KINH PHẬT THUYẾT VÔ CẤU XƯNG

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 1

Phẩm 1: TỰA

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ở rừng Yêm-la-vệ thuộc thành Quảng nghiêm, cùng với tám ngàn vị đại Tỳ-kheo, ba vạn hai ngàn vị Đại Bồ-tát. Các vị ấy đều được tất cả đại chúng biết đến, có đại thần thông, sự nghiệp tu tập đã thành tựu, được oai đức của chư Phật gia hộ, giữ gìn, giữ vững thanh lũy chánh pháp, nắm giữ tất cả chánh pháp, dùng tiếng gầm của sư tử để diễn giảng, với âm thanh hòa nhã chấn động khắp mười phương, làm bạn lành của chúng sinh mà không mời đến, nối dõi Tam bảo không cho đoạn tuyet, chiến thắng các ma oán, chế ngự các ngoại đạo, dứt hẳn tất cả nghiệp chướng và những thứ ngăn che, trói buộc, với niệm định Tổng trì đều viên mãn, kiến lập nẻo trí giải thoát không chướng ngại, đạt được tất cả phap một cách thù thắng không gián đoạn, thành tựu niệm, tuệ, đẳng trì, Đà-la-ni, đạt bố thí điều phục đệ nhất, giới thể tịch tĩnh, an nhẫn chánh cần, tĩnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực trí Ba-la-mật-đa, chứng đắc pháp nhẫn bất khởi mà không có chỗ thủ đắc, có thể chuyển pháp luân không thoái chuyển, đắc vô tướng, được ấn chứng bằng diệu pháp, biết rõ các căn hơn kém của hữu tình, là người mà cả đại chúng không ai vượt hơn, có thể điều phục đạt được vô sở úy, đã chứa nhóm hành trang phước trí vô tận, có thân tướng tốt đẹp đệ nhất, vứt bỏ tất cả đồ trang sức tốt đẹp ở thế gian, tiếng tốt đồn vang xa đến trời Đế Thích, đức tin kiên cố giống như kim cang, có niềm tin không hoại với pháp Phật, ban bố chánh pháp quý báu trong sạch như mưa cam lộ, lời nói của các vị ấy vi diệu đệ nhất trong các lời nói, đối với nghĩa pháp sâu xa thì đi sâu vào duyên khởi, đã đoạn trừ hai biên, kiến tập tương tục, diễn giảng không sợ sệt giống như sư tử gầm, các vị ấy diễn giảng pháp như sự chấn động của sấm vang, không thể so lường vượt ngoài cảnh giới so lường, cất giữ trí tuệ của pháp bảo làm đại đạo sư, chánh trực, xét kỹ, nhu hòa, kín đáo, đạt hoàn hảo các pháp khó thấy khó nghe, thể nhập vào tất cả thật nghĩa sâu xa, biết được ý thích của chúng sinh có chỗ quay về hay không có chỗ quay về, đạt được Phật trí Vô Đẳng Đẳng quán đảnh, tiếp cận với lực, vô úy và pháp Bất cộng của Phật, đã diệt trừ tất cả cõi ác đầy sợ hãi, vượt qua hết thảy hố sâu nguy hiểm, quăng bỏ hoàn toàn dao gậy kim cang của duyên khởi, thường nghĩ thị hiện sinh về các cõi để làm đại y vương, biết rõ phương thuật, tùy theo căn bệnh mà cho thuốc, bệnh tật chóng lành khiến chúng sinh được an vui, thành tựu vô lượng công đức, trang nghiêm thanh tịnh vô lượng cõi Phật, ai thấy nghe đều được nhờ ân lợi ích, việc làm của các vị không bị tổn thất. Công đức của các vị ấy dù khen ngợi trải qua vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp cũng không hết. Tên các vị ấy là: Bồ-tát Đẳng Quán, Bồ-tát Bất Đẳng Quán, Bồ-tát Đẳng Bất Đẳng Quán, Bồ-tát Định Thần Biến Vương, Bồ-tát Pháp Tự Tại, Bồ-tát Pháp Tràng, Bồ-tát Quang Tràng, Bồ-tát Quang Nghiêm, Bồ-tát Đại Nghiêm, Bồ-tát Bảo Phong, Bồ-tát Biện Phong, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Thường Diên Cảnh, Bồ-tát Thường Hỷ Căn, Bồ-tát Thường Hỷ Vương, Bồ-tát Vô Khuất Biện, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Chấp Bảo Cự, Bồ-tát Bảo Cát Tường, Bồ-tát Bảo Thí, Bồ-tát Đế Võng, Bồ-tát Quang Võng, Bồ-tát Vô Chướng Tĩnh Lự, Bồ-tát Tuệ Phong, Bồ-tát Thiên vương, Bồ-tát Hoại Ma, Bồ-tát Điện Thiên, Bồ-tát Hiện Thần Biến Vương, Bồ-tát Phong Tướng Đẳng Nghiêm, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Vân Lôi Âm, Bồ-tát Sơn Tướng Kích Vương, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Đại Hương Tượng, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Xả Thiện Ách, Bồ-tát Diệu Tuệ, Bồ-tát Diệu Sinh, Bồ-tát Liên Hoa Thắng Tạng, Bồ-tát Tam-ma-địa Vương, Bồ-tát Liên Hoa Nghiêm, Bồ-tát Quán Tự Tại, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Phạm Võng, Bồ-tát Bảo Trượng, Bồ-tát Vô Thắng, Bồ-tát Thắng Ma, Bồ-tát Nghiêm Độ, Bồ-tát Kim Kế, Bồtát Châu Kế, Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Diệu Cát Tường, Bồ-tát Châu Bảo Cái… Ba vạn hai ngàn Đại Bồ-tát là bậc Thượng thủ như vậy.

Lại có một vạn Phạm thiên, Phạm vương Trì Kế làm thượng thủ vốn từ bốn đại châu Vô ưu, vì muốn chiêm ngưỡng lễ lạy cúng dường Đức Thế Tôn và nghe pháp nên đến dự đại hội này.

Lại có một vạn hai ngàn Thiên đế từ phương khác của bốn đại châu, cũng vì muốn chiêm ngưỡng lễ lay cúng dường Đức Thế Tôn và nghe pháp mà đến dự đại hội này.

Ngoài ra, còn có chư Thiên với oai lực lớn, các chúng Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Ma-hô-lạc-già, Thích, Phạm, Hộ thế… đến hội hợp. Bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cũng đều có mặt đông đủ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn giảng pháp cho vô lượng trăm ngàn đại chúng đến cung kính vây quanh. Ngài giống như núi chúa Đại bảo diệu cao tọa lạc trong biển cả. Với dáng oai nghiêm vời vợi, Ngài ngồi trên tòa Bảo tạng đại sư tử hiển bày rực rỡ oai quang làm che khắp cả đại chúng.

Khi ấy, tại thành Quảng nghiêm, có một vị Bồ-tát thuộc dòng Ly-chiêm-tỳ tên là Bảo Tánh cùng năm trăm đồng tử dòng Ly-chiêmtỳ, mỗi người cầm một lọng báu được trang hoàng bằng bảy báu đến rừng Yêm-la, nơi Thế Tôn ở. Họ đem lọng báu của mình dâng cúng Đức Thế Tôn. Sau khi cúng dường xong, họ đảnh lễ sát chân Thế Tôn rồi đi nhiễu bảy vòng và lui đứng qua một bên. Nhờ oai thần của Đức Phật, các lọng báu tự nhiên hợp thành một lọng lớn che khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Tướng của thế giới nay rộng lớn như vậy nhưng đều hiện rõ nơi lọng báu ấy. Tất cả núi chúa Đại bảo diệu cao, tất cả núi Tuyết, núi Mục-chân-lân-đà, núi Đại mục-chân-lân-đà, núi Hương, núi Báu, núi Vàng ròng, núi Hắc, núi Luân vi, núi Đại luân vi, biển cả, sông ngòi, khe suối, ao đầm và trăm câu-chi hòn đảo của đại châu, mặt trời, mặt trăng, sao, cung điện trời, cung điện rồng, cung điện của các tôn thần, cùng các thành ấp, xóm làng, đô thị của Tam thiên đại thiên thế giới đều hiện trong lọng báu ấy. Chánh pháp mà chư Phật Như Lai nơi mười phương nói ra đều đồng vang lên trong lọng báu, ai nấy đều nghe rất rõ.

Thấy thần lực của Đức Phật, đại chúng đều vui mừng hớn hở cho là điều chưa từng có và chắp tay lễ lạy Phật, chiêm ngưỡng dung nhan Đức Thế Tôn mắt không tạm rời, đều đứng im lặng.

Bấy giờ, ở trước Phật, Bồ-tát Bảo Tánh quỳ sát đất, chắp tay cung kính khen ngợi Phật bằng kệ:

Mắt sạch to dài rất đẹp đẽ
Sáng như cánh hoa sen xanh biếc
Đã chứng ý lạc tĩnh đệ nhất
Xa-ma-tha thắng đến bờ kia.
Đã chứa vô biên nghiệp thanh tịnh
Đạt danh văn quảng đại thù thắng
Nên con cúi lạy Đại Sa-môn
Mở bày dẫn dắt đường tịch tĩnh.
Đã thấy Đại Thánh dùng thần biến
Hiện khắp vô lượng cõi mười phương
Trong đó chư Phật diễn giảng pháp
Tất cả ai nấy đều được nghe.
Pháp vương, pháp lực vượt quần sinh
Thường đem pháp tài ra bố thí
Phân biệt rõ ràng tướng các pháp
Quán Đệ nhất nghĩa, dẹp ma oán.
Với các pháp đã được tự tại
Nên cúi đầu lay Đấng Pháp Vương
Nói pháp không có cũng chẳng không
Tất cả đều do nhân duyên sinh.
Không ngã, không tạo, không người thọ
Nghiệp thiện ác không bao giờ mất
Nơi cây Phật mới thắng sức ma
Đắc cam lộ Bồ-đề tịch tĩnh.
Đây chẳng phải tâm ý thọ hành
Tà ngoại đạo không thể so lường
Ba chuyển pháp luân ở đại thiên
Luân ấy năng tịch, bản tánh tịch.
Pháp hy hữu Trí thiên nhân chứng
Bấy giờ, Tam bảo hiện thế gian
Dùng pháp diệu này cứu muôn loài
Không lo, không sợ, luôn an lạc.
Đại Y Vương thoát sinh già chết
Lạy đấng biển công đức vô biên
Tám pháp bất động như núi chúa
Dù thiện, bất thiện đều thương xót.
Tâm hành bình đẳng như hư không
Ai lại không kính Đấng Năng Nhân
Đem lọng báu này dâng Thế Tôn
Tam thiên thế giới hiện trong đó.
Cung điện trời, rồng, thần vân… vân…
Lạy đấng thân công đức trí kiến
Thần biến mười Lực hiện thế gian.
Tất cả đều như bóng nắng sáng.
Chúng thấy khen ngợi chưa từng có
Lạy Đấng Mười Lực đại trí kiến
Chúng hội chiêm ngưỡng Đại Mâu-ni
Ai nấy sinh tâm tin thanh tịnh.
Và thấy Thế Tôn ở trước mặt
Đây là tướng Bất cộng Thế Tôn
Phật dùng một âm thanh giảng pháp
Từng loại chúng sinh đều được hiểu.
Và cho rằng tiếng Ngài giống mình
Đây là tướng Bất cộng Thế Tôn
Phật dùng một âm thanh giảng pháp
Tất cả chúng sinh đều được hiểu.
Và được thọ hành đạt lợi ích
Đây là tướng Bất cộng Thế Tôn
Phật dùng một âm thanh giảng pháp
Có người sợ hãi, người vui mừng.
Có người nhàm chán, người hết nghi
Đây là tướng Bất cộng Thế Tôn
Lạy Đấng Mười Lực vững dũng mãnh
Lạy Đấng đã đắc vô sở úy.
Lạy Đấng đạt Định pháp Bất cộng
Lạy Đấng đại đạo sư tất cả
Lạy Đấng đoạn trừ các kết sử
Lạy Đấng đã trụ bờ bên kia.
Lạy Đấng cứu khổ khắp các loài
Lạy Đấng không ở cõi sinh tử
Với hữu tình đạt tâm bình đẳng
Với các cõi, tâm đều giải thoát.
Mâu-ni tu hoàn toàn không ấy
Giống như hoa sen không nhiễm nước
Lìa tất cả tướng, không chốn lìa
Mãn tất cả nguyện, không chỗ nguyện.
Oai thần lực lớn không thể bàn
Lạy Đấng như không, không chỗ trụ.

Sau khi dùng kệ khen ngợi Đức Thế Tôn, Bảo Tánh thưa:

–Năm trăm đồng tử này đã phát tâm Bồ-đề vô thượng. Họ hỏi con về việc trang nghiêm, thanh tịnh cõi Phật. Cúi xin Như Lai thương xót nói cho họ về tướng của cõi Phật thanh tịnh, làm thế nào để tu tập về cõi Phật thanh tịnh của Bồ-tát?

Nghe hỏi như vậy, Đức Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Này Bồ-tát Bảo Tánh! Vì các Bồ-tát mà ông thưa hỏi Như Lai về tướng của cõi Phật thanh tịnh và hỏi về sự tu tập cõi Phật thanh tịnh của Bồ-tát. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ. Ta sẽ phan biệt giảng nói cho ông.

Khi ấy, Bảo Tánh và các Bồ-tát thưa:

–Cúi xin Phật giảng nói, chúng con đều rất muốn được nghe.

Thế Tôn bảo các Bồ-tát:

–Cõi của các hữu tình là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Vì sao? Này các thiện nam! Tất cả các Bồ-tát tùy theo các hữu tình mà làm tăng trưởng lợi ích, sau đó đưa họ vào cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, tùy theo các hữu tình mà làm phát sinh những công đức thanh tịnh rồi đưa họ vào cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, tùy theo các hữu tình cần cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh nào để được điều phục thì đưa họ vào cõi Phật ấy, tùy theo các hữu tình cần cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh nào để ngộ nhập trí của Phật thì đưa họ vào cõi Phật ấy, tùy theo các hữu tình cần cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh nào để phát sinh căn hạnh của bậc Thánh thì đưa họ vào cõi Phật ấy. Vì sao? Này các thiện nam! Bồ-tát đưa chúng sinh vào cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh với mục đích làm họ tăng trưởng lợi ích và để phát sinh những công đức thanh tịnh.

Này các thiện nam! Ví như có người muốn xây nhà cửa cung điện nơi khoảng đất trống, trang hoàng theo ý muốn không bị chướng ngại. Nếu làm ở trong hư không thì không bao giờ thành tựu. Cũng vậy, Bồ-tát biết các pháp đều như hư không, chỉ vì muốn làm tăng trưởng lợi ích cho các hữu tình và để sinh công đức thanh tịnh nên đưa họ vào cõi Phật như thế. Việc đưa họ vào cõi Phật thanh tịnh như vậy chẳng phải giống việc làm ở hư không.

Lại nữa, này Bồ-tát Bảo Tánh! Các ông nên biết, cõi phát sinh tâm Bồ-đề vô thượng là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề thì tất cả hữu tình phát sinh hướng về Đại thừa đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi thuần an lạc là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề tất cả hữu tình không dua nịnh, không dối gạt đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi gia hành hoàn hảo là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình phát tâm giữ gìn tốt đẹp gia hành hoàn hảo đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi ý lạc tối thượng là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồtát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình thành tựu đầy đủ pháp thiện đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi tu bố thí là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình xả bỏ tài pháp đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi tu tịnh giới là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát.

Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình thành tựu viên mãn mười đạo nghiệp thiện đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi tu an nhẫn là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình có ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân, an nhẫn nhu hòa, tịch tĩnh đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi tu tinh tấn là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bo-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình dũng mãnh tinh tấn đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi tu tĩnh lự là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình thành tựu đầy đủ chánh niệm, chánh tri, chánh định đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi tu Bát-nhã là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình đã nhập chánh định đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi bốn Tâm vô lượng là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình thường sống trong Từ, Bi, Hỷ, Xả đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi bốn Nhiếp sự là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả hữu tình đều được thâu gồm vào giải thoát đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi phương tiện thiện xảo là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, các hữu tình quán sát thiện xảo về các pháp đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi tu ba mươi bảy phần Bồ-đề là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bo-tát chứng đắc đại Bồ-đề, các hữu tình thông đạt tất cả Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi đầy đủ đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Cõi tu hồi hướng là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, thì cõi của Bồ-tát ấy đầy đủ các đức trang nghiêm.

Cõi giảng nói hoàn hảo về diệt trừ tám nạn là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, cõi ấy vĩnh viễn không còn cõi ác, nguy ách.

Cõi tự mình giữ giới hạnh không gièm chê người là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, cõi ấy không có cái tên phạm giới cấm.

Cõi mười đạo nghiệp thiện rất thanh tịnh là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, các hữu tình sống lâu, bền vững, giàu có, phạm hạnh, nói năng chân thật, nói lời hòa nhã, quyến thuộc không xa lìa nhau, khéo tuyên thuyết mật ý, lìa các tham dục, tâm không sân hận, các hữu tình chánh kiến như vậy đến sinh vào cõi của Bồ-tát ấy.

Này các thiện nam! Như thế nếu Bồ-tát tùy theo sự phát tâm Bồđề thì ý lạc được thuần tịnh, nếu tùy theo ý lạc thuần tịnh thì được gia hành hoàn hảo, nếu tùy theo gia hành hoàn hảo thì ý lạc tăng trưởng, nếu theo ý lạc tăng trưởng thì được dừng lại, nếu theo sự dừng lại thì được phát khởi, nếu theo sự phát khởi thì được hồi hướng, nếu theo sự hồi hướng thì được tịch tĩnh, nếu theo sự tịch tĩnh thì hữu tình thanh tịnh, nếu theo hữu tình thanh tịnh thì có cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, nếu theo cõi Phật trang nghiem thanh tịnh thì có giáo pháp thanh tịnh, nếu theo giáo pháp thanh tịnh thì có phước diệu thanh tịnh, nếu theo phước diệu thanh tịnh thì có tuệ diệu thanh tịnh, nếu theo tuệ diệu thanh tịnh thì có trí diệu thanh tịnh, nếu theo trí diệu thanh tịnh thì có hạnh diệu thanh tịnh, nếu theo hạnh diệu thanh tịnh thì có tự tâm thanh tịnh, nếu theo tự tâm thanh tịnh thì có các công đức diệu thanh tịnh.

Này các thiện nam! Thế nên muốn siêng năng tu tập về cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát thì trước tiên nên dùng phương tiện trang nghiêm thanh tịnh chính tâm mình. Vì sao? Vì nếu các Bồ-tát tâm trang nghiêm thanh tịnh thì đắc được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh.

Bấy giờ, nhờ oai thần của Đức Phật, Tôn giả Xá-lợi Tử suy nghĩ: “Do tâm Bồ-tát trang nghiêm thanh tịnh nên cõi Phật cũng trang nghiêm thanh tịnh. Đức Thế Tôn của ta khi hành hạnh Bồ-tát vì tâm không trang nghiêm thanh tịnh nên cõi Phật của Ngài xen tạp ô uế như vậy chăng?”

Biết tâm niệm của Tôn giả, Đức Phật nói:

–Này Xá-lợi Tử! Ý ông thế nào? Mặt trời, mặt trăng ở thế gian có bất tịnh chăng mà người mù không thấy?

Tôn giả thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không, đó là lỗi của người mù chứ chẳng phải do mặt trời, mặt trăng.

Đức Phật nói:

–Cũng vậy, vì lỗi của chúng sinh nên không thấy cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Thế Tôn, chứ chẳng phải do lỗi của Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Cõi trang nghiêm thanh tịnh của ta, ông không thấy được đâu.

Khi ấy, Phạm vương Trì Kế nói với Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Tôn giả đừng nghĩ cõi Phật ấy không trang nghiêm thanh tịnh.

Vì sao? Vì cõi Phật ấy rất trang nghiêm thanh tịnh.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi:

–Này Đại Phạm Thiên vương! Cõi Phật ấy trang nghiêm thanh tịnh thế nào?

Phạm thiên Trì Kế thưa:

–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Giống như cung trời Tha hóa tự tại, có vô lượng công đức báu trang nghiêm. Tôi thấy cõi trang nghiêm thanh tịnh của Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni cũng có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Này Đại Phạm Thiên vương! Tôi thấy cõi ấy đất đai lồi lõm, gò đồi, hầm hố, gai gốc, cát sỏi, đất đá, núi non đầy dẫy ô uế.

Phạm thiên Trì Kế thưa:

–Thưa đại Tôn giả! Vì tâm có cao thấp không trang nghiêm, thanh tịnh tức cho ý lạc trí tuệ của Đức Phật cũng như vậy, nên thấy cõi Phật không trang nghiêm, thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát đối với hữu tình có tâm bình đẳng nơi công đức trang nghiêm, tức cho ý lạc trí tuệ của Đức Phật cũng vay thì thấy cõi Phật ấy rất trang nghiêm thanh tịnh.

Biết đại chúng nghi ngờ, Đức Thế Tôn liền nhấn ngón chân xuống đất. Tức thời hiện ra vô lượng trăm ngàn vật báu đẹp đẽ trang nghiêm trong tam thiên đại thiên thế giới giống như cõi Vô lượng công đức bảo trang nghiêm của Phật Công Đức Bảo Trang Nghiêm. Cả đại chúng đều khen ngợi là chưa từng có và đều tự thấy mình ngồi trên hoa sen báu.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Ông có thấy các đức trang nghiêm thanh tịnh nơi cõi Phật kia không?

Tôn giả Xá-lợi Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Sự việc này xưa nay con chưa từng thấy, chưa từng nghe cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh hiện lên như vậy.

Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Cõi Phật của ta cũng thanh tịnh như vậy. Vì muốn làm thành thục cho các hữu tình thấp kém, mà thị hiện cõi với vô lượng thứ xen tạp, ô uế như thế.

Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Chư Thiên nơi cõi trời Tam thập tam đều ăn bằng bát báu, nhưng tùy theo nghiệp của họ mà nhận lấy thức ăn có khác nhau. Cũng vậy, này Tôn giả Xá-lợi Tử! Vô lượng hữu tình sinh vào một cõi Phật. Tùy theo tâm của họ tịnh hay uế mà thấy có khác nhau. Nếu tâm người tịnh thì thấy cõi ấy có vô lượng công đức diệu bảo trang nghiêm.

Ngay lúc Phật hiện bày cõi trang nghiêm thanh tịnh ấy thì năm trăm đồng tử đi theo Bồ-tát Bảo Tánh chứng đắc pháp Nhẫn vo sinh. Tám vạn bốn ngàn hữu tình phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn liền thâu giữ thần túc và thế giới ấy trở về như cũ. Ba vạn hai ngàn chư Thiên và người cầu Thanh văn thừa liền biết pháp hữu vi đều là vô thường, xa lìa mọi phiền não cấu uế, đạt được mắt pháp thanh tịnh. Tám ngàn Tỳ-kheo lìa hẳn các lậu, tâm hoàn toàn giải thoát.

 

Phẩm 2: HIỂN BÀY PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO BẤT KHẢ TƯ NGHÌ

Bấy giờ, trong thành Quảng nghiêm có Đại Bồ-tát thuộc dòng

Ly Chiêm Tỳ tên Vô Cấu Xứng, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, đã trồng sâu căn lành với chư Phật; đắc đại biện tài vi diệu, đầy đủ Nhẫn vô sinh, đạt các Tổng trì, có thần thông tự tại, đạt vô sở úy, đánh bại sức ma oán, thể nhập sâu vào cửa pháp, Trí độ đã hoàn mãn, thông đạt các phương tiện, đại nguyện đã tròn đủ, biết rõ những ý thích và các hành của chúng sinh, biết rõ các căn hơn kém của muôn loài, Trí độ đã thành tựu, thuyết pháp thông suốt, chín chắn tu tập Đại thừa, làm việc gì cũng suy nghĩ kỹ càng, luôn sống trong oai nghi của Phật, tâm nhập vào biển tuệ, được chư Phật tin tưởng, khen ngơi, diễn nói, được Phạm vương Hộ Thế kính lạy. Vì muốn làm thành thục cho các hữu tình nên Bồ-tát Vô Cấu Xứng dùng phương tiện khéo léo ở thành Quảng nghiêm, giàu có vô tận, giúp đỡ làm lợi ích cho kẻ nghèo khổ không nơi nương tựa cậy nhờ, đầy đủ giới thanh tịnh, bảo hộ giúp đỡ những ai phạm giới vượt giới, đem tâm nhẫn nhục điều phục làm lợi ích cho những ai sân giận, ganh ghét, bị đánh đập khổ sở, dùng đại tinh tấn giúp đỡ những ai biếng nhác buông lung, an trụ vào chánh niệm tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí để giúp đỡ những kẻ tâm tán loạn, dùng sự lựa chọn chính xác nhất định để giúp đỡ những kẻ vọng kiến tuệ ác. Mặc dù là cư sĩ nhưng vị ấy có đầy đủ công đức oai nghi của một Sa-môn, mặc dù ở tại nhà nhưng không bị vướng vào ba cõi, mặc dù thị hiện có vợ con nhưng luôn tu hành phạm hạnh, mặc dù thị hiện có quyến thuộc nhưng thích xa lìa, mặc dù mặc y phục trang sức quý báu nhưng trang nghiêm thân bằng các tướng tốt đẹp, mặc dù thị hiện nhận thức ăn nhưng lấy mùi vị bằng tĩnh lự đẳng chí, mặc dù thích vui chơi đánh cờ nhưng thật sự luôn vì làm thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, mặc dù tuân theo những quy luật lễ nghi của ngoại đạo nhưng với pháp Phật thì ưa thích không hoại, mặc dù biết rõ về thư luận thế gian nhưng ở trong phòng luôn thuởng thức, nghiền ngẫm pháp lạc, mặc dù thị hiện trong tất cả chúng hội, thành ấp nhưng luôn là người thượng thủ về nêu giảng pháp, vì tuân theo giáo lý thế gian nhưng đối với những người tôn quý, ti tiện làm việc gì cũng đều thị hiện không trái ngược họ, mặc dù không mong cầu của cải quý báu nơi thế gian nhưng đối với điều lợi ở thế tục thì thị hiện những thói quen thế tục, vì làm lợi ích cho muôn loài mà đi vào chợ búa, vì bảo vệ quần sinh mà làm công việc của vua, vào chỗ giảng noi luận bàn thì dùng pháp Đại thừa để hướng dẫn, vào các học đường để dạy dỗ kẻ mới học, vào nhà mại dâm để chỉ bày tội lỗi của dâm dục, vì kiến lập chánh niệm, chánh tri mà dạo chơi nơi kỹ nhạc. Nếu ở chỗ trưởng giả là người tôn kính trong hàng trưởng giả thì giảng nói thắng pháp cho họ. Nếu ở chỗ cư sĩ, là người tôn kính trong hàng cư sĩ, thì đoạn trừ tham chấp cho họ. Nếu ở chỗ Sát-đế-lợi, thì là người tôn kính trong hàng Sát-đế-lợi, lấy nhẫn nhục giáo hóa. Nếu ở chỗ Bà-la-môn, là người tôn kính trong hàng Bà-la-môn, thì trừ ngã mạn cho họ. Nếu ở chỗ đại thần, là người tôn kính trong hàng đại thần, thì lấy chánh pháp giáo hóa. Nếu ở chỗ vương tử là người tôn kính trong hàng vương tử, thì lấy trung hiếu để chỉ dạy. Nếu ở chỗ nội quan, là người tôn kính trong hàng nội quan, thì giáo hóa các cung nữ. Nếu ở chỗ thứ dân, là người tôn quý trong hàng thứ dân, thì tu tập phước nghiệp tương tự với ý thích thù thắng. Nếu ở chỗ Phạm thiên, là người tôn kính trong hàng Phạm thiên, thì chỉ dạy chúng Phạm thiên về các tĩnh lự sai khác. Nếu ở chỗ Đế Thích, là người tôn kính trong hàng Đế Thích, thì thị hiện tự tại, tất cả đều vô thường. Nếu ở chỗ Hộ thế, là người tôn kính trong hàng Hộ thế, thì giữ gìn tất cả chúng sinh được lợi ích an lạc.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng dùng vô lượng phương tiện nơi nẻo tuệ thien xảo bất khả tư nghì như vậy để làm lợi ích cho các hữu tình. Ông ta dùng phương tiện thị hiện bị bệnh. Do ông ta bệnh, nên các hàng quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn,… các vương tử đều đến thăm bệnh.

Khi ấy, nhân vì thân bệnh, Vô Cấu Xứng giảng pháp cho họ:

–Thưa các vị, thân do bốn đại chủng hợp thành. Nó vô thường, không chắc thật, không lâu bền, không có sức mạnh, khô héo mau chóng, không thể nào giữ gìn mãi được, là đồ chứa các bệnh khổ não, nhiều tội lỗi, là pháp biến đổi hư hoại.

Thưa các vị, thân là như vậy, người thông minh có trí tuệ không nương vào. Thân như đống bọt nước không thể nắm lấy, thân như bong bóng nước không đứng lâu, thân như sóng nắng do khát ái phiền não sinh ra, thân như cây chuối hoàn toàn không có lõi cứng, thân như huyễn do điên đảo sinh khởi, thân như mộng vì thấy hư vọng, thân như ảnh do nghiệp duyên mà hiện ra, thân như tiếng vang lệ thuộc vào các nhân duyên, thân như mây biến đổi trong chốc lát, thân như ánh chớp thay đổi trong mỗi niệm, thân không có chủ vì như đất, thân là vô ngã vì như nước, thân không phải hữu tình vì như lửa, thân không phải thọ mạng vì như gió, thân không phải Bổ-đặc-già-la vì như hư không, thân không thật vì lấy bốn đại làm nhà, thân là không vì xa lìa ngã và ngã sở, thân là vô tri như cây cối… Thân không tạo tác vì do sức gió làm lay động, thân là bất tịnh đầy dẫy ô uế, thân hư dối tuy mượn những thức ăn uống để che đậy nhưng tất cả đều hủy diệt, thân nhiều hoạn nạn do bốn trăm lẻ bốn bệnh hợp thành, thân dễ tan hoại như giếng go, thường bị già khô hành hạ, thân không nhất định vì tất nhiên phải chết, thân như oán thù bao vây, đầy dẫy rắn độc, thân như làng xóm trống vắng do các uẩn xứ giới hợp thành.

Thân như vậy đó, các vị nên nhàm chán xa lìa mà nên sinh tâm vui thích thân Như Lai. Vì sao? Vì thân Như Lai do vô lượng pháp thiện hợp thành; do tu vô lượng phước đức trí tuệ thù thắng mà sinh ra; do tu vô lượng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thù thắng mà sinh ra; do tu Từ, Bi, Hỷ, Xả mà sinh ra; do tu bố thí, điều phục, tịch tĩnh, nhẫn nhục, tinh tấn, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, Bát-nhã, phương tiện, nguyện lực trí mà sinh ra; do tu tất cả đến bờ bên kia mà sinh ra; do tu sáu Thần thông mà sinh ra; do tu ba Minh mà sinh ra; do tu ba mươi bảy phần Bồ-đề mà sinh ra; do tu Chỉ Quán mà sinh ra; do tu mười Lực, bốn Vô sở úy mà sinh ra; do tu mười tám pháp Bất cộng mà sinh ra; do đoạn trư tất cả pháp bất thiện, tụ tập tất cả pháp thiện mà sinh ra; do tu chín chắn chân thật không buông lung mà sinh ra; do tu vô lượng nghiệp thanh tịnh mà sinh ra.

Thưa các vị, thân công đức của Như Lai như vậy, các vị nên phát tâm mong cầu chứng đắc. Muốn được thân như thế, các vị phải đoạn trừ tất cả bệnh của hữu tình để phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Vì các chúng hội đến thăm bệnh, Vô Cấu Xứng giảng pháp khiến cho vô số ngàn người đều phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng.

 

QUYỂN 2

Phẩm 3: THANH VĂN

Bấy giờ, Bờ-tát Vô Cấu Xứng suy nghĩ: “Ta bị bệnh không rời khỏi giường nằm như vậy, lẽ nào Đức Thế Tôn đại Bi không đoái tâm thương xót mà không bảo người đến hỏi thăm bệnh tình?” Biết ý ông ta, Đức Thế Tôn thương xót nên bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Tôn giả Xá-lợi Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, con đang ngồi thiền trong rừng cây. Lúc đó Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy dưới chân con và nói: “Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Không cần ngồi như vậy mới là ngồi thiền. Người ngồi thiền không hiện thân tâm ở ba cõi, đó là ngồi thiền. Không khởi định diệt mà hiện các oai nghi, đó là ngồi thiền. Không xả bỏ tất cả tướng đã chứng đắc mà hiện tất cả pháp của hang phàm phu, đó là ngồi thiền. Tâm không trụ bên trong cũng không hành bên ngoài, đó là ngồi thiền. Trụ vào ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề mà không lìa tất cả kiến giải, đó là ngồi thiền. Không xả bỏ sinh tử mà không phiền não, mặc dù chứng Niết-bàn mà không có chỗ trụ, đó là ngồi thiền. Nếu ngồi thiền như vậy thì được Phật ấn chứng.”

