PHẬT THUYẾT VỊ TẰNG HỮU NHÂN DUYÊN KINH

Hán dịch: Đời Tiêu Tề, Sa-môn Thích Đàm Cảnh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Mục-kiền-liên:

–Ông hãy đến thành Ca-tỳ-la vấn an sức khỏe phụ thân ta là Duyệt-đầu-đàn vương, dì mẫu Ba-xà-ba-đề cùng thúc phụ thứ ba là Hộc Phạn vương… Nhân đó ông an ủi, khuyến dụ Da-thâu-đà-la, mẹ của La-hầu-la để bà dứt bỏ sự yêu thương quyến luyến cho La-hầula làm Sa-di tu tập Thánh đạo. Vì sao? Vì mẹ con yêu thương vui sướng chỉ trong chốc lát, đến khi chết bị đọa vào địa ngục, mẹ con không thể biết được nhau, tối tăm mù mịt, vĩnh viễn ly biệt, chịu muôn ngàn khổ não, sau hối hận cũng không kịp. Khi nào La-hầu-la tu đắc đạo sẽ trở về độ mẹ, dứt hẳn nguồn gốc sinh, già, bệnh, chết, đạt đến Niết-bàn, giống như ta ngày nay.

Tôn giả Mục-liên vâng lệnh liền nhập thiền định. Giống như lực sĩ duỗi cánh tay, chỉ trong khoảnh khắc đã đến thành Ca-tỳ-la. Gặp Tịnh Phạn vương, Tôn giả Mục-liên thưa:

–Thế Tôn ân cần hỏi thăm vua đi đứng có nhẹ nhàng không? Khí lực có an ổn không? Và Thế Tôn hỏi thăm đại phu nhân Ba-xàba-đề cùng thúc phụ thứ ba là Hộc Phạn vương… cũng như vậy.

Khi ấy, nghe Phật sai sứ đến chỗ vua cha, chưa biết ý gì, Dathâu-đà-la sai tỳ nữ đến dò la tin tức. Tỳ nữ trở về thưa:

–Thế Tôn sai sứ đến xin cho La-hầu-la được độ làm Sa-di.

Nghe tin này, Da-thâu-đà-la dắt La-hầu-la lên lầu cao, ra lệnh tất cả giám quan đóng chặt các cửa lại thật chắc chắn. Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên đã đến cửa cung, nhưng không thể vào được, lại không có người dẫn lối, Tôn giả liền dùng thần lực bay lên lầu cao, đến trước chỗ Da-thâu-đà-la ngồi. Thấy Tôn giả Mục-liên đến, Da-thâuđà-la vui buồn lẫn lộn, bất đắc dĩ mới đứng dậy, cung kính lễ bái thăm hỏi:

–Lặn lội đường xa đến đây, Tôn giả có mệt nhọc không?

Bà ra lệnh trải tòa, thỉnh Tôn giả Mục-liên ngồi và hỏi:

–Thế Tôn ra sao? Giáo hóa chúng sinh có khổ nhọc cho tinh thần không? Thế Tôn sai thượng nhân đến, chắc là có việc gì?

Tôn giả Mục-liên thưa:

–Thái tử La-hầu-la đã chín tuổi rồi, xin công chúa hãy nên cho xuất gia tu học Thánh đạo. Vì sao? Vì mẹ con yêu thương vui vẻ chỉ trong thời gian ngắn, một mai qua đời bị đọa vào ba đường ác, ân ái biệt ly, tối tăm mù mịt, mẹ không biết con, con không biết mẹ. La-hầu-la đắc đạo sẽ về độ mẹ, vĩnh viễn xa lìa ưu hoạn nơi sinh, già, bệnh, chết, chứng được Niết-bàn, giống như Đức Phật ngày này.

Da-thâu-đà-la trả lời:

–Như Lai Thích-ca khi còn Thái tử đã cưới tôi làm vợ, tôi phụng thờ Thái tử giống như thờ Thiên thần, chẳng có lỗi gì cả. Vơ chồng ở với nhau chưa đầy ba năm, Thái tử lại lìa bỏ năm dục, vượt cung thành, trốn đến Vương điền. Vua đích thân tới đón về nhưng Thái tử trái lệnh, không chịu theo. Ngược lại, sai Xa-nặc cỡi ngựa trắng trở về. Tự quyết định thề tu đắc đạo sẽ trở về. Mặc áo da nai giống như người không trí, ẩn trong núi rừng khổ hạnh sáu năm, khi thành Phật trở về nước đều không muốn gặp người thân. Thái tử quên đi ân cũ, quá hơn người đi đường. Xa lìa cha mẹ, ký thác nơi quê người để cho mẹ con tôi cô quạnh khổ đau, không còn muốn sống, chỉ muốn chết mà thôi. Mạng người rất quý, không thể tự hủy hoại, ôm trong lòng bao oán hận, ráng giữ tánh mạng, tuy sống với loài người nhưng không bằng loài vật, là họa trong họa, lẽ đâu có điều như thế sao? Nay lại sai sứ muốn xin con tôi để làm quyến thuộc cho mình, sao ác như thế? Thái tử thành đạo, tự nói là Từ bi, đạo Từ bi phải làm cho chúng sinh an lạc, nay lại khiến ly biệt mẹ con người ta. Khổ nhất trong các khổ không gì bằng khổ vì ân ái biệt ly. Như vậy, xét cho cùng là có Từ bi không?

Da-thâu-đà-la nói với Tôn giả Mục-liên:

–Tôn giả hãy trở về trình bày tất cả những gì tôi đã nói.

Bấy giờ Tôn giả Mục-liên dùng mọi cách, mọi nhân duyên để khuyên gián, nói đi nói lại ba lần nhưng Da-thâu-đà-la nhất định không nghe. Tôn giả Mục-liên xin cáo lui, rồi trở về chỗ vua Tịnh Phạn kể hết việc như trên. Nghe như vậy, vua kêu phu nhân Ba-xàba-đề nói:

–Tất-đạt con ta sai Tôn giả Mục-liên đến đón La-vân để xuất gia tu học Thánh pháp. Nhưng Da-thâu-đà-la, người đàn bà ngu tối chưa hiểu được pháp yếu, tâm cứ cố chấp, trói chặt trong ân ái, không chịu buông xả. Khanh có thể đến khuyên can cô ấy lần nữa để cô ta được tỉnh ngộ.

Phu nhân liền dẫn theo năm trăm thanh y đến cung của Dathâu-đà-la, dùng mọi phương tiện tùy nghi khuyên bảo ba lần như vậy, nhưng Da-thâu-đà-la vẫn cứ không nghe, lại thưa với phu nhân:

–Khi con còn ở nhà, vua tám nước đều tranh nhau đến để cầu kiến, nhưng cha mẹ không chịu. Vì sao? Vì Thái tử Tất-đạt tài nghệ hơn người, cho nên cha mẹ đem con gả cho Thái tử. Lúc đó, nếu Thái tử biết mình không ở thế gian, muốn xuất gia học đạo, tại sao ân cần khổ nhọc tìm con làm gì? Phu nhân cưới dâu chính là ân tốt, tụ tập vui mừng, muôn đời tương thừa, con cháu nối tiếp nhau để nối dõi tông đường là chánh lễ ở đời. Thái tử đã đi rồi, lại muốn xin Lahầu-la được xuất gia, đoạn tuyệt dòng dõi của đất nước là nghĩa lý gì?

Nghe nói như vậy, Hoàng hậu im lặng không biết nêu bày gì nữa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền sai hóa nhân ở trên không nói xuống:

–Này Da-thâu-đà-la! Nàng hãy nhớ tưởng lại đời quá khứ có thệ nguyện gì không? Như Lai Thích-ca lúc đó hành đạo Bồ-tát, nàng dùng năm trăm tiền vàng để mua năm cành hoa sen dâng lên Phật Định Quang, thời ấy, nàng xin ta đời đời sinh ra cùng làm vợ chồng. Ta không muốn nhận nên nói với nàng: “Ta là Bồ-tát, trải qua nhiều đời nguyện bố thí tất cả không nghịch ý người. Nếu nàng có thể thực hành được như vậy thì sẽ làm vợ ta.” Nàng lập thệ nguyện: “Đời đời sinh đến đâu, vợ con, cõi nước và cả thân của tôi đều có thể đem bố thí tùy chỗ thích hợp, thề không có tâm hối tiếc.” Nay vì sao lại thương tiếc La-hầu-la không cho xuất gia học Thánh đạo?

Nghe như vậy, Da-thâu-đà-la hốt nhiên nhớ lại nhân duyên của hành nghiệp thời quá khứ, mọi việc đều rõ ràng như vừa thấy hôm qua. Tình luyến ái con tự nhiên tiêu mất. Da-thâu-đà-la sai người gọi Tôn giả Mục-liên đến, xin sám hối xin lỗi, nắm tay La-hầu-la giao cho Tôn giả Mục-liên. Từ biệt con, Da-thâu-đà-la nước mắt đầm đìa. Thấy mẹ buồn khổ, La-hầu-la quỳ, chắp tay từ tạ mẹ:

–Xin mẹ chớ có buồn đau, La-hầu-la nay đến hầu hạ Thế Tôn rồi sẽ trở về, mẹ con mình lại gặp nhau.

Bấy giờ, vua Tịnh Phạn muốn an ủi Da-thâu-đà-la để nàng vui vẻ, tức thời cho triệu tập các hào tộc trong nước đến cung vua bảo ban:

–Con của Kim luân vương nay sẽ đến nước Xá-bà-đề để theo Phật Thế Tôn xuất gia học đạo. Phiền các khanh mỗi vị hãy cho một đứa con để theo cháu ta.

Mọi người đều vâng lệnh, phụng mạng đại vương. Trong chốc lát đã có năm mươi người tập họp, đi theo La-hầu-la đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ.

Đức Phật sai Tôn giả A-nan cạo tóc cho La-hầu-la và năm mươi người theo La-hầu-la. Các công tôn, vương tử đều xuất gia cả. Đức Phật ra lệnh: Tôn giả Xá-lợi-phất làm Hòa thượng, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên làm A-xà-lê, trao cho mười giới pháp làm Sa-di.

La-hầu-la còn thơ dại, thích vui chơi kiêu ngạo, ham chuyện đùa giỡn, không muốn nghe pháp, Đức Phật luôn dạy bảo nhưng Lahầu-la không tuân theo, không biết làm thế nào được. Lúc đó, vua Ba-tư-nặc nước Xá-vệ nghe La-hầu-la, con của Phật, xuất gia làm Sa-di, liền cùng với các quần thần, phu nhân, thái tử, hậu cung, thể nữ, Bà-la-môn, cư sĩ… cung kính vây quanh, vừa sáng sớm cả đoàn đi đến chỗ Phật lễ bái, thăm hỏi và thăm Sa-di La-hầu-la, con của Phật. Mọi người ngồi qua một bên nghe Phật thuyết pháp. Vua và quần thần kiêu ngạo, quen cuộc sống sung sướng nên ngồi không chịu nổi để nghe Phật thuyết pháp, họ muốn xin lui trở về. Biết vua mới ngộ, tín căn chưa vững, Đức Thế Tôn muốn mở bày dẫn dắt cho vua và đám quần thần nhằm đem lại lợi ích nên bảo Tôn giả Anan:

–Ông hãy đến mời Sa-di La-hầu-la cùng quyến thuộc của chú ta hãy lại đây để nghe Phật thuyết pháp.

Tôn giả A-nan đi mời, trong chốc lát tất cả đều vân tập đầy đủ.

Đức Phật nói với vua:

–Hãy đợi một chốc lát để nghe Như Lai thuyết pháp.

Vua chắp tay thưa:

–Nay thân này của con đã tập theo sự sung sướng lâu rồi nên không thể ngồi nổi. Xin Thế Tôn rủ lòng thương lượng thứ.

Phật nói:

–Đây không phải là khổ. Vì sao? Vì thân vua đời trước đã gieo trồng phước đức nên nay được làm vua, luôn ở nơi cung sâu buông thả theo năm dục, ra vào có tùy tùng, chân không chạm đất, sao gọi là khổ? Khổ trong ba cõi không gì bằng các khổ nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Các khổ như thế trước đã từng nói rồi.

Đức Phật dạy La-vân:

–Phật ra đời khó gặp, pháp Phật khó được nghe. Mạng người khó bảo tồn. Chứng đạo cũng khó. Con nay đã được làm thân người, lại gặp Phật, cớ gì lại buông lung không chịu nghe pháp?

La-vân bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Pháp Phật sâu xa mầu nhiệm, con còn nhỏ, ý thô, làm sao có thể nghe, thọ pháp của Thế Tôn! Trước đây con đã nghe nhiều lần nhưng lại quên mất hết, khổ nhọc tinh thần mà không nắm được một điều gì. Hơn nữa, nay con tuổi nhỏ, hãy để tâm ý tự do, đến khi nào tuổi lớn, con sẽ tự mình thọ nhận giáo pháp.

Phật dạy La-vân:

–Vạn vật vô thường, thân cũng khó bảo tồn. Con có thể giữ thân mạng mình đến khi tuổi lớn chăng?

La-vân thưa:

–Bạch Thế Tôn! La Vân không thể giữ được, nhưng Phật lẽ nào không thể bảo tồn thân mạng cho con sao?

Đức Phật bảo La-vân:

–Ta hãy còn không thể tự giữ mạng mình, thì làm sao giữ được mạng của con!

La-vân bạch Phật:

–Nghe pháp đã khổ nhọc, lại không được đắc đạo, thì công sức nghe pháp có ích lợi gì?

Đức Phật bảo:

–Công lao nghe pháp, dù thân đời này không đắc đạo, nhưng có thọ thân trong năm đường cũng được nhiều lợi ích. Như ta đã nói ở trước, trí tuệ Bát-nhã cũng gọi là cam lồ, cũng gọi là liều thuốc hay, cũng gọi là cầu cống, cũng gọi là thuyền lớn, con không nghe sao?

La-vân thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có nghe.

Khi ấy, vua Ba-tư-nặc quỳ, chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn đã nói, trí tuệ Bát-nhã có bốn tên gọi, nghĩa của nó như thế nào? Xin Phật thương xót nói cho con nghe.

Đức Phật nói với vua:

–Nếu muốn nghe thì vua hãy dốc tâm nghe cho kỹ, ta nay sẽ giảng nói.

