KINH VÔ THƯỢNG Y

Hán dịch: Đời Lương, Tam tạng Pháp sư Chân Đế, người nước Thiên Trúc.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: SỰ SUY LƯỜNG CÔNG ĐỨC

Tôi nghe như vầy:

Một thời, tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá, Đức Phật Thế Tôn đang cư ngụ cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ-kheo. Ngoại trừ Tôn giả A-nan đang còn ở học địa ra, những vị Tỳ-kheo khác như Tịnh mạng A-nhã Kiều-trần-như, Tịnh mạng Mã Thắng, Tịnh mạng Hiền Thắng, Tịnh mạng Bà-sa-ba, Tịnh mạng Ma-ha Na-ma, Tịnh mạng Ẩu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Tịnh mạng Già-da Ca-diếp, Tịnh mạng Na-đề Ca-diếp, Tịnh mạng Da-du-đà, Tịnh mạng Ma-ha Ca-diếp, Tịnh mạng Xá-lợi-phất, Tịnh mạng Maha Mục-kiền-liên, Tịnh mạng Tu-bồ-đề, Tịnh mạng Tu-bà-hầu-la, Tịnh mạng Ma-ha Câu-hy-la, Tịnh mạng Ưu-ba-ly, Tịnh mạng Phúlâu-na-di Đà-la-ni-tử, Tịnh mạng Ma-ha Thuần-đà, Tịnh mạng Maha Kiếp-tân-na, Tịnh mạng Ly-bà-đa, Tịnh mạng Tất-lăng-già-bàtha, Tịnh mạng A-ni-lâu-đà, Tịnh mạng Tôn-đà-la-nan-đà, Tịnh mạng La-hầu-la… gồm đủ một ngàn hai trăm năm mươi vị, các vị đều là những bậc La-hán, đều là những vị, đã dứt sạch các lậu hoặc, đã hoàn tất mọi công việc, đã bỏ được gánh nặng, đã đạt được những lợi ích, đã tháo gỡ sạch mọi ràng buộc, tâm tánh khéo được giải thoát khéo được tự tại, khéo thông được Chỉ quán. Lại có năm trăm vị thuộc chúng đại Tỳ-kheo-ni như Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xàba-đề, Tỳ-kheo-ni Thanh Liên Hoa Sắc, Tỳ-kheo-ni Bạt-đà, Tỳkheo-ni Nan-đà, Tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la… và như vậy, mỗi vị đều có các quyến thuộc. Lại có cả vô lượng, trăm ngàn vị Đại Bồ-tát, từ những phương khác tới. Những vị này đều thuộc chúng Bồ-tát trong hiền kiếp. Là những vị, đã thông đạt được pháp tánh rộng lớn sâu xa, giáo hóa mọi nơi, khéo hành sự bình đẳng, tu đạo Bồ-tát, khiến cho tất cả những Thiện tri thức trong chúng sinh, đều được vô ngại Đà-la-ni, chuyển bánh xe pháp không thoái; đã cúng dường khắp vô lượng chư Phật. Trong hàng Thánh Nhất sinh bổ xứ, Bồ-tát Di-lặc làm vị đứng đầu. Lại có cả trăm ngàn vạn chúng Ưu-bà-tắc do vua Tần-bà-sa-la đứng đầu. Lại có cả trăm ngàn chúng Ưu-bà-di, do phu nhân Tỳ-đề-hy làm người đứng đầu.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn được các hàng trời, người cung kính tôn trọng, theo nhau cúng dường. Khi ấy, nương theo thần lực của Phật, từ giữa đại chúng, ngài Tịnh mạng A-nan, liền đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải chạm đất, đảnh lễ Thế Tôn, rồi chắp tay hướng Phật, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay, con quấn y, ôm bát, vào thành Vương xá, tuần tự khất thực. Thấy ở một nơi, có một tòa lầu cao lớn, trang hoàng mới mẻ, được chạm khắc đẹp đẽ, trong ngoài kín đáo, con liền nghĩ: “Nếu như có những trai, gái tốt lành, với lòng tin trong sạch, xây tòa lầu cao lớn này, cúng dường đầy đủ cho bốn thứ cần dùng chúng cho Tăng bốn phương. Hoặc như, sau khi Như Lai diệt độ, họ đem xá-lợi của Phật, lớn như hạt cải, để vào trong tháp, rồi xây tháp lớn như A-ma-la tử, dựng chùa Phật lớn như cây kim châm, trải mâm bàn lớn như chiếc la, tạo tượng Phật lớn như hạt lúa mì. Vậy so với nhau, hai công đức này, công đức nào vượt trội hơn?” Con nay đã hỏi, cúi xin Thế Tôn giải đáp.

Phật bảo:

–Lành thay, tốt thay! Này A-nan! Vì thương xót thế gian, mà làm chỗ quay về nương tựa; vì có khả năng khiến hàng trời, người được đạo an vui; vì có khả năng giúp chúng sinh dứt ra khỏi và không trụ vào nơi khổ não; để có thể hỏi Như Lai việc trọng đại này, chính là con đã làm cho đại chúng tu hành nơi đây, được hiều lợi ích. Thế cho nên, này A-nan! Nay con hãy lắng lòng nghe, chăm chú suy xét, với tâm kính thành mà tin chắc thọ trì.

–Tốt thay! Bạch Thế Tôn! Chúng con rất muốn nghe.

Phật nói:

–Này A-nan! Cõi Diêm-phù-đề này, rộng khoảng bảy ngàn do-tuần. Phía Bắc châu này rộng lớn, phương Nam như bánh xe, mặt người ở đó cũng như vậy. Trong ấy, có đủ cả những vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật; chẳng khác nào như trong rừng, có đủ nào là mía, trúc, cỏ lau, cỏ gai, lúa dé mọc um tùm, không chỗ nào trống cả. Như vậy, A-nan! Cõi Diêm-phùđề này, cũng có đủ những vị, từ bậc Tu-đà-hoàn cho đến bậc Bíchchi-phật. Nếu như có vị nào, suốt đời cúng dường những thứ như quần áo, đồ ăn uống, thuốc thang, đồ nằm ngồi, thì sau khi tịch diệt, vị này sẽ được xây tháp lớn, được cúng dường các thứ đèn sáng, đốt những thứ hương như hương bột, hương thoa, những vòng hoa, vải vóc, cờ phướn và lọng…

Này A-nan! Ý ông thế nào? Người này do nhân duyên ấy, sinh ra công đức nhiều ít?

A-nan đáp:

–Bạch Thế Tôn! Thật rất nhiều. Vì do nhân duyên này, nên công đức của họ sinh ra rất nhiều.

Phật nói:

–Này A-nan! Về phía Tây châu Diêm-phù-đề này, có Tây Ngưu hóa châu, rộng khoảng đến tám ngàn do-tuần. Châu này được hình thành như hình bán nguyệt, khuôn mặt của người ở đây, cũng như vậy. Trong ấy, có đủ cả những vị Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chiphật, chẳng khác nào như trong rừng có đủ nào lá mía, trúc, cỏ lau, cỏ gai, lúa mọc um tùm, không chỗ nào trống cả. Như vậy, này Anan! Ở Tây Ngưu hóa châu này cũng có đủ cả những vị, từ bậc Tuđà-hoàn, cho đến bc Bích-chi-phật. Nếu như có ai, suốt đời cúng dường những thứ như quần áo, thức ăn uống, thuốc thang, đồ nằm ngồi, thì sau khi tịch diệt, người này sẽ được xây tháp, cúng dường đốt đèn sáng, đốt những thứ hương như hương bột, hương thoa, vòng hoa, vải vóc, cờ phướn lọng…

A-nan! Ý ông thế nào? Do nhân duyên đấy, công đức của người này sinh được nhiều ít?

A-nan đáp:

–Bạch Thế Tôn! Thật rất nhiều.

–Này A-nan! Về phía Đông tây Ngưu hóa châu này, có Đông Thắng thần châu, ngang dọc khoảng chín ngàn do-tuần. Châu này hình tròn như mặt trăng đầy, khuôn mặt của những người ở đây cũng tròn như vậy. Trong châu này, có đủ những vị từ Tu-đà-hoàn cho đến bậc Bích-chi-phật, chẳng khác nào ở trong một khu rừng, có đủ các thứ mía, trúc, cỏ lau, cỏ gai, lúa mọc um tùm, không chỗ nào trống cả. Như vậy, này A-nan! Tại Đông Thắng thần châu này, cũng đủ những cả vị từ Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chi-phật. Nếu như có người nào suốt đời cúng dường những thứ như quần áo, thức ăn uống, thuốc thang, đồ nằm ngồi, thì sau khi tịch diệt, người này sẽ được xây tháp, cúng dường những thứ như đốt đèn, đốt những thứ hương như hương thoa, hương bột, vòng hoa, vải vóc, cờ phướn, lọng…

A-nan! Ý ông thế nào? Do nhân duyên đấy, công đức người này sinh được nhiều ít?

A-nan đáp:

–Thật rất nhiều! Bạch Thế Tôn!

–Này A-nan! Về phía Bắc của Đông Thắng thần châu có Bắc Câu-lư châu, dài rộng khoảng mười ngàn do-tuần. Châu này hình vuông, khuôn mặt những người ở đây cũng như vậy. Trong châu này, có đủ cả những vị, từ bậc Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chi-phật, chẳng khác nào ở trong một khu rừng, mà có đủ cả, nào là mía, trúc, cỏ lau, cỏ gai, lúa mọc um tùm, không chỗ nào trống cả. Như vậy, này A-nan! Ở trong Bắc Câu-lư châu này, cũng có đủ cả những vị, từ bậc Tu-đà-hoàn cho đến bậc Bích-chi-phật. Nếu như có người nào suốt đời cúng dường những thứ như quần áo, thức ăn uống, thuốc thang, đồ nằm ngồi, thì sau khi tịch diệt, người này sẽ được xây tháp, sẽ được cúng dường như thắp đèn, đốt những thứ hương như hương thoa, hương bột, vòng hoa, vải vóc, cờ phướn, lọng…

A-nan! Ý ông thế nào? Do nhân duyên đấy, công đức người này sinh được nhiều ít?

A-nan đáp:

–Thật rất nhiều! Bạch Thế Tôn!

–Này A-nan! Ở phía Bắc Bắc Câu-lư châu này, lại có cung trời của vua Đế Thích. Nơi đó, có lầu Đại phi, tên là Thường thắng điện, gồm có tám vạn bốn ngàn lầu cao vây quanh, có tám vạn bốn ngàn cột, làm bằng ngọc lưu ly xanh, có lưới báu bằng vàng ròng, phủ lên trên, dây vàng chuông lưới giăng bốn phía, các loại báu như vàng, bạc, nước hương chiên-đàn, các loại hoa trời, rải khắp trên mặt đất; có tám vạn bốn ngàn cửa sổ trang trí đẹp đẽ, bên trong, trang hoàng bằng ngọc báu Tỳ-lưu-ly, ngọc báu Nhân-đà-ny-la, pha lê, liên hoa sắc…, có tám vạn bốn ngàn cây mộc lan, mọc sát nhau hai bên đường, hoàn toàn đều do ngọc lưu ly xanh hợp lại, làm thành. Anan! Nếu có những thiện nam hay thiện nữ có lòng tin trong sạch, tạo được cả hàng trăm ngàn như bảo điện Thường thắng, như lầu cao phi các, của cung trời Đế Thích, mà cúng dường cho chư Tăng bốn phương. Nếu lại có người nào, sau khi Như Lai Niết-bàn, đem xá-lợi của Như Lai, lớn như hạt cải, mà xây tháp lớn như Na-ly tử, dựng chùa Phật lớn như kim châm, trải mâm bàn lớn như lá cây, tạo hình tượng Phật lớn như hạt lúa, thì công đức này nếu sánh với công đức đã nói ở trước, nó chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn vạn ức cho đến số tăng kỳ, đều không bằng một, không thể dùng thí dụ để nói hết được. Vì sao? Là vì Như Lai vô lượng. Anan! Huống chi là công đức chỉ như vầy? Cõi Diêm-phù-đề này về phía Tây có Tây Ngưu hóa châu, phía Đông là Đông Thắng thần châu, phía Bắc là Bắc Câu-lư châu, biển lớn Tu-di, núi Thiết vi và cả thế giới Ta-bà; nếu nghiền nhỏ nát như vi trần, dựa theo số thứ tự này, thảy đều là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào có lòng tin trong sạch, suốt đời cúng dường, sau khi diệt độ sẽ được xây tháp cúng dường.