Bạch Thế Tôn! Khi đó con nghe vậy liền nín thinh không thể trả lời được. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không có đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ lại trước đây có một lần, con đến ngả tư đường thuộc thành Quảng nghiêm giảng nói pháp giải thoát cho các cư sĩ. Lúc đó, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy nơi chân con và nói: “Thưa Tôn giả Mục-kiền-liên! Nói pháp cho hàng cư sĩ, không nên nói như Tôn giả. Mà nói pháp là phải nói như pháp.” Con hỏi: “Thế nào là nói như pháp?” Ông ta trả lời: “Pháp không có ngã vì lìa cấu uế của ngã, pháp không có hữu tình vì lìa bụi bặm của hữu tình, pháp không có thọ mạng vì lìa sinh tử, pháp không có Bổ-đặc-già-la vì trước sau đều đoạn, pháp luôn tịch tĩnh vì diệt các tướng, pháp lìa tham chấp vì không có chỗ duyên, pháp không có văn tự vì đoạn dứt ngôn ngữ, pháp không có ví dụ để nói vì xa lìa tất cả tư tưởng sóng nước, pháp ở khắp tất cả vì như hư không, pháp không hiển bày, không có tướng, không có hình thể vì xa lìa tất cả hành động, pháp không có ngã sở vì lìa ngã sở, pháp không phân biệt vì lìa tâm thức, pháp không so sánh vì không đối đãi nhau, pháp không thuộc vào nhân vì không ở trong duyên, pháp đồng với pháp giới vì thể nhập vào tất cả pháp giới đích thực, pháp tùy theo Như vì không có chỗ theo, pháp trụ vào thật tế vì rốt ráo bất động, pháp không lay động vì không nương tựa vào sáu cảnh, pháp không đến đi vì không có chốn trụ, pháp thuận với không vì tùy theo vô tướng, ứng với vô nguyện vì xa lìa tất cả tư tưởng tăng giảm, pháp không thủ xả vì lìa sinh diệt, pháp không chấp giữ vì vượt qua tất cả đạo nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, pháp không cao thấp vì thường trụ bất động, pháp lìa tất cả phân biệt về chỗ hành vì đã đoạn rốt ráo tất cả các hý luận. Thưa Tôn giả Mục-kiền-liên! Tướng của pháp như vậy mà có thể giảng nói được sao? Vậy người nói pháp là tất cả đều tăng trưởng, tổn giảm. Người nghe pháp cũng đều tăng trưởng, tổn giảm. Nếu đối với xứ ấy không tăng, không giảm, thì với xứ ấy không thể nói, không thể nghe, không thể phân biệt. Thưa Tôn giả Mụckiền-liên! Ví như thầy ảo thuật hóa người huyễn hóa, giảng nói các pháp trụ tâm như vậy, mới có thể nói pháp, phải hiểu rõ hoàn toàn căn tánh sai khác của các hữu tình, dùng tuệ diệu quán sát không bị chướng ngại, khen ngợi Đại thừa, nhớ nghĩ báo ân Phật, ý lạc thanh tịnh, từ ngữ pháp thiện xảo, nối dõi Tam bảo không cho đoạn tuyệt, đó mới nên nói pháp.”

Bạch Thế Tôn! Khi đại cư sĩ ấy giảng nói pháp như vậy, trong chúng có tám trăm cư sĩ đều phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng. Bạch Thế Tôn! Lúc đó con im lặng không thể biện luận được nữa.

Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Ca-diếp-ba:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Tôn giả Đại Ca-diếp-ba thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, con vào thành Quảng nghiêm, theo những ngõ hẻm nhà nghèo khó để khất thực. Khi ấy, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy nơi sát chân con và nói: “Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp-ba! Mặc dù Tôn giả có tâm Từ bi nhưng không phổ cập, bỏ nhà giàu đến khất thực nhà nghèo. Thưa Tôn giả Ca-diếp! Nên trụ vào pháp bình đẳng mà khất thực theo thứ tự. Vì không có thức ăn nên đi khất thực, vì muốn phá trừ người chấp trước đối với thức ăn nên đi khuất thực, vì muốn nhận thức ăn bố thí của người nên đi khất thực, vì có tư tưởng vào xóm làng trống vắng mà vào xóm làng, vì muốn thành tựu đầy đủ cho các nam nữ lớn nhỏ mà vào thành ấp, vì có tư tưởng hướng Phật mà đến các nhà để khất thực, vì không thọ nhận mà thọ nhận thức ăn ấy, thấy sắc giống như mù, nghe tiếng như âm thanh vọng lại, ngửi mùi thơm như gió, ăn mùi vị không phân biệt, thọ các xúc như trí chứng, biết các pháp như tướng huyễn, không có tự tánh không có tha tánh, không bộc phát, không tịch tĩnh. Thưa Tôn giả Cadiếp! Nếu có thể không lìa bỏ tám tà để thể nhập vào tám Giải thoát, lấy tà bình đẳng nhập vào chánh bình đẳng, lấy một vắt cơm bố thí cho tất cả, cúng dường cho chư Phật cùng chúng Hiền thánh rồi sau đó mới ăn. Thức ăn ấy chẳng tạp nhiễm, chẳng lìa tạp nhiễm; chẳng nhập định tịnh, chẳng ra khỏi định tịnh; chẳng trụ sinh tử, chẳng trụ Niếtbàn; như vậy mới có thể ăn. Những người cúng dường cho Tôn giả không có quả nhỏ, không có quả lớn, không tổn giảm không tăng trưởng, hướng đến cõi Phật không hướng đến Thanh văn. Thưa Tôn giả Ca-diếp! Nếu ăn thức ăn ấy thì không uổng phí thức ăn của người cúng dường.”

Bạch Thế Tôn! Nghe ông ta nói vậy, con đạt được điều chưa từng có. Tất cả các vị Bồ-tát đều rất tôn kính ông ta.

Kỳ lạ thay, bạch Thế Tôn! Ở đó có cư sĩ với biện tài trí tuệ như vậy. Ai có trí tuệ được nghe ông ta nói mà lại không phát tâm Bồ-đề vô thượng. Từ đó đến nay, con không chỉ dạy hữu tình cầu các thừa Thanh văn, Duyên giác nữa, mà con chỉ dẫn dạy họ phát tâm mong cầu Bồ-đề vô thượng. Cho nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Thiện Hiện:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng?

Tôn giả Đại Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, con vào thành Quảng nghiêm để đi khất thực, theo thứ tự con vào nhà ông ta. Khi ấy, Vô Cấu Xứng cúi đầu lạy sát chân con và tự tay lấy bát con đựng đầy thức ăn ngon, rồi nói: “Thưa Tôn giả Thiện Hiện! Đối với thức ăn, nếu lấy tánh bình đẳng nhập vào tánh bình đẳng của các pháp, đem tánh bình đẳng của các pháp nhập vào tánh bình đẳng của chư Phật thì mới có thể nhận lấy thức ăn. Thưa Tôn giả Thiện Hiện! Nếu không đoạn trừ tham, sân, si cũng không tương ưng với nó, không hoại thân kiến mà nhập vào nhất đạo, không diệt vô minh và các hữu ái mà phát sinh tuệ minh để giải thoát, đem pháp tánh bình đẳng nơi vô gián nhập vào pháp tánh bình đẳng giải thoát, không tháo bỏ không trói buộc, không thấy bốn Đế chẳng phải là không thấy bốn Đế, chẳng phải chứng đắc quả, chẳng phải là phàm phu, chẳng phải lìa pháp của phàm phu, chẳng phải Thánh chẳng phải phi Thánh, mặc dù thành tựu tất cả pháp nhưng lìa vọng tưởng về các pháp thì mới có thể lấy ăn. Thưa Tôn giả Thiện Hiện! Không thấy Phật, không nghe pháp, không cung kính Tăng thì đám lục sư ngoại đạo: Mãn Ca-diếp-ba, Mạt-tát-yết-ly-cùxá-ly Tử, Tưởng Phệ-đa Tử, Vô Thắng Man, Ca-diễn-na, Ly-hệ-thân Tử là thầy của Tôn giả, Ton giả xuất gia với họ. Đám lục sư ấy đọa thì Tôn giả cũng đọa, như thế thì mới có thể lấy ăn. Nếu Tôn giả rơi vào các kiến chấp mà không rơi vào ở giữa, hai bên, vào tám chỗ nạn không thoát ra được cùng với tạp nhiễm mà lìa thanh tịnh. Nếu hữu tình đạt được định Vô tránh thì Tôn giả cũng đạt được, nhưng không gọi là ruộng phước thanh tịnh. Những người bố thí thức ăn cho Tôn giả đọa vào các cõi ác rồi Tôn giả cùng đám ma nắm tay nhau, kết bạn cùng với các phiền não. Tự tánh của phiền não tức là tự tánh của Tôn giả. Các hữu tình sinh tâm oán hận, chê bai chư Phật, hủy báng Chánh pháp, không dự vào Tăng số thì hoàn toàn không có cơ hội đạt Bátniết-bàn. Nếu có đủ phương cách khéo léo, làm được như vậy thì có thể lấy ăn.”

Bạch Thế Tôn! Khi nghe ông ta nói như vậy, con mịt mù, mê muội, quên hết đường đi. Con không biết phải nói gì và trả lời thế nào. Con muốn để bát lại mà ra khỏi nhà. Khi ấy, Vô Cấu Xứng nói với con: “Thưa Tôn giả Thiện Hiện! Tôn giả hãy cầm bát, chớ có sợ. Ý Tôn giả thế nào? Như chư Phật, Như Lai hóa ra người huyễn. Người huyễn hóa đó đem việc này ra hỏi, thì Tôn giả có sợ không?” Con nói: “Không sợ.” Vô Cấu Xứng nói: “Tánh tướng của các pháp đều như huyễn hóa. Tất cả hữu tình và các lời nói năng, tánh tướng của chúng đều như vậy. Những người có trí không nên chấp trước vào văn tự, cũng không sợ sệt. Vì sao? Vì tất cả sự nói năng đều lìa tánh tướng của văn tự. Nếu hoàn toàn chẳng có văn tự thì đó là giải thoát. Tướng giải thoát tức là tất cả pháp.”

Bạch Thế Tôn! Khi đại cư sĩ ấy nói pháp, có hai vạn Thiên tử xa lìa mọi phiền não cấu uế, trong các pháp đắc được Pháp nhãn thanh tịnh. Năm trăm Thiên tử đắc pháp nhẫn thuận. Lúc đó, con im lặng không nói năng gì được và cũng không sao trả lời. Cho nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Thế Tôn bảo Tôn giả Mãn Từ Tử:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng?

Mãn Từ Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, ở trong rừng con giảng pháp cho Tỳ-kheo mới học. Khi ấy, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con và nói: “Thưa Tôn gia Mãn Từ Tử! Trước tiên Tôn giả nên nhập định để quán sát tâm Tỳ-kheo, rồi sau đó mới giảng pháp cho họ. Không nên đem thức ăn nhơ nhớp bỏ vào bình báu. Trước tiên nên biết rõ các Tỳ-kheo có ý muốn gì, đừng đem báu phệ lưu ly vô giá sánh bằng với viên thủy tinh tầm thường dễ vỡ. Thưa Tôn giả Mãn Từ Tử! Tôn giả chớ không quán sát căn tánh sai khác của các loài hữu tình mà trao cho họ pháp thuộc Tiểu thừa. Họ đã không bị tổn thương thì đừng làm cho họ tổn thương. Họ muốn đi đường lớn thì đừng bảo đi đường nhỏ, chớ lấy ánh sáng mặt trời đem sánh với lửa đom đóm, không nên lấy biển cả đặt vào dấu chân bò, không nên đem núi Diệu cao để trong hạt cải, không nên đem tiếng gầm của sư tử sánh bằng với tiếng của loài dã can. Thưa Tôn giả Mãn Từ Tử! Các Tỳ-kheo ấy đều đã phát tâm Đại thừa từ thuở xa xưa, cầu Bồ-đề giữa chừng thì quên mất ý ấy. Vậy sao đem pháp Thanh văn thừa mà chỉ dạy họ. Tôi quán sát trí tuệ của hàng Thanh văn thấp kém quá hơn người mù bẩm sinh không có Đại thừa. Quán căn tánh nói trí diệu của các hữu tình chứ không thể quán căn tánh lợi, độn của hữu tình.” Khi ấy, Vô Cấu Xứng liền nhập Tam-ma-địa Như thị thắng khiến các Tỳ-kheo theo đó nhớ lại vô lượng sự sai khác ở kiếp trước, đã từng gieo trồng căn lành với năm trăm Đức Phật ở quá khứ, đã chứa nhóm, tu tập vô lượng công đức thù thắng, hồi hướng lên Chánh đẳng giác Vô thượng. Sau khi nhớ lại đời kiếp trước, các vị ấy cầu tâm Bồ-đề và trở lại hiện tại, cúi đầu lạy sát chân cư sĩ. Nhân đây, Vô Cấu Xứng giảng pháp khiến họ không thoái chuyển nơi đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng.

Bạch Thế Tôn! Lúc ấy con nghĩ: “Các vị Thanh văn không biết căn tánh sai khác của hữu tình. Nếu không thưa với Như Lai thì không nên vội giảng nói pháp cho họ. Vì sao? Vì các Thanh văn không biết căn tánh hơn kém của hữu tình, chẳng phải luôn ở trong định như Phật.” Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Ma-ha Ca-đa-diễn-na:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Ca-đa-diễn-na thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây, có một lần, sau khi Đức Thế Tôn giảng pháp cho Tỳ-kheo, con liền nhập định. Sau đó, con phân biệt, chọn lựa cú nghĩa của Khế kinh giảng nói về nghĩa vô thường, nghĩa không, nghĩa vô ngã, nghĩa tịch diệt. Khi ấy, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con và nói: “Thưa Tôn giả Đại Ca-đa-diễn-na! Không nên đem tâm hành phân biệt mà nói về thật tướng của các pháp. Vì sao? Vì các pháp hoàn toàn chẳng phải đã sinh, chẳng phải đang sinh, chẳng phải sẽ sinh; chẳng phải đã diệt, chẳng phải đang diệt, chẳng phải sẽ diệt, đó là nghĩa vô thường. Thấu đạt tánh của năm uẩn hoàn toàn là không, không có chỗ sinh khởi, đó là nghĩa khổ. Các pháp hoàn toàn không có sở hữu, đó là nghĩa không. Biết ngã là không có ngã, không có hai, đó là nghĩa vô ngã. Không có tự tánh, không có tha tánh, xưa không bùng cháy nay không dập tắt, không tịch tĩnh, hoàn toàn tịch tĩnh rốt ráo tịch tĩnh, đó là nghĩa tịch tĩnh.”

Khi Bồ-tát Vô Cấu Xứng giảng nói pháp ấy thì các Tỳ-kheo đoạn hết các lậu, tâm được giải thoát.

Bạch Thế Tôn! Khi ấy con im lặng không thể nói gì cả. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Vô Diệt:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Tôn giả Đại Vô Diệt thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, con đi kinh hành một mình trong rừng. Khi ấy, có Phạm vương tên Nghiêm Tịnh cùng một vạn Phạm chúng đều phóng ra ánh sáng lớn. Họ đến chỗ con cúi đầu lạy sát chân con và hỏi: “Thưa Tôn giả Vô Diệt! Tôn giả đắc Thiên nhãn có thể thấy bao xa?” Khi ấy con trả lời: “Đại tiên nên biết! Tôi có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới cõi Phật của Như Lai Thích-ca Mâuni như thấy quả A-ma-lặc trong lòng bàn tay.” Khi ấy Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con và nói: “Thưa Tôn giả Vô Diệt! Thiên nhãn mà Tôn giả đắc được là có hành tướng hay không có hành tướng? Nếu có hành tướng tức là đồng với năm thần thông của ngoại đạo. Còn nếu không có hành tướng tức là vô vi lẽ ra không thể thấy. Vậy thì Thiên nhãn mà Tôn giả đắc được có thể thấy thế nào?”

Bạch Thế Tôn! Lúc đó con im lặng không thể trả lời được. Các Phạm chúng nghe ông ta nói vậy thì bừng tỏ cho là chưa từng có, liền lạy, hỏi: “Trong đời, ai là người có được chân Thiên nhãn?” Vô Cấu Xứng trả lời: “Chỉ có Phật Thế Tôn mới đắc được chân Thiên nhãn, không lìa định tịch tĩnh mà vẫn thấy các cõi Phật không có hai tướng và các tướng.” Bấy giờ, Phạm vương ấy cùng quyến thuộc năm trăm người đều phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng. Lúc đó, họ le bái Vô

Cấu Xứng rồi bỗng nhiên biến mất. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Ưu-ba-ly:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng?

Tôn giả Ưu-ba-ly thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần: Có hai vị Tỳ-kheo phạm giới đã thọ. Hai vị ấy rất xấu hổ không dám đến chỗ Đức Phật, lại đến lạy sát chân con, nói: “Thưa Tôn giả Ưu-ba-ly! Hai chúng tôi nay đã vi phạm vượt quá giới luật, thật lấy làm xấu hổ không dám đến chỗ Đức Phật. Chúng tôi xin Tôn giả hãy giải bày nỗi ưu lo để chúng tôi khỏi tội ấy.” Con liền như pháp giải nói để hai vị ấy không còn lo buồn nữa, giới đã phạm được thanh tịnh trở lại và con chỉ dạy, khuyến khích, hướng dẫn, an ủi hai vị ấy. Lúc đó, Vô Cấu Xứng đến lạy sát chân con và nói: “Thưa Tôn giả Ưu-ba-ly! Không nên kết thêm tội cho hai vị Tỳ-kheo này, mà phải làm thế nào để dứt hẳn mối lo âu đó ngay. Họ đã phạm rồi chớ nên làm loạn tâm họ. Vì sao? Vì tánh của tội ấy không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Như lời Phật dạy: “Vì tâm tạp nhiễm nên hữu tình tạp nhiễm, vì tâm thanh tịnh nên hữu tình thanh tịnh.” Như vậy, tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, cũng không ở chặng giữa. Tâm ấy như vậy nên tội cấu uế cũng như vậy. Tội cấu uế của “Như” như vậy, nên các pháp cũng như vậy, không ngoài “Như.” Thưa Tôn giả Ưu-ba-ly! Tâm của Tôn giả vốn thanh tịnh, vậy khi được giải thoát thì tâm vốn thanh tịnh ấy có bị nhiễm bao giờ không?” Con trả lời: “Không.” Vô Cấu Xứng nói: “Tâm tánh của tất cả hữu tình cũng vốn thanh tịnh chưa từng bị nhiễm. Thưa Tôn giả Ưu-ba-ly! Nếu có phân biệt, phân biệt khác tức là có phiền não. Nếu không có phân biệt, không phân biệt khác tức là tánh thanh tịnh. Nếu có điên đảo là có phiền não. Còn như không điên đảo là tánh thanh tịnh. Nếu còn chấp ngã tức thành tạp nhiễm, không chấp ngã là tánh thanh tịnh. Thưa Tôn giả Ưu-ba-ly! Các pháp sinh diệt không ngừng, nó như huyễn, như hóa, như điện, như chớp, như mây. Các pháp không quay lại đợi nhau, cho đến một niệm nó cũng không tạm dừng. Tánh của các pháp đều thấy một cách hư vọng, như mộng, như dợn nắng, như thành Kiền-đạt-bà. Tất cả pháp đều do tâm phân biệt mà phát sinh ảnh tượng như trăng trong nước, như bóng trong gương. Ai biết được như vậy gọi là trì giới luật rốt ráo. Ai biết được như vậy gọi là điều phục hoàn hảo.” Nghe giảng nói như thế, hai vị Tỳ-kheo tỏ ngộ cho là chưa từng có và cùng nói: “Cư sĩ thật kỳ diệu thay, với trí tuệ biện tài thù thắng như vậy, Tôn giả Ưu-ba-ly không thể nào sánh kịp. Đức Phật dạy trì luật rất là cao cả không thể nói được.” Con liền bảo: “Hai vị đừng có nghĩ về cư sĩ ấy như vậy. Vì sao? Vì ngoài Đức Như Lai ra chưa có một Thanh văn và các Bồ-tát nào có thể ngăn chặn trí tuệ biện tài của cư sĩ ấy. Trí tuệ biện tài sáng suốt, thù thắng của ông ta là như vậy.”

Bấy giờ, hai vị Tỳ-kheo liền đoạn sạch mối lo âu, đều phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng giác Vô thượng và làm lễ phát nguyện: “Nguyện các hữu tình đều được trí tuệ biện tài thù thắng như vậy.” Khi ấy, con im lặng không nói được gì cả. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Phật bảo Tôn giả La-hỗ-la:

–Ông nên đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Tôn giả La-hỗ-la thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần: Có các đồng tử dòng Lychiêm-tỳ đến lễ lạy con và hỏi: “Thưa Tôn giả La-hỗ-la! Tôn giả là con của Phật, vì đạo mà bỏ ngôi vị Chuyển luân vương để xuất gia. Việc xuất gia ấy có những công đức lợi ích gì?” Con liền như pháp giảng nói cho các đồng tử về công đức, lợi ích của việc xuất gia. Khi đó, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con nói: “Thưa Tôn giả Lahỗ-la! Tôn giả không nên giảng nói những công đức, lợi ích của việc xuất gia như vậy. Vì sao? Vì không có công đức, không có lợi ích, đó chính là xuất gia. Thưa Tôn giả La-hỗ-la! Đứng về pháp hữu vi thì có thể nói là có công đức, có lợi ích. Nhưng xuất gia là pháp vô vi. Trong pháp vô vi thì không thể nói là có công đức, lợi ích. Thưa Tôn giả Lahỗ-la! Xuất gia không có bên này, không có bên kia, cũng không ở chặng giữa. Nó xa lìa các kiến, không có sắc, phi sắc, đó là đường đến Niết-bàn, được người trí khen ngợi, được bậc Thánh bảo hộ, chiến thắng chúng ma, vượt ra khỏi năm đường, tịnh tu năm nhãn, an lập vào năm nhãn, chứng đắc năm Lực, không còn khổ não, lìa các pháp ác, bẻ gãy đám ngoại đạo, thoát khỏi giả danh, ra khỏi bùn nhơ dục không bị đắm nhiễm, không còn sự ràng buộc vì lìa ngã, ngã sở, dứt hẳn các hữu vì đã đoạn trừ các hữu, không bị nhiễu loạn vì đã đoạn trừ sự nhiễu loạn, khéo điều phục tâm mình khéo bảo hộ tâm người, tùy thuận vào pháp chỉ tịch diệt, siêng năng tinh tấn tu pháp quán thù thắng, xa lìa tất cả điều ác, tu tất cả điều thiện. Nếu có thể được như vậy mới gọi là chân xuất gia.” Khi ấy, Vô Cấu Xứng nói với các đồng tử: “Hôm nay các vị nên cùng nhau xuất gia trong chỗ khéo giảng thuyết về Tỳ-nại-da. Vì sao? Vì gặp Phật ra đời là khó, tránh xa khổ nạn là khó, được làm thân người là khó, đầy đủ an lạc là điều khó bậc nhất.” Các đồng tử thưa: “Thưa đại cư sĩ! Chúng tôi nghe Đức Phật dạy: “Nếu cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia.” Vô Cấu Xứng nói: “Này các đồng tử! Các ông chỉ phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng, siêng năng tu tập chánh hạnh thì đó là xuất gia, là thọ cụ túc, thành tánh Tỳ-kheo.” Lúc này, ba mươi hai đồng tử dòng Lychiêm-tỳ đều phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng và thề nguyện tu hành chánh hạnh. Con thì im lặng không thể nói được gì nữa. Cho nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan-đà:

–Ông nên đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng?

Tôn giả A-nan-đà thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần Thế Tôn hiện thân bệnh nhẹ cần dùng sữa bò. Vào sáng sớm, con sửa sang pháp phục, ôm bát đến đứng trước nhà Bà-la-môn ở thành Quảng nghiêm để xin sữa. Khi ấy, Vô Cấu Xứng đến lạy sát chân con và nói: “Thưa Tôn giả A-nan-đà! Làm gì mà mới sáng sớm đã ôm bát đứng ở đây vậy?” Con trả lời: “Cư sĩ, vì Thế Tôn bệnh cần dùng sữa bò nên tôi đến đây.” Vô Cấu Xứng nói với con: “Thôi, thôi, thưa Tôn giả! Tôn giả đừng nói như vậy, chớ phỉ báng Thế Tôn. Đừng đem việc hư dối mà phỉ báng Như Lai. Vì sao? Vì thân Như Lai do kim cang hợp thành, đã trừ hẳn tất cả pháp ác và tập khí phiền não, đã thành tựu viên mãn tất cả pháp thiện thì đâu có bệnh gì, còn có phiền não gì? Thưa Tôn giả A-nan-đà! Tôn giả hãy lặng lẽ trở về đừng xin nữa, đừng làm cho người khác nghe lời thô ấy, chớ để cho chư Thiên có đại oai đức và các Bồ-tát đến tư các cõi Phật nghe được lời nói ấy. Thưa Tôn giả A-nan-đà! Chuyển luân thánh vương thành tựu được chút căn lành còn không bị bệnh, huống chi thân là Như Lai có vô lượng căn lành, đầy đủ phước trí, nếu có bệnh thì nhất định không có vấn đề ấy xảy ra. Thưa Tôn giả A-nanđà! Tôn giả hãy mau lặng lẽ về đi đừng để chúng tôi phải chịu sự nhục đó. Nếu các Bà-la-môn ngoại đạo nghe lời thô này thì họ sẽ nói: “Như vậy sao gọi là thầy. Thân mình có bệnh còn không cứu nổi làm sao có thể cứu bệnh cho người khác được.” Tôn giả hãy mau lặng lẽ đi đi đừng để mọi người nghe thấy. Còn nữa, thưa Tôn giả A-nan-đà! Thân Như Lai là Pháp thân chứ chẳng phải thân ô uế xen tạp, là thân xuất thế gian không bị pháp thế gian làm ô nhiễm, là thân vô lậu đã lìa hẳn tất cả lậu, là thân vô vi đã xa lìa các hữu vi, vượt qua khỏi các số vì các số đã tịch tĩnh. Thân Phật như vậy thì làm gì có bệnh.”

Bạch Thế Tôn! Khi ấy, nghe ông ta nói như vậy, con thật thấy xấu hổ vô cùng, không lẽ ở gần Phật mà con nghe lầm sao. Ngay lúc đó, giữa hư không con nghe tiếng nói: “Này A-nan-đà! Đúng như lời cư sĩ ấy nói. Thân chân thật của Thế Tôn thực sự không có bệnh. Nhưng vì Như Lai hiện ra ở đời năm trược là vì muốn giáo hóa, dìu dắt những hữu tình hạnh ác, khổ não, nghèo cùng mà thị hiện việc như vậy. Hãy đi đi, này A-nan-đà, hãy đi lấy sữa, chớ có hổ thẹn.”

Bạch Thế Tôn! Nghe Đại sĩ ấy biện luận như vậy con không biết nói gì cả, nên phải im lặng không trả lời. Cho nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Cứ như vậy, Đức Thế Tôn lần lượt bảo năm trăm vị Thanh văn là các đại đệ tử: “Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.” Các vị Thanh văn ấy đều trình bày duyên cớ trước đây của mình cho Đức Phật. Vị nào cũng khen ngợi Bồ-tát Vô Cấu Xứng và đều từ chối không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta.

 

Phẩm 4: BỒ-TÁT

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, con giảng pháp giải thoát về quả vị Bất thoái chuyển của Bồ-tát cho Thiên vương cùng quyến thuộc ở cõi trời Đâu-suất. Khi ấy, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con và nói: “Thưa Bồ-tát Từ Thị! Đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Bồ-tát còn một đời nữa sẽ chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Bồ-đề vô thượng. Vậy Bồ-tát được tho ký vào đời nào vậy, quá khứ, vị lai hay hiện tại? Nếu đời quá khứ thì đời quá khứ đã qua, nếu đời vị lai thì đời vị lai chưa đến, nếu đời hiện tại thì đời hiện tại không trụ. Như Đức Thế Tôn đã nói: Này các Tỳ-kheo! Các ông, sinh, già, chết, trong mỗi sát-na. Chết đó rồi sinh đó. Nếu vì vô sinh mà được thọ ký thì vô sinh tức là đã nhập vào chánh tánh. Khi vô sinh này đã nhập trong chánh tánh thì không có vấn đề thọ ký, cũng không chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề. Vậy làm sao Bồ-tát Từ Thị được thọ ký? Theo Như sinh được thọ ký hay theo Như diệt mà được thọ ký? Nếu theo Như sinh được thọ ký thì “Như” không có sinh. Nếu theo “Như” diệt được thọ ký thì “Như” không có diệt. Không sinh không diệt theo trong lý chân như thì không có vấn đề thọ ký. Tất cả hữu tình đều Như, tất cả các pháp cũng đều Như, tất cả Hiền thánh cũng đều là Như, cho đến Từ Thị cũng là Như. Nếu Bồ-tát Từ Thị được thọ ký thì tất cả hữu tình cũng sẽ được thọ ký như vậy. Vì sao? Vì chân như chẳng phải sự hiển bày của hai, cũng chẳng phải sự hiển bày các tánh khác. Nếu Bồ-tát Từ Thị chứng Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng thì tất cả hữu tình cũng sẽ được chứng như vậy. Vì sao? Vì đối với Bồ-đề thì tất cả hữu tình đều giác ngộ như nhau. Nếu Bồ-tát Từ Thị Bát-niếtbàn thì tất cả hữu tình cũng sẽ Bát-niết-bàn. Vì sao? Vì chẳng phải là hữu tình thì không Bát-niết-bàn. Đức Phật nói chân như là Bát-niếtbàn, vì Ngài quán sát thấy bản tánh của các hữu tình đều tịch tĩnh, đó là tướng Niết-bàn. Thế nên nói chân như là Bát-niết-bàn. Thưa Bồ-tát Từ Thị! Bồ-tát đừng đem pháp này chỉ dạy chư Thiên, chớ đem pháp này làm trở ngại chư Thiên. Bồ-đề không có các hướng mong cầu, cũng không thoái chuyển. Thưa Bồ-tát Từ Thị! Bồ-tát hãy làm cho chư Thiên này xả bỏ các phân biệt kiến chấp về Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-đề không phải dùng thân để chứng hay dùng tâm để chứng. Tịch diệt là Bồ-đề vì tướng của tất cả hữu tình, của tất cả pháp đều tịch diệt. Không tăng trưởng là Bồ-đề vì tất cả đối tượng được duyên không tăng trưởng. Không hành là Bồ-đề vì không hành tất cả hý luận và tất cả tác ý. Đoạn tận là Bồ-đề vì đã đoạn tận các kiến chấp. Xả ly là Bồđề vì xả ly tất cả chấp thủ. Ly hệ là Bồ-đề vì lìa hẳn tất cả pháp động loạn. Tịch tĩnh là Bồ-đề vì tất cả phân biệt đã hoàn toàn tịch tĩnh. Rộng lớn là Bồ-đề vì tất cả hoằng nguyện không thể nào so lường được. Không tranh là Bồ-đề vì xa lìa tất cả chấp trước, tất cả sự tranh luận. An trụ là Bồ-đề vì trụ trong pháp giới. Tùy chí là Bồ-đề vì tùy theo chân như. Bất nhị là Bồ-đề vì xa lìa tất cả pháp tánh sai biệt. Kiến lập là Bồ-đề vì đã nhập vào trong thật tế. Bình đẳng là Bồ-đề vì tất cả nhan-sắc cho đến ý-pháp đều bình đẳng như hư không. Vô vi là Bồ-đề vì đã xa lìa hoàn toàn sinh-trụ-dị-diệt. Biến tri là Bồ-đề vì biết khắp tất cả tâm hành của các hữu tình. Vô quán là Bồ-đề vì sáu xứ bên trong không bị xen tạp. Không xen tạp là Bồ-đề vì xa lìa hẳn tất cả phiền não và tập khí tương tục. Không xứ sở là Bồ-đề vì ở trong chân như đã xa lìa tất cả phương hướng xứ sở. Không trụ là Bồ-đề vì không thấy mọi nơi. Chỉ có tên là Bồ-đề vì tên Bồ-đề này không có tác dụng. Không phóng túng là Bồ-đề vì xa lìa hẳn tất cả mọi lấy và bỏ. Không loạn là Bồ-đề vì tự mình luôn tịch tĩnh. Tịch tĩnh rốt ráo là Bồ-đề vì bản tánh thanh tịnh. Hiển bày rõ ràng là Bồ-đề vì tự tánh không xen tạp. Vô thủ là Bồ-đề vì lìa các duyên dựa. Không khác là Bồ-đề vì giác ngộ tánh bình đẳng của các pháp. Không thí dụ là Bồđề vì lìa hẳn các so sánh. Vi diệu là Bồ-đề vì rất khó hội nhập. Biến hành là Bồ-đề vì tự tánh hiện bày cùng khắp như hư không. Đến đỉnh cao là Bồ-đề vì đạt đến chỗ cùng cực của các pháp. Không nhiễm là Bồ-đề vì không bị nhiễm vào tất cả pháp thế gian. Như vậy, Bồ-đề chẳng phải do thân chứng, chẳng phải do tâm chứng.”