Đức Phật nói:

–Ta nhớ lại vô số kiếp về đời quá khứ, trong núi Đồ-đà, ở nước Tỳ-ma-đại có con chồn hoang bị sư tử đuổi bắt muốn ăn thịt. Chồn hoang hoảng hồn chạy trốn, rớt xuống một cái giếng lớn không thể ra được. Trải qua ba ngày, tâm khai mở về sự chết, mà nói kệ:

Họa thay, nay bị khổ bức bách
Nên sẽ bỏ mạng nơi giếng này
Tất cả vạn vật đều vô thường
Hận không đem thân giao sư tử.
Kêu gào làm chi tội nguy thân
Tham tiếc thân mạng chết vô ích
Vô ích mà chết còn đáng hận
Huống chi để thân nhơ bẩn nước.
Nam-mô sám hối thập phương Phật
Chứng tri tâm con tịnh vô cùng
Đời trước đã tạo tội ba nghiệp
Nguyện đời này thân trả cho xong.
Tiêu trừ các tội, tịnh ba nghiệp
Chuyên tâm bất động nghĩ chân chánh
Ra đời luôn gặp bậc minh sư
Như pháp tu hành mau thành Phật.
Trời Đế Thích được nghe tên Phật
Bỗng nhiên lông dựng nhớ Phật xưa
Tự nghĩ thân cô không thầy dẫn
Tham đắm năm dục tự nhận chìm.
Không thể thoát ra ngục ân ái
Tư duy xót xa lệ tuôn rơi
Tức thời chư Thiên tám vạn chúng
Bay xuống đến giếng muốn hỏi thăm.
Bèn thấy chồn hoang ở đáy giếng
Hai tay níu đất không ra được
Vua Trời lại tự suy nghĩ, nói:
Thánh nhân ứng hiện đủ mọi cách.
Ta nay tuy thấy tướng chồn hoang
Chắc chắn Bồ-tát chẳng phải thường
Ta nên hỏi rõ để quyết nghi
Và khiến chư Thiên được nghe pháp.
Thiên đế Thích nói:
Từ lâu không được nghe Thánh giáo
Luôn ở tối tăm không thầy dẫn
Lời Ngài vừa nêu chẳng phải thường
Xin vì chư Thiên nói giáo pháp.
Khi ấy, chồn hoang ngẩng đầu nói:
“Ông là Thiên đế không học thức
Không biết lễ nghi, rất kiêu si
Pháp sư ở dưới, mình đứng trên.
Hỏi giáo pháp không biết cung kính
Nước pháp thanh tịnh cứu được người
Muốn nghe giáo pháp sao cao ngạo?”
Nghe vậy Đế Thích rất hổ thẹn.
Chư Thiên đi theo ngạc nhiên cười
Thiên vương ra lệnh không tội chết
Nhưng bị xấu hổ rất đáng thương
Tức thời Đế Thích bảo chư Thiên:
Việc này chớ lấy làm kinh ngạc
Vì ta ngu tối làm không hợp
Ắt phải cần nghe pháp giải thoát
Tức thời đưa áo trời quỳ xuống.
Đón lấy chồn hoang lên khỏi giếng
Chắp tay xin lỗi, làm không đúng
Cúi đầu sám hối xin chỉ dạy
Chư Thiên đúng như lời thầy dạy.
Bị năm dục trói rất hoang mê
Do không gặp minh sư dẫn dắt
Chỉ dạy khổ, lạc, thường, vô thường
Chư Thiên bày thức ăn cam lồ.
Chồn hoang được ăn tiếp tục sống
Trong họa được phước ngoài ý muốn
Lòng sung sướng an vui vô lượng.

Khi đó, chồn hoang tự nghĩ: “Trong đường súc sinh không loài gì xấu xí, khốn khổ bằng loài chồn hoang, nhưng nhờ năng lực của trí tuệ mà được như vậy.”

Lại nghĩ: “Thân mạng tàn phế vốn không có gì đáng yêu mến để nói là vui sướng. Còn vui mừng là nhờ khuyến hóa thông suốt mà thôi. Chư Thiên ngu tối này đều nhờ vào Đế Thích trước kia đã có chút vi trần trí tuệ nên cùng nhau đến đây để muốn nghe pháp.” Chồn hoang lại tự khen:

–Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay, có sự an ủi nào bằng, nay nhờ giáo hóa thông suốt nên trở thành công đức của mình.

Chồn hoang lại nghĩ: “Ân ngày nay đều do tôn sư Hòa thượng của ta từ bi thương xót dạy trao trí tuệ phương tiện, công đức. Nammô diệu lực nơi thầy ta. Nam-mô thầy ta. Nam-mô Bát-nhã. Nammô Bát-nhã. Dù lại mất hạnh, sinh trong đường ác, vẫn biết thân mạng kiếp trước, biết về nghiệp duyên của mình. Lực của Bát-nhã có thể tạo cảm ứng khiến chư Thiên giáng thần xuống tiếp tế, cúng dường, lại được thần thông biến hóa mở rộng tâm nhỏ nhoi của ta.” Khi ấy, Thiên đế Thích nói với chư Thiên:

–Như thầy nói, nhất định sẽ thuyết pháp. Nay chúng tôi đến đây thích đạt được lợi ích. Xin mọi người hãy cúi đầu đảnh lễ, chân thành thỉnh thầy thuyết pháp.

Mọi người đều vâng dạ rồi cung kính trịch áo vai bên phải, vây quanh chồn hoang, quỳ dài chắp tay, đồng nói kệ:

Lành thay! May thay!
Hòa thượng dã can
Xin thầy thuyết pháp
Khai hóa trời, người.
Trời, người tối tăm
Bị năm dục trói
Luôn sợ hết phước
Vô thường biến đổi.
Chết đọa đường ác
Muốn nhổ nạn sâu
Từ xưa đến nay
Mấy vạn ức năm.
Nay mới được gặp
Ruộng phước tốt tươi
Xin vui lòng thương
Nên chỉ giáo pháp.
Trời, người được phước
Chúng sinh cũng vậy
Nguyện cùng Hòa thượng
Mãi mãi gặp nhau.
Để thành Phật đạo
Thường tạo nhân duyên
Người sáng khó gặp
Nên lập thệ nguyện.

Lúc ấy, chồn hoang thấy các vị trời, ân cần khuyến thỉnh, ưa thích nghe pháp nên càng thêm vui mừng, liền nói với vua Trời:

–Ta nhớ lại thuở xưa từng thấy người đời, ai muốn nghe pháp thì trước hết phải trải tòa cao, trang nghiêm thanh tịnh mới thỉnh Pháp sư lên tòa thuyết pháp. Vì sao? Vì kinh pháp luôn được quý trọng, ai cung kính thì được phước, không nên khinh thường làm mất phước lớn.

Nghe vậy, chư Thiên đều xin vâng dạ, cởi áo trời quý giá chất thành tòa cao, chỉ trong chốc lát nơi chốn được trang nghiêm đẹp đẽ, thanh tịnh bậc nhất. Chồn hoang lên tòa nói với vua Trời:

–Nay ta thuyết pháp chính là vì hai nhân duyên:

  1. Thuyết pháp để mở bày dẫn dắt hàng trời, người được phước vô lượng.
  2. Vì báo ân đã cho ăn, lẽ nào lại không nói pháp? Thiên Đế thưa:

–Thoát khỏi giếng nguy nan để bảo toàn thân mạng, công báo đáp phải lớn lao. Tôn giả vì sao nói thuyết pháp để báo ân mà không đề cập tới thân mạng. Vì sao? Vì tất cả hàng trời, người ai nấy đều thích sống bình an, không muốn chết. Vì nhân duyên đó mà công lao bảo toàn thân mạng làm sao không lớn?

Chồn hoang nói:

–Chết sống thích hợp là đều tùy người. Có người ham sống, có người thích chết. Ai tham sống? Là người đó sống trên thế gian ngu si tối tăm, không biết chết rồi đời sau sinh trở lại, trái Phật xa pháp, không gặp minh sư, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, chỉ theo bạn ác. Người như vậy là tham sống sợ chết. Người nào thích chết, là người gặp được minh sư, phụng thờ Tam bảo, cải ác tu thiện, hiếu dưỡng với cha mẹ, kính thờ sư trưởng, hòa thuận với vợ con, nô tỳ và quyến thuộc, khiêm nhường, tôn trọng mọi người. Người như vậy ghét sống thích chết. Vì sao? Vì người thiện chết, phước ứng, được sinh lên cõi trời thọ hưởng năm dục lạc, còn người ác chết thì sẽ bị đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Người thiện thích chết, như tù nhân thoát khỏi ngục. Người ác sợ chết như kẻ tội bị bắt vào ngục.

Vua Trời hỏi:

–Như lời Tôn giả dạy: Bảo toàn thân mạng là không có công lao. Như vậy, ngoài hai công đức là thí cho ăn, thí cho pháp đó ra thì còn có công đức gì? Xin Tôn giả hãy nói rõ để mở bày chỉ dẫn kẻ tối tăm.

Chồn hoang nói:

–Bố thí thức ăn uống chỉ cứu mạng sống trong một ngày. Bố thí các vật báu thì phước đức cứu giúp là trong một đời, nhưng tăng thêm sự sinh tử, bị trói buộc vào nhân duyên. Thuyết pháp giáo hóa thì gọi là pháp thí, có thể khiến cho chúng sinh đạt được đạo xuất thế gian. Đạo xuất thế gian gồm có ba hạng: Một là La-hán; hai là Bíchchi-phật và ba là Phật đạo. Người của ba thừa này đều do nghe pháp, tu hành đúng với lời nói. Lại có các chúng sinh thoát khỏi ba đường ác, hưởng phước lạc nơi cõi trời, người. Tất cả đều do nghe pháp, cho nên Đức Phật dạy: “Ai đem pháp bố thí thì được công đức vô lượng.”

Vua Trời nghe vậy, thưa:

–Thân của thầy ngày nay là do nghiệp báo hay là ứng hóa thân?

Chồn hoang trả lời:

–Đó là tội theo nghiệp báo chứ chẳng phải là thân ứng hóa.

Nghe vậy, vua Trời bỗng nhiên sợ hãi, bi ai, nước mắt đầm đìa, liền tỏ lòng tôn kính, thưa với chồn hoang:

–Ý của tôi nói là Bồ-tát Thánh nhân ứng hiện để cứu vật, nhưng nay chỉ mới nghe nói về tội theo nghiệp báo, chưa biết nguyên do, xin hãy thương xót nêu bày nhân duyên.

Chồn hoang đáp:

–Muốn nghe ư, tốt lắm, nay ta sẽ nói. Ta nhớ lại thuở xưa sống ở thành vua Ba-đầu-ma, nước Ba-la-nại, làm con trong gia đình nghèo, tên A-dật-đa, dòng Sát-đế-lợi. Thuở nhỏ rất thông minh, hiếu học, đến năm mười hai tuổi theo minh sư sống trong núi sâu, khổ cực nhưng vẫn phụng thờ thầy, siêng năng nghiên cứu học tập, tinh tấn không biếng nhác. Sớm tối thầy luôn dạy bảo không để phí một thời gian nào. Trải qua năm mươi năm, tất cả chín mươi sáu thứ, nào kinh, sách, lý luận, chế thuốc, chú thuật, xem tướng tốt xấu, tai ương biến đổi, họa phước, không gì mà không thấu đạt, tài cao, trí đức, danh tiếng đồn khắp phương xa. Bấy giờ, A-dật-đa ngầm suy nghĩ: “Được cứu độ ngày nay đều nhờ ân dạy dỗ, hóa độ của Hòa thượng ta. Công ơn ấy khó báo đền. Nhà ta nghèo thiếu, không lấy gì để cúng dường, chỉ có bán thân để báo ơn thầy.” Nghĩ vậy rồi liền quỳ bạch thầy:

–Bạch thầy! Ngày nay đệ tử muốn tự đem bán thân để báo ân thầy.

Thầy nói:

–Đạo sĩ sống trong núi xin ăn để sống, thật không có đói, nay vì sao con hủy bỏ bản thân quý này để cúng dường thầy? Giờ đây con đã thành tựu được trí tuệ và biện tài, cần phải chuyển hóa cho muôn dân trong cõi trời, người, làm cho đèn chánh pháp được sáng suốt. Công đức giáo hóa ấy lẽ nào không đủ để báo ân thầy chăng? Con không cần hành động nào khác.

Lúc này A-dật-đa đã là người có trí, không trái lời thầy dạy nên lưu lại trong núi xin ăn để sống. Như vậy không bao lâu vua băng hà, quần thần tụ hội bàn luận, ban lệnh cả cõi nước: Các học sĩ nổi tiếng đều triệu tập đầy đủ cùng nhau bàn luận, ai thắng sẽ được làm vua.

Khi ấy, A-dật-đa được mời tập hợp với năm trăm học sĩ khác, trong bảy ngày cùng nhau thi đấu, bàn luận nhưng không có ai hơn mình. Quần thần hoan hỷ mời Bà-la-môn bái lễ A-dật-đa lên ngôi vua. Bấy giờ, thấy việc đã rồi, A-dật-đa vui buồn lẫn lộn suy nghĩ: “Nếu làm vua thì sợ bị kiêu căng, ngạo mạn, tham cầu để thỏa ý muốn, khiến muôn dân khổ sở, chết bị đọa vào địa ngục, thọ khổ. Còn nếu không làm vua thì nhà khổ nghèo, không có bổng lộc, không lấy gì để cúng dường, báo trọng ân của thầy.”

Nghĩ đi nghĩ lại, A-dật-đa phải chấp thuận làm vua để báo ân thầy và nuôi cha mẹ. Suy nghĩ xong, A-dật-đa chịu nhận ngôi vị, chính thức làm vua rồi A-dật-đa sai trung thần sửa soạn xe báu, cờ phướn, lọng báu, hương hoa, kỹ nhạc, trăm món ăn uống, lên núi đón thầy đem về nước để cúng dường. Vua A-dật-đa xây riêng cung xá đầy đủ, nào bảy báu khắc chạm nhiều kiểu, trang trí đủ cách, giường chiếu mền mùng, ăn uống thuốc thang, vườn cây hoa quả, có suối chảy, ao tắm trang trí thích hợp đẹp đẽ để cúng dường thầy. Vua A-dật-đa cùng quần thần, dân chúng, phu nhân, thể nữ trong nước ngày ngày gần gũi thầy, thọ mười pháp thiện, trải qua một trăm năm.