A-nan! Ý ông thế nào? Những thiện nam, tín nữ này, công đức nhiều ít?

–Thật rất nhiều! Bạch Thế Tôn!

Phật bảo A-nan:

–Nếu như có thiện nam, tín nữ nào, sau khi Phật diệt độ, đem xá-lợi Phật lớn như hạt cải, xây tháp lớn như A-ma-la tử, dựng chùa lớn như kim châm, trải mâm bàn lớn như chiếc lá, tạo tượng Phật lớn như hạt lúa, thì công đức này so với công đức đã nói ở trước, không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn vạn ức, cho đến những số đếm, những thí dụ cũng không thể nào bì kịp. Này Anan! Với công đức như vầy, mà không hồi hướng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu công đức này mà nhóm họp lại thì phước báo đạt được, nhiều như số vi trần của thế giới Ta-bà, sẽ được làm vua ở cõi trời Tha hóa tự tại, vua cõi trời Hóa lạc, cõi trời Đâu-suất-đà, vua cõi trời Dạ-ma, cõi trời Tam thập tam, huống nữa lại làm Chuyển luân thánh vương.

 

Phẩm 2: NHƯ LAI GIỚI

Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Sau khi Đức Thế Tôn Niết-bàn, nếu xây chùa, lập tháp, tạo tượng cúng dường, thì công đức phước báo không thể suy lường được, dùng số như vi trần cũng không thể nào tính hết được. Vì sao? Này A-nan! Như Lai là hiếm có, là không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì cõi giới, vì tánh là không thể nghĩ bàn; vì Bồ-đề, vì sự chứng đắc là không nghĩ bàn, vì công đức, vì pháp là không thể nghĩ bàn; vì lợi ích, vì hành sự là không thể nghĩ bàn.

Này A-nan! Thế nào là Như Lai giới? Vì sao Như Lai là giới không thể nghĩ bàn? Này A-nan! Tất cả chúng sinh đều có ấm nhập vào giới, các loại tướng thù thắng hiện ra, ở bên trong, bên ngoài, thời tiết từ xưa tiếp nhau liên tục, pháp đạt được hết sức sáng tỏ nhiệm mầu. Nơi đây, tâm ý thức không thể duyên khởi; xem xét, hiểu, phân biệt, không thể duyên khởi; sự suy nghĩ không chân chánh, không thể duyên khởi. Nếu xa lìa suy nghĩ không chân chánh, thì pháp không khởi vô minh. Nếu không khởi vô minh, đó là pháp chẳng có mười hai phần duyên khởi. Nếu chẳng có mười hai phần duyên khởi, thì pháp không tướng. Nếu là vô tướng, thì pháp ấy chẳng do sự tạo tác mà ra; nó không sinh, không diệt, không giảm, không hết; nó thường, hằng, tịch, trụ, bản tánh trong sạch, không bị dính mắc, lìa xa, không nhơ bẩn, vượt ra và giải thoát khỏi màng phiền não, chánh thuận tương ưng với pháp Như Lai; trải qua hằng sa số, không rời nhau, không xả, trí không thể nghĩ bàn.

Này A-nan! Ví như ngọc châu Như ý vô giá, trang nghiêm, lộng lẫy, đáng yêu, sáng trong, vì thể nó tròn sạch, không có nhơ bẩn. Nếu đem bỏ vào chỗ bùn nhơ, trải qua trăm ngàn kiếp, nếu có người nào nhặt lấy, đem rửa sạch, giữ gìn, không để rơi rớt thì hạt báu Như ý ấy, đã được rửa sạch, giữ gìn; nó trở lại sự trong sạch, không mất đi sự quý báu. Như vậy, này A-nan! Khi xưa còn ở nhân địa, tất cả Như Lai đều biết cõi chúng sinh, tự tánh là trong sạch, bị nhiễm đục bởi khách trần phiền não; nên chư Phật Như Lai đều nghĩ: “Khách trần phiền não không nhập vào trong cõi trong sạch của chúng sinh được. Phiền não dơ bẩn này, che lấp bên ngoài. Những suy nghĩ giả dối kết hợp lại, khởi lên; chúng ta có thể vì tất cả chúng sinh, nói pháp sâu xa, mầu nhiệm, để trừ chướng ngại của phiền não, không nên sinh tâm thấp hèn, mà phải rộng lượng; phải sinh tâm tôn trọng đối với chúng sinh, khởi Đại sư kính, khởi Bát-nhã, khởi Xà-na, khởi đại Bi.” Dựa vào năm pháp này, hàng Bồ-tát được nhập vào địa vị không thoái chuyển. Hàng Bồ-tát này, lại suy nghĩ: Phiền não nhơ bẩn này, không có năng lực, không tương ưng với gốc rễ phiền não, không chân thật, vốn không dựa vào bản xứ, vốn rất trong sạch, thế nên không gốc. Những suy nghĩ giả dối, những thói quen điên đảo khởi lên, như đất, nước, gió dựa vào gốc mà được tồn tại. Gốc này, không chỗ dựa; phiền não cũng như vậy, không có chỗ dựa chân thật. Nếu biết một cách đúng đắn, quán sát suy nghĩ một cách chân chính, thì các phiền não này, không khởi lên sự trái nghịch. Nay ta nên xem xét khiến các phiền não không làm ta dính mắc. Nếu như có phiền não, mà ta không bị dính mắc, thì gọi là điều lành. Còn nếu làm cho chúng ta chấp vào cái nhiễm của phiền não, thì làm sao có thể thuyết pháp, cởi bỏ sự trói buộc của phiền não, cho chúng sinh được. Do đó, nay ta nên xả bỏ phiền não, nên nói chánh pháp, để tháo gỡ sự trói buộc của phiền não cho chúng sinh. Nếu như có phiền não làm cho sinh tử liên tục, lại tương ưng với căn lành, thì loại phiền não này, ta nên thâu tóm và giữ lấy, vì để thành thục chúng sinh, vì để thành thục Phật pháp. Như vậy, A-nan! Khi còn trong nhân địa, Như Lai nương vào như thật mà biết, nương vào khả năng mà tu, thấu đạt cảnh giới của Như Lai, không nhiễm, không chấp, có khả năng nhập vào và trôi lăn trong sinh tử, mà chẳng phải là do sự trói buộc của phiền não, chứng được phương tiện rộng lớn, trụ vào nơi vô trụ, Niết-bàn vắng lặng, mau đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

A-nan! Như Lai giới này vô lượng, vô biên. Nơi mà các phiền não ẩn chứa, từ vô thủy, trôi lăn theo dòng sinh tử, chìm đắm trôi nổi trong sáu đường, ta gọi đó là cõi chúng sinh.

Này A-nan! Chúng sinh giới này, từ nơi cái khổ sinh tử, mà khởi lên sự nhàm chán, loại trừ sự ham muốn của sáu trần, dựa vào sự thu giữ của tám vạn bốn ngàn pháp môn, của mười pháp Ba-la-mật, tu đạo Bồ-đề, ta nói đó là Bồ-tát.

Này A-nan! Chúng sinh giới này, đã thoát ra khỏi cái màng phiền não, đã vượt qua tất cả khổ, trừ sạch mọi nhơ bẩn, rốt ráo, vắng lặng, sáng ngời, trong sạch. Vì nguyện kiến đối với các chúng sinh, vì pháp vi diệu thượng địa, vì Nhất thiết trí địa, vì hết thảy vô ngại. Trụ vào trong pháp ấy, đưa đến quả vị cùng tột, đắc pháp vương đại tự tại lực, ta nói đó là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này A-nan! Như Lai giới này, xưa nay vắng lặng, thảy đều không trở ngại, tự tại ở tất cả nơi trong ba vị. Ví như hư không tất cả các loại màu sắc, thì không thể nào che, không thể phủ đầy, không thể bít lấp được. Như những thứ đất, vàng, bạc ở trong hư không, cũng đều không có sự ngăn ngại; Như Lai giới cũng lại như vậy, đối với tất cả nơi ở trong ba vị, thảy đều không có sự ngăn ngại. Này Anan! Khi còn ở nhân địa, tất cả các Đức Như Lai, dựa vào như thật mà biết, dựa vào khả năng mà tu, xem năm thứ công đức của Như Lai giới, là không thể nói không hai tướng, xem cảnh giới không một không khác, vượt qua thấy hiểu, tất cả xứ đều một vị. Hàng Bồ-tát, trừ chúng sinh tướng, trừ pháp dị tướng, trừ đại kiết tướng. Ở trong sự liên tục của chúng sinh, các vị, dựa vào trí không ngại mà quán Như Lai giới, rồi khởi lên ý kỳ lạ: “Chao ôi, chúng sinh! Như Lai ở trong ngay thân của chúng sinh, theo lý thì không thể nào thấy được.” Thế cho nên, ta nói đầy đủ các phần thánh đạo, cởi mở sự che lấp trói buộc từ vô thủy, khiến cho các chúng sinh nhân sức Thánh đạo mà phá trừ sự trói buộc, tự mình có thể chứng kiến được sự bình đẳng chân thật của Như Lai đúng như lý. Vì sao như vậy? Vì tất cả chúng sinh, bị ràng buộc bởi sự chấp tướng, nên không nhận thức được Như Lai, không đạt được Như Lai, không thấy được Như Lai. A-nan! Khi xưa còn ở nhân địa, Như Lai quán sát, thông suốt, thấu rõ được Như Lai giới, hiểu được một cách đúng đắn về các pháp, là thảy đều bình đẳng, chính mình chuyển bánh xe pháp Vô thượng vi diệu, trực tiếp thành thục chúng thánh đệ tử, vô lượng, vô biên, cung kính vây quanh, trụ vào Vô dư Niết-bàn mát mẻ, cho đến thế giới cùng tận, cũng không bỏ làm việc lợi ích cho chúng sinh.

Này A-nan! Như Lai giới này, tự tánh trong sạch, không có tướng khác, không có sự sai biệt đối với chúng sinh, mà lại hết sức bình đẳng, trong mát, thấm nhuần, hết sức là nhu hiền tương ưng với họ. A-nan! Giống như tự tánh của nước là thấm nhuần. Nó có thể nhiếp, có thể thấm nhuần, có thể làm phát triển tất cả những cây cỏ, cây thuốc. Như vậy, này A-nan! Khi còn ở nhân địa tất cả chư Phật đều dựa vào Như Lai giới, mà tu hành căn lành, làm lợi ích cho chúng sinh. Vì việc này, mà các ngài phải trở lại nhập vào ba cõi, hiện sinh, già, bệnh, chết. Thế nên, những khổ về sinh, già… của các vị Bồ-tát chẳng phải chân thật mà có. Vì sao? Vì các vị đã thấy được như thật về Như Lai giới rồi. A-nan! Ví như có ông trưởng giả giàu, chỉ có một cậu con trai, ngay thẳng, thông minh. Ông ta thương yêu, trông nôm, nuôi dưỡng con mình, tình không tạm bỏ. Vì còn nhỏ, ham vui chạy nhảy, đứa trẻ này, bất ngờ trượt chân, té xuống hầm phân sâu lớn, nơi thây chết sình trướng, mục rã, hôi thối. Thấy con rớt xuống hầm, người mẹ của đứa bé này, cùng các họ hàng hoảng sợ la to: “Trời ơi, đau đớn thay! Âu sầu khổ não thay!” Mặc dù xót thương kêu gào, nhưng những người này, bản thân không đủ khả năng, lại khiếp nhược, không dám xuống hầm phân sâu ấy, để cứu thằng bé kia lên. Khi ấy, ông trưởng giả vội vàng về nhà. Vì lòng thương con quá đỗi, không ngại sợ hôi hám nhơ bẩn, ông ta tự xuống hầm, mà vớt thằng bé lên. Như vậy, A-nan! Ta nêu ví dụ này là muốn làm rõ nghĩa chân thật. Những điều ta nói như thây chết hầm phân thì ví như ba cõi; đứa con ấy thì ví cho hàng chúng sinh phàm phu; người mẹ và những họ hàng thì ví như hàng Thanh văn, Duyên giác; hàng Nhị thừa này, mặc dù thấy chúng sinh trôi nổi đắm chìm trong sinh tử, buồn rầu, thương xót, than thở, nhưng lại không đủ năng lực để cứu vớt, giúp họ thoát khỏi. Ông trưởng giả giàu có kia, chính là hàng Bồ-tát này. Những vị đấy, đã không còn tâm nhơ bẩn nữa, đã chứng thấy được pháp chưa từng học, rồi lại nhập vài nơi sinh tử, hôi hám, mà hiện thọ thân, cứu vớt chúng sinh.

