn bè thân quyến láng giềng tới để nghe pháp và giải quyết dùm chuyện gia đình. Được một cái, dòm mặt chị là họ biết thiếu tiền, nên cũng cho lai rai, trừ tiền về phi cơ ra, chắc cũng còn đủ để chị đem về mua gạo chia chác cho dân nghèo, mua bánh kẹo cho con nít, mua sách vở cho học trò.

“Đại pháp sư”… tài ba như chị, ăn toàn đồ Việt Nam, loại thượng hảo hạng, họ tìm mua bằng được những thứ chính cống Việt Nam, trong khi mình muốn ăn đồ Đài loan muốn chết thì họ cho là không ngon, em xem có tức không?

Nơi đây giá, rau sống, rau dền, rau muống, đậu bắp mắc như … vàng, mà ngày nào họ cũng mua.

Chị mới cảm ho ba bữa đã trở thành… trung tâm thực tập y khoa của thiên hạ. Có bữa, chị lỡ dại, đòi ăn thức ăn ngoại. Họ mua cho chị món Pizza, mì ống của Ý, vừa mặn vừa chua. Thức ăn của Mexico thì có đủ mùi mặn, chua cay và hôi rình…

Sáng nay dù nói không ra tiếng chị vẫn ráng leo lên xe hơi (dại gì không đi), cho mấy cô chở đến thăm các trường trung học, cao đẳng, đại học của vùng Stanford, những ngôi trường nổi tiếng, vì toàn con nhà giàu như con tổng thống ghi danh học. Vô siêu thị, căng tin của đại học, chị sẽ gởi em xem cái hình chị ngồi chễm chệ trên sa lông như một phòng khách sang trọng, nhưng thực ra là phòng ngồi chờ để vào toilet đi ị mà thôi.

Đến bất cứ nơi nào, dù sang hay hèn, giòng máu di truyền của tía đã giúp chị giữ chặt túi tiền, ai mua gì thì mua, ta đây cứ im lặng mà… ăn chực. Có lẽ cái máu bỏn sẻn đó làm chị bị trừng phạt, ngày nay không dám ăn gì ngoài cháo và gừng, chanh… híc híc.

Chiều nay chị được dắt đến chỗ vùng có cây cầu treo đầu tiên trên thế giới, là cầu Golden ở San Francisco. Không phải chị thiên vị, dưới ánh nắng trưa, dòm nó xấu hơn cầu Mỹ Thuận Việt Nam mình nhiều, cầu này chỉ đẹp khi có sương mù giăng giăng, mờ mờ ảo ảo. Nó được treo ngang sông, nối liền hai đỉnh núi cao nên lên đó dù giữa trưa, gió cũng thổi rất mạnh và lạnh buốt, chị phải bận đồ như người ta đi Bắc Cực … săn gấu vậy.

Do bệnh mà ham đi chơi nhiều nên chiều nay chị phát sốt, nói hết ra tiếng, nhưng không sao. Nhờ khan tiếng, chẳng ai bắt thuyết pháp, chị có nhiều thời gian chiếm độc quyền cái computer của chùa gởi mail và hình đi khắp nơi, để thiên hạ biết rằng ta đang hành cước nơi Mỹ, dù hơi oách, nhưng cũng có tác dụng khá tích cực là nhỏ P thấy vậy, phát tâm muốn… cạo đầu.

Chị phải nằm và ở đây, đợi hết khan tiếng mới di chuyển sang nước khác được. Nước Mỹ kỳ lắm, bệnh là phải đi khám bác sĩ, chứ không được phép mua thuốc uống đại như ở Việt Nam, hóa ra chỉ có nước mình là sướng nhất: tự do bệnh, tự do uống thuốc và tự do chết vì trúng thuốc.

Để chị xem còn nhớ cách gởi hình về cho em không? Vì cả chùa đều ngủ hết rồi, nếu không nhớ, chờ xem đợt sau sẽ được chiêm ngưỡng, khi có cô nào thức dậy chỉ giúp cho chị. Nghen!

Chị Ba.

 

CHUYỆN… TÂY DU

Lá thư 14 
Thứ Sáu, ngày 06 tháng 05 năm 2005, 11:08 tối.

Heo Ú ơi,

Được nghỉ ngơi, ngồi kể chuyện như vầy cũng khoái, nhưng có nhiều chỗ để đi chơi mà nằm trùm mền một đống thì chán lắm.

Thêm vào đó, ai gặp cũng bày thuốc trị bệnh (em ở tuốt Việt Nam mà còn bày cho chị nữa mà). Những thứ em bày chị thử qua cả rồi, đều không công hiệu. Bệnh một phần cũng tại chị, chị không quen mặc bộ đồ thun dày cộm bó sát người, mà phải mặc đồ đó ở trong, bên ngoài là đồ vạt khách, sau đó là áo tràng, rồi thêm mớ đồ lạnh bên ngoài. Chị cũng không quen sử dụng mấy cái vòi nước nóng và lạnh trong phòng tắm, đang tắm nước nóng, nước ào ào như trời mưa, mình tiếc của vặn nhỏ lại bớt một chút, thì nước lạnh đổ ào ào. Vặn thêm chút nữa, thì nước sôi đồ xuống, nhảy không kịp là biến thành con… cọp luộc. Thiệt là rắc rối! Nhưng em cũng có lý ở chỗ chị bệnh để bớt nhiều rắc rối. Vùng Nam Cali là ổ kiến lửa. Thầy mình qua đây thuyết pháp còn bị thiên hạ biểu tình, phản đối inh ỏi. Chị không dám xuất hiện rầm rộ như thầy. Nhưng sau 15 năm tuyệt tích giang hồ, thiên hạ thấy chị xuất hiện, hiếu kỳ chạy đến xem mặt cho thỏa trí tò mò, hư thực. Họ rượt đuổi theo dấu chị khắp nơi. Bệnh là cách từ chối ít mích lòng thiên hạ nhất.

Hôm chị lên Washington, TL cũng bị vạ lây vì thiên hạ tưởng nó giấu chị, không cho ai gặp mặt. Có một bà sư cô còn sợ chị với TL hợp tác thuyết pháp rồi cựớp hết Phật tử nên báo động um sùm. Có người còn mướn giảng đường có sức chứa ngàn người để tổ chức cho chị thuyết pháp v.v… và v.v… Tóm lại, khôn ngoan nhất là mình nên hưởng vinh hoa phú quý một cách vừa đủ, sau đó thì vắt giò lên cổ mà chạy trốn.

Để chị kiếm thêm vài tấm hình gởi về minh họa cho chuyến Tây du của chị nghen! Em nhớ để dành vài cuốn sách, có chữ ký của tác giả thân tặng nghen!

Chị Ba.

 

Lá thư 15 
Thứ Sáu, ngày 06 tháng 05 năm 2005, 11:37 tối.

Hạnh Đoan cưng!

Chị đi khám bác sĩ hôm qua. Uống mỗi ngày một viên trụ sinh, ở đây, muốn có trụ sinh hay thuốc độc phải có toa bác sĩ chứ không được uống và chết tự do như ở Việt Nam mình. Tối qua chị ngủ một giấc dài, còn nằm mơ thấy mình về Việt Nam giỡn với đám chó con. Ngày chị đi tụi nó mới bằng cái chén, chắc ngày chị về tụi nó đã lớn bằng cái thau! Cali sáng nay có mưa phùn, đủ để cây cối xinh tươi, hoa thắm màu. Dân Cali chê là trời nóng, chỉ mình chị than lạnh. Nhiệt độ bên này cỡ Đà lạt, nghĩa là quanh năm mát mẻ, mình không đổ mồ hôi, mỗi tháng tắm một lần cũng không sao. Hồi mới qua, chị rất khỏe. Lạnh lẽo như vầy nhưng tối ngủ còn khỏi đắp mền. Chỉ tại ban đêm ngủ không được, ngày lại phải thức, lúc nào cũng có người theo hỏi chuyện. Nói riết tán khí thành bệnh. Bây giờ chị biết khôn hơn, lúc nào không muốn nói chuyện thì… quấn mền ngồi, giả bộ ngồi thiền, thiên hạ thấy mình ngồi trong tư thế đó, tưởng tu hành nên lánh xa ngay.

Ở gần cộng đồng người Việt nước ngoài mới thấy tội họ, những người lớn tuổi bắt đầu thấy bơ vơ, tìm lại chùa để có chỗ nương tựa, thì lại nghe chuyện… đồng tiền. Họ rất khổ tâm về chuyện này, nhưng không biết sao.

 

CHÙA ĐỨC VIÊN

Chùa Đức Viên nơi chị cư ngụ có lẽ là ngôi chùa trong thiểu số có quy củ thanh tịnh vả nề nếp, vì nhờ có sư bà Đàm Lựu đặt nền móng trước.

Sư bà tịch đã sáu năm, các em thừa kế cứ theo đó mà làm. Họ tu Tịnh độ, bán đồ chay đề xây chùa cho đầy đủ theo tiêu chuẩn Mỹ. sống Lục hòa, mỗi ngày tu khoảng 4 giờ rưỡi. Khi nào buồn thì lái xe đi lòng vòng, du sơn ngoạn thủy, xong về chùa tu tiếp. Ngày chủ nhật họ tổ chức giảng kinh thuyết pháp, các ngày còn lại cùng nhau tu học rất vui.

Thư bất tận ngôn, chị phải đi ngồi thiền và… ngủ gục đây.

Chị Ba.

 

MỤC ĐÍCH DU LỊCH

Lá thư 16
Thứ Bảy, ngày  07 tháng 05 năm 2005, 9.57 sáng.

Heo Ú ạ!

Đọc thư em, thấy em có nhiều kinh nghiệm xương máu trên dòng đời lẫn đạo, chị rất mừng. Đó là những điều mình tự nhận ra chứ không ai cho được, có ai ráng nhét vào đầu nó cũng bật ra vì từ ngoài vào không phải của báu nhà mình (Tùng tha đắc nhập phi thị gia trân).

Nhớ hồi mình mới xuống Viên Chiếu, đứa nào cũng kiêu khí đầy mình, tưởng đâu tu vài ngày là đại ngộ, chứ ai dè phải lao đao lận đận tới bây giờ. Nhìn TL tu chị mừng, nhưng đường tu còn nhiều chông gai, chỉ khi nào chui vô lò thiêu mới bảo đảm mình là sen vô nhiễm, không nhuốm bùn nhơ.

Hơn nửa đời người trôi qua, chị đã có cái nhìn khác hơn về con người, cuộc đời.

Cái thân mình là tên đầy tớ giỏi nhưng là một ông chủ tồi, nó mà làm chủ thì mình sẽ tệ hết biết. Chị không thể về MĐ… Do vậy mà chị phải ra đi, tự vạch cho mình con đường riêng.

Chị sang Mỹ với tiếng là du lịch, nhưng thật ra chị vẫn đi theo hạnh nguyện lợi tha của mình. Bao giờ đối với Ni chúng, chị cũng có sự thương cảm, xót xa. Với Phật tử, chị tâm nguyện đó là cha mẹ nhiều đời của mình. Thôi để chị đi thuyết pháp cho cha mẹ quá khứ và tương lai nghe vậy. Sau chuyến đi này, có lẽ chị còn đi vài chuyến nữa (không được cho ai biết đấy).

Bệnh chị đã giảm nhưng còn rất sợ mưa, gió. Để trả ơn quý cô Đức Viên đã chăm sóc chị trong thời gian bệnh hoạn, có lẽ chị phải giảng thêm vài thời pháp cho ni chúng và Phật tử rồi mới lên đường đi du phương được.

Để rảnh chị gởi cho em xem cái lịch trình chị bay tới lui qua các tiểu bang để em thấy chị hưởng vinh hoa phú quý ra sao…

Chị bay tất cả năm chuyến bay, dài nhất mười lăm tiếng, ngắn nhất hai tiếng. Mỗi lần bay lên cao lỗ tai ù ù rất khó chịu, mũi bị chảy máu ri rỉ đến giờ chưa hết. Mỹ là một quốc gia rộng lớn, từ nơi này qua nơi khác ngắn nhất là bằng Hà Nội vào Sài Gòn, xa nhất thì gấp mười lần như vậy.

Qua đây chị phải xài lotion (một loại mỹ phẩm) mỗi ngày, nếu không môi sẽ bị nứt nẻ, chảy máu. Hơn hai mươi ngày nay, niêm mạc mũi chị lúc nào cũng rỉ máu hết. Chị không mong có được cái mũi cao như cư dân vùng này, chỉ ước được cái mũi bình thường, không dị ứng với thời tiết là mừng rồi. Hẹn thư sau.

Chị Ba.

 

THUỞ ĐẦU CỦA ĐỨC VIÊN

Lá thư 17
Thứ Bảy, ngày 07 tháng 05 năm 2005, 8:56 tối.

Heo Ú ạ!

Chị làm gì có chuyện ngủ khò như em nói, trời bên này kỳ lắm, 9 giờ tối vẫn còn tưng hửng sáng như Việt Nam mình lúc 5 giờ chiều vậy. Chị chưa bình phục hẳn, tiếng nói chưa trong trẻo lắm, nhưng hôm nay phải đăng đàn thuyết pháp cho hơn trăm cụ già đến thọ bát quan trai giới đây. Mũi chị vẫn còn ra máu vì trời lạnh. Lớp da Việt Nam đã tróc hết rồi, thay vào đó là da của khí hậu xứ Mỹ. Dân Việt Nam ở đây trẻ cực kỳ, trẻ hơn những người cùng tuổi ở Việt Nam khoảng 10-20 tuổi.’

Thấy người ta tu hành bên này mà mình đâm mắc cỡ. Tối qua, chị cũng lên chính điện lạy sám hối với hằng trăm Phật tử và chư Ni trong chùa, nhờ vậy mồ hôi tuôn ướt hết một bộ đồ. Lạy xong phải vội vã đi thay đồ vì trời lạnh dưới 20 độ, khí hậu như Đà lạt vậy.

Bên này người ta làm việc liên tục 5 ngày, thứ bảy ở nhà làm việc nhà, chủ nhật thì đến chùa học kinh nghe giảng.

Các bà cụ rảnh rang mỗi ngày sớm tối đến chùa tụng kinh lễ Phật, tăng ni cũng không thể làm biếng khi có được những Phật tử siêng cỡ đó.

Được ở đậu khỏi trả tiền như TL là khỏe nhất, mỗi tháng nó chỉ cần có 100 đô để đóng tiền phone, tiền xe, bảo hiểm xe là đủ rồi. Ai cũng khen nó khôn mới chọn cách đó.

Chị vừa ngóc dậy, các cô ni đã lôi chị đi khắp nơi để chụp hình. Chùa này do sư bà Đàm Lựu cùng các bà già Phật tử nơi đây, từ ngày đầu mới qua, đi lượm lon bia, ve chai bán… lập nên. Sư bà tịch đã 6 năm, để lại một món nợ ngân hàng, người thừa kế tiếp nối sư bà trả vừa xong nợ và đang vay nợ để cất cái tăng đường hoàn chỉnh.

Ni chúng vẫn tiếp tục lượm lon bia, Phật tử cũng lượm lon chở đến. Mỗi tuần, Phật tử về chùa nghe pháp, góp vỏ lon bia, bán đồ chay cho chùa.

Chị thấy chùa tổ chức vậy mà hay. Đồ chay ngon thì họ có gian hàng bán, giá cả đàng hoàng. Đồ chay bình thường trong chùa ăn, họ dồn riêng một gian, ai muốn ăn thì tự do, khỏi trả tiền.

Nhưng người Phật tử ở đây cũng có lòng lắm, họ làm đồ chay ở nhà, hoặc đến chùa làm, bỏ công bỏ của ra làm, xong đứng bán suốt ngày. Sau đó bỏ cả vốn lẫn lời vô cho chùa trả nợ.

Cali là vùng động đất nên nhà làm toàn bằng gỗ, lầu cao nhất chỉ hai tầng. Ngoài lớp gỗ, họ phun chất chống cháy lên. Xây cất nhà phải do nhà thầu chuyên môn xây, chẳng có dân công quả nào góp tay vô như ở Việt Nam. Tiêu chuẩn do nhà nước đưa ra kiểm soát. Sai quy cách sẽ bị phạt rất nặng. Không có tình trạng dây điện lòng thòng nhếch nhác như ở Việt Nam đâu.

Chùa phải có bãi đậu xe, có lối đi và tiện nghi dành cho người đi xe lăn mới được gọi là chùa. Chùa bên này được cất riêng chứ nhà thờ thì không được, mấy ông linh mục Việt Nam sang phải ở dưới quyền mấy ông linh mục Mỹ nên tấm tức lắm.

Nhiều Phật tử đến chùa không vì tu học mà chỉ để tấn công mấy ông tăng đẹp trai. Hồi trước ai cúng dường chị cũng nhận vì nghĩ để gieo duyên. Nhưng sau này với những người không thành tâm hoặc đồng tiền bất chính, chị không nhận, vì tiền làm không chân chính chẳng thể tạo nên phước đức, chỉ có gây ra ác nghiệp.

Với những người cúng xong, mà dè bỉu, khinh dễ, thì không nhận là cũng cách để họ chỉnh đốn lại cái tâm.

Sang đây, sau thời thuyết pháp chị cũng không nhận tiền của Phật tử đóng góp, vì thấy làm vậy sao giống như… chị bán pháp kiếm tiền!

Chưa hết bệnh nhưng lịch dạy và đi chơi của chị đã chật kín đến ngày về. Chị mà ở đây một năm cũng chưa đi hết các nơi mới. Máy bay đi từ nơi này đến nơi kia, bay 10 tiếng chị tốn chưa tới hai trăm Usd.

Nếu không có cái mũi rỉ máu, chị không ngán gì hết, đi là cái gien di truyền của Phật để lại mà. Chị sẽ ở lại đây vài ngày, chờ khỏe hẳn rồi bay về miền Nam Mỹ, nơi có nhiều nắng và sa mạc, sau đó lại lên miền Bắc, nơi mà tuyết mùa đông còn nán lại. Chị không rõ khi về Việt Nam mình có thời gian viết ra cuốn Tây du này không, nhưng hình như mỗi ngày với chị bây giờ là một ngày mới. Thôi thì, nói như một ông nào đó: Nếu không đủ sức viết nên một tác phẩm để đời thì hãy biến đời mình thành một tác phẩm vậy.

Chị sẽ gởi mấy tấm hình chụp hôm qua tại chùa cho em xem.

 

THUYẾT PHÁP VÀ VÂN DU

Lá thư 18 
Chủ Nhật, ngày 08 tháng 05 năm 2005, 11:57 tối.

Heo Ú ơi!

Ngày hôm qua là thứ Bảy, chị phải nói thời pháp cho khoảng 200 Phật tử đến thọ Bát quan trai giới, đa số là các bà cụ, tóc trắng như bông. Họ siêng lắm, ngày nào cũng đến chùa tụng kinh lễ Phật, mấy cô ở đây, phải làm siêng theo họ muốn… lết bánh. Chị cũng phải đi sám hối cuối tháng cho… đỡ mắc cỡ, rồi theo chúng nghe tụng Bồ tát giới, tụng Tỳ kheo ni giới bổn.

Bệnh chị hôm nay hết hẳn rồi, nhưng chị vẫn còn sợ lạnh. Sáng nhìn trời mưa lất phất, thấy đã ổn. Khoảng 15 độ. Không lúc nào chị dám rời đôi vớ, vớ ở đây dày gấp mấy lần Việt Nam, chị không chui vào cái túi ngủ dày mấy lớp như dân bản xứ được. Chui vào đó chị có cảm giác như mình là Tôn hành giả bị đè dưới núi ngũ hành sơn. Mấy hôm chị bệnh, các cô nơi đây bắt chị chui vô túi, đợi họ đi ngủ, chị lén chun ra. Cái túi đó ấm lắm, giống như chui vô cái bao bố làm bằng bốn-năm lớp mền nỉ vậy, nhưng rất bí hơi và nặng nề.

Hồi mới qua chị hăng lắm, chỗ nào cũng ưa đi, bệnh một trận, đâm ra sợ. Qua đây mà nằm một chỗ, đắp mền, ho sù sụ, ăn cháo loãng… thì thà ở Việt Nam còn hơn. Từ đây đến ngày về, còn 9 tuần lễ, chị phải đi thêm 9 tiểu bang nữa, có nơi cách nhau khoảng 10 giờ bay (Hà nội – Sài Gòn chỉ cách giờ 30 phút máy bay) từ đây mà suy em có thể biết bên đây các bang xa đến mức nào. Chiếc máy bay bít bùng, lạnh thấu xương. Chung quanh mình toàn dân lạ hoắc. Phải thắt đai lưng an toàn, rịt một chỗ. Những chuyến bay đường dài, họ còn phát cho mình một đôi dép nhẹ để cởi giày ra cho thoải mái, phát thêm cái mền mỏng, đắp lên hai chân cho đỡ lạnh. Họ cũng phát thức ăn uống theo kiểu Mỹ, ăn được nhưng không khoái khẩu.

Chủ nhật chiều nay chị giảng khoảng hai tiếng là xong… nợ. Sau đó chị sẽ quá giang xe đi chơi một chút. Đáng lẽ ngày mai chị đã bay xuống miền Nam Cali (cách đây 8 giờ chạy xe hơi, xa cỡ Sài Gòn – Hà Nội) nhưng mấy cô rủ lại, để thứ ba đi thăm chùa Vạn Phật Thành của ngài Tuyên Hóa.

Chùa có tất cả 70 tòa nhà, nằm trên 400 mẫu đất. Thượng nhân Tuyên Hóa là đệ tử chân truyền của Hòa thượng Hư Vân, là sư huynh ngài Tinh Vân.

Nơi đây kỷ luật nghiêm minh, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, nổi tiếng khắp Âu Châu. Chị phải ở lại để đi chơi ké.

Từ chùa Đức Viên đến đó mất 3 giờ chạy xe, xin ăn trưa nơi đó. Quý cô nói thức ăn nơi đó rất khó ăn vì họ không dùng bột ngọt. Nhưng buổi chiều về tụi chị sẽ ăn… bù lại. Chúng tăng của Thiền sư toàn là ngủ ngồi. Họ tu Thiền, nhưng trì Lăng Nghiêm, chú Đại Bi mỗi ngày mấy chục biến, còn lạy sám hối nữa.

TL thọ giáo phái Thiền này, nó chuyên trì chú Lăng Nghiêm chú Đại Bi, niệm Phật lạy sám hối. Nhờ vậy, hôm nay chị thấy bụng nó xẹp,, không còn bự tổ chảng như hồi trước nữa. Cầu trời cho đừng có bà nào thấy nó đẹp trai mà nhào vô rước về để mang họa!

Những ngày thứ bảy, chủ nhật từ đây đến ngày về chị đều có người đặt cọc trước. Công bình mà nói, đi chơi năm ngày, làm việc hai ngày, xem ra cũng không lỗ lã gì (Nếu đầy đủ sức khỏe, không bị ho hen tắt tiếng bất tử), tiền vé bay người ta bao, ăn uống họ lo, ngủ nghỉ cũng miễn phí… không có lý do gì để càm ràm… ngoại trừ tự thân mình lười biếng, chơi nhiều hơn tu, để ông Hộ Pháp phiền lòng.

Chị đã có chút tiền gởi về phát gạo mừng Phật đản cho đồng bào nghèo. Chắc tới Vu Lan, chị sẽ phát một đợt nữa. Cái này gọi là: “Được ăn được nói, được gói đem về”

Dân ở Mỹ không dám ăn nhiều vì sợ mập, họ ăn mỗi ngày có một bữa, cữ đủ thứ. Mình là Việt Nam chính tông, dại gì không ăn, kiếm vài kí thừa đem về Việt Nam, phòng khi thiếu gạo, đem ra xài dần…

Vài hàng thông tin cho em, gọi là biết chút đỉnh thời sự để mở rộng tầm con mắt. Hôm qua chị có gọi phone về thăm tía và P.

Bệnh hà tiện của tía di truyền, chị nhất định giữ làm gia môn, không chịu chi một đồng nào để mua bất cứ thứ gì. Phải đắn đo vài tháng trước khi mở hầu bao. Hy vọng là trước khi muốn mua món gì tại Mỹ, chị đã về tới Việt Nam rồi.

Kiến Châu con: Chị Ba.

 

CHÙA TÂY LAI

Lá thư 19 
Thứ Hai, ngày 09 tháng 05 năm 2005, 3:27 chiều.

Chị đã đến chùa Tây Lai, đã đi lòng vòng quanh chùa, chụp đủ kiểu hình, ăn cơm trưa theo kiểu Self service, nói nôm na là ăn bao bụng, muốn ăn bao nhiêu cũng được, miễn là… trả đủ tiền. Chị có người bao nên cứ ăn mà không rõ là bao nhiêu. Chị cũng có đến dưới tượng ngài Tinh Vân để chụp hình (dự tính sẽ đem về cho em xem) chị cũng có chiêm bái và lễ xá lợi ở chùa này đúng 12 lễ, với hi vọng sẽ thoát những tội phải đọa tam đồ (nghe người ta nói như vậy)…, nhưng, bây giờ hình chưa lấy được mà không biết làm sao để lấy, tại vì chị đã lỡ hẹn sẽ xuống dưới đó một lần nữa để chơi và lấy hình.

Ai dè, Phật tử vùng Nam Cali này, nghe tin chị sắp xuống, họ liền gọi phone, báo tin đã mướn một cái giảng đường có sức chứa ngàn người để chị xuống thuyết pháp. Chị nghe nói, rất… hãi hùng. Không xuống thì tiếc của, xuống thì sợ rủi xui gặp người dữ nhiều hơn kẻ hiền… hu hu, chị phải làm sao đây? Nhờ em nói, chị mới chợt nhớ là mình còn bỏ mấy tấm hình ở dưới đó… hu hu!

Chiều nay, chị vừa xong buổi thuyết giảng ở Đức Viên, đã giã từ Phật tử để… đi chơi! Thứ năm này, theo đúng hẹn, chị phải xuống Nam Cali. Nếu không đi cũng không được, vì chị đã lỡ giã từ Phật tử vùng này rồi, nói đi mà không đi thì kỳ lắm! “Cùng tắc biến” chị đang chờ đợi hộ pháp chỉ đường đây.

Hồi chị sắp đi, chị đã được dặn là không nên nói chuyện trước đông người. Chị cũng nghĩ rằng, mình chẳng quen ai, thân bại danh liệt rồi” qua đây chắc nói cũng chẳng ai nghe. Chủ yếu là đi chơi cho biết. Dè đâu, lúc đầu, chị tuân đúng lời dặn, nói chuyện trước hai-ba chục người, sau đó là sáu-bảy chục, còn bây giờ là ba bốn trăm, sắp lên cả ngàn rồi. Chị không làm sao đuổi bớt người ta được. Nước Mỹ rộng bao la nhưng họ thông tin nhau mau lắm. Những ai có điện thoại di động gọi là Cellphone, sau 7 giờ tối, do được nói chuyện đều không mất tiền, nên thiên hạ tha hồ tỉ tê tâm sự, cùng rỉ tai nhau hoặc hét toang lên rằng: “CÔ NHƯ THỦY QUA MỸ RỒI!”… Có người dặn chị không nên xài tên Như Thủy, vì tên đó xúi quẩy, hễ xài là bị tai nạn liên miên, nhưng người ta đâu có chịu nghe… và cứ kêu danh này của chị… hù hu!

 

TIỆM ĂN NGÀY MOTHER’S

Chiều nay giảng xong, có một sư cô quen, lái xe hơi chở chị đi chơi. Nhân ngày Mẹ Mother’s day, nên các tiệm ăn đông nghịt. Chị được đưa đến một tiệm cơm chay có treo hình Thanh Hải vô thượng sư mặc y phục thời trang thật đẹp. Vô đó ăn cơm chay. Thức ăn nấu ngon (cỡ tiệm Giác Đức ở Bàn Cờ Việt Nam). Ăn ba người, hết 42 Usd, quy ra tiền Việt Nam thì cũng cao giá nên chị… tiếc đứt ruột, thì bỗng có bà nào đó trong đám khách đến ăn, dúi vào tay chị 200 Usd… hi hi, chị sẽ đem về Việt Nam làm từ thiện vậy.

Chị còn ở Mỹ khoảng 70 ngày nữa, chị đã hẹn đi khắp 10 tiểu bang: Indian, Texas, Louisiana. Massachusetts, New York, Virginia, Maryland, Pennsylvania, Georgia… (Ấy là chị đã từ chối bớt, chứ nếu ai mời cũng đi, chưa mời đã đi… thì chắc phải ở Mỹ vài kiếp nữa mới đi hết) vì nội Cali không thôi cũng đã bằng nước của mình rồi.

Cái phòng ngủ của chị nằm cạnh máy computer (máy vi tính) của chùa nên hễ rảnh là chị chạy ra mail liền. Ban đêm giảng đường này không có ai cả. Nếu vài hôm nữa tự nhiên không thấy chị gởi mail, thì em phải hiểu là vì chị chưa tìm được chỗ người ta để computer chứ không phải chị… mất tích đâu nghen.

Ở đây ban đêm chị hay mượn cell phone để nói chuyện với TL (vì không mất tiền). Gien di truyền của tía mình đó mà!

 

THĂM VẠN PHẬT THÀNH

Lá thư 20 
Thứ Tư, ngày 11 tháng 05 năm 2005, 8:58 tối.

Heo Ú ơi!

7 giờ sáng hôm qua chị cùng Ni chúng Đức Viên đi thăm Vạn Phật Thành, tới 11 giờ đêm mới về tới chùa. Mệt muốn xí lắc léo. Đi xe máy lạnh, chủ nhà lái, ngồi ghế thượng hạng, vậy mà mệt muốn đứt hơi.

Nếu chị trẻ lại khoảng ngoài hai mươi, nếu mình được đi tự do, chắc chị sẽ dắt em vô đây tu cho… biết. Chùa có 70 tòa nhà, mỗi tòa là một ngôi biệt thự hẳn hoi, khuôn viên chùa là 50 ha, nghĩa là lớn gấp mười lần khu Thường Chiếu hồi xưa.

Trước đây, chỗ này là nhà thương điên của Mỹ, do bị nghẹt mạch, không có nước để xài, nên chính phủ Mỹ bỏ hoang, dời mấy ông điên đi hết. Họ bán lại cho ngài Tuyên Hóa với giá rẻ rề. Sư mua xong, về ở, cầm gậy chỉ chỗ đào giếng, kỹ sư theo đó đóng giếng và có nước xài liền (y chang chuyện lục tổ). Chị có đến chiêm bái xá lợi ngài Tuyên Hóa, có thấy cây gậy ngoằn ngoèo của ngài (nhưng không dám ăn cắp) hi hi.

Chùa này ăn cơm gạo lứt nấu với nhãn nhục, thức ăn không dùng bột ngọt, nhưng ăn khá khoái khẩu, ở đây tăng chúng phải đắp y suốt ngày, y màu nâu chứ không phải màu vàng. Từ sáng sớm, Đức Viên đã rủ chị đi chơi phải đem y theo. Tưởng đâu là đem y theo lễ Phật, không ngờ đem theo để… kiếm ăn. Đắp y vô mới vào trai đường ăn cơm. Cuối bữa ăn, người ta còn phát hạt dẻ, kẹo, bánh mì xăng quýt cộng bơ, mứt… trái cây như cam bưởi, xá lị… Nói chung là thức ăn không tốn tiền, nhưng ngon vô kể. Chị đang ăn thả giàn thì bắt gặp đôi liễn chữ Tàu, đại ý: Người xứng đáng, một đấu vàng cũng tiêu. Không xứng đáng ăn, một giọt nước cũng không tiêu.

Có lẽ vì tạp niệm nên sáng nay chị mệt nhừ tử chăng? Nhà cao cửa rộng, thức ăn dồi dào, không khí trong lành, nhưng phải tuổi hai mươi mình mới tu nổi, vì nơi đây tu sĩ không được nằm ngủ, phải ngồi mà ngủ, lại ăn mỗi ngày có một bữa thôi. Phải cỡ tuổi em hồi 16-17 lúc vô Viên Chiếu đó mới đủ sức khỏe và nhiệt tình để theo nổi.

Ăn xong, kéo nhau vào Vô Ngôn Đường, nơi thờ xá lợi Phật và ngài Tuyên Hóa. Cùng đi có một sư bà người Tàu, trên 80 tuổi. Sư bà trưởng chúng nơi đây là ni sư Hằng Trì, một người Mỹ chính cống, mắt xanh mũi cao đàng hoàng. Họ phỏng vấn chị, vì mỗi người phải nói về chuyện tu hành của mình. Chị kể sơ thôi. Khi họ hỏi: Điều gì quan trọng nhất của tu sĩ? Chị Đáp: Sự an lạc. Họ hỏi: Làm sao để đạt được? Chị đáp: Thực hành lời Phật dạy. Hỏi: Điều gì khó khăn nhất của tu sĩ? Chị đáp: Sự chân thật.

Chưa xong cuộc phỏng vấn, chị tháo chạy ra ngoài vì … mắc tiểu, ở đây khí lạnh, không ra mồ hôi nên mình mắc tiểu hoài. Nhà tiểu lại ở xa, muốn đi phải đi… xe hơi. Chị đi lạc, sắp chết vì bể bụng thì gặp người dắt vô toa lét của ký túc xá nữ sinh để… xả nước. Nơi đây cũng có trường tiểu học, và trung học dạy theo chương trình đời, có cả đại học nữa. Nghĩa là có đủ hết những thứ mà dân nghèo cỡ mình mơ ước.

Qua đây ai cũng rủ chị ở lại luôn. Chị giữ đúng chủ trương: Hãy đứng lên khi tách trà chưa nguội. Vì đi chơi, làm khách khoái hơn làm chủ. Chủ nhà sẽ bị đủ thứ phiền toái. Làm khách, chỉ cỡi ngựa xem hoa rồi đi!

Các chùa ở đây không có các chú tiểu nhỏ. Chị hỏi lý do? Mấy cô đáp: Con nít dưới 18 tuổi, mình nuôi nó, lỡ mà nó có vẻ mặt buồn rầu, khi đi học cô giáo hỏi, biết nó ăn chay và bị thức khuya dậy sớm, bị dạy dỗ nghiêm khắc, làm nó buồn thì người ta sẽ bắt mình ra tòa, vì tội ngược đãi con nít.

Cha mẹ cũng không có quyền đánh con, con nít mà thưa là mất quyền làm cha mẹ, họ sẽ đem con mình giao cho cha mẹ khác … nuôi (Biết vậy, hồi nhỏ mình qua Mỹ ở há!)

7 giờ tối sư bà người Tàu đãi chị một bữa ăn ở phố tàu tại San Francisco, bữa ăn không dưới mười món, ăn xong, người nào cũng mệt muốn chết vì … no. Chị không biết tiền ăn bao nhiêu cho hai bàn mười bốn người. Nhưng thấy tiền boa tới 45 Usd lận! (Này, có muốn qua đây làm… bồi bàn không?)…

Tụi chị về đến chùa là 11 giờ đêm. Nội lái xe đi, về cũng mất 7 tiếng, đó là chạy trên 100km/giờ. Chị có chụp hình, bữa nào rảnh sẽ gởi cho em.

Chị tính đi ngủ thì có phone từ Canada gọi, mời chị qua đó. Chị đành hẹn kỳ sau. Mất một giờ nghe điện thoại và đi ngủ lúc 12 giờ (vinh hoa phú quý cũng có cái giá của nó chớ!)…

Thôi chị stop đây. Nghe oai quá há? Chị muốn bệnh trở lại vì hôm qua ăn quá nhiều. Ngày mai chị phải đi Nam Cali bằng xe bus (xa cỡ Sài Gòn ra Đà Nẳng vậy). Đi cho biết chứ ngồi máy bay hoài ngán lắm. Đi máy bay độ một tiếng, nhưng ra phi trường ngồi chờ xét hành lý cũng hơn một tiếng, chán lắm.

Mai kể tiếp – Chị Ba.

 

DU LỊCH CÙNG CÁC EM ĐỨC VIÊN

Lá thư 21 
Thứ Năm, ngày 12 tháng 05 năm 2005, 2:29 chiều.

Heo Ú ơi!

Sáng nay cả chùa Đức Viên rộn rịp làm chả giò để dành bán và cũng để dành cho ngày Phật đản.

Mấy chục người xúm vô cuốn chả giò, xong, chất vào tủ lạnh, xài cả tháng cũng được. Các cô ni ở đây rất giỏi, làm việc cật lực… Còn chị, do đêm qua thức tới 1 giờ, sáng ngủ tới 5 giờ. Xong thì bò tới computer để gởi mail, check mail. Ba bữa ăn đầy đủ, còn được mấy em nhỏ chiên chả giò dúi nhét cho nữa. Ngoài chứng bệnh khan tiếng ra, chắc chị sẽ lên kí đều đều. Nhưng chị sợ nhất là mất ngủ. Bên này sau 9 giờ đêm là Cell phone không tốn tiền, nên thiên hạ cứ nhè giờ mình ngủ mà réo gọi. Lúc 23 giờ đêm nay, Diệu Hảo mới gọi phone cho chị nói chuyện đâu khoảng 30 phút. Hawaii cũng thuộc Mỹ nên gọi xa như vậy mà không mất tiền phone. Hi hi… chị nổi danh chắc… bằng hoa hậu… nên đi đâu ai cũng khoái đến coi mặt. Phải chi chị có cái mặt của em cũng đỡ. Đằng này chị lại có sắc đẹp của ngài … Bodhi Dhamma (thiếu hàm râu)… Nhưng thôi kệ! Có bao nhiêu xài bấy nhiêu. Đôi khi đẹp lộng lẫy quá cũng bất tiện cho chuyện đi chơi, đi ăn chực của mình. Nhờ không được diễm lệ… nên phái nữ ít có ai ganh tài ghét sắc với chị!

Ba giờ chiều, ba ni cô nhỏ nhất trong chùa kéo chị lên xe hơi, tụi nó chạy ra downtown (khu buôn bán kinh doanh trong thành phố), ghé vô tiệm cơm chay, đãi chị một bụng. Ai muốn ăn gì thì tùy ý. Chị chọn mì hoành thánh, ba đứa kia kêu bánh xèo, bún mộc và nem nướng… Ăn xong, chủ quán không tính tiền! (uổng thiệt, biết vậy chị đã kêu thêm vài món nữa. Hi hi)…

Ăn xong ba đứa nhỏ chở chị vô siêu thị, bảo là vô đây có nhiều đồ ăn Free, nghĩa là ăn thử khỏi trả tiền. Phải có thẻ đặc biệt mới được vô, vì chỗ này bán đại hạ giá. Chị đi ké vô, thấy bán đủ thứ, từ máy móc, giường ghế tới laptop và thức ăn, nước ngọt. Đại khái giống như siêu thị Cora bên Việt Nam vậy. Loại bơ bột màu cam hồi em còn nhỏ chị hay mua cho em ăn bây giờ không thấy, có loại phô mai từng miếng ép lại ăn với bánh mì cũng khá ngon. Chị định mua về cho em, nhưng hễ mua là người ta trả tiền dùm nên chị đành đứng ngó mà không mua gì hết. Vả lại, chị còn đi ta bà hai tháng nữa, nếu mua, thì biết cất vô đâu? Rau cải bên đây mắc, trái cây cũng mắc, nhưng các đồ dùng máy móc rất rẻ. Nói mắc là so với tiền mình, nhưng so với giá của Việt Nam thì vẫn rẻ hơn nhiều.

Rời chỗ này, chị được đưa đến thăm trường đại học San Jose, vào thư viện tám tầng, mang tên ông Luther King là ông Mục sư tranh đấu bất bạo động da đen đã bị giết- chị leo lên tuốt lầu tám, chụp hình từ trên dòm xuống, từ dưới dòm lên…

Kế đó mấy đứa nhỏ lại đưa chị đến một cửa hàng bán kim khí điện máy hiện đại của Mỹ, đến nơi là 21 giờ, người ta đã đóng cửa, mấy đứa nhỏ rủ chị đi ăn khoai chiên. Chị tưởng sẽ được vô tiệm. Không ngờ chỉ cần ghé vô một cái trạm, người mua nói chuyện với một cái … máy, yêu cầu những thứ cần. Sau đó lái xe đến một cái cửa sổ, trả tiền, lấy phiếu. Lại chạy đến một cửa sổ nữa, đưa phiếu và nhận mỗi người một bọc khoai tây chiên nóng hổi, giòn rụm. Loại này ăn với sốt cà chua. Ăn xong uống một ly coca. Chị còn đòi ăn thêm một cây kem vì thấy hình nó in trên tường rất đẹp. Kem khá ngon, nhưng giá tới 2 Usd, nghĩa là mấy mươi ngàn Việt Nam đồng. Mắc quá xá!

Chưa hết. Tụi nhỏ còn rủ chị leo lên núi, để đứng trên đỉnh nhìn xuống thành phố San Jose ban đêm. Vừa nghe đề nghị vậy chị đã la oai oái vì sợ lạnh và bệnh. Chị nghĩ 22 giờ đêm mà leo lên núi thì chỉ có những kẻ khùng mới làm điều đó. Tụi nhỏ cười ầm lên: Không phải vậy đâu Ni sư ơi! Mình ngồi trong xe ngắm cảnh chứ đâu có chui ra khỏi xe đâu! Và vừa ăn khoai chiên, vừa chạy xe. Chị ăn chưa hết cây kem thì xe đã lên đến lưng chừng núi. Tài xế quay xe, tắt đèn để nhìn xuống thành phố chi chít đèn phía dưới: Cả một biển ánh sáng, đèn lung linh huyền ảo, nhưng im lặng không có tiếng động. Bên trên là ánh trăng thượng tuần chiếu xuống. Dân Mỹ tự do nhưng tự do trong trật tự, nghĩa là ai muốn làm gì thì làm nhưng không được đụng chạm đến quyền tự do của người khác, nhất là những người giàu. (Thiền viện Đại Đăng bị dân Mỹ chung quanh thưa kiện vì Phật tử kéo lên đông làm mất không khí yên tĩnh chung quanh). Ai muốn nghe nhạc cũng được nhưng không được để tiếng ồn lọt ra khỏi nhà mình. Trong thư viện, có những phòng kiếng cách âm để từng nhóm sinh viên vào đó học và bàn bạc mà không làm ảnh hưởng đến chung quanh.

Những ai học ở ngoài, mỗi người một bàn, đặt san sát nhau, nhưng không được làm ồn. Bàn nào cũng có ổ cắm điện để mình nghe nhạc (loại nhét tai) hoặc xài laptop. Trên mỗi chiếc ghế ngồi ở máy bay đều có nút bật đèn riêng, để ai muốn xài đèn thì bật lên, chì chiếu vào chỗ của mình mà không lấn qua người khác. Ghế ngồi này cũng có chỗ cắm điện để mình cắm máy laptop hoặc xài máy đĩa DVD…

 

CẢNH SỐNG ĐẸP NHƯ MƠ

Ở các công viên dọc đường, gọi là Park, cũng có ổ điện cắm cho mình xài thoải mái, không tính tiền…

Chị qua đây xài ké, ăn chực, mọi tiện nghi đều ké! … được hơn một tháng, lớp da đen đúa Việt Nam đã tróc bớt. Chị có cảm giác mình thành Việt… kiều, quần áo giặt máy, khi sấy người ta còn bỏ giấy thơm vô, mùi đặc trưng của Mỹ… cảm thấy mình sang trọng và sạch sẽ hẳn lên. Đôi chân lúc nào cũng mang vớ. Bước ra khỏi nhà là có áo choàng, lên xe xuống… đất. Nền nhà nào cũng trải thảm đi thiệt êm chân… đi đâu cũng nghe người ta rủ ở lại, làm giấy tờ ở lại… khiến chị anh chàng Bát Giái trong chị bỗng dưng muốn “ở lại xóm Cao Lão, cưới vợ làm ăn, cần gì đi thỉnh kinh cho xa”…

Ôi, mai kia mốt nọ, trở về Việt Nam, đêm đêm tụng kinh, điện cúp, mới hả miệng chưa kịp rống câu: “Pháp vương vô thượng tôn”… thì muỗi đã chui tọt vô nóc họng. 

Đèn thì leo lét, thằn lằn còn… ỉa trên đầu, kiến bù nhọt chui vô tận mùng. Mùa mưa đến, mối còn bay vù vù như phi cơ oanh tạc. muốn uống một ngụm nước nóng, phải ra kiếm củi, quơ chà, nhen lửa, thổi phù phù, quẹt nước mắt, mới có được miếng nước còn kèm theo vài con lăng quăng… ăn cơm cũng vậy, phải nhóm lửa, vo gạo, luộc rau, kho nước tương… vừa chấm mút ăn vừa nhớ đến nước Mỹ đã thành chiêm bao…

Ôi thánh A-la ơi, Chúa ơi, Phật ơi!… sao mà Mỹ nó giàu thế, sang thế, ngon lành thế? Thiên đàng cực lạc đều ở xa xôi trong khi Mỹ quốc thì ở ngay địa cầu này. Cái Visa vẫn còn hiệu lực thì dại gì không đi chơi một chuyến nữa cho nó… sạch bách hết phúc báu… xong trở về thành kẻ lang thang không nhà (homeless) hả, Heo ú ơi!