Bấy giờ, nơi biên giới có hai nước nhỏ. Vua hai nước nhỏ ấy vốn oán thù, lập binh mã riêng, đánh giết nhau. Trải qua đã nhiều năm mà không ai thắng. Một nước tên là An-đà-la, một nước tên Ma-la-bà-da. Vua An-đà-la cho mời các quần thần tụ tập cùng nhau bàn luận: Phải làm thế nào để thắng được nước kia. Quần thần tâu:

–Vua A-dật-đa xuất thân là kẻ hàn vi, tuy sống trong địa vị ngôi vua nhưng vẫn giữ ý hàn vi ngày cũ. Từ xưa đến nay vua phụng trì mười pháp thiện, không phạm ngoại sắc, tuy có cung nữ nhưng không nghĩ đến. Theo kế của thần, tìm kiếm trong nước, bất cứ giàu nghèo tuyển chọn các danh nữ đủ một trăm người, tuổi nhỏ, đoan chánh rất là vừa ý, cho trang sức hương hoa thơm khiết rồi sai trung thần chở những vật báu và các thể nữ đến dâng cống vua. Nếu vua A-dật-đa nhận thì xin vua cho một trăm vạn binh hùng mạnh để giúp đỡ đến đánh nước Ma-la-bà-da. Nếu không làm như vậy thì không diệt được bên kia.

Liền theo kế của ông ta, các danh nữ và vật báu tức khắc đã chuẩn bị xong, sai trung thần qua dâng cống. Được các kỹ nữ và nhiều châu báu, vua A-dật-đa rất vui thích hỏi sứ giả:

–Vua của ông dâng cống cho ta những thứ tốt đẹp quý giá như vậy là mong muốn điều gì?

Sứ giả thưa:

–Nước Ma-la-bà-da là do đại vương thống lãnh. Vua ấy ngoan cố không biết lễ nghĩa, dâm loạn vô đạo, không sửa chính sách quốc gia, dân chúng bị khổ cực, nhìn vua ấy như oán thù. Chỉ xin đại vương cho một trăm vạn binh giúp đỡ đến đánh. Lòng thành thật dâng cống chính là điều ấy.

Vua A-dật-đa nói:

–Hay lắm! Hay lắm!

Rồi vua chọn một trăm vạn binh tinh nhuệ, dũng mãnh để giao

cho sứ giả. Vua An-đà-la tự chọn trong nước mình được một trăm vạn người, đồng thời trợ chiến, đánh trống đến chinh phạt. Trong một trăm ngày chiến đấu ác liệt, người chết hơn một nửa mới thắng được nước kia. Vua nước Ma-la-bà-da cuối cùng bị chém và tông tộc của vua cả mấy ngàn vạn người đều chết sạch.

Từ khi được các mỹ nữ, vua A-dật-đa bị tình dục mê loạn, tâm quên mất tất cả chí nguyện xưa, bị chìm đắm trong dâm lạc, không đoái hoài đến chính sự quốc gia. Các quần thần cùng nhau làm loạn, con của lương dân bị bắt làm nô tỳ. Gió mưa không đúng mùa, người đói khổ đầy đường, bị nước khác thù oán đếm xâm chiếm. Vua Adật-đa từ đó bị mất nước rồi chết. Sau khi chết, bị đọa trong địa ngục chịu khổ sở vô lượng. Nhờ đời trước được học vấn có trí tuệ nên biết thân mạng kiếp trước, tâm tự hối hận, cải ác tu thiện. Trong chốc lát ở địa ngục qua đời, rồi sinh vào cõi ngạ quỷ. Lại nhớ lại thân mạng đời trước, liền hối hận những tội lỗi đã qua, tu niệm mười thiện, ở nơi ngạ quỷ thời gian không lâu rồi qua đời, sinh vào loài súc sinh làm thân chồn hoang. Nhờ lực của trí tuệ, lại biết thân mạng đời trước, cải xưa tu nay, phụng trì mười thiện, lại giáo hóa cho các chúng sinh cùng hành mười thiện. Vừa rồi gặp sư tử, lúc đó sợ hãi mà rớt trong giếng, tâm bừng mở, biết sắp chết, mong muốn được sinh lên cõi trời, lìa khổ được vui. Các ngươi cứu vớt ta lên là trái mất bản nguyện, vì vừa trải qua bao thứ đau khổ, không biết khi nào mới thoát khỏi, cho nên ta nói: Các ngươi cứu mạng ta là không có công đức.

Vua Trời hỏi:

–Tôn giả nói: Người thiện muốn chết, việc đó không đúng. Vì sao? Vì thầy ở đáy giếng nếu không thòng áo xuống thì thầy lên không được, tự mình không thể sống. Nay được sống là do thầy nắm áo, cho nên biết rằng thầy muốn sống, vì sao nói là không ham sống?

Chồn hoang trả lời:

–Sở dĩ ta nắm áo chính là có ba nhân duyên lớn:

1. Nắm áo là vì không trái chí nguyện gốc của vua Trời. Người làm trái với ý chí lời nguyện thì không đạt được kết quả, sẽ đưa đến đại khổ. Đem khổ cho người thì đời hiện tại sinh ra chỗ nào cũng không đạt ý nguyện, cầu gì cũng không toại, đi đâu cũng không gặp được gì, tự mình đi tới khổ não. Vì các nhân duyên đó chứ chẳng phải vì ham sống.

2. Nắm áo vì thấy ý của chư Thiên muốn được nghe pháp, vì chư Thiên mà ta nêu giảng chánh pháp, không tiếc rẻ pháp. Nếu như lúc đó không nói thì ta là kẻ tiếc rẻ pháp. Tội tiếc rẻ pháp đời đời sinh ra bị đui mù, câm ngọng, các căn bị bít lấp, sinh ở nơi biên địa ngu si không có trí. Dù sinh ra có đẹp, lành, nhưng lòng vẫn ám độn, học tập không thành. Vì học không thành nên phải đi đến khổ não. Vì các nhân đó, chẳng phải vì ham sống. Giống như người nơi thế gian nhờ đời trước bố thí, tu thiện được phước đức, nay sinh làm người, nguyện gì được nấy, của cải giàu có. Người nghèo đến xin lại tham lam keo kiệt không chịu đem cho. Quả báo tham lam keo kiệt bị đọa trong cõi ngạ quỷ, luôn đói khát, trần truồng không quần áo. Mùa đông lạnh rét, thân thể như cắt xé, mùa nóng thì nóng bức không có chỗ mát mẻ để ẩn núp. Khổ não như vậy trải qua mấy ngàn vạn năm. Tội nơi ngạ quỷ hết, lại sinh vào loài súc sinh, ăn cỏ uống nước, ngu si không biết gì cả, hoặc ăn bùn đất dơ nhớp bất tịnh. Vì tội tham keo kiệt mà thọ quả báo như thế. Tội tiếc rẻ pháp cũng như vậy.

3. Nắm áo chính là để truyền tiếp thần thông biến hóa, làm lợi ích cho hàng trời, người, khiến được mở bày tỏ ngộ. Đó gọi là pháp thí, công đức đó vô lượng. Vì nhân đó chứ không phải vì muốn sống.

Vua Trời hỏi:

–Công đức giáo hóa phước ấy ra sao? Xin Tôn giả hãy nói cho.

Chồn hoang trả lời:

–Giảng nói về chánh pháp có thể làm cho chúng sinh biết chết có sinh trở lại. Ai làm thiện được phước báo, làm ác chịu tai ương, tu đạo được chứng đạo. Nhờ công đức ấy mà đời sau được trí tuệ sáng suốt, biết được thân mạng kiếp trước. Nếu sinh lên cõi trời thì làm thầy của chư Thiên. Nếu sinh trong thế gian, làm Kim luân vương, thường lấy mười thiện để giáo hóa thiên hạ. Nếu làm vua thì lấy chánh pháp để trị, thường biết túc mạng. Vì biết túc mạng nên tâm không buông lung, mọi người tôn kính, hưởng năm thứ dục lạc. Có nhiều Ma vương đến cản trở, phá hoại, làm cho tâm ý người đó mê hoặc, gây ra các nghiệp ác. Dù bất hạnh nhưng khi thọ báo ác nhờ lực của trí tuệ nên mau thoát được khổ, sinh lên cõi trời, hưởng phước lạc, có trí tuệ sáng suốt, tăng trưởng dần dần, thành tựu hạnh Bồ-tát, đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Cho nên Đức

Phật dạy: “Công đức giáo hóa phước ấy là vô lượng.” Vua Trời vui mừng nói:

–Hay thay! Theo lời Tôn giả dạy chư Thiên chúng con hôm nay mới biết tướng sai khác về nhân duyên của công đức nơi tài thí, pháp thí. Tài thí giống như cây đèn một tấc sáng trong phòng nhỏ. Còn pháp thí giống như ánh sáng của mặt trời, chiếu sáng khắp bốn thiên hạ, đi đến chỗ nào cũng trừ bỏ sự tối tăm. Vì sao? Vì tánh của mặt trời vốn sáng cho nên có thể chiếu soi mọi vật. Hòa thượng nay cũng như vậy, vì vốn tu tập được trí tuệ sáng suốt, rồi đem trí tuệ ấy trừ diệt các tối tăm của chúng sinh.

Khi vua Trời nói như vậy xong, tám vạn chúng trời đều đứng dậy, sửa lại y phục, quỳ dài, chắp tay thưa:

–Xin Tôn giả rủ lòng thương xót trao cho pháp mười thiện để được nhiều lợi ích, đem lợi lạc an vui cho chúng sinh, cũng khiến cho công đức của Hòa thượng được tăng trưởng.

Chồn hoang nói:

–Hay lắm! Đã đúng thời.

Rồi chồn hoang nói với vua Trời:

–Cách thức thọ giới trước tiên phải sám hối, thanh lọc thân, khẩu, ý. Thân nghiệp là gì? Là sát sinh, trộm cắp và tà dâm. Khẩu nghiệp là gì? Là nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác và nói lời thêu dệt. Ý nghiệp là gì? Là ganh ghét, sân giận, kiêu mạn và tà kiến. Mười việc ấy cấm thân, khẩu, ý không phạm các việc ác gọi là mười thiện. Còn như buông thả thân, khẩu, ý gây ra các nghiệp ác, đó gọi là mười ác. Một lòng chí thành sám hối để tiêu trừ mười ác, do mười ác tiêu diệt cho nên thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Vì ba nghiệp thanh tịnh nên gọi là mười thiện.

Vua Trời hỏi:

–Công đức của mười thiện, quả báo như thế nào?

Chồn hoang đáp:

–Ta từng nghe Đức Phật nói: Người hành mười thiện được quả

báo sinh lên sáu tầng trời cõi Dục, có cung điện bảy báu, tự tại thọ hưởng năm dục, có một trăm vị ngon vật lạ, sống lâu vô lượng, cha mẹ vợ con, lục thân quyến thuộc đẹp đẽ, trong sạch, hoan hỷ thọ lạc. Giả sử chư Thiên giữ đủ mười thiện, khi phước trời đã hết thì sinh trở lại trong cõi trời, phước báo thù thắng hơn quả báo mười thiện nơi cõi người. Vì sao? Vì người đời tu mười thiện đạo đối với ba giới thuộc tâm đạo khó có thể hộ trì được. Giới không sân, đầu tiên phải cần phương tiện để hành trì lòng Từ bi, sau đó mới có thể thành tựu giới không sân. Người đời tu hành lòng từ khó được lâu, giống như lấy dao chém nước, ngay lúc chém thì nước tức thì liền lại. Giữ giới không sân cũng lại như vậy. Giới ganh ghét thì nổi lên có lúc. Thế nào gọi là có lúc? Nghĩa là thấy người khác được lợi lộc, thấy người khác an lạc, thấy người khác đẹp đẽ, thấy người khác mạnh mẽ, thấy người khác thông minh… Vì thế nên biết, tâm ganh ghét phát khởi có lúc, tâm kiêu mạn cũng khởi lên có lúc. Thấy người ngu si thì tâm sinh kiêu mạn. Thấy người xấu xí, thấy người dơ dáy, thấy người nghèo khổ, với những người đui, điếc, què quặt, các căn không đủ, dân mọi rợ tâm kiêu mạn khi thấy mới dấy khởi. Thế nên biết, giới không kiêu mạn phát khởi có lúc. Cho nên người đời tâm giới khó giữ. Dù cố gắng giữ nhưng được đó rồi quên mất ngay. Nên người thế gian được quả báo nơi mười thiện dù hưởng phước trời nhưng không bằng công đức nơi mười thiện của chư Thiên, thần lực ánh sáng, hưởng lợi về tướng tốt, oai nghiêm bậc nhất, biết được sự việc đời trước. Tất cả chư Thiên đều như vậy, cho nên biết rằng quả báo của chư Thiên tu hành mười thiện vượt hơn người ở thế gian.

Vua Trời thưa:

–Như Tôn giả đã nói, con người hành mười thiện, ba giới thuộc tâm đạo khó mà hộ trì. Cõi trời cũng thế, cũng có các tâm ganh ghét, sân giận, kiêu mạn, tà kiến. Vì sao Tôn giả nói phước báo của cõi trời hơn hẳn nơi con người?

Chồn hoang nói:

–Cõi trời tuy có như thế nhưng vẫn khác với cõi người. Vì sao? Vì phước đức của cõi trời khổ ít vui nhiều, tâm phiền não nhẹ. Người đời thì phước mỏng, vui ít mà khổ nhiều, tâm phiền não nặng nề.

Vua Trời thưa:

–Xưa nay chư Thiên quen theo vui sướng, tâm thô tháo giống như khỉ vượn. Nay giữ mười thiện sau quên mất, vậy khi phạm như vậy thì phải làm thế nào?

Chồn hoang trả lời:

–Ta từng nghe thầy dạy: Người hành mười thiện nếu có phạm lỗi lầm gây ra nghiệp ác thì nên đến chỗ bậc Hiền minh, có phước đức, tùy theo tội phạm mà phát lồ sám hối, nghe theo lời dạy của vị ấy. Làm được như vậy thì không mất giới. Vì sao? Vì giới nơi mười thiện giống như cây lúa mạ, phiền não như cỏ. Cỏ với lúa mạ làm cản trở nhau. Vì muốn mạ lớn thì phải trừ bỏ cỏ xấu. Vì lúa mạ sạch sẽ nên thu hoạch được nhiều. Nhờ thu hoạch được nhiều nên không đói khổ.