A-nan! Ông nên biết, lòng đại Bi của hàng Bồ-tát như vầy, thật hiếm có, không thể nói được. Hàng Bồ-tát đây đã vượt ra ba cõi, cởi bỏ mọi ràng buộc; lại vào ba cõi thọ sinh trong ba cõi, nhờ nương theo phương tiện thiện xảo, nắm giữ Bát-nhã ba-la-mật, diễn thuyết chánh pháp, diệt khổ cho chúng sinh dù có phiền não cũng không thể nào vấy bẩn.

A-nan! Đó là vì oai thần lớn của giới của Như Lai này, không đổi khác, mềm dẻo, thấm nhuần.

A-nan! Ông nên biết! Chúng sinh giới này, chính là tánh của các bậc Thánh; không tu, không phải là không tu; không hành, không phải là không hành; không tâm, không có tâm pháp; không nghiệp, không có quả báo, không khổ, không vui, thì mới nhập vào được cõi này. Tánh này bình đẳng, nó không có tướng khác, nó xa lìa; nó tùy theo; nó rộng lớn, nó không ngã sở, nó không cao thấp, nó chân thật, nó vô tận, nó thường trụ, nó sáng trong.

Này A-nan! Thế nào gọi tánh này, là tánh của các bậc Thánh? Vì duyên vào tánh này, mà tất cả thánh pháp được thành tựu, vì dựa vào tánh này, mà tất cả Thánh nhân được hiển hiện, thế cho nên, ta mới nói, tánh đây, chính là tánh của các bậc Thánh.

Này A-nan! Nay ta nói về tánh của Như Lai. Trải qua hằng sa số, tất cả Như Lai bất cộng chân thật, từ pháp này ra, mà được hiển hiện, nên gọi là Như Lai giới. Vì tin ưa, hết lòng kính trọng chánh thuyết, nên thân giới, định, tuệ của tất cả các bậc Thánh hiền, liền được thành tựu. Bởi thế, pháp này được gọi là Pháp thân. Pháp đây, là pháp cùng tóm thâu, không cùng lìa, không xả bỏ trí, chẳng có hiểu biết; nó là y, là trì, là xứ. Hoặc là pháp này không cùng thâu tóm mà cùng lìa, xả bỏ trí, có hiểu biết cũng là y, là trì, là xứ. Thế nên, ta nói: Vì tất cả tạng pháp không đổi khác cho nên gọi là Như như; vì không điên đảo, nên gọi là thật tế; vì vượt thoát tất cả tướng, cho nên gọi là Niết-bàn. Vì cái nơi, mà các Thánh nhân hành trì, là cảnh giới vô phân biệt trí cho nên được gọi là Đệ nhất nghĩa.

A-nan! Như Lai giới ấy, chẳng có chẳng không, không đục, không sạch, tự tánh trong sáng, không dơ bẩn. Thế nên, ông phải học tập.

Này A-nan! Thế nào là Như Lai cảnh giới không thể nghĩ bàn? A-nan! Như Lai giới này, khi ở hữu cấu địa, thì cả pháp sạch lẫn pháp không sạch thảy đều hiện hữu. Nơi đây không thể suy nghĩ, cứ dựa vào lý sâu dày mà được giải thoát, thành A-la-hán, Bích-chi-phật thì đó chẳng phải là cảnh giới Như Lai. A-nan! Có hai loại pháp, không thể thông đạt được:

  1. Pháp giới của tự tánh trong sạch, không thể thông đạt.
  2. Cái nhơ bẩn của phiền não làm chướng ngại, không thể thông đạt.

Duy có bậc Bồ-tát Bất thoái chuyển tương ưng với đại pháp, là có khả năng nghe, có khả năng lãnh thọ, có khả năng tu trì. Trong khi đó, các vị Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, nhờ tin theo lời Phật dạy, cho nên mới biết được pháp này. A-nan! Như Lai là giới tánh, không thể nghĩ bàn.

 

Phẩm 3: BỒ-ĐỀ

Phật bảo A-nan:

–Thế nào là Như Lai Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Tại vô lậu giới, đối với tất cả hoặc và chướng, chư Phật, Thế Tôn đều đã hoàn dứt sạch, đã chuyển y vào nơi vắng lặng sáng trong. Quả vị Vô thượng Bồ-đề này cùng tương ưng với mười loại phần. Ông nên học tập. Vậy mười loại phần là những gì?

  1. Tự tánh.
  2. Nhân duyên.
  3. Hoặc, chướng.
  4. Chí quả.
  5. Tác sự.
  6. Tương nhiếp.
  7. Hành xứ.
  8. Thường trụ.
  9. Bất cộng.
  10. Không thể tư duy.

Này A-nan! Thế nào là tự tánh Bồ-đề? Nếu như lý như lượng mà tu đạo xuất ly, như mười Địa, sáu Ba-la-mật, thì những chuyển y đạt được, vắng lặng, trong sáng. Đấy chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác. Đó tức là tự tánh Bồ-đề. A-nan! Nếu chưa dứt trừ được bức màn phiền não, thì ta gọi, cõi ấy là Như Lai tạng hết sức trong sạch, gọi đó là pháp chuyển y. Có bốn loại tướng:

  1. Sinh khởi duyên.
  2. Diệt tận duyên.
  3. Chánh thục tư lương sở tri pháp quả.
  4. Tối thanh tịnh pháp giới thể.

Thế nào là sinh khởi duyên? Ra khỏi sự liên tục của Như Lai trong hết thảy cõi đời, đó là nơi sinh khởi duyên của đạo Bồ-đề. Thế nào là diệt tận duyên? Vì dựa vào pháp này, mà ba món căn bản của phiền não được hoàn toàn diệt tận. Thế nào là sở tri pháp quả? Đã thấu đạt một cách chân chánh, những điều hiểu biết về quả vị chứng đắc của chân như. Thế nào là pháp giới thể? Diệt các tướng kết, pháp giới rất sạch trong sẽ hiển hiện ra. A-nan! Đó là tướng chuyển y. Chuyển y ấy tức là Bồ-đề Vô thượng của các Đức Phật, Thế Tôn, nên gọi là tánh Bồ-đề.

Này A-nan! Có bốn pháp làm nguyên nhân, để chứng đắc Bồđề Vô thượng:

  1. Nguyện muốn tu tập pháp Ma-ha-diễn.
  2. Tu tập Bát-nhã ba-la-mật.
  3. Tu tập phá hư không Tam-muội môn.
  4. Tu tập đại Bi của Như Lai.

Này A-nan! Có bốn loại hoặc, ngăn che quả Bồ-đề:

  1. Vứt bỏ, quay lưng với pháp Đại thừa.
  2. Ngã kiến tà, chấp.
  3. Sợ khổ của sinh tử.
  4. Không làm việc lợi ích cho chúng sinh.

Này A-nan! Có bốn quả thắng Vô thượng Bồ-đề:

  1. Tối tịnh.
  2. Chân ngã.
  3. Diệu lạc.
  4. Thường trụ.

Bấy giờ, nghe Phật nói xong, từ giữa đại chúng Tôn giả A-nan đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối phải chạm đất, cung kính, đảnh lễ Thế Tôn, chắp tay hướng Phật, rồi đọc bài kệ:

Hay nói, hay làm lý sâu xa
Mãi độ chúng sinh, không lui bước
Vượt khỏi trói buộc, các sợ sệt
Nên con cúi lạy, hỏi Cù-đàm.
Pháp nào là nhân của Bồ-đề
Thế nào là chướng, là quả báo
Cúi xin Đức Đại Từ Đại Bi
Rủ lòng giảng rõ cho chúng con.

Khi ấy, Đức Thế Tôn cất lời khen:

–Hay thay! Này A-nan! Vì muốn làm nhiều lợi ích cho chúng sinh, vì muốn khiến cho hàng trời, người được đạo an vui, mà ông có thể hỏi Như Lai, về nghĩa lý lớn lao sâu xa này. Do đó, với lòng cung kính khát khao, ông hãy lắng lòng nghe mà tin thọ.

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Chúng con rất muốn được nghe.

Phật bảo A-nan:

–Trong thế gian có ba hạng chúng sinh:

  1. Trước hữu.
  2. Trước vô.
  3. Bất trước hữu vô.

Trước hữu có hai:

  1. Trái với đạo Niết-bàn, cho Niết-bàn không có tánh, không cầu Niết-bàn, lại ưa sinh tử.
  2. Trong giáo pháp ta, không sinh lòng khao khát mà lại chê bai Đại thừa.

–Này A-nan! Những chúng sinh này cho rằng, họ chẳng phải đệ tử của Phật, Phật chẳng phải là thầy lớn của họ, chẳng phải nơi để họ nương tựa. Như vậy, những người này, đã trụ vào chỗ ngu si ám muội, đã ở nơi đồng hoang, mà lại còn vào chỗ rừng cây tối tăm um tùm hôi hám, chắc chắn sẽ đọa vào chỗ tối tăm hiểm họa. Vì do bị sinh tử trói buộc, nên họ phải chịu thọ thân sau, sa vào lưới Xiển-đề, không để tự ra khỏi. Đắm trước nơi sự đoạn diệt, cũng có hai:

  1. Hành không phương tiện.
  2. Hành có phương tiện.

Hành không phương tiện, lại có hai hạng người:

  1. Chín mươi sáu hàng ngoại đạo, dị học, ở ngoài Phật pháp, như Chi-la-ca Ba-dục-bà…
  2. Ở trong Phật pháp hay sinh tín tâm, chấp chặt ngã kiến, không ưa chánh lý.

Ta nói hạng người này đồng với ngoại đạo. Lại có hạng người tăng thượng mạn, ở trong chánh pháp quán không, rồi sinh ra hai quan điểm không và có. Chân không này, hướng thẳng đến nhất đạo, tịnh giải thoát môn của Vô thượng Bồ-đề. Như Lai hiện rõ, mở bày chánh thuyết. Trong quan niệm sinh không, ta nói không thể trị. Anan! Nếu có người nào chấp vào ngã kiến, lớn như núi Tu-di, thì Ta không lấy làm kinh ngạc cũng không chê bai. Kẻ tăng thượng mạn dính mắc vào không kiến, như một sợi tóc chia thành mười sáu phần, ta không thể chấp nhận. Hành có phương tiện, cũng có hai hạng người:

  1. Hàng Thanh văn thừa, chỉ tu tự lợi, không làm việc lợi cho người.
  2. Duyên giác thừa, ít làm lợi ích cho người, trụ vào việc nhỏ, được ít mà cho là đủ.

Bất trước hữu vô là chỉ hàng tối thượng lợi căn, tu hành Đại thừa. Hạng người này, không chấp vào sinh tử như hạng xiển-đề, không hành không phương tiện như hàng ngoại đạo, không hành có phương tiện như hàng Nhị thừa. Thế nào là hành? Xem xét sinh tử và cõi Niết-bàn, bình đẳng một tướng, đến khi đạt được chánh đạo, tâm ý được an chỉ, trụ vào vô trụ xứ, trong sạch Niết-bàn, dạo chơi trong sinh tử mà không bị nhiễm ố, tu tâm đại Bi để làm căn bản, chí lực mạnh mẽ, vững chắc, không lay động.

Phật nói tiếp:

–Này A-nan! Nếu có người nào tham đắm vào ba loại hữu này, mà chê bai Đại thừa, thì người này gọi là Nhất-xiển-đề, rơi vào tà định tụ. Người nào đắm vào không hành không phương tiện, thì đọa vào bất định tụ. Người nào đắm vào không hành có phương tiện, không đắm vào đạo bình đẳng có hành hay không hành, thì gọi là chánh định tụ

A-nan! Ngoài hạng người không đắm vào có không mà tu hành bình đẳng ra, còn có bốn hạng:

  1. Nhất-xiển-đề.
  2. Ngoại đạo.
  3. Thanh văn.
  4. Duyên giác.

Vì những hạng này vẫn còn có bốn hoặc chướng, nên không thể chứng đắc được Pháp thân Vô thượng Bồ-đề của Như Lai. Vậy bốn hoặc chướng đó là gì?