Chị phải đi ngủ đây, 8 giờ sáng mai đã lên đường đi… ăn chực nơi khác. Chị phải đi ngủ, hẹn em khi nào kiếm được computer sẽ kể tiếp. Không biết khi về Việt Nam, chị có rảnh để viết Tây du ký không, chỉ sợ rằng, danh lợi đầy đủ, người ta sẽ lười biếng. Thôi, em cứ quơ mail chị gửi về, đóng thành tập, kèm theo 101 tấm hình màu xanh xanh đỏ đỏ, đặt tựa là Thư Tây Du… cũng có thể kiếm bộn bạc rồi. Nhớ in vài đoạn nào để dụ con nít, cho thiên hạ coi, quảng cáo trước xem có ai chịu bỏ tiền ra in không, mình được danh, họ được lợi, vừa khoẻ tâm mập thân nữa. Chị định sẽ nhịn ăn bớt 1 buổi chiều để…cho ốm. Nhưng, chiều nào cũng cầm lòng không đậu, biết làm sao đây, hả nhóc?

Thư bất tận ngôn.

Chị Ba

 

Lá thư 22 
Chủ Nhật, ngày 22 tháng 05 năm 2005, 9:20 sáng.

Chị Ba!

Thiên hạ đồn chị nhận tiền cúng dường nhiều, bảo nhau: Phen này em tha hồ ăn ngập mặt – Nghe mà tức! Họ đâu biết chị vốn không hề lấy tiền thập phương đút nhét hay nuôi người thân như em? Tiền thập phương chị toàn làm chuyện công ích cho thập phương? Hù hu! Oan này ai thấu. Em phải tìm gì đó ngon ăn cho nguôi sầu mới được! hic hic!- Heo ú.

 

LỜI NGUYỆN NGÀY PHẬT ĐẢN

Lá thư 23 
Chủ Nhật, ngày 22 tháng 05 năm 2005, 10:28 sáng.

A Di Đà Phật!

Hôm nay nhằm ngày Phật đản, đệ tử tha thiết, nhất tâm đảnh lễ, chí thành cầu nguyện sao cho những lời đồn đãi mà Heo ú vừa kể, lập tức biến thành sự thật, từng đãy, từng đãy tiền … to lớn, sẽ nhịp nhàng nối đuôi nhau chui vào cái túi ba gang của đệ tử… thì đệ tử vô vàn hạnh phúc, vô vàn cảm tạ… những lời đồn đãi rất mực thiêng liêng và vô cùng linh nghiệm như vậy!

Nếu mà… “cầu được ước thấy”, đệ tử nguyện từ nay sẽ phát tâm chầu chực, chui ra, bước vào… bay qua bay lại trong thế giới này, ôm kè kè theo cái túi ba gang … bất kể giang hồ hiểm ác… v..v… và v..v…

Chị kể cho nghe, sáng nay, chị đã làm một chuyện vô cùng vui vẻ là cùng với Nguyên Thiện (trụ trì chùa An Lạc), đứng ra làm lễ, truyền Tam quy, ngũ giới cho một số Phật tử. Trong đó có một ông và một bà là dân Mỹ (America) chính cống, mắt xanh mũi to… đàng hoàng. Dĩ nhiên, chị giảng về ý nghĩa quy y, còn Nguyên Thiện thì trao pháp danh Việt Nam cho họ. Hi hi, dân Việt Nam da vàng mũi tẹt, được làm Thầy cho những ông bà Mỹ cao lớn mũi to… Thầy trò chụp hình lưu niệm… Cuối cùng là một bữa cơm rau thân mật thì còn gì happy và vui vẻ bằng.

Nè, em ở gần thiền viện, hưởng mùi Thiền, nghe Thiền ca hưởng pháp hỷ… Đây là ước mơ của hàng trăm, hàng vạn… người Phật tử ở trong nước và hải ngoại. Cái diễm phúc này, không phải ai cũng có được… nên em hãy ráng mà hưởng, kẻo mai sau có muốn cũng không có!

Chị phải đi ăn tối đây (kẻo hết tô bún). Viết cái mail cho em mà phải viết… 4 lần mới xong vì hôm nay khách quá chừng. Khách thì có nhưng tiền không có đâu nghen!

Chúc em nhĩ căn viên thông – Chị Ba.

 

Lá thư 24 
Thứ Hai, ngày 23 tháng 05 năm 2005, 1:15 sáng.

Heo Ú ơi!

Chị vừa xong thời thuyết pháp ngày Phật đản. Giá mà Tía được thấy cảnh chị được đón rước long trọng, chủ trì buổi lễ tắm Phật, bằng các nghi thức đặt sệt Quảng Trị thì Tía sẽ hãnh diện biết chừng nào: Tán lư hương và Tam quy y… đọc có ca có kệ, giữa chuông trống rùm beng – bằng những giọng Quảng Trị chính cống. Hệ quả là nghi thức kéo dài tới gần 12 giờ vẫn chưa ăn cơm, chị và thính chúng đều bị đói meo, chị vừa giảng kinh, vừa phải canh đồng hồ… sợ người ta đói bụng… xỉu, nên nói láp váp không đầu không đuôi gì hết… Và, bây giờ thì… “tai nạn” đã qua, mọi người đều đang xì xụp ăn uống.

Các chùa Việt Nam ở Mỹ thường có hai cửa hàng: Một nơi bán đồ ăn phải trả tiền, một nơi ăn miễn phí… Hai cửa hàng đều ở chung một chùa. Phật tử đến ăn, tự lấy chén tô… múc đồ ăn, ăn xong vứt đại vô thùng rác, chùi miệng, rồi tự do ra về. Chùa thường cho ăn trễ… có lẽ để Phật tử đói bụng sẽ mua ăn trước (và phải trả tiền). Chị thì khoái… ăn cả hai nơi! Thôi, chị phải đi ăn, kẻo hết đồ ngon vì ngoài kia, Phật tử đang… “xực phàn” dữ dội!

 

ÍCH LỢI CỦA VÂN DU

Lá thư 25 
Thứ Hai, ngày 23 tháng 05 năm 2005, 8:09 tối.

Heo Ú ạ!

Ngày hôm qua, sau thời thuyết pháp, chị mệt muốn đứt hơi, không phải mệt vì nói nhiều mà vì Phật tử cứ kì kèo, nài nỉ mình về tiểu bang của họ thuyết pháp. Chị nói không có bài bản, ly văn tự, ly kinh điển, nhưng họ khoái nghe, nghe xong cười khoái chí. Sau đó, bảo đảm là họ quên hết nên mới ùa chạy theo chị để nghe tiếp. Không biết hàng Hộ Pháp có rầy chị về vụ thuyết pháp… nói lung tung không? Tin chị sang đây đã bay khắp 50 tiểu bang, tiếng lành đồn xa, chắc chị phải đi thêm một chuyến nữa mới hết’… “đơn đặt hàng”.

Mấy tấm hình chị gửi vừa rồi không có chú thích là vì chị bận quá, cái bàn ăn có lá chuối là do chùa An Lạc dắt chị đi… Chicago, trưa ghé nhà Phật tử ăn chực. Nhà này chuyên làm bánh nậm đề bán, dân Huế chính cống nên họ đãi mình toàn món Huế. Nơi đây, đồ ăn dư dả, mình ghé nhà ai ăn họ cũng mừng. Lá chuối là từ Thái Lan nhập qua. Hình chị ngồi trước ly kem là ly kem… chiên, còn có mấy cái hình chụp chị đang ăn kem, mặt như khỉ ăn ớt nên chị không gửi cho em. Bờ hồ chị đứng là hồ Michigan của tiểu bang illinois, thủ phủ nơi này là Chicago. Hồ này là một trong năm hồ lớn nhất của nước Mỹ. Hồi đó, học Sử và Địa Lý của Mỹ, học hoài không thuộc. Bây giờ, chị đi chơi một chuyến là chị thuộc làu làu liền.

Hình chị chụp trước mấy mô hình không gian là thuộc bảo tàng không gian của Mỹ, Chicago. Thầy cô dắt học trò vô đây cho nó học trực tiếp… về thái dương hệ. Muốn học cảnh nhật thực, nguyệt thực, mình chỉ cần ngồi vô ghế, bấm máy lên là cảnh tượng đó hiện ra liền. Núi lửa, động đất cũng có nhưng mô hình thu nhỏ nên chỉ cần bấm nút, đợi một chút là núi lửa phun trào. Mỹ dạy con nít rất là tự tin. Lớp mẫu giáo đã có tinh thần đó. Đứa bé ra đứng giữa lớp, cho bạn bè và cô giáo phỏng vấn, trả lời theo ý của nó chứ không phải theo ý của thầy cô. Thằng bé Nghiêm, mới 4 tuổi, đi học mẫu giáo, về tới nhà đã chỉ tay vào ngực, tự giới thiệu: l’m a very Important person today. (Con là người quan trọng nhất hôm nay), nghĩa là, nó được cử ra, đứng… dọn mấy con gấu cất vô tủ đồ chơi chung của lớp. Thư viện, phi trường, siêu thị, tiệm ăn… đều có những phòng đầy đồ chơi để cho con nít vô đó chơi. Nếu mỏi chân, tụi nó có thể leo lên các xe đẩy hoặc xe điện để theo ba mẹ đẩy đi dạo trong các shop.

 

THIÊN ĐƯỜNG CỦA TRẺ THƠ

Mỹ quả là thiên đàng của con nít. Cha mẹ và thầy cô không được đánh nó. Từ mẫu giáo, nó đã được học số phone cấp cứu, hễ cha mẹ hay bất cứ ai quẹt một roi là police (cảnh sát) tới bắt người đó liền. Vô trường học, đứa bé ngồi ủ rũ, thầy cô hỏi, nếu biết được người lớn làm nó buồn, thì sẽ lập tức can thiệp, lôi người đó ra tòa. Vì vậy, các chùa nơi đây không dám nuôi hay chứa người dưới 18 tuổi. Cha mẹ mà đánh mắng con cái ngoài chỗ công cộng là lập tức có người báo cảnh sát… Lì cỡ Hạnh Đoan, đời sau sinh qua Mỹ cho khỏi bị đòn. Qua đây, chị thấy trong các chùa, rủi có người nào té, dù lớn hay nhỏ… vị trụ trì đều xanh mặt. Con nít chạy chơi, bị té… phải gọi cấp cứu. Xe cấp cứu đến, kèm theo police, họ sẽ điều tra đường đi của chùa, lập biên bản… Nếu có ai té thêm nữa thì chùa phải sửa lại toàn hệ thống của khuôn viên. Chùa nấu thức ăn, Phật tử đến ăn, dù có trả tiền hay không, thỉnh thoảng họ vẫn lấy thức ăn về phân chất. Nếu thấy không đúng tiêu chuẩn, họ lập tức bắt mình hủy bỏ thức ăn và đi học tập cách nấu nướng cho… vệ sinh.

CUỘC SỐNG BÊN ĐÂY

Mỗi chùa đều phải có máy làm nước đá cục (để phòng khi có người té gãy tay mà băng bó) dù chùa nào cũng có cái tủ lạnh to như cái tủ đựng quần áo. Thức ăn khô cũng phải bảo quản trong một cái kho lạnh dành riêng cho đồ ăn khô. Cái máy rửa chén to như hệ thống máy dệt, những ngày rằm phải rửa bằng máy, máy phun savon, phun nước nóng rồi sấy chén khô luôn cho nó tiệt trùng. Dân Mỹ lệ thuộc vô máy móc, vì vậy mà họ cứ phải làm và trả nợ cho những máy móc đã lỡ mua. Toilet (nhà vệ sinh) phải có đủ lối đi cho người tàn tật, những chỗ đông người như chùa đều bị y tế giám sát chặt chẽ. Hai người một phòng, phải được trang bị đủ tiện nghi… Chùa nào không đủ tiêu chuẩn là họ ra lệnh dẹp. Vì vậy, chùa muốn tồn tại phải vay nhà băng (bank) hàng triệu đô la, vay rồi thì phải è cổ trả nợ.

Chị nghĩ mình được tiếp đãi nồng hậu, một phần do danh tiếng (hay tai tiếng) của chị lan xa, đi đâu thiên hạ cũng tò mò kéo tới, thu hút đông đảo quần chúng.

Chị không dám ở lại Mỹ tu hành ăn chực đâu, có ăn chực cũng phải đi bằng xe hơi, di chuyền hàng trăm km là ít. Đi bộ cảm lạnh cũng khó mua thuốc. Chị thuyết giảng ăn khách là vì 15 năm làm thinh, nói hoài, hết chuyện để nói thì … cũng phải kiếm chỗ cất chùa, kiếm Phật tử quy y, vay ngân hàng trả nợ… và sống y chang Tăng, Ni ở đây. Thôi, về Việt Nam tu là khỏe nhất, mỗi tháng chỉ cần có 10 ký gạo, hai chai nước tương và một cái nồi là … đủ xài.

Hôm nay, có người đãi ăn sáng, rủ đi chơi… Ngày mai chị đi Texas rồi nên thiên hạ phải đối xử tử tế với chị, vì một khi chị ra đi rồi, khó hẹn ngày trở lại. Gia đình Hồng Đức cũng đã gọi điện thoại cho chị gần mười lần để mời chị đến tiểu bang họ ở, dĩ nhiên là chị đâu có ngu mà nhận lời, ham hố… dẫn xác đến để “giết người trong mộng” của họ…

Vài hàng tin em rõ, chị phải dùng bữa để đi chơi ké… cho kịp giờ đây.

Chị Ba

 

MÓN CHAY THÁI LAN

Lá thư 26 
Thứ Ba, ngày 24 tháng 05 năm 2005, 6:38 sáng.

Trưa nay, có người mời toàn thể ni chúng đi ăn cơm chay Thái Lan, chị cũng được ké theo. 10 giờ, cả bọn chất nhau lên hai chiếc xe hơi. Xe chạy ghé vô tiệm nail của thí chủ. Chủ nhân mời quý vị sư cô leo lên ghế ngâm chân, chiếc ghế ngồi có bọc nệm da, mình dựa lưng vào là nó đấm bóp. Hai chân sẽ được ngâm vào nước nóng và hóa chất cho mềm da. Sau đó, người ta sẽ tỉa tót, cắt bớt da thừa… o bế đôi bàn chân “ngà ngọc” cửa mình. Công đoạn này chấm dứt thì khách hàng phải trả cho chủ tiệm 25 Usd. Dù được mời mọc và ép buộc cách mấy, chị cũng nhất định không chìa đôi chân “thơm tho” của mình cho người ta săn sóc. Quý sư có nói rằng, chẳng những Ni cô mà ngay cả Hòa thượng hay Thượng tọa khi vô tiệm này, được mời mọc đều… cầm lòng không đậu, đều xắn quần, giao đôi chân cho người ta săn sóc…

Mãi đến 12 giờ, cả bọn mới leo lên xe, trực chỉ nhà hàng. Đầu tiên, vô nhà hàng Mỹ ăn buffet rau cải, nghĩa là chỉ trả 12 Usd cho mỗi đầu người, mình vô đó, ăn món gì cũng được, miễn no bụng thì thôi. Cả bọn chê mắc, hơn nữa, ngán các món ăn toàn rau cải nhạt phèo của Mỹ nên kéo ra, đi tìm tiệm cơm Thái Lan. 2 giờ mới tìm ra tiệm cơm. Chị tranh thủ nhét vài cái bánh ngọt vô miệng. 3 giờ cơm mới được dọn ra. Nói là món Thái, nhưng chị thấy họ dọn theo thực đơn sau:

1. Nước đá lạnh; 2. Nước trà nóng; 3. Mỗi người 1 chén nước cà chua nấu loãng + 1 cái nấm rơm nhỏ xíu. 4. Mỗi người được ăn 1 cuốn chả giò + 3 miếng chuối chiên cuộn trong hoành thánh (bằng đầu ngón chân cái)… (Đây gọi là thức ăn khai vị, miễn phí)…

Kế đến, nhà hàng bưng ra 1 tô cơm trắng, 1 tô canh chua, 1 dĩa hủ tiếu xào, 1 tô đồ kho thập cẩm gồm đậu hủ, nấm rơm tươi, đậu que… 1 dĩa cà tím kho chưng với đậu hủ. Sau cùng là 1 dĩa cơm chiên với bông cải xanh… hu hu, tất cả các món ăn đều mặn và cay xé lưỡi. Dân Quảng Trị, dân Huế vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon. Phần chị và dân Nam kỳ, Bắc kỳ… đều vừa ăn vừa… khóc. Chị múc nửa chén canh chua nhỏ và ngồi vớt ra khoảng một muỗng canh ớt hiểm. Chị cũng là dân ăn cay, mỗi bữa ăn có thể ngoạm đến hai trái ớt, nhưng ăn cơm, canh và thức ăn trộn… ớt tươi như thế này thì chị chào thua! Vì nuốt tới đâu, nghe nóng ruột, nóng gan tới đó. Sau cùng, chị đòi phải được ăn kem để cho bớt cay. Kem thật là ngon, nhưng cục kem chỉ nhỉnh hơn trái chanh một chút mà giá đến… 3 Usd.

Sau bữa ăn là đi chơi, nhưng chị ngán quá, đòi về nhà. Tổng kết, mọi người phải trả bữa ăn trưa 15 Usd. Nói tóm lại, chỉ có ăn cơm Việt Nam là hợp khẩu vị. Chị không phải là người yêu nước cuồng nhiệt và chân chính, nhưng chị vẫn bỏ phiếu bầu cho thức ăn Việt Nam là… ngon nhất và rẻ nhất!

 

NHỮNG CHUYẾN BAY XA…

Hồi sáng, chị có gửi cho em mấy tấm hình chụp lễ quy y và lễ Phật đản. Chị đắp y vàng đàng hoàng. Chị có mang quần áo, áo lạnh từ Việt Nam sang đây. Nhưng, ở Mỹ không ai mặc đồ giống chị hết. Khí hậu mùa Xuân mà chị rên rí than thở là lạnh thì dân Việt kiều lại kêu là nóng. Ra phi trường, chị quàng khăn, khoác áo lạnh, trùm mũ kín mít nên thường bị người ta nghi ngờ là đàn em của bọn khủng bố Ả rập… do vậy mà hay bị kêu lại khám xét. Vì vậy, chị phải mượn mấy cái áo khoác kiểu Tàu của các sư cô, khoác đỡ bên ngoài cho họ khỏi nghi ngờ.

Chiều mai, chị sẽ bay sang Texas, đi du lịch vùng này, ở đây một tuần rồi chuyển sang Louisiana bằng xe hơi. Dân Việt kiều không ưa xe hơi, còn chị thì ngược lại. Leo lên cái xe bus, có máy lạnh, vừa ngủ, vừa ngắm cảnh, không bị ai bắt chuyện… Còn đi máy bay, phải chờ đợi, bị khám xét cẩn thận đến đôi giày đôi vớ cũng phải cởi ra… Máy bay thường đóng kín mít, có dòm ra cửa sổ cũng chỉ thấy sương mù mây trắng bay, lỗ tai lùng bùng, lỗ mũi chảy máu… Xuống máy bay rồi, còn phải tất tả chạy qua chạy lại giữa cái phi trường mênh mông, kiếm chỗ lấy hành lý. Phi trường của Mỹ cái nào cũng rộng, có đến hơn hai mươi hãng máy bay, lớn gấp mười, hai mươi lần Tân Sơn Nhất, người qua lại còn đông hơn cái chợ. Chị ngán nhất là những chuyến bay đường dài, phải đợi tới hai chuyến bay, chị sợ trễ giờ, lỡ chuyến bay thì không ai đón mình và cũng không biết đường đi! Đó là chưa kể đến chuyển đổi múi giờ. Kỳ rồi, chị bay từ San Jose – Cali đến Indiana, phải đợi máy bay ở Colorado. Theo nguyên tắc, mình mới bay được có ba giờ, nếu tới nơi còn hai tiếng nữa mới đổi chuyến bay, như vậy thì đâu có gì phải vội? Nào ngờ, 15 phút sau chị mới hiểu ra: Tới tiểu bang này, do múi giờ thay đổi, nên đồng hồ tăng lên hai giờ, ai có cell phone (điện thoại cá nhân) đều được tăng giờ tự động. Riêng chị, chẳng có được cái điện thoại di động để nó báo múi giờ đã thay đổi, vì vậy mà chị phải… vắt giò lên cổ chạy, suýt nữa thì trễ máy bay. Do chị đi giữa hai chuyến bay và múi giờ nhảy lên đột ngột như vậy, nên chẳng có ai cho mình ăn cơm dọc đường, chị phải ăn cơm đem theo…thiệt là hú vía!

Vài hàng thông tin để chia sẻ cùng em về những lợi danh và phú quý chị đang hưởng. Ngày mai, chị sẽ khởi hành lúc 4 giờ chiều và sẽ đến nơi lúc 10 giờ đêm. Theo nguyên tắc, chị phải bay sáu giờ (nhưng không phải vậy, vì chị bay theo hướng ngược lại, nên thay vì trừ bớt như lúc đi, thì chuyến về chị phải cộng thêm một giờ nữa). Tại Texas, chị sẽ ở lại nhà của Diệu Tịnh ba ngày, sau đó mới tính tiếp. Bé Thục cũng ở tại Texas, nó có cho chị số phone và hứa sẽ đón chị tại đây để đem chị về nhà chơi. Bé Hương, con anh Trì cũng ở tại Texas. Chị cũng có hứa sẽ đến dự lễ Phật đản và giảng tại một ngôi chùa ni ở vùng này vào ngày chủ nhật tới. Thôi, hẹn thư sau sẽ kể tiếp.

Chị Ba.

 

Lá thư 27
Thứ Ba, ngày 24 tháng 05 năm 2005, 11:10 sáng.

Hi hi…

Mới gửi em cái thư hồi chiều, bây giờ đã có hồi âm, công nhận computer của người ta ngon thiệt, chủ nhà cũng tốt bụng, không hà tiện, chớ gặp chỗ tiết kiệm như tía mình, chắc không dám gửi mail.

Bây giờ là 11 giờ đêm, chị vừa tắm và giặt xong. Tắm khỏi nấu nước nóng, giặt có máy giặt và máy sấy, muốn ăn một trái bắp cứ việc bỏ nó vô lò hấp, ấn nút một cái, hai phút sau đã có bắp ăn. Coca lon ở đây chất từng thùng, chẳng ai thèm đụng tới… Qua đây mà không ăn uống, về Việt Nam nếu thèm cũng không có ăn. Có hôm, chị ăn tới… 4 lần/1 ngày. Chị dòm tướng tá ngon lành như vậy là nhờ mập mạp. Dân ốm ở đây trông bèo nhèo lắm, cỡ Thuần Chánh 47 mà còn bị người ta tưởng… già hơn 60 tuổi (riêng chị 55 mà họ tưởng… 70! Hi hi). Ngày mai, chị rời nơi đây rồi, chưa biết có thể mượn computer được ở chỗ mới không, thôi kệ, ngày nào còn phước thì cứ hưởng. Chị đã dọn sạch đồ đạc, giặt giũ và chuẩn bị lên đường. Quên nữa, ở đây cái gì cũng đầy đủ, nhưng chị chưa tìm ra một chỗ để giặt giũ đôi giày dính đầy bụi của chị, đã hơn bốn mươi ngày rồi chưa giặt rửa. Ngày nào chị cũng mang vớ nên mấy vết nứt ở chân da đã liền sẹo…

 

HƯỞNG PHÚ QUÝ RIẾT CŨNG… QUEN!

Nghĩ tới ngày về Việt Nam, chân bị nứt nẻ, cái mặt nám đen, còn phải quơ chà kiếm củi nấu cơm và đi… ị bằng cầu cá tra, tối còn bị muỗi rượt theo cắn, trời chưa sáng đã có một bầy chó con kéo vô ngồi chầu chực kêu réo… Chưa hết: Chuột con rớt trên tay, thằn lằn ỉa trên đầu, con nít chầu chực xin gạo và nước tương… Chà!

Sao mà bi giờ chị muốn làm… Việt kiều viễn xứ luôn quá! Không cần sợ… giang hồ hiểm ác, chỉ cần no cơm ấm áo, cũng đủ để… tham phú phụ bần rồi. Hi hi!

Thôi, chị ngừng đây, phải trả lại phòng cho trụ trì ngủ, lạm dụng lòng tốt của người ta nhiều quá rồi…!

Chị Ba.

 

NHÀ DIỆU TỊNH Ở TEXAS

Lá thư 28 
Thứ Tư, ngày 25 tháng 05 năm 2005, 8:15 tối.

Heo Ú ơi!

Chị đến Texas lúc 11 giờ tối, sau 6 giờ ngồi trên máy bay, mệt le lưỡi luôn! Cả gia đình Diệu Tịnh ra sân bay đón chị và đưa về nhà. Chị được ở trong một gian phòng đầy đủ tiện nghi, nhưng ngủ thấy không ngon bằng ở chùa. Nhà Diệu Tịnh là nơi dừng chân của chư tăng, thuộc hàng cao thủ như Hòa thượng, Thượng tọa, bao gồm cả Thầy Viện chủ… Nhưng không hiểu sao, chị cảm nhận căn phòng mình ở không được nhẹ nhàng, dù nó in đầy hơi hám của các cao nhân… Texas là một tiểu bang lớn, có lẽ gấp đôi Cali. Số người Việt Nam ở đây cũng đông. Ngồi trên máy bay nhìn xuống, ban đêm là cả một biển đèn sáng như sao. Khí hậu Texas rất nóng, có thể hơn 40 độ c. Nhưng chẳng hề gì, nơi đây người ta xài toàn máy lạnh nên lúc nào mình cũng thấy như ở Đà Lạt. Dân Mỹ xài điện nước (gấp hai mươi lần dân Sài Gòn) thoải mái và cũng cực kỳ rẻ.

Diệu Tịnh còn đem nguyên một cái laptop (máy tính xách tay)… vô phòng cho chị xài, nhưng chị sẽ đi chơi ngày hôm nay. Chị không có xe hơi và cũng không biết đón taxi bằng cách nào, nên hễ ai rủ là… gật đầu liền. Hương, con anh Trì cũng ở gần đây, con bé Thục Đà Lạt cũng ở gần, chị có nhiều hứa hẹn sẽ ngao du sơn thủy ở đây… Rồi sẽ kể lại cho em nghe sau. Ở Mỹ, họ rất ghét tiếng ồn. Phố xá đông người như vậy, nhưng không nghe một tiếng động, mỗi nhà phải giữ sao cho tiếng ồn của cá nhân mình không lọt ra khỏi phòng, không ra khỏi nhà, tiếng máy bay cũng không được lớn. Dân Mỹ ưa kiện tụng lắm, nhà giàu mà kiện thì thế nào cũng thắng, hễ thắng là được đền tiền. Nhờ đó mà các luật sư ăn nên làm ra…

Vài hàng tin em rõ, chị phải chuẩn bị ăn sáng và đi chơi đây.

Chị Ba

 

ẨM THỰC

Lá thư 29 
Thứ Năm, ngày 26 tháng 05 năm 2005, 9:49 sáng.

Hẹo Ú ơi!

Rất lâu, chị mới được ăn những thức ăn do dân Nam kỳ nấu. Đồ ăn rất nhiều, nhưng khi dọn lên thiên hạ chỉ cầm đũa lấy lệ, chứ chẳng ai ăn một cách nhiệt tình (trừ chị) Có lẽ người ta sợ mập, có lẽ ăn hoài cũng ngán… Dân Mỹ hình như sống bằng không khí? … chứ không phải thức ăn. Nhà nào cũng có đầy đủ thức ăn, đầy đủ tiện nghi, nhưng cái mà họ thiếu có lẽ là thời gian. Con người tự dệt một cái kén, chui vào đó và tự đóng cửa nhốt mình ở trỏng. Giống y chang như kiểu chạy xe trên xa lộ, hễ đã vô là phóng như bay, không dừng được. Chỉ cần một người ngưng lại là cả đám sẽ bị dồn cục.

Sáng nay, chị được đến thăm chùa Việt Nam, một ngôi chùa bề thế và lớn nhất nước Mỹ. Tới giờ cơm, chị cáo lui về. Buổi chiều, thầy sai đệ tử mang đến cho chị 200 Usd (Hoan hô! Có tiền bò vô đãy rồi nè, ước mong sao những lời đồn đãi mà Heo ú kể… sẽ biến thành sự thật).

Ồ, bánh su mà bỏ vô ngăn đá tủ lạnh, phần nhân bên trong sẽ biến thành cà-rem, ăn rất ngon. Ngày nào và bữa ăn nào, cũng có mình chị đón nhận một cách hồ hởi, nhiệt tình. Dại gì không ăn? Không ăn mai mốt về Việt Nam, sẽ ân hận là tại sao… mình ngu dữ vậy? Vả lại, chị mà có ốm hay mập hơn, thì nhan sắc cũng vẫn bất biến, chưa có ai khen chị diễm lệ hay mỹ miều… họa chăng là… sau khi chị thành Phật, chúng sinh sẽ ca tụng rằng: “Vạn đức từ dung”…

Chị gặp nhỏ em của Hạnh Như tại chùa Việt Nam. Hồi trước, nó nhỏ xíu, bây giờ đã lớn, sang Mỹ, đẹp đẽ và lái xe chạy ngon lành. Nó cũng móc túi cho chị 100 Usd. A! hình như, cái bản mặt của chị có vẻ cầu tài? Nên ai thấy cũng động lòng và… móc túi hết.

Con bé Thục năm nào, chiều nay dắt ba má chồng cùng chồng và hai đứa con gái đến thăm chị. Nó không có vẻ già nua, gia đình êm ấm. Chỉ tội nghiệp cho con nhỏ Uyên Phương, khoảng 10 hôm nữa chị mới gặp nó tại Arizona.

Texas nóng hơn chị tưởng, ban ngày mà ló đầu ra ngoài là đen như dân Phi châu ngay. Hôm qua chị ở chỗ lạnh, bữa nay ngụ chỗ nóng, cũng thấy ngán và sợ bệnh bất tử. Mình đến đây là để đi chơi cũng như thuyết giảng… để kiếm chút phước đức, vì đi chơi đã tiêu xài quá nhiều phước dự trữ, nên phải ráng thuyết giảng cho thiên hạ nghe, hòng kiếm chút phước bù lại. Nếu mà bệnh, thì rất không hay.

Nắng ở đây là ánh nắng sa mạc, ai đi ra cũng sợ, chị cũng phải trốn trong nhà để có phòng lạnh, vì nóng tới trên 40 độ c, tuy ở trong nhà, song chỉ có mình chị mặc thêm áo khoác… nhìn giống y chang bà con của trùm… khủng bố Bin Laden (hèn chi các phi trường hay bắt chị lại để khám xét)…

Ngày nay, nói chuyện lai rai cũng mệt đừ, chị phải đi ngủ sớm đây (có cái computer rồi, mai chị sẽ kể tiếp cho em nghe).

Chị Ba.

Từng hơi thở mỏng như sương
Phải chăng thông điệp vô thường gởi ta?
Tựa phên ôm gối nhìn ra
Hắt hiu nửa mảnh trăng già lạnh căm!…

 

CÁNH CỬA THÔNG MINH

Lá thư 30 
Thứ Sáu, ngày 27 tháng 05 năm 2005, 7:49 tối.

Heo Ú ơi!

Tối qua, chị thức tới 3 giờ mới ngủ, sáng nay 7 giờ thì thức dậy. Thời gian ở đây kỳ lắm, 9 giờ tối trời hãy còn sáng, không thể áp dụng giờ của Việt Nam nơi đây được. Ngày Phật đản ở Indiana, thấy 12 giờ, chị đợi ăn cơm trưa, nhưng đó lại là giờ chị bắt đầu giảng kinh, phải tới một giờ rưỡi mới ăn cơm. Khu nhà chị ở thuộc vùng nhà giàu, không kể tiền nhà đất, mỗi hộ nơi đây đều phải đóng thuế cho chính phủ mỗi năm hơn mười ngàn đô la. Nhà họ giống như có… ma xó vậy. Hôm trước ở nhà Nguyên Phong, khoảng 6 giờ sáng chị nhìn ra ngoài thấy hoa nở rộ đầy sân, chị liền mở cửa bước ra ngắm cảnh. Mới đưa tay chạm vào cửa… thì chuông báo động reo liên hồi, chủ nhà hoảng hốt tốc mền chạy ra vì tưởng ăn trộm đang lẻn vào nhà. Thiệt là quê hết sức!

Nhà cửa được cất rải rác như những tòa lâu đài trong truyện cổ tích, cửa bằng kính, nằm im lìm như một cơn mơ. Cả khu phố chỉ thấy toàn là nhà chứ không thấy người, nhà cũng không có hàng rào chung quanh, họ chỉ trồng hoa và thảm cỏ bao quanh nhà, không thấy cây ăn trái. Luật ở đây là nhà nào cũng phải trồng cỏ, cắt xén cẩn thận. Ban đêm, nếu em bước chân tới gần nhà họ thì lập tức, hệ thống đèn quanh nhà sẽ bật sáng, và police sẽ xuất hiện ngay. Chủ nhân đứng trước nhà, họ bấm vào chìa khóa cầm tay, cửa sẽ tự động mở, loại chìa khóa này, người ngoài đừng hòng mở được. Nhà nào cũng rộng rãi, mỗi người một phòng. Cái thất của em, nếu ở Mỹ là đúng tiêu chuẩn, chỉ được phép ở một người thôi. Các chùa bên này không được phép đốt nhang, có đốt chăng thì chỉ là loại nhang không khói, nhỏ xíu… vì, chỉ cần một làn khói bốc lên, còi báo động sẽ kêu, là xe cứu hỏa chạy đến liền. Chị thấy có những cái cây to vừa bị ngã ven đường, thì giao thông liền đến ngay, họ đốn cây, cắt từng cành, bỏ vô cái xe có máy nghiền, không bao lâu, toàn cả cành lá đều thành… cám vụn, uổng dễ sự! Mỗi nhà đều có lò sưởi, vào mùa đông, họ sẽ đốt lò sưởi, bằng những tảng gỗ to, có ni tấc đàng hoàng. Nhưng thông thường cái lò sưởi đó ở ngay phòng khách chỉ để làm vật trang trí, do họ xài gas sưởi, khỏe hơn…

Hồi mới qua, Phật tử hỏi chị ở chùa nào, chị rất e dè khi nói mình: Không nhà, không chùa, không thất… Chị sợ họ khi dễ mình là kẻ lang thang. Không ngờ, họ rất khoái chuyện này…

Cười toe toét, bu chung quanh chị… móc tiền cho. Nhưng chị có một quy luật: Không nhận tiền sau thời pháp… Song, càng từ chối, họ càng tìm đủ cách đề gửi. Thế nhưng: Món quà nào cũng có giá của nó, ta phải trả bằng sự hao tổn phước đức của mình! Bên này, dân xài tiền lẻ, từ 1$ đến 20$ là nhiều. Nếu chi ra 100$, thì họ phải ký sec (cheque – chi phiếu), ra nhà bank lãnh. Nếu ai lãnh giấy 100$ nhiều quá, thì nhà bank sẽ báo cho police theo dõi xem… mình có… đi buôn ma túy không!

Dân Mỹ ít xài tiền mặt, họ có một thẻ tín dụng, muốn mua gì thì đưa thẻ vô, người bán hàng đút cái thẻ vô máy, sau đó trả lại chủ nhân. Dòm bề ngoài, cái thẻ còn nguyên, nhưng thật ra, một phần tiền đã bị trừ bớt. Phật tử ở đây thường nhiệt tình mời mọc mình đi shop, họ sẽ mua cho mình cái này cái nọ, trả dùm tiền hết… Để rồi sau đó, họ sẽ rên rỉ với nhau rằng: Tăng ni sao mà xài toàn đồ xịn, xài những thứ họ chưa bao giờ dám mua, lòng tin của họ biến thành thất vọng ê chề. Các sư cô không hiểu nên thường hí hửng rủ chị mua hàng, vui vẻ báo tin là: Có người trả tiền dùm hết… Nhưng, chị biết chắc chắn rằng: Khi nhận một món đồ, lập tức một phần phước báu của mình đã bị trừ bớt, cái thẻ tín dụng vô hình của mình đã bị ố màu… và coi chừng, mình sẽ bị một tai họa ập đến khi… phước hết.

Hôm qua, chủ nhà có tặng chị một cái đồng hồ nhỏ, rất đẹp, đồng hồ này vừa là lịch, vừa là máy tính, vừa có ngày giờ, năm tháng và hàng chục công năng khác. Nhưng, chị không dám nhận, vì chị sợ bị trừ đi hàng trăm đô la. Cái đồng hồ chị mang từ Việt Nam qua đây, giá cỡ 1 Usd… vẫn còn xài tốt, dại gì mà mình để cái thẻ của mình bị in dấu?

Ngẫm lại cuộc đời đức Phật, từ một ông hoàng, nhưng lại bỏ hoàng cung đi tu, trở thành ăn mày… Ngài đi độ sinh, giúp chúng sinh chứng đạo… mỗi ngày chỉ thọ có một bát cơm mà còn phải tam đề ngũ quán… chắc nhờ vậy nên Ngài trở thành bậc phước huệ vô song.

Còn chị, mỗi ngày ăn ba bốn bữa, đi xe hơi, áo quần kéo theo cả rương lớn… cả tuần nói láp váp vài giờ, người nói chưa chứng đạo thì người nghe dễ gì thấm thía?…Vậy mà, hễ nghe người ta khen vài câu, là đã bay lên tận mây xanh, sắp mình ngang hàng với… Tề Thiên Đại Thánh. Như vậy thì, Hộ Pháp mà không bẻ giò, vặn họng chị… mới là lạ! Cũng may, hễ một người khen trước mặt, thì thế nào cũng có mười người chê sau lưng… mà những lời chê sau lưng, lâu lâu bay tới lỗ tai mình, nghe đau thấu tim!… Nhờ vậy mà… chị vẫn còn sống… và còn đứng lù lù trên mặt đất.

Nếu chị mà non lòng nhẹ dạ, sau 3 tháng du lịch, sẽ được thiên hạ chăm chút từ chân răng tới cọng tóc, sắm cho từng cái khăn chiếc áo… thì, chị sẽ bị trừ khoảng… 10.000 dollars phước báu, về Việt Nam chỉ còn nước vô nhà thương chờ… chết.

7 giờ 30 sáng mà chủ nhà vẫn còn án binh bất động. Con đường ven bờ hồ trước mặt rất đẹp, chị đứng trong nhà dòm ra, rất thèm được dạo một vòng, nhưng không dám mở cửa, sợ còi báo động reo lên… thì kinh quá. Ở chùa Đức Viên, còi báo động không kêu khi chị chui ra ngoài, nhưng cánh cửa tự động khép vào và khóa lại, chị đã bị nhốt ngoài sân một lần như vậy rồi… nên tốt nhất là dù có thức sớm, chị cứ ở trong phòng và nhìn ra ngoài hệt như một tên… tù nhân vậy!

Hẹn mail sau.

Chị Ba.

 

THAM QUAN CÁC KHU BẢO TÀNG…

Lá thư 31  
Thứ Bảy, ngày 28 tháng 05 năm 2005, 7:36 tối.

Heo Ú ơi,

Hôm qua, chị bị lên tension (tăng xông), hơi mệt nhưng không dám từ bỏ chuyện đi chơi (vì nghìn năm một thuở mới được, nên có chết chị cũng ráng mà đi) Chị được đến thăm viện bảo tàng ở Houston.

Đầu tiên, chị được xem film động đất và núi lửa trên một màn ảnh cực kỳ rộng lớn. Phim chiếu theo kỹ thuật 3 chiều. Nghĩa là: Khi chiếu một con cá đang lội, mình sẽ thấy nó lội chung quanh mình, trước mặt mình, nhưng đưa tay bắt thì không có. Hễ chiếu cảnh động đất thì giống như mình đang ở chỗ đó vậy. Cả âm thanh, hình ảnh đều rất thật và sống động, rùng rợn đến nỗi… chị định đổi pháp môn tu, chuyển qua niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ chớ không dám ở lại cõi này vì quá sợ… động đất.

Sau đó, chị đi xem xác ướp Ai Cập: Cái xác khô queo quắt, dơ bẩn và xấu xí, quấn vải liệm… mà Mỹ đã có công tha chở được từ Ai Cập về… để dân chúng xem cho biết!

Có những bộ xương hóa thạch của khủng long thời tiền sử và xác nhồi bông của cọp, beo, sư tử, gấu, ngựa vằn… tại các rừng rậm Phi Châu. Họ dựng cả một khu rừng nguyên sinh rồi đem các con thú… trưng bày vào đó… có suối chảy róc rách… khiến người xem tưởng như mình đang ở Phi Châu.

Bảo tàng cũng có khu trưng bày các sinh vật hóa thạch (cách đây từ 300-400 triệu năm) như: Chuồn chuồn, gián, châu chấu, hoa lá, cỏ cây…

Có khu trưng bày các loại đá quý trên thế giới, loại đá còn nguyên sớ, bên trong chứa ngọc quý, đẹp lộng lẫy dưới các ánh đèn và cửa kiếng, có đủ màu sắc: Xanh, đỏ, tím, vàng, đen, trắng…

Ở khu bảo tàng vàng, thì có từ vàng thỏi, vàng nén… cho đến các loại nữ trang cầu kỳ trên thế giới… có cả phim ảnh chiếu về cách khai thác các mỏ và quặng vàng.

Chị cũng được xem quả cầu bằng kim loại, dao động tự nhiên do sức hút của mặt trời, mặt trăng, trái đất tác dụng lên đó…

Có khu bảo tàng các loại vỏ sò, vỏ ốc trên thế giới và các con cá, con mực sống trong thiên nhiên…

Viện bảo tàng được chia làm nhiều khu, mỗi khu trưng bày một thứ, một ngành, tất cả đều được bọc kiếng, chứa trong những phòng cỏ máy lạnh và đèn chiếu sáng hoặc để mờ tối là tùy theo kỹ thuật họ muốn làm nổi bật các hình ảnh cần trưng bày… Nếu muốn xem cho hết thì phải tốn mất khoảng hai ngày. Nhưng chị chỉ có thời gian hai tiếng thôi, nên phải ngắm tất cả cho thiệt lẹ rồi chuyển sang chỗ khác.

“Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Nếu sang đây mà không được đi xem mấy cảnh này thì thật là phí tiếc. Texas rộng mênh mông, gia đình Diệu Tịnh đưa chị đi chơi, ngay cả chủ nhà lái xe mà còn bị lạc đường (vì đường xá nơi đây chằng chịt, các xa lộ chồng chất lên nhau, chẳng hạn như có nơi tới bốn năm tuyến đường nằm chòng chất lên nhau giống như các tầng lầu). Nếu không có xe hơi và không biết lái xe thì coi như đành ngồi một chỗ. Mỗi người dân đều có một cái xe hơi. Vì vậy mà nơi các chỗ để xe họ phải cất cái chung cư cao tới cả chục tầng, cho xe đậu từ tầng trệt lên tới sân thượng.

Hôm nay, chị sẽ được dẫn đi coi Nasa là nơi Mỹ thực hiện các chương trình không gian nổi tiếng của Texas. Chủ nhật, chị dự lễ Phật đản và sau đó thì kiếm đường đi sang Louisiana.

Chùa nơi đây không nhiều. Có cái chùa Việt Nam là chùa Tăng nên chị không muốn đến đó ở. Còn các chùa Ni thì mỗi chùa chỉ có một, hai người. Các cô còn phải đi chơi ké với chị thì đến ở chung chỉ có loay hoay trong cái phòng lạnh mà thôi, ở nhà Phật tử thì chị đến đâu, chủ nhà cũng phải xin nghĩ làm để tiếp mình, chỉ có Diệu Tịnh là làm chủ tiệm nail và là chủ thương xá nên mới có thời gian để đưa chị đi đó đi đây. Chị hạn chế tối đa sự tiêu xài (chưa tốn đồng nào để khỏi hối hận về sau), nhưng chị không thể từ chối các bữa ăn ở nhà hàng, vì dân Việt Nam ở Mỹ rất ngán nấu ăn. Họ ăn tiệm là chuyện thường. Tối qua, đi chơi xong, Diệu Tịnh đưa chị đến một nhà hàng bán đồ chay, chị ăn một chén cơm Thái Lan rất là ngon, chị ăn một chén cơm, vì đồ ăn rất nhiều, phải ăn cho hết kẻo uổng. Chỉ kẹt là họ nấu hơi mặn nên ăn xong là muốn lên máu (tăng xông) liền, về đến nhà đã 11 giờ đêm. Texas quá rộng nên nội chuyện lái xe ngoài đường cũng tốn mất hơn bốn năm tiếng rồi.

Ở Texas, nhà Diệu Tịnh thuộc khu nhà giàu mà giới trung lưu và bình dân không dám mơ tới, dù chị ít tiếp khách, nhưng vẫn thấy mệt… Có lẽ do… ăn nhiều quá nên tổn… phước chăng?