Bấy giờ, vua Trời và tám vạn chúng trời nghe như vậy rất vui mừng, không còn ưu lo phước hết bị chết, chịu quả báo trong cõi ác. Các vị lại suy nghĩ: Công đức hành thiện tuy không có khổ báo nhưng có sinh tử, không tránh khỏi vô thường, kể cả Thiên vương Tha hóa tự tại, thấy người tu phước thì tâm sinh ganh ghét tạo các chướng nạn, quên mất nẻo thiện, gây ra các nghiệp ác. Do tạo nghiệp ác nên bị khổ báo.

Vua Trời lại thưa:

–Nhờ tu công đức gì mà được không chết, không bị Ma vương quấy nhiễu?

Chồn hoang trả lời:

–Ta từng nghe Đức Phật nói: Người nào phát tâm Bồ-đề, tu hạnh của Bồ-tát thì Ma vương không thể nào phá hoại được. Vì tâm không mê hoặc mà đời đời sinh ra được trí tuệ sáng suốt. Nhờ có trí tuệ sáng suốt nên biết được thân mạng kiếp trước. Nhờ biết thân mạng kiếp trước nên không tạo nghiệp ác. Nhờ tâm thanh tịnh nên đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Nhờ đắc pháp Nhẫn vô sinh nên đối với đạo không thoái chuyển, xa lìa sinh tử, ưu não, khổ hoạn.

Vua Trời thưa:

–Tu đạo Bồ-tát nên hành pháp gì?

Chồn hoang nói:

–Tôi từng nghe Phật dạy: Người cầu Phật đạo xuất phát từ ban

đầu. Trước tiên phải học rộng về nhân duyên của các pháp. Nhờ hiểu rõ các nhân duyên mà sinh lòng tin kiên cố. Nhờ tín căn vững chắc mà khởi tinh tấn. Nhờ sức mạnh của tinh tấn nên không tạo tất cả nhân duyên của nghiệp ác, làm cho tâm thuần thiện. Nhờ tâm không buông lung nên trí tuệ được thành tựu. Nhờ diệu lực nơi trí tuệ mà thâu giữ hết thảy ba mươi bảy phẩm Trợ đạo Bồ-đề.

Vua Trời hỏi:

–Như lời Tôn giả dạy về ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, nghĩa của chúng sâu rộng, không phải kẻ thô cạn có thể hiểu được, vậy làm sao đi vào hạnh của đạo Bồ-tát?

Chồn hoang nói:

–Ta từng nghe Đức Phật dạy: Người tu đạo Bồ-tát trước tiên phải dùng phương tiện để điều phục các căn. Phương tiện là gì? Là sáu pháp Ba-la-mật, bốn tâm vô lượng. Đó gọi là phương tiện để điều phục các căn.

Vua Trời hỏi:

–Ý nghĩa của sáu pháp Ba-la-mật là gì? Xin Tôn giả dạy cho.

Chồn hoang nói:

–Sáu pháp Ba-la-mật là:

  1. Bố thí để phá trừ tâm tham lam keo kiệt, không còn tiếc rẻ.
  2. Giữ điều thiện, không làm điều ác.
  3. Gặp việc ác, tâm nhẫn chịu, không ôm lòng trả thù.
  4. Tinh tấn tu hành đạo nghiệp, không biếng trễ, thoái lui.
  5. Thâu giữ tâm mình, không có tà niệm.
  6. Tu tập trí tuệ được chiếu sáng để diệt trừ phiền não, vô minh tối tăm chướng ngại.

Nhờ sức mạnh của sáu pháp Ba-la-mật này để điều phục các căn. Lại có bốn pháp để điều phục các căn:

  1. Tâm Từ.
  2. Tâm Bi.
  3. Tâm Hỷ. 4. Tâm Xả.

Đó là bốn việc, còn gọi là bốn Tâm vô lượng.

Vua Trời hỏi:

–Hành Từ là thế nào?

Chồn hoang nói:

–Nếu thấy người bị khổ ách, nên sinh lòng thương xót để cứu độ, khiến cho họ được an vui.

–Sao gọi là Bi?

–Là thấy các chúng sinh vì do vô minh, tham ái mà tạo ra nghiệp sinh tử, chịu khổ trong năm đường, tự mình không thể thoát được, cho nên ta nay không biếng nhác mà siêng năng tinh tấn tu tập trí tuệ mau thành Phật đạo. Chứng được Phật đạo rồi, nên dùng trí tuệ sáng suốt để chiếu rọi, diệt trừ vô minh tăm tối cho chúng sinh, khiến họ thấy được ánh sáng rực rỡ, thoát khỏi các dây khổ. Tuy chưa thành Phật nhưng phàm làm ra những nghiệp thiện gì đều hồi hướng cho chúng sinh khiến họ đều được an lạc. Chúng sinh có tội, ta sẽ chịu thay thế họ. Đó gọi là tâm Bi.

–Sao gọi là Hỷ?

–Nếu thấy người đời tu hành nghiệp thiện, cầu quả nơi ba thừa thì khuyến khích, trợ duyên và tùy hỷ. Thấy người được an vui, tâm mình cũng tùy hỷ. Thấy người xinh đẹp, thấy người mạnh mẽ, thấy người giàu sang, thấy người có trí tuệ, thấy người có tâm Từ, thấy người hiếu thuận, nói chung tất cả người thiện nào cũng phải khuyến khích giúp đỡ, tùy hỷ. Đó là tâm Hỷ.

–Sao gọi là tâm Xả?

–Phàm làm được việc gì, tất cả công đức đều ban ơn cho người, không mong đền trả. Không trông mong đền trả đó là Xả.

Thành tựu được bốn việc trên gọi là bốn Tâm vô lượng. Vì chúng sinh vô lượng nên tâm Từ cũng vô lượng. Vì chúng sinh vô lượng nên tâm Bi cũng vô lượng. Vì chúng sinh vô lượng nên tâm Hỷ cũng vô lượng. Vì chúng sinh vô lượng nên tâm Xả cũng vô lượng. Do đấy gọi là bốn Tâm vô lượng. Tiếp với sáu Độ trước, gọi là mười pháp Ba-la-mật. Mười pháp Ba-la-mật bao trùm tất cả hạnh của đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Thiên đế Thích nghe chồn hoang nói về nhân duyên công đức của mười pháp hạnh thiện, lại nghe nghĩa nơi nhân duyên của Bồ-tát hành đạo Bồ-tát, lưới si liền được tháo mở, vui mừng sung sướng, động cả toàn thân. Thế rồi vua Trời cùng tám vạn chúng Trời tùy tùng đứng dậy cung kính chắp tay thưa:

–Hôm nay đệ tử cùng tám vạn chúng Trời đồng một lòng phát tâm Bồ-đề. Như Hòa thượng đã nói về hành đạo Bồ-tát, đệ tử xin phụng trì, cúi xin Hòa thượng tùy hỷ ấn chứng.

Chồn hoang nói:

–Nên biết đúng thời! Như vậy đã đúng với ý nguyện xưa của các ngươi đã trông mong.

Vua Trời thưa:

–Hòa thượng ăn uống, pháp dùng như thế nào? Cúi xin được chỉ giáo để cúng dường.

Chồn hoang đáp:

–Thức ăn không giống như người thế gian. Vì sao? Vì nhân duyên của nghiệp tội nên vật dụng để ăn uống rất là cấu uế. Thân hình tợ súc sinh nhưng không khác gì ngạ quỷ. Các ngươi không cần hỏi về vật dụng ăn uống của ta.

Vua Trời thưa:

–Hòa thượng ăn uống ngon cũng nên chỉ vẽ, dở cũng phải nói ra để đệ tử theo đó mà làm những món thích hợp cúng dường.

Chồn hoang đáp:

–Ta thường ăn phân của sư tử, hổ lang và xương cốt người chết ở nơi gò mả. Áo rách da nát cũng không được ăn. Những thức ăn như vậy nhưng gặp lúc đói khát bức bách cũng phải ăn bùn đất. Quả báo của ta khổ từ sinh đến chết. Dù ăn đồ bất tịnh nhưng cũng không được no đủ.

Khi ấy Thiên đế Thích và chư Thiên nghe tướng ăn uống của chồn hoang mà buồn bã thương xót, khóc lóc, thưa với chồn hoang:

–Ý của đệ tử muốn thiết bày cúng dường. Như lời thầy dạy thì những ý nguyện của đệ tử không thành, không biết làm sao, nay trở lại Thiên cung, đệ tử phải làm cách nào để báo ân nặng của thầy?

Dã can nói:

–Hôm nay các ngươi theo ta nghe pháp. Hãy trở về Thiên cung lần lượt giáo hóa để khai ngộ cho chư Thiên. Bất cứ nam, nữ, cho đến một người, khiến họ tin thọ và làm như vậy, không những báo ân ta mà còn báo ân nơi tất cả chư Phật. Tùy theo sự thích nghi mà giáo hóa để làm tăng trưởng công đức cho chư Thiên, huống gì là giáo hóa khai ngộ cho nhiều người, công đức ấy là vô lượng.

Chư Thiên nghe vậy liền đứng dậy thưa:

–Đệ tử chúng con nay trở về Thiên cung, chưa biết khi nào Hòa thượng xả thân tội báo này để sinh lên cõi trời được gặp nhau.

Chồn hoang đáp:

–Thời gian còn bảy ngày nữa ta sẽ xả thân tội lỗi này, sinh lên cõi trời Đâu-suất. Các ngươi có thể nguyện sinh vào cõi trời ấy. Vì sao? Vì nơi cõi trời Đâu-suất có nhiều Bồ-tát thuyết pháp giáo hóa, vì chư Thiên mà dốc cầu Phật đạo.

Vua Trời thưa:

–Như lời Tôn giả dạy, quyến thuộc của đệ tử ở cõi trời Đao-lợi phước hết, qua đời đều được sinh vào cõi trời Đâu-suất ấy thầy trò cùng gặp nhau để phụng trì giáo pháp, giống như ngày nay.

Nói xong, Đế Thích cùng chúng trời dùng hoa hương trời tung rải lên chỗ chồn hoang rồi từ biệt ra đi.

Chư Thiên đi rồi, chồn hoang không rời chỗ cũ, nhất tâm chuyên niệm về pháp mười hạnh thiện, không đi kiếm ăn. Sau bảy ngày liền qua đời, sinh lên cõi trời Đâu-suất, làm con của Thiên vương. Lại biết thân mạng kiếp trước, lại dùng pháp mười thiện giáo hóa chư Thiên.

Đức Phật nói với vua:

–Chồn hoang khi ấy chính là thân ta. Còn Thiên đế Thích nay là Tôn giả Xá-lợi-phất. A-dật-đa khi ấy là Đại sư giáo thọ. Ưu-bađạt chính là Di-lặc. Tám vạn chư Thiên nay là tám vạn Bồ-tát đạt quả vị không thoái chuyển ở cõi Ta-bà.

Đức Phật nói:

–Đại vương! Nhớ lại về thời xa xưa, lúc mới phát tâm tu hạnh Bồ-đề cho đến chứng được vô sinh. Trong thời gian ấy thường cùng với Di-lặc, Xá-lợi-phất… vì cầu pháp mà luôn siêng năng, không nghĩ đến thân mạng, tìm kiếm minh sư để gần gũi phụng trì, nghiên cứu, tinh tấn học hỏi nên thành tựu được trí tuệ. Nhờ diệu lực của trí tuệ nên trong năm đường sinh vào nơi chốn nào cũng giáo hóa được thành tựu, khiến cho vô lượng chúng sinh vượt qua biển khổ, đến nay mới được thành Phật, đều do phương tiện nơi trí tuệ Bát-nhã đoạn trừ tất cả nhân duyên ràng buộc chứng đắc đạo quả Đẳng chánh giác. Lại dùng trí tuệ giáo hóa chúng sinh trong cõi Ta-bà, vượt qua khổ của ba cõi. Cho nên ta nói trí tuệ Bát-nhã có bốn danh nghĩa.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc và các quyến thuộc nghe Phật nói vậy, tâm ý khai mở cùng đứng dậy làm lễ, vui mừng sung sướng đứng qua một bên, chắp tay, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con nay đến gặp Thế Tôn thật là sung sướng, được lợi ích hoàn toàn, được nghe thuyết pháp, không còn biết mệt mỏi, biếng trễ. Vì sao? Vì trước đây Thế Tôn nói về bốn pháp Chân đế, mười hai Nhân duyên, đạo xuất thế gian, mà chúng con thì tâm ám độn, mờ mịt không hiểu được. Vì không hiểu nên thân thể mệt mỏi. Nay được nghe Thế Tôn nói về pháp của hạnh Bồ-tát, tuy chưa hiểu được hoàn toàn nhưng tâm rất ưa thích, khao khát muốn được nghe, không nhàm chán. Đệ tử nay muốn phát tâm Bồ-đề, cầu đạo Vô thượng. Cúi xin Đức Thế Tôn thương xót chấp thuận để chỉ dạy các pháp Ba-la-mật mà Bồ-tát thực hành, chúng con cũng sẽ thực hành theo Ngài dạy.

Đức Phật nói:

–Đại vương! Pháp của hạnh Bồ-tát như trên đã nói về thân, khẩu, ý nghiệp, hành của mười thiện đạo, mười pháp Ba-la-mật, thâu tóm chung tất cả pháp trợ đạo. Đại vương hãy nên thực hành.

Vua hỏi:

–Như lời Thế Tôn dạy, hành pháp mười thiện, ba pháp thuộc tâm khó có thể hộ trì. Như vậy, thọ như thế nào để không rơi mất?

Đức Phật nói:

–Đại vương! Tâm của người thế gian thô tháo giống như khỉ vượn bị gió phiền não làm lay động. Cho nên ai muốn hành đạo mười thiện thì không nên chậm trễ. Muốn tu mười thiện phải giới hạn nơi ba thời:

  1. Từ sáng sớm đến khi ăn gọi là thượng thời.
  2. Quá bữa, ăn một chút xíu gọi là trung thời.
  3. Khi đi bộ một trăm bước, gọi là hạ thời.

Thọ pháp mười thiện tùy theo khả năng của mình, ở trong mỗi một thời phải giữ gìn ý của mình, kiên trì ba giới, không để cho thiếu mất. Đó gọi là tu hành mười thiện.