  1. Xả bỏ Đại thừa là xiển-đề chướng. Để trừ chướng này, ta nói pháp chân chánh Đại thừa, mà hàng Bồ-tát tu hành tin ưa.
  2. Bất kể nơi nào, chấp vào ngã kiến một cách sai lầm, đó là ngoại đạo chướng. Để trừ chướng này, ta nói pháp Bát-nhã ba-la-mật, mà hàng Bồ-tát tu hành.
  3. Ở trong sinh tử, chán, sợ, mỏi, mệt là Thanh văn chướng. Để trừ chướng này, ta nói pháp môn phá hư không Tam-muội, mà hàng Bồ-tát tu hành.
  4. Quay lưng với việc làm lợi ích cho người, việc ít cho là đủ đó là Duyên giác chướng. Để trừ chướng này, ta nói lòng đại Bi mà Bồtát tu hành.

Đấy là bốn hạng người, có bốn hoặc chướng. Để trừ những hoặc chướng này, ta nói bốn Thánh đạo. Dựa vào thắng đạo này, mà trị bốn thứ điên đảo, thì mới có thể chứng bốn đức Ba-la-mật quả, của Pháp thân rất tốt đẹp, cao cả của Như Lai được.

Này A-nan! Đối với các pháp sắc… tất cả đều vô thường, lại sinh ý tưởng là thường; các pháp đều khổ mà sinh ý tưởng là vui; các pháp vô ngã mà sinh ý tưởng có ngã; các pháp không sạch mà sinh ý tưởng sạch, đó gọi là điên đảo. Quán pháp của các sắc… là vô thường, là khổ, vô ngã, không sạch, không có cái tên điên đảo, thì gọi là không điên đảo. Nếu quán Pháp thân diệu đức của Như Lai, tức thành ra là điên đảo. Để trị loại điên đảo này, ta nói bốn đức của Pháp thân Như Lai. Những gì là bốn?

  1. Thường trụ Ba-la-mật.
  2. An vui Ba-la-mật.
  3. Chân ngã Ba-la-mật.
  4. Trong sạch Ba-la-mật.

A-nan! Vì chấp vào năm uẩn bên trong, rồi khởi lên điên đảo kiến, cho nên, tất cả hàng phàm phu ở trong vô thường mà sinh ra thường kiến; ở trong thật khổ mà sinh ra lạc kiến; ở trong vô ngã mà sinh ra ngã kiến; ở trong không sạch mà sinh ra kiến sạch. A-nan! Pháp thân Như Lai là cảnh giới, của Nhất thiết chủng trí. Bởi điên đảo tu tập không thể chặt đứt những điên đảo này; do đó hàng Thanh văn, Duyên giác, không thể quán sát Pháp thân của Như Lai. Vì sao? Vì Pháp thân Như Lai là hơn hết, thường trụ phải nên tu tập; nên trái với thường trụ mà tu, trụ vào vô thường mà tu. Pháp thân Như Lai là cao tột, an vui, mầu nhiệm, phải tu tập, nên trái với an vui, mầu nhiệm mà tu, trụ vào khổ mà tu. Pháp thân Như Lai là hơn hết chân ngã nên phải tu tập, trái với chân ngã mà tu, trụ vào vô ngã mà tu. Pháp thân Như Lai là vô cùng trong sạch, phải nên tu tập nên trái với trong sạch mà tu, trụ vào không sạch mà tu. Nhân theo điên đảo mà tu, theo đạo Thanh văn, Duyên giác mà trụ, thì đó, chẳng phải là cách, để đạt tới bốn đức của Pháp thân Như Lai. Thế nên, bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Pháp thân Như Lai, chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác ấy.

A-nan! Nếu chúng sinh nào, tin những lời Như Lai dạy, thì có thể thấy được bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, của Pháp thân Như Lai. Không có tâm điên đảo, do đó, những chúng sinh này, mới phát khởi chân chánh kiến. Vì sao? Này A-nan! Pháp thân Như Lai là Chân, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Ba-la-mật. Nếu có chúng sinh nào, dựa vào đạo thắng diệu, quán Pháp thân Như Lai, thì những chúng sinh này, họ từ chỗ sáng vào chỗ sáng, từ chỗ ẩn yên đến chỗ vui hơn. Những chúng sinh này, mới chính là đệ tử chân chánh của Phật. Lòng Phật thương yêu và nhớ nghĩ, những chúng sinh này, từ Phật khẩu sinh ra, nên thành tựu được quả Phật; từ pháp hóa sinh, nên mới được pháp tài phần.

A-nan! Hạng Nhất-xiển-đề, vứt bỏ, quay lưng với chánh pháp, lại sinh tâm tham muốn sự hôi hám của sinh tử. Để trừ loại hoặc chướng này, ta nói phải tu hành, nguyện ưa thích Đại thừa, nương tựa vào pháp này, sẽ được quả vô cùng sạch.

A-nan! Tất cả ngoại đạo, do tà chấp ngã kiến, mà sinh ra sự chìm đắm dính mắc. Các pháp sắc… đều là những pháp không ngã tướng không tranh giành. Ba đời chư Phật ở mọi nơi và cả ta, đều nói là chân ngã. Hàng ngoại đạo này chấp năm ấm bên trong, khởi ngã kiến, tâm an ổn sướng vui. Để phá hoặc chướng này, thế nên ta nói, tu tập Bát-nhã ba-la-mật, nương theo pháp này, sẽ đạt được chân ngã quả.

A-nan! Để trừ loại chấp, do kinh sợ sinh tử, ở nơi khổ diệt, sinh ra vui thích, của hàng Thanh văn, ta nói tu tập phá hư không Tammuội môn, nếu nương theo pháp này, sẽ đạt được cụ túc phần, ở thế gian và xuất thế gian được vui với quả Ba-la-mật.

A-nan! Bởi hàng Duyên giác, không thể xem xét, làm việc lợi cho người, không hòa hợp, sống với chúng sinh khác, mà chỉ ở một mình, suy nghĩ, tâm vui sướng, an ổn; nên để trừ loại chấp này, ta nói tu tập lòng đại Bi của Bồ-tát, phải dựa vào pháp này luôn luôn biến khắp mười phương; vì các chúng sinh mà làm các việc lợi ích, lấy đó làm chỗ lưu trú và luôn được trụ ở quả Ba-la-mật.

A-nan! Nương theo bốn đức này, tất cả Như Lai thật xứng pháp giới, không chấp vào có và không, như hư không rộng lớn tu không giới, tối cứu cánh, trải qua ba đời hoàn toàn được an trụ.

A-nan! Vì có bốn loại chướng này, mà tất cả hàng A-la-hán, Bích-chi-phật, đại địa Bồ-tát không đạt được bốn đức Ba-la-mật của Pháp thân Như Lai. Bốn đức đó là gì?

  1. Sinh duyên hoặc.
  2. Sinh nhân hoặc.
  3. Hữu hữu.
  4. Vô hữu.

Thế nào là sinh duyên hoặc? Tức là vô minh trụ địa sinh ra tất cả hành, như vô minh sinh nghiệp vậy.

Thế nào là sinh nhân hoặc? Tức là vô minh trụ địa nơi đã sinh các hành, thí như vô minh đã sinh ra các nghiệp vậy.

Thế nào là hữu hữu? Duyên vô minh trụ địa, nhân vô minh trụ địa, mà khởi lên vô lậu hành, ba loại ý sinh thân, thí như bốn thủ làm duyên, ba hữu lậu nghiệp làm nhân, khởi lên ba loại hữu.

Thế nào là vô hữu? Duyên ba loại ý sinh thân, không thể hiểu biết được những sự đọa diệt rất nhỏ, thí như trong duyên ba hữu sinh ra mỗi niệm về lão tử.

Vô minh trụ địa, tất cả phiền não, là chỗ nương dựa của những gì chưa đoạn trừ hẳn. Các A-la-hán, Bích-chi-phật và tự tại Bồ-tát, không thấy một cách thấu đáo, về sự nhơ bẩn của phiền não, sự hôi hám của tập khí, sự rốt ráo diệt tận, đại tịnh Ba-la-mật. Nhân vô minh trụ địa, mà khởi khinh, tưởng, hoặc, lại có những hành động giả dối nên chưa thể diệt trừ được, không thể thấy thấu đáo không tạo, không làm, rất vắng lặng đại ngã Ba-la-mật. Duyên vô minh trụ địa, nhân giả dối vi tế, khởi lên vô lậu nghiệp. Ý sinh các ấm, vì chưa trừ sạch, nên không thấy một cách thấu đáo sự tận diệt, xa lìa, đại lạc Ba-la-mật. Nếu chưa có thể đến mức độ, diệt trừ hết sạch các phiền não, các nạn do nghiệp sinh, thì đó là chư Như Lai, là cõi cam lồ, tức biến dịch sinh tử chấm dứt hẳn vô lượng dòng sinh diệt, không thấy đến tận cực vô biến dị, đại thường Ba-la-mật. A-nan! Ở trong ba cõi, có bốn loại nạn:

  1. Nạn về phiền não.
  2. Nạn về nghiệp.
  3. Nạn về quả báo sinh ra.
  4. Nạn về sự lỗi lầm.

Vô minh trụ địa là chỗ khởi phương tiện sinh tử, như là các nạn của phiền não trong ba cõi. Vô minh trụ địa là chỗ khởi nhân duyên sinh tử như là các nạn của nghiệp trong ba cõi. Vô minh trụ địa là chỗ khởi hữu hữ sinh tử, như sinh nạn trong ba cõi. Vô minh trụ địa là chỗ khởi vô hữu sinh tử, như là các nạn lỗi lầm trong ba cõi. Này A-nan! Ông nên biết như vậy. Vì bốn loại sinh tử mà chưa trừ diệt, thì thân sinh ba loại ý và sẽ không có quả Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Ba-lamật, chỉ có Pháp thân Phật là Thường, là Lạc, là Ngã, là Tịnh, là Bala-mật. Ông nên học tập.

Này A-nan! Pháp thân Như Lai đại Tịnh ba-la-mật, nên biết có hai loại:

  1. Tự tánh trong sạch là thông tướng của nó.
  2. Vô cấu trong sạch là biệt tướng của nó.

Đại Ngã ba-la-mật nên biết có hai loại:

  1. Xa lìa tất cả các tà chấp của các ngoại đạo, ra khỏi ngã kiến giả dối.
  2. Xa lìa chấp sai lầm về lý của hàng Nhị thừa, ra khỏi vô ngã giả dối.

Đại Lạc ba-la-mật, nên biết có hai thứ:

  1. Cắt đứt nguồn gốc của khổ tập, cởi bỏ mọi ràng buộc của tập khí thì có thể chứng đắc được tất cả khổ diệt.
  2. Vì ý sinh các ấm nên chặt bỏ trừ diệt hết cả.

Đại Thường ba-la-mật, nên biết có hai loại:

  1. Không làm tổn giảm các hành vô thường, vì vượt ra khỏi đoạn kiến.
  2. Cũng không làm tăng lợi ích Niết-bàn thường trụ, vì đã vượt ra khỏi thường kiến.

Nếu cho các hành là vô thường, thì gọi là đoạn kiến; nếu cho Niết-bàn là thường trụ thì gọi là thường kiến. Trị bốn hoặc chướng, lật ngược lại bốn thứ điên đảo thì Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là chân quả của nó.

Này A-nan! Thế nào là lợi ích Bồ-đề, có hai loại trí:

  1. Vô phân biệt trí.
  2. Vô phân biệt hậu trí.

Hai loại trí này lại có hai loại việc:

  1. Vì lợi mình mà thành tựu.
  2. Vì lợi người mà thành tựu.

Thế nào là lợi mình? Là thân được tròn đầy giải thoát, là thân gìn giữ pháp sạch, diệt chướng phiền não và chướng Nhất thiết trí, gọi là lợi mình. Trí vô phân biệt, có khả năng thành tựu được pháp này.

Thế nào là lợi người? Từ vô phân biệt hậu trí, cho đến dứt sạch ngằn mé sinh tử, không khởi lên sự suy nghĩ so lường, hiện rõ hai loại thân, thuyết pháp vô cùng, không gián đoạn và không có hạn lượng; vì đã cởi bỏ cái khổ của ba nẻo ác, cái khổ của sinh tử; vì muốn thiết lập sự an ổn cho tất cả chúng sinh, đặt ở nơi đường lành, trụ vào ba thừa, gọi là lợi người.