Hẹn mai kể tiếp.

Chị Ba

 

CẢNH TRUNG HOA THU NHỎ

Lá thư 32 
Chủ nhật, ngày 29 tháng 05 năm 2005, 12:00 trưa.

Heo ứ ơi! Hôm nay, chị được đi thăm một đất nước Trung Hoa thu nhỏ tại Mỹ. Đó là khu đất có chôn phần mộ của hơn hai ngàn binh sĩ thời Tần Thủy Hoàng cùng với Tử cấm Thành của các ông vua Tàu.

Khu phần mộ có đầy đủ tướng của hai ngàn binh sĩ với áo giáp và khí giới, chiến xa, cung tên, xe ngựa… Tướng lớn như người thật, không tướng nào giống nhau, to bằng người thật, với những nét đặc thù riêng biệt như tóc, râu, tứ chi khác nhau.

Khu Tử Cấm Thành (là cả một kinh thành thu nhỏ gồm có người và các lâu đài vua chúa, trông rất hoành tráng, lộng lẫy, đầy đủ các chi tiết tỉ mỉ như lính hầu, cung nữ, bá quan, văn võ)… Chị có chụp hình đầy đủ, mai mốt sẽ gửi cho em xem. Người hướng dẫn thuyết minh bằng tiếng Tàu, chỉ nghe lõm bõm rồi đoán mò… qua mấy chữ Hán ghi trước các cung điện.

 

LÝ DO NGÁN ĐI NHÀ HÀNG

Chiều nay, chị lại bị đi ăn nhà hàng. Chị không ngán thức ăn, nhưng tính từ lúc đi ăn tới tàn tiệc, quay về cũng tiêu hết bốn tiếng đồng hồ. Những câu chuyện dài dòng khiến chị phát chán, nên thà nhịn đói, nằm chèo queo ở nhà mà sướng hơn. Bao nhiêu phú quý vinh hoa, hưởng vậy cũng tạm đủ rồi. Rút kinh nghiệm, khi rời nơi đây, bay sang tiểu bang khác, chị sẽ bỏ bớt một buổi ăn chiều để khỏi vướng những tiệc tùng cỡ đó…

Hai hôm nay, chị bỏ bớt một buổi ăn sáng để có thời gian ngủ, vì tiệc tùng như vậy, thường tới hơn 10 giờ đêm mới về đến nhà, tắm rửa xong là 11 giờ… (lâu muốn chết). Tình trạng này mà kéo dài, có lẽ, không cần vô Vạn Phật Thành của Thiền sư Tuyên Hóa, thì chị cũng có đủ dũng khí tự bớt hai bữa ăn trong ngày cho… khỏe thân.

Vài hàng thăm em. Đã 12 giờ đêm rồi, chị phải đi ngủ đây. Cũng may là chị được ngủ trễ, không cần phải thức dậy sớm như ở Việt Nam, vì chủ nhà bên đây dậy rất là muộn.

Chị Ba.

 

LỄ TẮM PHẬT

Lá thư 33 
Thứ Ba, ngày 31 tháng 05 năm 2005, 4:23 sáng.

Heo Ú ơi!

Ngày hôm qua, Chủ nhật, chị được chờ đến chùa Viên Thông để dự lễ Phật Đản. Bên này, Phật tử chỉ rảnh ngày Chủ nhật nên mỗi chùa thường chọn các ngày Chủ nhật để làm lễ Phật Đản. Chị nhìn tượng Phật sơ sinh mà tội nghiệp, tượng được đứng trên một cái thau, có bông hoa chất đầy chung quanh, thau đựng đầy nước, để sẵn hai cái gáo nhỏ. Chưa cử hành lễ xong, mọi người từ lớn tới nhỏ thay phiên múc nước dội lên tượng, ông Phật sơ sinh nhỏ xíu, cứ bị dội nước… suốt cả bốn ngày Chủ nhật. Chị phải nói nhỏ với cô Trụ trì: Sau này, em có thành Phật, cô nhớ đừng có làm lễ tắm, dội nước suốt ngày như thế… coi chừng em sẽ nổi sùng. Chị giảng khoảng một tiếng rưỡi, nhưng rất mệt, vì lượng khách quá đông, vì thiên hạ cứ xa-luân-chiến, mỗi người hỏi năm phút, mình chỉ cần cười xã giao với mỗi người một cái là cũng đủ… méo miệng rồi! Chưa hết, còn màn quay film, chụp hình, kéo tới kéo lui… Có điều, sau thời thuyết giảng, chị không nhận một đồng nào của Phật tử. Nhờ vậy, uy tín của chị tăng lên và… hầu bao xẹp xuống. Nhưng vậy mà khỏe! ( Vì thiên hạ cứ nghĩ mình thuyết giảng để kiếm tiền). Nếu hôm qua chị nhận tiền, chắc cũng kiếm được vài nghìn, nhưng nhục nhã cho thể thống Tăng già… Sau đó, Diệu Tịnh chở chị đi chơi, vô một tiệm người Pháp, uống cafe và ăn một loại bánh chiên (giống như bánh tiêu). Chị không uống cafe được nên uống sinh tố, một loại trái cây của Mỹ, nửa giống dưa gang, nửa giống đu đủ chín, cũng khá ngon.

Một giờ mới về tới nhà, trời đổ mưa, sấm chớp ầm ỉ, computer bị chạm mạch nên không truy cập được, tới bốn giờ chiều nay chị mới gởi mail cho em được.

Diệu Tịnh đã mua vé máy bay cho chị sang Louisiana rồi (chị định đi xe bus cho đỡ tốn tiền), nhưng Diệu Tịnh sợ chị mệt. Tại Louisiana, Phật tử đang hồ hởi chào đón chị, chị không thể chạy qua đó với bộ mặt sầu não. Vì vậy, hôm nay, chị từ chối không đi ra biển chơi, mà ở nhà dưỡng sức để chuẩn bị cho tuần kế tiếp.

Sau hơn một tháng hưởng vinh hoa phú quý nơi đây, chị ngẫm nghĩ: Nếu ngũ dục có thể làm cho người ta an lạc, thì thái tử Tất Đạt Đa đã không bỏ hoàng cung mà đi tầm đạo. Chị cũng có nghe nhiều người nói HC giảng giống chị, nhưng, HC có bộ mặt dễ coi và yểu điệu hơn chị nhiều. Điều đó cũng có nghĩa là: Nó sẽ nhận sự tật đố của bạn bè gấp ba lần chị. Như vậy, chuyện Lục tổ Huệ Năng sau khi được truyền y, bị 300 sư huynh rượt theo, phóng hỏa, định giết chết… là việc hoàn toàn có thật.

Hi, đến Texas, danh thì có, nhưng lợi chẳng bao nhiêu. Bù lại, chị được ăn ngủ thả ga và chụp hình đem về. Diệu Tịnh đang rửa hình cho chị, chẳng biết là đẹp hay xấu. Nhưng, nhiều người khen chị chụp hình ăn ảnh. Điều này cũng có nghĩa là: Ảnh thì đẹp nhưng thực tế thì ngược lại.

Chị sang đây, Diệu Tịnh cũng mua vé máy bay cho chị đi tới đi lui… nên chị mắc nợ hơi nhiều, có ngán tu cũng không dám bỏ cuộc, vì lấy gì mà trả nợ thiên hạ?

Hẹn thư sau.

Chị Ba.

 

CẢNH LOUISIANA

Lá thư 34 
Thứ Sáu, ngày 03 tháng 06 năm 2005, 1:12 sáng.

Hi! Heo Ú ơi!

Sang Louisiana, ở nhằm cái nhà không có computer, mỗi lần muốn đọc hay gửi mail phải nhờ người chở bằng xe hơi đến một cái nhà khác ở cách đó 20 phút. Vì vậy, dù điện có đầy đủ mà do mail bất tiện nên chị đành chịu thua.

Louisiana là một tiểu bang nhỏ, dân Việt Nam cũng ít, chừng vài chục ngàn, nhưng chia ra tới bốn tôn giáo. Riêng Phật giáo, số Tăng, Ni chưa đầy năm người. Cũng may là chị gặp được một cô ni học trò cũ, cho chị trú ngụ nên vẫn được ăn ngủ, đi chơi, chụp hình như những nơi khác. Thức ăn Việt Nam nơi đây cũng ít, chỉ có bánh ngọt của Mỹ là nhiều. Chị cũng được ăn thức ăn Việt Nam nổi tiếng và nằm ngủ mơ về Việt Nam.

Chị đang có nhiều thời pháp thoại phải giảng lai rai từ đây tới Chủ nhật. Sau đó, phải bay thêm tám giờ nữa mới tới Arizona là một vùng sa mạc của Mỹ. Tiểu bang này nóng trên 42 độ c lận. Còn nhỏ Uyên Phương đang chờ chị để… than thở. Khi chị ở Texas, chị có gặp con bé Thục cùng hai đứa con của nó. Người quen hay chưa quen, gặp chị đều đối xử tử tế, họ chỉ cần nhìn thấy chị còn sống, còn tu, còn thuyết pháp … là đủ cảm động rồi. Chán cảnh lợi danh, có những thời thuyết giảng xong, chị cầm micro, xin được phép không nhận tiền. Thật ra, Phật tử bên này, rất là khinh thường Tăng, Ni từ Việt Nam sang, do họ nghi ngờ Tăng, Ni qua đây, không vì tâm lợi tha mà vì cái… túi tiền của Phật tử, nên chị cư xử vậy cho khỏe cả đôi đàng.

Chị phải trả computer và trở về chỗ trú ngụ. Khi nào có dịp, chị sẽ mail tiếp cho em.

Chị Ba

 

Lá thư 35 
Thứ Hai, ngày 06 tháng 06 năm 2005, 10:19 sáng.

Heo Ú cưng!

Chị vừa nói xong thời thuyết pháp cuối cùng, coi như đã xong nợ với Louisiana, chỉ cần ăn no ngủ kỹ và chuẩn bị hành lý để bay sang Arizona.

Louisiana là một vùng đất sình lầy, Mỹ đen nhiều hơn Mỹ trắng. Ngoài một cái cầu dài nhất thế giới (45km), bắt ngang một cái hồ cũng to nhất thế giới ra, không có gì đáng để coi hay đáng chiêm ngưỡng, Vì vậy, chị tranh thủ… bệnh. Tension chị đột nhiên lên quá mức bình thường làm ai cũng hoảng (trừ chị). Chủ nhà phải dùng đủ cách để chị vừa trị bệnh, vừa có thể bảo đảm vẫn giữ đủ các giờ thuyết giảng. Lợi dụng thời gian nằm dưỡng bệnh, chị đọc ngấu nghiến các sách, ngữ lục của Thiền sư Tuyên Hóa và ngài Quảng Khâm. Ai chê chị ngây thơ, chị chịu chứ không hiểu sao, lần nào đọc các lời dạy của các Thiền sư Trung Quốc, chị đều thấy được sách tấn và hơi buồn vì mình đã già, không còn đủ thời gian để hạ thủ công phu. Mình vẫn có thể vừa hưởng nhàn vừa khâm phục những nhà tu khổ hạnh.

Vùng chị đến, có lèo tèo vài ngôi chùa, Tăng, Ni cũng ít ỏi. Có một cô ni về ở một ngôi chùa mà sáng nay chị vừa thuyết giảng, ban ngày cô ở chùa, tối đến phải đi ngủ đậu vì không dám ngủ một mình giữa ngôi chùa mênh mông mà hàng xóm chỉ toàn Mỹ đen.

Cái gì mới và hiếm thì được trân trọng. Do chị biệt tích hơn 15 năm, giờ xuất hiện tại Mỹ như một hiện tượng mới và lạ giữa những tin thời sự cũ mèm. Vì vậy, Phật tử đua nhau mời mọc, tìm kiếm chị để chiêm ngưỡng… “Người chết trở về”. Một số đã từng nghe băng của chị thì vui vẻ khi thấy chị còn sống và còn tu. Chị cũng biết thân, chị nói chuyện trước một cử tọa từ năm chục người trở xuống. Hỏng lẽ, đi chơi hoài tốn tiền, tổn phước … nên vớt vát lại bằng những thuyết giảng mini cho giới bình dân, không ngoài ước mong họ được chút ít an lạc… là đạt yêu cầu? Thôi thì, duyên ai nấy gặp.

 

THÀNH VIỆT KIỀU KÉ!

Chiều nay, thuyết giảng xong, chủ nhà đi chợ mua cho chị một cái đồng hồ đeo tay và một đôi giầy. Cách ăn mặc của chị thường khiến cho Phật tử và ni chúng … động lòng trắc ẩn. Ai cũng xúm lại … nâng khăn sửa túi và trau tria nhan sắc cho chị. Chị vốn là người ít để ý bề ngoài. Nhờ vậy, chị dễ khêu khợi lòng thương hại hơi là ganh ghét.

Hồi mới qua, khi chị xuất hiện tại các phi trường với những bộ đồ Vietnamese… bảnh nhất, cảnh sát thường bắt chị lại để kiểm tra thật kỹ, vì họ nghi ngờ chị là dân … khủng bố. Bây giờ, sau năm bảy đợt tân trang, chị đã thành Việt kiều với: Giầy Ý, đồng hồ Mỹ, áo khoác Pháp, nón … Tây Ban Nha … nên cảnh sát đã không thèm xét chị và chị có thể ngẩng đầu cao khi đi qua các cánh cổng của phi trường. Nhưng, chị lại sợ, vào ngày chị về Tân Sơn Nhất, thiên hạ sẽ tưởng chị là Việt kiều chính hiệu mà … rượt chị để … chôm đồ, thì … oan ơi ông địa!

Ngày mai, chị phải đi dự một buổi tiệc tiễn hành của các Phật tử vùng Louisiana. Ngày mốt, chị sẽ đi sang vùng sa mạc của miền Nam nước

Mỹ. Uyên Phương đang ở đó. Mẹ của Uyên Phương đã bị mất trí nhớ, ba của nó thì già yếu, nó hiện là lao động chính trong gia đình, sống bươn chải một mình để nuôi cha mẹ. Nó đã lái xe hơn 1800km để đi tìm chị. Nó là đứa bé rất sướng ở Việt Nam, qua đây lại là đứa khổ nhất.

Vài hàng thăm em, chị phải trả máy vi tính cho chủ nhà đây.

 

TRỄ CHUYẾN BAY

Lá thư 36 
Thứ Tư, ngày 08 tháng 06 năm 2005, 7:12 sáng.

Heo Ú ạ!

Chị đang gặp vận xui đây. Trưa nay, chị nhờ người chủ nhà chở chị ra phi trường để bay sang Arizona sớm. Vì chị có kinh nghiệm: ở những chuyến bay đường dài, hải quan Mỹ xét những người nước ngoài rất kỹ. Nhưng chủ nhà không chịu nghe, cứ rề rà. Hậu quả là chị bị trễ máy bay, phải đợi 24 giờ sau mới được lên máy bay. Điều đau khổ là, hai rương đồ của chị đã theo chuyến bay đi lên trời rồi, riêng chị ở lại với bộ đồ duy nhất trong người, tất cả sổ sách, đồ phụ tùng đều không có bên cạnh. Tệ hơn nữa là, Phật tử Arizona tối nay sẽ ra phi trường đón chị, chị không tài nào gọi phone cho họ, vì số phone cũng bay lên trời mất rồi. Ở Mỹ, muốn vô phi trường phải gửi xe trả chi phí rất cao (tính theo giờ). Phật tử Arizona chắc sẽ cạn túi vì phải đứng suốt đêm để đón chị!

Chị được Phật từ Louisiana tặng một cái đồng hồ rất đẹp, cái hộp đựng đồng hồ to và đẹp lắm nên cảnh sát tưởng là… mìn! Ngày mai, chắc chị phải bỏ cái hộp, chỉ giữ cái ruột, vì chị còn phải qua lại gần 10 cái phi trường nữa. Sau ngày 11 tháng 9, dân Mỹ rất sợ khủng bố. Tụi Bin Laden đã mặc y phục và cạo râu hết ráo, chỉ còn chị là mặc áo tràng, đội mũ len, mang bị… giống y chang ông thần đèn Aladin, nên cứ bị họ bắt lại xét hoài… hu hu! Không biết ngày mai, chị có tìm lại được hai cái rương đồ yêu quý của mình không nữa? Bên này, cái rương của mình, cũng không được quyền khóa lại vì họ có thể kiểm tra bất cứ lúc nào.

Hể rảnh, chị đọc ngữ lục của Thượng nhân Tuyên Hóa. Và, thật tức cười khi nghe ngài kể rằng: Lúc sang Mỹ hoằng pháp ngài còn bị dân Tàu đoán là: Ngài giựt hụi, lừa gạt dân Hồng Kông, ôm tiền trốn sang Mỹ.

Hôm qua, chị được đi thăm viện bảo tàng các loài thủy tộc sống dưới nước, được chụp hình chung với cá sấu (nó ở cách chị một tấm kiếng) và chụp chung với cá mập… v.v… Vé vô cửa hết 20 usd (người khác trả tiền)…

Tổng kết lại, sau hai tháng trời làm Việt kiều Mỹ, chị đã có trong rương hơn 200 tấm hình màu. Vái trời, hai cái rương và mấy tấm hình không mất. Phật tử an ủi chị, nếu có mất, họ bồi thường cũng nhiều tiền lắm. Chị không mơ được bồi thường, chị mơ có một bộ đồ sạch để mặc tối nay, hỏng lẽ chị phải làm… Chử Đồng Tử đứng giặt đồ trong phòng tắm đêm nay hay sao?!!!…

Chị đã gần 60 xuân xanh, cũng chẳng tính chuyện… thu môn đệ. Có điều, chị hâm mộ các thiền sư khổ hạnh, mỗi ngày ăn một bữa, viễn ly quần chúng. Chị vừa hâm mộ, vừa ăn một ngày… bốn bữa và la cà ở nhà các Phật tử để đi chơi ké… Đôi khi, nghĩ lại, chị sợ mình tái sinh làm hướng dẫn viên… du lịch. Ngài Tuyên Hóa nói dứt khoát rằng: Ai ăn heo sẽ bị làm heo, ăn gà sẽ tái sinh làm gà… Xong, Ngài lại dỗ: Dừng tham, sân, si là tu rồi, chỉ cần lòng không sân hận là tu rồi… Ai mà đọc 108 biến chú Đại Bi mỗi ngày thì chữa bệnh gì cũng hết… Chị thí nghiệm, thấy chỉ cần hai giờ là chị đọc được 108 biến liền.

Hẹn thư sau.

Chị Ba

 

TÌNH HUỐNG Ở ARIZONA

Lá thư 37, 
Thứ Ba, ngày 07 tháng 06 năm 2005.

Heo Ú ơi!

Chị đang ở Arizona, đã lấy lại hai rương hành lý, đã tắm rửa và ăn uống đàng hoàng rồi. Chị có được hai ngày nghỉ ngơi, rồi sau đó mới thuyết pháp. Chị đang sang nhà ông Mỹ hàng xóm để gửi mail ké, một ông Mỹ chính hiệu mắt xanh mũi cao đàng hoàng. Arizona là vùng sa mạc, nóng trên 40 độ c, chị ở trong nhà máy lạnh nên không hề hấn gì. Đêm qua, chị nhìn gương, thấy da dẻ chị trắng trẻo hồng hào, tưởng đâu mình đã được đổi lớp, nhè đâu đo huyết áp mới thấy lên cao quá trời, tim đập tới gần 100 nhịp.

Như vậy, kể từ nay chị sống phải gắn liền với thuốc cao huyết áp, chị mà vắng thuốc một bữa đã thấy muốn xí lắc léo. Muốn chết để ăn vạ cũng dễ, chỉ cần ngưng thuốc vài hôm là xí lắc léo ngay. Nhưng, chị sợ… mình không chết liền mà nằm ngáp ngáp mới khổ!

Vài hàng báo tin, khi nào mượn được computer của Việt Nam mới dám viết nhiều.

Chị Ba.

 

Lá thư 38 
Thứ Sáu, ngày 10 tháng 06 năm 2005, 9:15 tối.

Heo Ú ơi!

Chị đang ở nhà Uyên Phương, chị ở một ngày thôi, rồi mai chị sẽ dời xuống nhà Phật tử khác. Tiểu bang Arizona toàn là sa mạc, thời tiết nóng tới hơn 40 độ c, dòm đâu cũng thấy toàn là núi đá chập chùng, cây cỏ toàn là xương rồng và lùm bụi. Nhà cửa thì lùn tịt, trang bị toàn là cửa kiếng, xài máy lạnh kinh niên, chứ nếu không thì ai cũng sẽ thành cá kho hết.

Từ máy bay nhìn xuống mới thấy nơi đây là vùng núi lửa phun lên, dấu vết của những động nham thạch tuôn trào xếp chất chồng lên nhau, có nhiều màu sắc, trông vừa hoang sơ, vừa kỳ bí, pha chút ít vẻ rùng rợn của thời Nguyên thủy. Con người đóng góp thêm với thiên nhiên bằng những bãi rác chứa xác máy bay khổng lồ, những chiếc máy bay có từ thời thế chiến, từ các chiến trường về còn sót lại. Tả là như vậy, nhưng nhà cửa ở đây cũng đẹp, sạch sẽ và dễ thương như nhà của Bạch Tuyết và bảy chú lùn. Các dãy nhà thường cất theo một kiểu, giống nhau như đúc. Dân Mỹ ăn thì ít nhưng ở thì nhiều (trái ngược với dân Việt Nam) Nhà nào dòm bên ngoài cũng nhỏ nhắn, nhưng bước vào trong thì rộng thênh thang, phòng ốc ngăn nắp, sạch sẽ. Khoái nhất là không có ruồi, muỗi, gián, rận, rệp, ve, kiến, chuột… ở chung với mình. Chính phủ thường cử các nhân viên y tế giả dạng thường dân, đến các nhà hàng, dòm ngó, hễ bắt gặp một con gián, con chuột hoặc một sợi tóc lẫn trong thức ăn là cái restaurant (nhà hàng) đó kể như tàn đời!

 

AN VÀ BÁT AN

Cái thế giới an bình này, ngó vậy mà đầy bất an. Hôm ở Texas, bà chị Hai của Diệu Tịnh có đến thăm, gửi chị tiền để làm từ thiện. Tối qua chị nghe tin, chị ta vừa bị một thằng Mỹ đen vô nhà, trói hai vợ chồng lại, tra tấn để khảo của. Khi đi ngoài phố, lâu lâu lại thấy một thằng Mỹ đen bị còng tay dắt đi, police lôi từ túi quần nó ra một bịch ma túy. Dân Việt Nam qua đây cũng góp phần vào chuyện buôn bán ma túy và lập băng đảng v.v…

Thiên hạ đua nhau mời mọc chị là vì băng giảng của chị từng được phổ biến nhiều bên Mỹ. Họ khoái băng chị giống như người ta khoái xem hài hơn các tuồng cải lương có nhiều cảnh khóc kể. Do đời sống có nhiều căng thẳng, nên người ta thích cái gì cười vui thoải mái hơn là phải nghe những giáo điều cứng ngắc. Chị đây có nhiều tai tiếng lẫn danh tiếng. Chị xuất hiện giống như là người từ cõi chết trở về. Ai mà chứa chị, thì giống như chứa một “danh nhân với đủ thứ phụ tùng rắc rối”… Vì Vậy, để tránh rắc rối, chị thường đến và đi thật nhanh… canh khi tách trà chưa nguội, khi mà thức ăn còn nóng sốt… sợ là nếu chị ở lâu quá, thì cái tâm tốt lành của thiên hạ khó mà kéo dài được…

Chị đang làm reo, không chịu thuyết pháp tại một ngôi chùa Ni của khất sĩ, vì hai cô trụ trì nghe lời Phật tử xúi, đã cho đăng bảng công bố ngày, tháng… chị thuyết giảng mà không hề xin phép hay thông qua cho chị biết trước. Hai cô này ra tận phi trường, chờ đợi hai ngày để đón chị. Đến tận nơi chị ở trọ, sau khi khen ngợi chào mời xong… thì chỉ có một ông Phật tử thông báo cho chị biết là chị phải… giảng kinh vào lúc nào, thứ mấy kết thúc…rồi cáo từ ra về. Tới hồi nghe tin chị không chịu đến thuyết giảng, thì hai vị đã lỡ chào mời rủ rê thiên hạ kia, vội vã kéo đến năn nỉ, khóc kể…

Chị bây giờ, không còn ngây thơ như xưa nên dĩ nhiên là chị… bất động. Cuối cùng, chị chỉ nhận thuyết giảng hai giờ vào ngày chủ nhật mà thôi. Chị còn giũa cho cô trụ trì đó một mạch: “Làm thầy mà cứ để Phật tử đặt đâu ngồi đó, không biết nghi thức thỉnh pháp”… Dĩ nhiên là họ buồn thiu, cụt hứng, vì đã lỡ… mời Phật tử tề tựu vào những thời gian mà chị từ chối. Chị không muốn làm khổ thiên hạ, nhưng rất không muốn người ta xem thường các Tăng, Ni Việt Nam sang Mỹ như các ca sĩ đi kiếm show, cho rằng chị có được chỗ giảng và được cúng tiền… là vinh hạnh lắm? Đó là lý do vì sao chị bỏ giờ giảng kinh để theo nhỏ Uyên Phương về nhà nó chơi.

Lúc này, chị trắng trẻo hơn trước, mặt hồng hào vì… huyết áp cứ lên cao. Nhưng, chừng nào chết hẵng hay, bây giờ thì đi chơi trước đã. Vài hàng thăm báo tin cho em biết Hãy đón xem hồi sau, còn nhiều chuyện ly kỳ hơn.

Chị Ba.

 

Lá thư 39 
Thứ Bảy, ngày 18 tháng 06 năm 2005, 12:01 khuya.

Heo ú ơi!

Chị đang ở Boston, thuộc tiểu bang Massachusetts. Hôm qua, Phật tử chở chị đi New York, ra chỗ bờ biển có tượng nữ thần Tự Do đứng trên hải đảo, ngón tay của nữ thần còn to hơn bản thân chị. Chị đứng trên bờ biển nhìn bức tượng hiện mờ ảo xa xa giữa làn sương chiều.

Sang vùng Đông Bắc Mỹ, khí hậu khá lạnh. Chị vừa ở Arizona, từ khí hậu sa mạc giờ chuyển sang khí hậu lạnh, quả là không dễ chịu chút nào. Những ngày sắp tới, chị sẽ đến giảng ở những ngôi chùa mà Hạnh Huệ đã từng đến thuyết giảng. Nơi đây, có một ngôi chùa Bồ Đề, do bốn vị Tăng Việt Nam mà thầy Viện Chủ đưa sang mở Thiền Viện. Chị có mấy đứa học trò ở Huê Lâm sang đây, mua nhà thờ để lập chùa. Nhóm Huê Lâm ở Tịnh Tâm Trai mua được một cái để biến thành chùa. Phật tử nơi đây đón tiếp những sứ giả của thầy Viện Chủ cử đi với sự tôn nghinh, ngưỡng vọng. Phần chị, chắc là họ chào đón với sự tò mò, pha chút thương hại. Chị không còn sống nhờ vào hào quang của Thầy, của Thiền Viện, của danh gia chánh phái mà… bằng chính bản thân mình. Những người có cảm tình thì hoan hỷ khi thấy chị còn tu và còn sống, chưa có đẻ đứa con hay có ông chồng nào. Những người ác cảm thì… theo dõi coi chị làm ăn ra sao? Và, dù thuận hay nghịch, chị vẫn là một vấn đề thời sự, nóng sốt, đáng quan tâm để bàn luận, hoặc chê hay khen! Chị cũng có cái lợi thế như một kẻ đứng hạng chót trong lớp, không thể nào tụt xuống thấp nữa, chỉ có thể lên hạng mà thôi. Còn dân Viên Chiếu sang đây, giống như những người đứng đầu lớp, chỉ có thể tụt hạng hoặc trụ hạng thôi.

Chị vẫn đi chơi, vẫn thuyết giảng như Viên Chiếu, nhưng theo cái kiểu của chị. Nghĩa là hà tiện, dè sẻn: “Có phúc không nên hưởng hết”, tiền hễ có vừa đủ xài là không thèm nhận nữa. Thức ăn còn thừa là ăn cho bằng hết, không để gia chủ phải mua thêm. Sau hai tháng trời du ngoạn, chị chưa bỏ tiền mua một kỷ vật nào để lưu niệm. Trên những chuyến bay đường dài, chị thà nhịn đói chớ không bỏ ra đồng nào để mua… thức ăn. Chị muốn mang về Việt Nam không phải là những kỷ vật, mà còn là lòng tự trọng của chị, không hề sứt mẻ khi sống lẫn lộn giữa chốn phồn hoa.

Hôm nay, gặp được cái computer để gửi mail cho em và thân hữu. Ngày mai, chưa chắc đã có. Được ngày nào hay ngày nấy. Uyên Phương có đem tặng chị cái computer nó đang xài. Chị tội nó nên từ chối. Của mượn là của Lo, của Cho là của Nợ. Chị không muốn mắc nợ thêm và rất tội nghiệp nó. Uyên Phương chẳng những mất mẹ, mất sự yên ấm của gia đình mà nó còn mất dần niềm tin. Nó lái xe đi tìm chị, vượt qua 2000 km như tìm một điểm tựa, một niềm tin cuối cùng. Không phải chỉ mình nó, mà nhiều Phật tử Việt kiều cũng tìm kiếm chị với cùng một tâm trạng như vậy. Chị cũng đâm lo, không biết mình có “giết người trong mộng” của thiên hạ không?

Ê! Chị không mượn được computer, nhưng chẳng lẽ em cũng làm mất… máy rồi sao? Không thấy thư của em?

Hẹn mail sau.

Chị Ba

 

Lá thư 40 
Chủ nhật, ngày 19 tháng 06 năm 2005, 4:37 chiều.

Hạnh Đoan ơi!

Thượng đế hay Chúa không cho ai một thứ gì bao giờ. Nước Mỹ hào phóng tặng chị đủ thứ, chị đã thành một Việt kiều thứ thiệt, trắng trẻo mập mạp, chân tay hết nứt nẻ, lên xe xuống ngựa, quần là áo lượt… v..v… Nhưng, nước Mỹ rộng mênh mông quá, cứ bay một chuyến là múi giờ bị đổi, ngày thành đêm, đêm thành ngày, có thể chị không thể nào thích ứng nổi nên mới mất ngủ kinh niên. Thêm vào đó, mới vừa chịu cái nóng hơn 40 độ c của vùng sa mạc Arizona, đã nhảy qua cái lạnh âm 15 độ của miền Đông Bắc… Khiến chị thiệt… muốn khùng luôn! May là, chị không có gì để lo lắng, phải ấm ức hay stress, chứ nếu có chắc chị đã giống mẹ của Uyên Phương rồi!

Suốt đêm qua, chị mất ngủ, sáng nay, phải gắng gượng leo lên xe cho Phật tử chở đi tham quan Tu viện Rừng Phong của Hòa thượng Nhất Hạnh. Nơi đây, có khoảng 12 cô Ni. Ni trưởng là người Anh, bằng tuổi chị, nói tiếng Việt Nam rất giỏi, các cô khác thuộc nhiều quốc tịch: Canada, Pháp, Mỹ, Lào… Tất cả đều xinh đẹp trẻ trung, tươi tắn. Nếu trẻ lại 20 năm, chị sẽ dắt em qua đây tầm đạo, tu hành, có thể hai chị em mình sẽ trở thành… “danh nhân thế giới”. Pháp tu của Hòa thượng Nhất Hạnh không khó lắm. Đang tiếp khách, bưng tách trà trên tay mà nghe phone reo dài thì cứ việc đứng sững tại chỗ, tay vẫn còn bê tách trà, thở ra vô ba hơi dài rồi mới tiếp tục mọi việc, y chang như một cao thủ võ lâm bị điểm huyệt vậy! Dễ ẹt hà! Có điều, khi tiếp khách, dắt khách đi dạo khuôn viên chùa, giới thiệu mấy bãi cỏ hay cái vườn rau tí tẹo, phải đi chậm rãi, cười mỉm để giữ phong thái thiền. Lâu lâu, còn được Hòa thượng dắt đi thiền hành khắp năm châu bốn bể cho thiên hạ quay phim, chụp hình. Khoái không?

Vô thiền đường, chị đang lễ Phật thì bỗng nhiên, đằng sau lưng Phật là tấm kính trong, có một ông sư mắt xanh, mũi cao, đẹp trai như tài tử, vác cái thang leo lên sửa tấm vách. Chị xổ một câu vừa tiếng Việt, vừa tiếng Anh: Hê hê, tui vừa lễ một lượt hai ông Phật: Present Buddha và Future Buddha! Thế là các ni cô thuộc 5 quốc tịch đều cười hi hi… quên cả việc phải thở ba cái rồi mới được cười. Hi hi

Xa lộ Mỹ thuộc loại (siêu tốt số một) super, number one! Quãng đường 500km chỉ cần lái vèo vèo ba tiếng… đường đẹp, rộng rãi, không có một cái ổ kiến nói chi là ổ gà! Cảnh đẹp mê hồn gấp năm lần đường lên Đà Lạt, núi đồi nối tiếp nhau, hồ nước tĩnh lặng, bình an… Vài dặm đường là có một công viên đẹp đẽ, có nhà nghỉ mát để mình vô đó đi toilet, rửa mặt, nước nóng xài thả ga, giấy vệ sinh miễn phí… nhiều chỗ còn có cafe hay nước cam miễn phí nữa… Dân Mỹ đóng thuế rất nặng, ai độc thân phải đóng 45% tiền lương, nhưng bù lại, hệ thống giao thông và tiện nghi dọc đường của họ quả là không chê! Tiền thuế đó, chính phủ dùng để làm đường xá, cầu cống… chế tạo bom rượt tụi khủng bố… cho hả giận và nuôi tù nhân hay cho sinh viên vay tiền, còn trợ cấp người già, trẻ em, và trợ cấp luôn cả cho dân Vietnamese.

Người Mỹ giỏi giang, vô tư, tôn trọng luật pháp nhưng rất… ngu! Chính họ đào tạo tụi Ả Rập, dạy chúng lái máy bay, cấp tiền nuôi vợ con chúng để chúng rảnh rang mà đi cướp máy bay, ủi sập hai tòa nhà cao nhất nước Mỹ. Bây giờ, họ đã khôn ra, tại các phi trường, hễ thấy hộ chiếu nước ngoài là chặn lại, xét từng cái… lai áo. Nhưng, đồ đệ của Bin Laden khôn lắm! Chúng đã cạo sạch râu, mặc âu phục, xài giấy tờ giả giống y chang dân Mỹ. Chỉ có mình chị là… còn quần dài áo rộng, trùm quấn kín mít… y hệt dân Ả Rập. Vì vậy, mà chị lãnh đủ khó khăn khi qua lại các phi trường. (Cho dù chị mũi tẹt, mắt ốc nhồi và không có cọng râu nào).

Trưa nay, chị có một thời thuyết giảng lúc 11 giờ. Ngày mai, chị sẽ bay qua tiểu bang khác, giảng ba ngày liên tục, mỗi ngày khai pháp vào lúc 7 giờ đến 8 giờ 30 tối (tại chùa Hoa Nghiêm, nơi ba má Viên Hướng ở). Những nơi chị đang đi là nơi Hạnh Huệ đã từng đến thuyết giảng. Đến ngày thứ tư, chị sẽ bay về Boston, nghỉ mệt một ngày rồi sẽ được đưa bằng xe hơi đến Newyork để giảng hai ngày tại một tịnh xá của giáo phái Minh Đăng Quang. Điểm khác biệt giữa chị và các giảng sư Viên Chiếu là chị có thể chui vô các chùa Tịnh Độ nói pháp, ăn cơm với các ni cô khất sĩ và khuyên người ta cầu về Tịnh Độ. Quên nữa, sau hai thời giảng cuối tuần, chị sẽ bay sang tiểu bang khác, chui vào túi từ bi của một Phật tử già 70 tuổi, ở đây một tuần, chị sẽ bay về San Jose thuộc Cali… Ăn chực thêm vài hôm, chị sẽ bay về Việt Nam!

Vùng Đông Bắc Mỹ, có hơn mười tiểu bang đứng xúm xít gần nhau. Kinh đô Washington DC, đại học Harvard lừng danh, tượng Nữ Thần Tự Do, phố Tàu, cùng các thành phố đông nghẹt dân đều tập trung nơi đây. Nước Mỹ được thành lập từ 13 tiểu bang đầu tiên, tách rời Liên hiệp Anh nằm ở vùng này. Mùa Đông nơi đây kéo rất dài, tuyết phủ khắp nơi. Chị bước chân qua vùng này cùng với mùa Hè, cây cỏ trỗi mình, khoác áo mới, màu xanh tươi tắn phù khắp nơi, hoa nở rộ đù màu sắc. Mười giờ đêm trời vẫn còn sáng, bốn giờ sáng đã thấy rõ đường đi… Đất nước thanh bình, thiên nhiên hào phóng, thức ăn dư thừa, nhà cửa xinh xắn như các lâu đài… Người giàu ở trong những biệt thự nguy nga, người nghèo hơn thì ở trong những ngôi nhà dễ thương như nhà của bảy chú lùn… Và dĩ nhiên, chẳng ai dại gì mà sân si trong một thế giới ngon lành như thế. Công bằng mà nói, có lẽ dân Việt Nam là dân tộc quạu quọ nhất mà chị đã từng… gặp và sống chung trên thế gian này. Vừa quạu quọ, vừa ma lanh, vừa khôn vặt và kiêu ngạo một cách… dễ chọc người ta ghét! Ngày chị lên máy bay đi Mỹ, cả phi trường Tân Sơn Nhất bự tổ chảng như vậy: Đã không có ghế cho người ta ngồi vì thiếu tiền, còn thiếu cả nụ cười tiễn đưa. Một dân Việt Nam nổi tiếng là hiếu khách hay cười đã biến vào… lịch sử mất rồi, Trong khi đó, các hãng hàng không ngoại quốc đều cử nhân viên đứng dài bên cổng ra vô cửa máy bay, cười thật tươi: “Thank you” và “See you again”… rối rít.

Đó là chuyện thế gian…

Nói chung, Phật tử nơi đây luôn đói Pháp. Người trẻ khổ vì tình, người già khổ vì cô đơn, Tăng, Ni khổ vì chuyện cất chùa… các giảng sư khổ vì phải thi hành phận sự… lợi tha!

Thư đã dài. Mai kể tiếp! Đón xem hồi sau sẽ rõ (nếu chị mượn được computer).

Chị Ba

 

Lá thứ 41 
Chủ nhật, ngày 19 tháng 06 năm 2005, 7:11 tối.

Trưa nay, chị phải thi hành nghĩa vụ, tức là đi giảng kinh cho Phật tử nghe. Nơi đây, các pháp sư hoạt động rất nhiều, băng giảng cũng nhiều, các Tông phái hoạt động rất nhiều, do Thiền Tông và Tịnh Độ Tông choảng nhau nhiều trận qua băng đĩa. Nên chắc là, chị sẽ chọn đề mục nói về “Tâm Bình Thường”. Tâm bình thường đây là để đối chọi với cái tâm bất thường. Những trạng thái yêu, ghét, giận… đều là tâm bất thường. Những thứ tâm bất thường đó, nồng độ cực mạnh, đến nổi thiên hạ phải la lối, làm thơ, viết văn mới xả bớt, kẻo nó nổ tung ra. Người đang yêu hay đang giận đều giống y chang nhau. Họ đều lao tới đối tượng, nói lảm nhảm, kể lể, la hét hoặc năn nỉ mình phải đáp ứng tức thời cái tâm đó. Giới trẻ bên này hùng hục lao vào các cuộc tình nóng sốt; giới sồn sồn thì khổ vì tình; còn giới già thì đang khổ vì cô đơn, vì sợ chết. Chị không hiểu mình đang tu pháp nào, Tịnh hay Thiền, nhưng chị cũng ngán mấy đoạn tâm thức bất thường của mình lắm. Cũng may là tuổi già, huyết áp cao và sợ trọng lượng dư thừa của cơ thể đã kéo chị lại trạng thái quân bình. Nếu Hòa thượng Tuyên Hóa chủ trương bớt ăn, ít ngủ thì chị lại hành theo ngược lại. Nghĩa là, hôm nào ngủ được, ăn được là chị cảm thấy vui vẻ, yêu đời và thở ra thở vô được bình thường. Ngược lại, bữa nào mất ngủ, ăn uống bất thường là chị bị lao đao, mặt mày xám ngoắt, thở phì phò như lên cơn suyễn.

Hơn hai tháng qua, hình như đi đâu, chị cũng kêu gọi người ta bớt ham tu một chút, khoan cạo đầu, khoan… giải quyết sinh tử để… ở nhà mà lo giải quyết chuyện gia đình cho thiên hạ bớt loạn.

Còn khoảng ba tuần nữa, chị đã Go to home (về nhà), nên phải bớt chơi, lo làm bổn phận để bớt áy náy lương tâm vì di chuyển tới lui, tốn quá nhiều tiền máy bay. Chị có kẹo Hall (ngừa cảm ho cho em). Có thể chị sẽ mua một ít quà đem về, cũng có thể chị không mang gì hết vì cái gì cũng mắc quá trời. Em có cần gì thì nói, kẻo chị về đến Việt Nam rồi thì meo lại hoàn mèo, nghĩa là tình tiền gì cũng hết.

Hẹn thư sau.

Chị Ba.

 

VIRGINIA

Lá thư 42 
Thứ Hai, ngày 20 tháng 06 năm 2005, 3:33 chiều.

Hi!… Heo Ú ơi ! Khoảng hai tiếng nữa, chị sẽ lên đường ra phi trường Boston để bay sang Virginia rồi. Hôm qua, chị có đến thăm cái chùa mới của Như Bảo, Như Chánh (mấy đứa này ngày xưa ở Huê Lâm) ông Phật cùng tòa sen của ngôi chùa còn đang ở ngoài đường, chưa kịp khiêng vô! Cái nhà thờ đó, cũng khá đẹp và to nhưng cũ mèm. Nếu tụi nó không mua, chắc là cũng chẳng có ai thèm mua. Đỉnh nhà thờ vẫn còn cây thánh giá cao vút. Như Chánh nói: Để như vậy, tụi nó sẽ được cả Chúa lẫn Phật phù hộ!

Boston là một thành phố xinh đẹp không thua gì Seattle hay Tacoma… (nơi mà lúc trước chị hay chụp hình gửi về cho em) Chị đến nơi đây cùng một lượt với mùa xuân nên nhìn no nê đám cây rừng thay áo mới, hoa lá xinh tươi khắp nơi. Các con đường lên dốc xuống đồi, những hồ nước xanh biếc, những núi đá bị cắt đôi cắt ba cho các xa lộ len lỏi chui vào…, những ngôi nhà, biệt thự duyên dáng nằm trong nắng… tất cả đều hài hòa, thanh bình và xinh đẹp hơn cả ước mơ. Các ngôi chùa nơi đây ở cách xa nhau hàng trăm cây số, với vài nhóm Phật tử, mỗi nhóm mang một cá tính riêng, cũng khá dễ thương. Chị đã gặp một ngôi chùa có cô trụ trì tất bật và một ngôi chùa có mấy cô trụ trì trẻ tuổi cỡ Như Bảo, chị đi thăm tu viện Rừng Phong và đến chùa Việt Nam gặp gỡ một nhóm Phật tử (trong đó có ca sĩ Hà Thanh nổi danh một thời)… bao nhiêu đó đủ để an ủi, đủ để tự hào rằng một tuần lễ trôi qua nơi đây thật là tuyệt diệu!

Làm tăng sĩ đi hành cước quả là thú vị hơn làm tăng sĩ trụ trì một chỗ. Nhưng, cái giá phải trả của cuộc đời thú vị đó là chị cứ mất ngủ liên miên, lâu lâu lại giật mình không biết mình đang ở đâu và phải nói pháp thoại láp váp chỗ đó… rồi cắn rứt lương tâm khi thấy mình ham chơi hơn là ham tu! Hôm qua, chị có hai thời thuyết pháp. Và, chiều nay, chiều mai, chiều mốt… cho đến ngày về Đức Viên chị đều được ăn, được nói, được gói đem về.

Thôi, chị phải chuẩn bị lên đường đây. Khi nào có computer, chị sẽ kể tiếp cho nghe…

Hẹn thư sau.

Chị Ba.

 

Lá thư 43 
Thứ Hai, ngày 20 tháng 06 năm 2005, 9:49 tối.

Chị Ba ơi

Chị đừng có đổ cho đi hành cước mất ngủ. Em ở nhà cũng mất ngủ li bì, thường là một hai giờ khuya mới ngủ được… nên sáng dậy mặt nhăn như cái mền – buổi trưa trì Đại Bi thì dễ ngủ nhưng tối mà trì thì lại tĩnh rót, thế mới lạ chứ.