Vua hỏi:

–Như Thế Tôn dạy, trong ba thời gian hành giả giữ mười thiện thì công ấy rất nhỏ, làm sao sinh phước được?

Đức Phật nói:

–Người tu mười thiện thời gian tuy ngắn nhưng công đức tạo phước báo rất nhiều. Vì sao? Vì ba giới thuộc tâm, khó giữ gìn. Tuy giữ trong thời gian ngắn nhưng quả báo là vô lượng. Giống như có người cất chứa củi cỏ cả trăm năm rồi lấy lửa đốt đi, chỉ trong chốc lát thì củi đều cháy sạch. Thế nên biết, tuy tu mười thiện, trong khoảnh khắc có thể diệt trừ vô lượng tội nặng của nghiệp ác. Lại như dùi lửa, gia công siêng năng dụng lực thì chỉ trong chốc lát được lửa, năng lực của lửa có thể thiêu đốt cây cỏ, núi rừng trong thiên hạ, đến khi nào trụi sạch mới tắt. Đại vương nên biết! Người tu mười thiện cũng như vậy. Công đức trong chốc lát nhưng có thể tiêu diệt vô lượng tội nặng của nghiệp ác, có thể khiến cho hành giả sinh khởi mầm mống Bồ-đề. Vì mầm mống thành rồi phát triển dần dần, đến khi thành tựu quả Phật.

Nghe xong, vua liền đứng dậy làm lễ, rất vui vẻ hân hoan, chưa bao giờ có. Vua bạch Thế Tôn:

–Hôm nay đệ tử được thiện lợi lớn. Vì sao? Vì nghe Thế Tôn thuyết giảng về nhân duyên công đức của việc tu tập đạo mười thiện, khiến cho chúng sinh phát khởi mầm mống Bồ-đề. Nay đệ tử lập chí vui thích Bồ-đề, đệ tử sẽ cố gắng tu hành tâm không thoái lui.

Khi Đức Phật giảng nói xong, vua và quần thần, quan viên, hậu cung, phu nhân, tùy tùng cùng bốn hàng đệ tử, trời, rồng, quỷ thần, người và không phải người, cùng hơn năm ngàn người đều phát tâm cầu đạt đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc cùng đại phu nhân khi ra, vào, lui, tới thường sai bốn người là Phiến-đề-la (Phiến-đề-la: Hán dịch là Thạch

nữ; vì không có nam căn, nữ căn nên gọi là Thạch nữ) có sức mạnh hơn người khiêng kiệu hoàng hậu. Xe kiệu của hoàng hậu đi làm bằng bảy báu, lưu lại nghỉ bên ngoài tinh xá Kỳ hoàn, rồi ra lệnh các quan thái giám bảo vệ. Thái giám chuyển lệnh cho bốn Phiến-đề-la giữ kiệu của phu nhân. Hoàng hậu đích thân đến bên Đức Phật nghe pháp. Đám Phiến-đề-la đều ở dưới kiệu xe ngủ say không hay biết.

Khi ấy, có tên hung ác ăn cắp ngọc báu ma-ni trong xe của phu nhân. Lúc này, quan thái giám ra xem xét kiệu, nhưng không thấy ngọc báu, liền hoảng kinh, sợ phu nhân quở trách. Thái giám hỏi thạch nữ:

–Sai các ngươi giữ kiệu, vì sao lấy trộm châu báu?

Thạch nữ trả lời:

–Chúng tôi thật không trộm cắp.

Thái giám nổi giận lấy roi đánh thạch nữ túi bụi, đau tận tới xương. Lúc này có một thạch nữ tự biết mình không trộm cắp mà lại bị đánh đập, liền chạy trốn, đột nhập vào tinh xá kêu oan. Chúng hội nghe vậy không ai biết vì sao.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Ông hãy ra ngoài chỗ quan thái giám, bảo họ đừng đánh người vô tội. Vì sao? Vì bốn thạch nữ ấy chính là thầy đời trước của hoàng hậu, chính họ không có tội lỗi, vì sao lại đánh đập họ để tự tạo nhân duyên cho nghiệp ác đời sau.

Nghe vậy, hoàng hậu liền đứng dậy, cung kính chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn nói, bốn thạch nữ khiêng kiệu chính là thầy đời trước của hoàng hậu. Tâm còn mê muội không hiểu, cúi xin Thế Tôn hãy nói về nhân duyên ấy, để cho đại chúng được nghe biết.

Đức Phật bảo hoàng hậu:

–Hãy kêu thạch nữ đến trước chỗ Thế Tôn để nghiệm hư thật ra sao.

Hoàng hậu phụng mệnh, liền sai thái giám ra dẫn thạch nữ đến. Bốn thạch nữ tới nơi, thấy Đức Phật liền cúi đầu khóc lóc, quỳ xuống chắp tay thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con thật tình không trộm cắp châu báu. Vì nhân duyên gì mà bị tội này, phải chịu đánh đập đau đớn khiến thân thể như tan nát?

Đức Thế Tôn bảo:

–Nhân duyên của nghiệp tội do tự thân tạo ra, không phải do cha mẹ làm, cũng chẳng phải từ trên trời rớt xuống. Người làm thiện, ác thì tự mình chịu quả báo khổ hay vui, giống như tiếng vang vọng lại. Hiện tại tham lợi dưỡng, tâm làm theo việc tà vạy, dua nịnh, không biết rằng phải chịu khổ muôn kiếp về sau. Ác từ tâm sinh ra, trở lại làm hại chính mình, giống như sắt sinh rỉ làm tiêu hủy hình thể của sắt.

Vua lại chắp tay bạch Phật:

–Thế Tôn nói pháp trước sau đều có nhân duyên. Bốn thạch nữ ngày nay đời trước vốn có nhân duyên gì? Xin Phật hãy nói để khai ngộ cho kẻ đui mù được nhiều lợi ích, mọi người được mong nhờ.

Đức Phật bảo vua:

–Các vị muốn nghe. Tốt lắm, hãy thâu giữ tâm, lắng nghe cho kỹ, Như Lai nay sẽ nói.

PHẬT THUYẾT VỊ TẰNG HỮU NHÂN DUYÊN KINH

QUYỂN HẠ

Đức Phật lại tư duy: “Nay trong pháp của ta có các Tỳ-kheo lời nói không đi đôi với việc làm, tâm miệng trái ngược nhau, hoặc vì lợi dưỡng, tiền tài, ăn uống; hoặc vì danh tiếng, quyến thuộc được đông đảo; hoặc có người vì chán ghét phép vua phục dịch xuất gia học đạo đều không có hướng về ba môn giải thoát, vượt khổ trong ba cõi, đem tâm bất tịnh, tham lam thọ dụng đồ của tín thí, không biết đời sau nhiều kiếp phải chịu tai ương để trả nợ sau. Vì những hạng người ấy, lẽ nào ta lại không giảng nói.” Đức Phật nói với vua:

–Ta nhớ lại về thời quá khứ vô số kiếp xa xưa có một nước lớn tên là Bùi-phiến-xà. Nước ấy có một người con gái tên Đề-vi, dòng Bà-la-môn, chồng chết, ở một mình. Nhà cô ta rất giàu nhưng không có con cái, lại không cha mẹ, chỉ ở một mình, không chỗ nương tựa. Trong pháp Bà-la-môn, nếu không đúng như ý thì tự thiêu thân. Các Bà-la-môn luôn luôn đến chỗ Đề-vi giáo hóa, bảo:

–Thân khốn khổ ngày nay đều do tội của thân đời trước. Sao gọi là tội? Nghĩa là không tôn kính, phụng thờ các Bà-la-môn, lại không hiếu thuận cha mẹ, vợ chồng, không có lòng Từ với sự nuôi dưỡng con cái… Vì có những tội ấy mà ngày nay thân chịu cô đơn, khốn khổ. Hiện tại cô không tu phước để diệt trừ tội lỗi thì đời sau càng đau khổ hơn, bị đọa trong địa ngục, bấy giờ có hối hận cũng không kịp.

Đề-vi hỏi:

–Tôi phải làm phước gì để diệt tội lỗi?

Bà-la-môn trả lời:

–Có hai cách diệt tội: Nếu tội nhẹ, tự tay cắt tóc, lấy nước thơm tắm rửa, rồi vào miếu trời sám hối, cảm tạ trời Na-la-diên, thỉnh đủ một trăm vị Bà-la-môn bày biện cúng dường ăn uống. Sắp thức ăn uống xong, lấy sữa của một trăm con bò bố thí cho Bà-lamôn, sau đó tội sẽ tiêu diệt. Vì sao? Vì các Bà-la-môn tu hành phạm hạnh, không uống rượu, không ăn thịt cùng năm loại cay nồng, chỉ lấy sữa bò để làm thức ăn uống khiến cho thí chủ tội diệt, phước sinh, đời đời sinh ra nguyện gì được nấy.

Ngày nay, tội của cô rất nặng, nên dùng tất cả châu báu trong nhà để bố thí cho năm trăm đại Bà-la-môn. Các Bà-la-môn được bố thí rồi phải chú nguyện cho cô, khiến cô đời sau thường được giàu có. Hai là, muốn diệt tội thì đến bên bờ sông Hằng, chất củi để tự thiêu. Các Bà-la-môn lại chú nguyện khiến tất cả tội lỗi nặng nhẹ mà đời trước cô đã tạo đều diệt sạch. Đời sau không còn tai ương nào khác. Cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái sống lâu vô lượng, an lạc vô cùng.

Thế rồi, Đề-vi liền đồng ý, quyết định được khai tâm thì sẽ tự đốt thân, bèn ra lệnh nô tỳ đem mười chiếc xe vào núi chặt củi chất đống lại để tự đốt thân.

Khi ấy, trong nước có một đạo nhân tên Bát-để-bà (Hán dịch là Biện Tài) tinh tấn trì giới, đa văn, trí tuệ, thường đem lòng từ để giáo hóa thiên hạ cải tà quy chánh, bỏ ác tu thiện. Ông ta nghe đồn Đề-vi muốn tự thiêu thân nên sinh tâm thương xót, đến chỗ Đề-vi, ông ta hỏi:

–Cô chất củi lửa định làm gì?

Đề-vi trả lời:

–Vì muốn tự thiêu thân để diệt trừ tội lỗi.

Biện Tài nói:

–Tội nghiệp của cô tùy theo tinh thần chứ không liên quan gì đến thân, nên chịu khổ đốt thân thì đâu có thể diệt tội được. Họa phước của con người do tâm sinh ra. Vì tâm nghĩ nhớ điều thiện nên thọ quả báo thiện. Vì tâm nghĩ nhớ điều ác nên thọ quả báo ác. Tâm nhớ nghĩ khổ vui nên thọ quả báo cũng như vậy. Giống như chết đói thì làm ngạ quỷ. Ai chết trong lúc khổ não thì thọ quả báo khổ não. Ai chết hoan hỷ thì thọ quả báo hoan hỷ. Ai chết trong cảnh an ổn, vui thích thì quả báo cũng như vậy. Nay cô vì sao ở trong khổ não cầu muốn diệt tội mong muốn quả báo thiện? Thật ra không cần như vậy, vì đối với lý không đúng.

Lại nữa, này Đề-vi! Giống như người bệnh nặng, bị khổ não bức bách. Nếu có người ác đến quở mắng người bệnh, dùng tay tát tai, ý người ấy thế nào? Bấy giờ người bệnh dù có tâm thiện, nhưng có tức giận, khổ não không?

Đề-vi trả lời:

–Khi chưa thấy người kia, người bệnh nặng ấy cũng hay tức giận, khổ não, huống chi còn bị tát tai mà lại không tức giận!

Biện Tài nói:

–Vì tội đời trước của cô như vậy nên nay phải chịu góa bụa, khốn khó, luôn sầu não, lại muốn đốt thân nhằm lìa sầu não có thể được sao? Như kẻ bệnh khổ bị người quở mắng còn tăng thêm khổ não gấp trăm ngàn vạn lần, huống chi là tự mình đốt thân? Khi lửa dữ bốc lên, thân thể cháy nát mà hơi thở không tắt vì tâm chưa hoại. Bấy giờ, thân tâm bị đốt, thần thức chưa đi nên càng chịu khổ não, phiền muộn, đau đớn. Do đó, khi qua đời bị đọa vào địa ngục, khổ não trong địa ngục càng tăng trưởng gấp trăm ngàn vạn lần, mong thoát khỏi nhưng rất khó huống chi là đốt thân thể để cầu hết khổ!

Lại nữa, Đề-vi! Giống như con bò kéo xe, vì con bò rất ghét chiếc xe, muốn cho xe bị hư hoại, nhưng nếu xe trước mà hư hoại thì tiếp tục kéo xe sau, ách đè trên cổ nó vì tội chưa hết. Người ta cũng như vậy, giả sử thiêu đốt tan hoại trăm ngàn vạn thân thì nhân duyên của tội nghiệp vẫn nối tiếp nhau không dứt. Như nơi địa ngục A-tỳ thiêu đốt các tội nhân trong một ngày hơn tám vạn lần sống chết. Qua một kiếp rồi, tội của họ mới hết, huống chi ngày nay cô thiêu đốt một thân này để muốn hết tội, sao có lý đó được?

Khi ấy, Biện Tài dùng vô số phương tiện giảng nói chánh pháp cho cô Đề-vi. Cô ta tâm khai ý mở, sửa đổi ý nguyện thô tháo, ý muốn tự thiêu đốt thân không còn nữa. Cô thưa với Đạo sĩ Biện Tài:

–Tôi phải làm thế nào để được hết tội?

Biện Tài trả lời:

–Tâm trước tạo ác, giống như mây che mặt trăng. Tâm sau làm

thiện như đuốc tiêu trừ tăm tối. Nay cô có ý định muốn diệt trừ tội lỗi thì tự mình đã có cách. Cô không tốn một tiền nào, cho đến không một chút khổ nhỏ như phần sợi lông, nhưng có thể diệt trừ được tội lỗi, hiện tại được an ổn, đời sau muốn sinh nơi nào đều được như ý nguyện.