Lại nữa, lợi mình cùng với ba phần công đức, hoàn toàn không tách rời nhau:

  1. Vô lậu.
  2. Biến mãn.
  3. Vô vi.

Lại nữa, lợi người không hoàn toàn tách rời với bốn phần công đức, cứu giúp chúng sinh không cho rơi vào bốn chỗ:

  1. Vọng kiến, si mê, nghi hoặc.
  2. Khổ đạo, ác đạo, đọa đạo.
  3. Đem tâm ganh ghét, đem tâm oán kết, mà phá hoại chánh giáo.
  4. Đem tâm thấp hèn, mà tham ưa Tiểu thừa.

Này A-nan! Nếu khởi lên hai việc lợi mình lợi người này, thì đó là việc Bồ-đề.

A-nan! Thế nào gọi là pháp Bồ-đề tương ưng? Vô thượng Bồ-đề là tướng chân thật, có mười chín loại pháp cùng tương ưng với Vô thượng Bồ-đề:

  1. Không thể so lường.
  2. Rất nhỏ.
  3. Chân thật.
  4. Đạo lý sâu dày.
  5. Không thể thấy.
  6. Khó thông đạt.
  7. Luôn.
  8. Ở.
  9. Vắng lặng.
  10. Mãi mãi.
  11. Trong lành.
  12. Đầy khắp.
  13. Không phân biệt.
  14. Dính mắc.
  15. Không ngại.
  16. Tùy thuận.
  17. Không thể chấp.
  18. Đại tịnh.
  19. Chứng tịnh.

Mười chín pháp này, mãi mãi không tách rời với Vô thượng Bồđề, cho nên gọi là Bồ-đề tương ưng.

Này A-nan! Thế nào là Bồ-đề hành xứ? Có ba loại đạo lý hiển hiện ba thân:

  1. Đạo lý sâu dày.
  2. Đạo lý rộng lớn.
  3. Đạo lý vạn đức.

Này A-nan! Thân thứ nhất, tương ưng với năm loại tướng và với năm loại công đức. Vậy năm loại tướng là gì?

  1. Vô vi.
  2. Không rời nhau.
  3. Lìa hai bên.
  4. Thoát khỏi chướng.
  5. Tự tánh trong sạch.

Thế nào là năm thứ công đức?

  1. Không thể lường.
  2. Không thể đếm số.
  3. Khó nghĩ.
  4. Không cùng nhau.
  5. Rốt ráo trong sạch.

Thân thứ hai là chỗ hiển hiện của Pháp thân tịnh lưu, với hết

thảy vô lượng công đức của Như Lai, lấy đại Bát-nhã đại Bi làm thể, tương ưng với năm thứ công đức:

  1. Tướng không phân biệt.
  2. Tâm không công dụng.
  3. Làm việc lợi ích xứng với ý của chúng sinh.
  4. Không tách rời với Pháp thân.
  5. Mãi vậy, không lúc nào bỏ chúng sinh.

Thân thứ ba là những màu sắc mà Bát-nhã, đại Bi, tịnh lưu đã hiển hiện làm thể, cùng tương ưng với bốn phần công đức:

  1. Ba mươi hai tướng.
  2. Tám mươi vẻ đẹp.
  3. Oai đức.
  4. Sức.

Bốn phần công đức này, có khả năng tương nhiếp, tương ưng với căn, dục, tánh, hạnh, của các chúng sinh, lại hiện ra các việc như việc bản sinh ở nơi cõi Phật nhớp nhúa; hoặc hiện cảnh bay lên cõi trời Đâu-suất, hoặc hiện cảnh từ trên cõi trời Đâu-suất xuống; hoặc hiện cảnh giáng thần vào thai mẹ; hoặc hiện mới sinh ra khỏi thai, hoặc hiện đầy đủ Na-la vị; hoặc hiện cảnh thọ học mười tám minh xứ; hoặc hiện các cuộc đi chơi ở sau vườn; hoặc hiện xuất gia; hoặc hiện khổ hạnh; hoặc đến đạo tràng hoặc than h Phật đạo; hoặc chuyển xe diệu pháp ở Ba-la-nại; hoặc nhập Niết-bàn ở rừng Kiên cố. Những việc hiện ra như vậy, cho đến mãi tận ngằn mé cuối cùng của sinh tử. Này A-nan! Vô thượng Bồ-đề nhiếp tất cả ba thân, thế cho nên, gọi là Bồ-đề hành xứ.

Này A-nan! Thế nào là pháp thường trụ Vô thượng Bồ-đề? Pháp thường trụ này, có hai pháp làm nhân duyên:

  1. Không sinh không diệt.
  2. Không cùng không tận.

Thế nên, gọi là pháp Vô thượng Bồ-đề. A-nan! Thế nào là Vô thượng Bồ-đề bất cộng tướng? Bất cộng có hai loại:

  1. Không thể biết: Như các hàng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác thì không thể thông đạt; vì chẳng phải là cảnh giới của họ.
  2. Không thể nắm bắt: Ngoài Phật ra, những hàng khác đều không thể đạt được.

Pháp Bất cộng này, có năm loại:

  1. Lý Như như, sâu xa.
  2. Tự tại không thể lay động.
  3. Trong sạch cõi vô lậu, là chỗ thâu tóm.
  4. Tất cả mọi chỗ biết, không ngăn ngại.
  5. Làm lợi ích cho chúng sinh mà làm cho tròn đầy.

Nên gọi là Bồ-đề không cùng với tướng.

–Này A-nan! Thế nào là Vô thượng Bồ-đề không thể suy nghĩ? Có sáu nguyên nhân, không thể suy nghĩ:

  1. Vượt quá cảnh giới của ngôn ngữ.
  2. Thuộc về Đệ nhất nghĩa đế.
  3. Vượt quá sự suy nghĩ, phân biệt, hiểu biết, quán xét.
  4. Những ví dụ không thể đạt tới được.
  5. Đối tất cả pháp là phẩm cao tột hơn cả.
  6. Không thể thiết lập sự an ổn nơi sinh tử, Niết-bàn.

Đó gọi là Vô thượng Bồ-đề không thể suy nghĩ. Này A-nan! Vì sao gọi Như Lai là Vô thượng Bồ-đề không thể nghĩ bàn? A-nan! Tất cả Như Lai trụ vào Vô thượng Bồ-đề. Có năm thứ nhân duyên không thể nghĩ bàn:

  1. Tự tánh.
  2. Xứ.
  3. Trụ.
  4. Chẳng một chẳng khác.
  5. Làm lợi ích.

Này A-nan! Thế nào gọi Như Lai là tự tánh Bồ-đề không thể nghĩ bàn? Nếu dựa vào sắc mà cho là Như Lai, thì không thể được; lìa sắc mà cho là Như Lai cũng không thể được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Cho địa giới là Như Lai, thì không thể được; lìa địa giới mà cho là Như Lai, thì cũng không thể được. Cả cõi nước, lửa, gió cũng như vậy. Cho nhãn nhập là Như Lai, thì không thể được; lìa nhãn nhập cho là Như Lai cũng không thể được. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy. Cho hữu pháp là Như Lai không thể được, vô pháp cũng như vậy. Đó gọi là tánh Bồ-đề không thể nghĩ bàn.

Này A-nan! Thế nào gọi Như Lai là Bồ-đề xứ, không thể nghĩ bàn? Như Lai ở cõi dục không thể nghĩ bàn; lìa cõi Dục cũng không thể nghĩ bàn. Cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy. Như Lai trong loài người không thể nghĩ bàn; lìa loài người, cũng không thể nghĩ bàn. Sáu đường cũng như vậy. Như Lai ở phương Đông, không thể nghĩ bàn; lìa phương Đông cũng không thể nghĩ bàn. Mười phương cũng như vậy. Đó gọi là xứ, cũng không thể nghĩ bàn.

Này A-nan! Thế nào gọi Như Lai là Bồ-đề trụ không thể nghĩ bàn? Này A-nan! An vui trụ vào trụ của Như Lai, không thể nghĩ bàn; vắng lặng trụ vào Như Lai trụ, không thể nghĩ bàn; có tâm trụ Như Lai trụ, không thể nghĩ bàn; không tâm trụ Như Lai trụ, không thể nghĩ bàn. Như vậy, cả Phạm trụ, Thánh trụ, Như Lai trụ, cũng không thể nghĩ bàn. Đó gọi là trụ, không thể nghĩ bàn.

Này A-nan! Thế nào gọi Như Lai là nhất dị không thể nghĩ bàn? Ba đời Như Lai, trụ vào một nơi. Thế nào gọi là một nơi? Pháp giới vô lậu, tự tánh trong sạch, đó là các Đức Như Lai hoặc chẳng một hoặc chẳng khác, không thể nghĩ bàn. Thế nên gọi là nhất dị không thể nghĩ bàn.

Này A-nan! Thế nào gọi Như Lai là việc lợi ích không thể nghĩ bàn? Một pháp giới như vậy của các Đức Như Lai, thì trí tuệ, thần lực, oai đức, chánh cần, đều bình đẳng, trụ nơi pháp giới thanh tịnh vô lậu. Do sự chuyển y này, các Đức Như Lai, có khả năng làm vô lượng lợi ích cho chúng sinh. Đó gọi là lợi ích không thể nghĩ bàn. Lại nữa không thể nghĩ bàn còn có hai thứ:

  1. Không thể nói năng, vì vượt khỏi cảnh giới của ngôn ngữ.
  2. Ra khỏi tất cả thế gian, vì ở trong thế gian, không thể thí dụ được.

Đó gọi là không thể nghĩ bàn. Lại nữa, chân như vốn không bị nhiễm, vốn không nhơ bẩn, cũng không thể nghĩ bàn. A-nan! Đó gọi là Bồ-đề không thể nghĩ bàn.

 

QUYỂN HẠ

Phẩm 4: CÔNG ĐỨC CỦA NHƯ LAI

Phật bảo A-nan:

–Có một trăm tám mươi pháp Bất cộng, đó là công đức tốt đẹp nhất của Như Lai.

  1. Ba mươi hai tướng.
  2. Tám mươi vẻ đẹp.
  3. Sáu mươi tám pháp.

Thế nào gọi là ba mươi hai tướng? Bồ-tát tu bốn nhân duyên:

  1. Trì giới.
  2. Thiền định.
  3. Nhẫn nhục.
  4. Xả bỏ của cải và các phiền não.

Do nghiệp duyên tu bốn nhân duyên này vững chắc, không lay động, nên đạt được hai tướng:

  1. Bàn chân bằng phẳng, đầy đặn, những nơi chân giẫm lên, thảy đều bằng phẳng, xứng với chân của Bồ-tát không có lồi lõm.
  2. Bước đi ngay thẳng, không xiêu vẹo.

Nếu như đem tất cả mọi thứ cúng dường cha mẹ, sư trưởng; đem mọi thứ cứu giúp những chúng sinh khổ nạn, ở quá khứ, vị lai thường làm việc siêng năng như vậy, thì dựa theo nghiệp duyên này; hàng Bồ-tát, sẽ được tướng bánh xe dưới lòng bàn chân, vành trục bánh xe xó một ngàn cây căm trang nghiêm. Nếu không bức não người khác, không làm việc trộm cắp, không sinh tâm tham đoạt, khi thấy những vật của người khác dù ta ham muốn, không cho mình cao ngạo kiêu căng, trừ bỏ kiêu mạn; đối với những bậc tôn trưởng, khởi lòng trân trọng, đứng hầu, chiêm ngưỡng, chắp tay, cung kính, do nghiệp duyên này, hàng Bồ-tát sẽ đạt được hai tướng:

  1. Ngón tay tròn dài.
  2. Thân hình cân đối, đoan chánh, trang nghiêm.

Nếu đủ ba nghiệp nhân duyên trước, thì được gót chân dài. Nếu do trước, hành ba nghiệp, lại tu bốn Nhiếp pháp, làm lợi ích cho người, thì ở giữa mười ngón của tay và chân, thảy đều có màng lưới kín, giống như ngỗng chúa. Nếu Bồ-tát giúp đỡ, hầu hạ, cha mẹ, sư trưởng, tự tay thoa dầu, làm sữa, dán thuốc, xoa bóp, tắm rửa, giặt giũ, dâng thức ăn, trông nom chăm sóc, thì tay chân sẽ được mềm mại, mịn màng, lòng bàn tay đỏ như hoa sen màu hồng. Nếu hàng Bồ-tát tu các pháp lành, tâm không chán mệt, ngày càng tăng trưởng, thì được gót chân đầy đặn. Nếu tu học chánh pháp, diễn nói cho người, luôn luôn hướng dẫn cho người, không sinh mỏi mệt, thì do nghiệp duyên này, hàng Bồ-tát, sẽ được tướng đứng, như thế đứng của nai chúa. Bồ-tát, nếu pháp nào chưa biết, siêng năng tìm cầu muốn biết, pháp đã đạt được liền đem giáo hóa, làm lợi ích cho người; đối với ba ác nghiệp, ngăn chặn, dứt trừ, không cho khởi; đối với ác pháp sáu trần, không cho thân tâm nhiễm; đối với người thân bệnh, thì đem cho họ thuốc thang, đối với người tâm bệnh thì an ủi họ, do nghiệp duyên này, Bồ-tát sẽ đạt được thân đoan trực. Nếu Bồ-tát, thấy người sợ hãi, thì giúp đỡ họ, thấy người nghèo thì cho họ cơm áo, luôn luôn ôm lòng hổ thẹn, ngăn chặn điều ác, không cho khởi lên, do nghiệp duyên này, nên được tướng âm mã tàng. Nếu Bồ-tát với thân, miệng, ý, thường khiến cho trong sạch, nhận đồ cho biết đủ, sử dụng cũng biết lượng sức mình, đem thuốc thang cho người bệnh, đem tiền của cho người nghèo; nếu có những chúng sinh, nghiệp lực không bình đẳng, cho đến việc thọ dụng cũng không bình đẳng, thì khuyến khích họ tu hành những việc bình đẳng; do nghiệp duyên này, được thân vuông vắn cân đối, chiều ngang và chiều cao thân hình cân xứng như cây Ni-câu-loại. Bồ-tát nếu dùng phương tiện khéo léo, tu các pháp lành thù thắng, không ở mức giữa hay thấp mà thường khiến cho tăng lên; do nghiệp duyên này, nên được những sợi lông trên toàn thân, đều xoắn theo phía bên phải. Bồ-tát nếu tự tánh lanh lợi suy nghĩ nhiều về nghĩa lý, gần kề những bậc Trí, gặp gỡ những bạn lành tri thức, quét dọn sạch sẽ nơi bậc tôn trưởng ở, tắm rửa xoa bóp thân thể tôn trưởng, trừ bỏ những thứ dơ dáy ở nơi chi đề, không để cho tâm bị khách trần phiền não làm nhiễm ố; do nghiệp duyên này, nên da bọc ở mỗi lỗ chân lông, mịn màng không bụi bám. Bồ-tát, nếu vui vẻ đem cho những thứ như quần áo, đồ ăn, thức uống, xe cộ, đồ nằm ngồi và các vật trang nghiêm khác, mà không có tâm tiếc rẻ; do nghiệp duyên này, nên thân có được sắc vàng ánh sáng rực rỡ, tỏa rộng một trượng. Nếu Bồ-tát nào, đem những món ăn, thức uống thơm ngon, cho rộng rãi, không hạn lượng, khiến nhiều chúng sinh được no đủ, thì do nghiệp duyên này, sẽ được bảy chỗ đầy đặn. Nếu Bồ-tát nào, thấy những chúng sinh tốt, muốn khởi pháp lành, cùng chánh nghiệp, thì với chúng sinh ấy, nên làm người thầy hướng dẫn cho họ, tạo sự an ổn trong pháp lành, trừ bỏ những việc ác, do nghiệp duyên này, được như cái ức của sư tử. Nếu Bồ-tát nào, ở trong chúng sinh, làm việc lợi ích, tu bốn chánh cần, như tâm của sư tử chúa, không điều gì sợ cả, do nghiệp duyên này, nên sẽ được hai tướng:

  1. Hai vai ngang, bằng hai nách đầy đặn.
  2. Hai cánh tay tròn thẳng như vòi voi chúa, đứng thòng dài quá gối.

Nếu Bồ-tát nào, lìa nghiệp hai lưỡi, nói những lời hòa hợp trong sự oán ghét, thực hành bốn Nhiếp pháp, thâu tóm và giữ lấy chúng sinh, ngẫm nghĩ nghĩa lý sâu xa, tu lòng từ bình đẳng, thì do nghiệp duyên này mà được hai tướng:

  1. Miệng có bốn mươi cái răng bằng khít, không thưa, trắng như tuyết, giống như ngọc kha lê.
  2. Có bốn cái răng được tướng như mặt trăng mới mọc.

Nếu Bồ-tát nào, thấy các chúng sinh, có điều cần muốn, bèn ban phát cho họ vừa ý, hoặc là tiền của, hoặc là những lời dạy dỗ, vì do nghiệp duyên này, nên sẽ được hai tướng:

  1. Hai gò má như má của sư tử.
  2. Cổ tròn sạch.

Nếu Bồ-tát nào trông nom chúng sinh, như trông con một của mình, sinh nhiều tín tâm, lòng từ vô lượng, phân phát thuốc men không có tâm vẩn đục, vì do duyên này, nên được hai tướng:

  1. Yết hầu có đủ một ngàn mạch, khi nhận đồ ăn ngon nước miếng trôi chảy thấm nhuần.
  2. Khớp xương móc xích chặt chẽ như Na-la-diên.

Nếu Bồ-tát nào tự hành mười điều lành, dạy người khác tu hành, thấy người tu hành thì vui mừng khen ngợi, lòng đại Bi vô lượng, thương xót chúng sinh, phát tâm thệ nguyện rộng lớn thọ lãnh đủ chánh pháp, vì do nghiệp duyên này, nên có được hai tướng:

  1. Có Uất-ni-sa xương đỉnh đầu mọc lên, tự nhiên thành nhục kế.
  2. Lưỡi rộng, mỏng, dài như lá hoa sen.

Nếu Bồ-tát nào, thường nói những lời chân thật, những lời thương yêu, những lời đẹp đẽ, diễn bày chánh pháp, không khiến cho điên đảo; do nghiệp duyên này, nên có được âm thanh của Phạm thiên, giống như chim Ca-lăng-tần-già, có âm hưởng nhiệm mầu, sâu xa, như tiếng vang của trống trời. Nếu Bồ-tát nào khởi lòng Từ, cung kính, xem hết thế gian như cha mẹ, xem xét chúng sinh, không khởi ba độc, vì nghiệp duyên này, nên có được hai tướng:

  1. Tròng mắt xanh đẹp như hoa Ưu-bát-la.
  2. Lông mi xanh biếc, sáng rỡ, như ngưu vương.

Nếu Bồ-tát nào, thấy những chúng sinh tốt, tu học ba pháp, thì ca tụng khen ngợi sự tốt đẹp của họ, không khởi lên sự phá phách; thấy người nào chê bai thì ngăn chặn, gìn giữ, do nghiệp duyên này, nên có tướng bạch hào nằm ở đoạn giữa hai chân mày, xoay theo hướng phải. Lại nữa, A-nan! Bồ-tát tu hành bốn loại chánh nghiệp, sẽ được ba mươi hai tướng:

  1. Quyết định không lẫn lộn.
  2. Lắng lòng quán sát kỹ và kín đáo.
  3. Thường tu không gián đoạn.
  4. Không có hạnh điên đảo.

Nghiệp duyên thứ nhất được bàn chân đầy bằng. Nghiệp duyên thứ hai được chín tướng:

  1. Tướng bánh xe dưới lòng bàn chân.
  2. Mắt cá tròn đầy.
  3. Mười ngón tay và chân có màng lưới mỏng.
  4. Da dẻ mịn màng.
  5. Được bảy nơi đầy đặn.
  6. Hai vai ngang bằng, hai nách đầy đặn.
  7. Cánh tay tròn trịa.
  8. Lưỡi rộng dài.
  9. Ức như sư tử.

Nghiệp duyên thứ ba được năm tướng:

  1. Ngón tay nhỏ, dài.
  2. Gót chân dài.
  3. Thân ngay thẳng không uốn cong.
  4. Thân hình cân đối.
  5. Cổ tròn, sạch.

Nghiệp duyên thứ tư được các tướng khác.

Lại nữa, này A-nan! Nếu như tất cả chúng sinh trong mười phương, đều hành mười điều lành, công đức này được tăng thêm gấp trăm lần, do nghiệp duyên đấy, chỉ được tướng một sợi lông nhập vào tất cả sợi lông của Bồ-tát. Công đức càng tăng thêm gấp trăm lần, rồi sau đó, mới được một vẻ đẹp, nhập vào tất cả vẻ đẹp của Bồ-tát. Công đức càng tăng thêm gấp trăm lần, rồi sau đó mới được một tướng, nhập vào tất cả tướng công đức của Bồ-tát. Lìa tướng bạch hào, lìa tướng Uất-ni-sa, như vậy, công đức ngày càng tăng thêm gấp trăm lần, mới được tướng bạch hào; lại tăng thêm gấp trăm lần nữa, thì được tướng Uất-ni-sa. Nhập vào tướng Uất-nisa, công đức tăng thêm gấp ngàn lần, được thâu nhiếp bởi tướng tốt của pháp Bất cộng, của ngọc thượng kha, của Như Lai. Do tướng tốt này, một tiếng của Như Lai, vang khắp cả vô lượng thế giới trong mười phương.

Này A-nan! Đó là ba mươi hai tướng, có ba nhân duyên không thể nghĩ bàn:

  1. Thời tiết không thể nghĩ bàn, số lượng tu hành đầy cả ba atăng-kỳ kiếp.
  2. Tâm vui không thể nghĩ bàn, vì để làm an vui lợi ích, cho tất cả chúng sinh.
  3. Phẩm loại không thể nghĩ bàn, là tu tất cả đều lành, lìa tất cả điều ác, vì chủng loại không cùng vậy.

Thế cho nên, thân Như Lai đầy đủ tướng hảo, không thể nghĩ bàn.

Này A-nan! Tám mươi vẻ đẹp của Như Lai. Những gì là tám mươi?

  1. Không thấy được đỉnh đầu.
  2. Xương đỉnh đầu không có mạch máu.
  3. Trán rộng, bằng thẳng.
  4. Mày cao, dạng giống như mặt trăng mới mọc, màu sắc xanh biếc, như ngọc lưu ly.
  5. Mắt rộng dài.
  6. Mũi cao rộng thẳng, lỗ mũi không hiện ra.
  7. Tai rộng, dày, dài, trái tai thòng xuống.
  8. Thân chắc thật như Na-la-diên.
  9. Mỗi phần của thân, không thể hoại.
  10. Mỗi đốt xương của thân chắc, khít.
  11. Mỗi lần thân quay trở như voi chúa.
  12. Thân mềm mại.
  13. Thân không từng khúc.
  14. Thân luôn trẻ.
  15. Thân thấm nhuần.
  16. Thân tự gìn giữ, không đi xiêu vẹo.
  17. Mỗi phần của thân đều đầy đủ.
  18. Sự hiểu biết đầy đủ.
  19. Dung nghi đầy đủ.
  20. Oai đức vang xa.
  21. Tùy thuận người khắp mọi nơi.
  22. Ở nơi an ổn, không thể lay động.
  23. Khuôn mặt cân đối, không lớn không dài.
  24. Khoan dung.
  25. Khuôn mặt trong sáng như ánh trăng rằm.
  26. Mặt đầy đặn.
  27. Dung mạo ngay thẳng, không mất sắc.
  28. Dáng vẻ như sư tử.
  29. Đi đứng như voi chúa.
  30. Thực hành pháp như ngỗng chúa.
  31. Đầu như trái Na-đà-na.
  32. Chân đầy đặn, khi đi dấu hoa văn ở chân in hiện ra.
  33. Màu móng chân như đồng đỏ, dày mỏng tròn mềm.
  34. Xương đầu gối rắn chắc tròn đẹp.
  35. Chỉ văn trang nghiêm.
  36. Mạch máu trầm.
  37. Chỉ tay rõ thẳng.
  38. Chỉ tay dài.
  39. Chỉ tay không bị cắt đứt.
  40. Tay chân như ý.
  41. Tay chân hồng hào như màu hoa sen.
  42. Tướng khổng môn đầy đủ.
  43. Bước đi không rộng hẹp.
  44. Eo tròn lớn.
  45. Bụng không hiện.
  46. Rốn như rắn cuộn tròn, xoay theo phía phải, tròn sâu.
  47. Màu sợi lông xanh hồng, như phía sau cổ của chim khổng tước.
  48. Lông sạch sẽ.
  49. Lông xoắn theo phía phải.
  50. Miệng phát ra mùi hương Vô thượng, lông trên thân đều có mùi thơm.
  51. Môi đỏ mọng như quả Tần-bà.
  52. Màu lưỡi đỏ.
  53. Lưỡi mỏng.
  54. Tất cả đều ưa nhìn.
  55. Tùy theo ý chúng sinh, mà vui vẻ nói với họ.
  56. Ở mọi nơi, đều nói những lời tốt đẹp.
  57. Được nói trước.
  58. Tùy theo các âm thanh của chúng sinh, mà phát ra, không hơn không giảm.
  59. Tùy những cách nói của chúng sinh mà vì họ nói pháp phù hợp.
  60. Không dính mắc vào những pháp đã nói.
  61. Xem chúng sinh bình đẳng.
  62. Thấy trước làm sau.
  63. Phát ra một âm, mọi loài đều hiểu.
  64. Theo thứ tự có nhân duyên thì nói pháp.
  65. Tất cả mắt của chúng sinh, không thể thấy hết các tướng.
  66. Nhìn không biết chán.
  67. Tất cả âm thanh, mỗi phần đều đầy đủ.
  68. Việc lành luôn hiện ra.
  69. Những chúng sinh ngang bướng nhìn thấy, tức liền hiền hòa, những chúng sinh sợ hãi, liền được an vui.
  70. Âm thanh rõ trong.
  71. Thân không nghiêng ngã, lay động.
  72. Các phần thân thể đều to lớn.
  73. Thân cao.
  74. Thân không dính mắc.
  75. Quanh thân, ánh sáng tỏa xa một trượng.
  76. Khi đi, ánh sáng tỏa theo thân.
  77. Thân thể trong sáng.
  78. Tóc xoắn ốc, không rối; sợi tóc dài, đẹp; màu tóc sáng dịu, giống như hạt châu xanh.
  79. Tay chân đầy đặn.
  80. Tay chân đều có tướng phước đức.