Hôm nay em ngồi thiền trì đàng hoàng (trì chú Đại Bi đếm trên mấy đầu ngón tay, không cần lần chuỗi, chẳng phải em siêng tu mà ngồi… cho khoẻ), trì xong 108 biến thì con mắt hiu hiu, hi vọng tối nay sẽ ngủ được. Em chúc chị đi chơi vui vẻ, hi vọng có ngày chị định cư luôn ở Mỹ, tâm chị thích thong dong nên em nghĩ là chị sẽ gặp cảnh hợp ý, Vì chị đâu mưu cầu tiền đồ đại sự… chùa lớn Phật to gì? Nên sẽ không đến nỗi cực như người đâu! Tướng chị giống Tăng, tốt nhất là hãy mua cái túi ngủ để đêm chui vào, ngày kiếm quán miễn phí ăn chực, Phật thương Phật nuôi, chị cứ sống kiếp tình tang, dù túi không tiền mà có phước báo nhiều thì cũng sống ổn rồi, lòng chị hoan hỉ, giúp người ta tiêu sầu thì cũng là có giúp, nhắm được thì chọn chỗ đi, sau này qua ở bển luôn đi nha, có hoa thơm cỏ lạ tha hồ ngắm, chị đâu mê danh lợi cung điện gì mà sợ? Chứ về đây chị cứ nằm tòn ten trên cái võng, để muỗi bu… em thấy tội nghiệp chị biết là bao.

Heo Ú.

 

TIỆN LỢI VÀ BẤT TIỆN

Lá thư 44 
Thứ Ba, ngày 21 tháng 06 năm 2005, 7:57 tối.

Heo Ú ơi!

Ờ! Em nhắc, chị mới nhớ! Chị mất ngủ có lẽ do mở miệng phê bình pháp tu không ngủ của Thiền sư Tuyên Hóa. Thôi, hễ ngủ không được thì mình thức, trì chú hay đi kinh hành, may ra có thêm đạo lực để tiếp tục sống trên cõi đời rất mực hào hùng này.

Chị đang mượn cái computer của thầy Kiến Khai để check mail đây. Máy móc ở đây thiệt là ngon lành, xài hoài không chán, ở Việt Nam mỗi lần muốn check mail, chị phải đạp xe đi về hơn 20 cây số, qua một cái phà lớn như phà Mỹ Thuận, tới tiệm Internet thì… có khi cúp điện, có lúc mạng bị rớt, đành trở về không. Hôm nào may mắn mở được mail thì quảng cáo cứ chui vô hoài, phải ngồi suốt ngày mới rị mọ được vài cái thư.

Nhưng bù lại ở Việt Nam chị được ngủ thoải mái. Lúc nào chị cũng có thể ngủ được hết. Lên xe đò, ngồi chờ phà, chỉ cần một chỗ tựa lưng là chị ngủ ngon lành. Còn ở Mỹ thì ngược lại, chị cứ mất ngủ hoài. Có lẽ sự an tĩnh nơi đây làm mình nghi ngờ. Nhìn những ngôi nhà xinh đẹp, những thảm cỏ xanh, những vườn cây, những con đường sạch sẽ… chị luôn có cảm tưởng mình đang nằm mơ. Chỉ cần chợp mắt, giấc mơ sẽ tan biết, chị sẽ thấy mình đang ở Việt Nam. Nhìn lên là mái nhà đầy chuột con, dòm xuống sẽ thấy kiến lửa bò lúc nhúc… và những âm thanh cuồng nộ của hàng xóm, tiếng chó sủa, gà kêu, tiếng hát karaoke, tiếng con nít khóc đòi ăn, tiếng đòi nợ, chửi bới của hàng xóm, tiếng nhạc tình lải nhải… tất cả những âm thanh rất Việt Nam đó sẽ chui vào tận mùng của chị, cùng với một ngày dài đầy ắp công việc trước mắt… Điều lạ lùng nhất đối với chị nơi đây là: Nước Mỹ hình như không có âm thanh, ở bất cứ nơi đâu, trừ các thành phố lớn như New York, San Francisco… chị đều thấy nhà và xe chứ không thấy người ta. Những khu chợ cũng im lìm, lặng lẽ, không thấy chen chúc, náo nhiệt như chợ ở Việt Nam. Con người cũng lạnh lùng, bình thản đến vô tâm… Có phải như vậy không?

Thời gian, tuổi tác, dường như dừng lại ở nơi đây. Cỡ tuổi của chị mà về Việt Nam thì rất chóng già. Hay chị ở lại xứ người đi, may ra những năm tháng thu tàn sẽ đi chậm hơn?

Tối nay, chị còn một buổi pháp thoại cuối cùng nữa là xong bổn phận, sáng Thursday (Thứ Năm) chị đã bay nơi khác. Ngôi chùa Hoa Nghiêm nầy đã từng rộn ràng với những bước chân của các đại sư, đại thiền sinh từ: Thường Chiếu, Linh Chiếu, Viên Chiếu lui tới nơi đây… Có lẽ, hôm nay là ngày đầu tiên, cũng là ngày cuối cùng chị đến nơi này.

 

NƠI CHỊ THÍCH NHẤT

Chị thích dạo chơi ở những nơi hiu hắt, ít người lai vãng như các tiểu bang ở miền Nam và miền Trung nước Mỹ chẳng hạn. Chỉ cần đi dạo 

một vòng là mình đủ thuộc địa lý nước Mỹ cùng những đặc sản, ưu và khuyết điểm của từng nơi. Điều tức cười nhất là Phật tử hay rủ chị đi xem các shop, các trung tâm mua sắm, các khu vực chứa đầy vàng bạc đá quý… Đó là những nơi chán ngắt mà cứ phải đi hoài, trong khi, núi đồi trùng điệp, cây cỏ xanh tươi, những hồ nước… dòng sông tĩnh lặng đẹp mê hồn… thì thiên hạ lại bỏ qua.

Nhìn những ngọn núi thâm u, những tảng đá ngạo nghễ, bao giờ chị cũng thấy lòng mình nao nao, nhớ nhung một cái gì đó mơ hồ, bâng quơ và mong manh như một áng mây.

Ngày mai, chị sẽ lên vùng New York, đến một ngôi chùa không quen, gặp những người chưa quen… Điều chị chán nhất là cứ phải chui lên chui xuống máy bay, phải chi chị được quẩy túi đi bộ trên những con đường tuyệt vời của Mỹ, ngắm đồi núi chập chùng… thì có phải là giống y chang các cao thủ võ lâm lừng danh trong thế giới của Kim Dung?

Hôm qua, Viên Hướng làm bánh xèo đãi chị. Bánh ngon nhưng rau sống không ngon. Rau nơi đây, không có vị chua cay đậm đà như ở Việt Nam. Rau nào cũng nhàn nhạt. Ăn cứ như là nhai thuốc… Nam. Chắc lâu lắm rồi, em không ăn bánh xèo, phải không? Nói nhỏ nha: Hôm qua, chị xúc tới bốn cái. Buổi tối, không ngủ được, chị lại mò xuống bếp, ăn thêm ba cái nữa… hi hi. Hình như đạo lực hay công đức tu hành luôn tỷ lệ nghịch với trọng lượng của hành giả. Tính sao bây giờ hả nhỏ? Chị vừa muốn có một dáng dấp thanh cao, tiên phong đạo cốt… lại vừa muốn… ăn tuốt luốt những món khoái khẩu (khỏi trả tiền)…

Hẹn thư sau.

 

ĐẠO NỘ

Lá thư 45 
Thứ Năm, ngày 23 tháng 06 năm 2005, 7:30 tối.

Chị lúc này cũng hung dữ lắm, không còn từ bi hỷ xả như hồi xưa đâu. Chiều nay, có một cô đến thăm, đem quà bánh và tiền bạc tới cho chị. Cô đòi theo chị sang New York nghe pháp. Chị biết cô này có thành tích rất ưa nói láo… Vì vậy khi she (cô ta) vô, chị có chào, nhưng không tiếp, cứ ngồi gởi mail. Tới giờ ngồi ăn cơm, chị giả bộ như vô tình, kể câu chuyện: Ai mà hay nói láo, sẽ bị Hộ Pháp ứng hiện, cho… cầu được ước thấy, nên sẽ bị tai họa như mình tự đơm đặt (Vì cô ta từng nói mình bị ăn cướp giật mất hộ chiếu, bắt hai Phật tử phải chạy đi báo cảnh sát, hành họ lo lắng đến mất ngủ… trong khi cô ta lại leo lên máy bay sang Canada chơi, tỉnh khô như không có việc gì). Chị cảnh tỉnh cô bằng nhiều câu chuyện tích Phật giáo, kể rõ để minh họa và dẫn chứng đàng hoàng. Sau đó, chị từ chối, không nhận tiền cô ta cúng dường, giải thích rằng: Cách cúng dường tốt nhất là vâng lời Phật dạy. Cô ta bèn nói xin chuyển tiền cho chị làm từ thiện. Nhưng chị đáp: Tôi chỉ làm dùm cho Phật tử, còn cô là tu sĩ thì nên tự làm. Kết quả, cô ta rút lui, không dám đi chung xe với chị sang New York. Hi, kể ra, chị cũng không hay ho chi, khi ghét người nói xạo, bởi chị cũng đâu thành thật gì! Nhưng, có lẽ chị không chấp nhận được những kẻ xảo ngôn, ngọt ngào, giả dối quá quắt… hơn… chị! Hi!

Chị ghét tật xấu, không muốn người ta cứ dùng mãi thói dối trá, lặp đi lại tật xấu đó để gạt hàng Phật tử kính tin Tam bảo. Vì vậy chị buộc phải hù dọa bằng những mẫu chuyện đạo, cho họ tu tỉnh lại, đây cũng là một cách giúp họ.

Chị không đại diện cho tông môn, chùa chiền gì, nên cũng không cần lấy lòng thính chúng để nhận tiền. Khi thì chị nhận, khi thì từ chối, nên thiên hạ đâm ra e dè, cảm thấy được nhận tiền là một vinh dự. Thật ra, chị có một cảm nhận riêng. Thấy khó chịu thì không nhận tiền, thấy dễ chịu thì nhận đem về làm phước thiện. Chị sẽ chu du khoảng nửa tháng nữa cho hết lời hẹn mới về được. Chị đã có người mời đi Canada, chắc chuyến sau chị sẽ qua bên đó chơi. Bây giờ là 12 giờ đêm, sáng mai chị phải đi xe hơi khoảng năm tiếng mới đến chỗ đấy. Năm tiếng bên này, người ta chạy được khoảng 600 cây số chứ không chạy gần như ở Việt Nam. Đường tốt, qua những đồi núi và sông hồ rất đẹp. Chị đã được chụp khoảng hai ký hình, toàn hình màu, cảnh đẹp nhưng người thì vừa già vừa xấu. Nhưng, chị cũng tự an ủi mình rằng: Cứ chụp hình đi, mai mốt sẽ già và xấu hơn bây giờ! Chị đi ngủ đây, hẹn thư sau.

Chị Ba.

 

THỨC ĂN NGOẠI, BAO TỬ NỘI

Lá thư 46
Thứ Hai, ngày 27 tháng 6 năm 2005, 4.38 chiều.

Heo Ú!

Hôm qua, chị ngồi xe hơi hơn mười tiếng, nghĩa là vượt một đoạn đường dài bằng cỡ Sài Gòn – Huế, để đi giảng ở Miền Bắc New York hai buổi. Mọi việc đều xuôi chèo mát mái như ý chị. Nghĩa là: giảng pháp ở những chốn xa xôi hẻo lánh, ít có danh tăng thạc đức lui tới, ngắm cảnh đồi núi sông hồ no nê… Nhiều người ghét đi xe hơi, còn chị thì ngược lại. Nhất là những ngày cuối này, phải ngồi xe cho đã, vớt vát chút đỉnh công danh phú quý, kẻo mai kia mốt nọ, về Việt Nam, muốn sờ vào chiếc xe hơi một tí cũng không có… Trên đường về, chị được đưa vào một area (nghĩa là một trạm dừng chân có bán thức ăn, thức uống… giống như một cái nhà hàng ở Việt Nam vậy). Phật tử sợ chị không được ăn đồ nóng sốt nên kêu Pizza chay và bánh mì kẹp nhận rau cải, phô mai… Dĩ nhiên là chị… tham gia nhiệt tình (dù trong bụng rất muốn lấy tiền mặt và nhịn đói). Thức ăn vừa qua khỏi cổ là chị đã ói một trận nhớ đời! Hóa ra, Thượng đế không tặng chúng sinh miễn phí bao giờ. Chị cũng rút ra một bài học rằng: Không được chứa thức ăn ngoại trong một cái bao tử nội địa! Bao tử chị đến giờ vẫn còn bất bình, treo bảng miễn chiến bài.

Vài hàng báo tin buồn cho em biết. Chị phải chuẩn bị hành trang lên đường sang New Jersey đây.

 

PHI TRƯỜNG VÀ CHUYẾN BAY

Lá thư 47 
Thứ Ba, ngày 28 tháng 6 năm 2005, 10: 56 tối.

Hạnh Đoan ơi!

Chị đang ở New Jersey. Hôm qua, trời mưa to, máy bay không bay được, chị phải ngồi ở Boston bốn tiếng. Máy bay lớn, bay qua sương mù, bay phía trên, mưa phía dưới. Phi cơ dằn xóc như một cái xe bò, lảo đảo như người say rượu… Chị ngồi giữa đám mây trắng như bông gòn, cố trấn tĩnh rằng số mình thọ mạng còn dài… (chắc chưa tới số), mà… nếu phi cơ có rớt, chắc cũng còn đám mây ngoài kia… đỡ mình như một tấm nệm, vì trông nó trắng tinh, mềm mại và thật đẹp.

Phi trường Newark rộng gấp trăm lần Tân Sơn Nhất. Máy bay lên xuống như người ta đi chợ. Anh Phật tử đi đón chị, là dân địa phương, còn phải lạc đường. Anh dắt chị cùng hai bà già đi đón, kéo theo hai va ly, đi quanh quẩn gần hai tiếng đồng hồ mới tìm được lối ra chỗ đậu xe. Hai cái va ly, lúc chị đi, nó xẹp lép, bây giờ phình bụng căng phồng. Nhìn anh Phật tử cố nhấc nó lên xe, đổ mồ hôi hột mà chị thiệt là… mắc cỡ. Ngày xưa, Phật đi đâu chỉ có 18 vật bất ly thân. Bây giờ, đệ tử Phật, đi đâu kéo theo đồ đạc đến sức khỏe như thanh niên còn khiêng không nỗi. Hu hu! Ai cho gì cũng lấy. Nếu chính phủ Mỹ cho phép, chắc chị khiêng luôn… 50 tiểu bang về… làm của. Hi hi!

Chị còn một lần giảng Weekend (cuối tuần) nữa, là chị đã phải tính chuyện về Việt Nam rồi.

Mỹ cho chị tới 6 tháng phép. Nhưng, mình phải đứng lên khi… tách trà chưa nguội!

A! chị vẫn chưa giỏi tiếng Mỹ, nhưng nhờ qua đây, chị phát âm đúng giọng hơn hồi ở Việt Nam. Dân Mỹ phát âm, du dương trầm bổng chứ không ngang phè phè như Việt Nam mình. Chị nghe tiếng Mỹ trên máy bay hoài nên mơ màng ngủ là nghe tiếng Mỹ rào rào bên lỗ tai. Chị còn giảng một Weekend nữa thôi, áp lực tâm lý cũng giảm nên lúc này chị ngủ được chút ít. Về chuyện ăn thì chị dễ đến nỗi các bà Phật tử già bên này la lên: Trời coi, cô ăn dễ thiệt. Mấy sư cô trước, qua đây, ra giá cho tui rằng: Mỗi ngày ăn ba bữa, thức ăn mỗi bữa khác nhau, không được lặp lại. Tụi tui hầu muốn chết. Chị đáp: Có ăn là may phước rồi. Bác cứ để cháu ăn hết đồ cũ rồi hãy mua tiếp. Đừng mua nhiều, ăn không hết, mang tội!

Hẹn mai kể tiếp. Nhà này có computer, xài thoải mái. Bà chủ nhà cưng chị lắm. Chị sẽ húp nửa bát trên của A tu la, bao giờ gần đến nửa bát dưới, chị sẽ gài số de… dzọt lẹ!

Chị Ba.

 

BÀ CỤ TUYỆT VỜI

Lá thư 48 
Thứ Tư, ngày 29 tháng 6 năm 2005, 11: 29 tối.

Hạnh Đoan ơi!

Sáng nay, chị thức dậy, bà cụ chủ nhà đã ra vườn tưới rau. Chị đi theo. Vườn là khoảng sân nhỏ sau nhà. Mỹ ra pháp lệnh, bắt toàn thể đất trống trước nhà đều phải trồng cỏ xanh, cắt tỉa đàng hoàng, muốn trồng rau, chỉ được trồng ở sau nhà.

Vườn rau của bà cụ trồng đủ thứ: Xà lách, húng cây, húng lủi, dấp cá, ngò rí… Bà cụ trồng cho vui chứ răng cỏ rụng hết, chẳng thèm ăn. Mấy đứa con cháu của bà ăn đồ Mỹ, không thèm ăn rau sống theo kiểu Việt Nam. Mùa này, nhà Việt Nam nào cũng có một mảnh vườn trồng rau. Chị xúi bà cắt rau đem bán… Bà lắc đầu. Chị bèn hạ ngay câu tâm huyết: Con ưa ăn rau dữ lắm! Bà hỏi: Ăn với cái gì? – Dạ, ăn với nước tương. Ngon lắm!… Bà cụ đưa cho chị cái rổ và một cái kéo. Dặn: Cô nhổ cải xà lách lên, cắt gốc bỏ vô cái rỗ này, mấy cây rau thơm, cô cắt sát cho nó mọc lại. Và, chị lúi húi cắt rau. Nghĩ bụng: Sáng nay ăn rau trừ cơm, vừa đỡ nhớ Việt Nam, vừa bớt mập.

Tới hồi vô nhà, bước lên lầu, đã thấy bà cụ đổ xong 3 cái bánh xèo. Nè, đừng khi dễ nghen! Bánh xèo có đủ: Nước cốt dừa, nấm hương tươi, giá, đậu hủ. Nước tương thì có cả đồ chua và ớt bằm. Ở đây, nhà nào cũng có một cái tủ lạnh bự như cái tủ áo của mình. Trong đó, họ chứa đủ thứ đồ ăn ngon lành béo bỗ: Nước cốt dừa, lá dứa, gừng, tiêu, hành, hẹ, tỏi, ớt và 1001 thứ ngon lành khác. Cái bếp của họ có lò nướng, lò hâm thức ăn, bếp gas, bếp điện, với nước nóng lạnh, máy rửa chén… Chỉ cần vung đũa thần lên, đợi 30 phút là có một món ăn ưng ý ngay.

Chuyện gì xảy ra kế tiếp, không cần nói ra, cứ đoán thì biết!

Đang nhai nhồm nhoàm, chuông reng, một bà cụ 73 tuổi bước vô, thỉnh: Sư cô đi an vị Phật giùm. Bà già này lái xe hơi ngon lành, đưa chị tới nhà. Chị mang y theo. Tụng một thời kinh an vị Phật ở trong nhà và ở ngoài sân. (Bà cụ thờ Phật trong nhà, ngoài sân có tượng đức Quan Thế Âm lộ thiên). Xong, “bần đạo” đi trở về chỗ trọ, cũng bằng xe hơi.

Vừa bước lên lầu, đã thấy cụ chủ nhà ra tay làm bánh bò nướng. Chị uống nước, nuốt vô một viên thuốc cao huyết áp và chui vô phòng, theo anh chàng Bát Giái, đi… thỉnh kinh.

Đang ngủ ngon, Bát Giái bị đánh thức bởi một mùi thơm nức mũi: Hai ổ bánh bò nướng đã chín, thơm phưng phức. Chị đi ra vô, ngắm nghía hai ổ bánh tổ chảng… lén thở dài… và lấy bắp luộc ăn (cứ tưởng tượng như… mình đang ăn bánh bò vậy!)…

Chị chui vô phòng computer, chị vừa cạp bắp, vừa check mail, ngẫm nghĩ: Sao dân Việt Nam ở Mỹ ngu thế không biết? Có một bà mẹ già, biết làm đủ thứ bánh, biết trồng rau… như vậy mà cứ bỏ mẹ đi ở riêng. Chị mà có được một bà mẹ ngon lành như vậy, chị sẽ lúc thúc theo một bên để… báo hiếu và thưởng thức… tài nghệ của mẹ mình.

A! bà cụ chủ nhà đang đi vô phòng, trên tay là cái đĩa, trên cái đĩa là một miếng bánh bò bự… (ô, hiếu tâm của chị đã cảm động đến… lòng người)…

Bức thư này đành phải dừng lại nơi đây. Chị Ba.

Hu hu ! Một tiếng nữa, chị phải nhét vô cái bụng căng tròn của mình hai tô bánh canh nữa, không ăn thì chết với bà cụ chủ nhà đây!

 

ĐƯỢC ÁI MỘ SƯỚNG… KHÔNG?

Lá thư 49 
Thứ Hai, ngày 04 tháng 07 năm 2005, 7:44 tối.

Tiếng nói của chị đã bay sang Mỹ trước khoảng 15-20 năm. Vì vậy, Phật tử hay rủ đến xem mặt chị cho kịp… kẻo chị già đi. Họ không đến một lượt, mà lần lượt, theo kiểu “xa luân chiến”. Đại loại như: Ni sư mới qua đây hay sang lâu rồi? Chừng nào về? Sao không ở luôn mà về chi vậy?… Ni sư khỏe không? Đi được mấy tiểu bang rồi? Sao Ni sư ở chỗ tụi con ít vậy?… Mỗi người hỏi khoảng mười câu. Sau đó, họ bịn rịn từ giã: Thôi, Ni sư nghỉ cho khỏe nha, đừng tiếp khách nhiều, mệt lắm! … À quên!…Thỉnh Ni sư chụp với tụi con một tấm hình kỷ niệm, Thỉnh Ni sư cười lên: 1,2,3? Ô! Ni sư phải cười thiệt tươi lên mới được. Sao cái mặt buồn quá vậy? Thỉnh Ni sư cười lại… A, cho con xin chụp thêm vài tấm nữa cho chắc ăn. Ni sư chụp hình chỗ này mới đẹp… Không! Chỗ kia mới đủ ánh sáng. Xin cho con số phone, cho con địa chỉ… để mai mốt về Việt Nam, con sẽ đến thăm… Xin cho con địa chỉ để lâu lâu gửi tiền làm từ thiện… Con có cái thất, cái chùa… muốn cúng cho Ni sư… v.v và v.v…

Em tính đi, theo tình hình này mỗi ngày chị phải cười mấy cái, phải nói mấy câu?… Hóa ra, lời cảnh báo: “Cô phải về sớm kẻo bị nạn”… vốn không phải là bị kẻ thù nào ám hại, mà là chị sẽ… chết vì bị ái mộ quá mức, do kiệt sức!” đó em!…

Hôm nay, ngày Quốc khánh của Mỹ, có lẽ ở phi trường họ sẽ đề phòng kỹ, khám xét kỹ hơn. Họ xét từ cái đế giầy, từ túi áo tới lai quần. Mệt và lâu lắc lắm. Về Đức Viên, chị phải đến chùa Kim Sơn cảm ơn và từ giã thầy Tịnh Từ. Từ chùa Đức Viên đến phi trường San Francisco cũng khoảng hai giờ bay. Nghĩa là, mỗi ngày, cũng phải chạy tới lui, di chuyển, đi về trên những quãng đường bằng Vĩnh Long – Vũng Tàu!

Hôm nay là Monday (Thứ Hai) ở Mỹ, Việt Nam đã bước vào ngày Tuesday (Thứ Ba) rồi. Chị chưa biết tiếng Mỹ bao nhiêu, nhưng đã nghe hơi quen quen. Chữ nào biết rồi, chị nói rất đúng giọng, nhất là tên các tiểu bang.

Vài hàng thăm em, chị phải đi ngủ đây.

Chị Ba.

 

Lá thư số 50
Thứ Hai, ngày 04 tháng 07 năm 2005, 10:47 tối.

Chiều qua, chị về đến nhà người Phật tử cho ở trọ, mệt muốn chết! Phải nốc bốn chai cam có vitamin C mới nằm thở dốc được.

Ở Philadelphia, thiên hạ vây quanh chị, mừng mừng tủi tủi giống như được thấy… người chết trở về. Họ xúc động thật sự, trong khi chị… mệt muốn đứt hơi. Ngày Sunday (Chủ Nhật), chùa bắt đầu khóa lễ tụng kinh lúc 11 giờ 30, vì ngày nghỉ, ai cũng ở nhà ngủ nướng hết. Lễ xong là bắt đầu giảng kinh, sau đó ăn cơm trưa lúc 2 giờ chiều. Chị không chịu, bắt cho Phật tử ăn cơm trước rồi mới giảng. Cơm nước do các Phật tử đảm nhận, chứ chùa chỉ có một sư cô thôi, không làm xuể (Chùa bên Mỹ, chỉ có một tăng một chùa, có chùa còn không có vị nào đảm nhận hết).

Thức ăn nơi đây dư giả, thừa mứa… Đa số đều nhịn, không dám ăn vì sợ mập. Nguyên Phong ăn chay, nhưng mỗi ngày chỉ ăn một bữa vào lúc 10 giờ đêm… Họ không ăn nhưng uống sữa nên vẫn mập. Bây giờ, chị mới hiểu tại sao Hòa thượng Tuyên Hóa chủ trương ăn mỗi ngày một bữa mà ai cũng mập. Họ ăn một bữa, nhưng lương thực ăn bổ dưỡng bằng mình ăn .. bốn bữa lận. Nhà nào cũng chất đầy bánh trái, nước ngọt, kẹo… mà thấy ai cũng thờ ơ. Sau khi làm Việt kiều được gần ba tháng, chị cũng đã bắt đầu sợ ăn sợ uống rồi. Cực hình của mọi người ở đây là đi ăn tiệc… chứ không giống như Việt Nam mình, trước khi dự tiệc phải… nhịn đói để ăn cho thỏa thích.

Gà, heo, bò… làm sẵn bán đầy siêu thị, giá rất rẻ, rau cải mới mắc…

Điều chị ngạc nhiên là, dân Việt Nam nơi đây, cứ rên rỉ, gọi đi làm là đi cày. Nhưng, họ làm kiếm tiền để làm gì không biết? Trong khi, mua cái nhà tổ chảng, đến tối mịt mới quay về và sáng sớm đã ra đi, ăn không dám ăn vì sự mập. Quần áo cả trăm bộ mà cứ sắm tiếp hoài đến nỗi có nhiều bộ, họ chưa mặc lần nào, nhưng cứ mua về chất đầy tủ, bỏ đầy phòng … cho đến khổ não chịu hết xiết, mới đem cho người khác. Nhà nào cũng có truyền hình, cái lớn nhất thì đặt ở phòng khách, những cái nhỏ hơn phòng nào cũng có…nhưng, cũng không thấy ai coi… vì không có thời gian. Gặp thứ gì bán, họ cũng mua… chịu, mang về nhà, chất tới lỗ mũi… để rồi, è lưng ra mà cày, mà trả nợ, rồi rên rỉ: Cực quá chừng!

Chị phải sửa soạn hành trang để lên đường đây. Chiều nay, chị bay về chùa Đức Viên, ở đó vài hôm để về Việt Nam. Hai cái vali chị nặng quá trời. Chắc phải bỏ bớt lại một cái cho nhẹ túi tham. Dòm cái vali, chị chợt nhớ đến cái túi ba gang trong chuyện ăn khế trả vàng… Nặng quá, con chim đại bàng chịu hết xiết, nghiêng cánh một cái thì… rồi đời!

Hẹn thư sau.

Chị Ba.

 

GHÉ LẠI ĐỨC VIÊN

Lá thư số 51 
Thứ Tư, ngày 06 tháng 07 năm 2005, 4: 05 chiều.

Chị bay đến Đức Viên sau hơn sáu tiếng bay và hai tiếng ngồi chầu chực ở phi trường Newark. Chúng Đức Viên đi đón chị khá đông, chất nhau lên một cái xe to đùng và đòi ăn nheo nhéo. Chị trao cho tụi nhỏ cái giỏ bánh mà các cụ già đã cẩn thận đưa cho chị mang theo dùng, và giỏ bánh được xử lý tại chỗ, ngay bến đậu xe của phi trường…

Hôm nay là ngày lễ Độc Lập của Mỹ. Trời San Jose ngập tràn pháo bông. Cả chùa rủ nhau ra sân coi đốt pháo. Chị lu bu dọn dẹp, không ra sân, nhưng mãi đến 1 giờ vẫn chưa ngủ.

Sáng ngày 6 tháng 7, chị đang lúi húi thu vén đồ đạc thì Đức Hòa vào thỉnh pháp. Chị phải nói một thời pháp thoại ngắn rồi mới đi chợ.

9 giờ 30 phút, Trung An, Trung Tịnh và Viên Hạnh lái xe chở chị đi mua Chocolate, cheese và một ít thứ về làm quà cho dân Việt Nam. Tất cả là 240$, Viên Hạnh bảo là tiền của các Phật tử gửi, Hạnh còn đưa cho chị 60$ còn lại nữa.

12 giờ, về đến chùa, tất bật đóng gói và cân hành lý đến 2 giờ trưa. Chị đi tụng giới với đại chúng. Có ai đó cúng bánh mì phô mai. Cả bọn rủ nhau ăn thêm kem, hột mít và rau câu nữa. Ăn xong, tự nhiên chị phát mệt dữ dội (mệt thật sự chứ không phải giả bộ). Sau khi uống thuốc trợ tim và hạ huyết áp, 7 giờ 30, chị lại nói một thời pháp thoại trước khoảng 100 vị thọ Bồ tát giới.

10 giờ, khách ra về hết, cả chùa lại kéo nhau ra phi trường đón Như Phước từ Indiana trở về.

Hơn 12 giờ khuya, chị mới đi ngủ, nhưng đến 1 giờ đã thức dậy, đi check mail và gửi mail cho em đây.

Chị Ba.

 

Lá thư 52 
Tháng 7 năm 2005.

Hôm nay là đám giỗ của mẹ Như Phước, trụ trì chùa Đức Viên. Cả chùa sẽ xúm nhau làm cỗ. Một ngày tất bật đang ở phía trước, chị phải đi ngủ đây.

Bỗng dưng, chị phục thầy mình và thầy Nhất Hạnh hết sức. Hai vị đó đều cao tuổi mà đi về khắp nơi, hăng hái trong chuyện hoằng pháp.

Trong khi, sau gần 3 tháng bôn ba, chị đã thấm mệt và muốn hết xí quách. Chị thấy mình phì lũ và mau già hết sức. Chị dòm vào gương và biết rằng mình đã bước qua tuổi lão niên… không còn trẻ trung gì nữa. Chắc là phải: Tu mau kẻo trễ!

Chúc em hoàn thành các tác phẩm suôn sẻ. 

Chị Ba.

 

NHẬP HẠ

Lá thư 53 
Thứ Năm, tháng 07 năm 2005, 8:56 sáng.

Heo Ú ơi,

Hôm nay là ngày chị được nhập hạ cùng đại chúng Đức Viên. Chùa tu theo nghi thức Tịnh độ, ngày nào cũng có hàng chục Phật tử đến tu chung với quý cô. Có một lượng Phật tử hùng hậu như vậy yểm trợ, muốn làm biếng cũng khó. Chùa nằm trên giao lộ của hai tuyến xe bus chính tại thành phố San Jose nên, từ sáng sớm, các cụ già nghỉ hưu, những Phật tử rảnh rang đã tìm đến chùa, chờ đợi tham dự thời khóa tu. Mỗi khóa lễ kéo dài khoảng 1 giờ 30 phút.

Thời kinh sáng, chị ngủ nướng nên bỏ qua. Khóa lễ 9 giờ gồm có trì kinh Di Đà, niệm Phật đi kinh hành và lễ Phật. Sau đó hồi hướng. Chị thích niệm Phật theo kiểu Đức Viên: Loa niệm Phật được bắt khắp chùa, nhè nhẹ, êm êm. Mình chỉ nhép miệng theo, đi kinh hành cũng vậy… Đọc kinh thì có micro phóng thanh nên cũng không mệt lắm.

Tụng kinh xong là ăn quả đường, đắp y đàng hoàng. Chị cũng có một cái bình bát để ăn cơm. Ăn xong, đi kinh hành, niệm Phật ba vòng, lễ Phật rồi đi ngủ. Khoảng 3 giờ chiều, là buổi học kinh, đọc kinh, tìm hiểu kinh của đại chúng. 5 giờ, cả nhóm kéo nhau đi trì chú. 7 giờ, lại có một thời kinh. Tới 9 giờ, chị nói pháp thoại, kể chuyện Tây du cho chúng nghe rồi đi ngủ.

Suốt tuần này, chị lại bị mất ngủ trở lại, đêm nào ngủ được chừng ba tiếng đã thấy mừng. Những ngày cuối, chị ở Đức Viên, ngày nào cũng phải nói khoảng ba thời pháp thoại. Chị tự thấy mình mắc nợ Đức Viên nhiều (vì khi bệnh hoạn, chị mới quay về, còn mạnh khỏe thì biến đi đâu mất). Ăn uống còn có thể từ chối, chứ khi người ta thỉnh pháp thì vô phương. Nếu chị từ chối, họ cứ nài nỉ, chị phải từ chối nhiều lần với nhiều người, mệt còn hơn là nói pháp thoại chính thức. Và, chị khám phá ra rằng, nói nhiều, tán khí, rất hao sức. Trọng lượng chị có tăng nhưng sức khỏe cứ giảm dần. Chị đâm ra phục lắm lắm… những vị giảng sư, trẻ hoặc già hăng hái đi ngoại quốc để thuyết giảng như đi chợ.

 

NGÀY VỀ

Đêm nay là đêm cuối cùng chị ngủ tại Đức Viên, tại đất Mỹ. Tối mai, chị đã lên và qua đêm trên máy bay. Tiền bạc của Phật tử cho riêng chị, chị gửi lại các ngôi chùa mà chị chịu ơn và kính mến như: Đức Viên, An Lạc, Kim Sơn. Tiền từ thiện thì mang về Việt Nam làm theo yêu cầu. Phật tử Vĩnh Long sẽ đón chị tại Tân Sơn Nhất. Không biết Hoa còn ở Minh Đức không, nếu còn, chị sẽ gọi qua lên trạm xe, nhờ nó đón lấy đồ đem cho em và tía với P. Chị phải ổn định công việc và sức khỏe vài hôm, rồi mới trở lên Sài Gòn được.

Vài hàng thăm em, chị phải đi chuẩn bị hành lý đây. Cuốn Tây Du Ký xem như sắp kết thúc, chị đã có nhiều kinh nghiệm, nhiều kỷ niệm thú vị… nhưng có thì giờ để viết và muốn phát hành nó hay không thì còn là chuyện khác. Dù sao, em cũng là độc giả đầu tiên (và có thể là cuối cùng của chị), thưởng thức món ăn mới ra lò thì hấp dẫn thật, nhưng ăn hoài cũng ngán?… Để thay đổi khẩu vị, chị sẽ gởi chocolate và phô mai cho em. Chị có đi chợ, nhưng không biết mua gì. Những thứ mà Việt Nam có bán thì tội chi mua để xách về cho nặng. Nhưng, khi về Việt Nam, điều chắc chắn là chị sẽ không mua vì chúng quá mắc, so với túi tiền của mình. Chị không nhớ Việt Nam cũng không nhớ nhung gì nước Mỹ… Vì, hình như ở bất cứ nơi đâu, mình vẫn là kẻ lang thang, không nhà…

Khi về Việt Nam, tối đa là một tuần chị mới đi chợ check mail một lần… nên đêm nay, chị sẽ tạm biệt cái computer… vật thân thiết mà chị lưu luyến khi đi ra khỏi Hoa Kỳ…

Hẹn gặp lại,

Chị Ba.

TB: Để chị nói cho nghe, đừng có dại dột bắt chước ông thầy Thông Thiền đem thơ của chị ra in. Vì lúc chị qua Mỹ, vừa nghe cô Thông đọc thơ của chị, chị kinh ngạc như nhìn phải một người mà… cái bàn chân ló ra trên trán vậy. Nhưng, biết đâu, nhờ người ta sửa mà thơ văn mình trở thành hay hơn… Vì hai ba người cùng làm thơ thì phải hay hơn một người, đó là điều tất nhiên rồi!

Hôm nay chị sẽ bay về, với hai vali nặng hơn 60 ký và một xách tay hơn 10 ký. Trong hai cái rương đồ, quần áo và vật dụng tư trang của chị đều bị bỏ lại Mỹ, để lấy chỗ mà nhồi nhét kẹo, chocolate, phô mai… và đủ thứ hầm bà lằng khác. Bỏ gì thì bỏ, chị cũng ráng khuân gia tài duy nhất của mình là hai ký hình để đem về khoe với bàn dân thiên hạ. Phật tử hào phóng lắm, đi nơi nào chị cũng được chụp hình, có nơi chụp xong thì làm thinh, nhưng cũng có nơi chụp xong thì rửa cho chị đem về. Dòm vô hình, chị rất đau khổ khi thấy mình – nhân vật chính: Vừa già, vừa xấu, vừa mập… nghĩa là, không có gì để hãnh diện với nhân loại hết… Nhưng, chị tự an ủi mình: Phải biết tri túc và vui… để sống. Vì, mai mốt chụp hình, sẽ còn già, mập và xấu hơn nữa. Với lại, hồi xưa, lúc chị có 43 ký, cũng chưa có ai khen đẹp! Vậy thì: “Chuyện mỹ miều… xin hẹn kiếp lai sinh!”… Phong cảnh của Mỹ đẹp mê hồn, người ta sẽ nhìn cảnh chứ không để ý tới người đâu, phải không em?

Nhớ là không được cho ai biết tin chị về. Nếu cãi lời, quà bánh sẽ bị chia chác ra nhiều phần thì đừng có mà hối hận.

Cầu Phật gia hộ cho cái thân phì lũ cùng mấy cái túi ba gang chứa đầy nhóc kẹo của chị bay qua Thái Bình Dương… thật nhẹ nhàng và an toàn, để… cả nhà mình và thân hữu cùng… mập vì kẹo chocolate!

Thư bất tận ngôn.

Chị Ba.

 

QUA MỸ LẦN 2

Lá thư 54 
Chủ nhật, ngày 04 tháng 9 năm 2005, lúc 5:11 chiều.

Chị đã đến Bắc Cali chiều nay, lúc 18 giờ. Ngày mai chị sẽ giảng hai suất tại Đức Viên.

4 giờ sáng thứ Hai chị sẽ bay đi Chicago. Từ đây bay tiếp đến Indiana (chỗ chùa An Lạc của nhóm Quảng Trị Nguyên Thiện ). Dạy nơi đây một tuần, ngày 13 tháng 9, chị sẽ bay lên thủ đô Washington, để xin visa sang Canada.

Thiên hạ đang ngủ, chị không ngủ được vì bây giờ ở Việt Nam là ban ngày, chị rời Việt Nam chưa cho ba biết. Hôm trước về thăm ba, chị có nói tháng sau sẽ đi Canada…

Chiều nay chị gặp chú Thông Hải (thị giả thầy hồi xưa). Trò chuyện cùng nhau 30 phút, chị nhận lời mời của chú đi Hawaii.

 

Lá thư 55 
Thứ Ba, ngày 20 tháng 9 năm 2005, 12:36 khuya.

Heo Ú ạ!

Chị đã xin được visa sang Canada. Chị đang ở tiểu bang Virginia, ngày mai chị lên New York. Cuối tuần này chị đi dự một pháp hội của cộng đồng người Việt Nam tại đây, có sự hiện diện của đức Đạt-lai Lạt-ma nữa. Sau đó, ngày 26-9-05, chị sẽ bay sang Toronto, thuộc Canada.

Từ New York sang Canada có cả xe bus nữa, nhưng chị di chuyển bằng máy bay cho khỏe hơn. Như vậy, chị đã sang Mỹ được nửa tháng rồi, đã chụp được rất nhiều hình, nhưng chưa rành để gửi cho em coi.

Vài hàng báo tin em rõ. Chị phải đi chuẩn bị hành trang để lên đường đây.

Chị Ba.

 

Lá thư 56 
Thứ Ba, ngày 20 tháng 09 năm 2005, 9:03 tối.

Hi!

Bữa nay, chị lên đường đến New York. Tại đây, chị sẽ tham dự đại hội võ lâm: tất cả cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại, Tăng Ni đạo tục đều có mặt tại đây vì ngài Đạt-lai Lạt-ma dành một ngày cho người Việt Nam tại New York. Chị đến tham dự vì ham vui, vì tò mò và vì nghìn năm một thuở mới có một cuộc họp mặt như vậy. Sau đó, chị thủng thẳng đi dạo New York thuyết pháp “đại hạ giá” và… vui đâu thì đi đó. Chị không mang một trọng trách hoằng dương chánh pháp, nên đường chị đi thênh thang đầy kì hoa dị thảo. Chị đã có khoảng hai ký hình chụp trong 15 ngày qua tại các tiểu bang: Indiana, Cali, Virginia, Washington DC… với các hang động, thác nước của vùng này.

Vài hàng tin em rõ. Chị phải lên xe đi New York đây.

 

CẢNH NEW YORK

Lá thư 57
Thứ Năm, ngày 22 tháng 09 năm 2005, 3:09 sáng.

Heo ú ơi!

Chị đến New York chiều qua bằng xe bus. Xe đi từ Virginia đến New York, xuyên qua nhiều tiểu bang như: New Jersey, Pennsylvania, Connecticut… mà chỉ mất có 4 giờ và 20 Usd.

Bến xe bus nằm ngay phố Tàu (Chinatown), dơ bẩn và ồn ào, y chang như vùng Chợ Lớn của Việt Nam vậy. Đường xá đông đúc, rác vất đầy lề đường, xe cộ chen chân không lọt, hèn chi mà thầy Nhất Hạnh có kể rằng khi nghỉ đêm tại New York, thầy phải nhét bông gòn vô lỗ tai mà vẫn chịu không nổi tiếng ồn ào của nó. Cũng may là chị được trọ ở vùng ngoại ô, yên tĩnh hơn. Phố xá đầy dẫy người Tàu, Nga, Do Thái, Trung Đông và Mỹ đen. Kiếm được một chỗ để ăn chực và ngủ qua đêm ở thành phố này không phải là chuyện dễ. Chị ở trong nhà một người Phật tử Việt lai Tàu, độc thân, ăn những món ăn cỏ vẻ Tàu lai Việt Nam, ngủ trên giường của chủ nhà, và chủ nhà thì ngủ dưới sàn. Ngôi nhà này cũng khá rộng lớn, nhưng người chủ tận dụng cho mướn tầng 1, tầng 2 và cả tầng 3, chỉ chừa một gian phòng nhỏ để sinh sống thôi. Hotel nơi đây qua một đêm phải trả đến 200 Usd mà tiện nghi tệ lắm, chỉ có quạt máy chứ không có máy lạnh đâu. Chị ở như vậy là ngon lành lắm rồi, thiền phái Trúc Lâm, chưa có ai đặt chân đến vùng này hết.

Chị thuộc loại pháp sư… đại hạ giá, ăn ngủ và nói pháp nơi đâu cũng được, chẳng cần có nghi thức rình rang. Kỳ rồi, chị giảng tại chùa Hoa Nghiêm ba đêm liền, thính chúng đến nghe rất đông, khiến có người lo sợ, cứ phải nhắc đi nhắc lại rằng: Tăng ly chúng tăng tàn, ý nói chị là: Con cọp đã xuống núi, tăng sĩ đã lìa chúng, thuộc loại hết xài, đừng nên tin tưởng!

Mỹ vừa gánh chịu hai cơn bão lớn thổi qua New Orlean và Florida. Bây giờ, lại có một cơn bão dự đoán sắp ghé qua vùng Texas, là nơi Diệu Tịnh ở. Những tai nạn tới tấp làm dân chúng Mỹ ngất ngư… chị đi lòng vòng xong, sẽ bay sang Canada cho yên chuyện.

Chị đã có khoảng một ký hình chụp sau 15 ngày ở Mỹ, hình rửa liền nên chưa gửi về cho em được. Chị vẫn xấu, nhưng cảnh hang động của vùng Virginia thì đẹp mê hồn. Để xem có cách nào gửi về cho em xem không?

Chị Ba.

 

BÌNH VĂN

Lá thư 58 
Thứ Bảy, ngày 04 tháng 08 năm 2007, 3:28 sáng.

Heo Ú!