Bạch Thế Tôn! Khi đại cư sĩ ấy giảng nói pháp này, trong chúng trời người có hai trăm Thiên tử đắc pháp Nhẫn vô sinh. Lúc ấy, con im lặng không nói gì được. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Thế Tôn bảo Đồng tử Quang Nghiêm:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Đồng tử Quang Nghiêm thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, con vào thành Quảng nghiêm. Ngay lúc đó Bồ-tát Vô Cấu Xứng cũng mới vừa vào thành. Con làm lễ ông ta và hỏi: “Cư sĩ từ đâu đến?” Ông ta trả lời: “Từ diệu Bồ-đề đến.” Con hỏi: “Thưa cư sĩ, diệu Bồ-đề là gì?” Ông ta trả lời: “Ý lạc thuần nhất, thẳng thắn là diệu Bồ-đề, vì nhờ ý lạc này mà không hư dối. Pháp khởi gia hành là diệu Bồ-đề, vì tất cả việc làm có thể thành tựu. Tăng thượng ý lạc là diệu Bồ-đề, vì chứng hoàn toàn pháp thù thắng. Tâm đại Bồ-đề là diệu Bồ-đề vì đối với tất cả các pháp không quên mất. Bố thí thanh tịnh là diệu Bồ-đề vì không mong cầu quả báo ở thế gian. Trì giới kiên cố thanh tịnh là diệu Bồ-đề vì các nguyện cầu đều được viên mãn. Nhẫn nhục hòa nhã là diệu Bồ-đề vì đối với hữu tình không có tâm sân giận. Dũng mãnh tinh tấn là diệu Bồ-đề vì nỗ lực siêng năng tu hành không biếng nhác. Tịch chỉ tĩnh lự là diệu Bồ-đề vì tâm điều thuận nên có thể gắn nhận. Bát-nhã thù thắng là diệu Bồ-đề vì hiện thấy tánh tướng của tất cả pháp. Từ là diệu Bồ-đề vì tâm bình đẳng với các hữu tình. Bi là diệu Bồ-đề vì hay nhẫn nhục chịu các khổ não. Hỷ là diệu Bồ-đề vì thường lãnh thọ pháp lạc. Xả là diệu Bồ-đề vì đoạn trừ dứt hẳn tất cả sân ác. Thần thông là diệu Bồ-đề vì đầy đủ sáu Thần thông. Giải thoát là diệu Bồđề vì lìa các sự động phân biệt. Phương tiện là diệu Bồ-đề vì làm thành thục cho các hữu tình. Nhiếp sự là diệu Bồ-đề vì thâu tóm lấy tất cả hữu tình. Đa văn là diệu Bồ-đề vì luôn khởi hạnh chân thật. Điều phục là diệu Bồ-đề vì quán sát đúng như lý. Ba mươi bảy phẩm Bồ-đề là diệu Bồ-đề vì xả bỏ tất cả pháp hữu vi. Tất cả thật tế là diệu Bồ-đề vì không lừa dối tất cả hữu tình. Mười hai nhân duyên là diệu Bồ-đề vì vô minh không cùng tận cho đến lão, tử, ưu, bi, khổ, não đều không cùng tận. Dứt các phiền não là diệu Bồ-đề vì hiện chứng như thật về tánh pháp chân thật. Tất cả hữu tình là diệu Bồ-đề vì lấy vô ngã làm tự tánh. Tất cả pháp là diệu Bồ-đề vì giác ngộ tất cả đều là không tánh. Chiến thắng ma oán là diệu Bồ-đề vì tất cả ma oán không còn khuynh động. Không lìa ba cõi là diệu Bồ-đề vì xa lìa tất cả việc hướng đến các cõi. Đại sư tử gầm là diệu Bồ-đề vì có thể quyết định hoàn toàn không sợ sệt. Các lực, vô úy, pháp Bất cộng của Phật là diệu Bồ-đề vì không nhàm chán. Ba minh quán chiếu là diệu Bồ-đề vì lìa các phiền não, đạt được trí vô dư rốt ráo. Trong một sát-na tâm giác ngộ các pháp hoàn toàn không sót là diệu Bồ-đề vì chứng đắc viên mãn trí Nhất thiết trí. Như vậy, này các thiện nam! Nếu các Bồtát chân thật hướng đến tương ưng đầy đủ, Ba-la-mật đa tương ưng đầy đủ, làm thành thục cho các hữu tình tương ưng đầy đủ, tất cả căn lành tương ưng đầy đủ, giữ gìn chánh pháp tương ưng đầy đủ, cúng dường Như Lai tương ưng đầy đủ, tất cả việc làm, đi tới qua lại, nhấc chân hạ chân, tất cả đều từ diệu Bồ-đề mà đến. Tat cả đều từ pháp của chư Phật mà đến, an trụ vào tất cả pháp diệu của chư Phật.”

Bạch Thế Tôn! Khi đại cư sĩ ấy nói pháp, có năm trăm Thiên tử đều phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng. Lúc đó, con im lặng không thể nói gì được. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Thế Tôn bảo Bồ-tát Trì Thế:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Bồ-tát Trì Thế thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần con ở nơi tịnh thất. Khi ấy ma oán ác dẫn một vạn hai ngàn Thiên nữ ma giống như trời Đế Thích, tấu nhạc đàn ca đến chỗ con, tất cả cúi đầu lạy sát chân con, tấu những âm nhạc trời để cúng dường, rồi chắp tay cung kính đứng lui qua một bên. Lúc ấy con nghĩ đó là Đế Thích thật nên con nói với họ: “Lại đây, này Kiều-thi-ca! Mặc dù phước có đó, nhưng ông không nên buông lung, phải quán sát các dục vui chơi đều là vô thường. Đối với thân mạng tài sản phải siêng năng để chứng pháp chắc chắn chân thật.” Họ nói với con: “Thưa chánh sĩ! Xin hãy nhận mười hai ngàn Thiên nữ này để hầu hạn trước sau.” Con liền trả lời: “Thôi đi, này Kiều-thi-ca! Không dùng vật phi pháp ấy mà bố thí cho một Sa-môn Thích tử như ta.” Con nói chưa dứt thì Vô Cấu Xứng đến, cúi đầu lạy sát chân con và nói: “Đó chẳng phải là Đế Thích mà chính là ma oán ác đến quấy nhiễu Bồ-tát đó.” Vô Cấu Xứng nói với ma ác: “Ngươi hãy trao các Thiên nữ này cho ta. Đây là vật thích hợp trong nhà cư sĩ như ta, đó chẳng phải việc mà Sa-môn Thích tử nhận lấy.” Khi ấy, ma ác kinh hãi, nghĩ Vô Cấu Xứng có lẽ sẽ làm hại, nên muốn ẩn hình mà đi, nhưng bị Vô Cấu Xứng dùng thần lực giữ lại không cho đi. Ma đã cố dùng hết uy lực nhưng cũng không sao đi được. Ngay lúc này, giữa hư không có tiếng phát ra: “Này ma ác oán, ngươi nên đem Thiên nữ dâng cho đại cư sĩ ấy đi, nếu vậy ngươi mới có thể an ổn trở về Thiên cung.” Vì sợ hãi nên ma ác oán ấy đã đem cho một cách miễn cưỡng. Bấy giờ, Vô Cấu Xứng nói với các Thiên nữ: “Ma ác oán ấy đã đem các cô dâng cho ta. Các cô nay nên phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng.” Rồi ông ta tùy theo sở thích mà nói pháp cho họ, tùy thuận khiến thành tựu đầy đủ về diệu Bồ-đề, để họ hướng đến Chánh đẳng giác. Ông ta lại nói: “Các cô đã phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng có vườn vui đại pháp để tự mình vui chơi, đừng vui theo các vui của năm dục.” Các Thiên nữ thưa: “Thưa đại cư sĩ! Sao gọi là vườn vui đại pháp?” Vô Cấu Xứng nói: “Vườn vui đại pháp nghĩa là có niềm vui với chư Phật thanh tịnh, không hoại, niềm vui thường nghe Chánh pháp, niềm vui siêng năng cung kính cúng dường Tăng hòa hợp, siêng năng cung kính thừa sự. Niềm vui đối với ba cõi luôn xa lìa, niềm vui không trụ vào các đối tượng được duyên, niềm vui quán sát các uẩn là vô thường như oan gia, niềm vui quán sát không điên đảo về các giới, chúng như rắn độc, niềm vui quán sát không điên đảo về các xứ, chúng như làng xóm không người, niềm vui giữ gìn chắc chắn tâm Bồđề, niềm vui làm lợi ích cho các hữu tình, niềm vui hầu hạ các bậc sư trưởng, niềm vui bố thí lìa tham lam keo kiệt, niềm vui giới thanh tịnh mà không trì trệ, niềm vui nhẫn nhục mà chấp nhận hòa thuận, niềm vui tinh tấn mà tu tập căn lành, niềm vui tĩnh lự mà biết không loạn, niềm vui Bát-nhã lìa vô minh, niềm vui rộng lớn vi diệu của Bồ-đề, niềm vui có thể chiến thắng đám ma oán, niềm vui biết rõ các phiền não, niềm vui tu tập trang nghiêm các cõi Phật, niềm vui trang nghiêm thân bằng các tướng tốt tròn đầy, niềm vui tu tập chân chánh hai thứ hành trang là phước và trí, niềm vui trang nghiêm đầy đủ diệu Bồ-đề, niềm vui không sợ hãi pháp thâm sâu, niềm vui quán sát đúng đắn ba môn giải thoát, niềm vui duyên hợp chân chánh với Bát-niết-bàn, với phi thời niềm vui không quán sát, niềm vui gần gũi đồng loại thấy có công đức, niềm vui không oán ghét, không thấy lỗi lầm của dị loại, niềm vui thích gần gũi với bạn lành, niềm vui thích che chở bạn ác, niềm vui thâu tóm hoàn hảo các phương tiện thiện xảo, niềm vui hoan hỷ tin các pháp, niềm vui tu tập sự tối thượng vi diệu của tất cả phần Bồ-đề không biếng nhác. Như vậy, này các cô, đó là vườn vui đại pháp của Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát thường trụ trong vườn vui đại pháp này. Các cô nên vui theo đó, đừng vui theo dục lạc.” Khi ấy, ma ác oán bảo các Thiên nữ: “Các ngươi hãy lại đây, ta muốn cùng các ngươi trở về Thiên cung.” Các Thiên nữ thưa: “Ma ác, ông hãy đi đi, chúng tôi không theo ông về đâu. Vì sao? Vì ông đã đem chúng tôi dâng cho vị cư sĩ này rồi, làm sao chúng tôi cùng ông trở về được. Chúng tôi nay vui theo vườn vui pháp, không vui theo dục lạc. Ông hãy về một mình.” Khi ấy, ma ác thưa Vô Cấu Xứng: “Thưa đại cư sĩ! Xin hãy buông xả các cô này đi. Tâm không tham đắm nơi tất cả sở hữu mà đem bố thí hết thảy, đó là Đại Bồ-tát.” Vô Cấu Xứng nói: “Ta đã buông thả rồi, ngươi hãy dẫn họ đi, để cho nguyện về tất cả pháp hữu tình của các ngươi được đầy đủ.” Khi ấy, các Thiên nữ lạy Vô Cấu Xứng và hỏi: “Thưa đại cư sĩ! Thiên nữ chúng tôi trở về lại cung ma, phải tu hành như thế nào?” Vô Cấu Xứng nói: “Các ngươi nên biết, có pháp môn vi diệu tên là Vô Tận Đăng, các ngươi cần phải học.” Các Thiên nữ lại hỏi: “Sao gọi là Vô Tận Đăng?” Vô Cấu Xứng trả lời: “Này các cô, ví như một ngọn đèn đốt sáng cho trăm ngàn ngọn đèn khác, khiến cho chỗ tối tăm sáng lên, ánh sáng của ngọn đèn kia không cùng tận và cũng không giảm bớt. Như vậy, này các cô, một vị Bồ-tát giáo hóa kiến lập cho câu-chi na-do-tha chúng sinh hướng đến cầu đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, nhưng tâm Bồđề của vị Bồ-tát ấy không bao giờ tận, cũng không thoái chuyển mà lại tăng trưởng. Như vậy, dùng phương tiện thiện xảo giảng nói chánh pháp cho người thì với các pháp thiện càng được tăng trưởng. Không tận cũng không giảm sút. Các cô nên biết, pháp môn vi diệu này tên là Vô Tận Đăng, các cô cần phải học. Mặc dù ở trong cung ma, các cô phải khuyến hóa cho vô lượng Thiên tử, Thiên nữ phát tâm Bồ-đề.

Các cô làm như vậy tức là biết ân Như Lai, đền đáp một cách chân thật, cũng là làm lợi ích cho tất cả hữu tình.” Thế rồi, các Thiên nữ ấy cung kính đảnh lễ dưới chân Vô Cấu Xứng. Bấy giờ, Vô Cấu Xứng xả thần lực đã khống chế ma ác lúc trước để ma ác oán cùng quyến thuộc bỗng nhiên biến mất trở về Thiên cung.

Bạch Thế Tôn! Đại sĩ Vô Cấu Xứng ấy có những thần thông tự tại, trí tuệ biện tài, biến hiện thuyết pháp như vậy, nên con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Trưởng giả tử Tô-đạt-đa:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng?

Tô-đạt-đa thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, ở tại nhà cha con thiết lập đại hội bố thí trong bảy ngày bảy đêm để cúng dường tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, các ngoại đạo, người nghèo khổ, thấp kém, kẻ cô độc và người đi xin. Thời gian đại hội này đã mãn bảy ngày thì Vô Cấu Xứng đến nơi, nói với con: “Thưa trưởng giả tử! Đại hội bố thí không phải như ông đã lập ra như vậy đâu, ông nên lập hội thí pháp, chứ lập hội tài thí làm gì?” Con nói: “Thưa cư sĩ! Thế nào gọi là hội pháp thí?” Cư sĩ trả lời: “Hội pháp thí là không trước không sau mà cúng dường một lần cho tất cả hữu tình đó gọi là hội pháp thí viên mãn. Việc ấy như thế nào? Nghĩa là vì hành tướng Bồ-đề vô thượng mà phát sinh đại Từ, vì hành tướng giải thoát các hữu tình mà phát sinh đại Bi, vì hành tướng tùy hỷ của các hữu tình mà phát sinh đại Hỷ, vì hành tướng thâu tóm chánh pháp, thâu gồm trí mà phát sinh đại Xả, vì hành tướng điều phục hoàn toàn tịch tĩnh mà phát sinh Bố thí ba-la-mật, vì hành tướng hữu tình hóa hiện phạm giới cấm mà phát sinh Tịnh giới ba-la-mật, vì hành tướng tất cả pháp vô ngã mà phát sinh Kham nhẫn ba-la-mật, vì hành tướng khéo xa lìa thân tâm mà phát sinh Tinh tấn ba-la-mật, vì hành tướng giác chi tối thắng mà phát sinh Tĩnh lự ba-la-mật, vì hành tướng nghe trí Nhất thiết trí mà phát sinh Bát-nhã ba-la-mật, vì hành tướng hóa độ tất cả chúng sinh mà phát sinh tu Không, vì hành tướng tu sưa tất cả pháp hữu vi mà phát sinh tu Vô tướng, vì hành tướng cố làm cho ý thọ sinh mà phát sinh tu Vô nguyện, vì hành tướng giữ gìn rốt ráo chánh pháp mà phát sinh đại lực, vì hành tướng tu tập hoàn toàn nhiếp sự mà phát sinh mạng căn, vì hành tướng cung kính tôn trọng tất cả hữu tình nô bộc mà phát sinh không kiêu mạn; vì hành tướng tất cả bền chắc, không bền chắc, thay đổi mà phát sinh chứng đắc thân mạng, tài sản bền chắc; vì hành tướng tùy niệm của sáu loại mà phát sinh chánh niệm, vì hành tướng tu các pháp vi diệu thanh tịnh mà phát sinh ý lạc, vì hành tướng siêng năng tu tập chánh hạnh mà phát sinh tịnh mạng, vì hành tướng hoan hỷ gần gũi thanh tịnh mà phát sinh gần gũi phụng thờ Hiền thánh, vì hành tướng không oán ghét sân giận người chẳng phải Thánh mà phát sinh tâm điều phục, vì hành tướng xuất gia hoàn toàn thanh tịnh mà phát sinh ý lạc thanh tịnh tăng thượng, vì hành tướng thường tu tập trung đạo mà phát sinh phương tiện thiện xảo đa văn, vì hành tướng thông đạt pháp không tranh mà phát sinh thường ở nơi thanh vắng, vì hành tướng một lòng cầu Phật Trí mà phát sinh ngồi thiền, vì hành tướng một lòng dứt trừ phiền não cho tất cả hữu tình mà phát sinh tu hoàn hảo Du-già Sư-địa; vì hành tướng đầy đủ tướng hảo để làm thành thục cho các hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật mà phát sinh hành trang là phước đại diệu; vì hành tướng biết tâm hành của tất cả hữu tình rồi tùy theo căn tánh của họ để giảng pháp mà phát sinh hành trang là trí đại diệu; vì hành tướng không nắm bắt, không buông xả các pháp, ngộ nhập vào nhất môn chánh lý mà phát sinh hành trang là tuệ đại diệu; vì hành tướng đoạn trừ tất cả phiền não tập khí, các sự chướng ngại của pháp bất thiện mà phát sinh chứng đắc tất cả pháp thiện; vì hành tướng theo hành trang của tất cả pháp thiện giác ngộ trí Nhất thiết trí mà phát sinh chứng đắc tất cả pháp phần Bồ-đề đã tu. Này thiện nam! Đó gọi là hội pháp thí. Nếu các Bồ-tát an trụ vào hội pháp ví như vậy thì gọi là Đại thí chủ, được trời, người thế gian cúng dường.”

Bạch Thế Tôn! Khi đại cư sĩ ấy nói pháp như vậy, trong chúng Phạm chí có hai trăm vị phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng. Lúc đó, con khen ngợi là chưa từng có, hoan hỷ thanh tịnh, cung kính đảnh lễ chân đại cư sĩ và cởi châu bảo anh lạc giá trị trăm ngàn ân cần dâng cúng, nhưng Bồ-tát không chịu nhận. Con nói: “Đại cư sĩ! Hãy thương xót tôi mà thọ nhận cho. Nếu không cần thì ông cho ai tùy ý.” Lúc đó, Vô Cấu Xứng mới chịu nhận anh lạc và chia làm hai phần. Một phần cho người ăn xin hèn kém đáng chê nhất trong đại thí hội ấy và một phần dâng cho Đức Như Lai Nan Thắng. Rồi ông ta dùng thần thông làm cho cả đại chúng đều thấy cõi Dương diệm và Đức Như Lai Nan Thắng, lại thấy phần anh lạc đã bố thí ở phía trên Đức Phật ấy, biến thành đài báu đẹp đẽ, bốn góc đài báu trang hoàng đủ kiểu rất khéo. Sau khi dùng thần thông biến hóa như vậy, Vô Cấu Xứng lại nói: “Nếu thí chủ đem tâm bình đẳng bố thí cho người ăn xin hèn hạ nhất trong hội này thì cũng giống như tưởng về ruộng phước của Như Lai không phân biệt, tâm bình đẳng, với tâm đại Từ, đại Bi bố thí khắp cho tất cả mà không cầu quả báo. Đó gọi là viên mãn hội pháp thí.” Khi ấy, những người ăn xin thấy ông ta dùng thần thông biến hóa và được nghe giảng pháp đều đắc ý lạc tăng thượng Bất thoái chuyển, liền phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng.

Bạch Thế Tôn! Đại cư sĩ ấy đầy đủ những thần thông biến hóa, biện tài vô ngại như vậy, nên con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Như vậy, Đức Thế Tôn bảo từng vị Đại Bồ-tát đến thăm benh Bồ-tát Vô Cấu Xứng nhưng các Bồ-tát ấy đều thưa Đức Phật những lý do của mình và khen ngợi lời nói của vị Đại sĩ Vô Cấu Xứng. Vị nào cũng thưa là không dám đến thăm bệnh.

 

QUYỂN 3

Phẩm 5: THĂM BỆNH

Khi ấy, Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Ông hãy đến thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Bồ-tát Diệu Cát Tường thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đại cư sĩ ấy khó bề đối đáp lại được, vì ông ấy đã thể nhập sâu vào pháp môn, có khả năng hiện thuyết khéo léo, trụ vào biện tài vi diệu, trí tuệ vô ngại, đã hoàn thành những sự nghiệp của tất cả Bồ-tát, tùy ý nhập vào chỗ bí mật của chư Như Lai và các Đại Bồ-tát, thâu phục chúng ma, đã sử dụng phương tiện thiện xảo thuận hợp, đã đạt đến chỗ tối thắng không hai, không xen tạp, nẻo hành về pháp giới đã rốt ráo đến bờ bên kia, với một tướng, ông ta có thể trang nghiêm cả pháp giới, giảng pháp môn vô biên tướng trang nghiêm, thấu rõ căn hành của tất cả hữu tình, có thể hiện bày các thần thông với diệu dụng tối thắng, đạt đến chỗ đại trí tuệ phương tiện thiện xảo, đã giải quyết được tất cả những vấn đáp một cách tự tại, không sợ, không phải là những lý lẽ thấp kém, dù sắc bén, có thể tranh biện nổi. Tuy vậy, con sẽ nương nơi oai thần của Phật đến thăm bệnh ông ta. Đến đó, con sẽ tùy theo năng lực của mình để đàm luận.

Thế rồi, trong chúng có các Bồ-tát và đại đệ tử Thanh văn, Thích, Phạm, Hộ thế, chư Thiên… đều nghĩ: “Hai vị Bồ-tát này đều là người có thắng giải quảng đại sâu xa. Nếu cùng nhau bàn luận quyết định là nói giáo pháp vi diệu. Vì nghe pháp, chúng ta cũng sẽ đốc suất nhau đi theo đến đó.”

Bấy giờ, trong chúng có tám ngàn vị Bồ-tát, năm trăm vị Thanh văn, vô lượng trăm ngàn Thích, Phạm, chư Thiên, Hộ thế… vì nghe pháp nên xin đi theo. Lúc này, Bồ-tát Diệu Cát Tường cùng các Bồtát, đại đệ tử Thanh văn, Thích, Phạm, chư Thiên, Hộ thế cung kính đảnh lễ Thế Tôn rồi cùng nhau ra khỏi rừng Yêm-la đến thành Quảng nghiêm để thăm bệnh Bồ-tát Vô Cấu Xứng. Khi ấy, Vô Cau Xứng suy nghĩ: “Ta nên dùng thần lực biến thành nhà trống, không còn những giường chiếu, ghế ngồi, của cải, vật dụng và những người hầu… Chỉ để lại một chiếc giường hiện đang nằm bệnh.” Sau khi nghĩ như vậy, Vô Cấu Xứng liền dùng sức đại thần thông làm cho nhà mình trống không, không còn vật gì cả, chỉ để lại một chiếc giường hiện đang nằm bệnh mà thôi.

Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường cùng đại chúng vào nhà ông ta, nhưng thấy nhà trống không, không có những vật dụng cả người thị giả nữa, chỉ có một chiếc giường Vô Cấu Xứng đang nằm. Thấy Bồtát Diệu Cát Tường, Bồ-tát Vô Cấu Xứng vui mừng chào:

–Lại đây, không đến mà đến, không thấy mà thấy, không nghe mà nghe.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Đúng rồi, cư sĩ! Nếu đã đến tức là không còn đến, đã đi tức là không còn đi. Vì sao? Đã đến chẳng phải từ đâu đến, đã đi chẳng phải từ chỗ nào đi. Đã thấy tức là không còn thấy, đã nghe tức là không còn nghe. Thôi hãy gác việc đó qua một bên. Này cư sĩ! Bệnh ấy có chịu nổi không? Mạng sống có thể cứu được không? Giới có điều hòa không? Bệnh có thể trị liệu được chăng? Có thể làm cho bệnh ấy đừng tăng nữa được chăng? Thế Tôn ân cần gởi lời thăm ông. Này cư sĩ! Bệnh có thuyên giảm chút nào chăng? Đi đứng khí lực có được khỏe không? Nguồn gốc của bệnh do đâu mà có? Bệnh đã bao lâu rồi? Phải làm sao cho hết bệnh?

Vô Cấu Xứng nói:

–Vô minh nên có ái của các hữu tình sinh ra đã lâu rồi, bệnh này của tôi sinh ra cũng như vậy. Lâu xa trước cả sinh tử đến nay. Vì hữu tình bệnh nên tôi cũng bệnh. Nếu hữu tình hết bệnh thì tôi cũng hết bệnh. Vì sao? Vì tất cả Bồ-tát theo các hữu tình trôi mãi dòng sinh tử, do theo vào sinh tử thì có bệnh. Nếu các hữu tình lìa được bệnh khổ thì các Bồ-tát không còn bệnh. Ví như cư sĩ, trưởng giả ở thế gian chỉ có một người con duy nhất nên rất yêu thương, cưng chìu không muốn xa nó. Nếu đứa con bệnh thì cha mẹ cũng benh, còn như con lành bệnh thì cha mẹ cũng hết bệnh. Cũng vậy, Bồ-tát thương các hữu tình giống như con một. Nếu hữu tình bệnh thì Bồ-tát cũng bệnh, hữu tình hết bệnh thì Bồ-tát hết bệnh. Đại sĩ lại hỏi bệnh ấy từ đâu ma có? Bồ-tát có bệnh là do tâm đại Bi sinh ra.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Này cư sĩ! Vì sao nhà này hoàn toàn trống không, lại không có cả người hầu?

Vô Cấu Xứng nói:

–Tất cả cõi Phật đều không.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Lấy gì làm không?

Vô Cấu Xứng trả lời:

–Lấy không làm không.

Hỏi:

–Không này vì sao lại không?

Đáp:

–Vì không này không phân biệt nên không.

Hỏi:

–Tánh không có thể phân biệt được sao?

Đáp:

–Nó có thể phân biệt nhưng cũng đều không. Vì sao? Vì tánh không không thể phân biệt nên là không.

Hỏi:

–Không này phải tìm ở đâu?

Đáp:

–Tìm trong sáu mươi hai kiến chấp.

Hỏi:

–Sáu mươi hai kiến chấp này nên tìm ở đâu? Đáp:

–Tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật.

Hỏi:

–Pháp giải thoát của chư Phật phải tìm ở đâu?

Đáp:

–Tìm trong tâm hành của tất cả hữu tình. Đại sĩ lại hỏi vì sao không có thị giả? Tất cả ma oán và các ngoại đạo đều là thị giả của tôi cả. Vì sao? Vì tất cả ma oán vui thích sinh tử, tất cả ngoại đạo thì ham thích các kiến chấp. Với những thứ ấy, Bồ-tát đều nhàm chán, xa lìa. Cho nên oán ma và ngoại đạo là thị giả của tôi.

Bồ-tat Diệu Cát Tường hỏi:

–Này cư sĩ! Bệnh này tướng như thế nào?

Đáp:

–Bệnh của tôi hoàn toàn không có sắc tướng, cũng không thể thấy.

Hỏi:

–Bệnh này tương ưng với thân hay tương ưng với tâm?

Đáp:

–Bệnh của tôi chẳng tương ưng với thân vì lìa tướng thân, cũng tương ưng với thân vì như ảnh tượng. Chẳng tương ưng với tâm vì lìa tướng tâm, cũng tương ưng với tâm vì như huyễn hóa.

Hỏi:

–Địa, thủy, hỏa, phong giới, trong bốn giới này bệnh thuộc vào giới nào?

Đáp:

–Thân của các hữu tình đều do bốn đại mà có. Vì chúng có bệnh nên tôi bệnh. Nhưng bệnh này chẳng phải do bốn đại ấy sinh vì lìa tánh của giới.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Bồ-tát an ủi Bồ-tát bị bệnh như thế nào để họ được vui vẻ?

Vô Cấu Xứng trả lời:

–Chỉ bảo thân vô thường nhưng khuyên không nhàm chán thân. Chỉ bảo thân có khổ mà không khuyên thích nhập Niết-bàn. Chỉ bảo thân là vô ngã nhưng khuyên làm thành thục cho các hữu tình. Chỉ bảo thân là không tịch nhưng không khuyên tu tịch diệt rốt ráo. Chỉ bảo sám hối tội trước nhưng không nói tội có thay đổi. Khuyên lấy bệnh của mình mà thương các hữu tình để trừ bệnh cho họ. Khuyên phải nhớ đến tội khổ lúc trước đã chịu mà làm lợi ích cho hữu tình. Khuyên phải nhớ vô lượng gốc lành đã tu để tu mạng thanh tịnh. Khuyên đừng sợ hãi mà phải tinh tấn dũng mãnh. Khuyên phát nguyện rộng lớn mà làm đại y vương trị liệu các bệnh thân tâm của các chúng sinh để vĩnh viễn được tịch diệt. Bồ-tát nên an ủi Bồ-tát bị bệnh như vậy để họ được vui vẻ.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Bồ-tát trị bệnh phải điều phục tâm như thế nào?

Vô Cấu Xứng nói:

–Bồ-tát bị bệnh nên nghĩ như vầy: Bệnh này của ta đều do phiền não, vọng tưởng điên đảo hư dối từ đời trước sinh ra. Trong thân hoàn toàn không có một pháp nào chân thật cả, vậy ai có thể chịu bệnh đó. Vì sao? Vì do bốn đại hòa hợp lại giả gọi là thân, trong các đại không có chủ, thân cũng không có ngã. Nếu bệnh này do chấp ngã sinh ra thì không nên vọng sinh chấp ngã. Nên hiểu rõ chấp ngã này là nguồn gốc đưa đến bệnh. Vì vậy nên trừ diệt tất cả ý tưởng về ngã, an trụ vào ý tưởng pháp. Nên nghĩ: Do các pháp hòa hợp lại mà thành ra thân này, sinh diệt xoay vần, vậy sinh chỉ do pháp sinh, diệt chỉ do pháp diệt. Như thế, các pháp xoay vần liên tục nhưng chúng không biết lẫn nhau lại không nhớ nghĩ đến. Khi sinh không nói là ta sinh, đến khi diệt không nói là ta diệt. Bồ-tát có bệnh nên biết đúng đắn về pháp tưởng như vậy. Pháp tưởng này của ta là điên đảo. Hễ có pháp tưởng là có đại hoạn, ta nên trừ bỏ chúng, cũng cần phải diệt trừ tất cả đại hoạn của hữu tình. Làm thế nào để trừ đại hoạn ấy? Nghĩa là phải trừ bỏ chấp nga và ngã sở. Làm thế nào để trừ bỏ chấp ngã và ngã sở? Là lìa bỏ hai pháp. Làm sao lìa hai pháp? Là với pháp trong và pháp ngoài hoàn toàn không hành. Làm thế nào để không hành hai pháp? Là quán bình đẳng, không động, không chuyển, không có đối tượng để quan sát. Bình đẳng thế nào? Nghĩa là ngã và Niết-bàn cả hai đều bình đẳng. Vì sao? Vì tánh của hai pháp là không. Hai pháp ấy đã không có vậy lấy cái gì làm không? Chỉ dùng danh tự giả gọi là không. Hai pháp ấy không thật, đã thấy bình đẳng thì không còn bệnh gì nữa cả, chỉ có cái bệnh không, nên quán bệnh không ấy cũng là không. Vì sao? Vì bệnh không ấy hoàn toàn là không. Bồ-tát có bệnh, đem cái không có sự thọ mà thọ nhận các thọ. Nếu đối với pháp Phật mà chưa được viên mãn thì không nên diệt thọ để có chỗ chứng đạt, phải lìa hai pháp chủ thể thọ và đối tượng được thọ. Nếu khổ chạm vào thân thì nên thương tất cả hữu tình trong đường nguy hiểm mà phát tâm đại Bi diệt trừ các khổ cho họ. Bồ-tát có bệnh nên nghĩ như vầy: Đã diệt trừ bệnh của mình thì cũng nên trừ bỏ các bệnh của hữu tình. Khi diệt trừ bệnh của mình và người như vậy, thì không có một pháp nhỏ nào để có thể trừ diệt. Nên quán sát đúng đắn bệnh do nhân duyên sinh, hãy mau diệt trừ, vì họ mà giảng nói chánh pháp. Sao gọi là bệnh do nhân duyên sinh? Nghĩa là có duyên suy nghĩ, các thứ duyên suy nghĩ này đều là nhân của bệnh. Hễ ai có duyên suy nghĩ thì đều có bệnh. Duyên suy nghĩ vào đâu? Duyên vào ba cõi. Làm sao biết duyên suy nghĩ như vậy? Nghĩa là thông đạt rõ ràng, đúng đắn chỗ có duyên suy nghĩ này hoàn toàn là không thủ đắc. Nếu không thủ đắc thì không duyên suy nghĩ. Làm thế nào để chấm dứt duyên suy nghĩ, nghĩa là không duyên vào nhị kiến. Thế nào là nhị kiến? Là nội kiến và ngoại kiến. Nếu không có hai kiến này thì vô sở đắc. Đã vô sở đắc thì duyên suy nghĩ hoàn toàn chấm dứt. Vì duyên suy nghĩ hoàn toàn chấm dứt nên không có bệnh. Nếu mình không có bệnh thì đoạn diệt bệnh của hữu tình.

Thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường! Bồ-tát có bệnh nên điều phục tâm như vầy: Chỉ có Bồ-đề của Bồ-tát mới có thể đoạn trừ tất cả khổ già, bệnh, chết. Nếu tự mình không siêng năng tu hành như vậy tức là bị vứt bỏ uổng phí. Vì sao? Vì như người chiến thắng quân địch thì mới gọi là người dũng tướng. Cũng vậy, nếu đoạn dứt hẳn khổ già, bệnh, chết thì mới gọi là Bồ-tát.

Thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường! Bồ-tát bệnh nên tự mình quán sát, nếu bệnh này của ta chẳng phải thật, chẳng phải có, thì tất cả bệnh của các hữu tình cũng chẳng phải thật, chẳng phải có. Khi quán như vậy không nên lấy ái kiến buộc tâm mình vào các hữu tình để phát sinh tâm đại Bi, mà cần phải đoạn trừ phiền não của khách trần để phát sinh tâm đại Bi với các hữu tình. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát đem ái kiến buộc tâm mình, phát sinh tâm đại Bi với các hữu tình thì tức là nhàm chán sinh tử. Nếu đoạn trừ phiền não của khách trần, phát sinh tâm đại Bi với các hữu tình tức là không nhàm chán sinh tử. Vì các hữu tình mà Bồ-tát ở trong sinh tử không nhàm chán, không bị ái kiến trói buộc tâm mình. Vì không bị ái kiến trói buộc tâm nên ở trong sinh tử đều không bị trói buộc. Vì không bị trói buộc trong sinh tử nên được giải thoát. Vì ở trong sinh tử được giải thoát nên có năng lực giảng nói pháp vi diệu khiến cho các hữu tình xa lìa sự trói buộc, chứng đắc giải thoát. Đức Thế Tôn căn cứ vào mật ý này mà nói. Nếu bản thân mình bị trói buộc mà cởi tháo trói buộc cho người thì không có vấn đề ấy. Còn như bản thân mình đã tháo gỡ sự trói buộc thì có thể tháo gỡ trói buộc cho người, việc này là có thực. Cho nên Bồ-tát dốc cầu giải thoát, xa lìa các sự trói buộc.

Thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường! Sao gọi là Bồ-tát bị trói buộc? Sao gọi là Bồ-tát được giải thoát? Nếu các Bồ-tát tham đắm, chấp vào những sự tu về tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí thì gọi là Bồ-tát bị trói buộc. Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo giúp đỡ các hữu tình nhưng không chấp trước đó là Bồ-tát được giải thoát. Nếu không có phương tiện thiện xảo thâu giữ tuệ diệu thì gọi là trói buộc. Nếu có phương tiện thiện xảo thâu giữ tuệ diệu thì gọi là giải thoát. Vì sao Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo thâu giữ tuệ diệu gọi là trói buộc? Nghĩa là Bồ-tát lấy pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện để tự điều phục mình, không dùng tướng tốt trang nghiệm nơi thân mình, trang nghiêm cõi Phật làm thành thục cho các chúng sinh. Bồ-tát này không có phương tiện thiện xảo thau giữ tuệ diệu nên gọi là trói buộc. Vì sao Bồ-tát có phương tiện thiện xảo thâu giữ tuệ diệu gọi là giải thoát? Nghĩa là Bồ-tát lấy pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện để điều phục tâm mình, quán sát các pháp hữu tướng, vô tướng tu tập để chứng đắc, lại dùng tướng tốt trang sức thân mình, trang nghiêm cõi Phật, làm thành thục chúng sinh. Các Bồ-tát này có phương tiện thiện xảo thâu giữ tuệ diệu gọi là giải thoát. Vì sao Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo thâu giữ tuệ diệu gọi là trói buộc? Nghĩa là Bồ-tát an trụ vào các kiến, tất cả phiền não trói buộc tùy miên, tuy tu các gốc lành nhưng không hồi hướng lên Chánh đẳng Bồ-đề, lại chấp trước sâu chặt vào đó. Bồ-tát này không có phương tiện thiện xảo thâu giữ tuệ diệu gọi là trói buộc. Vì sao Bồ-tát có phương tiện thiện xảo thâu giữ tuệ diệu gọi là giải thoát? Nghĩa là các Bồ-tát xa lìa các kiến, nghĩa là tất cả phiền não trói buộc, tùy miên, tu các gốc lành hồi hướng lên Chánh đẳng Bồ-đề mà không chấp trước. Bồ-tát này có phương tiện thiện xảo thâu giữ tuệ diệu gọi là giải thoát.

Thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường! Bồ-tát có bệnh nên quán các pháp, thân và bệnh đều là vô thường, khổ, không, vô ngã đó gọi là tuệ. Mặc dù thân có bệnh nhưng thường ở trong sinh tử làm lợi ích cho hữu tình mà không hề mệt mỏi, đó gọi là phương tiện. Lại quán thân tâm và các bệnh xoay vần nương vào nhau lưu chuyển mãi không có đầu mối, sinh diệt không gián đoạn, chẳng phải mới, chẳng phải cũ, đó gọi là tuệ. Không mong cầu thân, tâm và các bệnh hoàn toàn tịch diệt, đó gọi là phương tiện.

Thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường! Bồ-tát có bệnh nên điều phục tâm mình như vầy: Không nên an trụ vào tâm điều phục hay không điều phục. Vì sao? Vì nếu trụ vào tâm không điều phục thì đó là pháp của phàm phu. Nếu trụ vào tâm điều phục thì đó là pháp của Thanh văn. Cho nên Bồ-tát không an trụ vào hai biên này, đó gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu ở chỗ ấy, chẳng phải nẻo hành của phàm phu, chẳng phải nẻo hành hóa của bậc Thánh thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu ở chỗ quán sát chốn hành của sinh tử mà không có chốn hành của tất cả phiền não, thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu ở chỗ quán sát chốn hành của Niết-bàn mà không có chốn hành tịch diệt rốt ráo thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu ở chỗ thị hiện chốn hành của bốn ma nhưng vượt qua chốn hành của tất cả ma sự, thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu cầu nẻo hành của trí Nhất thiết trí mà không có nẻo hành của phi thời chứng trí, thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu cầu nẻo hành của trí bốn Đế diệu mà không có chốn hành phi thời chứng đế thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu quán sát đúng đắn về chốn hành của nội chứng nên bao gồm chốn hành của sinh tử, thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu hành theo chốn hành của tất cả duyên khởi là có thể xa lìa chốn hành của kiến chấp thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu hành theo nẻo hành hóa tất cả hữu tình và các pháp lìa nhau mà không có nẻo hành phiền não tùy miên thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu quán sát đúng đắn chon hành vô sinh mà không rơi vào chốn hành của chánh tánh nơi Thanh văn thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu bao gồm tất cả chốn hành hóa của hữu tình mà không có chốn hành của phiền não, tùy miên thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu thật sự ưa thích chốn hành xa lìa mà không cầu chốn hành của thân tâm tận diệt thì đó là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu thích quán sát chốn hành của ba cõi mà không hoại chốn hành của pháp giới, thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích quán sát tánh Không mà có chốn hành cầu tất cả công đức thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích quán sát Vô tướng mà chốn hành cầu độ thoát hữu tình thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích quán sát Vô nguyện mà có chốn hành thị hiện có cõi thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích qua lại vô tác mà có chốn hành thường tạo tất cả căn lành không thay đổi đó là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích qua lại nơi sáu Độ nhưng chốn hành không hướng đến diệu trí nơi bờ bên kia của tâm hành hữu tình, đó gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích quán sát bốn Tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả mà có chốn hành không cầu sinh vào cõi Phạm thiên, đó là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích qua lại nơi sáu Thần thông mà có chốn hành không hướng đến chứng đắc lậu tận thì gọi là nẻo hành hóa của Bồtát. Nếu chốn hành thích kiến lập các pháp mà có chốn hành không duyên dựa theo tà đạo, thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích quán sat sáu niệm mà có chốn hành không theo đó sinh ra các lậu thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích quán sát phi chướng mà có chốn hành không mong cầu tạp nhiễm, đó là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích quán sát các định tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí mà có chốn hành không theo thế lực của các định để đến thọ sinh, đó là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích qua lại niệm trụ mà có chốn hành không mong cầu xa lìa thân thọ tâm pháp, đó là chốn hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích qua lại nơi chánh đoạn mà không thấy hai pháp thiện và bất thiện, đó gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích qua lại nơi thần túc mà có chốn hành của thần túc biến hóa tự tại không dụng công, đó gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích qua lại nơi năm Căn mà có chốn hành với diệu trí không phân biệt các căn thắng liệt của tất cả hữu tình, đó gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích an trụ vào năm Lực mà có chốn hành cầu mười Lực của Như Lai thì gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích an trụ vào sự viên mãn của bảy Đẳng giác chi mà có chốn hành không cầu sự sai biệt nơi diệu trí thiện xảo của pháp Phật, đó gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích an trụ vào sự viên mãn của tám Chánh đạo mà có chốn hành không nhàm chán đám tà đạo, đó là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành cầu tư lương Chỉ, Quán mà chốn hành không rơi vào tịch diệt rốt ráo, đó gọi là nẻo hành hóa của Bồtát. Nếu chốn hành thích quán sát các pháp không có tướng sinh diệt mà chốn hành dùng tướng tốt trang nghiêm thân mình, thành tựu tất cả Phật sự đó gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích thị hiện oai nghi của Thanh văn, Độc giác mà chốn hành không lìa bỏ duyên suy nghĩ về tất cả pháp Phật đó là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành tùy theo với bản tánh hoàn toàn thanh tịnh, thường tịch nơi định diệu của các pháp mà có chốn hành chẳng phải là chẳng tùy theo sự ưa thích oai nghi nơi tất cả hữu tình, đó là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích quán sát tất cả cõi Phật là tánh không tịch, không thành, không hoại, như hư không mà có chốn hành chẳng phải là chang thị hiện tất cả công đức trang nghiêm nơi cõi Phật, làm lợi ích cho các hữu tình, đó là nẻo hành hóa của Bồ-tát. Nếu chốn hành thích thị hiện tất cả pháp Phật, chuyển pháp luân, vào đại Niếtbàn, làm Phật sự, mà co chốn hành chẳng phải là chẳng tu hành những sự sai biệt của hạnh Bồ-tát, đó gọi là nẻo hành hóa của Bồ-tát.

Khi Bồ-tát Vô Cấu Xứng giảng nói tất cả nẻo hành hóa là việc hiếm có của Bồ-tát, thì tám ức đồng tử mà Bồ-tát Diệu Cát Tường dẫn theo, được nghe pháp, đều phát tâm cầu quả đạo Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng.

 

Phẩm 6: BẤT TƯ NGHÌ

Thấy trong nhà này không có giường ngồi, Tôn giả Xá-lợi Tử thầm nghĩ: “Các Đại Bồ-tát và đại Thanh văn này phải ngồi ở đâu?”, biết rõ tâm niệm của Tôn giả Xá-lợi Tử, Bồ-tát Vô Cấu Xứng liền nói:

–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Tôn giả vì pháp mà đến hay vì cầu chỗ ngồi mà đến?

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Tôi vì pháp mà đến chứ chẳng phải vì cầu chỗ ngồi.

Vô Cấu Xứng hỏi:

–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Những người cầu pháp không đoái hoài đến thân mạng mình huống chi là chỗ ngồi. Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không cầu sắc uẩn cho đến thức uẩn. Người cầu pháp không cầu nhãn giới cho đến ý thức giới. Người cầu pháp không cầu nhãn xứ cho đến pháp xứ. Người cầu pháp không cầu Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

Thưa Tôn gia Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không cầu sự chấp trước nơi Phật, Pháp và Tăng. Người cầu pháp không cầu theo sự biết khổ, đoạn tập, chứng diệt và tu đạo. Vì sao? Vì pháp không có hý luận. Nếu nói ta biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo tức là hý luận, chẳng phải gọi là cầu pháp.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không cầu sinh, không cầu diệt. Vì sao? Vì pháp là tịch tĩnh và gần gũi với tịch tĩnh. Nếu hành sinh diệt thì đó là cầu sinh diệt, chẳng phải gọi là cầu pháp, chẳng phải cầu xa lìa. Người cầu pháp không cầu tham nhiễm. Vì sao? Vì pháp không có tham nhiễm lìa các tham nhiễm. Nếu đối với các pháp cho đến Niết-bàn mà có chút tham nhiễm thì đó là cầu tham nhiễm, chẳng phải gọi là cầu pháp.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không cầu cảnh giới. Vì sao? Vì pháp chẳng phải là cảnh giới. Nếu hành tất cả cảnh giới thì đó là cầu cảnh giới, chẳng phải gọi là cầu pháp.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không cầu thủ và xả. Vì sao? Vì pháp không thủ và xả. Nếu pháp thủ, xả thì là cầu thủ, xả, chẳng phải là cầu pháp.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không cầu sự cất chứa. Vì sao? Vì pháp không cất chứa. Nếu thích cất chứa đó là cầu sự cất chứa, chẳng phải là cầu pháp.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không cầu tướng của pháp. Vì sao? Vì pháp là vô tướng. Nếu theo tướng mà biết tức là cầu tướng chứ chẳng phải cầu pháp.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không trụ với pháp. Vì sao? Vì pháp không có chỗ trụ. Nếu trụ với pháp tức là cầu trụ, chứ chẳng phải cầu phap.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không cầu thấy nghe và hay biết. Vì sao? Vì pháp không thể thấy nghe hay biết. Nếu hành thấy nghe hay biết tức là cầu sự thấy nghe hay biết, chứ chẳng phải là cầu pháp.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Người cầu pháp không cầu hữu vi. Vì sao? Vì pháp là vô vi, lìa tánh hữu vi. Nếu hành hữu vi, tức là cầu hữu vi chứ chẳng phải cầu pháp.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Cho nên, nếu muốn cầu pháp thì đối với tất cả pháp phải nên không có sự cầu.

Khi Vô Cấu Xứng giảng nói pháp ấy, có năm trăm Thiên tử xa lìa mọi cấu nhiễm của phiền não, ở trong các pháp được chứng đắc Pháp nhãn thanh tịnh.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng hỏi Đại sĩ Diệu Cát Tường:

–Đại sĩ đã từng đi qua vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi cõi chư Phật trong mười phương thế giới, vậy Đại sĩ thấy những cõi Phật nào có tòa Sư tử đầy đủ công đức tốt đẹp thượng diệu?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Về phương Đông, cách đây ba mươi sáu hằng hà sa các cõi Phật có cõi Phật tên Sơn tràng. Như Lai nơi cõi ấy hiệu là Sơn Đăng Vương hiện đang trụ trì an ổn. Thân Đức Phật ấy cao tám mươi bốn ức du-thiện-na. Tòa Sư tử của Đức Phật ấy cao sáu mươi tám ức du-thiệnna. Thân của Bồ-tát nơi cõi ấy cao bốn mươi hai ức du-thiện-na, tòa Sư tử của Bồ-tát cao ba mươi bốn ức du-thiện-na.

Cư sĩ nên biết, tòa Sư tử của Như Lai nơi cõi ấy rất là thù diệu có đầy đủ công đức.

Khi đó, Bồ-tát Vô Cấu Xứng thu tâm nhập định phát sinh thần thông tự tại. Lập tức Đức Phật Sơn Đăng Vương ở thế giới Sơn tràng về phía Đông dời ba mươi hai ức tòa Đại sư tử cao rộng trang nghiêm sạch sẽ, nương hư không mà vào nhà Bồ-tát Vô Cấu Xứng. Điều này làm cho các Bồ-tát, đại Thanh văn, Thích, Phạm, chư Thiên, Hộ thế… xưa chưa từng thấy, chưa từng nghe. Nhà của ông ta sáng sủa rộng lớn nghiêm tịnh có thể dung chứa ba mươi hai ức tòa Sư tử mà không chướng ngại nhau, đại thành Quảng nghiêm, bốn đại châu như châu Thiệm-bộ… thành ấp, xóm làng, đô thị, đất nước trong các thế giới, cung điện của Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tố-lạc… cũng không bị chật hẹp. Tất cả đều thấy xưa sao bấy giờ vậy, không khác.

Lúc này, Bồ-tát Vô Cấu Xứng mời Bồ-tát Diệu Cát Tường lên ngồi tòa Sư tử cùng các Đại Bồ-tat và đại Thanh văn theo chỗ sắp đặt cùng đến an tọa, nhưng phải tự mình biến thân xứng với tòa Sư tử ấy. Các Đại Bồ-tát có thần thông đều biến thân cao bốn mươi hai ức duthiện-na lên ngồi tòa Sư tử một cách đoan nghiêm. Các vị Bồ-tát mới tu học thì không thể lên ngồi tòa sử tử được. Khi ấy, Bồ-tát Vô Cấu Xứng liền giảng nói chánh pháp để tất cả vị đó đạt được năm Thần thông, các vị liền dùng thần lực tự mình biến hóa thân cao bốn mươi hai ức du-thiện-na rồi lên tòa Sư tử ngồi rất nghiêm chỉnh. Còn các đại Thanh văn không thể nào lên tòa Sư tử để ngồi được.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói với Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Vì sao Tôn giả không lên tòa ngồi.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Tòa ấy cao lớn quá, tôi không thể nào lên được.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Tôn giả nên lễ kính Đức Phật Sơn Đăng Vương để xin ban cho thần lực thì mới có thể lên ngồi được.

Lúc ấy, các đại Thanh văn đều lễ kính Đức Phật Sơn Đăng Vương để xin ban cho thần lực và tất cả đều lên tòa Sư tử ngồi rất chỉnh tề.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Thật kỳ diệu thay này cư sĩ! Ngôi nhà nhỏ như thế này lại có thể chứa trăm ngàn tòa Sư tử cao lớn nghiêm tịnh như vậy mà không bị chướng ngại, đến đại thành Quảng nghiêm, bốn đại châu như châu Thiệm-bộ…, thành ấp, xóm làng, đô thị, đất nước trong các thế giới, tất cả cung điện của Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tố-lạc… cũng không bị chật hẹp. Tất cả đều thấy trước sao nay vậy, không khác.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Chư Phật Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và Bồ-tát Không thoái chuyển có pháp giải thoát tên là Bất khả tư nghì. Nếu Bồ-tát trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì ấy thì có thể dùng thần lực đem núi chúa Diệu cao to lớn kia bỏ vào trong hạt cải mà hình thái và trọng lượng của hạt cải không tăng còn hình thái và trọng lượng của núi chúa Diệu cao thì không giảm. Mặc dù hiện tác dụng thần thông như vậy nhưng không làm cho bốn đại Thiên vương, trời Tam thập tam hay biết chúng ta đi đâu và vào đâu. Chỉ trừ những người nhờ sức thần thông để điều phục mới hay biết núi Diệu cao vào trong hạt cải. Cũng vậy, Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo và trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát Bất khả tư nghì. Cảnh giới ấy chẳng phải hàng Thanh văn, Độc giác có thể lường tính được.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nếu Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì này thì có thể dung thần lực đem nước nơi bốn biển sâu rộng bỏ vào lỗ chân lông mà hình thái và trọng lượng của lỗ chân lông không tăng, còn hình thể và trọng lượng của nước nơi bốn biển lớn không giảm. Mặc dù hiện tác dụng thần thông như vậy nhưng không làm cho các Rồng, Dạ-xoa, A-tố-lạc… biết chúng ta đến đâu và vào đâu. Cũng không làm cho các loài thủy tộc khác: cá, rùa, ba ba…, các rồng, thần… tất cả hữu tình lo sợ não hại, chỉ trừ những người nhờ sức thần thông để điều phục mới thấy nước của bốn biển lớn vào trong lỗ chân lông. Cũng vậy, Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo nơi trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì, cảnh giới mà hàng Thanh văn, Độc giác không thể lường tính được.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nếu Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì với tam thiên đại thiên thế giới có hình tướng, trọng lượng rộng lớn như vậy mà có thể dùng thần lực, phương tiện đem lấy đặt trong lòng bàn tay, giống như bánh xe của thợ gốm quay tròn rất mau lẹ, quăng ra ngoài hằng hà sa cõi khác, rồi đem trở về chỗ cũ mà không khiến cho thế giới tăng hay giảm. Mặc dù hiện tác dụng thần thông như vậy nhưng làm cho hữu tình đang sống nơi ấy không biết rằng chúng ta đi đâu và về đâu, hoàn toàn không làm cho họ có ý tưởng qua lại, cũng không bị não hại. Chỉ trừ những người nhờ thần thông để điều phục mới biết thế giới có đến có đi. Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì dùng phương tiện thiện xảo nơi trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì. Cảnh giới mà hàng Thanh văn, Độc giác không thể lường tính được.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nếu Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì như vậy, có các hữu tình cần có thời gian lâu dài để điều phục, có cac hữu tình cần thời gian ít để điều phục thì có thể dùng thần lực theo sự thích nghi của họ mà kéo dài bảy ngày làm một kiếp, khiến hữu tình ấy cho rằng đã qua một kiếp. Hoặc rút ngắn một kiếp thành bảy ngày khiến hưu tình kia cho rằng qua bảy ngày theo sự hiểu biết của họ để điều phục. Mặc dù hiện tác dụng thần thông như vậy, nhưng không làm cho hữu tình đã giáo hóa ấy biết có thời gian kéo dài hay rút ngắn. Chỉ trừ những người nhờ sức thần thông để điều phục biết thời gian đã kéo dài, rút ngắn. Cũng vậy, Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất bất tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo, nơi trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì. Cảnh giới mà hàng Thanh văn, Độc giác không thể lường tính được.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì như vậy có thể dùng thần lực tập họp tất cả thế giới với các công đức trang nghiêm thanh tịnh của chư Phật đặt vào một cõi Phật để chỉ dạy cho các hữu tình. Lại dùng thần lực đem tất cả hữu tình trong một cõi Phật bỏ vào lòng bàn tay phải, rồi theo ý dùng uy lực nơi thần thông đi đến khắp mười phương, chỉ bày khắp tất cả cõi của chư Phật. Mặc dù đến tất cả cõi Phật nơi mười phương trụ vào một cõi Phật nhưng vẫn không bị lay động. Lại dùng thần lực từ một lỗ chân lông hiện ra tất cả vật cúng dường thượng diệu, đi qua khắp tất cả thế giới mười phương để cúng dường chư Phật, Bồ-tát và Thanh văn. Lại dùng thần lực từ một lỗ chân lông hiện lên tất cả mặt trời, mặt trăng, sao trong các thế giới nơi mười phương, lại dùng thần thong hút đại phong luân… của tất cả thế giới khắp mười phương bỏ vào trong miệng mà thân không bị tổn hại. Tất cả cỏ cây, rừng rậm, mặc dù gặp gió này nhưng hoàn toàn không bị lay động. Khi tất cả cõi Phật trong mười phương thế giới gặp kiếp thiêu lại dùng thần lực nuốt tất cả lửa vào trong bụng. Sức của lửa này cháy rực không dứt nhưng thân ấy hoàn toàn không bị tổn hại.

Lại dùng thần lực bưng một cõi Phật qua vô lượng câu-chi hằng hà sa cõi Phật ở phương dưới quăng trong một cõi Phật qua câu-chi hằng hà sa cõi Phật ở phương trên, chỉ giống như mũi kim nhọn đâm lá táo nhỏ quăng sang nơi khác mà hoàn toàn không bị tổn hại. Mặc dù hiện tác dụng thần thông như vậy nhưng người không có duyên thì không thấy, không biết, các hữu tình cũng không bị tổn hại. Chỉ trừ những người nhờ sức thần thông để điều phục thì mới thấy việc ấy. Cũng vậy, Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì dùng phương tiện thiện xảo và trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì, cảnh giới mà Thanh văn, Độc giác không thể nào lường tính được.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nếu Bồ-tát an trụ nơi pháp giải thoát bất khả tư nghì như vậy thì có thể dùng thần lực hiện đủ sắc tướng của thân Phật, hoặc hiện các sắc tướng Thanh văn, Độc giác, hoặc hiện các sắc tướng của Bồ-tát có đầy đủ các tướng trang nghiêm. Hoặc hiện làm Phạm vương, Đế Thích, bốn đại Thiên vương, Chuyển luân vương… Hoặc dùng thần lực biến các hữu tình thành thân Phật và các Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác, Thích, Phạm, Hộ thế, Chuyển luân vương… Hoặc dùng thần lực biến tất cả âm thanh sai khác bậc thượng, bậc trung, bậc hạ của các hữu tình trong mười phương thành một âm thanh vi diệu đệ nhất của Đức Phật. Từ âm thanh của Đức Phật này diễn nói những ngôn ngữ sai khác về nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã, cứu cánh Niết-bàn, tịch tĩnh, cho đến tất cả âm thanh thuyết pháp của chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác đều từ trong đó phát ra. Cho đến tất cả âm thanh sai biệt về chữ, từ, câu của thân chư Phật mười phương giảng nói cũng đều phát ra từ âm thanh của Đức Phật ấy, khiến cho tất cả hữu tình được nghe và tùy theo sự sai biệt ấy mà đều được điều phục.

Hoặc dùng thần thông theo các âm thanh sai biệt cua các hữu tình nơi mười phương, rồi ứng theo từng hạng mà phát ra những âm thanh giảng nói diệu pháp, khiến cho các hữu tình được lợi ích.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nay tôi nói sơ lược về sự việc Bồ-tát

an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo và trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì. Nếu tôi có giảng nói, trải qua một kiếp hay hơn một kiếp hoặc quá hơn đó nữa thì với trí tuệ biện tài cũng không thể cùng tận. Trí tuệ biện tài của tôi cũng không cùng tận. Bồ-tát an trụ vào cảnh giới bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo và trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì cũng không cùng tận, vì nó là vô lượng.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-diếp-ba nghe nói thần lực giải thoát bất khả tư nghì của Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát bất khả tư nghì liền khen ngợi là chưa từng có và nói với Tôn gia Xá-lợi Tử:

–Ví như có người đứng đối diện với người mù, mặc dù người ấy có thể biểu hiện những hình tượng sai khác nhưng người mù kia hoàn toàn không thể thấy. Cũng vậy, tất cả Thanh văn, Độc giác đều giống như người mù kia, không có con mắt thù thắng, nghe nói thần lực giải thoát bất khả tư nghì của Bồ-tát an trụ nơi giải thoát bất khả tư nghì hiện ra, cho đến một việc cũng không thể hiểu nổi. Người nam, người nữ nào có trí, nghe nói về thần lực giải thoát bất khả tư nghì ấy mà lại không phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng. Đối với pháp Đại thừa này, chúng ta hiện cũng như hạt giống hư hoại, mất hẳn các căn, không làm gì được nữa. Nghe nói ve thần lực giải thoát bất khả tư nghì, hàng Thanh văn, Độc giác chúng ta đều nên kêu khóc chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới. Còn tất cả các Bồ-tát nghe nói về thần lực giải thoát bất khả tư nghì thì đều hân hoan, vui mừng, cung kính thọ trì, giống như thái tử con vua nhận ngôi Quán đảnh, càng thêm có uy lực, có lòng tin hiểu kiên cố. Nếu các Bồ-tát nghe nói về thần lực giải thoát bất khả tư nghì này tất có tâm tin hiểu kiên cố, còn tất cả ma vương, các chúng ma không thể nào làm gì được với các Bồ-tát ấy.

Tôn giả Đại Ca-diếp-ba giảng nói như vậy thì trong chúng có ba vạn hai ngàn Thiên tử đều phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói với Tôn giả Đại Ca-diếp-ba:

–Những kẻ làm ma vương trong vô lượng, vô số thế giới khắp mười phương, phần đông đều là Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo để làm ma vương, vì muốn tạo mọi thành tựu đầy đủ cho các hữu tình.

Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp-ba! Tất cả các Bồ-tát trong vô lượng, vô số thế giới khắp mười phương, nếu có người đến xin vị ấy tay, chân, mũi, tai, đầu, mắt, tủy, não, máu, thịt, gân cốt, tất cả những bộ phận trên thân thể cho đến vợ con trai gái, nô tỳ thân thuộc, xóm làng, thành ấp, đô thị, bốn bộ châu…, những của cải nơi ngôi vị vua, các vật trang sức như châu báu, vàng bạc, trân châu, san hô, loa bối, lưu ly…, nhà cửa, giường chiếu, y phục, thức ăn uống, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ, các thuyền lớn nhỏ, binh khí, quân chúng, tất cả đến hối thúc để xin thì phần đông những người đó là Bồ-tát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo, hiện làm những việc như vậy để thử Bồ-tát, mục đích là để biết ý lạc kiên cố chăng. Vì sao? Vì các Bồ-tát dũng mãnh tăng thượng vì muốn đem lại lợi ích cho các hữu tình mà thị hiện những đại sự khó khăn như vậy. Kẻ phàm phu thấp kém, lại không có uy lực thì không thể nào hối thúc Bồ-tát để cầu xin được.

Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp-ba! Ví như lửa đom đóm hẳn không có oai lực để che ánh sáng mặt trời. Cũng vậy, kẻ phàm phu thấp kém, không có oai lực để đến hối thúc Bồ-tát nhằm cầu xin như vậy.

Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp-ba! Ví như voi quý hiện rõ oai lực chiến đấu, loài lừa không thể chống cự được, chỉ có voi quý chiến đấu với voi quý. Cũng vậy, kẻ phàm phu thấp kém không có uy lực để bức bách Bồ-tát. Chỉ có Bồ-tát hối thúc với Bồ-tát mà thôi. Đó gọi là Bồtát an trụ vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo nơi trí tuệ nhập vào cảnh giới giải thoát bất tư nghì.

Khi giảng nói pháp này, có tám ngàn Bồ-tát được hội nhập nơi cảnh giới của Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo trí lực nhập vào pháp giải thoát Bất khả tư nghì.

 

QUYỂN 4

Phẩm 7: QUÁN HỮU TÌNH

Khi ấy, Đại sĩ Diệu Cát Tường hỏi Bồ-tát Vô Cấu Xứng:

–Bồ-tát quán các hữu tình như thế nào?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng trả lời:

–Ví như thầy ảo thuật quán sát những việc mình hóa ra. Bồ-tát quán sát một cách thật đúng đắn về tất cả hữu tình cũng vậy.

Thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường! Như người trí quán trăng trong nước, quán ảnh tượng trong gương, quán nước của dợn nắng, quán âm thanh vọng lại, quán thành, đài bằng mây giữa hư không, quán sự chắc thật nơi đống bọt nước, quán bong bóng nước vừa nổi lên là tiêu mất ngay, quán phần lõi cứng của cây chuối, quán đại thứ năm, quán uẩn thứ sáu, quán căn thứ bảy, quán xứ thứ mười ba, quán giới thứ mười chín, quán các ảnh tượng của sắc nơi cõi Vô sắc, quán hạt giống mục nát mà nảy mầm, quán áo quần làm bằng lông rùa, quán người chết yểu mà thọ dục vui chơi, quán quả Dự lưu mà có phân biệt thân kiến, quán quả Nhất lai thọ hữu thứ ba, quán quả Bất hoàn nhập vào thai mẹ, quán độc tham, sân, si của bậc A-la-hán; quan Bồ-tát chứng đắc nhẫn có tâm tham lam, keo lận, phạm giới, sân, hại; quán tập khí tương tục của chư Như Lai, quán người mù bẩm sinh thấy các màu sắc, quán định trụ diệt có hơi thở ra vào, quán dấu chân chim giữa hư không, quán căn của người bán thạch ca có tác dụng, quán con của người thạch nữ có tạo nghiệp, quán điều Phật hóa ra có các trói buộc, quán các sự rốt ráo mà phát sinh phiền não, quán những gì đã thấy sau cơn mộng, quán không có lửa mà bị đốt cháy, quán A-la-hán có những đời sau, Bồ-tát nên quán sát tất cả hữu tình như vậy. Vì sao? Vì các pháp vốn không, chân thật vô ngã, không có hữu tình.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Nếu Bồ-tát quán tất cả hữu tình như vậy thì phải tu hành tâm Từ bi như thế nào?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng trả lời:

–Sau khi Bồ-tát quán hữu tình như vậy rồi, tự nghĩ vì các hữu tình mà ta phải nói pháp như vậy để họ hiểu rõ ràng. Đó goi là tu hành tâm Từ bi một cách chân thật và các hữu tình hoàn toàn an lạc, Bồ-tát ấy tu tâm Từ tịch diệt vì không có các chấp giữ, tu tâm Từ vô nhiệt vì lìa phiền não, tu tâm Từ như thật vì ba đời bình đẳng, tu tâm Từ không chống trái vì không cùng khởi, tu tâm Từ vô nhị vì lìa trong ngoài, tu tâm Từ không hoại vì trụ rốt ráo, tu tâm Từ kiên cố vì ý lạc tăng thượng như kim cang, tu tâm Từ thanh tịnh vì bản tánh thanh tịnh, tu tâm Từ bình đẳng vì đồng với hư không, tu tâm Từ Ala-hán vì diệt trừ hẳn giặc kết sử, tu tâm Từ Độc giác vì không nhờ sự giúp đỡ của thầy, tu tâm Từ Bồ-tát vì làm thành tựu đầy đủ cho hữu tình không dừng nghĩ, tu tâm Từ Như Lai vì giác ngộ tánh chân như của các pháp, tu tâm Từ Đức Phật vì giác ngộ hữu tình đang ở trong mộng, tu tâm Từ tự nhiên vì theo sự vận hành mà giác ngộ tánh của các pháp, tu tâm Từ Bồ-đề vì đồng một vị, tu tâm Từ không thiên vị vì đoạn sự thương ghét, tu tâm Từ đại Bi vì làm sáng rỡ Đại thừa, tu tâm Từ không tranh chấp vì quán vô ngã, tu tâm Từ không nhàm chán vì quán tánh không, tu tâm Từ pháp thú vì lìa sự luyến tiếc, tu tâm Từ tịnh giới vì tạo mọi thành thục cho các hữu tình phạm giới, tu tâm Từ kham nhẫn vì bảo hộ mình và người đừng làm cho tổn hại, tu tâm Từ tinh tấn vì gánh vác khổ cho các hữu tình làm những việc lợi lạc, tu tâm Từ tĩnh lự vì không còn ái nhiễm, tu tâm Từ Bát-nhã vì lúc nào cũng đều hiện trí pháp, tu tâm Từ phương tiện vì thị hiện khắp tất cả các môn, tu tâm Từ diệu nguyện vì đã phát sinh vô lượng đại nguyện, tu tâm Từ đại lực vì có thể làm tất cả việc rộng lớn, tu tâm Từ Nhã-na (trí) vì hiểu rõ tánh tướng của tất cả pháp, tu tâm Từ thần thông vì không hoại tánh tướng của tất cả pháp, tu tâm Từ thâu giữ sự việc vì dùng phương tiện làm lợi ích cho các hưu tình, tu tâm Từ không chấp trước vì có vô ngại nhiễm, tu tâm Từ không dối trá vì ý lạc thanh tịnh, tu tâm Từ không dua nịnh vì gia hạnh thanh tịnh, tu tâm Từ không lừa gạt vì không hư dối, tu tâm Từ tâm sâu xa vì lìa vết nhơ, tu tâm Từ an lạc vì làm cho chúng sinh có sự an lạc của chư Phật.

Thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường! Đó là Bồ-tát tu tâm đại Từ.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Bồ-tát tu tâm đại Bi như thế nào?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng trả lời:

–Tạo ra những căn lành tăng trưởng nào cũng đều đem lợi lạc cho các hữu tình, không tham tiếc gì cả. Đó gọi là Bồ-tát tu tâm đại Bi.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Bồ-tát tu hành tâm đại Hỷ như thế nào?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Làm lợi ích cho các hữu tình đều hoan hỷ không hối hận. Đó gọi là Bồ-tát tu tâm đại Hỷ.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Bồ-tát tu tâm đại Xả như thế nào?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Làm lợi ích với tâm bình đẳng không trông mong quả báo. Đó là Bồ-tát tu tâm đại Xả.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Nếu các Bồ-tát sợ sinh tử thì phải nương vào đâu?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Nếu các Bồ-tát lo sợ sinh tử phải luôn nương tựa vào đại ngã của chư Phật.

Lại hỏi:

–Bồ-tát muốn trụ vào đại ngã phải trụ như thế nào?

Trả lời:

– Muốn trụ vào đại ngã phải trụ trong sự giải thoát bình đẳng của tất cả hữu tình.

Lại hỏi:

–Muốn làm cho tất cả hữu tình giải thoát nên trừ diệt những gì?

Trả lời:

–Muốn làm cho tất cả hữu tình được giải thoát phải diệt trừ phiền não của họ.

Hỏi:

–Muốn diệt trừ phiền não cho tất cả hữu tình nên tu những gì?

Trả lời:

–Muốn diệt trừ phiền não cho tất cả hữu tình nên tu quán sát các tác ý đúng như lý.

Hỏi:

–Muốn tu, quán sát các tác ý đúng như lý nên tu như thế nào?

Trả lời:

–Muốn tu, quán sát các tác ý đúng như lý phải tu các pháp không sinh không diệt.

Hỏi:

–Pháp nào không sinh? Pháp nào không diệt?

Trả lời:

–Pháp bất thiện là không sinh, pháp thiện là không diệt.

Hỏi:

–Pháp thiện và bất thiện lấy gì làm gốc?

Trả lời:

–Lấy thân làm gốc.

Hỏi:

–Thân lấy gì làm gốc?

Trả lời:

–Lấy tham dục làm gốc?

Hỏi:

–Tham dục lấy gì làm gốc?

Trả lời:

–Lấy phân biệt hư vọng làm gốc.

Hỏi:

–Phân biệt hư vọng lấy gì làm gốc?

Trả lời:

–Lấy vọng tưởng điên đảo làm gốc.

Hỏi:

–Vọng tưởng đảo vọng lấy gì làm gốc?

Trả lời:

–Lấy vô trụ làm gốc.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Như vậy vô trụ lấy gì làm gốc?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Hỏi như vậy là phi lý. Vì sao? Vì vô trụ tức là không có gốc cũng không có chỗ trụ. Do không gốc, không có chỗ trụ nên có thể kiến lập tất cả các pháp.

Bấy giờ, trong nhà của Bồ-tát Vô Cấu Xứng có một Thiên nữ ở lâu rồi, thấy các bậc Đại nhân giảng nói pháp thì đạt được điều chưa từng có, nên vui mừng khôn xiết, liền hiện thân mình, dùng hoa trời rải cúng dường các Bồ-tát và chúng đại Thanh văn. Khi hoa trời ấy đến thân Bồ-tát thì hoa liền rơi xuống đất, còn đến thân các vị đại Thanh văn thì hoa dính vào không rớt. Chúng đại Thanh văn muốn phủi hoa, bèn dùng thần lực của mình nhưng vẫn không sao rớt xuống.

Thiên nữ hỏi Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Vì sao phải phủi hoa?

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Vì hoa không như pháp nên tôi phủi nó.

Thiên nữ nói:

–Thôi, Tôn giả đừng cho hoa ấy là không như pháp. Vì sao? Vì hoa ấy là như pháp. Thưa Tôn giả! Chỉ có Tôn giả là không như pháp. Vì sao? Vì hoa không phân biệt, không phân biệt khác, chỉ có Tôn giả tự có phân biệt, có phân biệt khác đó thôi. Đối với pháp thiện trong Tỳ-nại-da, nếu người xuất gia có phân biệt, có phân biệt khác tức là khong như pháp. Còn nếu không phân biệt, không phân biệt khác tức là như pháp.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Thấy các Bồ-tát hoa không dính vào người đều do các vị ấy đã đoạn trừ hẳn tất cả phân biệt và phân biệt khác, thấy các Thanh văn hoa dính vào thân là vì chưa đoạn tận tất cả phân biệt và phân biệt khác.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Như khi nào người có sợ sệt thì phi nhân tìm đến làm hại. Nếu không sợ sệt thì tất cả phi nhân không làm hại được. Nếu ai sợ nghiệp phiền não sinh tử thì bị sắc, thanh, hương, vị, xúc… làm hại. Ai không sợ nghiệp, phiền não, sinh tử thì không bị sắc thanh hương vị xúc ở thế gian làm hại.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nếu ai chưa đoạn hẳn tập khí phiền não thì hoa ấy dính vào thân. Nếu ai đã đoạn hẳn tập khí phiền não rồi thì hoa ấy rơi xuống.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi:

–Thiên nữ ở nhà này đã bao lâu rồi?

Thiên nữ trả lời:

–Tôi ở nhà này cũng như thời gian Tôn giả Xá-lợi Tử đã trụ nơi giải thoát.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi:

–Thiên nữ ở nhà này lâu như vậy chăng?

Thiên nữ nói:

–Tôn giả trụ nơi giải thoát cũng lâu như vậy sao?

Tôn giả Xá-lợi Tử im lang không trả lời.

Thiên nữ nói:

–Tôn giả là đại Thanh văn đầy đủ đại tuệ biện tài, hỏi một chút như vậy mà không trả lời được.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Người giải thoát thì xa lìa các danh ngôn, nên đối với điều đó tôi biết nói sao đây.

Thiên nữ nói:

–Văn tự được nói ra đều là tướng giải thoát. Vì sao? Vì tướng giải thoát này chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải chặng giữa mà có thể chứng đắc được. Văn tự cung như vậy, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặng giữa mà có thể chứng đắc được. Cho nên chẳng phải lìa văn tự mà nói giải thoát. Vì sao? Vì tánh giải thoát ấy và tánh của tất cả pháp đều bình đẳng.

Tôn giả Xa-lợi Tử hỏi:

–Há chẳng phải do lìa tham, sân, si… mà được giải thoát sao?

Thiên nữ nói:

–Vì những người tăng thượng mạn nên Đức Phật nói lìa tất cả tham, sân, si để được giải thoát. Nếu vì những người xa lìa tăng thượng mạn thì Ngài nói bản tánh của tất cả tham, sân, si… là giải thoát.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi:

–Lành thay! Này Thiên nữ! Làm thế nào mà cô chứng được trí tuệ biện tài như vậy?

Thiên nữ trả lời:

–Tôi không đắc, không chứng trí tuệ biện tài. Nếu nói tôi có đắc có chứng tức là kẻ tăng thượng mạn trong chỗ khéo thuyết pháp Tỳnại-da.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi:

–Đối với ba thừa, cô hướng về thừa nào?

Thiên nữ trả lời:

–Tôi hướng về cả ba thừa.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi:

–Cô dùng mật ý gì mà nói như vậy?

Thiên nữ nói:

–Vì thường giảng nói Đại thừa để người khác nghe, lãnh hội mà tôi làm Thanh văn. Vì tự nhiên hiện bày sự giác ngộ tánh chân thật của các pháp mà tôi làm Duyên giác. Vì không bỏ tâm đại Từ bi mà tôi làm Đại thừa.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Vì hóa độ các hữu tình cầu thừa Thanh văn nên tôi làm Thanh văn. Vì hóa độ các hữu tình cầu thừa Độc giác nên tôi làm Độc giác. Vì hóa độ các hữu tình cầu thừa Vô thượng nên tôi làm Đại thừa.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Như có người vào rừng Chiêm-bặc-ca chỉ ngửi mùi thơm của cây Chiêm-bặc-ca chứ không thích ngửi mùi thơm của cây cỏ khác. Cũng vậy, nếu ai ở nhà này thì chỉ thích mùi thơm công đức của Đại thừa chứ không thích những mùi thơm công đức của Thanh văn, Độc giác. Vì trong nhà này luôn được xông ướp mùi hương thơm nơi công đức vi diệu của tất cả pháp Phật.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nếu có Thích, Phạm, bốn Đại Thiên vương, Na-dà, Dạ-xoa, A-tố-lạc… cho đến Nhân phi nhân mà vào nhà này đều được chiêm ngưỡng Đại sĩ và được gần gũi, lễ kính, cúng dường, nghe đại pháp. Tất cả đều phát tâm đại Bồ-đề, đều do mùi thơm công đức vi diệu của tất cả pháp Phật mà ra.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Tôi ở nhà này đã hơn mười hai năm rồi nhưng chưa hề nghe nói những ngon luận tương ưng về Thanh văn, Độc giác, chỉ nghe các Bồ-tát Đại thừa hành ngôn luận tương ưng với diệu pháp đại Từ, đại Bi bất khả tư nghì của chư Phật.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nhà này thường hiện lên tám pháp thù thắng chưa từng có. Tám pháp ấy là gì? Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nghĩa là nhà này thường có ánh sáng màu vàng ròng chiếu rực rỡ khắp ngày lẫn đêm đều giống nhau, không cần ánh sáng của mặt trời chiếu vào. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ nhất.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nhà này thường có tất cả Nhân phi nhân ở thế gian. Sau khi họ đã vào nhà này thì không bị tất cả phiền não làm hại. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ hai.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nhà này thường có những Thích, Phạm, bốn Đại Thiên vương… và các Đại Bồ-tát ở thế giới khác tụ tập không bao giờ ngớt. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ ba.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nhà này thường nghe ngôn luận tương ưng với sáu Ba-la-mật bất thoái chuyển của Bồ-tát. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ tư.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nhà này thường tấu lên những âm nhạc của trời, người. Từ những âm nhạc ấy diễn ra vô lượng trăm ngàn pháp âm. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ năm.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nhà này có bốn kho báu lớn, châu ngọc đầy ắp không bao giờ hết, đem cung cấp bố thí cho tất cả những người nghèo khổ, người đơn chiếc, cô độc, người không chỗ nương tựa, người xin ăn, làm cho họ đầy đủ, nhưng châu báu không bao giờ hết. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ sáu.

Thưa Tôn gia Xá-lợi Tử! Nhà này có Như Lai Thích-ca Mâu-ni, Như Lai Vô Lượng Thọ, Như Lai Nan Thắng, Như Lai Bất Động, Như Lai Bảo Thắng, Như Lai Bảo Diệm, Như Lai Bảo Nguyệt, Như Lai Bảo Nghiêm, Như Lai Bảo Âm Thanh, Như Lai Sư Tử Hống, Như Lai Nhất Thiết Nghĩa Thành… vô lượng Đức Như Lai khắp mười phương như vậy, nếu Đại sĩ này phát tâm cầu thỉnh thì chư Như Lai lập tức đến giảng nói tất cả pháp môn bí yếu của chư Phật. Nói xong thì đi ngay. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ bảy.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nhà này luôn hiện tất cả cõi Phật trang nghiêm đủ công đức và các thứ trang sức lộng lẫy của cung điện trời. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ tám.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Nhà này luôn hiện tám pháp thù thắng chưa từng có như vậy. Ai có pháp bất tư nghì này mà còn phát tâm thích cầu pháp Thanh văn, Độc giác sao?

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Thiên nữ:

–Sao cô không chuyen thân nữ này?

Thiên nữ trả lời:

–Tôi ở nhà này đã hơn mười hai năm, tìm cầu tánh người nữ mãi vẫn không được thì làm sao có sự chuyển?

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Ví như thầy ảo thuật hóa ra huyễn nữ. Nếu ai có hỏi: “ Sao cô không chuyển thân nữ này?” Hỏi như vậy có đúng không?

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Thiên nữ, không đúng. Vì huyễn đã không thật thì làm sao mà chuyển.

Thiên nữ nói:

–Cũng vậy, tánh tướng của các pháp đều chẳng chân thật, giống như huyễn hóa, tại sao Tôn giả hỏi là không chuyển thân nữ?

Ngay lúc đó, Thiên nữ dùng sức thần thông biến Tôn giả Xá-lợi Tử giống như một Thiên nữ, rồi tự biến mình như Tôn giả Xá-lợi Tử và hỏi:

–Sao Tôn giả không chuyển thân nữ đi?

Khi ấy, với dáng Thiên nữ, Tôn giả Xá-lợi Tử trả lời:

–Tôi không biết việc chuyển làm mất thân nam để thành thân nữ!

Thiên nữ lại nói:

–Nếu Tôn giả có thể chuyen thân nữ này, thì tất cả thân nữ khác cũng sẽ có thể chuyển được. Như Tôn giả Xá-lợi Tử thật chẳng phải là nữ mà hiện thành thân nữ. Tất cả thân nữ khác cũng lại như vậy. Mặc dù hiện thân nữ nhưng thật sự chẳng phải là nữ. Đức Thế Tôn y vào mật ý này mà giảng nói tất cả pháp chẳng phải nam, chẳng phải nữ.

Sau khi nói vậy xong, Thiên nữ thâu hồi thần lực trở lại và ai nấy đều hiện ra thân cũ của mình.

Thiên nữ hỏi Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Tôn giả, thân nữ nay ở đâu?

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Thân nữ của tôi không còn, không biến chuyển.

Thiên nữ nói:

–Lành thay! Lành thay! Tôn giả! Tất cả cũng như vậy không còn, không chuyển, nói tất cả pháp không còn, không chuyển, đó chính là Phật ngữ.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Thiên nữ:

–Ở đây nếu cô chết rồi sẽ sinh ở đâu?

Thiên nữ nói:

–Chỗ Như Lai hóa sinh ở đâu thì tôi sẽ sinh nơi chỗ đó.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi:

–Hóa Như Lai không chết không sinh. Vì sao nói sẽ có chỗ sinh?

Thiên nữ trả lời:

–Thưa Tôn giả! Nên biết các pháp và hữu tình cũng như vậy, không diệt không sinh. Vì sao hỏi tôi sẽ sinh vào chỗ nào?

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Thiên nữ:

–Bao lâu nữa cô sẽ chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng?

Thiên nữ trả lời:

–Nếu như Tôn giả Xá-lợi Tử trở lại làm phàm phu, đầy đủ pháp phàm phu thì tôi chứng Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng lâu hay gần cũng thế.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Không xứ sở, không quả vị, tôi sẽ trở thành phàm phu đầy đủ pháp phàm phu.

Thiên nữ nói:

–Tôn giả, cũng vậy, khi nào không có xứ sở, không có quả vị thì tôi sẽ chứng Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng. Vì sao? Vì Bồ-đề vô thượng là không có chỗ trụ, cho nên cũng không chứng Bồ-đề.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Nếu vậy vì sao Đức Phật nói hằng hà sa chư Phật hiện chứng Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, đã chứng, sẽ chứng.

Thiên nữ nói:

–Thưa Tôn giả! Đó đều là dùng ngôn ngữ, văn tự của thế tục mà nói có chư Phật ba đời chứng đắc, chứ chẳng phải nói Bồ-đề có quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì Bồ-đề vô thượng là vượt qua ba đời.

Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Tôn giả đã chứng đắc A-la-hán rồi sao?

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Không đắc mà đắc, đắc mà không chỗ đắc.

Thiên nữ nói:

–Thưa Tôn giả! Bồ-đề cũng thế, không chứng mà chứng, chứng mà không chỗ chứng.

Khi ấy, Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói với Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Thiên nữ này đã từng cúng dường, gần gũi, tôn thờ hơn chín mươi hai trăm ngàn câu-chi na do đa Đức Phật, trí tuệ thần thông đã tự tại, sở nguyện đã đầy đủ, đắc Nhẫn vô sinh đối, với Chánh đẳng Bồđề vô thượng đã vĩnh viễn bất thoái chuyển, theo diệu lực của bản nguyện, theo sở thích của mình, theo chỗ thích nghi mà tạo mọi thành thục cho chúng sinh.

 

Phẩm 8: BỒ-ĐỀ PHẦN

Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi Bồ-tát Vô Cấu Xứng:

–Với các pháp Phật, Bồ-tát làm thế nào để đạt đến chỗ cứu cánh?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Nếu các Bồ-tát hành không phải là nơi hướng tới thì mới đạt đến chỗ cứu cánh của pháp Phật.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Bồ-tát hành không phải là nơi hướng tới như thế nào?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng trả lời:

–Các Bo-tát mặc dù hành nơi cõi năm tội vô gián nhưng không có tâm sân giận, não hại. Mặc dù hành nơi cõi Ma-lạc-ca (địa ngục) nhưng lìa tất cả bụi bặm cấu uế phiền não. Mặc dù hành nơi các cõi bàng sinh nhưng lìa tất cả vô minh tăm tối. Mặc dù hành nơi cõi A-tốlạc, (ngạ quỷ) nhưng lìa tất cả cao ngạo ngã mạn. Mặc dù hành nơi cõi Diệ-ma vương nhưng chứa nhóm hành trang phước tuệ rộng lớn. Mặc dù hành cõi định vô sắc nhưng không thích hướng về cõi đó. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh tham dục nhưng không thọ dục tất cả những gì ở trong đó, lìa tất cả sự đắm nhiễm. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh sân giận nhưng đối với tất cả cảnh giới của hữu tình lìa các sân giận, không có tâm tổn hại. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh ngu si nhưng với tất cả pháp đều xa lìa vô minh tăm tối, dùng ánh sáng trí tuệ để tự điều phục mình. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh tham lam keo kiệt nhưng vứt bỏ những gì trong ngoài, không đoái hoài đến thân mạng mình. Mặc dù thị hiện hành cõi hạnh phạm giới nhưng sống an ổn trong tất cả giới, công đức Đầu-đà ít muốn, biết đủ, trong một tội nhỏ cũng thấy rất sơ hãi. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh sân giận mà an trụ hoàn toàn vào tâm Từ bi không não hại. Mặc dù thị hiện hành cõi hạnh biếng nhác nhưng siêng năng tu tập tất cả căn lành, tinh tấn không thay đổi. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh căn loạn nhưng luôn an nhiên tịch tĩnh. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh ác tuệ nhưng hoàn toàn thông đạt tất cả tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, có lòng tin đạt cứu cánh tuệ Ba-la-mật đa. Mặc dù thị hiện hành cõi hạnh dua nịnh dối trá, nhưng hoàn thành phương tiện thiện xảo. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh phương tiện mật ngữ kiêu mạn, nhưng đều dốc thành lập cầu đò để cứu giúp muôn người. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh tất cả phiền não của thế gian nhưng tánh thanh tịnh hoàn toàn không nhiễm. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh chúng ma, nhưng có trí tuệ giác ngộ tất cả pháp Phật và tự chứng biết không nhờ vào người khác. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh Thanh văn nhưng giảng pháp chưa từng nghe cho các hữu tình. Mặc dù thị hiện hành nơi cõi hạnh Độc giác nhưng vì hoàn thành đại Từ, đại Bi tạo mọi thành thục cho chúng sinh. Mặc dù thị hiện ở cõi bần cùng nhưng được của cải châu báu vô tận. Mặc dù thị hiện ở cõi khuyết căn nhưng đầy đủ tướng tốt đẹp đẽ. Mặc dù thị hiện ở cõi ti tiện nhưng sinh vào nhà Phật thuộc dòng họ tôn quý tích tập hành trang phước tuệ thù thắng. Mặc dù ở cõi gầy ốm, xấu xí, bị mọi người ghét nhưng được thân như Nala-diên đẹp đẽ, các hữu tình thích nhìn. Mặc dù ở cõi già bệnh, nhưng diệt trừ rốt ráo căn già bệnh vượt qua các sợ hãi về chết. Mặc dù hiện ở cõi cầu của cải địa vị, nhưng tu tập nhiều quán tưởng vô thường, dứt các sự mong cầu. Mặc dù hiện ở cõi cung thất kỹ nữ với các thú vui nhưng luôn vượt qua khỏi các bùn dơ dục lạc, tu tập rốt ráo hạnh xa lìa. Mặc dù hiện ở cõi đần độn nhưng đầy đủ trang nghiêm biện tài, đắc Đà-la-ni, trí tuệ nhớ không mất. Mặc dù ở cõi tà đạo nhưng lấy chánh đạo độ các hữu tình. Mặc dù hiện ở cõi tất cả sinh nhưng thật sự đoạn hẳn tất cả nơi chốn sinh khởi. Mặc dù hiện ở cõi Bát-niết-bàn nhưng luôn xả bỏ sinh tử tương tục. Mặc dù thị hiện đắc diệu Bồ-đề chuyển đại pháp luân, nhập Niết-bàn, nhưng luôn siêng năng tu tập các hạnh Bồ-tát liên tiếp không gián đoạn.

Thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường! Bồ-tát hành không phải là nơi hướng tới như vậy mới được gọi là đạt tới cõi cứu cánh của pháp Phật.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Cấu Xứng hỏi Đại sĩ Diệu Cát Tường:

–Những gì là chủng tánh của Như Lai? Xin Đại sĩ lược nói cho.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Tất cả chủng tánh của thân hư giả, là chủng tánh của Như Lai, tất cả chủng tánh của vô minh hữu ái là chủng tánh của Như Lai, chủng tánh của tham dục, sân giận, ngu si là chủng tánh của Như Lai, chủng tánh của hư vọng điên đảo là chủng tánh của Như Lai. Như vậy tất cả chủng tánh của năm uẩn, chủng tánh của sáu xứ, chủng tánh của bảy thức trụ, chủng tánh của tám tà, chủng tánh của chín não, chủng tánh của mười đạo nghiệp bất thiện, đó là chủng tánh của Như Lai. Nói tóm lại, chủng tánh của sáu mươi hai kiến, tất cả phiền não, pháp ác, bất thiện là chủng tánh của Như Lai.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Căn cứ vào mật ngữ nào mà Đại sĩ nói như vậy?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Chẳng phải người thấy vô vi đã nhập vào vị Chánh tánh ly sinh thì có thể phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng, mà cốt yếu là trụ vào các hành hữu vi phiền não, người chưa kiến đế thì có thể phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng. Ví như nơi cao đất khô cằn thì không thể sinh hoa Ôn-bát-la, hoa Bát-đặc-ma, hoa Câu-mau-đà, hoa Bôn-đồlợi. Bốn loại hoa này chỉ mọc trong chỗ ẩm thấp có bùn nhơ. Cũng vậy, chủng tánh của hàng Thanh văn, Độc giác đã thấy vô vi, đã nhập Chánh tánh ly sinh thì không thể phát tâm Nhất thiết trí. Chỉ ở trong các hành ẩm thấp bùn nhơ của phiền não mới phát sinh Nhất thiết trí. Vì ở trong ấy có thể sinh trưởng các pháp Phật.

Này thiện nam! Ví như trồng cây ở giữa hư không thì không bao giờ sinh trưởng, mà phải trồng nơi đất thấp ướt có phân mới sinh trưởng được. Cũng vậy, chủng tánh của hàng Thanh văn, Độc giác đã thấy vô vi, đã nhập vào vị Chánh tánh ly sinh, thì không thể làm tăng trưởng các pháp Phật. Mặc dù phát sinh thân kiến lớn như núi Diệu cao nhưng có thể phát nguyện đại Bồ-đề. Vì ở trong đó phát sinh các pháp Phật.

Này thiện nam! Nếu như người không vào biển cả thì không thể lấy được châu báu phệ lưu ly vô giá, không vào biển cả sinh tử phiền nao thì không bao giờ phát sinh châu báu Nhất thiết trí vô giá. Thế nên biết chủng tánh của tất cả phiền não, sinh tử là chủng tánh của Như Lai.

Khi ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp khen Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Lành thay! Lành thay! Đại sĩ nói rất hay, là lời chân thật, lời thành thật, lời không khác. Đúng như Đại sĩ đã nói, tất cả chủng tánh của phiền não sinh tử là chủng tánh của Như Lai. Vì sao? Vì trong tâm tương tục của chúng tôi hiện nay, chủng tánh sinh tử đã khô nát rồi nên không bao giờ phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng giác. Thà có thể tạo nên nghiệp năm tội vô gián chứ không làm A-la-hán như chúng tôi không thể đạt đến giải thoát cứu cánh. Vì sao? Vì tạo nên nghiệp năm tội vô gián còn có năng lực làm dứt hết nghiệp ấy để phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng, lần lần thành tựu tất cả pháp Phật. Còn các Ala-hán chúng tôi thì không bao giờ có khả năng như vậy. Ví như người bị khuyết căn thì không thể nào hưởng được năm dục. Cũng vậy, các A-la-hán trừ sạch các lậu, đã dứt hẳn các kết sử thì không thể làm gì được với pháp Phật. Lại không có ý chí cầu diệu pháp của chư Phật. Cho nên hàng phàm phu có thể báo ân Phật, còn hàng Thanh văn, Độc giác thì không thể nào báo ân được. Vì sao? Vì phàm phu sau khi nghe pháp Phật thì tăng trưởng công đức, làm cho Tam bảo không đoạn tuyệt, có thể phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng, dần dần thành tựu các pháp Phật. Còn hàng Thanh văn, Độc giác dù trọn đời nghe nói về Vô úy, Lực của Phật cho đến tất cả công đức Bất cộng nơi pháp Phật… cũng không bao giờ phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng.

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Phổ Hiện Nhất Thiết Sắc Thân hỏi Bồ-tát Vô Cấu Xứng:

–Cư sĩ! Cha mẹ, vợ con, nô tỳ, tôi tớ, bạn bè quyến thuộc, thị vệ, voi ngựa, xe cộ, người giữ ngựa ở đâu sao không thấy gì cả? Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói kệ trả lời:

Tuệ độ: Mẹ Bồ-tát
Thiện phương tiện là cha
Những đạo sư thế gian
Đều do đấy mà sinh.
Diệu pháp lạc là vợ
Từ bi là con gái
Pháp chân đế: Con trai
Thắng nghĩa không là nhà.
Phiền não là đệ tử
Tùy ý mà chuyển hóa
Giác phần là bạn lành
Do đấy thành Chánh giác.
Sáu Độ là quyến thuộc
Bốn Nhiếp là kỹ nữ
Kết tập chánh pháp ngôn
Để làm âm nhạc diệu.
Tổng trì là vườn hoa
Đại pháp là cây rừng
Trang hoàng hoa giác phẩm
Quả giải thoát, trí tuệ.
Ao tám giải vi diệu
Nước định đầy, trong suốt
Trải đầy hoa bảy tịnh
Rửa sạch các bụi cấu.
Voi ngựa là thần thông
Lấy Đại thừa làm xe
Điều khiển: Tâm Bồ-đề
Đi vào đường tám chánh.
Trang hoàng bằng tướng diệu
Xen lẫn những tướng đẹp
Xấu hổ là y phục
Thắng ý lạc: vòng hoa.
Chánh pháp là châu báu
Hiển bay là phương tiện
Hành đúng đắn thắng lợi
Hồi hướng đại Bồ-đề.
Bốn tĩnh lự là giường
Sống trong sạch là nệm
Niệm trí luôn giác ngộ
Luôn luôn ở trong định.
Đã ăn, pháp bất tử
Lại uống mùi giải thoát
Tắm rửa tâm thanh tịnh
Xoa ướp bằng giới phẩm.
Tiêu diệt giặc phiền não
Dũng mãnh không ai bằng
Chiến thắng bốn quân ma
Dựng thẳng cờ giác ngộ.
Tuy thật không sinh diệt
Cho nên nghĩ thọ sinh
Đều hiện các cõi Phật
Như mặt trời chiếu khắp.
Đem hết món thượng hạng
Cúng dường chư Như Lai
Với Phật và thân mình
Tất cả không phân biệt.
Dù biết các cõi Phật
Và hữu tình đều không
Nhưng thường tu tịnh độ
Lợi vật không mệt mỏi.
Tất cả các hữu tình
Sắc thanh và oai nghi
Bồ-tát lực vô úy
Đều hiện trong chốc lát.
Dù biết các nghiệp ma
Thị hiện chuyển theo đó
Đạt phương tiện cứu cánh
Tùy ý thành tựu cả.
Hoặc thị hiện thân mình
Có những già, bệnh, chết
Làm thành thục hữu tình
Như pháp huyễn tự tại.
Hoặc hiện nổi kiếp thiêu
Trời đất đều cháy rụi
Vì hữu tình chấp thường
Chiếu để biết mau diệt.
Ngàn câu-chi hữu tình
Cùng đến mời Bồ-tát
Nhận sự cúng dường ấy
Khiến họ hướng Bồ-đề.
Với những cấm chú thuật
Thư luận và kỹ nghệ
Đều biết rất hoàn hảo
Tạo lợi lạc hữu tình.
Các đạo pháp thế gian
Đều xuất gia trong đó
Theo phương tiện lợi sinh
Không rơi vào các kiến.
Hoặc làm mặt trời, trăng
Phạm vương chủ thế giới
Địa thủy và hỏa phong
Tạo lợi ích muôn loài.
Gặp kiếp bệnh truyền nhiễm
Hiện làm các thuốc hay
Diệt trừ các bệnh khổ
Để hướng đại giải thoát.
Nếu với kiếp đói khát
Hiện làm các thức ăn
Trước trừ đói khát ấy
Rồi nói pháp để vui.
Nếu với kiếp đao binh
Thì tu Từ bi tịnh
Để vô lượng chúng sinh
Vui mừng không sân giận.
Nếu gặp lúc đại chiến
Hiện các nhóm có sức
Đến giải hòa cho họ
Khuyến phát tâm Bồ-đề.
Các cõi Phật vô lượng
Địa ngục cũng vô biên
Đi ngay đến nơi ấy
Cứu khổ để an vui.
Ở các cõi bàng sinh
Tàn hại ăn nuốt nhau
Đều thị hiện vào đó
Lợi lạc nói đời trước.
Thị hiện thọ các dục
Nhưng luôn tu tĩnh lự
Chế ngự các ma ác
Để chúng không làm hại.
Như hoa mọc trong lửa
Nói là việc hiếm có
Tu định mà hành dục
Càng hiếm có hơn đây.
Hoặc hiện làm dâm nữ
Dụ những kẻ háo sắc
Trước dẫn bằng tướng dục
Sau bảo tu trí Phật.
Hoặc làm chủ thành ấp
Chủ buôn và quốc sư
Quan viên đến giúp đỡ
Làm lợi lạc hàm thức.
Vì những người khốn khổ
Hiện làm kho vô tận
Cung cấp hết nghèo đói
Khiến hướng đại Bồ-đề.
Với những người kiêu mạn
Hiện làm đại lực sĩ
Bẻ gãy cống cao ấy
Để trụ nguyện Bồ-đề.
Với những người sợ hãi
Dùng cách an ủi họ
Sau họ hết sợ rồi
Khuyên phát tâm Bồ-đề.
Hiện làm Tiên ngũ thông
Tu phạm hạnh thanh tịnh
Khiến họ trụ an lạc
Trong giới, nhẫn, từ, thiện.
Hoặc thấy các hữu tình
Hiện tại cần giúp đỡ
Vì họ làm tôi tớ
Đệ tử để giúp họ.
Dùng đủ mọi phương tiện
Khiến ưa thích chánh pháp
Ở trong các phương tiện
Đều tu học hoàn hảo.
Với vô biên hành động
Vô biên việc đã làm
Vô biên trí viên mãn
Độ thoát vô biên chúng.
Giả sử tất cả Phật
Trụ trong trăm ngàn kiếp
Khen ngợi công đức ấy
Van chưa thể cùng tận.
Ai nghe pháp như vậy
Không nguyện đại Bồ-đề
Trừ hữu tình thấp kém
Và người không chút trí.