Này A-nan! Đó là tám mươi vẻ đẹp của Như Lai, làm trang nghiêm thân Phật.

Này A-nan! Như Lai có mười Lực:

  1. Xứ phi xứ trí lực.
  2. Tùy nghiệp trí lực.
  3. Định loại trí lực.
  4. Căn phẩm trí lực.
  5. Dục lạc trí lực
  6. Tánh loại trí lực.
  7. Chí Nhất thiết trí lực.
  8. Túc sinh trí lực.
  9. Tử sinh trí lực.
  10. Lậu tận trí lực.

Do mười trí lực này, Như Lai hiện ra nói pháp chỗ nào cũng tối đại thắng, xoay chuyển bánh xe Phạm thiên Vô thượng trong sạch, ở giữa đại chúng, cất tiếng sư tử rống.

Này A-nan! Như Lai có bốn Vô úy:

  1. Nhất thiết trí vô úy.
  2. Lậu tận vô úy.
  3. Thuyết chướng đạo vô úy.
  4. Thuyết tận khổ đạo vô úy.

Này A-nan! Như Lai có ba Niệm xứ:

  1. Chánh hạnh, chánh niệm.
  2. Tà hạnh, chánh niệm.
  3. Tạp hạnh, chánh niệm.

Này A-nan! Như Lai có pháp đại Bi.

Này A-nan! Như Lai có mười tám pháp Bất cộng:

  1. Thân không lỗi.
  2. Miệng không lỗi.
  3. Ý không lỗi.
  4. Không có tâm bất định.
  5. Không chấp vào ý tưởng khác.
  6. Đều biết xả bỏ.
  7. Không có tham muốn, không có giảm mất.
  8. Không có chánh tinh tấn, không có giảm mất.
  9. Không niệm, không có giảm mất.
  10. Không trí, cũng không có giảm.
  11. Không giải thoát, cũng không có giảm.
  12. Không giải thoát trí kiến không giảm.
  13. Thân làm theo trí tuệ.
  14. Miệng nói theo trí tuệ.
  15. Ý nghĩ theo trí tuệ.
  16. Trí tận cùng quá khứ, tròn đầy.
  17. Trí tận cùng hiện tại, tròn đầy.
  18. Trí tận cùng vị lai, tròn đầy.

A-nan! Chỉ một mình Như Lai đạt được thần thông mau chóng tự tại như ý; chỉ một mình Như Lai đạt được thần thông biến hóa vô cùng; chỉ Như Lai, đạt được nơi thần thông của bậc Thánh vô lượng, vô tận; chỉ Như Lai đạt được pháp tự tại của tâm; chỉ Như Lai, đạt được thần thông biết được tâm người khác, một cách vô biên; chỉ Như Lai, đạt được thần thông thiên nhĩ vô ngại; chỉ Như Lai, đạt được sự hiểu biết về các loài chúng sinh khác nhau ở cõi Vô sắc; chỉ Như Lai, thấu đạt được cái sau khi Niết-bàn, của hàng Thánh chúng; chỉ Như Lai, có trí tuệ, thấu rõ sự trả lời không mắc mứu; chỉ Như Lai, đạt được đại Ba-la-mật, hay khéo đáp hỏi; chỉ Như Lai, thuyết pháp có phân biệt, mà không bị lầm lỗi; chỉ Như Lai, đạt được sự khai hóa chúng sinh, không có không quá; chỉ Như Lai, đạt được sự đứng đầu trong việc hướng dẫn; chỉ Như Lai, đạt được sự không thể hại diệt; chỉ Như Lai, đạt được Kim cang Tam-muội; chỉ Như Lai, đạt được tất cả pháp, chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, tâm không tương ưng, Như Lai biết hết cả; chỉ Như Lai, đạt được sự giải thoát vô ngại; chỉ Như Lai, đạt được ba bất, hộ, pháp; chỉ Như Lai, đạt được sự dứt trừ hết tập khí; chỉ Như Lai, đạt được Nhất thiết chủng trí; chỉ Như Lai, đạt được Kim cang tụ thân; chỉ Như Lai, đạt được việc chưa từng nghĩ ra mà tất cả các việc đều thành tựu; chỉ Như Lai, có được tất cả các tướng, tương ưng với mỗi nơi, rõ ràng đầy đủ; chỉ Như Lai, đạt được vấn đề thọ ký, không có bất định; chỉ Như Lai, đạt được cái mà đối với tâm hơn thua, Phật không chấp nhận, người nào có tâm đó thì không được thấy Phật; chỉ Như Lai, chuyển được bánh xe, của tất cả pháp thắng diệu; chỉ Như Lai, có thể gánh vác được cho chúng sinh, có thể xả bỏ những gánh vác nặng cho chúng sinh; chỉ Như Lai, nhập vào Bát-niết-bàn lại còn khiến khởi tâm; chỉ Như Lai, đạt được nguyên nhân tu hành tròn đầy không dư; chỉ Như Lai, đạt đến quả tròn đầy không dư; chỉ Như Lai, làm việc lợi ích cho người tròn đầy không dư; chỉ Như Lai, đạt được sự biện tài không tận; chỉ Như Lai, nói tất cả pháp đều như lý.

A-nan! Công đức Như Lai, lược nói có sáu loại:

  1. Đầy đủ.
  2. Không nhơ.
  3. Không lay động.
  4. Vô ngại.
  5. Lợi ích cho người.
  6. Tài năng tự tại.

Này A-nan! Thế nào gọi Như Lai là công đức không thể nghĩ bàn? Tất cả công đức vô biên, hằng sa kiếp của tất cả Như Lai, ở hoặc địa và tịnh địa, thâu tóm nhau, hợp vào nhau, chưa từng rời nhau, không sạch, không nhơ, không thể nghĩ bàn.

 

Phẩm 5: VIỆC CỦA NHƯ LAI

Này A-nan! Như Lai có mười tám việc:

1. Như Lai là bậc không thể so sánh, rất cao cả, rất tốt đẹp, không ai sánh kịp, khiến cho các chúng sinh khởi tâm kỳ lạ, cung kính cúng dường. Đấy là việc thứ nhất, nhờ đó mà ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp được thành tựu.

2. Như Lai như lý, thông đạt nhân quả, nếu có Sa-môn, Bà-lamôn, nói không có nhân quả, nói pháp nhân quả, không có bình đẳng, thì Ta liền chế phục, khiến họ vào thế bế tắc. Đấy là việc thứ hai, nhờ đó mà thị xứ phi xứ trí lực được thành tựu.

3. Như Lai thấy biết việc, tự gây nghiệp, thì tự thọ quả; không có việc tự mình gây ra, mà người khác phải chịu quả; nếu Sa-môn, Bà-la-môn tin và thực hành theo tà thuyết, tà giáo, thì ta liền chế ngự, khiến họ rơi vào thế bế tắc. Đấy là việc thứ ba, nhờ đó mà nghiệp loại trí lực được thành tựu.

4. Như Lai giáo hóa hiện rõ ba loại xe: Một là xe thần thông; hai là xe ký tâm; ba là xe thị giáo. Hướng dẫn đệ tử, trở thành những bậc Thánh; nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào, có tâm hơn thua, nói pháp trái nghịch, để chống đối với chánh pháp, thì ta liền chế phục, khiến rơi vào thế bế tắc. Đấy là việc thứ tư, nhờ đó mà thiền định trí lực được thành tựu.

5. Như Lai thông suốt những căn cơ trên dưới, trong ngoài, cứ như lý mà nói, khiến những người căn cơ thấp kém cũng được thành thục giải thoát. Đấy là việc thứ năm, nhờ đó mà căn chủng trí lực được thành tựu.

6. Như Lai thấy biết ba hạng chúng sinh, tà, chánh, dục, lạc đều thấy đúng như thật, dứt trừ những ham muốn xấu tăng trưởng những ham muốn tốt. Đấy là việc thứ sáu, nhờ đó mà dục lạc trí lực được thành tựu.

7. Như Lai xem, biết chúng sinh có ba hạng: Một là thô; hai là trung; ba là diệu; và khiến cho ba hạng người này như lý mà vào được các pháp môn. Đấy là việc thứ bảy, nhờ đó mà tánh giới trí lực được thành tựu.

8. Như Lai thấy một cách rõ ràng về đạo pháp xuất ly, được quả giải thoát; về đạo pháp chướng ngại, được quả sinh tử; khiến diệt được đạo chướng ngại, tu đạo xuất ly. Đấy là việc thứ tám, nhờ đó mà chí Nhất thiết xứ trí lực được thành tựu.

9. Như Lai thấy một cách rõ ràng, về các việc ở đời trước, các việc đã nói ở quá khứ sự, khiến cho chúng sinh khởi tâm chán sợ; nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào, chấp thường kiến, thì liền chế phục, khiến có chỗ dựa, không bị đọa.

Đó là việc thứ chín, nhờ đó mà túc sinh trí lực được thành tựu.

10. Như Lai thấy rõ các chúng sinh, chết nơi này, sinh nơi kia, cứ như lý mà thọ ký; nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào, chấp đoạn kiến, thì liền chế phục, khiến họ có chỗ dựa, không rơi vào thế bế tắc. Đấy là việc thứ muời, nhờ đó mà sinh tử trí lực được thành tựu.

11. Như Lai tự biết giải thoát, thông suốt, không ngăn ngại; nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào, tăng thượng mạn, chưa đắc A-la-hán mà nói rằng đã đắc, tức liền chế phục, khiến họ có chỗ dựa, không rơi vào thế bế tắc.

Đó là việc thứ mười một, nhờ đó mà lậu tận trí lực được thành tựu.

12. Như Lai làm việc lợi ích, rất là khéo léo và cao cả; nếu có người nào, hỏi về mười Lực của Như Lai, thì cứ như thật mà trả lời, dứt trừ sự nghi ngờ cho họ, có khả năng tự lập chánh pháp, có khả năng phá tà thuyết của người.

Đó là việc thứ mười hai, nhờ đó mà bốn Vô úy được thành tựu.

13. Chánh giáo của Như Lai, có người có thể tu, có người không thể tu, cũng có người tu mà không tu; đối với ba hạng người này Như Lai, không có tâm nhiễm đục.

Đó là việc thứ mười ba, nhờ đó mà ba niệm xứ được thành tựu.

14. Mắt Phật của Như Lai, ngày đêm luôn xem xét chúng sinh, ở những nơi tranh đua hơn thua, để cứu vớt họ.

Đó là việc thứ mười bốn, nhờ đó mà đại Bi được thành tựu.

15. Như Lai cứ như những gì đã nói mà hành; lại rất năng hành, năng thuyết.

Đó là việc thứ mười lăm, nhờ đó mà tam, bất, hộ, pháp được thành tựu.