Đêm qua, chị có nói chuyện với Cô Nguyên Tâm qua phone. Cô có khen em viết truyện càng ngày càng hay, nhất là hồi ký “Buổi Thuyết Trình Đầu Tiên”… mà em mới gửi cho chị đọc đó. Lời khen của cô làm chị sinh lòng… tật đố, nên chị nói rằng em viết truyện lúc đã gần năm mươi, trong khi chị viết lúc chưa đến bốn mươi tuổi… Và sáng nay, chị phải mượn computer để xem lại bài em viết… để yên chí rằng… tài sáng tác của em vẫn không qua mặt chị! Hi hi…

Hồi trước chị viết HƯ HƯ LỤC, gần như là viết cho mình, vừa viết vừa vẽ, không cần nháp hay bôi xóa gì hết. Viết để bớt những phiền não chất chứa trong lòng, để xổ lên trang giấy những ưu tư đang gặm nhấm mình… đó là những phút giây rất thật, không lòe loẹt không trưng bày với ai hết…

Năm nay, lúc ở Phoenix, chị có cầm bút viết thử vài truyện mới, nhưng đọc lên nghe nó nhạt nhẽo, vô duyên… nên chị đành kết luận: Ai cũng có một thời… một thời để yêu, để sống, để liều mạng… Và, chất liệu để mình viết cho hay là tâm vọng động, là phiền não… còn bây giờ với các mảnh tâm tư hời hợt bão hòa, nhẹ nhàng, như có như không… thì khó nắm bắt, nói chi đến viết thành chữ thành trang, thành sách? Hay là, thiên tài, nhân tài đều phải nuôi dưỡng bằng sự thiếu thốn, éo le, cay đắng… mới rặn ra được tác phẩm? Còn… no nê thì nó bí tịt? Thôi, em ráng làm gì được thì làm, kẻo mai một tài năng, kẻo mai kia mốt nọ… chỉ tăng trưởng chất béo chứ không tăng trưởng nổi tác phẩm… như chị!

Ngay đến thuyết giảng, chị cũng lười soạn bài, còn gì nói nấy, hết vốn thì… chấm dứt và… niệm Phật hồi hướng!

Chị đang nhập hạ cùng mười vị Tăng nơi Memphis, tiểu bang Tennessee. Chị có quyền ăn uống, khỏi tụng kinh, ngồi thiền… nhưng mỗi tối phải thuyết pháp khoảng một giờ!

Chị tự hứa với lòng rằng: Không tật đố với văn tàij của em. Nên cứ bình tĩnh mà viết để câu… cơm và hù dọa thiên hạ, nghe nhóc?

 

TƯỜNG THUẬT VỀ BA KIẾN CHÂU

Lá thư 59
(Thứ Hai, ngày 08 tháng 06 năm 2008 tức mùng 06 tháng 05 Mậu Tý: 9h30 sáng -Thư này chuyển Heo ú bỏ dấu – Lưu kho)

CÁC SƯ EM ĐỨC VIÊN THÂN MẾN!

Ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch đã trôi qua. Ba Kiến Châu vẫn còn sống dù đôi bàn chân, mặt và cái bụng ông sưng húp, ngược lại đám con gái hiếu thảo “đột xuất’ của ông thì hết xí quách, xém “ra đi” hai-ba đứa. Phần chị, để trợ duyên cho ông, chị đã ngồi bên giường bệnh, tụng đọc hai bộ kinh Địa Tạng, chưa kể Di Đà, Hồng Danh… kết quả là tối mồng 5, chị xém xỉu vì kiệt sức! Mệt quá chị mới hỏi ba: – Sao thầy dám quả quyết mình sẽ ra đi vào ngày mùng 5?

Ông đáp:

– Tại thầy thích ngày đó! Thầy chọn ngày đó lâu rồi!

– Thầy chọn… nhưng Phật có duyệt không? Chị hỏi.

Dĩ nhiên là Phật chưa duyệt nên đến bây giờ ông vẫn còn sống để nằm lăn qua lăn lại, húp nước cháo qua ngày…! Hóa ra chuyện vãng sinh không dễ chút nào, vì “Không thể có chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà sinh sang nước đó được!”

Sáng nay, chị phải ngồi giải thích cho ông rõ: Hơn 30 năm nay, thầy tu Thiền rồi trì chú. Chỉ mới có một tuần nhật cận kề cái chết, nghe lời con khuyên tía mới chuyển tâm cầu sinh Tịnh độ. Đành là Phật Di Đà có hứa là chỉ cần 10 niệm nhất tâm bất loạn là được vãng sinh… Nhưng con thấy tía tu rất là… ăn gian. Khi nào có con cùng ngồi niệm Phật, tía mới niệm; con mà bận việc đi đâu một chút là tía xao nhãng, ngủ hoặc phan duyên ngay! Niệm Phật cần tha lực nhưng không thể thiếu tự lực được!

Bây giờ tía cần phải làm lại. Khi tía phát tâm cầu sinh Tịnh Độ. Một bông sen nhỏ xíu mới được trồng trên ao thất bảo… Mỗi câu hồng danh của Phật sẽ giúp búp sen tăng trưởng, lớn dần và bung cánh ra… tía mà niệm “ầu ơ ví dầu”, ỷ lại sự trợ lực cũng “ví dầu ầu ơ”… của lũ con lười biếng… mà được vãng sinh thì là…ăn gian quá đỗi rồi. Và chị hăm ông: Tía mà không chịu tự lực niệm Phật, con sẽ đi thuyết pháp trở lại vì đang mùa an cư… (Ngồi tu dùm tía thiệt là… tức mình!)

Hi…i…hi! Kể cho các sư em nghe chuyện tu hành của tía con nhà Kiến Châu, để chúng ta cũng thấy rằng không có pháp môn tu nào dễ dàng nếu mình thiếu niềm tin và lười biếng. Và cũng không thể nào xúi người ta làm điều mà mình chưa từng làm hết!

Phải chi tía ra đi ngày hôm nay (đúng như ước nguyện của tía) thì cả hai cha con cùng được “nổi danh” cho dù nổi danh kiểu này, ắt chị sẽ thành một thầy cúng chuyên nghiệp, đắt show và nổi tiếng… vì chỉ cần mời chị đến khuyên người niệm Phật là… bất cứ ai cũng được “Đới nghiệp vãng sinh”!…

Ba chị chắc chắn sẽ ra đi, đó là điều không thể tránh khỏi, căn bệnh sẽ hành ông đau đớn kịch liệt… Nhưng đi về đâu trong sáu đường luân hồi là điều phải giận trách. Chị hiểu đây là lúc phải trợ duyên khẩn thiết cho ông và cho cả chính mình (vì trong lúc nỗ lực trợ duyên, ông chỉ hưởng có 1/7 công đức, phần chị hưởng trọn 6/7). Bà chị Hai Việt kiều đã trợ lực cho ông bằng cách phóng sinh, tu phúc, cúng dường, bố thí… rộn rịp cả tháng nay… nhiều đến nỗi chị ấy tuyên bố chắc chắn: Bệnh của ba, bác sĩ nói sẽ đau đớn lắm mà ông tỉnh bơ, không than đau nhức gì cả là nhờ TAO lo cho ổng hổm rày… phần còn lại là của mấy đứa bây! Ba mà chưa vãng sinh là tao phải bay về úc vì không thể vượt quá hạn cho phép của nhà nước úc được! (Do chị thuộc diện già sống nhờ vào tiền trợ cấp)… Nghe bà chị tuyên bố, chị dù tức anh ách cũng thầm công nhận rằng bà ta có lý. Sài Gòn – Đà Lạt đâu gần gũi gì mà chị ngoắc xe đò xẹt tới xẹt lui ba bốn lần để đi cúng dường… Mỗi ngày “bả” lo chăm sóc, tắm rửa, thay đồ giặt giũ cho ông cụ tươm tất và thơm tho… (không thơm sao được khi bà xịt toàn nước hoa loại xịn)… trong khi đó phần chị liên hệ với cõi Cực Lạc xin đức Phật Di Đà cấp visa cho ông được vãng sinh ngày mùng năm tháng năm vừa qua… mà chưa được phê chuẩn… Chị không dám đổ thừa hay sinh tâm trách móc cơ quan xuất nhập cảnh của cõi Cực Lạc, đành quạu quọ đổ thừa người bệnh! Nhưng nhìn ông vàng võ, gầy còm nằm dài trên giường bệnh, chị lại đau xót quay qua tự trách mình (vì, cái xác thân gầy gò còn thoi thóp ấy còn thở được phút giây nào thì chị vẫn còn là người hạnh phúc, là đứa con còn cha, là ngôi nhà còn có nóc, là bàn chân vẫn còn đỏ như son… dù cái hạnh phúc đó luôn đem đến sự thắc thỏm lo âu, bất an thường trực suốt ngày đêm)…

Mỗi người chúng ta chỉ có một ông cha bà mẹ, đó là Thái Sơn, là suối nguồn bất tận, là hạnh phúc và cũng là khổ đau. Bài toán tử sinh Phật và chư tổ đã giải, đã ra đáp số rõ ràng, mà chúng ta là những đứa học trò mê chơi hơn học, đã biết bao lần ta copy đáp số bài giải, được toán điểm 10, nhưng khi ra trường thi, tự giải bài toán của mình. Sao đứa nào cũng khoanh tay, gãi đầu, cắn bút ?…

Vài hàng tâm sự với các em. Chị phải quay lại cạnh giường bệnh của cha để tự lực giải cho ra bài toán của chính mình. Chúc các em có những ngày chuyên tu (an cư) thú vị.

Xin đón xem tập tiếp của câu… chuyện dài.

 

Lá thư 60
(Thứ năm, ngày 12 tháng 06 năm 2008, lúc  4 giờ 44 phút chiều tức ngày mồng 09 tháng 05 Mậu Tý)

CÁC EM ĐỨC VIÊN THÂN MẾN!

Hai hôm nay, ba Kiến Châu làm đảo điên đám con thực tập bài hát lên đường… ông vẫn tĩnh táo, niệm Phật đã miên mật hơn, dù trong bài bản của chị tụng, khi ông đọc vẫn xen vào câu sáng tác riêng của mình: “Đức Phật A-di đà ơi, xin cho con được vãng sinh 100%”… hoặc niệm một hơi, ông bỏ mình chị niệm Phật, nằm đếm “Một hai, ba… đến mười”… rồi quay lại đếm tiếp từ một… đám con cái nhao nhao không đồng ý: “Tía không được niệm Phật kiểu đó, chỉ Nam mô A-di-đà thôi, không được đếm hay thòng thêm câu 100%, Chư tổ và Phật không có dạy như vậy!”… Dĩ nhiên là sau đó thiểu số phải phục tùng đa số. Đa số chỉ nhượng bộ khi ông lim dim ngủ… và, đợi ông lim dim… chị lập tức vặn máy niệm Phật thật to rồi nhẹ nhàng rút lui, tìm chỗ ngả lưng… trong 10 lần “chuồn” như vậy, khoảng 8 lần chị bị ông kêu lại: “Ê! Niệm Phật sao không hồi hướng? Phải hồi hướng chứ!”…

Và cứ thế, tía con nhà chị cứ ồn ào cãi cọ xen lẫn kiểu niệm Phật “100%” sáng tạo của ông cụ… cho thêm phần khế hợp căn cơ.

Nhưng bắt đầu từ chiều qua, khi nước cháo loãng đút vào miệng ông bị trào ngược trở ra thì không còn ai cười nói. Ba chị đã chịu chuyên tâm niệm Phật, còn bà chị hai thút thít khóc kể lại giấc mộng tối qua: “Tao thấy cái nóc nhà của ai bay qua chỗ của mình, tao đưa tay níu lại thì nó rớt xuống, tao mừng quá không biết điềm gì đây?”… chị vừa đạo diễn cho đám em to tiếng niệm Phật, vừa làm thầy giải mộng: Cái nóc nhà là tượng trưng cho người cha… tục ngữ Việt Nam có câu: “Con có cha như nhà có nóc”, cái nóc nhà bay là ba sắp vãng sinh… nhưng tại chị đưa tay níu lại nên ông bị kẹt… chứ không ông đã đi rồi… lỗi là tại chị!… Bị đổ thừa, bà chị chống chế: Cái nhà tao thấy là của người ta chứ đâu phải của tao, mà nói là tại tao?… Nhưng điều kỳ lạ là ba chị đã tự động niệm Phật, rõ ràng, lớn tiếng, không cần nhắc nhở, ông đã tự bỏ đi câu phụ đề không có trong kinh điển. Nghe đám con cãi cọ ông còn ngưng niệm Phật nhắc: “Đừng nói chuyện thị phi, lo tu đi!” Hai nhỏ em của chị thấy ông đã niệm Phật đàng hoàng liền lén đi chơi. Ông phát hiện liền hỏi: “Hai đứa tu kiểng đó đi đâu rồi?”…

Và hỏi chị: “Con đã sắp xếp cho ba đứa em con chưa? chị càm ràm: “Tía ơi con út của tía đã 50 tuổi rồi, ba đứa tụi nó đứa nào cũng có nhà cửa đàng hoàng… chỉ có con là nghèo nhất, sao tía không quan tâm, còn bắt con sắp xếp…”? Ông dặn: “Phải dòm ngó nhắc nhở nó lo tu”… rồi ông niệm Phật suốt đêm, không màng bất cứ chuyện gì nữa.

Đến sáng nay khi chị đang lén đi ngủ bù thì đám em hốt hoảng nhao nhao lên: – “Vào lẹ đi! Ba sắp mất rồi!”… chị bước vào và thấy ông cụ đang kéo từng hơi thở mệt nhọc như người lên cơn suyễn”… nhưng vẫn niệm Phật không ngừng dù tiếng được tiếng mất và giọng đã khan đi.

Chị đã chứng kiến cơn hấp hối của mẹ mình cách đây gần 50 năm… nửa thế kỷ đầy biến động trôi qua đã xoá nhòa các ký ức lưu trữ. Còn bây giờ chứng kiến sự hư hoại của thân xác cha mình, chị chợt hiểu vì sao Phật, Tổ dạy mình dán chữ TỬ lên trán để tu. Cái thân tứ đại mà suốt thuở bình sinh mình không ngừng bảo vệ, tìm đủ cách để nâng lên cao hơn đồng loại (dù chỉ vài cm) thì trong những giây phút cuối cùng chỉ biết tống ra từng đống bất tịnh hôi thúi… (vì người bệnh đang ho hen, ngắc ngoải chỉ thở được khi tống chúng ra ngoài) bây giờ cái xác thân đó đang nằm thoi thóp, kéo từng hơi thở mệt nhọc khó khăn. Tiếng nói của ba chị càng lúc càng khó nghe, giống như người bị sứt môi hay nói ngọng, dường như lưỡi ông bị tụt vào trong… ông chỉ gật đầu khi chị hỏi: Có niệm Phật không?” Thấy ông mệt quá chị dỗ: Thầy cứ nằm yên con sẽ niệm Phật thay thầy, tiếng của con là tiếng của thầy, thầy có nghe con nói không?”… Ông nắm tay chị lắc nhẹ.

Có thể ông sẽ ra đi vào tối nay hoặc ngày mai… chị mới rời Mỹ về bên ba được 18 ngày, ba chị cũng mới phát tâm cầu vãng sinh chưa được nửa tháng. Nhưng ai cũng ngạc nhiên khi thấy ông vui tươi, dí dỏm, xem cái chết nhẹ tựa… lông gà.

Chiều nay, bắt bà chị ngồi cạnh cha, chị lén ra tiệm internet để… lén khóc một mình. Chị không dám khóc công khai như bà chị hay lũ em của mình… vì xem ra vừa mất uy tín vừa làm cho thiên hạ thừa cơ khóc hùn theo… và luôn tiện gởi mail đến các em. Chúc các em có những ngày tu tập hạnh phúc và biết trân trọng những phút giây mình còn thở, còn cãi cọ, giận hờn, thương yêu… Có nghĩa là mình còn sống, còn có thời gian để sửa đổi các sai lầm… Để mỗi bản tâm là một cõi Tịnh Độ hiện tiền.

Thôi chị ngưng để đi về niệm Phật tiễn cha đây.

 

QUA MỸ LẦN BA

Lá thư 61
Thứ Bảy, ngày 11 tháng 10 năm 2008.

Heo Ú ơi!

Chị sang Mỹ được một tuần rồi nhưng cơ thể vẫn chưa quen với giờ bên này. Nghĩa là chị phải tranh thủ ngủ rải rác suốt ngày, từng chút một, nếu không muốn chết giữa trận tiền. Trong tình trạng đó chị chưa dám đặt vé sang các tiểu bang khác, cứ nằm và ở chùa Đức Viên cho bảo đảm tính mạng vậy.

Chị được ở trong một căn phòng lớn hơn cái nhà chị một chút, có đầy đủ tiện nghi, như một phòng của khách sạn, khác chăng là an ổn và tinh khiết vì nó nằm trong Ni xá của chùa. Mỗi ngày chị ăn ba bữa (chưa kể những lúc mất ngủ chị lò mò đi ăn vụng thêm). San Jose thuộc Bắc Cali, khí hậu ngon lành nhất trong 51 tiểu bang Mỹ, nghĩa là có 4 mùa rõ rệt, chưa bao giờ có tuyết rơi hay nóng quá 37° C, nhưng đối với cái thân già Vietnamese của chị, vẫn lạnh lắm. Lúc chị mới qua, nhiệt độ khoảng 12-14°c, nhưng hai hôm nay nó tuột xuống 10 độ, chưa kể đến gió thổi u u suốt ngày. Dĩ nhiên ngoài thường phục, chị phải mặc thêm: Một chiếc áo dài, một áo len ngắn, một áo len dài, hai mũ len, hai đôi vớ, một khăn choàng cổ to đùng… Mớ thời trang lùng bùng này, làm chị có hình dáng giống… một con gấu Bắc Cực.

Chị không đủ sức theo kịp các thời khóa tu tập của quý sư cô nơi đây, nên để… “cứu vãn danh dự” mỗi ngày chị dạy hai suất: Sáng chiều, mỗi tiết học kéo dài khoảng một đến hai tiếng. Thính giả dao động từ 30-100 hoặc hơn.

Năm nay các sinh viên Mỹ ở đại học Santa Clara cũng mời chị dạy, nhưng chị từ chối và nhắn họ rằng: Nếu muốn học cứ đến chùa chứ chị không vào giảng đường của trường nữa. Chùa đang tiến hành việc làm giấy tờ cho chị trở thành công dân thường trú ở Mỹ. Có cái giấy đó, chị có thể vô ra Mỹ, Canada… bất cứ lúc nào, khỏi phải xin Visa, nhưng trong thời gian xin giấy, chị không được rời Mỹ và thời gian này có thể từ một đến ba năm.

Nơi đây người ta có tất cả khi có việc làm, nhưng sẽ mất tất cả khi thất nghiệp.

Và bất chấp mọi chuyện rối ren, ngày tháng vẫn trôi qua, mặt trời vẫn lên xuống bình thản, trẻ con chào đời, người lớn già đi… cạnh những âm thanh cuồng nộ giận dữ vẫn có tiếng nói cười ca hát, thiên nhiên nơi đây vẫn hào phóng và kỳ thú: Hoa lá diễm lệ, trái cây hoàn toàn không có kiến, sâu…

Bữa chị mới qua, công ty thông báo sẽ, xịt thuốc trừ sâu vào ban đêm, để nhà nhà đóng kín cửa. Họ giữ gìn môi trường rất kỹ, không cho bất cứ hạt giống trái cây xứ nào được vào Mỹ và xịt thuốc trừ sâu trong không gian bằng máy bay, nên trái cây và rau bên này không có chút tỳ vết, dù là hoa bờ cỏ bụi…

Vài hàng thăm em, giờ chị đi ngủ đây!

 

NÓI LÉN

Lá thư 62 
Thứ Tư, ngày 14 tháng 04 năm 2010, 4:11 chiều.

(Mail nói lén, sau khi xem bài “Những người con Phật” – Gởi Heo ú xem… xong rồi bỏ).

Cô Nguyên Tâm ơi!

Thật lòng mà nói Hạnh Đoan viết văn ngày càng hay, qua mặt em một khoảng dài cỡ mười mấy năm luôn.

Phật có dạy, tăng sĩ Phật không chết vì thiếu mà chết vì thừa. Hồi xưa em xẹt ra thi văn khá nhiều là nhờ đói rã họng! Văn thơ cũng giống như cái cần câu cơm, có danh ắt có lợi, nhỏ Hạnh Đoan viết văn dịch sách giỏi như vậy là vì… đó là cái cần câu cơm độc nhất của nó, nó mà ngưng viết là chết đói liền! Viên Chiếu thường chia sẻ thức ăn cho nó với nhỏ Hương, nếu không viết theo lời yêu cầu, ăn ké hoài cũng… muối mặt.

Phần em, danh đi trước, lợi đi sau và tai họa đi… sau chót làm em ê ẩm. Thêm vào đó từ hồi xuống miền Tây, rau ngoài vườn nước dưới mương, trái cây đi mót ăn cũng đủ mập, khiến em làm biếng… em gõ bàn phím xài có một ngón tay, lười viết tiếng Việt, lâu dần đầu óc rỉ sét, vòng bụng càng phì thì khối óc càng teo tóp, đành ngậm ngùi dùng thức ăn để chống stress, ngó bộ hiệu quả hơn văn thơ.

Nỗi ấm ức của Hạnh Đoan cũng là sự khoái chí của em: Mỗi khi nó viết văn hay, thiên hạ đều khen bằng một câu mà nó sùng nhất: “Em cô Thủy hả? Hèn chi!”…

Hi hi… đúng là tốt lá tốt nem, tốt chị tốt em… thôi trong một cái nhà mà có nhiều thiên tài quá sẽ biến thành thiên tai… nên em sẽ hi sinh để em mình nổi danh vậy, cô há!

 

Thứ Năm, ngày 15 tháng 04 năm 2010

Chị Ba ơi! Chị xem dùm bài “Xem Phim” viết có được không? Em viết xong không tự tin nên gởi chị xem thử. Có lời nhận xét của chị em an tâm hơn. Nếu bài không đạt, em sẽ bỏ sọt rác. Chị xem giúp em nhé?

Hạnh Đoan.

 

BÌNH BÀI “XEM PHIM”

Lá thư 63
Thứ Sáu, ngày 16 tháng 04 năm 2010, 9:15 tối.

Heo Ú ơi,

Bài “Xem Phim” em viết hay lắm, không khoe thiên hạ đọc thật phí của trời! Em còn viết được thì cứ viết, bỏ lâu sinh tật làm biếng giống chị thì… mai một hết tài năng. Phim “Mùi Ngò Gai” hình như không phải là phóng tác từ phim Hàn Quốc, chỉ nhờ Hàn Quốc giúp kỹ thuật quay phim. Em hỏi lại xem nhé. Chị có xem phim này ở chùa A Di Đà, Nam Cali… cùng xem với chị Diệu Ngọc cô giáo cũ hồi lớp 8 của em đó.

Yên chí đi, em viết hay hơn chị ngày xưa nhiều. Đọc văn em thấy phảng phất nét ngây thơ của một thiếu nữ mới lớn. Này, nếu được thì em viết tự truyện đi, vì văn em rất trẻ, hồn nhiên, có lẽ nhờ em ít giao tiếp với thế giới bên ngoài.

Còn chị, hôm đi Sài Gòn bị người ta kêu: Ngoại, ngoại ơi!… Bây giờ chị mà viết văn chắc giống ông… Hồ Biểu Chánh!

Dạo trước chị gặp một người bạn ở Mã Lai, cô ta nói: Cô Hạnh Đoan viết “Chút Hương Ngày Cũ” tếu không chịu được, em đang tìm người nhờ dịch ra Anh văn chia sẻ cho thiên hạ biết đến những lý thú trong chùa đây, được không cô?”…

Heo Ú nè, em có thích viết tự truyện không? Em ăn xoài hết chưa? Chị biết em rất mê xoài Hòa Lộc nên mới nhờ người gởi…

Chị Ba.

 

Lá thư 64 
Thứ Ba, ngày 10 tháng 01 năm 2012, 3:42 chiều.

Chị Ba ơi,

Chuyện bản thân em hay gia đình mình, có gì kỳ thú đâu mà viết? Viết đã tốn công, thiên hạ không thèm đọc, là phí thời gian của mình! Với lại bây giờ em cũng lười viết lắm, em thích dịch nhân quả cho người ta hiểu mà tránh ác làm thiện… xem như báo đáp chút ân Phật.

Nghe chị kể người ta khen và đòi dịch tác phẩm “Chút Hương Ngày Cũ” sang Anh văn mà em nở mũi, dù có hay không… cũng thấy vui rồi, hi hi…

Về phim “Mùi Ngò Gai”, em hỏi kỹ rồi, là kịch bản của Hàn Quốc đó chị ạ. Em nhớ có lần người ta phỏng vấn nghệ sĩ Thành Lộc, ổng phát biểu đã cố gắng diễn rất nhiều để phù hợp với bản sắc Việt Nam. Cảm ơn chị đã nhắc. Em đã hỏi lại mấy người quen, họ đều xác nhận “Mùi Ngò Gai” mình mượn của Hàn. Tại chị lười viết chứ thiên hạ vẫn còn ái mộ văn chị dữ lắm. Thật ra những tính chất hài hước và nét hóm hỉnh trong văn (nếu có) do là em thừa hưởng, cộng với học hỏi thêm và cũng lây nhiễm từ chị thôi. Bài “Xem Phim” này em định vứt sọt rác, nhờ chị mà nó được sống. Hi hi.

Em đã ăn xoài hết rồi. Cảm ơn chị rất nhiều.

Heo Ú.

 

BÀN VỀ CỔ NHẠC

Lá thư 65 
Thứ Ba, ngày 16 tháng 04 năm 2013.

Hạnh Đoan ơi,

Nếu nghệ sĩ đã nhờ em đặt vọng cổ về sử Phật giáo hay chuyện nhân quả… cho họ hát để truyền bá Phật giáo, thì chị nghĩ thế này:

Hiện nay sáng tác nhạc Phật giáo, cũng là dùng văn tải tạo, việc này vốn rất thịnh hành, riêng cổ nhạc lại là món ưa thích của dân miền Tây và thính chúng bình dân, nhưng ít ai thực hiện.

Những lời ca vọng cổ của em rất có duyên, em cứ việc sáng tác và yên tâm dùng vọng cổ tải… đạo, (vì duyên này không còn bao lâu nữa, do tuổi mình già, gần chết… nên duyên sẽ phải die theo).

Mà chúng sinh sống trong thế gian này dù họ có theo tín ngưỡng Phật giáo hay không, thì cuộc sống vẫn bị chi phối bởi luật nhân quả, do không tin nhân quả nên họ rất dễ làm ác. Nhân loại hiện nay đang đứng trước bờ vực thẳm đảo điên theo ngũ dục: Phụ nữ thích ăn mặc hở hang kích dục là đang gieo nhân sa vào ác đạo, nếu may mắn được làm người sẽ không thoát kiếp làm gái mại dâm bị người xâm hại, đó là sự thật. Nhưng ít ai đề cập tới vì sợ mích lòng, mà mích lòng thì sẽ mất lợi lộc…

Sinh hoạt Phật giáo hiện nay nặng về hình thức, mê tín dị đoan, giảng sư giảng thường bảo tín đồ cúng dường cho có phước, nhưng phước đó không thể diệt tội được!

Sáng tác vọng cổ chì gói ghém trong sáu câu hát, tuy không khó hơn viết văn nhưng cần động não nhiều, em cứ tùy duyên làm lai rai, duyên đủ thì làm, duyên hết thì ngưng. Em vừa làm vừa nguyện Bồ tát Quan Thế Âm gia hộ cho mình có đủ trí huệ để… “Viết nhạc cho hay, không sai thánh ý của Phật, không mê lầm nhân quả… khiến người hiểu sâu Phật pháp”… Miễn là, có thể giúp chúng sinh khởi tâm quý đạo, chịu tu sửa, bớt làm ác… là được rồi,

Em cứ gieo hạt trồng cây, theo ngày tháng hạt sẽ đơm hoa kết trái… Nếu có lợi ích thiết thực thì tác phẩm mình sẽ tồn tại, chịu khó sáng tác cũng rất có ích cho trí óc.

Chị Ba.

 

NGÀY VỀ

Loay hoay đã nữa kiếp người
Thu bay trên những nụ cười xanh xao
Rõ ràng mở mắt chiêm bao
Biết như mộng huyễn vẫn đau xé lòng 
Ngửa tay có được gì không
Họa chăng dăm hạt bụi hồng phiêu linh 
Dường như mình chẳng phải mình 
Rừng thiên đày đọa dạng hình long đong 
Mây bay qua khu rừng đông
Còn thong dong ngắm nắng hồng trên cây 
Mây bay qua khu rừng tây
Rêu xanh in nửa dấu hài bỏ quên.

Như Thủy -1983

***

THƯ THÍNH GIẢ

Chủ nhật, ngày 25 tháng 05 năm 2008, 9:45 sáng.

Kính bạch Ni sư!

Hôm nay con xin mạo muội viết lá thư này với lòng thành kính khao khát được tắm gội trong mưa pháp của Phật, do Ni sư có nhiều Phật sự đa đoan, mà con vẫn mạo muội làm phiền, con cúi lạy Ni sư tha thứ và hoan hỉ.

Ni sư ơi, con là một đứa con bất hiếu, lưu lạc biết bao năm tháng tưởng chừng như mất lối quay về, nhưng vừa qua tại chùa Đức Viên lần đầu con nghe pháp. Hôm đó Ni sư thuyết giảng về đề tài tình yêu. Con nghe rất cảm kích và học hỏi được thật nhiều. Do duyên số của con có điều éo le nên lúc đó con đã nêu hai câu hỏi (mà thời gian lúc bấy giờ quá gấp và eo hẹp, thấy Ni sư có nhiều chuyện cần xử lý, mà con thì quá bức xúc với hoàn cảnh… nên không kịp đắn đo). Lúc đó con rất xúc động, không nói được rõ và trọn lời, dù chỉ được giao lưu trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng Ni sư đã giúp con có được sự bình an trong thực tại. Con rất cảm ơn sự độ lượng và những lời pháp nhũ quý giá đó. Con nguyện sẽ lấy những lời dạy của Ni sư làm kim chỉ nam thực hành để sống an lạc trong những tháng năm còn lại trong đời con.

Nhưng sau khi về nhà con chợt có nỗi buồn âm thầm hiện lên. Khi nhớ tới lời Ni sư dạy: Thỉnh thoảng hãy mua đồ cho vợ như lúc mới làm quen. Nhưng khổ nỗi, khi lấy nhau xong, con đi làm mang tiền về đều bỏ hết trong băng (bank) chung. Mua sắm gì đều phải hội ý chung. Cứ mỗi sáng đi làm con được vợ bỏ vào bóp 20$ (như mẹ phát quà sáng vậy), thì làm sao thực hiện được lời Ni sư nói đây? Cho đến bây giờ con, mới thấy ra một điều là: “Các ông thì xài bóp nhỏ, còn các bà luôn xài giỏ lớn”… cái bóp nhỏ không có gì bỏ, còn giỏ lớn bao giờ mới đầy?

Ni sư ơi! Đàn ông bên này thật là tội nghiệp, làm ăn không giỏi thì bị chê, bị hăm, bị bỏ (còn nếu làm ra tiền thì cũng bị… kềm kẹp không nhúc nhích được). Ni sư nói rất đúng: “Xin các bà đừng cột các ông chồng như xích con chó vậy”… Nhưng quen rồi cũng thấy thường! Cái khổ về xác con chịu đựng được, còn khổ về tinh thần thì làm sao đây?

Ni sư nói rất đúng, cái khổ của con là do lúc đầu suy tính không chu đáo, để khi nhân thành quả rồi thì trách ai đây? Cho nên 20 năm qua từ ngày quyết định kết hôn với người khác đạo thì con đã và đang cảm nhận khổ đau từ từ kéo đến. Trước tiên là bị cha mẹ, anh chị em từ bỏ, kế đến thì bạn bè chê trách… Sau đó con như con thiêu thân không định hướng-cứ muốn lao vào lửa – để rồi cuối cùng nhận lãnh một hậu quả đau thương là chết cháy trên đống tro tàn vô nghĩa.

Qua lời Ni sư nói: “Hãy quán Chúa như Phật”? Nhưng thật là khó cho con (trong khi con rất rõ về lịch sử Chúa và Phật, không thể nói giống như nhau được). Phật là từ bi tế độ, Phật không ban phước giáng họa cho ai, nhưng theo lịch sử Chúa, thì Chúa là người có đầy quyền năng: “Ai tin ta sẽ có sự sống”…

Đạo Chúa thời nay chủ trương rao giảng tin mừng cho người đói ăn khát uống, rách mặc và xoa dịu nỗi niềm đau cho nhân loại…

Cho nên con hằng đêm suy niệm rằng, nếu cứ kéo dài sinh hoạt tâm linh như con hiện thời, thật uổng phí một đời người, vì chưa đạt đến rốt ráo.

Nhìn hoàn cảnh con, Ni sư đã nói: “Do nghiệp duyên của mỗi người, vì vậy đừng nên khởi ý phiền trách… Thế nhưng hằng đêm cầu nguyện con cứ khóc hoài và tự hỏi chẳng lẽ cuộc đời mình không còn giải pháp nào hay sao? Tại sao Phật Thích Ca xưa bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con xinh để tầm Sư học đạo mà sao bây giờ mình lại không thể? Thân con đã khổ nhiều rồi, có khổ đau thêm cũng không có gì đáng kể, nhưng vô thường đến thì đâu có chờ đợi được, mà tâm con bây giờ chưa an, còn bé bỏng và nhiều sợ hãi lắm…

Cho nên khi gặp Ni sư con đã khóc trong tức tưởi và nói không thành lời như một đứa bé mặc dù tuổi đời con không còn trẻ để làm như vậy.

Nhớ lời Ni sư dạy: “Người tỉnh phải lo cho người say” rất đúng… và ý nghĩa thật cao sâu. Nhưng con là người mới tỉnh, đang còn đau đớn và mệt mỏi lắm, đứng ngồi chưa vững, liệu có thể lo nổi cho ai không?

Nhưng với trí tuệ và từ bi của nhà Phật như lời Ni sư nói: Sẽ là sức mạnh giúp con vượt qua. Nên “dù phải bỏ thân này bên công giáo, nhưng lòng con luôn hướng về Phật pháp”.

Mong rằng kiếp sau con còn giữ được thân người, sớm gặp Phật pháp để được tu hành giải thoát… giác ngộ, độ chúng sinh.

Thêm nỗi trăn trở nữa là, xin Ni sư nếu có điều kiện tiếp xúc với các em sinh viên hay giới trẻ bên ngoài, thì xin Ni sư hãy thường giảng sâu về vấn đề tuổi trẻ và tình yêu, cho các em Phật tử đang còn lang thang bên ngoài vì cuộc sống (cũng như những Phật tử không có cơ hội đi vào chùa) sớm gặp được chánh pháp để khỏi lạc vào bến mê trầm luân không lối thoát như con.

Con đã biết những cảnh khoe sắc hương bên ngoài đều là cạm bẫy, và… “Sau miếng mồi ngon là cái lưỡi câu, ắt có con cá chết”. Nếu ai sớm hiểu điều này thì sẽ không bị lầm đường lạc lối.

Kính chúc Ni sư pháp thể khinh an. Đạo hạnh viên mãn, chí nguyện viên thành.

Nam mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni.

Trần XX

Uống chưa cạn chén rượu đời
Đã nghe hồn xác rã rời tái tê
Dập dồn bước tỉnh bước mê
Mây giăng khó đoán đường về gần xa.

Như Thủy- 1980

 

Thứ Bảy, ngày 21 tháng 09 năm 2013.

Chị Ba ơi!

Chị đọc thử bài Tăng Bảo em viết, xem có nên bỏ đoạn nào hông? Hình như em hết thời rồi nên viết không thấy ưng ý. Đây là bài em định viết đóng góp cho thường chiếu 40 năm. Nếu chị thấy không ổn thì cho hay để em khỏi nộp Thường Chiếu. Cảm ơn chị.

Heo Ú ơi!

Chị đọc thấy cũng được đó, em cứ giữ nguyên văn đừng bỏ đoạn nào hết, để ai muốn tìm pháp nhũ thì có mà xài. Khoảng mười năm trước chị còn định viết văn cho thiên hạ đọc. Bây giờ do danh lợi đều có đủ nên mỗi ngày qua chị càng làm biếng… thêm vào đó, đi giang hồ, gặp nhiều người nhiều cảnh… nên đành hẹn… khi nào đi hết nổi, ngồi một chỗ … như em, chị sẽ viết!

USA đang vào mùa thu, có lá vàng khắp nơi… Trời mùa thu trong xanh, nhưng khí hậu cực kỳ lạnh lẽo.

Hôm qua vừa lên máy bay chị bị chảy máu mũi, mới đầu tưởng bị sổ mũi, chị đưa tay quẹt, ai ngờ máu dính tùm lum. Cái mỏ chị bị lạnh, sưng vù như… mỏ vịt.

Thỉnh thoảng chị nằm mơ thấy Viên Chiếu, cười giỡn, chơi với chúng… và em trẻ như hồi mười sáu, thấy chị Đức và mọi người đều hí hửng như thời chưa tới 30.

Thôi thì ai cũng có một thời tuổi trẻ và tuổi già. Tuổi già có cái hay là “Thuận nhĩ”, nghĩa là: Nghe gì cũng lọt vô tai, cũng thấy có lý và làm biếng cãi cọ… thanh minh do sức yếu và… hết còn hơi để nói. 

Thương mến,

Chị Ba.

Hạn chót nộp bài cho Kỷ yếu Thường Chiếu 40 năm là lúc nào vậy? Chị cũng muốn viết một bài, nếu như chị bớt làm biếng, do chị không quen viết bỏ dấu nên lại càng lười hơn.

 

Chị Ba ơi!

Vậy thì chị chịu khó làm siêng viết đi, thầy Nhật Quang nói sẽ chờ bài của chị. Thầy vui lắm. Còn 3-4 ngày nữa mới hết hạn nộp. Em tình nguyện đánh văn bản bỏ dấu, trình bày tươm tất giúp chị. Mặc dù em đọc không dấu dở nhưng em sẽ ráng động não. Chẳng hạn như giang hồ em độc thành giảng hộ… Chị hãy viết đi để có chút kỷ niệm cuối cho Thường Chiếu vì chưa chắc sang năm mình còn hay… họ còn (sống). Vậy chị viết đi nha.

Heo ú.

  

Phụ Lục
HỒI KÝ CỦA HẠNH ĐOAN

NGUỒN CỘI

Thật kỳ lạ, trong gia đình hai bên nội, ngoại, chỉ riêng ba mẹ tôi là có duyên sâu đặc biệt với Phật pháp nhất.

Má tôi chào đời được ba ngày thì thân mẫu mất, bà ngoại của má (tôi gọi bà cố) phải đảm nhận việc nuôi dưỡng má tôi.

Bà cố tôi tướng tốt lắm, gương mặt chữ điền, vầng trán cao rộng, tai dài đẹp như tai Phật. Bà khảy đàn tranh rất hay. Tôi nghe kể là có một tối bà ngồi đánh đàn trước hiên nhà say sưa đến tận nửa đêm, tiếng đàn réo rắt mê hồn đến nỗi có hai cục lửa ở xa bay tới, từ trên không bỗng sà xuống trước mặt bà, bà sợ quá ngưng đàn và kể từ đó bà không dám thức khuya đánh đàn nữa. Người ta giải thích là tiếng đàn của bà tuyệt quá, khiến thần linh mê mẩn, phải tìm đến nghe. Tôi không biết giai thoại này có thật hay không nhưng lúc nghe kể, cảm thấy rất hãnh diện về tài nghệ của bà.

Tôi bé quá nên không nhớ được hết những kỷ niệm về bà cố, các chị thường kể rằng ngày thôi nôi tôi, bà cố cứ đứng cạnh bên, canh chừng tôi bắt đồ. Bà lo xa đẩy cây thước về phía tôi, miệng luôn bảo: Nè cháu, cầm cây thước này đi, để ngày sau lớn lên làm cô giáo!

Tôi liền chụp ngay cây thước đó, gõ thẳng vào đầu bà cố…

Chỉ nghe kể vậy thôi, lòng tôi đã thấy xót xa, thương bà day dứt. Tôi chưa tròn hai tuổi thì bà cố đã qua đời, vậy mà hồi ức về bà vẫn làm tôi ấm áp, cảm động.

Mười sáu tuổi, má tôi là giai nhân. Má tôi dáng dong dỏng cao, da trắng mát. Bà có đôi mắt phượng sáng long lanh, chiếc mũi thanh thanh, làn môi đỏ thắm, vì vậy mà người trong làng tặng cho biệt danh là Hai Son. Má tôi khéo ăn nói nên rất có tài thuyết phục người. Tất nhiên bà đã khiến cho trái tim nhiều chàng trai chao đảo, nhưng má tôi không chịu kết hôn với ai mà trốn lên chùa làng “đầu quân” ở đó. Nơi đây má tôi tự học và phát huy hết sở trường nhờ vào trí thông minh của mình. Má tôi may giỏi, nấu ăn khéo, chế biến đồ chay rất tài. Dì tôi cứ tấm tắc khen mãi, kể mãi, rằng hễ có giỗ quảy, lễ hội, các mâm cỗ trong chùa thảy đều do một tay má tôi nấu.

Ba tôi lúc đó là một tăng sĩ trẻ lang thang, trôi dạt từ miền Trung vào Nam. Do có thời gian dài cư ngụ giữa rừng, nên ba tôi vướng bịnh sốt rét nặng, người gầy như bộ xương, tình cờ ông đi ngang qua ngôi chùa làng nơi má tôi cư ngụ và tấp vào nghỉ tạm.

Lúc đó mọi người trong chùa ai cũng cho là ba tôi khó lòng qua khỏi, xúm nhau biểu lộ thiện ý:

– Thầy mà chết rồi chúng tôi sẽ góp tiền mua cho cái hòm chôn.

– Tôi sẽ tặng bộ đồ tốt để khâm liệm…

– Tôi biếu mũ, khăn quàng…

Khi ba tôi nhắc lại chuyện này, ông mỉm cười bảo: Mình bị bịnh nặng, đói muốn xỉu… mà ai cũng hứa chết rồi tặng này tặng nọ, nhưng chẳng hề nghĩ tới việc cho ăn… Má tôi thấy cảnh ba tôi nằm chờ chết bơ vơ không thân thích nên tội nghiệp, bèn nấu cháo, sắc thuốc cho ba tôi uống. Thế là ngày ngày ba tôi đều vọng ngóng trông chờ vị nữ ân nhân này đến cứu mạng. Khi bịnh lành, nghĩa tình sâu nặng đó đã nối kết hai người thành duyên.

Má tôi dẫn ba tôi về ra mắt gia đình, bà cố nổi cơn thịnh nộ vì “bao nhiêu trai làng danh giá cầu hôn không chịu ưng”, để cuối cùng dẫn cái thằng côi cút ở tận miền ngoài về.

Mãi đến năm sau, khi má tôi hạ sinh bé gái đầu lòng (chị Hai tôi) rất kháu khỉnh bụ bẫm: mắt to, da trắng hồng, đẹp như búp bê. Bà cố mê cháu nên mở lòng tha thứ, hết giận.

Ba tôi tính không bài bạc rượu chè, tối ngày siêng năng làm lụng, không để mắt đến cô nào khác ngoài má tôi, nên dần dần bà cố cũng đẹp lòng.

Ba tôi dáng thanh thanh, khôi ngô tuấn tú. Người trong làng thường gọi ba tôi là Hai Trắng. Giới mày râu trong làng ai cũng nhậu, nhưng ba tôi thì một giọt rượu chẳng dính môi. Có ông hàng xóm sát bên nhà từng cầu hồn má tôi, cũng đã sang ở rễ ba năm; vậy mà chẳng được se duyên cùng má tôi nên thầm ôm hận, luôn kiếm chuyện gây hấn với ba tôi. Ba tôi chẳng hề biết điều này. Ông có thói quen rất tốt là những khi bị người kiếm chuyện mắng chửi, ông chỉ mỉm cười lặng thinh, không thốt một lời nào.

Ba tôi không có máu văn nghệ như bên ngoại tôi, chẳng ưa hát xướng đàn ca. ông có giọng tụng kinh cực kỳ hay. Đa số chúng tôi đều chuộng ca hát (có lẽ ảnh hưởng gien di truyền bên ngoại). Chị Hai tôi mãi đến khi lấy chồng mới thoả dịp thực hiện sở thích riêng, chị sắm đàn, hát hò tha hồ, còn chỉ đạo đám con mình diễn tấu ca, kịch… Nhưng thiệt trái ngược, đám con chị lại giống tính ba tôi, chẳng có tinh thần yêu văn nghệ cao độ (như mẹ, cậu, và các dì của chúng). Đúng là ở đời luôn có chuyện oái oăm, bất như ý thì nhiều, toại lòng thì ít.

Tôi vẫn “tiếc hận” về điều này, giá như tôi được thừa hưởng ngón đàn của bà cố, nếu ba cho phép chúng tôi học nhạc từ nhỏ – thì biết đâu tôi đã thành “thiên tài” sáng tác, đóng góp được rất nhiều cho âm nhạc Phật giáo? – Nhưng thôi, chữ tài luôn vần với chữ tai. Tài năng không có dịp phát huy cũng có nghĩa là mình sẽ ít gặp hoạn nạn rủi ro! Nhờ vậy mà bây giờ tôi tha hồ tưởng tượng mình là “thiên tài… hụt” (nếu được toại ý, biết đâu tôi sẽ thành kẻ tra tấn người nghe bằng chính âm nhạc của mình!)