Nghe vậy, Đề-vi rất vui mừng, ưu buồn liền tan biến, giống như người bị tù, tội nặng mà được thả. Cô ta liền đứng dậy cung kính lễ bái, thăm hỏi và sai nô tỳ trải một tòa cao bằng gấm, tơ, lụa có hoa đan xen, đẹp đẽ bậc nhất, rải hoa, đốt hương, thỉnh Đạo sĩ Biện Tài lên tòa cao. Biện Tài nhận lời thỉnh, liền lên tòa cao. Đềvi dẫn hơn năm trăm quyến thuộc, nô tỳ trong gia đình vây quanh Đạo sĩ Biện Tài, cúi đầu cung kính, đứng chắp tay. Đề-vi thưa Biện Tài:

–Vừa rồi Tôn giả đã nói về phương pháp để diệt tội. Tuy lòng tôi rất vui mừng nhưng còn có một nghi ngờ nhỏ, xin Tôn giả hãy nói cho tôi rõ, cách thức trừ diệt tội phải làm theo pháp như thế nào?

Biện Tài nói:

–Nguyên do sinh tội xuất phát từ thân, miệng, ý. Thân nghiệp không thiện là sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Khẩu nghiệp không thiện là nói dối, nói lời ly gián, nói lời ác, nói lời thêu dệt. Ý nghiệp không thiện là ganh ghét, sân giận, kiêu mạn tà kiến. Đó là mười nghiệp ác, phải chịu quả báo ác. Nay phải nhất tâm chí thành sám hối. Nếu ở quá khứ hoặc đời hiện tại có tội như vậy thì nay đều phải sám hối. Muốn hết tội, diệt tội thì tự mình phải lập thệ nguyện: “Từ nay trở đi con không dám tái phạm nữa và con vì cha mẹ, vợ chồng, anh em đời trước có tội lỗi, con xin thay thế họ nhất tâm sám hối. Con, đệ tử Đề-vi đem sự sám hối hôm nay để sửa ác tu thiện, đem phước đức để bố thí cho tất cả chúng sinh thọ khổ, khiến họ được an lạc. Chúng sinh có tội, con sẽ thay họ.”

Lại lập thề rằng: “Nay con cải tà quy chánh, sám hối tội lỗi, tu phước. Nhờ nhân duyên này được xả thân, thọ thân cho đến khi thành tựu Phật đạo, thường gặp minh sư, tri thức thiện, sống lâu vô lượng, luôn cùng cha mẹ, vợ chồng, con cái, sáu thân quyến thuộc bảo hộ nhau, không nếm chút đau khổ, không như ngày nay.”

Biện Tài lại nói với Đề-vi:

–Phương pháp sám hối tội lỗi đều như vậy.

Lúc đó, Đề-vi cùng quyến thuộc đến trước Biện Tài quỳ chắp tay thưa:

–Đệ tử chúng con cung kính vâng theo lời Tôn giả dạy, như pháp sám hối rồi, cúi xin Tôn giả ban cho chúng con giáo pháp lành khác. Chúng con sẽ tinh tấn phụng hành để tăng trưởng công đức.

Biện Tài nói:

–Con nay thành tâm quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (nói như vậy ba lần). Con trọn đời thọ đạo mười thiện. Đệ tử chúng con từ nay trọn đời không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Đó là nghiệp thiện của thân. Không ganh ghét, sân si, kiêu mạn, tà kiến. Đó là nghiệp thiện của ý. Không nói dối, nói lời ly gián, nói lời ác, nói lời thêu dệt. Đó là nghiệp thiện của khẩu. Tất cả đấy là giới pháp mười thiện.

Bấy giờ, Biện Tài trao cho Đề-vi pháp mười thiện rồi, quyến thuộc Đề-vi sung sướng vui mừng, hết lòng phụng trì. Đề-vi sửa soạn năm trăm món ăn uống và nhiều thứ châu báu, quỳ chắp tay thưa:

–Cúi xin Tôn giả lưu lại đây, rủ lòng thương giáo hóa. Chúng con xin xây dựng cung thất đầy đủ tiện nghi, trọn đời phụng sự Tôn giả.

Biện Tài đáp:

–Nay cô có thể bỏ tà quy chánh, tịnh tu mười thiện, làm con của chánh pháp. Lại lấy mười thiện để giáo hóa thiên hạ. Như vậy là đã báo ân sâu nặng của thầy rồi. Cô đã được độ rồi, ta không nên ở lại đây vì phải còn đi giáo hóa các nơi khác nữa.

Đề-vi biết thầy không ở lại, liền đóng xe chở đồ châu báu cất trong kho dâng lên cúng dường thầy để biểu lộ sự thành tâm của mình. Biện Tài không nhận, liền từ biệt đi. Đề-vi tự nghĩ: “Lợi ích ngày nay không phải do ta. Đó là nhờ ân Tôn sư Hòa thượng đã khai ngộ nên ta được thành tựu. Ta đã năn nỉ mời thỉnh mà thầy không lưu lại, lại còn không nhận châu báu, như vậy thì làm sao?” Nghĩ như vậy rồi, cô ta buồn bã ưu phiền, nước mắt đầm đìa, cúi đầu từ tạ rồi đi.

Sau khi Biện Tài ra đi, Đề-vi cùng với năm trăm quyến thuộc thường lấy pháp mười thiện lần lượt giáo hóa nhau. Trải qua thời gian khá lâu, trong nước lúa gạo bỗng nhiên hiếm quý, dân chúng đói khát. Khi ấy, có năm Tỳ-kheo lười biếng, buông lung, không chịu tu học theo nghĩa lý trong kinh sách, lại không chuyên tâm tinh tấn, hành trì giới pháp, bị người đời khinh chê, không cúng dường nên bần cùng khốn khổ, không biết cách nào sống. Năm người bàn với nhau: “Sinh kế của con người hình thức tùy thời. Mạng người rất quý trọng, không nên để chết”. Bàn vậy xong, năm người cùng nhau đi xin. Sửa soạn đầy đủ giường dây rồi đi đến giữa vùng đồng trống quét dọn sạch sẽ, treo hoa, dựng cờ thật trang nghiêm, lại theo thứ tự ngồi. Bên ngoài, hình tướng giống như thiền tư nhưng bên trong nhớ nghĩ các điều tà vạy, ô trược. Người đời thấy vậy liền cho là Thánh nhân. Thế rồi, họ chở đồ đến cúng dường cả trăm món thức ăn, năm người kia được no bụng rồi cũng còn dư. Nghe việc ấy, Đề-vi sai người dò xét, tin trở về báo rằng: Có năm Thánh nhân ngồi một mình trong vùng đồng vắng, mọi người tụ tập lại đông đảo giống như thờ kính Thiên thần. Đề-vi vui mừng tự nghĩ: “Nguyện ta đã thành tựu rồi!” Sáng sớm, Đề-vi liền ra lệnh sửa soạn xe báu cùng hương hoa, kỹ nhạc đến chỗ năm Tỳ-kheo. Đến nơi, Đề-vi lễ bái thăm hỏi, sắp đặt cúng dường. Năm người ăn uống xong, Đề-vi cùng quyến thuộc cung kính chắp tay, thưa:

Đức thầy đáng kính
Ruộng phước vô thượng
Chúng sinh được nhờ
Không nên xem thường!
Đệ tử ngu muội
Muốn thỉnh Tôn linh
Bước đến nhà nghèo
Lòng thành nhỏ nhoi,
Xin thầy thương xót
Cứu vớt quần sinh
Đệ tử cũng có
Vườn cây thanh tịnh
Suối chảy, ao tắm
Trong lành tươi sáng.

Quyến thuộc và Đề-vi lạy ba lạy. Khi ấy, năm Tỳ-kheo biết mình đã đạt được ý nguyện nên liền chấp thuận. Đề-vi vui mừng cáo từ trở về sai người sửa soạn xe báu đón năm Tỳ-kheo về chỗ ở của mình để cúng dường. Cách nhà không xa, Đề-vi có khu vườn rất đẹp, ngang dọc gồm đủ mười khoảnh, có hoa trái nhiều thứ, chim chóc nhiều loại, thanh tịnh hết mực. Trong vườn dựng một ngôi nhà trang hoàng bằng các thứ vật báu quý giá, lại trải bày giường chiếu với các đồ nằm đẹp đẽ, tinh khiết rồi mời năm Tỳ-kheo an trú trong đó. Đề-vi đêm ngày phụng thờ, cần lúc nào có lúc đó, ăn uống, thuốc thang luôn cung cấp không khi nào thiếu.

Còn năm Tỳ-kheo được chủ nhân cúng dường một cách ân hậu, an ổn, vui thích quá đỗi tự nói: “Vì sao bỗng dưng có được như vậy? Người sống ở đời dùng đủ phương cách tìm kiếm danh lợi để cứu sự nghèo khổ. Tuy họ được như ý nhưng không bằng chúng ta, không nhọc thân mà còn được hưởng phước lộc. Đây lẽ nào không phải nhờ sức của trí tuệ sao?” Năm Tỳ-kheo ấy quan sát thấy chủ nhân tiếp đãi ân cần, nên cùng bàn với nhau:

–Tuy chúng ta được chủ nhân tùy thời cung cấp một ngày giàu có của mình bằng người nghèo chi dụng cả năm. Còn những thời gian lạnh rét thì làm sao giàu vui? Nay chúng ta nêu bày ra cách để tìm kiếm nhiều của cải, tiền bạc nhằm sau này hưởng năm dục lạc.

Bàn luận như vậy xong liền thay đổi nhau, sai một người trong số họ đi vào các xóm làng, xướng lên như vầy:

–Bốn Tỳ-kheo kia ở chỗ thanh vắng, tịch tĩnh, giữ gìn giới cấm, không uống rượu, không ăn thịt và các thứ cay nồng, xứng đáng với người tu phạm hạnh, tạo nghiệp vô lậu, tu hành không bao lâu tất chứng quả A-la-hán. Đó là ruộng phước vô thượng trong thiên hạ.

Nghe nói vậy, mọi người càng đem đến nhiều của cải, tiền bạc và thức ăn uống, để liên tục cung kính cúng dường nhiều năm như vậy.

Đề-vi thực tâm kính tin, tùy nghi cúng dường và vui mừng khôn xiết, nên khi qua đời, cô được sinh vào cõi trời Hóa lạc. Năm Tỳkheo đó chuyên làm việc xảo quyệt, giả dối, vì tâm tà vạy, ô uế nên khi qua đời bị đọa vào địa ngục, chịu đại khổ qua tám ngàn ức kiếp, tội địa ngục hết, lại làm thân ngạ quỷ yêu mị gớm ghiếc, cũng trải qua tám ngàn ức kiếp, tội ngạ quỷ hết, bị làm thân súc sinh để trả nợ cho chủ nhân đời trước từng cúng dường. Vì nghiệp báo này mà phải thọ thân lừa, lạc đà, trâu, ngựa theo phước báo của người chủ được thọ hưởng luôn phải đem gân sức để trả cho người chủ. Như vậy, trải qua tám ngàn đời, tội súc sinh hết, tuy được làm thân người nhưng các căn bị ám độn, không có nam căn, nữ căn, gọi là Thạch nữ. Từ đó đến nay trải qua tám ngàn đời luôn dùng sức lực nơi thân để trả nợ cho người chủ, đến nay vẫn chưa dứt.

Đức Phật bảo nhà vua:

–Đề-vi lúc đó chính là hoàng hậu bây giờ. Đạo sĩ Biện Tài nay chính là Tôn giả Đại Mục-liên. Năm vị Tỳ-kheo dối gạt kia tức là năm người Phiến-đà-la theo khiêng kiệu cho hoàng hậu.

Vua bạch Phật:

–Thế Tôn đã nói năm người tạo nhân mà nay chỉ có bốn người khiêng kiệu, còn một người nữa ở đâu?

Đức Phật bảo:

–Còn một người ở trong cung giữ việc lau chùi nhà xí và hốt dọn phân nhơ.

Nghe Đức Phật nói vậy, hoàng hậu bỗng nhiên hoảng sợ, liền đứng dậy lạy Phật, chắp tay đứng qua một bên, thưa:

–Như Thế Tôn đã nói, những người Phiến-đà-la ấy có nhân duyên nơi đời trước với con, đã làm thầy con nên con rất lo sợ phạm tội nghịch. Vì sao? Vì làm thầy nên phải tôn kính hết mực, lễ lạy, đó là nghi lễ với người thầy. Ngược lại, sai khiêng kiệu thì không khác gì trâu ngựa, do đó mà con rất lo sợ, xin Phật vui lòng thương xót cho phép con sám hối.

Đức Phật bảo:

–Hoàng hậu có phước đức, tự mình không có tội lỗi, cớ gì mà nghi sợ? Vì chúng sinh căn tánh khác nhau nên hành nghiệp không giống nhau. Thiện thì hưởng phước, ác thì tự chuốc lấy tai ương. Hoàng hậu xưa tâm ngay thẳng thanh tịnh, tin thích tu phước. Nhờ phước đức ấy nên từ đó đến nay đời đời sinh ra luôn gặp minh sư, tin thọ lời dạy bảo, từ thiện vào thiện, từ lộc vào lộc, đến nay hưởng phước tự nhiên, gặp Phật ra đời. Phước đức của thân mạng đời trước là nhờ sức mạnh từ các nhân duyên, lại được nghe chánh pháp, theo đúng như lời nói để tu hành, do nhân duyên đó mà không có tội lỗi. Năm người Phiến-đà-la do nhân duyên nơi kiếp trước là tà vạy, ô uế, dua nịnh, không có lòng từ mà thọ sự cúng dường của hoàng hậu. Vì nhân duyên của nghiệp tạo tội lỗi nên phải luôn trả nợ xưa.

Hoàng hậu bạch Phật:

–Nay con nghe Thế Tôn nói về nhân duyên của nghiệp cũ, sự nghi ngờ của đệ tử đã được giải bày nên không còn lo sợ nữa. Những người Phiến-đà-la này chịu quả báo của nghiệp tạo tội lỗi đến khi nào sẽ hết? Đệ tử nay xin thả các Phiến-đà-la được tự do, không dám sai khiến nữa, đi đâu tùy ý. Cúi xin Thế Tôn thuyết pháp khai ngộ để tâm họ được mở bày sửa ác tu thiện, mau được thoát khổ.

Đức Phật bảo:

–Muốn Ta mở bày giáo hóa thì hãy kêu người giữ việc quét dọn phân nhơ ở trong cung đến đây.