 

Phẩm 9: PHÁP MÔN BẤT NHỊ

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Cấu Xứng hỏi khắp các Bồ-tát ở trong chúng:

–Bồ-tát ngộ nhập vào pháp môn bất nhị như thế nào? Theo khả năng biện tài của mình, các vị tùy ý nêu bày.

Khi ấy, các Bồ-tát trong chúng hội theo chỗ thấu đạt của mình, lần lượt bày tỏ.

Bồ-tát Pháp Tự Tại nói:

–Sinh và diệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ các pháp xưa nay không sinh cũng không diệt, chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh như vậy, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Thắng Mật nói:

–Ngã và ngã sở được phân biệt là hai. Vì do chấp ngã nên chấp ngã sở. Nếu hiểu rõ không có ngã, cũng không có ngã sở, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Vô Thuấn nói:

–Hữu thủ và vô thủ, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ không thủ, không chỗ đắc. Vì không chỗ đắc nên không tăng, không giảm, không làm không nghỉ, không chấp trước vào tất cả pháp. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Thắng Phong nói:

–Tạp nhiễm và thanh tịnh, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ tạp nhiễm và thanh tịnh là không hai thì không phân biệt, đoạn hẳn sự phân biệt, hướng đến dấu vết tịch diệt. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Diệu Tinh nói:

–Tán động và suy nghĩ, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ không bị tán động, không có đối tượng được suy nghĩ thì không tác ý, trụ vào không tán động, không có đối tượng được suy nghĩ thì không tác ý. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Diệu Nhãn nói:

–Một tướng, không tướng, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ các pháp không có một tướng, không có tướng khác cũng không có không tướng, thì biết một tướng, tướng khác, không tướng ấy là bình đẳng. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Diệu Tý nói:

–Hai tâm Bồ-tát và Thanh văn là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ tánh của hai tâm là không, như huyễn, không có tâm Bồ-tát, không có tâm Thanh văn. Tướng của hai tâm ấy bình đẳng đều như huyễn hóa.

Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Dục Dưỡng nói:

–Thiện và bất thiện, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ tánh thiện và tánh bất thiện không có chỗ phát sinh. Tướng và vô tướng cả hai đều bình đẳng, không nắm bắt không buông xả. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Sư Tử nói:

–Có tội và không tội, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ có tội và không tội cả hai đều bình đẳng. Dùng tuệ kim cang mà thông đạt các pháp không buộc không mở, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Sư Tử Tuệ nói:

–Hữu lậu và vô lậu, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ tánh của tất cả pháp đều bình đẳng. Đối với lậu và vô lậu không có hai tưởng. Nếu không chấp vào hữu tưởng không chấp vào vô tưởng, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Tịnh Thắng Giải nói:

–Hữu vi và vô vi, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ tánh của hai pháp đều bình đẳng. Xa lìa các hành, giác tuệ như hư không. Trí tuệ thanh tịnh, không chấp lấy không xả bỏ, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Na-la-diên nói:

–Thế gian và xuất thế gian, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ bản tánh của thế gian là không tịch, không nhập, không xuất, không trôi, không tan, không mất, cũng không chấp trước. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Điều Thuận Tuệ nói:

–Sinh tử và Niết-bàn, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ tánh của sinh tử vốn là không, không có lưu chuyển, cũng không tịch diệt. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Hiện Kiến nói:

–Hữu tận và vô tận, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ hoàn toàn không có hữu tận và vô tận. Chủ yếu đạt rốt ráo tận mới gọi là tận. Nếu đạt rốt ráo tan thì không còn tận đó gọi là vô tận. Nghĩa là trong từng sát-na nhất định không có hữu tận tức là vô tận. Vì hữu tận không có nên vô tận cũng không có, biết rõ tánh của hữu tận và vô tận là không. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Phổ Mật nói:

–Hữu ngã và vô ngã, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ hữu ngã còn không thể thủ đắc huống chi vô ngã, thấy tánh ngã và vô ngã không có hai. Đó là ngộ nhập vao pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Lôi Thiên nói:

–Minh và vô minh, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ bản tánh của vô minh là minh. Minh và vô minh cả hai đều không thể thủ đắc, không thể tính lường, vượt qua sự tính lường, trong ấy hiện quán bình đẳng không có hai. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Hỷ Kiến nói:

–Sắc, thọ, tưởng, hành và thức với không, phân biệt là hai. Nếu biết tánh của thủ uẩn vốn là không. Sắc ấy là không, chứ chẳng phải sắc diệt mới là không. Cho đến thức uẩn cũng như vậy. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Quang Tràng nói:

–Bốn giới và không, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết bốn giới tức là tánh hư không. Tánh của bốn giới và không dù trước, giữa, sau đều không điên đảo nên tỏ ngộ đi vào các giới. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Diệu Tuệ nói:

–Nhãn – sắc, nhĩ – thanh, tỷ – hương, thiệt – vị, thân – xúc, ý – pháp, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ tánh của tất cả đều là không. Thấy tự tánh của nhãn đối với sắc không tham, không sân, không si. Như vậy cho đến thấy tự tánh của ý đối với pháp không tham, không sân, không si. Như vậy đều là không. Đã thấy như vậy rồi nên an trụ trong tịch tĩnh. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Vô Tận Tuệ nói:

–Tánh bố thí với hồi hướng Nhất thiết trí, phân biệt là hai. Như vậy, phân biệt tánh của giới, nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã và hồi hướng Nhất thiết trí đều là hai. Nếu hiểu rõ tánh bố thí tức là đã hồi hướng Nhất thiết trí. Tánh hồi hướng Nhất thiết trí ấy tức là bố thí. Như vậy, cho đến tự tánh của Bát-nhã tức là tánh hồi hướng Nhất thiết trí. Tánh hồi hướng Nhất thiết trí ấy tức là Bát-nhã. Nếu hiểu rõ một lý như vậy, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ- tên Thậm Thâm Giác nói:

–Không, Vô tướng và Vô nguyện, phân biệt là hai. Nếu các Bồtát biết rõ trong cái không ấy hoàn toàn không có tướng. Trong không tướng ấy cũng không có nguyện. Trong không nguyện này không có tâm, không có ý, không có thức để chuyển. Như vậy tức là một môn giải thoát, thâu gồm tất cả vào ba môn giải thoát. Nếu thông đạt như vậy, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Tịch Tĩnh Căn nói:

–Phật, Pháp, Tăng, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ tánh Phật là tánh Pháp – Pháp là tánh Tăng. Như thế, Tam bảo đều là tướng vô vi cùng đồng đẳng với hư không. Các pháp cũng như thế. Nếu thông đạt như vậy, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Vô Ngại Nhãn nói:

–Thân kiến với diệt thân kiến, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ thân kiến tức là diệt thân kiến. Biết rõ rốt ráo như vậy nên không khởi thân kiến. Đối với thân kiến và diệt thân kiến không có phân biệt, không phân biệt khác, chứng đắc tánh diệt rốt ráo của hai pháp ấy không nghi ngờ, không sợ hãi. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Thiện Điều Thuận nói:

–Ba loại luật nghi của thân, khẩu, ý, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ ba loại luật nghi ấy đều là tướng vô tác. Tướng ấy không có hai. Vì sao? Vì ba đạo nghiệp này đều là tướng vô tác. Tướng thân vô tác tức là tướng ngữ vô tác. Tướng ngữ vô tác tức là tướng ý vô tác. Tướng ý vô tác tức là tướng của tất cả pháp đều vô tướng. Nếu nhập vào tướng vô tạo tác, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Phước Điền nói:

–Hành tội, hành phước và hành bất động, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ hành tội, hành phước và hành bất động đều là tướng vô tác. Tướng ấy không có hai. Vì sao? Vì tánh tướng của hành phước, hành tội và hành bất động đều là không. Trong cái không ấy, không có sự khác nhau giữa ba hành tội, phước và bất động. Thông đạt rõ như vậy tức là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Hoa Nghiêm nói:

–Tất cả hai pháp do ngã mà phát sinh. Nếu các Bồ-tát biết thật tánh của ngã thì không khởi hai. Vì không phát khởi hai nên không phân biệt. Vì không phân biệt nên không có đối tượng để phân biệt.

Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Thắng Tạng nói:

–Tất cả hai pháp do có sở đắc mà phát sinh. Nếu các Bồ-tát biết rõ các pháp hoàn hoàn không sở đắc, không nắm bắt, không xả bỏ. Đã không nắm bắt không xả bỏ, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Nguyệt Thượng nói:

–Sáng và tối, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ thật tướng là không tối không sáng, tánh nó không có hai. Ví như Bí-sô nhập định diệt tận thì không có sáng không có tối. Tướng của tat cả các pháp cũng như vậy. Lãnh hội các pháp bình đẳng như thế, tức là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói:

–Thích Niết-bàn và chán sinh tử là hai. Nếu các Bồ-tát biết rõ Niết-bàn và sinh tử khong có gì thích hay chán thì không có hai. Vì sao? Vì nếu bị sinh tử trói buộc thì cầu giải thoát. Nếu hoàn toàn không còn sự trói buộc của sinh tử nữa thì cầu Niết-bàn giải thoát để làm gì? Thông đạt như vậy nên không con trói buộc không giải thoát, không thích Niết-bàn không chán sinh tử. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Châu Kế Vương nói:

–Chánh đạo và tà đạo, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát an trụ vào chánh đạo, hành tà đạo là hoàn toàn không hành. Vì không hành nên không có hai tướng chánh đạo và tà đạo. Vì trừ bỏ hai tướng nên không có hai giác. Nếu không có hai giác thì ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ-tát Đế Thật nói:

–Hư và thật, phân biệt là hai. Nếu các Bồ-tát quán tánh của thật đế còn không thấy thật làm sao thấy hư. Vì sao? Vì tánh này chẳng phải do Nhục nhãn thấy, chỉ có Tuệ nhãn mới thấy. Khi thấy như vậy, đối với tất cả pháp không thấy, không phải là không thấy. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Theo sự hiểu biết của mình, các vị Bồ-tát trong hội lần lượt phân biệt nói xong, đồng thời hỏi Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Thế nào là Bồ-tát ngộ nhập vào pháp môn bất nhị?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói với các Bồ-tát:

–Với những lời các vị đã nói, mặc dù đều hoàn hảo nhưng theo ý của tôi thì các vị nói như vậy vẫn gọi là hai. Nếu các Bồ-tát đối với các pháp không nói, không năng, không biểu hiện, không chỉ thị, lìa các hý luận, dứt hẳn sự phân biệt, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Khi ấy, Đại sĩ Diệu Cát Tường hỏi Bồ-tát Vô Cấu Xứng:

–Chúng tôi đã nói theo ý của mình rồi. Nhân giả hãy nói đi. Thế nào là Bồ-tát ngộ nhập vào pháp môn bất nhị?

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Cấu Xứng im lặng không nói.

Bồ-tát Diệu Cát Tường lên tiếng:

–Lành thay! Lành thay! Bồ-tát như vậy đúng là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị. Trong đó hoàn toàn không có những phân biệt về văn tự, ngôn ngữ.

Khi các Bồ-tát nói pháp này, trong chúng hội có năm ngàn Bồtát được ngộ nhập vào pháp môn bất nhị. Cùng một lúc, tất cả đều chứng nhập pháp Nhẫn vô sinh.

 

 

QUYỂN 5

Phẩm 10: PHẬT HƯƠNG ĐÀI

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử suy nghĩ: “Sắp đến giờ ăn, các Đại Bồ-tát này nói pháp chưa xong. Thanh văn chúng ta và các Bồ-tát sẽ thọ thực ở đâu?” Biết ý nghĩ của Tôn giả Xá-lợi Tử, Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Thưa Đại đức! Đức Như Lai dạy tám pháp giải thoát cho các vị Thanh văn, Tôn giả đã hieu rồi nên đừng vì tài thực mà làm nhiễm ô tâm mình, hãy lắng nghe chánh pháp. Nếu Tôn giả muốn ăn thì hãy đợi một chút sẽ có món ăn chưa từng có.

Nói xong, Bồ-tát Vô Cấu Xứng liền nhập vào định Vi diệu tịch, dùng thần thông thù thắng thị hiện làm cho các Bồ-tát, đại Thanh văn thấy cách cõi Phật này về phương trên, qua bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên Nhất thiết diệu hương, Phật ở cõi ấy hiệu Tối Thượng Hương Đài, hiện đang trụ trì an ổn. Trong cõi ấy có mùi thơm vi diệu bậc nhất, các mùi thơm nơi cõi trời, người, cõi Phật khác nơi khắp mười phương cũng không sánh bằng. Cây cối trong cõi ấy đều tỏa ra mùi thơm ngọt ngào xông ướp tất cả mọi chốn. Cõi ấy không có tên của hàng Nhị thừa, chỉ có mỗi chúng Đại Bồ-tát thanh tịnh và được nghe Đức Như Lai Tối thượng Hương Đài thuyết pháp. Nơi thế giới này, tất cả lầu đài, cung điện, nơi kinh hành, vườn cây, y phục đều do vô số những hương thơm vi diệu tạo thành. Mùi thơm mà Đức Thế Tôn và chúng Bồ-tát nơi cõi ấy ăn là vi diệu hơn hết, xông ướp khắp vô lượng cõi Phật trong mười phương.

Khi Đức Như Lai và các Bồ-tát ấy cùng ngồi thọ thực, có vị trời tên là Hương Nghiêm, đã phát tâm sâu rộng đối với pháp Đại thừa dâng cúng Đức Như Lai và các vị Bồ-tát nơi cõi ấy.

Bấy giờ, tất cả đại chúng ở đây đều thấy Đức Như Lai cùng các Bồ-tát ngồi thọ thực với những sự việc như vậy.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng hỏi tất cả các vị Bồ-tát:

–Thưa các vị, ai có thể đến đó xin lấy cơm thơm vi diệu?

Do diệu lực từ oai thần của Bồ-tát Diệu Cát Tường, các Bồ-tát đều im lặng.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng hỏi Đại sĩ Diệu Cát Tường:

–Vì sao Bồ-tát không gia hộ cho đại chúng này, để đến nỗi như vậy?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Này cư sĩ! Ông không nên khinh chê các vị Bồ-tát ở đây. Như Phật đã dạy: “Chớ khinh chê người chưa học.”

Khi ấy, ngay trên giường, Bồ-tát Vô Cấu Xứng bèn hóa hiện một vị Bồ-tát ở trước mặt đại chúng với thân vàng rực, tướng tốt trang nghiêm, ánh sáng oai đức che lấp cả đại chúng và nói với vị hóa Bồtát:

–Thiện nam! Ông nên đến phương trên cách cõi Phật này qua bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có cõi Phật tên Nhất thiết diệu hương, Phật ở cõi ấy hiệu Tối Thượng Hương Đài, đang cùng thọ thực với các Bồ-tát. Ông hãy đến đó, đảnh lễ nơi chân Phật và nói như vầy: “Phương dưới có Bồ-tát Vô Cấu Xứng, cúi đầu lạy nơi chân Ngài, gởi lời kính thăm Đức Thế Tôn có ít bệnh, ít phiền, đi đứng nhẹ nhàng, sức khỏe điều hòa và an lạc không? Nơi xa, tâm luôn hướng đến, đi nhiễu theo phía bên phải hơn trăm ngàn vòng, đảnh lễ nơi chân Thế Tôn và thưa xin được phần cơm thừa của Ngài để về cõi Kham nhẫn nơi phương dưới làm Phật sự, khiến cho các hữu tình ham dục lạc, tâm ý thấp kém sẽ ưa thích đại tuệ và cũng làm cho tiếng lành cùng vô lượng công đức của Như Lai bay tỏa khắp nơi.”

Tức thì, trước đại chúng, hóa Bồ-tát liền bay lên hư không, toàn thể đại chúng đều thấy. Với thần thông nhanh chóng chỉ trong chốc lát đã đến cõi Nhất thiết diệu hương, đảnh lễ nơi chân Phật Tối Thượng

Hương Đài và nói lại: “Phương dưới có Bồ-tát tên Vô Cấu Xứng, cúi đầu đảnh lễ nơi chân và kính thăm hỏi Thế Tôn có ít bệnh, ít phiền não, đi đứng nhẹ nhàng, khí lực điều hòa và an lạc không, nơi xa, tâm luôn hướng đến, đi nhiễu hơn trăm ngàn vòng, đảnh lễ nơi chân Ngài, thưa xin được phần cơm thừa của Thế Tôn để về cõi Kham nhẫn nơi phương dưới làm Phật sự, khiến cho các hữu tình ham dục lạc, tâm ý thấp kém sẽ ưa thích đại tuệ và cũng làm cho tiếng lành cùng vô lượng công đức của Như Lai được lan tỏa khắp nơi.”

Thấy hóa Bồ-tát này với tướng tốt trang nghiêm, ánh sáng oai đức vi diệu thù thắng, các Bồ-tát phương trên khen ngợi là chưa từng có: “Đại sĩ này từ đâu đến, coi Kham nhẫn ở đâu. Vì sao gọi là ham dục lạc, tâm ý thấp kém.” Họ liền hỏi Như Lai Tối Thượng Hương Đài: “Cúi xin Đức Thế Tôn hãy nói cho chúng con biết về sự việc này.”

Đức Phật nói: “Này các thiện nam! Cách cõi Phật này, về phương dưới, qua bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có cõi Phật tên Kham nhẫn, Phật nơi cõi ấy hiệu Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hiện đang trụ trì an ổn trong đời năm trược, giảng dạy chánh pháp cho các hữu tình ưa thích pháp thấp kém. Cõi ấy có Bồ-tát tên Vô Cấu Xứng đã an trụ vào pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Vì muốn khai thị pháp diệu cho các Bồ-tát, nên sai hóa Bồ-tát đến đây, xưng dương công đức danh hiệu của ta, khen ngợi các đức trang nghiêm ở cõi này để các Bồ-tát nơi đây tăng trưởng căn lành.”

Các Bồ-tát nơi cõi này đều nói: “Đức của vị ấy như thế nào mà hóa hiện đại thần thông, sức vô úy như vậy?”

Đức Phật Tối Thượng Hương Đài nói: “Này các thiện nam! Đại Bồ-tát ấy đã thành tựu pháp công đức lớn lao, thù thắng, trong một sát-na hóa hiện vô lượng, vô biên Bồ-tát. Ông ta sai các Bồ-tát này đi khắp tất cả cõi nước trong mười phương, thi hành Phật sự, để tạo lợi ích, an lạc cho vô lượng hữu tình.”

Thế rồi, Đức Như Lai Tối Thượng Hương Đài liền lấy bát tỏa mùi hương thơm đựng đầy cơm được ướp những mùi thơm, trao cho vị hóa Bồ-tát, lúc này có chín trăm vạn Đại Bồ-tát đồng lên tiếng xin Đức Phật Tối Thượng Hương Đài: “Chúng con muốn cùng với hóa Bồtát này đến cõi Kham nhẫn nơi phương dưới, chiêm ngưỡng Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ, cung kính, nghe chánh pháp, cũng để chiêm ngưỡng, kính lễ Bồ-tát Vô Cấu Xứng cùng các vị Bồ-tát ở đó. Cúi xin Thế Tôn gia hộ cho phép.”

Đức Phật Tối Thượng Hương Đài dạy: “Này các thiện nam! Nay

đã đúng lúc, các ông hãy đi đi. Các ông phải tự thâu giữ mùi thơm trên nơi thể mình, rồi vào cõi Kham nhẫn, đừng để các hữu tình của cõi ấy say đắm, buông lung. Các ông phải giấu sắc tướng của mình rồi vào cõi Kham nhẫn, đừng để các Bồ-tát nơi cõi ấy sinh xấu hổ. Đối với cõi Kham nhẫn, các ông đừng có dấy tưởng cho là thấp kém mà tạo chướng ngại cho mình. Vì sao? Này các thiện nam! Vì tất cả các quốc độ đều như hư không. Chư Phật, Thế Tôn vì muốn tạo mọi thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, theo sở thích của chúng mà thị hiện các cõi Phật, hoặc nhiễm, hoặc tịnh, tướng không nhất định, nhưng sự thật thì các cõi Phật đều thanh tịnh, không khác nhau.”

Bấy giờ, hóa Bồ-tát nhận bát cơm đầy cùng với chín trăm vạn Bồ-tát Tăng, nương oai thần của Đức Phật ở đây và diệu lực của Bồtát Vô Cấu Xứng, bỗng nhiên biến mất, trong chốc lát lặng lẽ hiện nơi nhà của Bồ-tát Vô Cấu Xứng ở cõi Kham nhẫn. Lúc này, Bồ-tát Vô Cấu Xứng bèn hóa hiện ra chín trăm vạn tòa Sư tử, trang nghiêm đẹp đẽ giống hệt như các tòa Sư tử ở trước. Các Bồ-tát đều đến ngồi. hóa Bồ-tát đem bát cơm đầy đưa cho Bồ-tát Vô Cấu Xứng. Bát cơm được ướp mùi thơm vi diệu, mùi thơm này bay tỏa khắp đại thành Quảng nghiêm và cả tam thiên đại thiên thế giới. Hết thảy các cõi đều tỏa ngát mùi thơm. Các Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ, Nhân phi nhân… trong đại thành Quảng nghiêm, ngửi mùi thơm này, khen ngợi là chưa từng có, ngạc nhiên vô cùng, thân tâm phấn chấn. Vua dòng Lychiêm-tỳ trong đại thành này tên Nguyệt Cái cùng tám vạn bốn ngàn họ Ly-chiêm-tỳ trang sức đẹp đẽ rồi đến nhà Bồ-tát Vô Cấu Xứng. Thấy trong nhà ấy số Bồ-tát rất đông, có các tòa Sư tử cao rộng đẹp đẽ, ai nấy đều rất vui mừng cho là chưa từng có, cùng lễ lạy các Bồtát và đại Thanh văn, rồi đứng lùi qua một bên.

Khi ấy, địa thần và hư không thần, chư Thiên cõi Dục và cõi Sắc ngửi hương thơm ấy rồi bèn cùng với quyến thuộc cả vô số trăm ngàn vạn người đều đi tới nhà Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói với Tôn giả Xá-lợi Tử cùng hàng đại Thanh văn:

–Tôn giải hãy ăn thức ăn cam lộ của Đức Như Lai đã cho, nó được xông ướp bằng tâm đại Bi. Vậy đừng đem tâm hành hạn hẹp, phần nhỏ mà ăn thứ cơm này. Nếu ăn như vậy thì nhất định không thể tiêu hóa.

Trong chúng có vị Thanh văn thấp kém nghĩ: “Cơm này rất ít, làm sao đủ cho cả đại chúng đông đảo như thế này.” Hóa Bồ-tát nói:

–Các vị đừng đem phước tuệ ít ỏi của mình mà so lường với vô lượng phước tuệ của Như Lai. Vì sao? Vì nước nơi bốn biển cả có thể bị cạn nhưng thức ăn thơm ngon ấy không bao giờ hết. Giả sử tất cả hữu tình trong vô lượng đại thiên thế giới cứ mỗi người mỗi vắt cơm, vắt cơm ấy sánh bằng núi Tu-di, vắt cơm lớn như vậy thì ăn trải qua một kiếp hoặc hơn trăm kiếp vẫn không hết. Vì sao? Vì thức ăn ấy do giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến vô tận sinh ra. Thức ăn hương thơm dư thừa này của Như Lai, dù vô lượng hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới ăn qua trăm ngàn kiếp cũng không bao giờ hết.

Thế rồi, cả đại chúng đều ăn thức ăn này và tất cả đều no đủ, nhưng thức ăn vẫn còn dư. Sau khi ăn cơm này xong, các Thanh văn, Bồ-tát, trời, người… tất cả chúng hội đều cảm thấy thân an lạc, ví như Bồ-tát ở thế giới Nhất thiết an trụ trang nghiêm. Sau khi được hưởng tất cả an lạc, những lỗ chân lông trên thân của các vị ấy đều tỏa ra mùi thơm giống như cây thơm ở thế giới Nhất thiết diệu hương luôn tỏa ra vô lượng mùi thơm vi diệu.

Lúc ấy, Bồ-tát Vô Cấu Xứng hỏi các Bồ-tát cõi Nhất thiết diệu hương:

–Các vị biết không? Đức Như Lai của các vị giảng nói pháp cho các Bồ-tát như thế nào?

Các Bồ-tát đều trả lời:

–Đức Như Lai nơi cõi chúng tôi không dùng lời chữ để giảng nói pháp mà chỉ dùng hương thơm làm cho các Bồ-tát đều được điều phục cả. Các Bồ-tát ở cõi chúng tôi đều ngồi bên cây hương thơm. Những cây hương thơm ấy đều tỏa ra những mùi thơm ngào ngạt. Nghe mùi thơm này, các Bồ-tát ấy đạt được định Nhất thiết đức trang nghiêm. Sau khi đạt được định này thì có đầy đủ tất cả công đức của Bồ-tát.

Các Bồ-tát đến từ phương trên hỏi Bồ-tát Vô Cấu Xứng:

–Như Lai Thích-ca Mâu-ni ở cõi này giảng pháp cho các hữu tình như thế nào?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Hữu tình nơi cõi này rất cứng cỏi, khó giáo hóa, nên Đức Như Lai ở đây phải dùng những lời giảng nói cứng rắn để điều phục, giáo hóa họ. Dùng những lời nói cứng rắn để điều phục, giáo hóa như thế nào? Nghĩa là giảng nói đây là cõi địa ngục, đây là cõi bàng sinh, đây là cõi ngạ quỷ, đây là chỗ tai nạn, đây là chỗ người căn bị thiếu, đây là hạnh ác của thân, là quả báo theo hạnh ác của thân; đây là hạnh ác của lời nói, là quả báo thuộc hạnh ác của lời nói; đây là hạnh ác thuộc về ý, là quả báo thuộc hạnh ác của ý; đây là sát sinh, là quả báo sát sinh; đây là trộm cắp, là quả báo của trộm cắp; đây là tà dâm, là quả báo của tà dâm; đây là lời nói hư dối, là quả báo của lời nói hư dối; đây là lời nói ly gián, là quả báo của lời nói ly gián; đây là lời nói thô ác, là quả báo của lời nói thô ác; đây là lời nói thêu dệt, là quả báo của lời nói thêu dệt; đây là tham dục, là quả báo của tham dục; đây là sân giận, là quả báo của sân giận; đây là tà kiến, là quả báo của tà kiến; đây là keo kiệt, là quả báo của keo kiệt; đây là phá giới, là quả báo của phá giới; đây là sân hận, là quả báo của sân han; đây là biếng nhác, là quả báo của biếng nhác; đây là loạn tâm, là quả báo của loạn tâm; đây là ngu si, là quả báo của ngu si; đây là chỗ thọ học, đây là chỗ vượt qua của sự học; đây là giữ giới, đây là phạm giớilà Du-già, đây là đoạn hẳn, là chẳng đoạn hẳn; đây là chướng ngại, đây chẳng phải là chướng ngại, đây là phạm tội, đây là xuất tội; đây là tạp nhiễm, đây là thanh tịnh; đây là chánh đạo, đây là tà đạo; đây la thiện, đây là ác; đây là thế gian, đây là xuất thế gian; đây là có tội, đây là không có tội; đây là hữu lậu, đây là vô lậu; đây là hữu vi, đây là vô vi; đây là công đức, đây là lỗi lầm; đây là có khổ, đây la không khổ; đây là có vui, đây là không vui; đây có thể nhàm chán, đây có thể ham thích; đây có thể vứt bỏ, đây có thể tu tập; đây là sinh tử, đây là Niết-bàn. Pháp có vô lượng môn như vậy, hữu tình nơi cõi này tâm cứng cỏi nên Như Lai ở đây nói những pháp môn như vậy khiến tâm họ an trụ để điều phục. Ví như voi ngựa hung hăng không thể điều phục được thì phải dùng biện pháp đánh đập đau đớn thấu xương tủy, sau chúng mới điều phuc. Cũng vậy, hữu tình ở đây cứng cỏi khó giáo hóa, Đức Như Lai dùng phương tiện bằng những lời nói cay đắng đau đớn như vậy để ân cần dẫn dắt rồi sau điều phục họ nhập vào chánh pháp.

Sau khi nghe nói vậy, các Bồ-tát đến từ phương trên đều vui mừng cho là chưa từng có và cùng nói:

–Thật kỳ diệu thay! Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni luôn làm việc khó làm, ẩn giấu vô lượng công đức tôn quý nên thị hiện những phương tiện điều phục như vậy. Vì tạo mọi thành thục cho những hữu tình bần cùng, thấp kém nên dùng những phương pháp điều phục để làm lợi ích. Các Bồ-tát ở cõi này cũng chịu khổ, đủ những lao nhọc, thành tựu tâm đại Bi tinh tấn thù thắng, hy hữu, kiên cố không thể nghĩ bàn, trợ giúp để xiển dương chánh pháp vô thượng của Như Lai, đem lại lợi lạc cho hữu tình khó giáo hóa.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Đúng vậy! Đúng như lời Đại sĩ đã nói! Như Lai Thích-ca hay làm những việc khó làm, ẩn giấu vô lượng công đức tôn quý, không sợ lao nhọc, dùng phương tiện để điều phục những hữu tình cứng cỏi khó hóa độ như vậy. Các Bồ-tát sinh nơi cõi Phật này cũng kham chịu những lao nhọc, thành tựu tâm đại Bi tinh tấn tối thắng, kiên cố không thể nghĩ bàn, trợ giúp xiển dương chánh pháp vô thượng của Như Lai, tạo lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Đại sĩ nên biết! Bồ-tát nơi cõi Kham nhẫn này hành hạnh Bồ-tát, tạo lợi ích cho hữu tình được công đức trong một đời nhiều hơn công đức của Bồ-tát ở thế giới Nhất thiết diệu hương hành hạnh Bồ-tát, tạo lợi ích cho các hữu tình trong trăm ngàn đại kiếp. Vì sao? Vì cõi Kham nhẫn có mười điều tu tập pháp thiện mà các thế giới Phật thanh tịnh khác trong mười phương không có. Những gì là mười?