Tôi nhập thai mẹ được ba tháng, thì tai họa ập tới, má tôi bị bắt với tội danh “tình nghi nuôi giấu địch quân”, bà bị tống giam, nếm đủ màn tra tấn dã man. Má tôi chỉ còn biết niệm Quan Âm liên tục cầu cứu. Có lẽ nhờ vậy mà sau ba tháng, chỉ mình má tôi được thả ra, trong khi các bạn tù khác bị tra tấn đánh đập… chịu hành hạ đến chết. Má tôi nhờ dốc lòng cầu cứu Đức Quan Âm, nên khi được thả còn được đặc cách ban ân (cho nằm tại bịnh viện điều trị nửa tháng, hưởng chế độ ăn uống bồi bổ sản phụ), nhờ vậy mà khi sinh ra, tôi mập ú tròn quay. Má tôi rất cảm mộ và tri ân đức Quan Âm, vì khi tra tấn, người ta không hề đánh vào bụng, nên tôi bình an.

Suốt thời kỳ hoài thai, má luôn niệm danh Đức Quan Âm, treo hình ngài đầy nhà, hễ rảnh rổi là đảnh lễ, chiêm bái, nhìn ngắm không rời. Có lẽ nhờ vậy mà bà sinh tôi ra dễ dàng, cũng nhờ ân sủng Đức Quan Âm, nên sau này, các bạn bè bên Phật gặp tôi, thường buột miệng khen tôi giống… Đức Quan Âm, còn đám bạn đạo Chúa thì khen tôi giống Đức Mẹ… Những lúc đó tôi chỉ mỉm cười, hóm hĩnh đáp lễ: Nếu em giống Đức Mẹ, thì chị giống… Đức Cha!

Dư hương lao tù đã khiến lục phủ ngũ tạng má tôi đều hư hoại, hậu quả của những trận đòn thừa chết thiếu sống. Tim, phổi… nội tạng… đều bị tổn thương nặng, cơn đau ngày đêm hành hạ, nên chỉ vài năm sau là má tôi qua đời, không thuốc thang nào có thể chữa khỏi.

Bốn năm gần mẹ ngắn ngủi vẫn cho tôi hiểu được rằng: Còn mẹ, là còn tất cả trân bảo trên thế gian. Những kỷ niệm lượm lặt chắt góp về mẹ luôn là nguồn động viên an ủi tôi vui sống, dù không còn hình bóng bà bên cạnh.

Ngộ một điều là càng lớn, tôi càng thương mẹ da diết, tôi nhớ giọt lệ nghẹn ngào của bà khi hiểu rằng bệnh tình khó qua, mình sắp sửa bỏ con bơ vơ… Vì vậy mà bà đã cưng bù, biểu lộ tình thương dồn dập dành cho tôi trong những ngày tháng cuối.

Mẹ bịnh nằm trên giường, tôi lúc nào cũng đeo dính bà và nhảy tung tăng quanh giường như con sáo. Lúc đó tôi hạnh phúc lắm, bàn tay thanh gầy của mẹ lúc nào cũng vuốt tóc tôi, đôi mắt đẹp dịu hiền của bà luôn nhìn tôi long lanh ngấn lệ… Đến khi bà mất tôi chỉ biết ngẩn ngơ. Không còn mẹ, tôi đành đứng trước tủ thờ và cứ đứng mãi ở đó, vì trên tủ thờ có chưng hình của bà.

Ba tôi từ lúc lâm vào cảnh gà trống nuôi con… lẫn cháu, rất là khốn đốn. Nên vài năm sau ông bắt buộc phải tục huyền, chia sẻ gánh nặng cho thứ mẫu tôi, một phụ nữ quê ở Bà Điềm, tính rất dịu hiền.

Do ba tôi và thứ mẫu phải đi làm xa, chị Hai tôi thì đã vu quy, chị Ba thì đã xuất gia. Còn lại ba anh em tôi đang tuổi đi học, nghĩ chùa là môi trường giáo dục tốt nhất nên ba tôi đem hết chúng tôi vào ký gởi trong chùa, tháng tháng ông đóng tiền, để lại căn nhà khang trang ông và má tôi (từng chung sức xây nên) cho bà con bên nội vào ở nhờ.

Xem như suốt thời thơ ấu, trừ ba tháng hè ra, tôi toàn là ở trong chùa. Quen mùi tự viện cho nên lớn lên tôi không tài nào bước ra khỏi quỹ đạo này, hễ lìa chốn già lam thì tôi sống giống như cá lìa nước.

Hồi nhỏ chúng tôi không ở hẳn một chùa nào, ba tôi cứ lựa các chùa Phật học hay Ký nhi mà gởi con. Chùa có vài thầy, một bà cô già đảm trách nấu ăn, hoặc chùa có ba bốn thầy, nhưng các sinh viên học sinh Phật tử xin tá túc có đến năm sáu người. Vì vậy mà tôi am tường không khí chùa Tăng, thân với các sinh viên như anh em một nhà. Thuở ấy đám thư sinh tính ai cũng hiền, chân chất, tinh khôi. Ngoài học và đùa nghịch ra, chúng tôi còn tham dự sinh hoạt Gia Đình Phật Tử hoặc Hướng Đạo, thỉnh thoảng hùn tiền cùng nhau mua kem, nấu chè ăn.

Có lần, thấy quán kem nhạc sống “Hoa Tình Thương” mới khai trương sát cổng chùa, chúng tôi thích lắm, bàn nhau góp tiền mua kem ăn. Trước đấy nhà tôi từng bán kem, cũng ở gần hãng kem nên tôi nghĩ với số tiền hùn này, tha hồ ăn kem thỏa thuê. Các anh sinh viên không rành giá nên cứ phó thác niềm tin vào tôi, dù lúc đó tôi chỉ mới lên mười, các anh vừa móc tiền ra vừa hỏi tôi:

–  Nhiêu đây đủ chưa bé?

– Dư là đằng khác!

Câu đáp của tôi làm các anh hài lòng, hưng phấn. Chẳng ai còn tinh thần ôn bài, cứ ngồi sắp hàng dài, ngóng cổ đợi tôi mua kem về. Tôi và chị Phượng bàn bạc một hồi, nghĩ nhiêu đây tiền mua kem, sợ rằng có dùng tô hay ca gì cũng không đủ chứa, thế là tôi và chị phượng bèn lấy cái thau to đùng, đường kính nửa thước đề đựng kem.

Khi tôi đưa tiền, chìa thau ra, nhân viên trong quán múc cho hai muỗng kem nhỏ xíu… thả vào thau.

Kem mang về, mỗi người vít một muỗng là hết. Các anh cười ha hả, vui như tết – vì cảnh mang cái thau to đùng đi mua kem của tôi. Những sinh viên ở trọ chùa thời đó, sau đều thành tài, tốt nghiệp bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ… hết cả. Chỉ riêng ba anh em chúng tôi là thành tu sĩ. Tôi đã quen cảnh ở chùa, ăn cơm chùa, khó bám trụ ngoài đời.

Chị Phượng thường trêu tôi:

– Mày cứ nguyện đời đời ăn chay đi, kiếp sau lại phải sinh trong nhà nghèo, ăn toàn cơm với muối cho mà coi!

Tôi đáp: Em thà làm con nhà nghèo, dù ăn cơm với muối vẫn là ăn chay! Còn hơn sinh làm con cưng, mỗi ngày được ba mẹ hầm cho một con bồ câu ăn mà tội đầy đầu!

Ba tôi sau một thời lưu lãng, cũng quay về chùa tái xuất gia.

Nguồn cội, đối với tôi không phải là bên nội bên ngoại, là Huế hay Bình Dương – mà chính là chốn già lam, nơi có bầu không khí thanh thoát, có Đức Phật từ bi luôn mỉm cười…

Hạnh Đoan

Cây im bóng, cõi bình an có phải
Gió dịu dàng lay khóm lá lưa thưa
Bên sông nao không mời chào từ ái
Người ngại ngùng nên vẫn khát như xưa…

Như Thủy – 1983

 

CHỊ TÔI

Năm tôi lên bốn, má tôi bệnh nặng, do đó mà tôi được cưng chiều rất mực. Tôi có một khoản sổ nợ để tự do ăn hàng, tới tháng má tôi đóng tiền. Mỗi lần tôi khóc là chị Ba bế tôi lên quán dì Hai đầu làng, tôi tha hồ chọn lựa món bánh mình thích. Trong nhà, không ai được làm tôi phật ý. Tôi còn học được mấy tiếng chửi thề của bọn trẻ trong xóm để đem ra ứng dụng nếu có ai cãi lời tôi. Chị Ba tôi giận lắm nhưng khó mà quở phạt tôi được, vì má tôi thường nói: “Tao còn sống mà bây đối xử với nó như vậy, tao chết rồi… làm sao??….” Thế là tôi tha hồ làm mưa làm gió, tung hoành suốt thời gian má tôi bệnh cho đến khi bà mất.

Ngay sau khi vừa chôn cất má tôi xong, lập tức chị Ba tôi mang tôi ra hài tội. Tôi sử dụng uy quyền cố hữu của mình là nằm vạ và hai chân tôi giãy loạn xạ, bụi tung mù mịt. Chị Ba tôi cáu tiết:

– Heo Ú! Đứng dậy không?

Tôi dẩu môi:

– Không! Má dặn phải cưng em, tại sao má chết rồi chị đem ra đánh?

Tôi thấy những giọt lệ rơi trên má chị, giọng chị nghẹn đi:

– Có đứng lên xin lỗi không? Cứ nằm vạ lì… tao đốt!

Với cái tuổii lên bốn, tôi đã biết khôn và suy tính, tôi nghĩ chị không dám đốt đâu, chị chỉ dọa thôi. Tôi không hiểu sao chị vừa đánh tôi vừa

khóc. Tôi cứ nằm yên trên đất chẳng nói chẳng rằng, chị liền mồi giấy châm lửa vào tay tôi.

Tôi bật dậy như cái lò xo, vòng tay lại liền:

– Xin lỗi! Xin lỗi! Xin lỗi!….

Từ rày có bỏ tật lì, bỏ tật chửi thề chưa?…. 

Tôi gật đầu lia lịa, chị la:

– Không được gật đầu! Nhỏ mà gật đầu với người lớn là hỗn! Phải dạ thưa đàng hoàng!

Từ đó tôi ngoan ngoãn hẳn. Vết thẹo chị đốt còn nơi tay, nhân đó chị dạy tôi cách phân biệt tay phải, tay trái.

Năm ấy chị mới mười ba, nhưng việc nhà chị cáng đáng hết. Ba tôi đi làm xa, mỗi tháng mới về một lần.

Khi tôi học lớp một, tôi ở lại lớp ngót hai năm ròng. Tôi thương cô giáo quá, sáng nào cô cũng ăn xôi và luôn chừa cho tôi nửa gói. Tôi học suốt niên học của mình với tình thương yêu cô dành cho qua nửa gói xôi mỗi sáng. Cả nhà không ai biết tôi học hoài lớp một, mãi đến khi tôi về khoe, chị Ba tôi mới giật mình. Chị vào hỏi thăm cô giáo và vỡ lẽ ra. Tựu trường năm ấy chị dẫn tôi vào lớp hai. Khi chị vừa quay lưng đi, tôi liền khóc rống lên rồi chui xuống gầm bàn, phóng thẳng ra sân trở về lớp một níu áo cô giáo cũ…

Chị phải cực nhọc lắm mới gỡ được tay tôi ra khỏi áo cô. Lần nầy chị mua cho tôi gói đậu phọng luộc, dẫn tôi trở lại lớp mới và đứng ngoài hàng rào dâm bụt canh chừng. Tôi mê ăn, quên khóc. Khi cô giáo vào lớp chị mới yên tâm ra về.

Tuổi thơ của tôi thật êm đềm vì có bàn tay chăm sóc của chị. Năm tôi học lớp năm, nhỏ bạn biết tôi mất mẹ sớm, nó nói:

– Má tao bảo con gái không có mẹ dễ hư lắm!

Tôi không hiểu tại sao? về nhà hỏi chị, chị không trả lời. Tôi cứ hỏi mãi, mắt chị thoáng buồn, chị bảo tôi:

– Kệ nó! Bé học bài đi!

Có một lần tình cờ tôi bắt gặp cuốn sổ nhỏ của chị trong đó ghi hai chữ N.K thật bự, phía dưới là câu:

“Người lịch sự không nên đọc khi chưa có sự đồng ý của chủ nhân…”

Tôi nhíu mày và tiếp tục lật sang trang. Trong đó có đoạn: “Má ơi! Con đi học với chiếc dép quai xanh quai đỏ con không buồn, con chỉ buồn là không có má…”

Bên dưới là bài thơ “Khóc Mẹ”. Tôi chăm chú đọc:

Má ơi má hỡi có nghe không?
Thương đau con gọi nát cả lòng
Lạc giọng thiết tha khan cả cổ
Trả lời là tiếng vọng hư không…

Năm ấy chị đang học trung học. Bài thơ thật buồn và lần đầu tiên tôi cảm thấy xúc động. Khi chị về, chị bảo tôi:

– Bé đừng đọc bất cứ thứ gì người ta viết riêng nghe, xấu lắm!

Tôi không hiểu, chị giải thích:

– N.K là Nhật Ký, là người ta ghi những ý nghĩ riêng của tâm sự họ, mình không được đọc đã đành, mà cả đến thư từ của người, dù họ có để ngay trước mắt bé, nếu họ không mời, không cho phép thì đừng bao giờ đọc hết, hiểu không?… ’

Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết và trong lúc chị viết thơ, tôi đứng bên cạnh nhìn vào, chị cau mày mắng:

– Bé hư quá! Nhìn như vậy là vô phép, đáng chê!

Tôi xấu hổ, lảng đi.

Một chiều tôi đang nằm đọc sách, chị Ba bước đến. Tôi ngỡ chị muốn kiểm soát xem có phải là truyện nhảm nhí không, nên vội chìa sách ra… Chị bảo:

– Đừng có bẻ đôi cuốn sách như thế! Sau em còn có biết bao người sẽ xem… Phải giữ gìn sách chứ!

Tôi toét miệng cười:

– Sách của thằng Tèo, không phải của em.

Chị nghiêm mặt nói:

– Của bạn lại càng phải gìn giữ cẩn thận hơn! Chỉ cần nhìn cách em xem sách, người ta có thể đánh giá em. Cuốn sách bèo nhèo nhầu nát, sẽ nói lên tính cách bê bối của em. Hãy biết quí trọng cuốn sách mình đang đọc. Khi nào trả nhớ bao bìa lại cẩn thận. Đó là thái độ lịch sự và cũng để tỏ lòng biết ơn người cho mượn sách…

Người ta thường nói: “Không có mẹ là mất nửa hạnh phúc trong cuộc đời”. Chị tôi đã cố giúp tôi bù đắp lại một nửa hạnh phúc đã mất…

Những dòng đầu tiên này xin tặng chị, thay lời tri ân người chị kính yêu đã từng dìu dắt tôi suốt khoảng thời thơ ấu của mình.

(Đã đăng trên báo Giác Ngộ số 15 ra ngày 13/7/1996 – qua bút danh H.T.H)

***

HAI TRÁI CHUỐI

Thấy anh Tư cắm đầu chạy sang nhà dì Hai hàng xóm, tôi đuổi theo bén gót. Bên kia rào, bọn trẻ đang chen lấn dành nhau những trái chuối dì Hai chia. Tôi và anh Tư tấp vào rống lên:

– Con nữa dì Hai ! Con nữa!….

Anh Tư hí hửng cầm hai trái chuối chưa kịp chia cho tôi, thì đã nghe tiếng chị Ba vang lên:

– Thằng Tư, bé Loan! về nhà mau!

Mặt chị Ba thật lạnh, đó là một báo điềm không may. Vào đến nhà chị Ba sai anh Tư mang chiếc bàn nhỏ ra hiên. Chị đặt hai trái chuối lên bàn và ra lịnh:

– Thằng Tư! Vào lấy chuông, chị đánh cho hai đứa lạy…

– Lạy cái gì chị Ba?

– Lạy hai trái chuối! Nhờ nó mà tụi bây biến thành đồ ăn mày. Lạy để nhớ vì miếng ăn mà hai đứa thành những đứa mất nhân cách.

Tôi nhìn anh Tư, cảm thấy rụng rời. Nhà tôi ở trước bờ sông, mấy ngày đầu xuân này, khách vãng cảnh qua lại dập dìu. Và trời ơi! Mới sáng sớm mà thượng bàn thờ… chuối lên rồi diễn trò lạy cho kẻ qua người lại xem thì quả là nhục hình khủng khiếp. Lúc ấy tôi còn bé lắm, nhưng tôi đã biết mắc cỡ. Còn anh Tư chắc phải khổ hơn tôi nhiều. Tôi nghĩ con trai tánh cứng rắn ít khóc, nhìn thấy mắt anh đỏ hoe, tôi xót xa không chịu được.

Tiếng chuông “boong boong” không dìu hồn anh em tôi lìa cõi tục mà càng làm chúng tôi thắm thía nỗi nhục xin đồ. Đám con nít và khách đi ngang cứ trố mắt nhìn. Hai trái chuối nằm chỏng chơ trên bàn như một lời nhạo báng, tôi nghe cổ họng mình khô đắng…

Vào năm 1967, có lần tan trường về, anh Tư chở tôi đến ngã tư đầu làng thì gặp đám con nít đang bu đen chiếc xe Jeep Mỹ xin quà. Chúng tranh giành hỗn loạn, đạp cả lên thân thể nhau.

Thấy anh em tôi, hai ông Mỹ giơ cao phong kẹo sô-cô-la, ngỏ ý mời chúng tôi ghé lấy. Chúng tôi đồng khoát tay “no, no!….”.

Lần đầu tiên qua câu từ chối của anh Tư, tôi cảm thấy hãnh diện và tự hào. Dường như anh Tư cũng vậy, anh đạp xe có vẻ hăng hái hơn, đầu ngẩng cao. Lòng chúng tôi dạt dào niềm vui.

Nhưng… nhớ lại hình ảnh các bạn đồng trang lứa đang hò hét, đeo quanh xe cố bập bẹ những từ tiếng Anh để xin quà, tôi cảm thấy buồn. Giá như các bạn tôi không đeo bám chen nhau xin đồ thì chắc niềm tự hào của tôi sẽ được trọn vẹn hơn, tôi sung sướng biết bao vì chứng tỏ được với khách nước ngoài hiểu rằng: Bọn nhỏ chúng tôi dù nghèo khó rách rưới nhưng vẫn có lòng tự trọng.

Ôi! Chẳng qua vì các bạn không được nếm “hai trái chuối” giống như tôi. Hai trái chuối ngày nhỏ, tôi với anh Tư thèm ăn mà không được, đã mang đến hương vị đậm đà khó quên, làm tim tôi biết nhức nhối khi ngắm nhìn quang cảnh chen xin nhục nhằn trước mặt, giúp tôi hiểu rằng: “Chẳng nên hạ mình xin ai bất cứ thứ gì!”

Khi anh Tư rời nhà đi học xa, Anh đã viết cho tôi lá thư mà đến giờ tôi còn nhớ mãi:

“Bé Loan ơi,

Tuần qua, anh ốm nặng phải nghỉ mất mấy tiết học quan trọng, nên kỳ thi này anh đâu có làm bài kịp! Các bạn anh đã nhiệt tình giúp đỡ, đưa bài cho anh chép, làm đúp giùm anh. Nhưng anh không nhận và chịu nộp giấy trắng. Anh muốn tiến bước bằng chính sức lực của anh. Anh nhớ mãi lời thầy:

“Đất nước mình còn nghèo. Điều đó không có nghĩa là chúng ta có quyền nghèo nhân cách, mỗi người cần góp sức xây dựng đất nước bằng nhân cách tốt tự bản thân. Nhiều cái tốt của từng cá nhân gộp lại sẽ giúp nước mình tươi đẹp, tiến triển”… anh tin điều đó. Kỳ này anh không có giấy ban khen để tặng bé, nhưng anh đã sống rất thành thực. Bé đừng buồn vì anh bị sụt hạng. Sau kỳ thi, anh sẽ bỏ thì giờ tìm hiểu những bài chưa nắm vững để có kết quả tốt hơn.

Chủ nhật tới, anh sẽ về và sửa lại con diều cho bé, bé chờ nhé! Chúc bé luôn được điểm mười. ”

***

CÁI MÁY MAY

(Thương tặng chị Ba chị Năm)

Không hiểu sao ở cái tuổi “xế xế chiều”, các chị tôi bỗng phát tiết “anh hoa”, thích trau dồi nữ công, nữ hạnh; hết chế biến nấu nướng thì lại tập tành may vá. Dường như cái nghề gõ đầu trẻ chẳng thú vị bằng may? Do đó mà có chuyện để tôi viết dông dài.

Bắt được “mạch” cô giáo mình, cô học trò “bình dân học vụ” vừa được chị Phượng (là chị Năm tôi) dạy võ vẽ mấy vần, một hôm Quế thủ thỉ: “Cô à, em có cái máy may dư, để em đem lên cho cô tập may!”

Quế tự động chở máy đến. Hai tháng sau, cô bé lại mang máy về. Bẵng đi một năm, chị tôi không gặp Quế.

Thấy chị còn ưa may quá, tôi gởi cho chị mượn cái máy may Đài Loan mới toanh của mình.

Cái máy tôi sang nhà chị Phượng chưa yên chỗ thì gia đình Quế bất ngờ kéo đến, đủ mặt ba mẹ, anh chị em; chỉ vắng bóng Quế. Không phải họ đi… chúc thọ đâu, vì họ đang hùng hổ trách chị tôi.

– Nè cô giáo! Cô gian manh chưa từng thấy! Cái máy của tụi tui hiệu Con bướm của Trung Quốc đàng hoàng, cô tháo hết trơn đồ, trả cái máy cũ mèm. Con tôi khờ bị gạt, chứ gặp tôi thì đừng hòng!!!…. Nếu khôn hồn thì đền bồi ngay! Bằng không, tụi tui thưa công an cho biết tay!

Khi không bị mang tiếng xấu, chị Năm tôi muốn nổi khùng, chị gân cổ lên cãi: – Thánh thần ơi! Cái máy tui trả một năm rồi, giờ tự dưng xúm nhau vu cho tôi tráo đồ! Thiệt kỳ cục vô lý hết sức!

Hai bên mạnh ai nấy cãi, chẳng ngã ngũ ra làm sao. Hàng xóm hiếu kỳ đổ ra xem, phân vân không biết tin ai? Nhìn vẻ mặt sát khí đằng đằng của nhà Quế thì rõ là họ đang giận dữ vì bị tráo đồ thật sự. Một mình chị Năm tôi không cãi nổi với sáu nhân khẩu đang cơn lôi đình, uất ức, chị bật khóc. Thời may, chị Thủy (chị Ba tôi) về đến, thấy chuyện lùm xùm chị liền phân xử:

– Nếu hai bác nóng giận vì đồ bị đổi thì chắc là có tráo thiệt! Nhưng dĩ nhiên là không phải tụi này làm! Giờ hai bác muốn thì tôi đền cho! Bao nhiêu?

Gia đình Quế bất ngờ vì thái độ của chị Ba. Họ lúng túng hồi lâu rồi ấp úng nói:

– Cô để tụi tui về suy nghĩ kỹ rồi sẽ trả lời sau!

Khách về, chị Ba tôi đóng cổng, rờ tim mình rồi thở ra:

– Phật ơi! Tao sợ… họ nhào vô nhìn cái máy của Heo Ú (biệt danh chị thường gọi tôi) là của họ thì khốn! ứ hự!… Đúng là xui xẻo, giữa đàng mắc oan! Thôi, đền phứt cho rồi. “Một điều nhịn, chín điều lành”!…

Một tuần trôi qua, vẫn chưa thấy nhà Quế đến. Hai chị tôi hớn hở nhìn nhau bình luận:

– Chắc là… (chị Ba tôi chậm rãi nói) con nhỏ Quế cần tiền nên lén gia đình đánh tráo máy. Khi người nhà nó lấy máy ra may thấy lạ, mới nghi mình! Cho nên lúc bắt đền, con Quế không dám tới…

– Ừa! Phải đa! (chị Năm tôi khoái chí bồi thêm) – Em đoán là con Quế đã bị… cắn rứt, hối hận… “giày xéo” lương tâm. Nó đã ra “thú tội” với gia đình, và cả nhà họ xấu hổ, mắc cỡ… nên không dám đến kiếm chuyện với mình nữa!

Chị Năm chưa dứt lời thì đã nghe tiếng xe nổ lạch bạch vang rền. Tín hiệu “giáng lâm” của gia đình Quế. Lần này mẹ Quế nhu mì hết mực, họ lịch sự chào chị Ba tôi rồi nhỏ nhẹ nói:

– Thưa cô, cả nhà tôi bàn với nhau: Bây giờ bắt cô đền hết cũng kỳ! Cái máy hồi nẩm… tôi mua giá triệu mốt, giờ nếu cô chịu, tụi tui sẽ chở cái máy đến cho cô. Phần cô chỉ đưa tụi tui bốn trăm ngàn thôi… Ý cô ra sao?

– Hai bác muốn sao cũng được! Chị Ba dễ dãi nói.

Khi cái máy được chở tới, chị Năm tôi hết sức ngạc nhiên. Khách về, chị mới dám than:

– Trời đất ơi! Lúc mượn, em đâu có mượn cái máy “xi-cà-que” như thế nầy?! Cả cái hiệu đành rành cũng khác. Máy Quế trước kia mang hiệu Singer, còn máy này thì hiệu Deamind. Hoàn toàn không giống nhau chút nào! Đúng là có tráo đổi! Thôi rồi!… chắc họ chở đồ phế thải ve chai đến cho mình! Xem nè: Kim cong quẹo, bánh xe thì cứng ngắc, làm sao mà may?…

Chị Ba tôi thở dài đánh sượt:

– Thôi! Lần sau đừng có dại dột mượn đồ của người ta nữa. Cái máy này giờ chỉ có nước làm… bàn để đồ!

Và chị ngắm thật lâu cái máy rồi chép miệng:

–  Giá mà có ai chịu mua nó một trăm ngàn, chị cũng bán. Chị đang để dành tiền định mua một cái máy tốt, giờ đền cho người rồi, còn tiền đâu mà mua? Xui thiệt!…

Bạn bè lối xóm qua thăm, biểu lộ sự phẫn nộ bất bình lây… Thương hại hai chị, họ nhiệt tình kiếm dùm ông thợ sửa máy. Ông thợ săm xoi, lau chùi và chỉnh máy… hơn mười lăm phút sau thì xong, ông khoan khoái ngồi xuống ghế rút thuốc hút, bảo hai chị tôi:

– Nói thiệt với mấy cô nghen, sửa đồ tôi ngán nhất là gặp máy Việt Nam, gặp đồ lô! Mà gặp cái máy này tôi… khoái liền! Coi cũ vậy chứ máy xịn đó nghe! – Máy Nhật chính tông mà! -Thấy hôn?… Sửa một chút là chạy ro ro, êm ru, đạp nhẹ hều!

– Hả???… Hai chị tôi nhìn nhau, kêu lên thảng thốt như sợ mình nghe lầm:

– Máy… tốt thiệt hả chú?

– Trời đất! Máy mình mua mà không biết?! Bộ mấy cô mới mua hả? Máy xịn đó!… ừm! Chùi sạch sẽ, tính đầu máy và cái chân cũng đáng triệu hai. Nhưng nếu tui mua, tui mua sáu trăm thôi!

– Máy người ta bắt đền đó chú ơi! Hai chị tôi kể lại toàn bộ sự việc.

Ông thợ trố mắt, đập tay vào đầu:

– Cha mẹ ơi! Thuở giờ mới thấy chuyện lạ!…. Người ta đền vậy mà cũng chịu đền?! Mà cái đám người kia cũng ngộ chớ, ai lại chở máy tốt đi bắt đền người?…. Hai cô nè, hai cô có muốn bán hôn? Tui mua sáu trăm, hai cô cũng còn lời mà?

– Thôi! Máy tốt để dành xàị! – Hai chị tôi đáp – Tụi tui cũng đang cần máy. Cái máy kia là mượn của nhỏ em út đó. Tiền sửa máy bao nhiêu vậy chú?

– Sáu chục! Đưa tui sáu chục ngàn!

Ông thợ vui vẻ ra về,, miệng không ngớt lầm bẩm: “Thiệt ngộ! Lạ ơi là lạ!…”.

Riêng hai chị tôi thì nhìn nhau hớn hở:

–  Lè lẹ lên, khiêng cái máy vào trong cất kỹ… kẻo người ta đòi!

Ngày xưa, khi đọc truyện “Tái ông Thất Mã” kể về ông lão bị mất ngựa, hàng xóm sang chia buồn, ông tỉnh bơ nói: “Trong rủi có may”. ít lâu sau, con ngựa về dẫn theo con ngựa bạn đẹp và quí hơn cả nó… Câu chuyện khá dài, được sắp xếp mạch lạc, ly kỳ, khiến tôi khó mà tin – vì cõi tưởng tượng bao giờ cũng có thể – Bây giờ chị Năm ra thăm, kể tôi nghe chuyện cái máy may, tôi đã bật cười, chợt nhớ đến câu: “Đôi khi những điều thật trong cuộc sống được viết lên, lại thú vị hơn cả những điều mà trí óc chúng ta tưởng tượng ra”.

Tôi không biết mình sẽ ứng xử ra sao khi gặp tình huống giống các chị? Nhưng có lẽ, “được” và “mất”, luôn làm chúng ta điên đảo và giữ được cái tâm bình an trước chuyện đắc, thất… quà không đơn giản chút nào!

(Đã đăng trên báo Giác Ngộ 94/17-01-1998 qua bút danh H.T.H)

***

VUA KHÔNG NGAI

Người ta nói rằng Dần-Thân-Tỵ-Hợi tứ hành xung, vậy mà tôi rất có cảm tình với tuổi con Cọp.

Tôi nhớ đã từng đọc cuốn sách trong đó đề cập đến tuổi con Cọp, khen rằng bản tính họ rất can đảm, uy dũng… Có họ trấn trong nhà, ma quỷ cũng phải lét! (Xin hỏi nhỏ, không biết người sống có… lét chăng?).

Nếu như điều tiên đoán trên là đúng, xin bạn hãy mau mau tìm cách rước người tuổi Cọp vào nhà (thay vì treo một lá bùa bát quái trước cửa để yểm tà). Nhưng nhẩm tính lại, nuôi người thì vẫn phải tốn cơm, hãy nhìn túi tiền mình cho kỹ rồi liệu cơm gắp mắm… À không! – Gắp… Cọp! Và điều cần làm trước tiên bạn nên tìm hiểu đôi chút về cá tính của giống nòi Cọp.

Theo các bốc sư thì người tuổi Cọp rất có uy trong gia đình dù là trưởng hay út, âm thanh họ thường sang sảng hoặc nếu êm dịu thì vẫn có hơi hướm vũ bão ngầm. Nói đúng hơn là chất giọng họ… có gang có thép! Họ suy nghĩ quyết đoán mau lẹ, việc làm đâu ra đó rạch ròi. Bởi cầm tinh là Chúa sơn lâm nên ở nhà họ vẫn là “chúa” – dù không có ngai! – Tánh họ tốt bụng, phóng khoáng… Đa số tuổi Dần đều “đào mương” – không! (Đào hoa chứ). Con trai thường rất hiền lành còn con gái thì oai phong như hổ tướng…

Riêng các cô cầm tinh Cọp, đa số nhan diện duyên dáng dễ nhìn. Nhưng coi chừng, nếu bạn vô tình hỏi thăm hay muốn điều tra… thì có thể họ sẽ đi một đường yểu điệu, bẻ tay chân lắc cắc rồi ỏn ẻn nói: “Em tuổi con… Mèo!”. Dù vậy vẫn có người khôngcam tâm chôn giấu nguồn gốc Cọp của mình và hùng dũng xưng danh. Nếu bạn không phải là kẻ yếu tim, bạn có thể đứng đối mặt với đôi mắt tỏa hào quang… Cọp của họ và sẽ cảm nhận rằng họ cũng rất khả ái!

Nghe nói con gái tuổi Dần thường kết hôn rất muộn. Điều đáng tiếc là lỡ như gia đình có chuyện rủi ro, họ thường bị bên chồng sỉ vả: “Tại cô cao số nên khắc chồng hại con”… Sự đổ oan ấy giống như chuyện có căn nhà bị sập, người ta đang thắc mắc hỏi nhau duyên do gì… thì tình cờ lúc ấy thấy con ruồi bay ngang, họ liền kết luận chắc nịch: “Tại con ruồi mà ra cả!”. Vâng! Khi thấy mọi tai ương bất chợt xảy đến và khám phá trong nhà có cô dâu tuổi Cọp thì… “Tại nó chứ còn ai vào đây nữa?”…

Đó là những chuyện tôi biết được và tôi cũng đã từng xót xa lau lệ cho những người bị đổ oan. Trong cõi thế gian nầy, khổ đau hạnh phúc dường như trang trải đồng đều cho mọi người, nên không thể vinh vào con giáp nào đó để quy kết rủi may. Nếu muốn, thì hãy quy toàn… may để đời thêm chút thơ mộng. Vì có biết bao phụ nữ cầm tinh con Cọp nhưng lại là vợ đảm, mẹ hiền, em ngoan, chị giỏi?

Nhưng thôi, chẳng dông dài chi nhiều, bài viết này tôi muốn dành tặng cho người tuổi Cọp để bày tỏ chút lòng ngưỡng mộ và cũng để giới thiệu… con Cọp trong gia đình tôi!

Mẹ tôi rất tài trong việc “sáng tạo” chúng tôi. Chị Hai tôi ở đầu con giáp, tôi là út thì nằm cuối con giáp. Duy chị Ba tôi lại giáng đúng ngay tuổi con Cọp.

Ngay từ thuở còn bé tí, chị Ba tôi đã thể hiện nét oai phong lẫm lẫm của mình. Chị quậy phá không thua gì con trai. Mẹ tôi quả rất khôn ngoan khi nảy ra sáng kiến “đẩy” chị vào học một lượt với chị Hai, dù chị chưa tới tuổi đến trường. Vào lớp, chị Hai thì học hành đàng hoàng như người ta nhưng chị Ba thì chỉ có ngồi cạnh nhong nhỏng chơi (có biết gì đâu mà học).

Thỉnh thoảng cao hứng chị “hành nghề” bảo vệ chị Hai. Nghĩa là trong lớp nếu có ai giở trò ăn hiếp chị Hai thì chị Ba liền biểu diễn ngay một màn “cẩu xực”, là cắn vào tay đối phương cho đến lúc cô giáo can thiệp mới chịu nhả ra.

Tuy vậy, dù nhỏ nhưng chị Ba có tinh thần kỷ luật khá cao. Khi cô giáo tuyên bố: “Trong giờ học không em nào được phép xin đi ra ngoài hết, nghe chưa?”. Cả lớp ngoan ngoãn dạ vân thì một lúc sau lớp học bỗng nhốn nháo vì tiếng xì xào rên rỉ: – “Thúi, thúi quá cô ơi!… Con Yên (chị Ba tôi) nó… nó…”

Cô giáo liền đến điều tra… Hóa ra chị Ba tôi bị chột bụng bất tử. Do tuân thủ lệnh cấm của cô, chị không dám xin ra ngoài và đã bỉnh ra đầy cả quần!

Cô giáo đành cho chị Hai ngưng học để hộ tống chị Ba về nhà.

Trên đường đi, chị Ba đã biết thẹn nên dặn dò chị Hai: – Ai hỏi không được nói em… ể trong quần, phải nói là em bị bệnh nha…

Dĩ nhiên chưa tan học mà thấy chị Hai tôi về sớm nhiều người thắc mắc hỏi thăm. Chị Hai tôi vừa ấp úng định kể thiệt sự tình thì bị chị Ba véo lén thật đau. Chị Hai sợ quá liền đáp nhanh: – Em con nó… bệnh ạ!

– “À ra thế!”… Những người khách gật gù và chị Ba tôi bình an trở về.

Năm chị Ba mười ba tuổi thì mẹ tôi mất. Không còn mẹ chị phải quán xuyến việc nhà cả trong lẫn ngoài vì chị Hai không đủ sức đảm đương. Chị Hai vốn thông minh học giỏi, nhưng năm ấy đang tuổi tròn trăng, lại là một thiếu nữ có nhan sắc. Do đang độ xuân thì lắm mơ nhiều mộng, chị Hai mải bận bịu chuyện điểm trang sao cho thêm duyên thêm thắm…. nên chẳng còn hồn vía đâu để lo cho bốn đứa em. Mỗi lần thấy chị Hai săm soi ngắm nghía mình trước gương, chị Ba tôi thường bình: “Diện cho cố rồi học chẳng tới đâu!”.Chị Hai tức mình phản công lại: – “Mày xấu như Chúa ôn thần trùng nên không cần diện, còn tao, tao diện là phải thôi”. Chị Ba tôi chẳng thèm đáp lại, chỉ nhún vai. Chị Hai tôi còn có máu lãng mạn cực kỳ, lúc đầu khi ba tôi giao chị làm thủ quỹ, chị thường hỏi chúng tôi (lũ nhóc chưa sạch mũi): – Mấy đứa thích đi xem phim hôn? – Thích! – Chúng tôi gào lên.

– Vậy muốn coi hát thì phải nhịn đói. Mấy cưng chịu hôn?

– Chịu!

Thế là chị làm trưởng đoàn dẫn ba đứa em (không có chị Ba) đi bộ hơn bảy cây số đến xem phim. Và khi vãn hát chúng tôi ôm cái bụng lép xẹp uống nước lã cho đỡ đói.

Ba tôi đi làm xa về thấy cách chị Hai chăm sóc em út, hãi quá… bèn giao toàn quyền “cai trị” lũ chúng tôi cho chị Ba. Chị Hai mất ngôi, buồn mấy ngày, song chị rất nể chị Ba.

Tết năm ấy nhà không có gì để ăn, chúng tôi có được ngày hai bữa cơm là quí rồi, nói gì đến bánh mứt?…. Biết không thể nào thuyết phục được chị Ba vốn có tánh cẩn thận và chừng mực về tiền bạc, chị Hai tôi liền bắt con chó đem bán cho dân nhậu ở ven sông. Được mớ tiền, chị hí hửng mua cà về trổ tài làm mứt.

Chị Ba tôi đi học về (lúc ấy trời đã mờ mờ tối), tất tả đem tiền đi chuộc con chó, vừa đi chuộc chó chị vừa khóc thút thít… rồi hai bà chị giận nhau. Chỉ có chúng tôi, đám con nít vô tư ăn mứt cà và tha hồ vuốt ve con chó, suýt nữa nó đã thành cầy quay rồi.

Dù chị Hai mê điệu, chị Ba mê học, lũ em út chúng tôi luôn được lợi. Các công tử hào hoa không ngừng ái mộ chị Hai. Bạn của chị Hai đa số đều rất hiền. Có anh khi đến thăm nhằm lúc chúng tôi dùng bữa, động lòng trắc ẩn thế nào mà sau đó, mỗi lần đến anh thường mang theo đồ “ủy lạo”, khi thì cà-mên thịt, lúc cá, lúc gà… (không biết những thứ này có được chôm từ nhà bếp của mẹ các anh hay không?), chỉ biết rằng bọn trẻ háu đói chúng tôi rất tận tình thưởng thức. Thuở ấy, tôi cứ ngỡ mình có nhiều anh, trong tâm trí tôi các anh thật tốt, thật dễ thương.

Bạn của chị Ba cũng tuyệt không kém, Các anh đến và xử sự không hổ danh “Bằng hữu thâm giao”, toàn là để học nhóm hay sách tiến nhau. Dù vậy, các anh rất quan tâm chăm sóc tôi và luôn trách hai chị tôi không để mắt tới em út. Có anh đã biểu lộ sự nóng lòng của mình bằng cách vá cho tôi manh áo rách mà nhiều ngày qua chẳng ai để ý tới. Thật ra bạn chị Ba đa số là thư sinh nghèo, rất hiếu học và đảm đang. Có lúc chị Ba tôi đã trêu các anh bằng hai câu thơ của cổ nhân:

Thân này ví đổi làm trai được ,
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!

Những lúc ấy các anh chỉ cười. Tình thật, tác phong và sự tử tế của các anh đã khiến cả nhà tôi xem các anh như những thành viên ruột thịt trong gia đình.

Ba tôi vắng nhà thường nên chị Ba kiêm luôn quyền kiểm soát mối giao hữu của chị Hai, anh nào vào nhà được cũng phải vượt qua ải của chị Ba. Lôi thôi không đàng hoàng là chị quạt… cho chạy té khói. Có một lần, sáng sớm tinh mơ đã thấy một chàng trồng cây si chị Hai tôi lảng vảng trước cửa, chị Ba liền bước ra thắc mắc: – Nè anh kia, sao hôm qua viết thư cho chị tôi nói là tim anh rỉ máu, vỡ tan từng mảnh… mà giờ còn sống sờ sờ đến đây vậy?…. Anh chàng kia mặt đỏ như gấc chín, ấp a ấp úng… rồi tìm đường lỉnh mất.

Chị Hai biết chuyện, phàn nàn chị Ba phá đám và chị thường hối lộ kẹo để nhờ lũ nhóc chúng tôi canh chừng chị Ba giùm. Chị Hai chỉ dám tiếp bạn vào lúc chị Ba vắng nhà.

Có lần chẳng biết ai gởi cho chị Ba lá thư xanh. Có dịp để trả đũa, chị Hai giành đọc rồi cười sằng sặc. Chị giơ bức thơ lên nói: – Mấy đứa xem, người ta tán chị Ba bây đẹp như… ngàn cánh bông sen! Rồi còn làm thơ nữa chứ… Ối trời! Xem họ tả nè: “Đôi mắt ấy như sao trời rực sáng”…

Chị Ba tôi cắt ngang:- Hơi đâu mà bà phí thời giờ vì bức thư lảm nhảm ấy? Lúc họ muốn tán tụng thì mấy hạt mụn trên mặt mình họ cũng nói là… mấy hạt ngọc!

– Ối! Thực tế như mày thì chỉ có nước ở giá, có nước ế!

Chị Ba nhăn mặt: – Chị xem, bạn chị đến toàn là tình cảm nhăng nhít… Bạn tôi đâu có vậy? Còn nhỏ mà cứ nghĩ đến chuyện không đâu, sớm muộn gì việc học cũng gãy đổ thôi!.

Chị Ba tôi nói đúng. Chị Hai tôi bỏ dở việc học nửa chừng vì lo vu quy sớm. Không biết đó là rủi hay may? Chẳng có anh nào đến nhà tôi được nên duyên với chị. Phu quân của chị là một anh chàng lãng tử rất đẹp trai, quê ở tận miền ngoài.

Ngày chị Hai tôi khóc sụt sùi vì buồn chuyện “vườn mới thêm hoa” của đức lang quân, thì chị Ba tôi sung sướng mặc áo Thủ khoa bước trên con đường trải đầy chiếu hoa giữa sân trường đại học. Tiếng nhạc đệm theo bước chân cô Cử cậu Cử tân khoa nghe rộn rã như lời chúc mừng! Tôi không nói quá khi kể rằng bạn của chị Ba tất cả đều thành danh. Từ đó chị Ba cũng trở thành tấm gương sáng về nết hiếu học đối với tộc họ nhà tôi.

Các bác tôi thường dạy cháu mình: – Ráng mà học như cô Yên. Giỏi như cô Yên…

Còn chị Hai, mái ấm của chị luôn có giông gió… chị thú nhận rằng mình đã trả quả cho những hành vi làm “nát tim người” ngày xưa – bằng chính khổ đau không dứt trong hiện tại – bởi ông anh rể tôi quá bay bướm – và khi anh bay tới “khu vườn” thứ… ba thì chị Hai tôi đã ngán ngẩm than: – Biết vậy thà sống như con Yên! Và chị nói với chị Ba: – Chị sai rồi, quan niệm sống của chị quá lầm! Ngày sau chị sẽ khuyên các con mình đừng giẫm lên vết xe của mẹ nó. Chị chỉ biết trau tria bên ngoài nên thu hút được đối tượng rỗng, chỉ chuộng hình thức! Khi nhan sắc tàn phai thì hạnh phúc cũng chắp cánh bay… Đây là quà tặng dành cho sự chọn lựa lầm lẫn của chị! Chị sẽ khuyên các con học thành tài như em và có lẽ, phải khuyên chúng “đừng yêu ai” giống như em!?….

Chị Hai tôi quên một điều: chị Ba tôi tuổi con Cọp.

Và thưa bạn, con Cọp là vậy đó.