16. Đối với tất cả chúng sinh, Như Lai đều làm việc lợi ích cho họ, thảy đều tròn đầy, không có tổn giảm.

Đó là việc thứ mười sáu, nhờ đó mà sự nhớ nghĩ không quên mất được thành tựu.

17. Trong bốn oai nghi, tùy theo lý Như Lai không hề có sự lầm lẫn.

Đó là việc thứ mười bảy, nhờ đó mà sự diệt trừ tập khí được thành tựu.

18. Như Lai xem ba loại pháp: Một là hành pháp được lợi ích; hai là hành pháp bị tổn giảm; ba là hành pháp vừa lợi, vừa ổn. Lìa hai pháp cuối, Như Lai tuyên bố, cái gì đem lại lợi ích thì hành.

Đó là việc thứ mười tám, nhờ đó mà Nhất thiết trí và các pháp Bất cộng được thành tựu.

Này A-nan! Những việc của Như Lai là như vậy, ông nên học tập.

Này A-nan! Thế nào gọi Như Lai là việc không thể nghĩ bàn? A-nan! Những việc của Như Lai là vô số vô lượng, chúng sinh ở thế gian, không thể nào hiểu hết được. Mặc dù dựa vào lời nói, nhưng những việc của Như Lai không thể nào hiện rõ ràng được, cũng không thể chỉ bày và khiến cho mọi người hiểu được. Tất cả cõi Phật, mọi nơi đều thông suốt. Tất cả Như Lai, tùy thuận bình đẳng, vượt qua cảnh giới của ý tưởng, không có tướng phân biệt, giống như hư không, không thể nào phân biệt, tương xứng với pháp giới.

–Này các thiện nam! Thế nên Phật nói, việc của Như Lai là không thể nghĩ bàn, hành biến khắp mọi nơi, mọi nơi đều không mất; tùy nơi mà làm trong ba đời, không làm mất tánh Tam bảo. Như Lai trụ vào những việc này, tướng thân Như Lai không xả bỏ tánh hư không, tất cả cõi Phật hiển hiện tự thân; những lời nói của Như Lai, chẳng phải là tánh của âm thanh, cùng loại âm với chúng sinh, nhưng Ngài lại nói pháp chân chánh. Như Lai không ôm gữi tâm làm cảnh giới; những tâm tánh ham ưa dục lạc, của tất cả chúng sinh, Ngài đều thông suốt.

Này A-nan! Đó gọi là công việc của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Khi Phật nói kinh xong, trong chúng hội, có bảy vạn năm ngàn Đại Bồ-tát liền chứng được “kiến Pháp thân viên mãn”. Lại có bảy vạn năm ngàn Đại Bồ-tát, đắc Vô sinh pháp nhẫn đối với hết thảy các pháp. Lại có bảy vạn năm ngàn Đại Bồ-tát liền đắc Đại thừa Tam-muội Diệu quang. Đối với quả vị Vô thượng Bồ-đề, hàng chúng sinh trong vô số a-tăng-kỳ, không khởi tâm thoái chuyển. Chúng sinh trong vô lượng a-tăng-kỳ, được xa lìa bụi trần nhơ bẩn, được mắt pháp sáng. Lại có vô lượng chúng sinh đắc quả tăng thượng.

 

Phẩm 6: KHEN NGỢI

Bấy giờ, sau khi nghe Phật nói, từ giữa đại chúng Tôn giả Anan, vui mừng hớn hở như chưa từng có, liền đứng dậy, trịch áo vai phải, cung kính, đảnh lễ Phật, chắp tay, ngước nhìn dung nhan

Thế Tôn, với tâm trong sạch, nói kệ:

Trong hàng chúng sinh ở ba đời
Như Lai cao cả, không sánh được
Ở nơi nhân pháp, không gì bằng
Thế Tôn, bình đẳng, khắp tất cả
Dứt trừ hết thảy, điều cần dứt
Thông đạt hết thảy, điều cần biết
Trí tuệ vượt trội, bậc thứ nhất
Chỉ Phật Thế Tôn, chẳng ai khác
Có sức, không sợ, lời thật này
Như Lai có sức, nên không sợ
Năng lực Thế Tôn, không tổn người
Thật là những việc hiếm, khó nghĩ
Phương tiện khéo léo, dạy chúng sinh
Chẳng phải tâm hiểm ác, mơ hồ
Chúng sinh tà, mạn, tự kiêu ngạo
Thế Tôn tách phục, khiến dứt trừ
Nếu ai có sức, thắng được người
Đó thành lỗi miệng, ở thế gian
Nếu cho Như Lai tôn quý nhất
Thì những lời ấy thật không sai
Nếu ai dựa lý, mà hỏi khó
Thì không thể khiến Ngài khuất phục
Như Lai hàng phục, không sai sót
Dẫn dắt chúng sinh, đến an vui
Bốn món thanh tịnh không lầm lỗi
Cho nên, vì thế không cần giữ
Đủ bốn Biện tài, nói không cùng
Mùi pháp tràn đầy, chúng sinh no
Hết thảy pháp xứ, trí không ngại
Tất cả niệm xứ không giảm mất
Đại Bi bình đẳng khắp chúng sinh
Với pháp thế gian, tâm không nhiễm
Thông đạt hết thảy căn, dục, tánh
Có pháp giáo hóa, độ mọi loài
Phiền não có nhiều loại sai biệt
Diễn nói nhiều pháp để đối trị
Như Lai thuyết pháp là bậc nhất
Phàm phu gặp Phật, không giải bày
Vô minh hoặc ám, đã che lấp
Hạng này nhiều, khó thể độ ngay
Tiếng tăm Như Lai, khiến ngưỡng vọng
Thấy Phật, khiến người vui vô cùng
Phật nói, khiến tâm người trong sạch
Chánh pháp của Phật, thoát tử sinh
Chỉ Phật giúp trừ điều không tốt
Nhớ Phật, khiến tâm luôn an vui
Thấy Phật, liền sinh đại trí tuệ
Hiểu Phật, liền được thành chủng trí
Nhờ giới Như Lai, sạch không bẩn
Nhờ định Như Lai, ý lắng trong
Nhờ trí Như Lai, không lay động
Biển pháp Như Lai, đầy cam lồ
Chúng sinh hôn mê Phật tỉnh táo
Nhìn căn, tánh, dục của chúng sinh
Chúng sinh buông thả Như Lai không
Xem xét chúng sinh, đều bình đẳng
Phật nói pháp, phá giặc phiền não
Phật đã trừ, huyễn hóa, ma vương
Đã chỉ sinh tử là lầm lỗi
Đã rõ Niết-bàn nơi không sợ
Khiến người đạt được những pháp độ
Giống như Thế Tôn hành đại Bi
Làm tối thượng, Đề-bà-đạt-đa
Tất cả chúng sinh, thí Bồ-đề
Nay con không thể thấy chánh hạnh
Tu trì, để báo ân Thế Tôn
Nếu ai đã đến diệt vô dư
Vẫn còn chưa báo được Phật ân
Nếu ai hành trì Phật chánh hạnh
Người này chỉ tu pháp lợi mình
Thế Tôn mệt mỏi vì chúng sinh
Ân sâu Vô thượng, sao báo được
Thế Tôn diễn nói pháp chân chánh
Khiến người tự hành dạy mọi người
Nếu khiến Như Lai không ra đời
Thì phải chịu não hổ bức thân
Cả thế gian chỉ có đường ác
Nghe âm thanh thê thảm kêu gào
Sáu nẻo chịu khổ đều không khác
Đều do phiền não trói chặt vào
Thế Tôn giải kết cho chúng sinh
Rằng buộc đại Bi để thọ mãi
Thế Tôn là ruộng phước cao tột
Người nên nương Phật hành chánh hạnh.
Như con không thấy hết báu lành
Thì hành ác hạnh cũng như vậy
Với Phật, nếu khởi tâm buông lung
Thì những người này đọa đường ác
Chợt khởi oán tránh với Thế Tôn
Chìm khổ, tối tăm, còn nghi gì!
Giống như Đại sư, hiểu thân mình
Tương tự, Đại sư cũng thể biết
Người khác không thể hiểu như vậy
Nay con lạy khắp mười phương Phật
Tất cả công đức cùng trí lực
Thế Tôn hiện rõ cùng pháp môn
Lòng đại Bi, muốn chúng sinh hiểu
Thế nên hôm nay, con lễ Phật
Sắc đẹp, hương thơm nhìn không chán
Các tướng tròn đầy vượt cả màu
Ba thời, khai mở rất đáng yêu
Phật hoa như vậy, con đảnh lễ
Thế Tôn khéo biết chỗ Vô thượng
Tất cả hiểm nạn đều ra khỏi
Không tích, không tụ, không giả dối
Nay con lạy Đấng Lưỡng Túc Tôn
Thế Tôn tẩy sạch các nhơ bẩn
Trụ nơi chánh pháp, nước công đức
Xưa nay, trong ngoài đều sạch cả
Nay con lạy Đấng Chân Tịnh Thân
Thế Tôn đầy đủ các pháp lành
Thường làm bạn ích cho mọi người
Mưa cam lồ rưới khắp chúng sinh
Nay con lạy Đấng Năng Lợi Tha
Là người cao cả, đời tôn trọng
Bởi vậy nên họ kính Thế Tôn
Dứt sạch các ác, tròn đầy lành
Nay con đảnh lễ Đấng Tối Thắng
Mọi phương tiện, thảy đều tu học
Vì thương chúng sinh muốn cứu giúp
Sinh tử hiểm nạn, khiến độ thoát
Nay con đảnh lễ và quy y
Lạy thân đẹp đẽ, không ví được
Lạy đấng hay nói pháp cam lồ
Lạy trí thanh tịnh lìa nhơ bẩn
Và lạy tất cả, rừng công đức.

 

Phẩm 7: CHÚC LỤY

Phật bảo A-nan:

–Ông nên thọ trì pháp môn chân chánh này.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan quỳ dài bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nay con theo Phật được nghe pháp sâu xa này, được chưa từng có, con lấy đầu thờ phụng thọ trì. Bạch Thế Tôn! Nên gọi kinh này là gì và thực hành ra sao?

Phật nói:

–Này A-nan! Kinh này gọi là Vô Thượng Y, cũng gọi là Vị Tằng Hữu và cũng gọi là Nhiếp Thiện Pháp, là Thanh Tịnh Hạnh, là Hành Cứu Cánh.

Này A-nan! Có mười cách để thọ trì kinh này:

  1. Biên chép.
  2. Cúng dường.
  3. Lưu truyền.
  4. Lắng nghe.
  5. Tự đọc.
  6. Nhớ, trì.
  7. Rộng nói.
  8. Tự tụng.
  9. Suy nghĩ.
  10. Tu hành.

Này A-nan! Với mười cách này mà có thể thọ trì kinh này, thì công đức chân chánh tụ lại sẽ vô lượng, vô tận.

A-nan! Ví như hạt châu như ý, xuất hiện nơi nào, thì tất cả các vật báu khác thảy đều xuất hiện theo. Người thọ trì kinh này, cũng như vậy, tất cả pháp lành thảy đều được thành tựu.

A-nan! Ví như dựa từ nơi đất, các cây cỏ, các loại cây thuốc, đều được sinh trưởng. Các pháp lành cũng như vậy, đều nhờ nơi kinh này mà được tăng trưởng.

Này A-nan! Ví như các pháp lành đã sinh, đang sinh, sẽ sinh, đều là chỗ để tóm thu và gìn giữ, không cho buông thả, hạnh không buông thả được xem là đệ nhất. Như vậy, những pháp được nói trong kinh này, đề cập tới các hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, thì đó được xem là chỗ thâu tóm bậc nhất của kinh này.

A-nan! Ví như Chuyển luân thánh vương, nếu còn ở đời, bảy báu thường theo sát. Như vậy, kinh này cũng thế, nếu còn trụ ở đời, dòng giống Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, sẽ liên tục không dứt.

Này A-nan! Nay ông có thể, lần lượt diễn rộng kinh này, cho những hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân. Vì sao? Vì muốn cho tất cả các loài chúng sinh, trồng căn lành vào Như Lai xứ.

Sau khi ở trong đại hội, được nghe Phật nói kinh này, pháp môn hiếm có này, Tôn giả A-nan cùng với các vị Đại Bồ-tát, các vị Đế Thích, Phạm thiên, các vị trời hộ đời… thảy đều vui mừng hớn hở, tín nhận và phụng thờ.