  1. Lấy Bố thí để hộ trì người nghèo khổ.
  2. Đem Tịnh giới để hộ trì người phá giới cấm.
  3. Lấy Nhẫn nhục để hộ trì các san giận.
  4. Lấy Tinh tấn để hộ trì người biếng nhác.
  5. Lấy Tĩnh lự để hộ trì người loạn tâm.
  6. Lấy Thắng tuệ để hộ trì người ngu si.
  7. Nói pháp trừ tám nạn để hộ trì tất cả hữu tình bị tám nạn.
  8. Giảng nói chánh pháp Đại thừa, hộ trì tất cả những ai thích pháp nhỏ.
  9. Đem những căn lành thù thắng hộ trì những người chưa có những căn lành.
  10. Lấy bốn Nhiếp pháp vô thượng luôn tạo mọi thành thục cho tất cả hữu tình.

Đó là mười điều để tu tap pháp thiện, chỉ cõi Kham nhẫn này mới có đầy đủ, còn những cõi Phật thanh tịnh khác trong mười phương thì không có.

Khi ấy, các Bồ-tát ở cõi Nhất thiết diệu hương nói:

–Các Bồ-tát ở cõi Kham nhẫn này thành tựu bao nhiêu pháp để không bị thương tổn, sau khi ở cõi này qua đời lại sinh vào cõi thanh tịnh khác?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Các Bồ-tát ở cõi Kham nhẫn này thành tựu tám pháp nên không bị thương tổn, sau khi ở đây qua đời được sinh vào cõi thanh tịnh khác. Những gì là tám?

  1. Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Đối với hữu tình, ta nên làm những việc thiện mà không nên trông mong quả báo thiện.
  2. Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Ta nên thay thế chịu những khổ não cho tất cả hữu tình. Ta được những căn lành nào đều đem cho họ.
  3. Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Với tất cả hữu tình, ta nên có tâm bình đẳng, tâm không sợ sệt.
  4. Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Ta nên bẻ gãy tâm kiêu mạn của các hữu tình để có sự kính ái như Phật.
  5. Bồ-tát có tâm tin hiểu tăng thượng với những kinh điển sâu xa chưa từng nghe, vừa được nghe thì không nghi ngờ, không hủy báng.
  6. Bồ-tát không ganh tỵ khi thấy người khác có lợi dưỡng. Còn mình có lợi dưỡng thì không kiêu mạn.
  7. Bồ-tát điều phục tâm mình, luôn xét lỗi của mình, không gièm chê lỗi người.
  8. Bồ-tát không hề phóng dật, thích tìm cầu các pháp thiện, tinh tấn tu hành pháp phần Bồ-đề.

Các Bồ-tát ở cõi Kham nhẫn này nếu thành tựu đầy đủ tám pháp trên thì không bị tổn thương, sau khi ở đây qua đời sinh vào cõi thanh tịnh khác.

Khi Bồ-tát Vô Cấu Xứng cùng với Bồ-tát Diệu Cát Tường, các vị Bồ-tát khác ở trong đại chúng giảng nói vô số pháp vi diệu, có trăm ngàn chúng sinh cùng phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng giác Vô thượng, mười ngàn Bồ-tát chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh.

 

Phẩm 11: BỒ-TÁT HẠNH

Bấy giờ, Đức Phật vẫn còn đang giảng pháp cho đại chúng ở rừng Yêm-la-vệ, ngay chỗ chúng hội bỗng nhiên rực rỡ, rộng lớn, sạch đẹp. Tất cả đại chúng đều hiện màu vàng rực.

Tôn giả A-nan-đà liền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đây là tướng báo trước điều gì, làm cho trong chỗ của chúng hội bỗng nhiên rực rỡ, rộng lớn, sạch đẹp như vậy và đại chúng đều hiện màu vàng rực?

Đức Phật bảo Cụ thọ A-nan-đà:

–Đó là Bồ-tát Diệu Cát Tường và Bồ-tát Vô Cấu Xứng cùng đại chúng cung kính, vây quanh muốn đến chúng hội này nên hiện tướng trước như thế.

Khi ấy, Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói với Đại sĩ Diệu Cát Tường:

–Chúng ta nên cùng các Đại sĩ đến đảnh lễ cúng dường chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn và nghe pháp diệu.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Đã đến lúc chúng ta cùng đi thôi.

Thế thì Bồ-tát Vô Cấu Xứng hiện sức thần thông khiến các đại chúng vẫn ngồi trên tòa Sư tử rồi đặt trong long bàn tay phải của mình để đi đến chỗ Phật. Sau khi đặt xuống đất rồi, tất cả đều cung kính đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn, đi nhiễu theo phía bên phải bảy vòng rồi lui ra đứng một bên, chắp tay hướng về Phật.

Các Đại Bồ-tát rời khỏi tòa Sư tử cung kính đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn, đi nhiễu theo phía bên phải ba vòng rồi đứng lui qua một bên, chắp tay hướng về Phật.

Các đại Thanh văn, Thích, Phạm, Tứ Thiên vương Hộ thế… cũng rời khỏi tòa cung kính đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn rồi lùi qua một bên, đứng chắp tay hướng về Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn như pháp ân cần hỏi thăm các Đại Bồ-tát cùng tất cả đại chúng:

–Các Đại sĩ! Các ông hãy về lại tòa của mình.

Theo lời dạy của Đức Phật, các Bồ-tát đều trở về chỗ của mình và an tọa.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Ông có thấy việc thể hiện thần lực tự tại của Bồ-tát Đại sĩ tối thắng ấy không?

Tôn giả Xá-lợi Tử thưa:

–Thưa vâng, con đã thấy.

Thế Tôn lại hỏi:

–Ông có ý tưởng gì?

Tôn giả Xá-lợi Tử thưa:

–Có ý tưởng là khó nghĩ bàn. Con thấy Đại sĩ ấy với tác dụng nơi công đức của thần lực thì thật la bất khả tư nghì, không thể tính toán, không thể suy nghĩ, không thể nêu xưng, không thể ngợi khen hết được.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan-đà thưa:

–Bạch Thế Tôn! Mùi hương thơm con ngửi được từ xưa đến nay chưa từng có, ấy là mui thơm gì?

Phật nói:

–Này Tôn giả A-nan-đà! Mùi thơm đó từ lỗ chân lông của các Bồ-tát tỏa ra.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói với Tôn giả A-nan-đà:

–Lỗ chân lông của chúng tôi cũng tỏa ra mùi thơm ấy.

Tôn giả A-nan-đà hỏi:

–Vì sao thân của quý thầy có mùi thơm?

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Đó là do Bồ-tát Vô Cấu Xứng dùng thần lực tự tại sai hóa Bồtát đến cõi Phật của Như Lai Tối Thượng Hương Đài ở phương trên, xin thức ăn dư thừa cua Đức Phật ấy, về cúng dường đại chúng vừa rồi. Ai ăn thứ cơm đó thì tất cả nơi lỗ chân lông đều tỏa ra mùi thơm.

Tôn giả A-nan-đà hỏi Bồ-tát Vô Cấu Xứng:

–Hương thơm ấy tồn tại bao lâu?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Thức ăn chưa tiêu hết thì hương thơm ấy vẫn còn.

Tôn giả A-nan-đà hỏi:

–Như vậy thức ăn ấy bao lâu mới tiêu?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Thức ăn này phân tán trong thân bảy ngày bảy đêm sau đó mới tiêu dần dần. Mặc dù nó tiêu lâu nhưng không gây bệnh hoạn.

Tôn giả nên biết! Hàng Thanh văn thừa chưa nhập vị Chánh tánh ly sinh, nếu ăn thức ăn này thì đến khi nhập vị Chánh tánh ly sinh rồi, sau đấy mới tiêu. Nếu người chưa lìa dục mà ăn thức ăn này thì khi đạt lìa dục, sau đó mới tiêu. Người chưa giải thoát, nếu ăn thức ăn này, tâm giải thoát rồi sau đó mới tiêu. Những vị có chủng tánh Đại thừa Bồ-tát, chưa phát tâm Bồ-đề vô thượng, nếu ăn thức ăn này thì sau khi phát tâm mới tiêu. Ai đã phát tâm Bồ-đề, nếu ăn thức ăn này thì khi chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, sau đó mới tiêu. Ai đã chứng pháp Nhẫn vô sinh, nếu ăn thức ăn này thì khi an trụ nơi quả vị Bất thoái chuyển, sau đó mới tiêu. Ai đã an trụ vào quả vị Bất thoái chuyển rồi, nếu ăn thức ăn này thì lúc an trụ nơi quả vị Nhất sinh sở hệ (Nhất sinh bổ xứ) sau đó mới tiêu.

Tôn giả nên biết! Ví như ở thế gian có thuốc đại dược vương tên là Tối thượng vị, nếu chúng sinh bị độc nơi toàn thân thì lấy cho họ uống, cho đến các chất độc ấy chưa tiêu hết thì đại dược vương đó chưa tiêu, khi nào chất độc hết hẳn, sau đó thuốc mơi tiêu. Ai ăn thức ăn này cũng vậy, nếu tất cả chất độc phiền não chưa diệt trừ thì thức ăn vẫn không tiêu. Sau khi diệt trừ phiền não rồi thì thức ăn mới tiêu.

Tôn giả A-nan-đà nói:

–Đại sĩ được thức ăn thơm chẳng thể nghĩ bàn như vậy, có thể vì chúng sinh mà làm các Phật sự.

Đức Phật nói:

–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông vừa nói. Bồ-tát Vô Cấu Xứng này được thức ăn thơm chẳng thể nghĩ bàn, có thể vì chúng sinh mà làm các Phật sự.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan-đà:

–Như Bồ-tát Vô Cấu Xứng được thức ăn thơm, vì chúng sinh mà làm các Phật sự. Nơi mười phương cõi, hoặc có cõi Phật khác dùng ánh sáng để làm Phật sự. Có cõi Phật dùng cây Bồ-đề để làm Phật sự. Có cõi Phật dùng Bồ-tát làm Phật sự. Có cõi Phật dùng việc thấy tướng tốt đẹp nơi sắc thân Như Lai mà làm các Phật sự. Có cõi Phật dùng những hóa nhân để làm Phật sự. Có cõi Phật dùng những y phục để làm Phật sự. Có cõi Phật dùng các ngọa cụ để làm Phật sự. Có cõi Phật dùng những thức ăn uống để làm Phật sự. Có cõi Phật dùng vườn cây để làm Phật sự. Có cõi Phật dùng lầu đài để làm Phật sự. Có cõi Phật dùng hư không để làm Phật sự. Vì sao? Vì các hữu tình nhân nơi các phương tiện ấy mà được điều phục hóa độ. Hoặc có cõi Phật vì các hữu tình dùng những văn tự để giảng nói ví dụ như huyễn, như mộng, trăng trong nước, tiếng vang vọng lại, dợn nắng, bóng trong gương, mây nổi, thành Kiền-đạt-phược, lưới Đế Thích… mà làm Phật sự. Có cõi Phật dùng âm thanh ngôn ngữ, văn tự giảng nói về tánh tướng của các pháp để làm Phật sự. Hoặc có cõi Phật thanh tịnh tĩnh nhiên không nói không năng, không chê không khen, không có chỗ tìm cầu, không hý luận, không hiển thị. Hữu tình được hóa hiện nhân đấy mà tịch tĩnh, tự nhiên chứng nhập vào tánh tướng của các pháp để thực hành Phật sự.

Như vậy, Tôn giả nên biết! Cõi Phật nơi mười phương thế giới nhiều vô biên, Phật sự đã làm cũng vô lượng, vô biên. Nói tóm lại, tất cả các oai nghi tiến dừng, mọi thọ dụng, thi hanh đều là hóa hiện để điều phục hữu tình. Cho nên tất cả là Phật sự.

Lại nữa, tất cả bốn thứ ma, tám vạn bốn ngàn phiền não ở thế gian luôn gây não hại cho hữu tình. Chư Như Lai luôn vận dụng pháp này vì các chúng sinh mà làm Phật sự. Pháp môn như thế gọi là ngộ nhập vào tất cả pháp Phật.

Nếu các Bồ-tát hội nhập vào pháp môn này, thì dù thấy tất cả

cõi Phật đã thành tựu vô lượng công đức nghiêm tịnh rộng lớn, nhưng không vui thích; dù thấy tất cả cõi Phật không có công đức, cấu uế, cũng không sinh buồn giận. Đối với chư Phật đã phát sinh tâm tin thượng phẩm, thì luôn cung kính, khen ngợi là chưa từng có, dù tất cả công đức của chư Phật đều bình đẳng viên mãn, vì đạt được tánh của tất cả pháp là hoàn toàn bình đẳng chân thật. Vì muốn tạo mọi thành tựu đầy đủ cho những hữu tình khác nhau mà thị hiện những cõi Phật khác nhau.

Các vị nên biết! Như các cõi Phật mặc dù đất đai có tốt xấu khác nhau, nhưng trên hư không thì hoàn toàn như nhau. Như vậy, nên biết chư Phật Thế Tôn vì muốn tạo mọi thành tựu đầy đủ cho các hữu tình mà thị hiện những sắc thân khác nhau, nhưng không bị chướng ngại và phước đức trí tuệ rốt ráo viên mãn thì hoàn toàn giống nhau.

Các vị nên biết! Tất cả Như Lai đều bình đẳng, đó là oai quang nơi sắc thân tối thượng, tròn đầy, vô tận, các tướng tốt, vẻ đẹp, chủng tộc tôn quý, thanh tịnh, các thứ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, các lực, vô úy, pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, lợi ích an lạc, oai nghi, việc làm, chánh hạnh, thọ mạng, giảng pháp, độ thoát, tạo mọi thành thục các hữu tình, làm thanh tịnh cõi Phật, tất cả đều bình đẳng, viên mãn tối thượng, rốt ráo vô cùng tận. Cho nên chư vị đều đồng gọi là Chánh đẳng giác, gọi là Như Lai, gọi là Phật-đà.

Tôn giả nên biết! Giả sử Như Lai muốn phân biệt giảng rộng về nghĩa ba câu ấy, dù trải qua một kiếp ông nghe không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình cũng không thể hiểu hết được. Giả sử hữu tình trong tam thiên đại thiên thế gian đều như Tôn giả A-nan-đà đạt được niệm Tổng trì, Đa văn bậc nhất, trải qua một kiếp nghe không gián đoạn cho đến trọn tuổi thọ, cũng không thể lãnh hội hết được. Nghĩa vi diệu của ba câu Chánh đẳng giác, Như Lai và Phật-đà ấy không thể nào giảng nói cặn kẽ, rốt ráo được, chỉ trừ chư Như Lai. Như vậy nên biết, Bồ-đề của chư Phật với công đức vô lượng, biện tài không ngưng trệ, là không thể nghĩ bàn.

Sau khi Đức Phật dạy như vậy, Tôn giả A-nan-đà thưa:

–Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau con không dám tự xưng mình đã đạt niệm Tổng trì, Đa văn bậc nhất nữa.

Đức Phật nói:

–Tôn giả không nên có ý nghĩ thoái chuyển như vậy. Vì sao? Vì từ xưa đến nay Như Lai chỉ nói Tôn giả là người đạt được Tổng trì, Đa văn bậc nhất trong chúng Thanh văn chứ không nói trong hàng Bồ-tát. Tôn giả đừng nói nữa. Nếu người có trí thì không nên so lường việc làm của Bồ-tát. Tôn giả nên biet! Đáy biển cả sâu thẳm còn có thể lường được, còn biển cả trí tuệ, niệm, định, Tổng trì, biện tài của Bồtát thì không ai có thể lường nổi.

Thanh văn các ông hãy gác những việc làm thuộc cảnh giới của Bồ-tát qua một bên, không nên suy nghĩ nữa. Trong khoảng chừng một bữa ăn, Bồ-tát Vô Cấu Xứng đã thị hiện thần thông biến hóa như vậy, còn tất cả Thanh văn và các Độc giác, trải qua trăm ngàn đại kiếp dù tận lực thị hiện thần thong biến hóa cũng không bằng.

Bấy giờ, các Bồ-tát đến từ phương trên đều lễ lạy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, chắp tay cung kính thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con mới đến thấy những sự việc ở cõi Phật này liền có ý tưởng cho là thấp kém. Bây giờ, chúng con thấy hối hận và đã trừ bỏ tâm ấy rồi. Vì sao? Vì cảnh giới của chư Phật có phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn, vì muốn tạo mọi thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, nên theo sở thích khác nhau của chúng mà thị hiện các cõi Phật như vậy, như vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn ban bố cho chúng con chút pháp để khi trở về thế giới Nhất thiết diệu hương, nhờ pháp ấy chúng con luôn nhớ Đức Như Lai.

Sau khi các Bồ-tát ấy nói vậy, Đức Thế Tôn dạy:

–Này các thiện nam! Có pháp môn giải thoát của Bồ-tát gọi là Hữu tận vô tận. Các ông nên cung kính lãnh thọ siêng năng tu học. Sao gọi là hữu tận vô tận? Hữu tận tức là pháp hữu vi có sinh diệt. Vô tận tức là pháp vô vi không sinh diệt. Bồ-tát không nên dứt bỏ hữu vi cũng không nên trụ vào vô vi. Vì sao Bồ-tát không dứt tận hữu vi? Vì các Bồ-tát không rời bỏ đại Từ, đại Bi, đại Xả, luôn phát tâm tăng thượng ý lạc; tôn trọng giữ chặt tâm niệm vào Nhất thiết trí không bao giờ quên mất; làm thành tựu đầy đủ cho các hữu tình không biết chán bỏ; không lìa bỏ bốn Nhiếp pháp, giữ gìn chánh pháp không tiếc thân mạng; tu tập các pháp thiện không bao giờ biết đủ; thích an lập vào những phương tiện hồi hướng; tìm cầu chánh pháp không hề mệt mỏi; giảng giải giáo pháp không che giấu; luôn thích chiêm ngưỡng, cúng dường, phụng thờ chư Phật; vào trong sinh tử mà không sợ sệt, mặc dù gặp thịnh suy nhưng không vui buồn; không bao giờ khinh khi những vị chưa học; với những người đã tu học thì kính trọng như Phật; đối với phiền não xen tạp nên suy nghĩ đúng lý; không đắm nhiễm với các vui xa lìa; không tham chấp vào những sự vui của mình; thâm tâm tùy hỷ với sự vui của người; tu tập được tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí như tưởng về địa ngục, không vướng chấp vào đó, dạo qua sinh tử tưởng như vườn hoa không nhàm chán; với người đi xin tưởng như bạn lành; đem cho tất cả các thứ sở hữu không tiếc nuối; có tưởng hồi hướng lên trí Nhất thiết trí; với những người phạm giới cấm có tưởng cứu hộ; với các pháp Ba-la-mật-đa có tưởng như cha mẹ mau làm cho viên mãn; với pháp phần Bồ-đề có tưởng như người hầu cận khiến đạt cứu cánh; với các pháp thiện luôn luôn siêng năng tu tập; thích trang nghiêm cõi Phật; thích khen ngợi cõi Phật khác; thích mau thành tựu cõi Phật của mình; mau thành tựu các tướng trang nghiêm tốt đẹp, viên mãn, do tu hành thanh tịnh là đại thí chủ vô ngại; được thân khẩu ý nghiêm sức do xa lìa tất cả những pháp ác, phạm giới; thân tâm được thử thách chịu đựng, do xa lìa tất cả phiền não sân hận; tu hành mau được cứu cánh do đã trải qua vô số kiếp sinh tử; tâm mình dũng mãnh, vững chắc do nghe vô lượng công đức của Phật không mệt mỏi; muốn diệt trừ tận gốc phiền não oán địch, thì dùng phương tiện tu sửa bằng kiếm Bát-nhã; muốn gánh vác gánh nặng cho các hữu tình do biết rõ về uẩn giới xứ; muốn chiến thắng tất cả quân ma do tinh tấn mạnh mẽ không biếng nhác; muốn hộ trì chánh pháp vô thượng do lìa ngã mạn, siêng năng cầu trí tuệ giáo hóa thiện xảo; được thế gian tôn trọng kính mến vâng lời do luôn thích hành ít muốn biết đủ; với pháp the gian không tạp nhiễm, tùy thuận với tất cả oai nghi không hủy hoại mà còn thị hiện hết thảy việc làm, phát sinh những thần thông diệu tuệ, làm lợi ích an lạc tất cả hữu tình; thọ trì hết thảy chánh pháp đã được nghe; có diệu trí nơi chánh niệm, Tổng trì; phát sinh diệu trí biết các căn hơn kém mà đoạn tất cả nghi ngờ của hữu tình để chứng đắc biện tài vô ngại; giảng giải chánh pháp không bao giờ ngưng trệ; được thọ hưởng hỷ lạc thù thắng nơi trời, người do siêng năng tu tập thanh tịnh mười đạo nghiệp thiện; khai mở con đường Phạm thiên do tinh tấn tu hành bốn trí vô lượng; được âm thanh thượng diệu của Phật do siêng năng cầu thỉnh giảng pháp rồi tùy hỷ khen ngợi; được oai nghi thượng diệu của Phật do thường tu ba nghiệp tịch tĩnh thù thắng; tu hành trong mỗi niệm được tăng trưởng tốt do tâm không đắm nhiễm vào tất cả pháp; khéo điều phục chư Bồ-tát Tăng do thường đem giáo lý Đại thừa khuyến khích chúng sinh tu học; không làm mất tất cả công đức do không bao giờ buông lung; các căn lành lần lượt tăng trưởng do thích tu hành các đại nguyện; muốn trang nghiêm tất cả cõi Phật do luôn siêng năng tu tập căn lành rộng lớn; sự tu hành được rốt ráo vô tận do thường tu tập theo phương tiện thiện xảo, hồi hướng.

Này các thiện nam! Tu hành pháp như vậy gọi là Bồ-tát không tận hữu vi.

Thế nào là Bồ-tát không trụ vô vi? Nghĩa là mặc dù Bồ-tát hành Không nhưng với cái không ấy lại không thích tác chứng. Mặc dù hành Vô tướng nhưng với vô tướng lại không thích tác chứng. Mặc dù hành Vô nguyện nhưng với vô nguyện lại không thích tác chứng. Mặc dù hành vô tác nhưng đối với vô tác lại không thích tác chứng. Mặc dù quán chư hành đều là vô thường nhưng tâm không nhàm chán căn lành. Mặc dù quán thế gian tất cả đều là khổ nhưng vẫn cố ý thọ sinh trong sinh tử. Mặc dù thích quán sát bên trong không có ngã nhưng hoàn toàn không xả bỏ chán thân mình. Mặc dù thích quán bên ngoài không có hữu tình, nhưng luôn giáo hóa, chỉ dạy tâm không hề mệt mỏi. Mặc dù quán Niết-bàn rốt ráo tịch tĩnh nhưng hoàn toàn không rơi vào tịch diệt. Mặc dù quán nẻo xa lìa hoàn toàn an lạc nhưng đều không nhàm chán thân tâm. Mặc dù thích quán sát không có A-lại-da nhưng không hề rời bỏ pháp tạng thanh bạch. Mặc dù quán sát các pháp hoàn toàn vô sinh nhưng luôn gánh vác, tạo lợi ích cho các chúng sinh. Mặc dù quán vô lậu nhưng lại thọ nhận luân hồi không dứt trong sinh tử. Mặc dù quán vô hành nhưng luôn thực hành, làm thành thục cho các hữu tình. Mặc dù quán vô ngã nhưng đối với hữu tình không bỏ tâm đại Bi. Mặc dù quán vô sinh nhưng đối với hàng Nhị thừa không rơi vào chánh vị. Mặc dù quán các pháp là không tịch, rốt ráo nhưng chẳng hề không tịch nơi phần phước đức đã tu. Mặc dù quán các pháp đều là viễn ly nhưng không xa lìa trí tuệ đã tu được. Mặc dù quán các pháp hoàn toàn không thật nhưng luôn an trụ vào tư duy viên mãn. Mặc dù quán các pháp hoàn toàn không có chủ nhưng luôn siêng năng cầu trí tự nhiên. Mặc dù quán các pháp không có biểu tướng nhưng đối với chỗ nghĩa hiện rõ thì an lập vào hạt giống của Phật.

Này các thiện nam! Tu hành pháp này gọi là Bo-tát không trụ vào vô vi.

Này thiện nam! Các Bồ-tát vì luôn siêng năng tu tập hành trang về phước nên không trụ vô vi; vì siêng năng tu tập hành trang về trí nên không tận hữu vi; vì thành tựu đại Từ không giảm sút nen không trụ vô vi; vì thành tựu đại Bi không giảm sút nên không tận hữu vi; vì làm lợi ích an lạc cho hữu tình nên không trụ vô vi; làm cứu cánh viên mãn các pháp Phật nên không tận hữu vi; làm thành tựu viên mãn sắc thân Phật trang nghiêm với tất cả tướng tốt đẹp nên không trụ vô vi; vì chứng đắc thân trí Phật, tất cả Lực, Vô úy… nên không tận hữu vi; dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa chúng sinh nên không trụ vô vi; vì dùng trí tuệ vi diệu quán sát hoàn hảo nên không tận hữu vi; vì tu sửa cõi Phật rốt ráo viên mãn nên không trụ vô vi; vì Phật thân an trụ vào thường vô tận nên không tận hữu vi; luôn tạo lợi ích cho chúng sinh nên không tru vô vi; vì lãnh thọ pháp nghĩa không phế bỏ nên không tận hữu vi; vì tích chứa căn lành vô tận nên không trụ vô vi; giữ gìn căn lành không đoạn mất nên không tận hữu vi; vì muốn thành tựu viên mãn sở nguyện từ xưa nên không trụ vô vi; đối với tịch diệt vĩnh viễn không mong cầu nên không tận hữu vi; làm viên mãn ý lạc thiện thanh tịnh nên không trụ vô vi; làm tăng trưởng ý lạc thiện thanh tịnh nên không tận hữu vi; vì luôn luôn tự tại nơi năm Thần thông nên không trụ vô vi; vì nhằm đạt tới Phật trí với sáu Thông khéo viên mãn nên không tận hữu vi; hành trang về Ba-la-mật-đa viên mãn nên không trụ vô vi; những suy nghĩ trước đây chưa viên mãn nên không tận hữu vi; cất chứa pháp bảo không nhàm chán nên không trụ vô vi; không thích mong cầu pháp nhỏ nên không tận hữu vi; giữ vững lời nguyện không thoái lui nên không trụ vô vi; có thể làm cho thệ nguyện đạt cứu cánh viên mãn nên không tận hữu vi; tích trữ tất cả diệu pháp nên không trụ vô vi; tùy theo người đáng trao pháp nên không tận hữu vi; biết rõ bệnh phiền não của chúng sinh nên không trụ vô vi; diệt trừ mọi bệnh phiền não của chúng sinh nên không tận hữu vi.

Này các thiện nam! Bồ-tát không tận hữu vi, không trụ vô vi như vậy gọi là an trụ vào pháp môn giải thoát Hữu tận vô tận. Các ông nên tinh tấn tu hành.

Bấy giờ, các Bồ-tát ở cõi Phật của Như Lai Tối Thượng Hương Đài thuộc thế giới Nhất thiết diệu hương nghe giảng nói pháp môn giải thoát Hữu tận vô tận rồi, tức giáo pháp được khai mở, tâm họ phấn khởi, ai nấy đều rất vui mừng khôn xiết, bèn đem vô lượng các hương hoa thượng diệu và những vật trang nghiêm để cúng dường Đức Thế Tôn và các Bồ-tát cùng pháp môn giải thoát Hữu tận vô tận đã nói. Lại đem nhiều hương hoa thượng diệu rải khắp tam thiên đại thiên thế giới, hương hoa ấy che lấp mặt đất tới đầu gối.

Khi ấy, các Bồ-tát cung kính đảnh lễ nơi chân Đức Thế Tôn, đi nhiễu theo phía bên phải ba vòng, khen ngợi ca tụng Như Lai Thích-ca Mâu-ni, các Bồ-tát và pháp đã được giảng nói. Thế rồi các vị Bồ-tát ở cõi Diệu hương bỗng nhiên biến mất, trong chốc lát đã trở về cảnh giới của mình.

 

QUYỂN 6

Phẩm 12: QUÁN NHƯ LAI

Bấy giờ, Đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Vô Cấu Xứng:

–Này thiện nam! Trước đây vì muốn thấy thân tướng của Như Lai nên ông đến chúng hội này. Ông thấy Như Lai như thế nào?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Con quán Như Lai hoàn toàn không có chỗ thấy. Con quán như vậy. Vì sao? Vì con quán Như Lai trước không đến, sau không đi, hiện tại không trụ. Vì sao? Vì bảo con quán tánh chân như của sắc nơi Như Lai, tánh ấy chẳng phải tánh chân như của sắc thọ, tánh ấy chẳng phải tánh chân như của thọ tưởng, tanh ấy chẳng phải tánh chân như của tưởng hành, tánh ấy chẳng phải tánh chân như của hành thức, tánh ấy chẳng phải thức, không trụ trong bốn giới, đồng với hư không giới, chẳng phải do sáu xứ sinh khởi, vượt qua sáu căn, không bị tạp nhiễm trong ba cõi, xa lìa ba cấu, thuận với ba giải thoát, đạt đến ba Minh, chẳng phải minh mà lại minh, chẳng phải thông đạt nhưng lại thông đạt tất cả pháp không bị chướng ngại, thật tế chẳng phải tế, chan như chẳng phải như, đối với cảnh của chân như thường không chỗ trụ, đối với trí của chân như luôn không thuận với chỗ sáng, tánh của trí và cảnh của chân như đều lìa cả hai; chẳng phải do nhân sinh ra, chẳng phải do duyên khởi; chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; chẳng phải tự tướng, chẳng phải tha tướng; chẳng phải một tướng, chẳng phải tướng khác; chẳng phải tướng của đối tượng, chẳng phải lìa tướng ấy, chẳng phải đồng với tướng ấy, chẳng phải khác với tướng ấy; chẳng phải tướng của chủ thể, chẳng phải lìa tướng ấy, chẳng phải đồng với tướng ấy, chẳng phải khác với tướng ấy; chẳng phải bờ bên này, chẳng phải bờ bên kia, chẳng phải giưa dòng; chẳng phải ở đây, chẳng phải ở kia, chẳng phải ở chặng giữa; chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải cả hai; chẳng phải đã đi, chẳng phải sẽ đi, chẳng phải đang đi; chẳng phải đã đến, chẳng phải sẽ đến, chẳng phải đang đến; chẳng phải trí, chẳng phải cảnh; chẳng phải chủ thể nhận thức, chẳng phải đối tượng được nhận thức; chẳng phải ẩn, chẳng phải hiển; chẳng tối, chẳng sáng; chẳng đứng, chẳng đi; không danh, không tướng; không mạnh, không yếu; không trụ một nơi, không lìa một nơi; chẳng tạp nhiễm, chẳng thanh tịnh; chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi; chẳng tịch diệt, chẳng phải không tịch diệt; không có việc nhỏ nào để hiển bày, không có nghĩa nhỏ nào để nói; không bố thí, không xan tham; không giữ giới, không phạm giới; không nhẫn nhục, không sân giận; không siêng năng, không biếng nhác; không định tâm, không tán loạn; không trí tuệ, không ngu si; khong nhớ kỹ, không quên mất; không xuất, không nhập; không đi, không đến; tất cả ngôn ngữ (nói năng) việc làm đều dứt bặt; chẳng phải ruộng phước, chẳng phải không có ruộng phước; chẳng phải được cúng dường, chẳng phải không đáng cúng dường; chẳng phải chủ thể chấp, chẳng phải đối tượng bị chấp; chẳng phải chủ thể thủ, chẳng phải đối tượng được thủ; chẳng phải tướng, chẳng phải không có tướng; chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác; không có số, lìa các số; không chướng ngại, lìa các sự chướng ngại; không tăng, không giảm; bình đẳng với mọi bình đẳng, đồng với chân thật tế, đồng đẳng với tánh pháp giới; chẳng phải chủ thể xứng hợp, chẳng phải đối tượng được xứng hợp, vượt qua tánh của các xứng hợp; chẳng phải chủ thể lường tính, chẳng phải đối tượng được lường tính, vượt ra khỏi các lường tính; không hướng đến, không quay ngược, vượt khỏi các sự hướng đến quay ngược; chẳng mạnh, chẳng yếu, vượt ra khỏi các mạnh yếu; chẳng lớn, chẳng nhỏ; chẳng rộng, chẳng hẹp; không thấy không nghe không hay không biết; lìa các sự trói buộc, an nhiên giải thoát; chứng nhập bình đẳng với trí Nhất thiết trí; chứng đắc chúng sinh không có hai; thông đạt các pháp không sai khác; biết rõ tất cả không tội không lỗi, không đục không dơ, không bị chướng ngại; lìa các phân biệt; không tạo dựng không phát sinh; không hư không thật; không phát khởi không cùng tận; không từng có không sẽ có, không sợ không nhiễm; không buồn không vui; không chán không thích; phân biệt tất cả nơi chốn đều không có chủ thể duyên; tất cả nơi chốn của danh ngôn đều không có chủ thể thuyết giảng.