(Đã đăng trên báo Giác Ngộ 80 – 1997, qua bút danh H.T.H)

***

CHÙM TRUYỆN NHƯ THỦY

ĐÔI ÁNH TRĂNG VÀNG

Bà Tham Hoạt mở cửa xe bước xuống, nhẹ vuốt tà áo dài nâu thẳm, đôi mắt có kẻ một vạch chì đen của bà khẽ liếc xuống mũi hài đen lấp lánh những hạt thủy tinh ngũ sắc, nổi bật lên sau ống quần satin trắng toát phẳng phiu. Yên tâm với dáng vẻ tươm tất ấy, bà mới với tay lấy chiếc bóp nhung đen, rút chiếc khăn mùi xoa thơm phức, vừa thấm nhẹ những vệt phấn loang trên má, vừa bảo chú tài xế: “Chú cứ đợi ở đây nhé! Tôi vào một chốc là tôi ra ngay”. Gót hài bà khẽ xoay nhẹ, đủ để ngắm chiếc bóng đẫy đà của mình hiện mờ ảo qua gương kính trong cửa xe, cần thận tránh mấy vũng nước đọng trên sân xi măng xám đen để đặt bước lên thềm chùa.

Bà hơi cau mày khi thấy ở góc mặt của gian giảng đường rộng thênh thang, nơi chiếc bàn kê dành riêng cho Tri khách, chú Tâm Minh vẫn thản nhiên ngồi chăm chú đọc những trang kinh chữ Hán chi chít, tà áo dài màu khói hương buông nhẹ trên nền gạch thẫm màu khiến cho chiếc lưng dài của chú trông càng dài thêm. Bà đánh tiếng: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!” tiếng “Phật” kéo dài hơi gay gắt như có vẻ ngầm trách sự lơ là của chú tiểu đối với mình. Chú Tâm Minh hơi giật mình, khẽ ngẩng đầu lên nhìn, chú cũng vừa nhẹ đáp: “A Di Đà Phật!”, vừa với tay lấy tờ giấy cứng ngăn trang kinh đang đọc dở, chắp tay cúi đầu xá một cái rồi xếp lại. Xong, đôi guốc mộc của chú mới khoan thai lê nhẹ trên nền gạch tiến lại phía bà khách sang trọng đang nóng nảy chờ đợi.

Sau khi mời thầy Trụ trì ra tiếp chuyện với khách, chú Tâm Minh lại rót hai tách trà nghi ngút khói đem đặt lên bàn và đứng hầu về một bên, sau lưng cụ.

Câu truyện của bà Tham vẫn tiếp tục:

– “Thầy cho con xin mười hai mâm. Vâng! vẫn mỗi mâm bốn người như mọi lần. Hơi hoa hòe một tí… ít gì cũng bảy món… chẳng là con có đến mời các chị như: Chị Đại tá Toàn nầy, chị Tỉnh Trưởng, chị Quận nầy, chị kim hoàn Vĩnh Châu… Ấy, toàn là nhà tai mắt không chứ… Thế mới khổ! Mình mà đạm bạc quá thì họ lại chê là mình kiết!…

Đến lượt chú Tâm Minh cau mày, chú nhủ thầm: “ Lại đám nữa!” Kể đã non một tháng rồi từ dạo chú mới đặt những bước chân ngơ ngác của chú tiểu miền quê xuống thành thị, trong ngôi chùa nguy nga nằm giữa đô thành náo nhiệt đầy khói bụi nòng cay nầy. Tính trung bình thì cứ hai ba hôm thì có một đám kỵ, giỗ… thân nhân của các bà bổn đạo sang trọng, quý phái. Vào những ngày ấy, sư cụ phải miễn cưỡng bỏ một thời tọa thiền sáng, cho các chú nghĩ một buổi học kinh, giảm bớt số người đi công phu khuya… để huy động nhân lực xuống nhà trù làm cỗ. Dòng tư tưởng chú bị cắt ngang bởi tiếng cười khanh khách của bà Tham, đôi vai bà rung rung đánh nhịp theo tiếng cười giòn gượng gạo, một vài con tóc mượn đen nhánh xổ xuống khuôn mặt trét đầy phấn… Chú lơ đễnh đứng nghe câu chuyện tiếp tục….

“… Con xin thành tâm cúng dường chúng tăng năm chục, để gọi là noi theo hạnh nguyện của Ngài Đại hiếu Mục Kiền Liên…”

Bà Tham ra về khi ánh nắng ban mai đã soi đến nửa khoảng sân xi măng trước chùa, sau khi quay lại nói vói một câu:

– Bạch Thầy! Thầy cho con xin các chú Tri khách nào nhanh nhẹn một tí… Vâng! Tại toàn là các bà tai mắt cả… A Di Đà Phật! Bạch Thầy con về! Chào chú ạ!

Chú Tâm Minh ngả lưng xuống chiếc đơn nhỏ vừa đủ một người nằm của mình, sau khi đã kéo đôi guốc gỗ ngay ngắn vào gầm giường, vói tay lấy chiếc y vàng cũ được thảy ra làm chăn khoác nhẹ lên người… Chú nhắm mắt, cố thở những hơi thở thật dài và đều đặn để xua đuổi phần nào cơn nhức đầu như búa bổ đang hành hạ chú, chú đã bỏ thời cơm trưa hôm nay để tiếp khách. Chú xoay người tìm một dáng nằm thoải mái để dỗ giấc ngủ… Nhưng những hình ảnh ồn ào của bữa kỵ mẹ bà Tham Hoạt hôm nay cứ chập chờn ám ảnh chú. Chú thiếp đi giữa cơn đau đầu choáng váng bên hơi nóng nồng nàn từ trên mái tôn tỏa xuống, với những hình ảnh chập chờn của các ông các bà sang trọng, các cô các cậu bé háu ăn, khó tính…. Trong giấc ngủ mệt nhọc chú vẫn thấy mình chạy tới chạy lui như một con thoi từ bàn ăn nọ đến bàn ăn kia… chỗ này một bà Quận xin thêm nước tương, bà Tá xin miếng ớt, một chú bé nhất định đòi ăn độc một món chả giò, một bà Phán đòi một túi ni lông để đem về cho cô con gái ăn thử món đồ chay lạ miệng… Chú lại thấy mình đứng giữa thành phố, đại lộ rộng thênh thang loang loáng nước mưa, ánh nắng trưa gay gắt tỏa xuống mặt đường bốc lên mùi hăng hắc… rồi chú thấy mình bị đưa vào một căn phòng, có những chiếc cầu thang xoáy trôn ốc, nhìn đến choáng váng, những âm thanh nói cười vang vào phòng, đập vào bốn bức tường rồi lại dội đến màng tai chú, quyện lấy chú như một cơn lốc cuộn lá vàng, tiếng cười, tiếng mời mọc, tiếng tâm sự, tiếng kể lể than thở của các bà khách hòi sáng vẫn còn vương trên vầng trán cao, xanh xao và hơi mệt mỏi của chú, bà nầy khoe có cậu con trai mới lên Đại úy, bà nọ than mới bị giựt hụi, dăm bà khác đồn có một ông Phật sống nào vừa hiện ở Tây Ninh, rồi tiếng chào hỏi, đon đả ríu rít của các bà như hét vào màng tai của chú, xốc chú dậy, chú ôm đầu, dựa chiếc lưng ướt đẫm mồ hôi vào tường, thở mệt nhọc… Ủa! Lạ chưa! Những chuyện đó có ăn nhập gì tới mình đâu. Sao mình cứ nhớ hoài vậy hả Tâm Minh, mình xuống đây để học mà?… chuyện của mình là những trang kinh sách, những thời tham thiền, những giới luật, những oai nghi tế hạnh, tà áo lam bạc của mình đâu có vướng vít gì đến những chiếc xe hơi bóng lượn của các bà, những y trang sang trọng của các cô?… Nhưng, sao đầu mình lại nhức như búa bổ thế nầy, ruột gan cứ nôn nao… A! Sáng giờ mình có ăn gì đâu… chú mở mắt, khẽ lắc đầu để xua đuổi những dòng tư tưởng mệt mỏi đang ám ảnh mình… nhìn chung quanh liêu… các bạn đồng liêu vẫn chưa về phòng… Trừ chiếc đơn của chú, sáu chiếc còn lại đều trống trơn với những chiếc gối trắng ngà xếp ngay ngắn ở đầu đơn… Lắng nghe tiếng máy xe rồ… chú nghĩ chắc tiệc cũng đã tàn rồi, các bạn chú giờ đây chắc rối rít bưng chén, dọn bàn, quét nhà… Nhóm hành đường, tri khách đang rửa chén và trên giảng đường thênh thang sư cụ vừa tiễn xong người khách cuối cùng, đứng đăm chiêu nhìn khoảng sân rực nắng, nén tiếng thở dài rồi lê đôi guốc mộc về phòng…

Có tiếng dép thầy Tri chúng đi vào liêu, tiếng thầy cất lên dịu dàng:

– Tâm Minh răng rứa! Đau hở? Có ăn chi chưa?

Bàn tay mát rượi của thầy đặt trên vầng trán phẳng hừng hực nóng của chú… rồi chú được nâng dậy, uống một tách sữa, mấy viên thuốc cảm. Thầy tri chúng nhẹ nhàng kéo chiếc khăn mỏng, khoác lên người chú xong, mới lùi gót về phòng mình.

*

Chú tiểu ghé vai đặt gánh củi xuống sườn đòi, chọn một miếng đá phẳng bên vệ đường ngồi xuống… chú kéo tà áo nâu bạc thít lên lau những giọt mồ hôi rịn ra trên gương mặt đỏ hồng vì nắng, lột chiếc nón lá trên đầu xuống phe phẩy quạt, chú phóng tầm mắt nhìn dòng sông bạc trắng lượn quanh co trong ngôi làng xa xa dưới chân đồi, những mái tranh nằm yên ngủ dưới nắng trưa, sau mấy hàng cau lặng gió… chú mỉm cười bâng quơ với tiếng cà cưỡng hót lanh lảnh trên mấy cành sao cao ngất, mấy chú chim sâu nhỏ bé đang nhảy nhót trong bụi chùm rụm bên đường, vài con rắn mối bò sột soạt trên đám lá tre khô. Đồi núi thênh thang hun hút với những cành sao xum xuê xanh lá, dặt dìu tiếng hót của mấy chú chìa vôi, sáo sậu… thỉnh thoảng vang vạng lên tiếng chuyện trò của những người dân quê đi mót củi lạc lõng trong gió… vài làn gió mát thoảng đưa từ đồng ruộng như dỗ giấc ngủ cho chú tiểu, chú tựa lưng vào một thân sao sù sì, khép chặt mắt trong xanh trẻ thơ, hồn nhiên ngủ giữa tiếng xào xạc của lá cành, tiếng ríu rít của bầy chim, bàn tay chai cứng hờ hững nắm chiếc nón lá bung vành.

Chú giật mình tỉnh giấc vì một chú sóc dạn dĩ bò qua vai, phe phẩy chiếc đuôi xinh đẹp trên mặt chú, chú nhặt nón đứng dậy, hơi hốt hoảng nhìn mặt trời đã chếch bên lưng đồi, đặt gánh củi lên vai và đôi bàn chân trần của chú lại thoăn thoắt lên đồi, trên những chiếc bóng lung linh của mấy cành trúc bên đường như dài thêm trong không khí hoang vắng, yên tĩnh của núi đòi.

Ngôi chùa rêu phong cổ kính nằm chênh vênh trên đồi cao, đón nắng nồng ban trưa, gội sương khuya hay trăng thanh buổi tối dường như đã được dựng lâu lắm rồi, cứ nhìn đôi mày bạc phếch của sư cụ thì biết… Chùa vỏn vẹn có năm người: Sư cụ, một bà lão làm công quả cùng ba chú tiểu thơ ngây, hiền hậu. Ngần ấy người sống thanh đạm bên nhau với những nồi cơm trộn khoai sắn, những hũ tương, chao pha thêm nước muối hoặc những buồng chuối chín cây ngọt ngào. Thế nhưng cứ nhìn dáng dấp trầm tư của sư cụ bên những trang kinh mỏng nhánh cũ kỹ, hay những đêm người ngồi tham thiền trong liêu, tà áo nâu đen thoang thoáng ánh trăng tò mò dòm qua mái ngói, những đôi mắt trong xanh vô tư và làn da hồng hào rám nắng của các chú tiểu, ai cũng thầm ước ao được sống một cuộc đời bình dị, trầm lặng trên đồi sao heo hút ấy. Ngôi chùa thanh tịnh chỉ hơi rộn rịp vào những ngày rằm, ba mươi hoặc ngày vía… bước chân kính cẩn của những người dân quê cần cù, hiền lành, nhẹ gót trên xác lá bên đường, họ đem dâng cúng chùa bằng tất cả những nông sản gì mà họ có, một thúng khoai lang hay khoai từ mới vỡ, vài lít nếp còn thơm nắng, rổ rau má xanh tươi hay những trái bí ngô vàng mới. Trong những ngày lễ lớn họ tụ hợp lại, làm cỗ chay với những phẩm vật của họ mang đến, mời mọc nhau, vừa ăn vừa lắng nghe một bà lớn tuổi kể chuyện cổ tích nhà Phật, chắc lưỡi khen những gương từ bi của chư tổ, rùng mình với mười hai cửa ngục trong chuyện Mục Liên Thanh Đề… Và rồi, những ngày hôm sau ngôi chùa lại thanh vắng trong rừng sao xào xạc, sư cụ lại ngồi bên trang kinh bỏ dở, ba chú tiểu chia nhau các công việc thường ngày, ê a các trang kinh hay xúm xít bên sư cụ học hành… trong khi bà Hai già thơ thẩn bên gác chuông hoặc vãi những nắm thóc cho bầy chim sẻ ríu rít ngoài sân…

Nhưng rồi, khi những mái tranh ở ngôi làng bốc lửa, những hàng cau xanh tươi ngã gục vì đại bác, dân làng nheo nhóc bồng bế nhau về thành thì rừng sao cũng xao xác lá, các chú chim non mất tổ bỏ đi mất rồi, sư cụ phải lê gậy trúc xuống đồi xót xa nhìn hai nấm mồ con con của hai chú tiểu thơ ngây, Bà Hai già nhất định sống chết với chùa và chú tiểu gánh củi ngủ bên cội sao hôm nào cũng tất tả lê bước chân ngơ ngác về thành…

*

Chú Tâm Minh giật mình tỉnh giấc, mồ hôi toát ra ướt đẫm cả chiếc áo dài lam, tiếng muỗi vo ve trong bóng tối, cùng tiếng đại hồng chung trên chánh điện vọng xuống như nhắc cho chú biết trời đã tối rồi. Chú bật dậy, ngồi kiết già, nhẩm đọc:

Văn chung thinh phiền não khinh
Trí huệ trưởng bồ đề sanh
Ly địa ngục xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật độ chúng sanh…

Cơn đau buổi trưa đã vơi đi theo giấc ngủ dài cùng mấy viên thuốc cảm. Chú cảm thấy mình nhẹ bồng bềnh và thương nhớ vu vơ… ngôi chùa quá khứ trong giấc mơ khiến chú nhớ quay nhớ quắt… Bây giờ chắc chùa xưa vẫn nằm yên ngủ trong rừng sao xơ xác rụng lá, thuốc khai hoang có lẽ đã làm rừng bạc lá khô cành, những hàng kẽm gai đã cô lập ngôi chùa, chiếc đại hồng chung lại im lìm phủ bụi… nhớ hồ sen trong một đêm trăng sáng hôm nào, chú đứng trên bờ hồ nhìn nền trời xanh in dưới nước, bâng khuâng không biết mình đang đứng trên mặt đất hay chơi vơi giữa hư không vì trên đầu là trời xanh và dưới chân cũng có trời xanh và cũng tại hồ sen ấy hai chú tiểu thơ ngây trạc tuổi chú đã ngã gục vì những viên đạn vô tình, nấm mồ của họ có trôi đi theo những cơn mưa lũ không nhỉ?….Còn bà Hai bây giờ còn lẩn thẩn ngoài sân với bầy chim sẻ cùng những hạt tấm gạo nữa không?… ôi! Nhớ sao là nhớ, ruột chú cồn cào vì đói, và vì nhớ vì thương… “ơ hay! Chư pháp đều vô thường mà sao mình lại si mê thế kìa”… chú tự nhủ và khoác chiếc áo tràng lam lên phòng sư cụ. Bên song cửa sổ, sư cụ đang ngồi, nhìn vầng trăng thượng tuần nhạt nhẽo nằm chênh chếch sau mấy dãy lầu cao, vầng trăng hôm nào đã tò mò len lòi rải những ánh vàng trên áo sư cụ trong ngôi cổ tự, ánh trăng nào vuốt ve đôi má các chú tiều hồng hào thơ ngây… Sao bây giờ trăng cũng vô duyên lạc lõng giữa thành đô xa lạ, âu sầu với ánh điện sáng choang… chỗ của trăng là đòng lúa thênh thang, là mái rạ, là rừng sao, là hồ sen kia mà… Chú Tâm Minh thấy má mình ươn ướt, chú đã khóc tự bao giờ, chú vội vã bước đến quỳ bên sư cụ, người quay lại thẩn thờ đặt bàn tay gầy gò lên vai chú cả hai đều nhìn trăng… và dưới ánh sáng yếu ớt của nó, hai đôi mắt: Một già, một trẻ cùng long lanh.

Tháng 8-1972

***

VỞ KỊCH CUỐI CÙNG

Viên Tú quấn lại chiếc y vàng quanh người cho tề chỉnh rồi dõng dạc ra lệnh:

– Bây chừ thì ta đóng vai đức Phật, điệu Tâm làm Da Du Đà La, nhưng mà…ấy ấy… chớ có thỉnh thoảng lại xốc quần lên như thế, điệu Hy làm Xá Lợi Phất… điệu Minh bé nhất thì làm La Hầu La vậy, nhớ gắng đừng nói ngọng nghe chưa…

Và quay sang đám thính giả quen thuộc đang ngồi chồm hổm trước mặt, chú hắng giọng:

– Dạ kính thưa quí vị! Hôm nay đoàn ca kịch Sen Vàng chúng tôi xin hân hạnh trình diễn vở tuồng “La Hầu La xuất gia”, vở tuồng nầy… ý quên vở kịch nầy chúng tôi đã phóng tác và diễn nôm từ bài học phổ thông hôm qua, chắc quí vị đều nhớ rõ. Nhưng chúng tôi cũng xin mạn phép sơ lược cốt truyện: Dạ, kính thưa quý vị! Vào thuở xa xưa sau ngày thành đạo, đức Phật bắt đầu thuyết pháp, ánh đạo vàng được rải khắp muôn phương, nơi nơi đều thấm nhuần pháp nhũ. Thế mà, La Hầu La con ngài, vẫn chưa nếm được giọt nước cành dương nào. Vì thế, Ngài mới sai Xá lợi Phất về kinh thành độ cho La Hầu La xuất gia. Tôn giả Xá Lợi Phất hăm hở ra đi nhưng đành tiu nghỉu trở về vì gặp phải cơn thịnh nộ của bà Da Du. Bà cương quyết không bằng lòng, viện lẽ rằng đức Phật đã làm bà cạn nước mắt vì khóc chồng thì ngày nay không còn lý do gì bắt bà phải khóc con lần nữa… Kính thưa quí vị, La Hầu La có xuất gia được hay không? Bà Da Du có còn trách móc đức Phật nữa không? Đoạn kết sẽ giải thích cho quý vị. Bây giờ…

Viên Tú ngừng giọng, đưa tay vuốt chốm tóc môi đang lòa xòa trước trán. Đảo mắt nhìn vẻ nôn nóng của khán giả, chú hài lòng khi thấy mình ăn nói thật chải chuốt và lưu loát… Sư cụ vẫn thường khen là chú cỏ tài hùng biện kia mà! Vuốt lại chòm tóc môi lần nữa, chú hắng giọng định ra lệnh mở màn thì điệu Tâm, với một cành ngọc lan dắt ở mang tai, đưa ngón tay trỏ lên môi suỵt suỵt mấy tiếng rồi cất giọng đe dọa:

– Ai mà làm um sùm ấy nghen… Lần sau không cho coi nữa… Điệu Hy cũng tiếp lời sau khi cẩn thận đưa tay quẹt ngang cọng mũi xanh thò lò trước mũi.

– Cái mà… cái mà bây giờ là chỉ tịnh…coi chừng thầy “ta chúng”… cái mà… quỳ hương ấy nghe!

Điệu Minh nhảy tưng tưng lên la: “Tồng ý, tồng ý” phụ họa với đám thính giả tán thành làm tuột mép cả chiếc mền bá nạp, được dùng làm xiêm áo cho La Hầu La, vài chú chim sâu đang nhảy nhót trên bụi ngâu gần đó cũng thận trọng nghiêng đầu nghe ngóng. Và vở kịch bắt đầu trong khi nắng trưa vàng rực trên mái Tam Quan. Vở kịch đã thành công ngoài sức tưởng tượng dù các diễn viên không hề tập dượt trước, mặc dù chú điệu Minh thỉnh thoảng phải ngừng nói để xốc lại chiếc quần vải nâu mới toanh dài chấm gót, dù chú điệu Hy cứ quẹt mũi trước khi cất giọng, dù điệu Minh cứ nói ngọng vần T thành Đ, khán giả vẫn vỗ tay đôm đốp và ôm nhau cười bò lê dưới đất.

Còn chú Viên Tú, vị nguyên nhung trong đám khu ô sa di dĩ nhiên là nhất rồi. Thanh âm trong trẻo của chú vút lên tận mấy cành cây cao ngất làm ánh nắng trưa phải len lỏi ghé mắt dòm qua những tàn lá rậm rạp, thì thầm bàn tán với làn gió từ trên đồi thoảng đến… Chú nắm nhẹ chéo y vàng, đưa tay phân bua với Da Du Tâm đang nằm ăn vạ đưới đất:

– Thôi đi, nầy mụ Da Du, ta nói cho mụ biết… kìa kìa mụ chớ có khóc lóc nữa, lau mặt mũi cho sạch đi đã… Đọ… Ví dù mụ có khóc lóc cho đến chiều thì nước mắt của mụ giỏi lắm cũng chỉ hứng đầy một chén chung, mụ khóc cho đến tháng sau… nó cũng chỉ đầy một tộ, mụ khóc cho đến chết… nhiều lắm chỉ được một lu… còn nước mắt của chúng sanh ấy… mụ biết hông, nó mênh mông như đại hải… mụ thử so sánh xem bên nào nhiều hơn, bên nào ít hơn rồi hãy trách ta chứ…

Da Du Tâm vừa hả miệng định đáp thì bỗng có tiếng nói the thé… của chị Năm công quả:

– Chèn đét ơi! Hết nước rồi! Bộ hết chỗ để trửng giỡn rồi hay sao mà mấy điệu lại đến bên lỗ tai của sư cụ mà hét chứ hả?

– Hả! Chị Năm nói cái gì chị Năm?

Các điệu hớt hải nhao nhao lên hỏi. Chị Năm nghiêm mặt, đặt rổ rau bình bát xuống đất, chọn một phiến đá phẳng và chậm rãi lột nón lá xuống phe phẩy quạt… Xong, chị mới nhướng mắt nói:

– Mấy điệu giả ngộ với tui sao chứ! Dòm coi ai ngồi đằng sau cây vú sữa kìa… Đọ! Coi tui có nói láo mấy điệu hôn…

Nhóm khu ô sa di rụng rời… nhìn nhau như mếu… Thôi rồi, chắc Tổ hay là Long thần hộ pháp trác mấy chú rồi. Tưởng đâu chọn nơi thanh vắng, tránh được cặp tai rất thính của thầy Tri chúng thì gặp phải Sư cụ, Viên Tú nói như khóc:

– Chết rồi chị Năm ơi! Tụi em đâu dè… tưởng cụ ngủ trong liêu chứ…

– Bộ trời nóng, mấy điệu không cho cụ ra ngoài vườn sao? Vậy mới bỏ tật trưa kéo nhau đi dang nắng… cho mấỵ điệu tởn tới già nghen!

Viên Tú quay lại cằn nhằn điệu Tâm:

– Sao hồi nảy, cái mà…Tâm đi lựa chỗ lại không dòm cho kỹ… Bây giờ như vậy đó… thấy chưa?

– Ơ! Em có coi kỹ chớ! Mà em quên dòm chỗ cây vú sữa… với lại…

– Thôi! Mấy điệu ờ đó mà đổ thừa… ai cũng ngon hết á…tui đi hái rau đây… Điệu Tú đó, nhớ bữa hổm hông mà bữa nay còn cù rủ mấy điệu ra đây… Nói xong, chị Năm ngoe ngoẩy cắp thúng đi.

Viên Tú thở dài sườn sượt khi nhớ ra bọn chú bị quỳ hương về tội nầy cách đây chưa đầy ba hôm, chú ngán ngẩm nhớ lại khung cảnh buồn thiu hôm trước: Điệu Tâm và điệu Hy quỳ hai bên chú sụt sịt khóc, mấy điệu hàng sau cũng hỉ mũi rồn rột. Trên bàn thờ tổ Đạt Ma quảy tòn ten chiếc dép nhìn chú mỉm cười hóm hỉnh. Hai đầu gối đau buốt run rẩy mà vẫn chưa được lệnh tha. Mãi đến khi con trăng thượng tuần tò mò dòm vào nhà tổ, bọn chú mới lục đục kéo nhau về dãy hiên dành riêng cho nhóm khu ô sa di.

Chú lại càng điếng người khi nhớ đến hôm nay là phiên mình hầu sư cụ… chết rồi! Sao mà lúc trước chú mê muội thế nào thì bây giờ chú lại sáng suốt thế ấy không biết… chú giận mình hết sức… cứ mỗi lần gặp phải đôi mắt dò hỏi, rủ rê của mấy chú điệu là chú quên tuốt hết, quên giờ quỳ hương dài đăng đẳng, quên những trận đòn quắn đít đau ghê… quên cái cảnh tượng mấy điệu nằm tỉ tê khóc trên phản nhà trù rồi ôm nhau ngủ khò. Lần trước, thầy Tri Chúng chẳng mắng chú là thằng to đầu mà nghịch là gì… “Chỉ cần cột chân cái thằng bợm ni là tụi kia êm ru hết”…

Nhìn mấy khuôn mặt đưa đám chung quanh Viên Tú càng thêm sốt ruột. Trong khi đó, trên một phiến đá phẳng dưới cội vú sữa xum xuê cành lá, sư cụ vẫn ngồi điềm nhiên trong tư thế kiết già, đôi mày bạc vẽ một đường cong xếch trên khuôn mặt bình thản… Cây gậy trúc nằm ngoan ngoãn trước đôi guốc mộc… Tất cả đều trật tự đến vô tình, chỉ có chiếc nón lá rộng vành của sư cụ đang bò lê dưới đất, ngúc ngắc theo chiều gió như trêu chọc các chú.

*

Viên Tú rón rén bước đến chắp tay hầu bên sư cụ. Tựa án thư, thân hình gầy gò như thêm gầy gò sau chiếc sau chiếc áo rộng thênh thang… chú len lén đưa mắt nhìn trộm Ngài để thăm dò tầm mức cơn thịnh nộ… nhưng giọng sư cụ vẫn ôn tồn như thuở nào?

– Con lấy ít nước mưa, mài mực cho ta viết vài chữ…

Chú dạ thật nhỏ và riu ríu làm theo lời Ngài dạy. Rồi thì, dưới ánh bạch lạp rung rinh, trên mảnh lụa vàng ánh, cây bút bay lượn thật nhẹ nhàng qua bàn tay xương xương của sư cụ. Chú lẩm nhẩm đọc hai bài Hán tự với nhưng nét đá móc thật đẹp:

Hoằng pháp vi gia vụ
Lợi sanh vi bổn hoài…

Sư cụ xoa tay gác cây bút ngang nghiêng mực, ngắm nghía hồi lâu rồi bảo chú:

– Con giải thích hai câu nầy cho ta nghe thử!

– Dạ, bạch thầy… con chỉ hiểu sơ sơ thôi…

– Ừ, hiểu sao mà nói vậy!

– Dạ, bạch thầy… nghĩa là…a…a… làm lợi ích chúng sanh là tâm niệm thường ôm ấp… của…của… cũng của kẻ tu hành luôn ạ!

Sư cụ nén cười, gật đầu bảo:

– Ừ! Thôi cũng tạm! Ta cho con đó. Đem xuống nhà đi hĩ! Nhớ đắp mền cho kín ngực, trời độ rày nhiều sương mà mấy điệu ngủ lại để cửa ngõ…

– Bạch thầy mấy điệu bảo đóng cửa tối om om thì có ăn trộm vào chẳng biết ạ!

Sư cụ bật cười:

– Ừ! Cũng phải, để ngõ trống cho hắn có vào thì biết đường mà khiêng mấy điệu đi. Thôi cho điệu Tú xuống ngủ.

Viên Tú ngỡ mình đang nằm mơ… nhưng chắc là không phải, chiếc mùng trắng ngà lỗ chỗ đang đong đưa theo cơn gió thoảng của cửa sổ đây nầy, tiếng thằn lằn chắc lưỡi cùng tiếng mớ ngủ của mấy chú điệu nghe rõ mồn một trong đêm vắng… Hai câu Hán tự chưa ráo mực mắc trên vách còn đang uốn mình theo gió, và ngoài kia ánh trăng thật sáng, loang loáng trên mấy lá ngọc lan. Như thế là chắc hẳn không phải nằm mơ rồi. Lần đầu tiên chú mất ngủ… và trằn trọc bứt rứt chi lạ. Hình ảnh chiếc vỏ rắn lột nằm vắt ngang qua bụi trúc bỗng hiện lên ám ảnh chú. Hay là mình cũng sắp lột vỏ như hắn đây. Chú bật cười khi hình dung đến một cái vỏ mỏng dánh của bợm Tú, hẳn là có đủ cả đầu mình tứ chi và cả một chòm tóc môi nữa là. Một cơn gió thoảng đến làm khua xào xạc mấy tàu lá chuối ngoài hè… chú lắng nghe hình như có tiếng guốc lê thật nhẹ đến gần… và một bàn tay gầy gò đặt trên chòm tóc môi của chú một chiếc khăn mát rượi phủ lên đến ngực, chú nghe Sư cụ thì thầm:

– Tụi mi thì rứa đó! Nghịch ngợm cả ngày… tối đến đạp tốc mền, tốc chiếu ra… đánh nứt đít chẳng chừa, nhất là cái thằng bợm ni!…

Viên Tú nhắm nghiền mắt lại, trên đôi mi đen thẳm của chú vương vãi mấy hạt lệ… Đợi cho tà áo nâu của sư phụ khuất hẳn sau tấm phên chắn gió, chú bật dậy, quì gối chắp tay, bệu bạo nói:

– Kính bạch thầy! Vở kịch hôm nay nhất định là vở kịch cuối cùng.

Tháng 3 -1973

***

BÊN CỔNG TRƯỜNG

Khi hay tin tôi nhận dạy thêm giờ giáo lý cho mấy lớp Trung học trong trường, các bạn đồng nghiệp giàu kinh nghiệm của tôi đều nở một nụ cười hơi khó hiểu. Họ có vẻ muốn nói điều gì đó nhưng lại thôi. Qua thái độ úp mở của họ, tôi cũng đủ thông minh để thoáng hiểu ra rằng mình đã “lỡ dại” nhận một môn học mà tất cả giáo sư trong trường đều “chạy mặt”.

Trong cái xã hội xô bồ nầy, đạo đức gần như là một thứ xa xí phẩm không cần thiết lắm. Thời buổi ngày nay mà nói chuyện đạo đức, chân lý thì còn gì “cổ lỗ sĩ” bằng. Hơn nữa, chức giáo sư của môn giáo lý thường không cần bằng cấp học vấn ngoài đời, và bọn học trò tuy nhỏ nhưng cũng đủ khôn ngoan để lựa chọn một thái độ lễ phép tương xứng đối với bằng cấp của ông thầy. Bằng tất cả niềm e ngại ấy, tôi đã đặt những bước chân ngơ ngác đầu tiên xuống sân trường với một ít kiến thức tạp nham về Phật học cộng thêm một tự ty mặc cảm của một kẻ phải đem tất cả gia sản quý báu của mình đi bán rao ngoài chợ.

Trong những buổi học đầu tiên ở các lớp đệ nhất cấp, tôi ngao ngán khi nhận ra rằng hình như hầu hết các bạn hàng tí hon của chợ “chồm-hổm” quen thuộc trước chùa đều góp mặt khá đầy đủ trong các lớp học của tôi. Bên cạnh các cô bạn hàng đanh đá và chua ngoa không kém các bà hàng thường bắt nạt tôi ngoài chợ ấy, tôi còn thấy lác đác vài cô phụ hồ với chiếc quần đen mốc trắng và đôi chân lở loét vì xi măng ăn, những đôi tay đen, đỏ hoặc tím thẫm của mấy cô thợ sơn dép, dăm ba cô bán vé số và khá nhiều cô bán quà vặt ở các bến xe… Nếu kể về kinh nghiệm sống có lẽ bọn học trò nhỏ bé của tôi còn dày dạn, khôn ngoan và từng trải hơn tôi gấp bội. Cầm phấn đứng trước bảng đen, tôi phân vân không biết nên lựa chọn các bài học như thế nào để khỏi đụng chạm đến “phạm vi nghề nghiệp” của bọn học trò. Giáo lý nhà Phật không bao giờ khuyến khích việc sát sanh, điều này e mích lòng mấy cô hàng cá và dăm “bác” thợ câu vẫn thường thường vác cần câu đi cắm ngoài ruộng. Bài học sẽ bảo rằng chẳng nên nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói thêu dệt, nói lời hung ác… thì e rằng các “bạn hàng” trong lớp đều bất bình. Không nói dối, không thêu dệt thì làm sao bán hàng, không nói lời hung ác làm sao tranh sống ngoài chợ, một môi trường đòi hỏi bọn học trò thơ dại của tôi phải giỏi và chuyên nghiệp cả võ chân lẫn võ mồm hơn là thuộc bài giáo lý? Tôi bỗng đâm ra lo ngại bâng quơ và chợt hối hận vì đã nhận dạy một môn học mà không ngờ nó tương phản với thực tế như thế nầy. Bài học đầu tiên được chép lên bảng trước những cái vòng tay rất ngoan của học trò, chúng lẳng lặng lấy bút vở ra chép, tôi hơi mừng thầm khi thấy công việc khá “xuôi chèo mát mái”, nhưng đến lúc giảng bài, tôi có cảm tưởng như mình nói mình nghe, những danh từ giáo lý khô khan của nhà Phật hoàn toàn xa lạ với lũ nhỏ. Đạo Phật đối với chúng không gì khác hơn những cái bùa, sợi niệt, những con quỷ đầu trâu mặt ngựa dưới thập điện… hay tệ hơn là các bà thường trụ tay cầm chuỗi, tay xách chổi rượt chúng trong vườn chùa.

Mỗi lần đi dạy về, tôi thường len lén nhìn lên pho tượng Đức Thế Tôn đang ngồi trầm tư dưới ánh sáng lung linh của hai ngọn nến mà tủi hồ muôn phần, ôi! Giáo lý vô giá mà Ngài đã bỏ biết bao thân mạng trăm nghìn muôn A tăng kỳ kiếp nay lại bị đứa đệ tử bất hiếu nầy đem bán rao ngoài chợ mà… chẳng có ai mua.

Sau, mấy tuần lễ suy nghĩ tìm phương kế, tôi đã quẳng tất cả các cuốn “Đắc nhân tâm”, “Cách xử thế”, “Phương pháp dạy học”, “Tâm lý trẻ con” cùng các sách giáo lý vào kẹt tủ để trở lại phương pháp dạy dỗ mà cách đây hai mươi lăm thế kỷ đức Phật đã từng áp dụng với các ông Ấn Độ khó tính: vấn đáp.

Không khí lớp học bỗng trở nên sôi nổi và hào hứng bất ngờ. Bọn học trò nhỏ của tôi không còn chuyền tay nhau các đốt me chua, dăm trái chùm ruột hoặc nhìn mây trôi lơ lửng ngoài cửa sổ nữa, mà trái lại, chúng hăng hái tham gia vào công việc chất vấn cô giáo mới một cách thích thú – thích thú như được tham dự một trò chơi nghịch ngợm trong giờ học. Nạn nhân đầu tiên của phương pháp dạy học mới mẻ nầy không ai xa lạ mà chính là tác giả của nó. Suốt hai tuần lễ, tôi phải xoay sở đủ cách để giải đáp các thắc mắc không có trong sách hay bất cứ cuốn vở soạn bài nào của tôi:

– Dạ thưa cô! Sao cô hỏng mặc áo dài nâu mà mặc áo lam?

– Cô ơi! Sao có lúc cô mặc áo dài màu đà, có lúc mặc áo lam mà cô không quấn vải vàng như cái ông ôm cái chậu gì đi ngoài chợ?

– Cô ơi! Sao cô cạo tóc chi vậy?

– Cô có được đi coi hát không cô?

Hết các thắc mắc về cá nhân cô giáo mới, chúng xoay qua hình tượng, pháp khí bày trong chùa:

– Cô ơi! Sao cô nói ông Phật có tới 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, mà tại sao cái ông Phật trên chùa… bụng bự “tổ bà chảng” hỏng “đẹp trai” chút nào hết vậy cô?

Hoặc:

– Tại sao ổng có mấy đứa con nít đeo chung quanh chi vậy cô?

Hay:

– Cô ơi! Cái mõ để làm chi, cái chuông để làm chi vậy?

– Tại sao phải đốt nhang?… phải đeo niệt?

Cứ thế, hễ đến giờ giáo lý là những tiếng “cô ơi” “Chi vậy cô”, “Sao vậy cô”, “Kỳ vậy cô” nhao nhao lên khắp nơi, tôi phải chật vật lắm mới giải đáp những câu hỏi “kỳ cục” nhưng hữu lý ấy. Sao hai tháng “cô ơi:’ tôi mới đưa được các bài giáo lý trong chương trình học vào đề. Bọn học trò bé bỏng của tôi xem ra rất khó tính, chúng đòi người dạy phải thực hành ngay những điều đã dạy hơn là lý thuyết suông. Nhờ thế mà từ ngày đi dạy cái môn học “lạ lùng” nầy, tôi đâm ra tề chỉnh, đạo mạo hơn, Sư cô Tri chúng ở chùa cũng ít quở tôi về các oai nghi tế hạnh, và các điệu cũng buồn bã không ít vì các trò chơi nghịch ngợm không còn có tôi tham dự nữa. Có lần, khi dạy đến các nghi thức tụng niệm trong chùa, có một đứa học trò lớp tám đã đứng dậy hỏi:

– Sao cô dạy tụi em là trong những lúc lên điện Phật phải thành kính, trang nghiêm mà thấy mấy ông thầy ở chùa gần nhà em vừa tụng kinh vừa nhịp chân hở cô…?

Trước những câu hỏi ngây thơ nhưng khó trả lời như thế, tôi đành đem tinh thần tự do và tự giác trong nhà chùa ra mà giảng giải, rằng Phật không bắt buộc ai phải làm theo lời Ngài dạy, rằng không có sự chỉ trích, kềm thúc trong nhà chùa mà chỉ là mỗi người tự nguyện theo giới luật của cuộc sống giải thoát, rằng “Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi”…vv… và vv…

Khổ nỗi, bọn học trò của tôi tuy đã phải bôn ba tranh sống ngoài chợ đời quá sớm, nhưng chúng vẫn chưa đủ lịch lãm đề hiểu phép “ lịch sự” hay vị tình cô giáo bất cứ những gì thắc mắc, nghi vấn chúng đều nêu lên và đã hỏi là phải hỏi cho tới cùng. Vì thế, tôi khó mà “ngụy biện” và khổ sở không ít trước những câu hỏi hóc búa, phi văn tự của chúng. Chẳng hạn như khi giảng về hạnh đại bi của Bồ tát Quán thế Âm, bọn học trò tôi xem ra thích vị Bồ tát sẵn sàng giúp đỡ mỗi khi chúng cầu cứu tới Ngài lắm. Nhưng không vì thế mà chúng không thắc mắc:

– Thưa cô, tại sao Bồ tát Quán thế Âm phải đợi tụi em kêu tới mới đi cứu? Giả dụ như bây giờ cô đi qua đường cô gặp tụi em bị tai nạn thì cô giúp liền chứ đâu có đợi tụi em kêu. Vậy mà tại sao Bồ tát… đã là Bồ tát thì phải từ bi hơn cô chứ! Mà từ bi thì sao không chịu cứu chúng sinh khổ mà đợi người ta kêu mới tới cứu hả cô?…

Tôi gần như tắc họng trước câu hỏi quái ác nầy. Nhưng không lẽ đem cái lý “Nhĩ căn viên thông” trong kinh Lăng Nghiêm ra để giảng giải cho chúng hiểu. Cả lớp học cũng quay sang biểu đồng tình với cô bạn vừa hỏi, bỏ mặc cô giáo đang đứng toát mồ hôi tìm kiếm một giải thích sao cho ổn thỏa. Sau một lúc chật vật moi móc trí nhớ, tôi mới lôi ra được một thí dụ khá “ khế cơ” và “khế thời”:

– Các em biết đài phát thanh Sài Gòn không?

– Thưa cô biết.

– Ừ! Đài phát thanh của chính phủ phát ra mỗi ngày 24 giờ, tức là suốt ngày ấỵ, chính phủ có định phát thanh cho riêng một số người nào hay là cho tất cả mọi người cùng nghe…

– Thưa cô, cho tất cả… ạ!

– Nhưng mỗi người muốn bắt được làn sóng điện của đài phát thanh, muốn nghe được chương trình của đài thì phải cần có gì?

– Thưa cô, phải có radio.

– Ờ! Các em thấy đó, đài phát thanh chẳng có thiên vị một người nào mà trái lại đài còn có lòng tốt muốn cho mọi người đều được nghe chương trình của đài…, nhưng ai muốn nghe thì phải có radio mới được. Cũng thế, lòng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm đối với muôn loài như nhau, Ngài không thiên vị hay bỏ quên một ai. Nhưng chúng ta phải niệm đến danh hiệu của ngài để cầu sự cứu giúp giống như muốn nghe phát thanh thì phải mua radio vậy. Lúc em nghĩ tưởng đến lòng từ bi của Bồ tát, kêu cầu đến danh hiệu của Ngài, tức là lúc em mở nút radio để nhận lan sóng tình thương của Ngài đó.

Lớp học tỏ vẻ thỏa mãn và “chịu” đức Bồ Tát “bình dân” nầy lắm. Trước khi ra về, tôi đề nghị cả lớp cùng nhau niệm danh hiệu của Đức Bồ tát ba lần, và tôi đã đọc được niềm tin tựởng phảng phất trong những đôi mắt thơ dại của chúng.

Trong buổi học kế tiếp, sau năm phút điểm danh, một cô học trò nhỏ đưa tay xin phát biểu ý kiến:

– Thưa cô! Hôm trước cô thí dụ về cái radio… Tụi em chịu lắm. Nhưng nếu cái radio hàng xóm mở, tụi em nghe “ké” được… thì giả tỷ bây giờ bạn em niệm danh hiệu đức Quán thế Âm, em có “ké” được không cô?

Tôi và cả lớp bật cười trước câu hỏi ấy, bọn học trò của tôi không bao giờ bỏ qua một việc gì mà chúng chưa thỏa mãn. Cô bé có vẻ không bằng lòng khi thấy cô giáo và các bạn xem thường câu hỏi của mình, thấy nó ấp úng định nói thêm, tôi vội đưa tay ra hiệu cho nó ngồi xuống và đáp:

– Có chứ! Cũng giống như cái radio, một người mua có thể cho nhiều người cùng nghe. Em vẫn có thể “ké” nhờ sự cứu độ của Bồ-tát khi người khác niệm danh hiệu. Như trường hợp của các bà mẹ già niệm Phật cầu nguyện cho đứa con trai đi đánh giặc miền xa, như trong kinh Phổ Môn có nói, nếu gặp tai nạn chìm thuyền, có một người trên thuyền chí thành niệm danh hiệu của Đức Bồ tát thì cả thuyền đều được cứu độ. Nhưng, tốt hơn hết là em nên mua một cái radio nghe, tiện hơn là nghe “ké” của người khác, em ạ!

Cô bé cười bẽn lẽn tỏ vẻ thỏa mãn trong khi các bạn nó còn tranh nhau đưa nhiều câu chất vấn khác.

Cứ như thế, sau những giờ học kế tiếp trôi qua, khi bọn học trò nhỏ của tôi đã cởi bỏ hết những “kiến chấp” sai lầm về đạo Phật thì giờ giáo lý trở thành một giờ khá thích thú đối với chúng, tình thầy trò chúng tôi cũng đậm đà và thắm thiết hơn. Mỗi lần đi dạy về, chiếc giỏ xe của tôi chất đầy quà cáp của bọn học trò tặng: Bắp cải, giá, hủ tíu, nước tương, mía ghim, đậu phọng rang và cả… vé số kiến thiết nữa. Sau khi dạy cho chúng bài ý nghĩa sự cúng dường Phật, Pháp, Tăng… Tôi đâm hoảng khi thấy ngày nào trên bàn giáo sư cũng có một ly nước mía, vài cây kẹo, dăm quả ổi hay một ít củ sắn đã lột vỏ. Không thể nào từ chối được những món quà đầy cảm tình ấy, tôi đành cho tất cả vào “hầu bao” đem về chùa, để rồi sau mỗi giờ học lại giật mình thon thót: Không biết có vị phụ huynh nào đứng chờ ngoài cổng trường để “xem mặt” cô giáo hay ăn dỗ tiền quà của con mình hay không?.