Tức thời, hoàng hậu sai người đi kêu Phiến-đà-la kia. Sứ giả vâng lệnh, chốc lát đã dẫn đến. Năm người Phiến-đà-la đã có mặt đủ và đứng trước Đức Phật. Đức Thế Tôn đại Từ bi trước tiên dùng lời nói nhẹ nhàng, an ủi họ.

–Các con thân thể và khí lực rất khỏe mạnh, an ổn, vui thích, chắc là không có khổ não chứ?

Năm người nổi giận nói:

–Phật không biết chi cả. Vì sao? Vì đêm ngày khổ sở, bị đánh đập, sai khiến không chút nào được rảnh, có gì là vui? Phật lẽ nào không biết những việc như vậy chăng sao còn hỏi như thế?

Đức Phật bảo năm người:

–Cái khổ của thân ấy nơi ngày nay đều do đời trước tạo tác những việc tà vạy, ô uế và dua nịnh, luôn có tâm bất thiện nhận sự cúng dường của người. Vì nghiệp tạo tội lỗi nên lần lượt sinh ra đến thân hôm nay phải thường trả nợ từ nhân của nghiệp đã tạo mà vẫn chưa hết. Các ngươi muốn mong thoát khỏi quả báo ác thì bây giờ hãy chí tâm sám hối tội lỗi đã tạo, sửa ác tu thiện thì mới có thể thoát được khổ.

Nghe Phật nói như vậy, Phiến-đà-la lại nổi giận đùng đùng, quay lưng không muốn nghe. Đức Phật liền dùng thần lực tạo một hóa Phật đứng trước mặt họ, dùng phương tiện an ủi, khuyến dụ để họ sám hối. Những người Phiến-đà-la bèn quay mặt về phía Đông, lại có một hóa Phật đứng trước mặt. Họ quay mặt về phía Tây, lại có một Hóa Phật nữa. Bốn góc, trên dưới đều có hóa Phật đứng đối diện. Thấy Phật có mặt khắp xung quanh mình, những người Phiếnđà-la tức thời la lối om sòm:

–Ngày nay chúng tôi là hạng người tội lỗi xấu ác, vì sao Phật cứ bức bách nhìn chúng tôi?

Lúc ấy, Đức Thế Tôn thâu các Hóa Phật trở lại làm một thân Phật. Đức Phật bảo đại chúng:

–Quốc vương, hoàng hậu, các Tỳ-kheo, các vị có thấy những người Phiến-đà-la này không?

Tất cả đều nói:

–Dạ thưa có thấy.

Đức Phật nói:

–Các vị nên biết! Nghiệp tạo tội của chúng sinh có hai chướng ngại: Một là nghiệp chướng, hai là phiền não chướng. Nếu người tội nhẹ là bị phiền não chướng, tội nặng là do nghiệp chướng. Những người Phiến-đà-la này có cả hai chướng. Vì chướng của nghiệp tạo tội nặng nên không thể thọ lãnh lời giáo huấn, không làm gì được!

Bấy giờ, hoàng hậu thấy những người Phiến-đà-la không nghe nhận lời Phật khuyến hóa, nên xót thương họ, mà nói:

–Từ nay trở đi, nhân duyên đã giải mở hoàn toàn. Các ngươi đi đâu tùy ý, không còn ưu phiền nữa.

Những người Phiến-đà-la quỳ dài khóc lóc, thưa hoàng hậu:

–Năm người chúng con phụng thờ đại gia có những tội lỗi nghịch ý gì mà nay bị đuổi đi? Nếu có gì không xứng hợp, cúi xin đại gia tha thứ, cho được làm việc như trước.

Hoàng hậu nói đến lần thứ ba rồi mà những người Phiến-đà-la vẫn không muốn đi. Hoàng hậu bạch Phật:

–Đệ tử dốc lòng thả những người Phiến-đà-la này nhưng họ không chịu đi. Như vậy thì phải làm sao?

Phật nói:

–Những Phiến-đà-la ấy trả nợ chưa hết, bị nhân duyên cũ trói

buộc, không thể đi được thì hãy thuận theo ý của họ, cho họ tiếp tục làm việc như trước, khi nào nhân duyên hết thì tự động họ sẽ ra đi.

Đức Phật bảo nhà vua:

–Người tu phước nên khiêm cung kính trọng, tâm chánh trực luôn thanh tịnh, hành trì đạo nghiệp thì công đức vô lượng, lửa không thể thiêu đốt, nước không thể cuốn trôi, giặc cướp không thể hại, sức mạnh của quốc vương cũng không thể làm cho chuyển động, như hoàng hậu ngày nay được thọ hưởng phước báo vậy. Người có tâm ác, tham lam lợi dưỡng, hiện tiền giống như những người Phiến-đà-la kia, nhiều đời chịu khổ não, đến nay vẫn chưa dứt. Tuy gặp Phật giáo hóa cũng giống như gió thổi qua tai mà thôi. Vì nghiệp lực của tội, trở lại sinh oán ghét, thù hằn, càng rơi vào chỗ mù mịt, tối tăm, khi nào mới được thoát khỏi!

Bấy giờ vì lòng Từ bi, Đức Phật nói với các Tỳ-kheo:

–Như ta đã nói trước đây: thân người khó được, gặp Phật ra đời rất khó, pháp khó được nghe, thọ mạng trọn vẹn cũng khó. Các vị nhờ đời trước làm chút việc thiện mà được sinh làm người, lại gặp Phật ra đời, nghe pháp tin theo, cắt bỏ ân ái, từ biệt cha mẹ, anh em, vợ con, sáu thân quyến thuộc, xuất gia học đạo, giống như người tù thoát ngục nên bỏ ác quy thiện, lời nói đi đôi với việc làm, thiểu dục tri túc, không tham cầu vinh hoa ở đời, nhẫn nại với đói khát, lập chí hướng đến Niết-bàn, nghiên cứu chuyên cần học hỏi, dứt bỏ các điều ác, trang nghiêm bằng trí tuệ, tu nghiệp vô lậu để ra khỏi biển sinh tử. Lại dùng trí tuệ để giáo hóa thiên hạ khiến họ tu hành mười thiện. Đó gọi là tự độ mình và độ người khác, ứng với nghiệp hạnh của Bồ-tát.

Lúc đó, trong hội có các Tỳ-kheo nghe Phật nói vậy tự xét những hành động của mình từ thân nghiệp, khẩu nghiệp không xứng đáng với đạo pháp, hơn năm trăm người liền đứng dậy cung kính cúi đầu sám hối rồi quỳ chắp tay, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn dạy về ba nghiệp bất thiện, chúng con đều có. Nay ở trước Phật chúng con xin phát lồ sám hối. Cúi xin Thế Tôn soi xét lòng thành của chúng con. Từ nay trở về sau thề không làm điều sai trái, chúng con sẽ tu hành như pháp, nguyện Phật chứng tri. Đức Phật dẫn dạy chúng con là bậc Thánh trong ba cõi, là cha mẹ của chúng sinh. Chúng con nay sửa ác tu thiện là điều rất vui mừng nên tùy hỷ như vậy.

Lại có năm trăm Tỳ-kheo hạnh xấu, nghe nói vậy liền đứng dậy, cung kính cúi đầu hướng về Phật, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con không thể tu tập theo hạnh xuất gia được. Vì sao? Vì từ xưa đến nay ham lợi dưỡng, làm những việc tà vạy, ô uế, hư dối, không thật, nhận đồ cúng dường của người, nợ nần tràn đầy, vì thế mà luôn luôn lo sợ. Nay chúng con muốn bỏ đạo về tục, xin Phật rủ lòng thương xót cho phép.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo ấy:

–Hay lắm! Hay lắm! Ta sẽ giúp cho các vị được như ý. Vì sao? Vì người vào đạo giống như cầm dao nhọn, mang chất độc, mà không thể chịu nổi. Nếu không chịu nổi thì chi bằng đừng hành đạo. Vì sao? Vì nếu cầm nắm không chắc chắn thì nó trở lại hại mình. Nay các vị tin vào nghiệp báo, có tâm hổ thẹn, vì biết thẹn, hổ để diệt trừ các tội lỗi, làm tăng trưởng căn lành. Bồ-tát Di-lặc sau khi thành Phật thuyết pháp thì các vị là người được độ đầu tiên.

Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

–Thà cắt thịt của thân để ăn chứ không đem tâm tà mà thọ đồ cúng dường của người. Rất khó, rất khó, các vị hãy luôn cẩn thận dè dặt.

Bấy giờ, La-hầu-la, con của Phật, cùng năm mươi Sa-di nghe Phật nói về gốc ngọn nơi nhân duyên của họa do những người Phiếnđà-la tạo ra, ai nấy đều kinh sợ, liền đứng dậy cung kính đem đầu mặt làm lễ Phật, rồi chắp tay bạch:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con nghe Thế Tôn nói về những người Phiến-đà-la ấy do nghiệp của đời trước mà thọ quả báo khổ, khiến chúng con rất sợ hãi. Vì sao? Vì Hòa thượng Xá-lợi-phất là bậc Đại trí, đại phước đức, được các hào tộc trong nước nghe biết, nên nhiều người tranh nhau đến để cúng dường đủ các món ngon vật lạ. Còn chúng con thì nhỏ, ngu si, không có phước đức mà thọ nhận những món ngon vật lạ như vậy thì đời sau sẽ phải thường trả cho họ, phải bị quả báo khổ giống như những người Phiến-đà-la ấy, vì vậy chúng con thật lo sợ. Năm trăm Tỳ-kheo kia đức nhiều còn không kham nổi, phải bỏ đạo về tục, huống chi chúng con còn nhỏ, không có trí tuệ, xin Phật rủ lòng thương xót cho phép chúng con bỏ đạo về nhà, mong tránh khỏi tội, không bị khổ ách.

Đức Phật bảo La-hầu-la:

–Con sợ tội, muốn được về nhà để mong khỏi khổ, việc đó không đúng. Vì sao? Như có hai người thiếu ăn, đói khát, bỗng nhiên gặp được người chủ đãi các món ăn ngon đặc biệt. Hai kẻ đói ấy vì ham nên ăn quá no. Nhưng trong hai người này một người có trí, còn người kia thì ngu si. Người có trí tự biết: Nếu ăn quá no thì làm cho thân nặng nề, mặt mày nhăn nhó khó chịu, sợ đưa đến hoạn khổ, liền tìm tới thầy thuốc giỏi, khiêm tốn hạ mình xin cầu cứu để trừ khổ hoạn. Lương y liền đưa thuốc Ma-chiên-đề bảo người ấy uống, sau đấy thức ăn được mửa tháo ra, dùng lửa sưởi ấm cho khỏe dần, nhờ đó mà người này thoát được họa hoạn, cuối cùng giữ được thọ mạng ổn định, an lạc. Còn người ngu si không biết lỗi lầm của việc ăn uống quá độ, cho là quỷ mị quấy phá, tốn nhiều tài sản, giết nhiều sinh mạng, để cúng tế quỷ thần mong muốn cứu được mạng sống, hao phí công sức, thức ăn cũ trong bụng biến thành gió độc, làm cho sinh khí chuyển động tạo nên đau đớn, do đó mà chết bị đọa vào địa ngục muôn kiếp chịu khổ. Đó là do không có trí.

Đức Phật bảo:

–La-hầu-la! Con sợ tội mà trở về nhà thì con giống như kẻ ngu si vô trí kia. Người cầu phước muốn khỏi tội thì phải khiêm nhường, tinh tấn, gần gũi minh sư để tu tập trí tuệ, sám hối những nghiệp ác, đổi xưa tu nay, do sự hổ thẹn ấy mà trí tuệ được thành tựu. Nhờ trí tuệ thành tựu nên tiêu diệt hết các tội. Như ta đã nói ở trước, oai lực của ánh sáng mặt trời có thể trừ diệt mọi tối tăm. Người tu trí tuệ cũng như vậy, nhờ kiếp trước có căn lành mà gặp được ta. Xá-lợiphất giống như thầy thuốc hay kia, có thể cứu khổ hoạn để được khỏi chết. Con vì sao nay lại bỏ sáng để đi vào chỗ tối tăm?

Sa-di La-hầu-la bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trí tuệ của chư Phật giống như biển lớn, tâm của La-hầu-la chúng con giống như đầu sợi lông, đâu có thể thọ trì trí tuệ của Như Lai?

Đức Phật nói:

–Giống như trời mưa, giọt sau không kịp giọt trước, tuy không

bắt kịp nhau nhưng có thể làm đầy bình lớn. Tu học trí tuệ cũng như vậy, tuy ban đầu có rất ít nhưng lâu sau chứa thành bình lớn. Bình này đầy rồi sang qua bình khác, lần lần như vậy đầy cả vô số bình. Đó gọi là tự lợi và lợi tha. Tự lợi và lợi tha gọi là Đại sĩ, như ta ngày nay.

Nghe Phật giảng nói vậy, La-hầu-la tâm mở ý thông, không còn lo sợ. Như lời Thế Tôn dạy, đều gắng phụng hành đầy đủ, không dám nghi ngờ.

Bấy giờ, trong chúng hội có thái tử của quốc vương tên Kỳ-đà, nghe Đức Phật nói về nhân duyên quả báo của pháp mười thiện đạo không có hạn lượng, nên quỳ dài, chắp tay thưa Đức Thế Tôn:

–Trước Phật dạy con thọ trì năm giới, nay muốn bỏ để thọ pháp mười thiện. Vì sao? Vì trong pháp của năm giới, giới uống rượu rất khó giữ, sợ mắc tội.

Đức Thế Tôn bảo:

–Khi thái tử uống rượu đã làm những điều xấu ác gì chăng?

Kỳ-đà thưa:

–Các vị hào phú trong nước thường bắt nhau đem thức ăn để uống rượu, rồi cùng vui chơi rất hoan lạc, tự cho là không có điều ác. Vì sao? Vì uống rượu mà vẫn nghĩ đến giới, không buông lung, cho nên uống rượu không làm điều ác.

Đức Phật nói:

–Hay lắm! Hay lắm! Này Kỳ-đà! Thái tử nay đã được trí tuệ phương tiện. Nếu người trong thế gian biết được như thái tử, trọn đời uống rượu đâu có gì xấu ác. Hành giả như vậy mới đáng sinh phước, không có tội. Người làm thiện có hai hạng: Một là hữu lậu; hai là vô lậu. Thiện hữu lậu thường hưởng quả báo diệu lạc ở cõi trời, người. Thiện vô lậu thì được quả báo Niết-bàn, vượt qua khổ sinh tử. Nếu người uống rượu không tạo nghiệp ác, tâm hoan hỷ, không khởi phiền não, nhờ tâm thiện mà được thọ nhận quả báo thiện. Thái tử giữ năm giới đâu có bị mất? Uống rượu mà nghĩ đến giới thì càng tăng phước đức. Trước tiên thọ năm giới, nay thọ mười thiện, công đức ấy vượt gấp bội quả báo của mười thiện.