Bạch Thế Tôn! Thân tướng của Như Lai là như vậy, phải quán như vậy không nên quán khác. Ai quán như vậy gọi là chánh quán.

Nếu quán khác gọi là tà quán.

Khi ấy, Ton giả Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Vô Cấu Xứng này qua đời ở cõi nào mà sinh vào cõi Kham nhẫn này?

Đức Thế Tôn nói:

–Ông hãy hỏi ông ta thử xem.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Bồ-tát Vô Cấu Xứng:

–Ông qua đời ở cõi nào mà sinh đến cõi này?

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Tôn giả biết rất rõ về tác chứng nơi các pháp. Vậy có pháp nhỏ nào có thể diệt hay sinh không?

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Thưa Bồ-tát Vô Cấu Xứng! Không có pháp nhỏ nào có thể diệt hay sinh cả.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng hỏi:

–Nếu biết rõ tác chứng nơi tất cả pháp không diệt hay sinh, vậy sao Tôn giả hỏi tôi: Ông ở cõi nào qua đời mà sinh đến cõi này? Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Ý Tôn giả thế nào? Những nam nữ do huyễn hóa tạo ra chết ở cõi nào mà sinh đến ở đây?

Tôn giả Xá-lợi Tử trả lời:

–Nam nữ được huyễn hóa ấy không thể đưa ra để nói có chết hay sinh.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Như Lai lẻ nào không giảng nói tất cả các pháp như huyễn hóa sao?

Tôn giả Xá-lợi Tử đáp:

–Đúng vậy, đúng vậy!

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Nếu tự tánh, tự tướng của các pháp như huyễn như hóa, vì sao Tôn giả lại hỏi ông chết ở cõi nào mà đến sinh cõi này? Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Chết tức là tướng đoạn diệt của các hành, sống là tướng liên tục của các hành. Mặc dù Bồ-tát qua đời nhưng không đoạn tất cả hành tướng của các pháp thiện. Mặc dù Bồ-tát sinh nhưng không tiếp tục tất cả hành tướng của pháp ác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Có thế giới Phật tên Diệu hỷ, Như Lai ở cõi ấy hiệu là Vô Động, vì hóa độ chúng sinh nên Vô Cấu Xứng ở cõi đó qua đời, sinh vào cõi này.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Thật kỳ diệu thay! Bạch Thế Tôn! Đại sĩ này thật chưa từng có, có thể bỏ cõi Phật thanh tịnh, thích đến chốn đầy tạp nhiễm ô uế này.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Ý Tôn giả thế nào? Ánh sáng mặt trời có thích nhập xen lẫn với tối tăm nơi thế gian không?

Tôn giả Xá-lợi Tử trả lời:

–Không, cư sĩ! Mặt trời vừa nhô lên thì bóng tối mất hẳn.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Mặt trời vì sao đi qua châu Thiệm-bộ?

Tôn giả Xá-lợi Tử trả lời:

–Vì chiếu ánh sáng diệt trừ tối tăm.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng nói:

–Bồ-tát cũng vậy, vì độ hữu tình mà sinh vào cõi Phật cấu uế, nhưng không ở xen tạp với những phiền não, chỉ nhằm diệt trừ phiền não tối tăm của chúng sinh mà thôi.

Bấy giờ, đại chúng đều khao khát muốn thấy những công đức trang nghiêm thanh tịnh nơi cõi Phật Diệu Hỷ, thấy Đức Như Lai Vô Động và chúng Bồ-tát, Thanh văn.

Biết tâm niệm của đại chúng, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Vô Cấu Xứng:

–Này thiện nam! Tất cả đại chúng, những vị thần tiên trong đại hội này đều khao khát muốn thấy cõi Phật trang nghiêm công đức thanh tịnh Diệu hỷ, Đức Như Lai Vô Động và chúng Bồ-tát, Thanh văn, ông hãy hiện bày để họ mãn nguyện.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng suy nghĩ: “Ngay chỗ ngoi này, ta nên dùng

sức thần thông dời mau thế giới Diệu hỷ và núi Thiết vi, vườn rừng, ao hồ, suối rạch, hang hốc, biển cả, sông lớn, núi Tu-di, núi đồi vây quanh, mặt trời, mặt trăng, sao, trời, rồng, quỷ, thần, chúng hội, cung điện Đế Thích, Phạm vương, chúng Bồ-tát, Thanh văn… xóm làng, thành ấp, đô thị, nhà ở của nam nữ lớn nhỏ, nói rộng cho đến Đức Như Lai Vô Động, Ứng Chánh Đẳng Giác, cây đại Bồ-đề, ngồi nghe pháp, biển hội đại chúng, các hoa sen báu, đi đến mười phương cõi vì các hữu tình mà làm Phật sự, có ba thang cấp báu tự nhiên vọt ra từ châu Thiệm-bộ thẳng đến đỉnh núi Tu-di. Cõi trời Tam thập tam vì muốn chiêm ngưỡng kính lạy cúng dường Như Lai Bất Động và nghe pháp nên mỗi ngày theo thang cấp báu này đi xuống. Người cõi châu Thiệm-bộ cũng muốn thấy nhà cửa vườn rừng nơi cõi trời Tam thập tam nên theo thang cấp báu này đi lên. Thế giới Diệu hỷ thanh tịnh được thành lập do vô lượng công đức hợp lại, dưới đến thủy luân trên đến trời Sắc cứu cánh. Ta lấy đặt trong lòng bàn tay phải, giống như vòng quay của người thợ gốm, giống như xâu vòng hoa rồi đặt vào thế giới này để hiển bày cho đại chúng.” Sau khi nghĩ như vậy, ngay trên giường, Bồ-tát Vô Cấu Xứng nhập Tam-ma-địa hiện thần thông thù thắng, nhanh chóng lấy thế giới Diệu hỷ đặt trong lòng bàn tay phải rồi để vào trong thế giới này. Các Thanh văn, Bồ-tát, các hàng trời, người, đại chúng ở cõi ấy, ai có Thiên nhãn đều sợ hãi và cùng nói: “Ai đem chúng con đi? Ai đem chúng con đi vậy? Cúi xin Thế Tôn cứu hộ chúng con, cúi xin Bậc Thiện Thệ cứu giúp chúng con.”

Khi ấy, Phật Vô Động vì theo phương tiện để giáo hóa chúng sinh, nên nói: “Này các thiện nam! Các ông đừng sợ sệt, các ông đừng sợ sệt, đó là do sức thần thông của Bồ-tát Vô Cấu Xứng, chứ chẳng phải do Như Lai làm ra đâu.”

Trời, người và những người mới học ở cõi ấy chưa đắc Thiên nhãn thông thù thắng đều an nhiên, không hay không biết. Sau khi nghe nói vậy, họ đều hoảng hốt hỏi nhau: “Chúng ta đang đi đâu vậy?”

Mặc dù cõi Diệu hỷ nhập vào cõi này nhưng tướng của cõi này không giảm không tăng. Cõi Kham nhẫn cũng không trở nên chật hẹp. Mặc dù hai cõi xen lẫn với nhau nhưng đều thấy chỗ ở như cũ không thay đổi gì cả.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni dạy đại chúng:

–Các ông có thấy thế giới Diệu hỷ, cõi Phật trang nghiêm, Đức Như Lai Vô Động và các Bồ-tát, Thanh văn không?

Đại chúng đều thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đã thấy.

Lúc ấy, Bồ-tát Vô Cấu Xứng liền dùng thần lực hóa hiện những hoa trời thượng diệu và các thứ hương bột khác, đưa cho đại chúng để rải cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni, Như Lai Vô Động và các Bồtát…

Đức Thế Tôn nói với đại chúng:

–Các ông muốn thành tựu cõi Phật trang nghiêm công đức như vậy vì các Bồ-tát thì phải tu học, thực hành những hạnh Bồ-tát mà trước kia Như Lai Vô Động đã từng tu tập.

Khi Bồ-tát Vô Cấu Xứng dùng sức thần thông thị hiện the giới Diệu hỷ như vậy, thì có tám mươi bốn na-do-tha trời, người trong cõi Kham nhẫn đều phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng, ai nấy đều muốn được sinh về cõi Diệu hỷ. Đức Thế Tôn đều thọ ký cho tất cả sẽ sinh về cõi Phật của Đức Như Lai Vô Động.

Bồ-tát Vô Cấu Xứng dùng sức thần thông dời chúng Bồ-tát, Đức Như Lai Vô Động và cõi Diệu hỷ như vậy là vì muốn làm lợi ích cho hữu tình nơi cõi Kham nhẫn. Việc ấy đã xong nên Bồ-tát Vô Cấu Xứng đem cõi ấy về lại chỗ cũ. Khi cả hai cõi phân riêng ra, đại chúng hai nơi đều thấy rõ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Ông đã thấy Như Lai Vô Động và các Bồ-tát nơi thế giới Diệu hỷ rồi phải không?

Tôn giả Xá-lợi Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Con nguyện cho các hữu tình đều ở cõi Phật trang nghiêm như vậy. Con nguyện cho các hữu tình được thành tựu công đức viên mãn với phước đức trí tuệ như thế. Tất cả đều giống như Đức Như Lai Vô Động. Con nguyện cho các hữu tình đều được thần thông tự tại như Bồ-tát Vô Cấu Xứng.

Bạch Thế Tôn! Chúng con đã đạt lợi ích thù thắng tốt đẹp là

được chiêm ngưỡng gần gũi bậc Đại sĩ ấy. Nếu các hữu tình chỉ được nghe pháp môn thù thắng này, nên biết cũng được gọi là khéo đạt được lợi ích thù thắng, huống chi đã nghe rồi tin hiểu, thọ trì, đọc tụng thông suốt, giảng nói cho người khác, lại dùng phương tiện tinh tấn tu hành. Nếu các hữu tình đạt được pháp môn thù thắng như vậy, tức là đạt được kho tàng pháp bảo. Nếu các hữu tình tin hiểu pháp môn thù thắng này tức là tiếp nối con đường của chư Phật. Nếu các hữu tình đọc tụng pháp môn thù thắng là thành Bồ-tát, cùng Phật làm bạn. Nếu các hữu tình thọ trì pháp môn này là giữ gìn chánh pháp vô thượng. Nếu ai cúng dường pháp này thì nên biết nhà người ấy có Như Lai. Nếu ai ghi chép cúng dường pháp môn thù thắng này tức là giữ gìn tất cả phước đức nơi trí Nhất thiết trí. Nếu ai tùy hỷ với pháp môn này tức là tạo lập nên pháp hội lớn lao. Nếu giảng giải cho người một bai tụng bốn câu của pháp môn thù thắng này thì đạt được quả vị Bất thoái chuyển. Nếu thiện nam, thiện nữ đối với pháp môn thù thắng này mà tin hiểu, thọ trì, ưa thích, quán sát thì được thọ ký đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng.

 

Phẩm 13: CÚNG DƯỜNG PHÁP

Bấy giờ, Thiên đế Thích bạch Phật:

–Mặc dù con được nghe Đức Phật và Bồ-tát Diệu Cát Tường giảng nói hơn trăm ngàn pháp môn sai biệt, nhưng con chưa từng nghe nói về môn giải thoát thần thông tự tại bất khả tư nghì này. Theo sự hiểu biết của con về nghĩa lý như Phật đã giảng nói, nếu các hữu tình được nghe pháp môn này mà tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, nêu giảng cho người thì người đó chắc chắn là pháp khí, không hề nghi ngờ gì cả, huống chi lại tinh tấn tu tập đúng như lý. Hữu tình ấy đã bít lấp tất cả con đường nguy hiểm dẫn đến cõi ác, khai mở tất cả con đường đến cõi thiện, luôn được gặp tất ca chư Phật, Bồ-tát, chiến thắng tất cả tà luận của ngoại đạo, diệt hết thảy quân ma bạo ác, làm thanh tịnh đạo Bồ-đề, an trụ trong pháp diệu, bước theo con đường Như Lai đã đi.

Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình được nghe phap môn này mà tin hiểu, thọ trì, cho đến tinh tấn tu tập đúng như lý thì con sẽ cùng quyến thuộc cung kính cúng dường thiện nam hay thiện nữ ấy.

Bạch Thế Tôn! Nếu có thành ấp, xóm làng, đô thị nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói pháp môn này, thì con cùng tất cả quyến thuộc đều đến đó để nghe pháp. Ai chưa tin con khiến cho họ tin. Ai tin rồi, con sẽ đúng như pháp hộ trì để họ không gặp chướng ngại.

Bấy giờ, Thế Tôn nói với Thiên đế Thích:

–Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông đã nói. Ông đã tùy hỷ với pháp môn vi diệu mà Như Lai đã nói ra. Thiên đế Thích nên biết! Chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, đều giảng nói chỉ bày pháp môn này. Cho nên nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe pháp môn này mà tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, giảng cho mọi người, ghi chép cúng dường tức là cúng dường chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại.

Này Thiên đế Thích! Giả sử Như Lai hiện diện đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới nhiều như mía, lau, tre, mè, lúa. Nếu thiện nam hay thiện nữ nào qua một kiếp, hay hơn một kiếp, cung kính, tôn trọng, ca ngợi, phụng thờ và đem những thứ cúng dường thượng hạng của người cùng những vật an ổn thượng diệu để sống mà dâng cúng chư Như Lai ấy, sau khi các vị Bát-niết-bàn, lại xây tháp bảy báu cúng dường toàn thân xá-lơi của mỗi vị. Tháp ấy rộng lớn khoảng bằng bốn châu thế giới, cao vút lên đến cõi Phạm thiên, có hiển tướng pháp luân, dùng hương hoa, cờ lọng, châu báu, âm nhạc, trang hoàng rất đẹp đẽ, sau khi xây tháp bảy báu cho mỗi Như Lai rồi, qua một kiếp hay hơn một kiếp nữa, đem tất cả các thứ cúng dường thượng hạng như vòng hoa, hương đốt, hương xoa, hương bột, y phục, cờ lọng, đèn, châu báu, âm nhạc, cung kính cúng dường, tôn trọng, ca ngợi. Ý ông thế nào? Nhờ việc làm này, thiện nam hay thiện nữ ấy được phước có nhiều không?

Thiên đế Thích thưa:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thế! Phước ấy khó lường, dù trải qua trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp cũng không nói hết lượng phước của người ấy đạt được.

Phật bảo:

–Này Thiên đế Thích! Đúng vậy, đúng vậy! Ta thật sự nói với ông. Nếu thiện nam, thiện nữ nghe pháp môn giải thoát thần thông tự tại bất tư nghì này mà tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, giảng nói cho mọi người thì phước đức hơn người kia rất nhiều. Vì sao? Vì ngôi vị Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng của chư Phật đều từ đây mà sinh. Chỉ có cúng dường pháp thì mới có thể thực hiện được sự cúng dường pháp môn ấy, chẳng phải là dùng tài vật.

Thiên đế Thích nên biết! Công đức của Bồ-đề vô thượng thì nhiều, nhưng phước của người cúng dường pháp này thì càng nhiều hơn.

Đức Thế Tôn dạy Đế Thích:

–Về thời quá khứ, trải qua vô số đại kiếp không thể tính kể, lường xét, bàn luận, có Phật ra đời, tên là Dược Vương, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới tên Đại nghiêm, kiếp tên Nghiêm Tịnh. Như Lai Dược Vương sống hai mươi trung kiếp, có ba mươi sáu chi na-do-tha Thanh văn, mười hai câu-chi na-do-tha Bồ-tát. Bấy giờ, có Luân vương tên Bảo Cái, gồm đủ bảy báu, cai trị bốn đại châu, có cả thảy một ngàn người con đẹp đẽ, dũng mãnh, có thể đánh bại mọi quân địch.

Lúc đó, vua Bảo Cái cùng quyến thuộc cung kính cúng dường, tôn trọng, ca ngợi, phụng thờ Như Lai Dược Vương suốt năm trung kiếp, đem những thứ cúng dường thượng diệu ở cõi trời, người, cùng những vật phẩm an ổn tuyệt diệu để sống mà dâng cúng. Qua năm trung kiếp, vua Bảo Cái nói với một ngàn người con: “Các con nên biết! Phụ vương đã cúng dường Đức Như Lai Dược Vương. Các con cũng nên cung kính cúng dường như phụ vương vậy.”

Nghe phụ vương nói, một ngàn người con đều vui mừng vâng lệnh và cùng thưa: “Lành thay! Chúng con đồng tâm cùng quyến thuộc cung kính, tôn trọng, ca ngợi, phụng thờ Như Lai Dược Vương suốt năm trung kiếp. Chúng con đem tất cả các thứ cúng dường an ổn thượng hạng và những vật an ổn tuyệt diệu để sinh sống mà cúng dường.”

Lúc ấy, có một vương tử tên Nguyệt Cái, một mình ở chỗ vắng suy nghĩ: “Ta nên cung kính, cúng dường Đức Như Lai Dược Vương, nhưng còn có cách cung kính, cúng dường nào thù thắng, tối thượng hơn đây không?” Nhờ thần lực của Phật, giữa hư không có vị trời nói với vương tử: “Nguyệt Cái nên biết! Trong các sự cúng dường, thì cúng dường pháp rất là thù thắng.”

Vương tử liền hỏi: “Sao gọi là cúng dường pháp?”

Vị trời nói với Nguyệt Cái: “Ông hãy đến hỏi Đức Như Lai Dược Vương: Bạch Thế Tôn! Sao gọi là cúng dường pháp? Đức Phật ấy sẽ giảng giải, khai thị cho ông.”

Sau khi nghe vị trời nói, Vương tử Nguyệt Cái liền đến hỏi Đức Như Lai Dược Vương, cung kính, ân cần lạy sát chân Ngài, đi nhiễu ba vòng rồi lui qua một bên thưa: “Bạch Thế Tôn! Con nghe nói trong tất cả sự cúng dường thì cúng dường pháp rất là tối thượng. Vậy tướng của sự cúng dường pháp ấy như thế nào?”

Đức Như Lai Dược Vương nói với Vương tử: “Nguyệt Cái nên biết! Cúng dường pháp nghĩa là đối với kinh điển do Phật nói ra thì tướng nó rất vi diệu sâu xa, thế gian rất khó tin, khó được độ, khó thấy, sâu kín, tinh túy, không nhiễm, liễu nghĩa, chẳng phải dùng phân biệt để biết, vì đó là kho tàng của Bồ-tát. Kinh Tổng trì ấy mang rõ dấu ấn của Phật, phân biệt, khai thị pháp luân bất thoái; sáu Độ từ đây mà có; giữ gìn hoàn hảo những gì đáng giữ gìn, thực hành theo pháp Bồ-đề phần; bảy Giác chi đích thân dẫn đầu; giảng nói, khai thị đại Từ, đại Bi, cứu giúp, đem sự an lạc đến các hữu tình; xa lìa tất cả kiến chấp nơi ma oán; phân biệt, xiển dương lý duyên khởi sâu xa; biết rõ trong không có ngã, ngoài không có hữu tình; đối với hai bên và chặng giữa không có thọ mạng, không có người nuôi dưỡng; hoàn toàn không có chút tánh Bổ-đặc-già-la; tương ưng với Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô tác, vô khởi. Kinh pháp ấy đưa người đến diệu giác, chuyển bánh xe pháp; Trời, Rồng, Dạ-xoa, Kiền-đạt-phược đều cung kính, tôn trọng, ca ngợi, cúng dường, hướng dẫn chúng sinh cúng dường đại pháp; làm viên mãn pháp thí lớn lao cho chúng sinh, tất cả Hiền thánh đều thọ trì; khai mở tất cả diệu hạnh của Bồ-tát. Kinh pháp ấy làm chỗ quy về pháp nghĩa chân thật. Sự tối thắng vô ngại từ kinh pháp này mà phát sinh, nói rõ các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, tịch tĩnh; phát sinh bốn pháp Ôn-đà-nam (bốn pháp ấn), diệt trừ tất cả tham lam keo kiệt, phá giới, sân hận, biếng nhác, vọng niệm, tuệ ác, sợ hãi, tất cả tà luận của ngoại đạo, kiến ác, chấp trước. Kinh pháp ấy phát sinh uy lực làm tăng thượng pháp thiện cho hữu tình, chiến thắng tất cả quân ma ác, được chư Phật Hiền thánh khen ngợi. Kinh pháp ấy có thể trừ khổ lớn trong sinh tử, thị hiện niềm vui lớn Niết-bàn, chư Phật mười phương ba đời đều nói. Với kinh ấy, ai thích nghe, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, tư duy quán sát nghĩa lý sâu xa, làm cho kinh ấy sáng rõ, an lập, phân biệt, khai thị nẻo sáng, lại giảng giải cho mọi người, dùng phương tiện thiện xảo mà giữ gìn chánh pháp, thì người đó gọi là cúng dường pháp.

Lại nữa, này Nguyệt Cái! Người cúng dường pháp nghĩa là với các pháp phải điều phục như pháp, với các pháp phải tu hành như pháp, tùy thuận theo duyên khởi, xa lìa các tà kiến, tu tập pháp Nhẫn vô sinh, ngộ nhập không có ngã và không có hữu tình, không chống đối với lý nhân duyên, không tranh cãi, không sinh dị luận, tách rời ngã và ngã sở, không bị lệ thuộc, căn cứ theo nghĩa không căn cứ nơi văn từ, y theo trí không y theo thức, y theo liễu nghĩa đã được nói trong Khế kinh, tuyệt đối không y theo lời nói bất liễu nghĩa thuộc kinh điển thế tục rồi sinh chấp trước, y theo tánh không y theo sự thấy có sở đắc của Bổ-đặc-già-la. Theo tánh tướng đó mà giác ngộ các pháp, nhập thâu vào vô tạng, diệt A-lại-da, trừ khử vô minh cho đến lão tử; dứt sầu bi khổ não; quán sát mười hai nhân duyên ấy không chỗ cùng tận hay chỗ phát sinh; nguyện các hữu tình lìa bỏ các kiến chấp. Đó là cúng dường pháp tối thượng.”

Bấy giờ, Đức Phật bảo Thiên đế Thích:

–Được nghe Phật Dược Vương giảng nói về sự cúng dường pháp rất là tối thượng ấy, Vương tử Nguyệt Cái đắc được pháp nhẫn thuận, liền cởi áo báu với những đồ trang sức dâng lên cúng dường Như Lai Dược Vương và thưa: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật Bátniết-bàn, con nguyện hộ trì chánh pháp, thực hành cúng dường pháp để giữ gìn chánh pháp. Cúi xin Như Lai dùng sức thần lực thương xót gia hộ con luôn chiến thắng đám ma khó chiến thắng mà giữ gìn chánh pháp, tu hạnh Bồ-tát.”

Biết tâm ý tăng thượng của Vương tử Nguyệt Cái, Như Lai Dược Vương liền thọ ký: “Sau khi Như Lai Niết-bàn, ông sẽ giừ gìn thành lũy chánh pháp.”

Nghe được Phật thọ ký, Vương tử Nguyệt Cái vui mừng khôn xiết. Trong Thánh pháp đời của Như Lai Dược Vương, ông ta đem tâm tin thanh tịnh, xả bỏ pháp tại gia đi đến nơi không nhà. Sau khi xuất gia, vương tử luôn tinh tấn, dũng mãnh tu tập các pháp thiện, siêng năng tạo điều thiện. Xuất gia chưa bao lâu, ông ta chứng được năm Thần thông, đạt đến cứu cánh nơi pháp Đà-la-ni, Biện tài vô ngại. Sau khi Đức Như Lai Dược Vương Bát-niết-bàn, ông ta đem trí lực thần thông đã chứng đắc được, suốt mười trung kiep chuyển bánh xe chánh pháp mà Đức Như Lai đã chuyển. Nơi mười trung kiếp, Bí-sô Nguyệt Cái chuyển bánh xe chánh pháp, hộ trì chánh pháp, dũng mãnh tinh tấn, an lập cả trăm ngàn câu-chi hữu tình để họ đối với đạo quả Chanh đẳng Bồ-đề vô thượng đạt được Bất thoái chuyển, giáo hóa mười bốn na-do-tha chúng sinh, giáo hóa hàng thừa Thanh văn, Độc giác để tâm họ được điều thuận hoàn toàn, dùng phương tiện chỉ dạy cho vô lượng hữu tình để họ sinh lên cõi trời.

Phật bảo Thiên đế Thích:

–Chuyển luân vương Bảo Cái thuở đó đâu phải người nào xa lạ. Đừng sinh nghi ngờ, đừng quán gì khác. Vì sao? Nên biết rằng vị ấy chính là Như Lai Bảo Diệm, một ngàn người con ay tức là một ngàn vị Bồ-tát trong Hiền Kiếp sẽ lần lượt thành Phật, vị Phật đầu tiên hiệu là Như Lai Ca-lạc Ca-tôn-đà, vị Phật sau cùng hiệu là Lôchí, xuất hiện ở đời đã bốn vị rồi, các vị còn lại sẽ ra đời vào kiếp vị lai. Nguyệt Cái hộ pháp thuở ấy đâu phải người nào khác mà chính là thân ta.

Thiên đế Thích nên biết! Ta nói tất cả sự thiết bày cúng dường chư Phật, thì cúng dường pháp là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, là vô thượng. Cho nên Thiên đế Thích muốn được cúng dường Phật thì hãy cúng dường pháp, không phải cúng bằng tài vật.

 

Phẩm 14: CHÚC LỤY

Đức Phật nói với Bồ-tát Từ Thị:

–Ta đem đại pháp Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng đã được tập hợp trong vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp giao phó cho ông. Kinh điển này được sức oai thần của chư Phật giữ gìn, được sức oai thần của chư Phật gia hộ. Sau khi Như Lai Bát-niết-bàn, trong đời ác năm trược, ông cũng phải dùng thần lực mà giữ gìn, bảo hộ kinh pháp này, đem giảng giải khắp châu Thiệm-bộ đừng để lạc mất. Vì sao? Vì vào đời vị lai, có người nam người nữ, các chúng trời, rồng, Dạ-xoa, Kiền-đạt-phược… đã trồng vô lượng căn lành thù thắng, đối với đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, tâm đã thông hiểu sâu rộng, nếu họ không được nghe kinh điển này thì sẽ làm mất vô lượng lợi lạc thù thắng. Còn ai nghe kinh này chắc chắn sẽ tin thích phát tâm hy hữu, hoan hỷ cung kính lãnh thọ. Ta giao phó các thiện nam, thiện nữ ấy cho ông. Ông nên hộ niệm đừng để họ gặp chướng ngại. Khi nghe họ tu học kinh điển này, cũng nên giảng giải rộng rãi theo pháp môn mà Phật đã nói.

Từ Thị nên biết! Nói chung có hai loại tướng ấn của Bồ-tát. Thế nào là hai?

  1. Tướng ấn tin thích những văn từ trau chuốt.
  2. Tướng ấn không sơ pháp môn thâm diệu, ngược lại ngộ nhập vào tánh tướng của chúng.

Bồ-tát nào tôn trọng tin thích văn từ trau chuốt, nên biết đó là Bồ-tát mới tu học.

Bồ-tát nào đối với pháp thâm diệu không nhiễm, không chấp trước, thần thông tự tại bất tư nghì, đối với pháp môn giải thoát, kinh điển vi diệu không còn sợ sệt, sau khi nghe, thì tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, giảng giải cho người khác, ngộ nhập đúng như thật, tinh tấn tu hành, đạt được tâm tin thích thanh tịnh xuất thế gian, nên biết đó là Bồ-tát đã tu học từ lâu.

Từ Thị nên biết! Do bốn duyên mà Bồ-tát mới tu học tự làm mình tổn thương, không thể đắc pháp nhẫn thâm diệu. Những gì là bon?

  1. Mới nghe kinh điển sâu xa, từ xưa chưa từng nghe thì sợ hãi, nghi ngờ, không tùy hỷ.
  2. Nghe rồi lại phỉ báng, khinh chê nói: Kinh điển ấy trước đây tôi chưa nghe đến, vậy ở đâu mà có.
  3. Thấy có thiện nam… thọ trì, giảng nói pháp môn thâm diệu ấy thì không thích gần gũi, cung kính lễ lạy.
  4. Sau đó thì khinh mạn, oán ghét, phỉ báng.

Do bốn duyên này mà Bồ-tát mới tu học tự làm mình tổn thương, không thể đắc pháp nhẫn thâm diệu.

Từ Thị nên biết! Lại có bốn duyên, dù Bồ-tát tin hiểu pháp môn thâm diệu ấy, nhưng vẫn tự mình làm tổn thương, không thể mau chứng pháp Nhẫn vô sinh. Những gì là bốn?

  1. Khinh chê Bồ-tát sơ học, mới tu tập theo hành Đại thừa.
  2. Khong thích chỉ dạy, giảng giải.
  3. Không kính trọng, tha thiết với chỗ học sâu xa, rộng lớn.
  4. Thích giáo hóa chúng sinh bằng tài thí thế gian, không thích pháp thí thanh tịnh xuất thế gian.

Do bốn duyên này, dù Bồ-tát tin hiểu pháp môn sâu xa, nhưng vẫn tự mình làm tổn thương, không thể mau chứng pháp Nhẫn vô sinh.

Sau khi nghe Phật dạy, Bồ-tát Từ Thị hết sức vui mừng và thưa Phật:

–Pháp của Thế Tôn rất là hy hữu! Pháp của Như Lai giảng nêu rất là vi diệu. Theo lỗi lầm của Bồ-tát mà Phật đã dạy, con sẽ xa lìa hoàn toàn. Con sẽ giữ gìn, không làm mất đại pháp Chánh đẳng Bồđề vô thượng mà Đức Như Lai đã tập hợp trong vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp. Nếu vào đời vị lai, có thiện nam hay thiện nữ nào học pháp Đại thừa, đó chính là pháp khí chân thật. Con sẽ làm cho trong tay họ có được kinh điển sâu xa ấy, sẽ cho họ có sức trí tuệ để thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, ghi chép cúng dường kinh này, tu hành không điên đảo cùng giảng giải cho người khác nghe.

Bạch Thế Tôn! Đời sau, với kinh này, nếu có ai nghe, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, tu hành không điên đảo, giảng nói cho người khác, thì nên biết đó là do sức oai thần từ sự giữ gìn gia hộ của con.

Đức Thế Tôn nói:

–Lành thay! Lành thay! Ông rất là tốt! Như Lai tùy hỷ cho ông lãnh thọ giữ gìn chánh pháp này.

Bấy giờ, tất cả chung hội trong cõi này và các Bồ-tát đến từ phương khác đều chắp tay thưa:

–Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai Bát-niết-bàn, chúng con từ các thế giới phương khác cũng đến đây giữ gìn đại pháp Chánh đẳng Bồđề vô thượng mà Như Lai đã chứng đắc không cho mất, cùng đem giảng giải rộng rãi. Nếu thiện nam, thiện nữ nào tin hiểu, thọ trì, đọc tụng thuộc lòng kinh này, tu hành không điên đảo, giảng nói cho mọi người thì con sẽ hộ trì và cho họ có sức ghi nhớ để họ không gặp chướng ngại.

Khi ấy, trong chúng hội, bốn Đại Thiên vương cũng chắp tay thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu ở xóm làng, thành ấp, đô thị nào lưu hành pháp môn này, chúng con cùng quyến thuộc sẽ thống lãnh quân chúng đến nơi ấy nhằm bảo hộ người nghe pháp và người nói để có thể nêu giảng, thọ trì, đọc tụng pháp môn này, làm cho trong phạm vi bốn phía cả đến một trăm du-thiện-na đều được an ổn, không có các chướng nạn nguy hiểm, không có ai rình rập làm hại.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

–Ông nên thọ trì pháp môn này, đem giảng giải cho mọi người để pháp môn ấy được lưu hành rộng khắp.

Tôn giả A-nan thưa:

–Con xin thọ trì pháp môn này. Pháp môn Như Lai đã giảng nói tên là gì và nên thọ trì như thế nào?

Đức Thế Tôn bảo:

–Pháp môn này tên là Thuyết Vô Cấu Xứng Bất Khả Tư Nghì Tự Tại Thần Biến Giải Thoát nên theo đấy mà thọ trì.

Đức Phật giảng nói kinh này xong, Bồ-tát Vô Cấu Xứng, Bồ-tát

Diệu Cát Tường, Tôn giả A-nan-đà và các Bồ-tát, các đại Thanh văn… chư Thiên, Trời, Người, A-tố-lạc… đều hoan hỷ, tín thọ, phụng hành.