Đáp lại, dưới mắt tôi, lũ nhóc không còn là những cô bạn hàng đanh đá, chua ngoa đáng sợ nữa mà chính là những mầm măng mới lớn lại sớm chịu nhiều bảo táp sương sa. Qua vóc dáng gầy gò của chúng, tôi đọc được những nỗi nhẫn nại âm thầm. Còn gì xót xa cho bằng sau buổi học, chúng phải dẹp cái thế giới hồn nhiên ngây thơ và cả cái tâm hồn trong sạch hướng thiện của chúng trong học tủ đề đội hàng ra chợ. Mỗi lần nghỉ lễ, chúng kéo nhau đến chùa “cô giáo” để đi chợ, nấu cơm, làm “công quả” và tâm sự với cô.

Lê Thị Bảy ở lớp sáu đã vừa khóc vừa nói với tôi: “Mỗi buổi tối, ba em sai em đi rắc đinh ở ngã tư nhưng nếu không làm thì cả nhà em bị đói, Cô ơi!”. Ba của Bảy là một thương phế binh, mỗi tối ông ôm đồ nghề ra vá vỏ ruột xe ở ngã tư gần trường. Nếu không rắc đinh để “đón khách” thì làm sao đủ tiền mua gạo cho lũ con chín đứa ở nhà. Nhưng trường hợp của Bảy không phải là hy hữu. Càng thân mật với lũ trẻ tôi càng chua xót hơn khi biết rằng có em còn kiêm luôn nghề móc túi ở các bến xe, và chuyên mua lường bán đổi, cân non cân thiếu là một chuyện rất tầm thường đối với chúng. Ngày chưa học giáo lý, chúng làm những công việc ấy rất tự nhiên, tự nhiên như con người cần phải ăn mới sống, vì cha mẹ, anh chị và tất cả mọi người trong xã hội chung quanh chúng đều làm như thế. Nhưng sau khi đã học giáo lý rồi, chúng lại hành động với một ít ray rứt, băn khoăn… “Cô ơi! Nếu em không làm vậy, làm sao em sống hở cô?”…

Ôi! Những câu hỏi ngây thơ nhưng làm nát lòng người nghe. Tôi muốn ôm lấy thân hình bé bỏng đen đủi của bọn nhỏ, vuốt mái tóc cháy nắng, hôn lên đôi má xanh xao dày dạn của chúng mà thú nhận rằng: “Em ơi, làm sao cô dám xác nhận rằng những việc làm của em là đúng hay sai, trong khi chính cô cũng bị ray rứt dằn co như em vậy?”. Nhưng tôi đã không bao giờ dám nói lên điều đó.

Bọn học trò thân yêu của tôi gần như hoàn toàn thiếu thốn tình thương gia đình. Cảnh nghèo túng đã khiến ba má chúng gây gổ với nhau như cơm bữa, chúng đã thuộc làu những ngôn ngữ dùng để mắng chửi nhau, trước khi biết nói những điều phải trái. Những bài luận văn tả cảnh gia đình sum họp, có cha ngồi đọc báo, mẹ vá may, ông kể chuyện, em đọc bài… quả là một đề tài hóc búa đối với chúng. Nhưng nếu cho chúng tả một người say rượu. Một vụ cãi cọ, bắt trộm, đụng xe thì chúng tỏ ra rất tài tình, có phụ đề thêm ngôn ngữ của nhân vật chính lẫn phụ. Trong thế giới u ám của chúng, những bài giáo lý, những lời dạy của đức Phật, gương hy sinh của chư vị Bồ-tát bỗng hiện ra như những cảnh giới thần tiên mộng tưởng.

Đã lỡ làm điểm tựa cho bọn nhỏ rồi, tôi không nỡ thấy chúng phải chới với, gục ngã vì điểm tựa chỉ là một thân sậy yếu mềm.

Tôi đã đem ánh đèn chân lý soi đường cho bọn chúng, nhưng than ôi! Con đường ấy cũng chỉ là một ngõ cụt nhất thời.

“Như người hướng đạo mù dẫn một đoàn người đui đi trong đêm tối, tất cả đều khó thoát khỏi vực sâu…”

Đoạn kinh mà tôi đã đọc đâu đó một lần bỗng hiện về trong trí nhớ và trở thành một nỗi ám ảnh thường xuyên. Tôi có khác nào kẻ hướng đạo mù kia đang quờ quạng đi trong màn đêm, đường đi nước bước chưa tỏ tường mà còn muốn đèo bồng thêm một nhóm người đui đang nối bước theo sau.

Buổi học cuối, khi ngỏ lời với bọn nhỏ rằng tôi sẽ từ giã bọn chúng, rời xa thế giới học đường để trở về thắp đuốc soi sáng cho chính mình, “thầy trò” có lẽ khó gặp lại, bọn học trò của tôi òa lên khóc. Tôi không khóc nhưng lòng buồn rười rượi.

Người hướng đạo mù đã tìm đường lên núi. Nơi đó, hắn sẽ được một vị minh sư chữa lành mắt cho, trước khi xuống núi dẫn đường cho bọn người đui trong đêm tối kia. Hình ảnh ấy đã thúc đẩy tôi rẽ sang một quãng đường khác hẳn với lối đi mà hình như tôi đã chọn trong mấy năm qua. Để lưu dấu lại một năm dài vui buồn bên lũ trẻ, tôi có đem theo một đoạn nhật ký cũ:

Ngày 29 tháng 12 năm 1973

Chiều nay Ngọc Phượng lớp Bảy có hỏi tôi:

– Thưa cô, trong các phép bố thí, cô dạy em công đức pháp thí là cao cả nhất. Em muốn thực hành nhưng sao… khó quá! Mỗi lần học giáo lý về, em muốn “pháp thí” lại cho nhỏ bạn hàng xóm… mà em sợ nó chửi em là đồ đạo đức giả.

Tôi đã đáp:

– Để em dễ hiểu, cô lấy một ví dụ: Như bây giờ có người đi quảng cáo kem Hynos rằng: Kem tốt, trắng răng, đều răng, chắc răng… mà hàm răng ông ta sún… thì em có tin lời ông ta không?

– Thưa cô, không.

– Cũng vậy nếu như người quảng cáo muốn cho người ta tin, tối thiểu ông ta phải có một hàm răng thật tốt, thì trước khi “ pháp thí” em phải thực hành những “pháp” ấy đã. Có như vậy, mới khỏi bị người ta chê là đồ đạo đức giả.

Bây giờ nghĩ lại, tôi bỗng giật mình khi nhớ ra rằng hàm răng của mình cũng không được nguyên vẹn tốt lành gì cho lắm.

12-1974

***

NHỮNG NGƯỜI XƯA NĂM CŨ

Mùa Xuân ta lên núi
Hăm hở làm sơn: đồng 
Bỏ con đường khói bụi
Cho sách vở vời trông…

Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một suất học bổng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng được… Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”

Buổi Sơ ngộ, tôi ấp úng:

– Sư Bà sợ con du học sẽ hoàn tục nên ép con lên núi tu cho… bảo đảm. Riêng con thì dù ở đâu, con cũng thấy bất an… Con không chịu nổi sự trống rỗng, luôn phải bám vào một cái gì đó…như…một cuốn sách… chẳng hạn… Con không tìm thấy niềm vui trong đời sống xuất gia lẫn thế tục…

Thầy kiên nhẫn nghe chúng tôi nói hồi lâu, ôn tồn dạy:

– Thầy không trách các tu sĩ hoàn tục vì người ta sống ở đời phải có niềm vui. Niềm vui của thế gian là ngũ dục, niềm vui của tu sĩ là pháp vị… Không tìm được pháp vị, người ta phải trở lại thế gian là lẽ đương nhiên…

Và, tôi đã quyết định bay lên núi… để tìm… pháp vị.

HAI

Ta giã từ tri thức
Lên núi làm mục đồng 
Giữa đường hư nẻo thực 
Tìm dấu…lắm gai chông…

Đầu mùa an cư, tháng 4 năm 1974 tôi bị “tống” lên thiền viện Bát Nhã theo đúng cả hai nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. So với tu viện Chân Không uy nghi, bề thế, Ni viện Bát Nhã mới ở bước đầu xây dựng, cơ ngơi gồm một nhà tiền chế có ba gian: Chính giữa thờ Phật, bên phải là phòng khách (dành riêng cho quý Trưởng lão Ni) bên trái rộng gấp đôi là tổ ấm của chúng tôi: những cô Ni ngơ ngác ở đủ lứa tuổi.

Ngoại trừ Sư cô Như Bảo, khoảng trên 50 tuổi, người thay mặt Sư Bà quán xuyến các công trình đang xây dựng và chị Diệu Thông là người đã thọ Tỳ kheo Ni giới; bọn chúng tôi lèo tèo có mấy đứa, sắp hàng theo hệ thống quân giai như sau: Cô Diệu Chánh tuổi ngoài 30, Chị Thuần Trí, Giải Thiện, Hạnh Giải, Thanh Tịnh, bé Hạnh Pháp…

Sau an cư Ni giới tứ phương lục tục kéo về gia nhập khá đông, trong khi cơ ngơi của Ni viện vẫn bất tăng bất giảm. Từ Sài Gòn có cô Tắc

Trung, chị: Từ Thanh, Minh Tứ, Như Đức, Hải Liên… dân Đà-Lạt là cô Mỹ Đức, Mỹ Nguyên, Huệ Trí, Hạnh Huệ; gốc Huế là Minh Ánh, Như Ngữ, Như Tuệ… đó là chưa kể đến lượng khách Ni và Phật tử nữ mỗi tháng đến cư ngụ một tuần khoảng vài chục người…

Chúng tôi ngoan ngoãn theo sự xắp xếp của thầy cùng Sư bà, dồn hết thời gian và tâm lực để chuyên tu, mỗi ngày tọa thiền bốn thời, nghiêm trì 10 giới căn bản, chấp hành chặt chẽ thanh quy . Ngoài các y phục tối cần thiết, chúng tôi không giữ tiền bạc tài sản riêng, không ăn quá ngọ (kể cả kẹo bánh), không nằm giường cao chiếu rộng (có đâu mà…nằm?), đoạn tuyệt hẳn với gia đình, bè bạn, sách vở… Chỉ nghe Thầy giảng kinh rồi ung dung hành trì chứ không cần học thuộc lòng hay trả bài, thi cử (thật tuyệt diệu với những kẻ lười biếng cỡ tôi và Giải Thiện)…

Chúng tôi không hề tự ái khi phải bú thép dòng pháp nhũ cùng chư Tăng bên Tu Viện Chân Không, vì trong Lễ Thỉnh Nguyện hằng tháng, chúng tôi luôn có thầy ngồi chủ tọa khuyên răn dạy dỗ và bất cứ lúc nào chúng tôi cũng có thể rủ nhau đến thất thầy mè nheo và trình các kiến giải hết sức… con nít của mình. Đó là chưa kể đến chuyện chúng tôi hưởng được hai nguồn tài lộc hậu hỷ: 

1- Từ Sư bà Thiền Đức, dù rất bận rộn chuyện chùa và Ni bộ ở Sài Gòn nhưng vẫn luôn thăm nom, chăm chút và tiếp tế lương thực cho lũ con gái háo ăn trên núi. 

2- Từ những nắm tiền dấm dúi của thầy với lời dặn dò: “Các con nhớ mua thức ăn tươi, đầy đủ bổ dưỡng… vì chủ trương của thầy là đào tạo Tăng tài chứ không phải Tăng tàn!”

Chúng tôi cũng ít tiếp xúc với chư Tăng bên Chân Không, dù mỗi tháng có 14 buổi học cùng dưới mái Thiền Đường… Nhưng, sơ bộ, chúng tôi cũng biết được hầu hết các tên tuổi của các vị thuộc hàng “chúng sở tri thức.”

Trước hết là ba ông anh và em của Tuệ Đăng, vì suốt 4 năm Đại học cùng nhau tôi và Tuệ Đăng đã có quá dư thời gian để trao đổi sơ yếu lý lịch của gia đình mình. Và theo gien di truyền của nữ giới: “một người biết thì cả thế giới đều phải biết!”… Để thêm phần long trọng, chúng tôi không quên đặt biệt hiệu đi kèm phương danh quý tánh của khổ chủ (bất kể họ có bằng lòng hay không)… Chẳng hạn như: Người khó tánh nhất Chân Không là thầy Tri sự Thiện Đức – anh họ của cô Chánh, người khó tương đương thường đi chung là thầy Định Huệ – cả hai luôn luôn có đôi mắt “hình viên đạn” mỗi khi bắt gặp chúng tôi bước chân vào lãnh địa Chân Không để thăm dò, xin xỏ…

Ngược lại, người dễ chịu nhất trần gian là thầy Phước Tú – một trong các vị tiền bối thuộc lớp học trước – đã từng âm thầm đầu trần chân trụi, vai vác đá, đắp lại con đường lên núi cho dân Bát Nhã chúng tôi không bị té bổ nhào mỗi khi tải đồ đạc. Thầy cũng rất dễ mủi lòng trước bộ dạng ăn chực thiểu não… kinh niên của Ni giới nên: “Xin gì cũng được, mượn gì cũng cho, có gì cũng chia”… (Xui xẻo thay, phước bất trùng lai), thầy đã bị đưa xuống Thường Chiếu lập chùa trước khi chúng tôi kịp phác thảo chương trình nhờ vả dài hạn)… ông thầy cao lớn nói tiếng Huế (coi bộ khó khăn) nhưng hiền queo là thầy Trí Chơn; ông Thầy hiền khô, trong kho có gì cũng khai, rất dễ xin thức ăn hay mượn thau, thùng… là thầy Phước Hiện.

Hạnh Pháp thì gọi thầy Phước Tịnh là Ông Thầy “ăn tương” vì’ từ hồi lên núi, ăn phải khạp tương bị mốc, gương mặt duyên dáng của ổng bỗng dưng nổi mụn tùm lum…Phần tôi, dù từng gặp hai Thầy Giác Thanh và Phước Tịnh từ hồi còn học Vạn Hạnh, nhưng vẫn gọi thầy Phước Tịnh là… “Thầy mặt mụn”, vì… từng nghe bà Năm Osawa nói: Sư phụ cưng ổng nhất… núi!

Bốn mươi năm đã trôi qua, khi viết những dòng chữ này, tôi chân thành gởi đến hòa thượng Phước Tịnh tại Tu Viện Lộc Uyển – một lời sám hối. Ước mong sao nhờ công đức sám hối này, nếu có tái sinh trong loài người, tôi sẽ không bao giờ có gương mặt bị nổi mụn vì dám… phạm thượng đến cao danh một bậc cao Tăng thuở còn niên thiếu)… Riêng thầy Minh Nghĩa, tôi và chị Đức đều nhất trí gọi là: ông thầy “nhắm mắt”, vì trong các thời học kinh, thầy thường ngồi kiết già và nhắm tít mắt (có trời mới biết là ổng có ngủ gục hay không)…

Thật là khiếm khuyết nếu chúng tôi không được gửi lòng tri ân đến ba vị thị giả trẻ tuổi khôi ngô tuấn tú của Chân Không là: Thông Hải, Thông Thiền và Thông Huyền. Họ chính là những tiểu sư huynh chân chính luôn nhìn Ni giới chúng tôi bằng những cặp mắt đầy thân tình ấm áp. Nói nào ngay, tôi cũng đã nhiều lần lợi dụng mối thân tình ấy để chia bớt phần ăn của thị giả (mỗi khi ba tôn giả này xách cà-mên hầu thầy từ khu thiền thất xuống)…

Ngày tháng dần qua, các ước mơ của tôi mỗi ngày một… nâng cấp cao hơn, đã vươn đến… lưng chừng núi: Chỗ phía sau thất Thầy, nơi có ba chiếc thất nhỏ xinh xắn, dành riêng cho các Đại sư huynh: Phước Hảo, Đắc Pháp, Nhật Quang đang nhập thất trong sự ngưỡng mộ vô vàn của tứ chúng đương thời… Với vách núi chập chùng sau lưng và biển xanh trải dài trước mặt, khung trời thơ mộng của các Thiền sư trong cổ sử đã thấp thoáng hiện về trong tầm mắt chúng tôi:

Giữa lưng chừng núi, một gian nhà
Một nửa cho mây, một nửa: ta 
Đêm qua, gió thổi, mây bay mất 
Gẫm lại, ai nhàn bằng…chính ta!

Ước mơ đó càng cháy bỏng hơn, khi Thầy cho phép chúng tôi được lập một thiền thất nhỏ ở phía sau thiền đường Bát Nhã… Nhưng, chiếc thất lá đơn sơ chưa kịp hoàn thành thì ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến… và tất cả thiền sinh chúng tôi – những người mới bước qua tuổi đôi mươi, không chừa một ai, đều phải gói ghém hành trang, hối hả… xuống núi.

BA

Gót mòn mỏi giữa phù hoa
Bao phen người đã từng qua chốn này
Mơ hồ trong trận lá bay
Dáng ai đeo đá đạp chày năm xưa
Nghìn trùng sóng cỏ đong đưa
Trời xanh như những ngày chưa biết buồn

Trung tuần tháng 5 – 1975, chúng tôi đã có mặt tại khu rừng Viên Chiếu, với hào khí ngất trời của những kẻ “điếc không sợ súng” sắp theo thứ tự tuổi tác, gồm có cô Mỹ Nguyên, Hạnh Nhã, Hạnh Huệ, Chị Đức, tôi, Hạnh Giải và Giải Thiện. Chúng tôi mang hùng khí của các tướng soái tiên phuông đi mở mang bờ cõi bằng cách… nhổ cỏ lúa trên mấy thửa ruộng mà thầy chúng tôi đã cho người gieo trồng từ tháng trước. Bảy vị anh hùng ngày ra ruộng, đêm chui rúc, chen chúc ngủ trong chiếc chòi tranh chứa nông cụ khoảng 9m2 của thầy Thông Triệt. Hậu quả là mỗi sáng sớm, thay vì được nghe lời hô thiền thánh thót của Giải Thiện:

Canh năm Bát Nhã chiếu vô biên
Chẳng khởi một niệm khắp tam thiên…

Chúng tôi lại bị đánh thức bởi tiếng càu nhàu của cô Mỹ Nguyên:

– Ông Thủy này, sao đêm nào ông cũng nằm co như con tôm, gồ cái mông lên, ủi tôi lọt xuống đất hết vậy?

Nói không phải khoe chứ thật ra, tôi đã tiên liệu trước tình trạng hiềm khích không đáng có này rồi… nên trước ngày xuống rừng và sau khi chạy về Sài Gòn thọ đại giới, tôi đã lãnh sứ mạng ra đi, tìm kế… cất một cái nhà to và rộng hơn, để đại chúng có chỗ ngủ nghỉ và chuẩn bị đón 30 vị anh thư từ Bát Nhã đang háo hức đặt chân xuống rừng Viên Chiếu. Sứ mạng vĩ đại nầy không thể giải quyết bằng khối óc non nớt của một Tỳ-kheo-ni vừa thọ giới, nên tôi phải về thăm nhà và vấn kế Ba tôi, thầm mong ông quên phức đi lời thề năm ngoái của tráng sĩ Kinh Kha lúc sang sông Dịch: “Con lên núi tu tới khi nào đắc đạo mới trở về thăm nhà nghen ba!”…

Hệt đức vua Tịnh Phạn, ba tôi đón con bằng một tấm lòng từ ái vô biên (dù tôi chưa kịp thành…Phật). Hai đứa em gái tôi lăng xăng tìm năng lượng nạp cho bà chị ốm đói sau một năm ăn ngọ. Đợi tôi căng bụng xong, nhỏ em út ngước đôi mắt trong veo nhìn Ba tôi, rụt rè nói:

– Ba ơi! Cho con theo chị Thủy tu nghen ba!

Cả nhà đều im lặng. Tôi hoảng hồn:

– Đi tu theo chị, làm ruộng cực lắm, em ở nhà đi học sướng hơn!…

Chị Hai tôi chen vô: Ba với anh Hai mới đi mua cây sắt, tole để dành sau này cất nhà cho nó còn chất trên xe chưa dỡ xuống, tính chừng nào nó lấy chồng sẽ cho… làm của hồi môn. Nó kén ăn như mèo, chưa biết nấu cơm, giặt bộ đồ còn chưa sạch, ở nhà chưa ai đụng tới đã khóc, vô chùa chịu gì nổi mà đòi đi tu! …

Vài thân bằng quyến thuộc kẻo đến bàn ra, tán vào, không ngoài mục đích ngăn cản chí xuất trần của con bé. Nhưng dưới ánh mắt ngây thơ của tuổi 15 thì:

“Mắt ngây ngất trước khung trời lụa gấm
Muôn kỳ hoa dị thảo tỏa hương mời”…

Ai mà cản cho nồi!? Và tôi hớn hở ra đi với một xe cam nhông vật liệu cất nhà của ba cho, quà khuyến mãi là nhỏ em út, ngơ ngác như một chú nai con. Nhìn vẻ hân hoan của hai chị em, ba tôi nóng ruột quơ vội cái nón, chạy theo con… bỏ lại sau lưng một gia đình rối ren trăm nỗi…

Nhờ bàn tay vạm vỡ của ba và sự góp ý của chúng tôi, một căn nhà có gác, lợp bằng tole liền kề với một mái lá được thành hình, nhưng dòm không giống… ai hết. Ba giải thích:

– Nhà này chỉ cất tạm để các con có chỗ mà canh tác… mấy cây đòn tay bằng gỗ thông tốt lắm, ba lót làm sàn để quý cô có chỗ ngủ, khi nào cất chùa mình lấy ra làm đòn tay, không sợ hư hao gì…

Chúng tôi hết sức hoan hỷ, dù sau trận mưa đầu tiên, nước từ mái tole chạy xuống mái lá, ồ ạt như chảy qua cái rổ. Chúng tôi cấp tốc dỡ mái lá xuống, thầy cho tiền mua tole lợp lên toàn bộ, ngoại trừ gian bếp nhỏ xíu, dựng cheo leo ở bờ mương. Với số lá dừa thừa thãi, Giải Thiện ra tay lợp vách sau lời tuyên bố chắc như đinh đóng cột:

– Em ra ngoài chợ thấy người ta lợp vách bằng lá dừa rồi, dễ lắm…!

Chúng tôi xúm xít vây quanh tiếp sức. Chị Đức thắc mắc:

– Chị thấy vách lá người ta dựng phẳng phiu đẹp lắm… còn Giải Thiện lợp sao ngó giống… bộ lông của con đười ươi trong sở thú vậy? …

Giải Thiện gãi đầu:

– Em cũng thấy rứa…!

Cuối cùng chúng tôi cũng có một mái nhà che nắng mưa rộng rãi hơn chốn cũ, còn chiếc chòi tranh của thầy Thông Triệt, đã bị nước cuốn trôi sau một trận mưa lớn, y chang như thầy, đã từ giã chúng tôi không kịp thốt một lời tạm biệt.

BỐN

Mùa thu ta xuống núi
Rảo gót giữa bụi hồng
Áo trầm hương phất phới
Nơi phố thị người đông!

Những lời thơ trên, tôi làm khi còn ở Bát Nhã, đã gói ghém tất cả ước mơ của những thiền sinh non dại, hứa hẹn có một ngày, sau khi “hoát nhiên đại ngộ” sẽ “thõng tay vào chợ” thật hào hùng nhưng không kém phần thơ mộng… Nhưng, rủi ro thay, chúng tôi đã hạ sơn vào ngay mùa xuân của cuộc đời, tuy hừng hực sức sống của tuổi trẻ nhưng luôn vụng về khi phải đối phó với những tính cách mới mẻ, hoàn toàn không có ghi trong sách vở và kinh điển.

Giữa khu rừng Viên Chiếu, tình cảnh chị em chúng tôi giống hệt đám con nít mồ côi, bị bỏ vô rừng… cho chằn tinh ăn thịt. Đám trẻ trong truyện kể thật khôn ngoan, gan dạ nên đã gạt được bà chằn hung dữ, chiếm kho tàng… và trở nên giàu sang, no ấm. Còn… chúng tôi, chỉ mới bước vào trang đầu của câu chuyện cổ tích.

Thôi thì, hãy như người xưa nói: “Không cha bám chú, không mẹ thì bám vú dì”… Thầy tuy ở xa nhưng Thường Chiếu lại ở hơi… gần. Tục ngữ có câu: “Quyền huynh thế phụ”, chẳng rõ những người anh cả Thường Chiếu, đã đọc qua câu này chưa nhỉ?

Trong luật Tỳ-kheo-ni, có ghi chuyện khi Di mẫu cùng 500 vị thuộc phái quần thoa đến xin Phật gia nhập Tăng đoàn, Phật đã từ chối vì: “Nữ giới mà đi tu, thọ mạng của Phật pháp sẽ giảm bớt một nửa!”… Ngài A-nan vốn giàu lòng bi mẫn, đã theo năn nỉ Phật nhiều lần… Và, tôn giả đã hỏi một câu, mà giá trị mỗi từ, nếu có thể tính bằng hiện vật, phải tương đương với…7 ao thất bảo hay hàng tỷ tỷ… tấn vàng ròng:

– Bạch Thế Tôn, phụ nữ có khả năng chứng đạo như nam giới không?

Đức từ phụ liền xác định:

– Như nhau không khác…!

Và … các Trưởng lão Ni tiền bối, đã không phụ lòng tin cậy của Đức Phật và ngài A-nan, Di mẫu với 500 vị tùy tùng, sau khi nhận Bát kỉnh pháp, được xuất gia, tu học đều chứng A-la-hán… đến khi được Phật cho phép nhập Niết-bàn chư Ni đã ngồi tĩnh tọa, dùng hỏa quang tam muội thiêu thân, “gửi nắm bụi hồng theo gió ngàn bay”… không thèm làm phiền đến một nhân viên hỏa táng nào… (Ai không tin, có thể tìm đọc Trưởng Lão Ni Kệ… sẽ rõ).

Trong đoạn đường vừa qua, tôi đã từng gặp vài sư cô, chỉ dám mơ ước kiếp sau được chuyển làm Tăng… dù vị ấy đã từng học “Pháp Bảo Đàn Kinh” thuộc lòng đoạn:

“Ngũ Tổ hỏi:

– Ông ở đâu, đến đây làm gì?

– Bạch Tổ, con là người Lãnh Nam đến đây chỉ để làm Phật!

– Ông là người Lãnh Nam, tiếng nói còn chưa rõ ràng, sao dám đến đây học đòi làm Phật?

– Bạch Tổ, thân này tuy với Hòa thượng bất đồng, nhưng Phật tính đâu có gì sai khác.

Và, kết quả thật khả quan,ngũ Tổ đã truyền y bát cho Huệ Năng, chàng trai đầy lòng tự tin, tuy không thuộc hàng danh gia vọng tộc, nhà giàu, đẹp trai, học giỏi!

Chư Tăng Thường Chiếu đã từng học bản “Pháp Bảo Đàn Kinh” cùng chúng tôi dưới mái thiền đường Chân Không, chắc chắn thế nào cũng hiểu rõ điều đó chứ! Vậy mà…vậy mà…

Theo báo cáo của các sư em, Thầy Minh Dũng đã trêu chúng tôi là… dân làng Cùi (có nghĩa là chúng tôi mất khả năng lao động, muốn sinh tồn phải đi ăn chực, xin ăn…chớ gì)? Thầy Định Huệ còn phũ phàng hơn, đã treo bảng cấm (vì mỗi khi thấy chúng tôi bước vô lãnh địa, ấp úng mượn… nông cụ) thì ông xua tay hét lớn:

– Nói cho mà biết, anh em chúng tôi không phải là thánh… Chúng tôi còn phải tu hành…Từ nay, sau 5 giờ, cấm các cô không được tới đây, nghe rõ chưa!

Dĩ nhiên là chúng tôi nghe rõ và biết còn rõ hơn! Nhưng, tại sao thầy lại không biết Viên Chiếu là đứa em sinh non ngày non tháng? Trong khi Thường Chiếu đã có cơ ngơi vững chãi thì chúng tôi vẫn chưa có một mái nhà tươm tất che mưa? Muốn đến Thường Chiếu chúng tôi phải đi bộ một đoạn đường dài… Lúc trở về giữa rừng đêm tăm tối… biết đâu còn có “chó sói chằn tinh” xuất hiện?

Ấy, đừng tưởng là Ni giới chúng tôi nhiều chuyện, các sư em tôi “thêm mắm dặm muối”, “chuyện ít xít ra nhiều” mà lầm. Ngay bản thân tôi, cũng đã từng có một kinh nghiệm nhớ đời với ông sư huynh khó chịu đó.

Thuở ấy, chúng tôi mới được chia mấy công đất để trồng đậu phọng ở cách Thường Chiếu một con suối… Vừa trồng lúa trong rừng, chúng tôi còn phải chia đôi dân số đi tỉa đậu và trồng khoai lang trên mảnh đất mới. Tôi và Hải Liên thường được cắt phiên trấn thủ nơi đây.

Gặp kỳ đổi tiền đầu tiên, chúng tôi phải túc trực chờ đợi ngoài ủy ban. Đến chiều tối, đang lục tục kéo nhau về, tôi bỗng nghe tiếng thầy Định Huệ từ đằng sau hỏi vọng tới:

– Viên Chiếu đổi tiền được chưa?

Tôi dừng bước để hồi đáp rồi tiếp tục đi. Bỗng dưng, thầy hét lớn:

– Đứng lại, mấy cô đi phía trước đứng lại hết, nghe tôi nói đây…

Chúng tôi cùng dừng chân, thầy cất tiếng thật to:

– Hồi nãy, tôi kêu cô Thủy là để hỏi chuyện tiền bạc, chứ không có gì hết, mấy cô đừng có hiểu lầm… Xong rồi, mấy cô đi đi…

Sư cô Như Thành ngạc nhiên:

– Tụi này đói bụng muốn chết, phải đi riết về, có ai để ý gì đâu, thầy?

Tôi vừa tức cười, vừa tức mình thầm cầu nguyện kể từ nay, đừng bao giờ phải gặp mặt ông thầy kỳ quái đó.

Nhưng, “oan gia… ngõ hẹp”… Ngay hôm sau, khi đang lúi húi vỡ giồng lang trước sân, tôi bỗng nghe tiếng nói của ổng thật to sau lưng:

– Thành quả… khiêm tốn quá ha…

Tôi chết lặng, nước mắt chực trào ra…Phải chi tôi có thần thông để độn thổ cùng mấy củ khoai lang èo uột, chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái một chút… Đây là bằng chứng không thể chối cãi về khả năng trồng tỉa dở ẹt của mình: khoai lang của chúng tôi chỉ tốt lá chứ không tốt củ.

Chiều hôm đó, khi đang xịt thuốc trừ sâu trên mấy công đậu phọng, thì Thông Thiền chạy qua, nhỏ nhẹ nói:

– Chị để em xịt thuốc cho… Dòm mấy chị làm, các sư huynh em tội nghiệp… nên cho em sang đây phụ một tay…

Thường Chiếu giỏi hơn chúng tôi là nhờ có…Thông Thiền, xuất thân từ trường Nông Lâm Súc… Rút kinh nghiệm ngàn vàng đó, Hạnh Nhã tình nguyện về quê huơng miền Tây để học gieo mạ, cấy lúa…Chúng tôi bắt đầu biết “tầm sư học đạo” với bất cứ ai biết cầm cuốc trước mình…

Năm tháng trôi qua, chúng tôi dần dần trở thành những nông dân lành nghề và giỏi giang… Chúng tôi cũng khôn lớn hơn, để nghiệm ra rằng ẩn sau mấy câu nói khó nghe, nghiêm khắc của quý Thầy là những tấm lòng từ ái vô biên. Thực tế đã chứng minh cho thấy, tánh lo xa và cảnh giác cao độ của thầy Định Huệ không phải là vô bổ mà ngược lại, rất cần thiết cho sự sống còn và phát triển của Tăng đoàn.

Từ dạo đó, chúng tôi nhiệt liệt hoan nghênh, chuyền tay nhau, sao chép các tác phẩm của thầy dịch, để làm sách gối đầu giường. Trong số các gia bảo đó, tôi khắc cốt ghi tâm lời dạy của ngài Đại Huệ:

“Người đời thường sợ nghịch cảnh và ưa thuận cảnh. Cảnh nghịch giống như con dao đâm trước mắt, dễ thấy …Chỉ cần một chữ nhẫn là xong. Còn cảnh thuận giống như con dao đâm sau lưng, khó thấy khó biết nên không biết đường mà đỡ”…

NĂM

Hôm nao bên bờ dốc
Nhẹ buông phiến lá hồng
Bờ cây khô nảy lộc
Mặt trời… rực phương đông

Lúc còn ở thành phố, trong những lần hóng chuyện, tôi thường nghe quý Sư bà nhắc đến thầy Nhật Quang ở Chân Không với tất cả sự trìu mến. Hình như, đó là một vị Tăng trẻ tuổi, đẹp trai và ăn nói rất mực dịu dàng. Điều tôi nể phục, thèm thuồng nhất là nghe đâu, thầy đã tham học Thiền đủ ba năm ở khóa trước và sẽ được Thầy Viện chủ cho nhập thất ba năm liên tục nữa. Trong chiếc đầu giàu tưởng tượng của tôi, thầy phải có hùng khí của Tổ Bồ-đề-đạt-ma pha trộn với một chút hào khí của các cao thủ võ lâm như… Trương Vô Kỵ hay Lệnh Hồ Xung, nhưng chắc là không thể đa tình… vì thầy là một vị Tăng đã có đạo lực vô cùng thâm hậu.

Nhưng, chẳng rõ có con yêu tinh nào hăm he bắt cóc Thầy nhắm rượu, để được sống hoài ngàn năm hay không, chứ chung quanh Thầy, tôi luôn bắt gặp một hàng rào bảo vệ chặt chẽ, còn hơn Đường Tam Tạng trên đường đi thỉnh kinh nữa.

Ngay đến Sư bà Thiền Đức, vị Hòa thượng Ni yêu kính của chúng tôi – khi ghé thăm Thường Chiếu, cũng đã ngoắc thân mẫu của Thầy lại, dặn dò:

– Bà Năm nhớ “kích” Thầy Nhật Quang với quý Thầy ở Thường Chiếu cho kỹ nghen… Mai mốt Sư bà sẽ thưởng và gắn mề đay cho.

Bản thân tôi có một lần, tình cờ cũng bị lọt vào vòng vây của lực lượng xung kích đó.

Số là, cô TN (một nữ Phật tử lớn tuổi) có gửi tặng cho tôi và Thầy mỗi người một cái mền. Được món quà quý, tôi lật đật ôm về Viên Chiếu, để dành ngắm chứ chưa dám xài… Hôm sau, có dịp ra Thường Chiếu, cô Năm gọi tôi lại, hỏi:

– Cái cô tặng ông Quang cái mền đó, già hay trẻ vậy cô?

– Già ngắt hà cô Năm ơi! Con chưa thấy ai xấu như cổ, xấu còn hơn Chung Vô Diệm nữa… Ai mà gặp cổ một lần rồi, bảo đảm không muốn gặp lần thứ hai. Cô Năm yên tâm đi!

Vài hôm sau, cô Năm gặp tôi, kêu lại, phân bua:

– Tui gặp cô TN rồi… còn tơ và coi được lắm chứ hỏng tệ… như cô nói đâu!

– Ủa, sao kỳ vậy ta? Hỏng lẽ con nhìn lộn qua người khác. Nhưng cô Năm lo chi xa vậy? cổ có đến đây thường đâu mà cô Năm sợ?

– Tui lo là không biết họ có bỏ bùa bỏ ngải gì cho ông Quang không đây…

– Nếu sợ, cô Năm đem cái mền đó cho… Viên Chiếu đi, tụi con mà mê cổ, đi theo, càng đỡ tốn cơm.

– Tôi không rõ số phận chiếc mền ra sao, nhưng nhờ nó, tôi chợt hiểu vì sao khi phỏng vấn công phu tu tập hằng đêm, thầy đã buồn rầu nói:

– Tối nào, khi đại chúng ngồi thiền, tui cũng, đi lễ sám hối cho má tui… Cũng vì tui mà má tui tạo nhiều nghiệp không tốt…

Hóa ra, dù nội lực thâm hậu, thầy cũng có nỗi khổ tâm rất đỗi bình thường, y chang những kẻ lười biếng (như tôi chẳng hạn).

Với các thiền viện Ni sau này, tôi không rõ thầy đối xử ra sao, chứ với Viên Chiếu, thầy cưng như… em ruột. Bằng chứng là:

Khoảng đầu năm 76, thầy gọi tôi lại, đưa cho một tờ báo cũ, dặn:

– Mấy sư muội làm ruộng, dầm nước suốt ngày, cần phải đọc tờ báo này để biết cách giữ gìn vệ sinh cho thân thể. Cô xem đi rồi chuyền cho huynh đệ (nhất là mấy cô nhỏ như Hạnh Pháp, Hạnh Đoan)…

Thầy nói tự nhiên, ân cần như một bà chị dạy em chứ không phải là anh trai với em gái… Nhờ vậy, tôi mới dám ngồi bình thản nghe, nín thinh và nín…thở.

Năm sau, thầy lại nói riêng:

– Ngoại trừ ông già (tức là thầy Viện chủ) ra, các cô không được tin tưởng, gần gũi bất cứ người khác phái nào, dù là Tăng hay tục… không phải ai cũng là người tốt hết đâu… Mấy sư muội phải biết khôn để giữ mình và dạy dỗ em út…

Tôi hỏi lại:

– Ngay cả thầy, tụi con cũng không được tin nữa hả?

– Tui đã nói “trừ ông già ra, tất cả đều không được tin!”…

Tôi hoang mang nhưng không dám mở lời, chỉ im lặng ngồi nghe thầy giảng giải, thầm cảm ơn cuộc đời đã hào phóng ban tặng cho chúng tôi những cây cao bóng cả, che chở và dìu dắt chúng tôi qua những đoạn đường nhiều thăng trầm giông bão…

Cây im bóng, cõi bình an, có phải? 
Nắng dịu dàng trên đọt lá ban trưa 
Bến sông nào không… mời chào từ ái 
Người ngại ngùng, nên vẫn khát như xưa…

SÁU

Níu mây trắng giữa lưng đồi
Hỏi thăm cha đã da mồi hay chưa?
Cha ơi, cùng tử ngày xưa
Mỏi chân phiêu lãng vẫn chưa chịu về…

Giữa đồng ruộng Viên Chiếu, đã có lần tôi hỏi ân sư:

– Thầy nuôi nấng, dạy dỗ chúng con cực quá, rủi… tụi con làm không đúng kỳ vọng của Thầy, Thầy có buồn không?

Thầy đã đáp một câu ngoài dự tưởng của tôi:

– Thầy đâu có kỳ vọng gì nơi các con đâu?

Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của tôi, Thầy nói tiếp:

Thầy chỉ nghĩ đơn giản là… tổ chức cho tụi con có một chốn tu học thích hợp… Ngày nào các con còn tu, còn ăn chay, còn giữ được các giới cấm căn bản là Thầy mừng rồi. Nếu không có chỗ tu học, tụi con tan tác, mỗi đứa dí một nơi, tạo nghiệp không lành, Thầy mới buồn! Sau này, trong số các con, ai làm thêm được điều gì tốt, Thầy coi như mình có lời…!

Bốn mươi năm dài đã trôi qua như một chớp mắt. Đôi lần về thăm Thường Chiếu, tôi đứng ngơ ngác giữa ngôi thiền viện hoành tráng nguy nga, những người xưa năm cũ giờ tản lạc khắp nơi… Nếu không gặp người quen, tôi thường tìm một chỗ khuất, ngồi lặng lẽ. Từ khung trời tâm thức, những bóng hình tuổi trẻ của 40 năm xưa, từng người, từng người một… tươi cười bước ra…

“Và, ô kìa! Trước chiếc thất lá đơn sơ, Thầy của chúng tôi, đang ngồi hiền hòa giữa hàng hàng lớp lớp thanh niên Tăng, trầm hùng như núi lặng”…

Như Thủy-2014

***

Thứ Tư, ngày 12 tháng 02 năm 2014.

Chị Ba ơi,

Bài này chị viết cho “Kỷ yếu Thường Chiếu” hay quá. Thấy chị viết mà thèm… Em viết khó muốn chết. Đã vậy bạn bè còn bảo: Tui mà viết văn được thì hễ có… ai mời là tui viết cả… chục bài, chứ không làm eo, làm cao… như Hạnh Đoan đâu!… Nghe mà… tức!

Em bỏ dấu như vầy đạt chưa? Có gì không hài lòng thì chị cho em biết nha?

 

Thứ Năm, ngày 13 tháng 02 năm 2014.

Heo Ú cưng,

Chị xem và kiểm lại thấy được rồi. Chị viết cũng cực bắt chết! Cực còn hơn cuốc ruộng nữa! Muốn viết hay thì phải động não mướt mồ hôi, không có thành quả nào dễ dàng hết Heo ú ơi! Tại chị dại dột phát biểu là sẽ cùng em viết bài nộp Thường Chiếu rồi, nên rút lời không được, đã lỡ… phóng lao thì phải theo lao!… chị đang hối hận rủa thầm mình đây nè!…

Em bỏ dấu giỏi lắm, y như ý chị! Hèn gì mà hồi xưa má hay gọi em là “Yến nhỏ” (má nói là em rất giống tính chị).

Chị dặn nhỏ nghen: Em đừng ngây thơ đưa bài này Huề thượng Thông Thiền đọc hay nhờ ổng nộp giùm nghen, vì chị… nói xấu anh Hai ổng ở trỏng, nên coi chừng… ổng sẽ giấu đó! Vì vậy phải biết phòng xa!… Em nhắn Ban tòa soạn Thường Chiếu giùm chị, nhớ hăm vầy nè: Ai mà trù dập, “ém tài” không đăng bài chị, sau này chị sẽ “tính sổ” với họ…

Chị Ba.

 

Thứ Sáu, sáng ngày 14 tháng 02 năm 2014.

Chị Ba ơi!

Đây là những dòng nhận xét của cô Nguyên tâm khi đọc bản nháp NHỮNG NGƯỜI XƯA NĂM CŨ của chị nè:

Kính cô Hạnh Đoan! Con đọc hết câu chuyện mà nước mắt cứ chảy dài. Con không biết tại sao? Những dòng văn thơ trôi chảy và dí dỏm mà con không được đọc đã từ lâu, lâu lắm rồi… Kính chúc cô và Sư chị luôn khỏe.

*

Heo ú ơi!

Thực ra đoạn kết NHỮNG NGƯỜI XƯA NĂM CŨ chị viết dài lắm… Nhưng khi nhắc lại những kỹ niệm với Thầy Viện Chủ. Nước mắt chị chảy dài. Chị không ngờ tình cảm của mình với thầy còn sâu nặng đến như vậy. Sau đó. Chị xóa bớt… chỉ chừa lại phần nhỏ thôi.

Có lần chị về Thường Chiếu, vào thăm Thầy, nhưng chị chịu không nổi khi thấy cảnh thầy ngồi xe lăn…

Hồi trước chị ráng dạy học là để chia sẻ bớt sự nhọc nhằn của thầy… Nhưng mỗi ngày qua chị càng đuối. Chị cũng sợ cái gì nổi quá, lan rộng quá thì ít có chiều sâu… cho nên có lẽ sức khỏe chị đã thắng bớt giùm cho chị…

Hi vọng chị viết như vậy là ok rồi nhé.

*

Chị Ba ơi!

Em đã gởi bài NHỮNG NGƯỜI XƯA NĂM CŨ đến Thường Chiếu hồi ‪5h30 sáng‬. Sợ chị trông nên em viết vài hàng. Bây giờ, mỗi khi ra Thường Chiếu em cũng hay ngồi một góc giống y như chị, vì không ai biết mình cả. Sướng cái là giờ già rồi, em ngồi ở nhà mát không bị ai đuổi, chứ nhớ hồi 30 tuổi, lúc em ngồi ở nhà tròn chờ gặp cô Thủ, đã bị mấy sư cô đuổi đi vì cái tội là… ni trẻ còn xuân sắc (nghĩ tới mà hận…) hi hi.

Em phải làm việc tiếp đây. Chúc chị ngủ ngon. Còn em do bị sách rượt nên xong thời khóa là phải làm việc bù đầu.

Em đã bê nguyên lời chị dặn dò… chuyển hết cho Huề thượng Thông Thiền, ổng cười quá trời, còn nhiệt tình nộp bài và sốt sắng hỏi thăm tin tức để báo cho mình biết thật sớm nữa!…

Heo Ú

Thứ Bảy, ngày 15 tháng 02 năm 2014.

Vậy là chị nghĩ oan cho người tốt há? Hi hi! Nói chị cảm ơn Thông Thiền nhiều nghen!

Chị Ba.

==== HẾT ====