Khi ấy, vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:

–Thế Tôn đã nói khi tâm hoan hỷ thì không khởi nghiệp ác, gọi

là thiện hữu lậu, việc đó không phải vậy. Vì sao? Vì lúc người uống rượu thì tâm hoan hỷ, vì tâm hoan hỷ không sinh phiền não, vì không sinh phiền não nên không hành động não hại, vì không não hại nên ba nghiệp được thanh tịnh. Đạo thanh tịnh tức là nghiệp vô lậu. Xin Thế Tôn nhớ lại: “Ngày trước con đi săn nhưng quên dẫn theo người đầu bếp, ở trong núi sâu bỗng nhiên thấy đói. Tùy tùng tâu: Khi vua đi không ra lệnh dẫn theo người đầu bếp nên bây giờ không có ăn!” Nghe vậy, con cỡi ngựa quay về cung, bảo người đầu bếp làm thức ăn. Người đầu bếp tên Tu-ca-la, nói: “Thức ăn không có sẵn, bây giờ đang làm.” Trong lúc đói bức bách, con tức giận không suy nghĩ, nổi trận lôi đình, ra lệnh quan đứng bên xử trảm tên đầu bếp. Bị vua ra lệnh, quan liền bàn với nhau: “Tìm kiếm trong cả nước chỉ được một người này trung thành, biết làm việc. Nếu nay giết ông ta đi thì không có ai nấu ăn xứng với ý vua.” Khi đó, phu nhân Mạt-lợi nghe vua ra lệnh giết Tu-ca-la nên lòng rất thương tiếc. Biết vua đói, bà liền ra lệnh làm đầy đủ những món thịt ngon, rượu tốt, rồi tắm rửa, thoa hương thơm trang sức lộng lẫy, dẫn các kỹ nữ đến chỗ của con. Thấy phu nhân trang sức lộng lẫy, dẫn theo các kỹ nữ và sắp đặt rượu thịt ra, làm cho tâm sân của con tiêu tan. Vì sao? Vì phu nhân Mạt-lợi giữ năm giới của Phật, dứt bỏ rượu không uống, làm con luôn giận, hôm nay bỗng nhiên đem rượu thịt đến cùng nhau vui chơi, tỏ bày tình cảm, con liền với phu nhân ăn thịt, uống rượu, bày các kỹ nhạc thích thú, vui vẻ, khiến tâm sân giận của con tiêu diệt. Phu nhân biết con quên mất lòng sân giận, liền sai quan thái giám truyền lệnh của con nói với ngoại thần đừng giết người đầu bếp. Ngoại thân liền phụng lệnh. Sáng mai, con tự hối hận, âu sầu không vui đến nỗi dung mạo tiều tụy. Phu nhân hỏi con:

–Vì sao mà ưu sầu? Bị lo sợ gì chăng?

Con nói:

–Hôm qua vì trẫm bị lửa đói hành hạ, nổi giận đã ra lệnh giết Tu-ca-la. Trẫm nghĩ: “Trong nước sẽ không người có khả năng trông coi việc bếp núc nơi hoàng cung như Tu-ca-la. Vì thế mà trẫm hối hận, âu sầu.”

Phu nhân cười, nói:

–Người đó vẫn còn sống, xin bệ hạ đừng buồn khổ nữa.

Con lại hỏi:

–Có thật như vậy không? Hay nói đùa?

Phu nhân trả lời:

–Thật vậy, ông ta vẫn còn sống, không phải là hư dối.

Thế rồi, con ra lệnh cho tùy tùng kêu người đầu bếp đến. Sứ giả vâng lệnh, trong chốc lát đã dẫn ông ta tới. Con rất vui mừng, tất cả ưu buồn, hối hận không còn nữa.

Vua bạch Đức Phật:

–Phu nhân Mạt-lợi giữ năm giới của Phật, một tháng hành trì sáu ngày trai giới, nhưng trong một ngày năm giới đã thọ cả đời phạm tới hai giới: uống rượu và nói dối. Trong tám giới phạm hết sáu giới. Việc này như thế nào? Tội phạm giới nặng hay nhẹ?

Thế Tôn đáp:

–Phạm giới như vậy thì được đại công đức, không có tội lỗi. Vì sao? Vì đã tạo lợi ích. Như trước ta đã nói, phu nhân tu thiện mà thiện có hai loại: Một là thiện hữu lậu; hai là thiện vô lậu. Phu nhân Mạt-lợi đã phạm giới, thuộc về thiện hữu lậu. Không phạm giới ấy gọi là thiện vô lậu. Dựa vào ngữ nghĩa thì phá giới, tu thiện gọi là thiện hữu lậu. Căn cứ vào ngữ nghĩa, hễ tâm khởi tạo việc thiện thì đều gọi là thiện vô lậu.

Vua bạch Đức Phật:

–Như Thế Tôn đã nói, phu nhân Mạt-lợi uống rượu phá giới, không khởi tâm ác mà còn có công đức, không có tội báo, thì tất cả mọi người cũng lại như vậy. Vì sao? Con nhớ gần đây, trong thành Vương xá có các hào tộc, vương công, Sát-lợi, vì một tranh cãi nhỏ mà đưa đến oán thù, lập mưu khởi binh đánh nhau. Hai nhà đều là hào quý, ở chung một nước, lại là thân thích mà không chịu nhường nhịn, không theo lời khuyên phải trái, khiến con lấy làm lo lắng. Khi xưa còn là thái tử, đại thần của tiên vương là Đề-vi-la, cậy mình là tông môn phú hào nên hay khinh mạn, ăn chơi buông thả, tàn ác hơn súc sinh. Khi đó, con tức giận, tình thật không phân biệt, muốn giết chết ông ta cho rồi, nhưng vì không đủ sức bèn trình thưa phụ vương. Phụ vương không nghe nên con còn tức hận trong lòng, không thể như thế được, vì nhân duyên đó, con ăn uống thất thường, buồn bã tiều tụy. Thấy con sầu khổ, thái hậu dùng mọi cách khuyên giải nhưng vẫn không hết buồn. Vì thương yêu con, thái hậu sai người tìm kiếm rượu ngon khuyên con uống. Con thưa mẹ:

–Tiên tổ tương thừa thờ trời Na-la-diên, kính đấng Bà-la-môn. Nếu nay uống rượu, con sợ trời nổi giận, bị Bà-la-môn trừng phạt.

Khi đó, thái hậu sợ con bỏ mạng nên vào đêm thanh vắng đóng kín cửa cung, không cho nô tỳ, thái giám và mọi người biết. Thái hậu xướng:

–Thiên thần có lòng Từ bi cứu tất cả khổ, đấng Bà-la-môn đều ứng như vậy. Con nay buồn khổ, tự mình bỏ mạng, thiên thần đâu có thể cứu con được. Con hãy uống thuốc để tiêu trừ ưu hoạn, thân trạng toàn vẹn. Các Bà-la-môn chưa chứng Thiên nhãn thì sao biết được việc ẩn kín của con?

Thái hậu bức bách ba lần, con gật đầu nghe theo. Sau khi uống rượu, con quên mất tất cả sầu hận. Thái hậu thấy con thân sắc bình phục trở lại, trong lòng rất vui mừng bèn triệu tập các cung nữ, trổi các kỹ nhạc, hưởng năm thứ dục lạc trong hai mươi mốt ngày, khiến những tức giận đã qua đều dứt sạch. Thái hậu ra lệnh cho trung thần chuẩn bị rượu ngon và các thức ăn đặc biệt, lại sai người ban lệnh cho dân chúng, quần thần, hào tộc trong nước tập hợp lại, bàn luận việc đại sự. Các quan tranh chấp nên đám quyến thuộc chia làm hai phe, mỗi phe năm trăm người được mời đến họp. Nơi cung điện, vua cho người trang hoàng rất đẹp, lại ra lệnh trung thần sắp chén lưu ly chứa ba thăng, đựng đầy rượu ngon. Ở trước mọi người, con uống trước một chén. Vua nói:

–Hôm nay bàn về đại sự cho quốc gia, ngồi trong hội này các vị đừng tưởng nhớ gì khác. Bây giờ mọi người sẽ uống một chén cam lồ lương dược ấy, sau đó mới bàn chuyện.

Mọi người đều tâu:

–Xin tuân lệnh, phụng mạng đại vương.

Rồi vua lệnh cho đám kỹ nhạc xướng hát rất vui. Mọi người được uống rượu và nghe âm nhạc, trong lòng thỏa thích, quên tất cả thù hận, không còn lo âu. Vua lại nâng chén nói với quần thần:

–Sĩ phu tu đức, nối tiếp nhau đã nhiều đời, tuân phụng thờ Thánh giáo không dám sai trái. Vì sao chỉ một việc nhỏ như vậy mà các quan giận dữ, tranh chấp đủ thứ? Nếu các vị không nhường nhịn, e sẽ mất đi sự kế thừa của đất nước. Cho nên ta khuyên lần nữa, hãy chấm dứt mọi việc tranh chấp.

Quần thần tâu:

–Chúng thần xin phụng mạng, không dám trái lời.

Nhân đó mà được hòa khí.

Vua bạch Phật:

–Các người nổi lên tranh chấp, không do nơi rượu, nhưng do được rượu mà chấm dứt tranh chấp, đạt được hòa thuận, đây há không phải là do công đức của rượu sao?

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Quan sát những kẻ tiểu nhân, bần cùng, nô tỳ, tôi tớ, mọi rợ trong thế gian, nhân ngày Tết mà tụ tập lại quán rượu để uống rượu với tâm thích thú, không cần ai bảo, họ đều ca múa. Khi chưa được rượu đều không có việc ấy, cho nên biết rằng con người nhờ uống rượu mà có được thích thú, vui sướng. Khi tâm hoan lạc thì không khởi niệm ác. Không khởi niệm ác thì đó là tâm thiện. Nhờ tâm thiện nên thọ quả thiện.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Loài khỉ vượn được rượu còn múa hát, huống chi là người đời.

Như Đức Thế Tôn đã nói: Làm thiện được quả báo thiện, làm ác đưa đến quả báo ác. Như người thế gian nhờ phước đức bố thí của đời trước mà nay đại phú. Còn như có người nghèo đến xin mà keo kiệt không cho, do đó bị quả báo làm ngạ quỷ. Hoặc người thế gian, nam hay nữ có thân tướng đẹp đẽ, người nam mà đẹp thì được người nữ yêu, người nữ đẹp thì được người nam yêu. Những gì người nam thích, giống như có sức mạnh. Ngăn chận nam nữ không cho họp hội, vì không được họp hội nên đưa đến sầu khổ, tội lỗi này nên quy về đâu? Phu nhân Mạt-lợi vì do đời trước ưa thích bố thí cho người nên nay được phước báo tốt đẹp. Thế nào, bạch Đức Thế Tôn! Vì sao dạy giữ năm giới, một tháng thực hành trai giới sáu ngày: không được trang điểm, thoa hương thơm, trang sức, không được nghe hát, âm nhạc, không được gần gũi với vợ hoặc chồng, rốt cuộc chỗ hành trì làm thế nào để không mất công phu tu tập, há không khổ sao?

Đức Phật bảo vua:

–Những điều đại vương nêu hỏi chẳng phải là không như thế.

Phu nhân Mạt-lợi khi còn trẻ, nếu Ta không chỉ dạy trao truyền giới pháp, tu tập trí tuệ thì làm sao hôm nay có phước đức để độ mình và độ thân vua. Công đức như vậy thì quy về ai? Phu nhân Mạt-lợi thọ nhận giáo pháp của ta, lời nói và việc làm tương xứng nên khiến ngày nay thành tựu trí tuệ, phương tiện giải thoát.

Lại nữa, này đại vương! Ví như gia đình có một đứa con luôn muốn nó được nên người. Khi còn nhỏ hãy dẫn nó đến học đường để được dạy dỗ về văn chương, kỹ thuật, sách vở, lễ nghĩa. Pháp của học đường đều có phép tắc quở trách, trừng phạt, tiết chế ăn uống, không được ngủ nghỉ tùy tiện, ra vào, lui tới phải có lễ độ. Người nào phạm lỗi thì tùy theo tội nặng nhẹ mà la rầy hoặc phạt. Vì đứa con sợ roi nên học hành chăm chỉ, đến khi tuổi lớn mới có tài cao, nghe rộng, không có điều gì là không biết. Lại đem sự hiểu biết đó chuyển dạy cho người khác. Phu nhân Mạt-lợi giữ trai trì giới cũng lại như vậy.

Lại nữa, này đại vương! Cũng như Phú-lâu-na vì tâm ganh ghét mà cắt đứt ân ái, từ biệt mẹ cha, dứt bỏ vợ con để vào núi học đạo, mặc áo bằng cỏ, chịu lạnh chịu nóng, tự lập thệ nguyện: “Cần phải đọc tụng chín mươi sáu loại kinh luận cho thông đạt. Nếu không được như vậy thì không trở về gặp cha mẹ.” Đủ hai mươi năm, Phú-lâu-na thông đạt tất cả và trở về thành Vương xá, đầu đội bó đuốc, lấy lá đồng quấn nơi bụng, đi trên đường mà xướng lớn: “Ta là bậc Nhất thiết trí!” Ông ấy đến chỗ Như Lai, nói với Ta rằng: “Sa-môn Cù-đàm không biết gì cả.” Ta bảo: Người ngu si kia và nói:

Người ít nhiều trí tuệ
Tự đại, khinh mạn người
Như người mù cầm đuốc
Soi người, không sáng mình.

Khi ấy, Phú-lâu-na nghe như vậy bỗng nhiên tâm tỏ ngộ, liền bỏ bó đuốc xuống, tháo lá đồng trên bụng ra, năm vóc sát đất, xấu hổ ăn năn tội lỗi đã qua. Tất cả lỗi lầm ấy đều từ đa văn, trí tuệ, các căn lanh lợi. Trong thời gian chưa khởi thì đoạn trừ lậu hoặc nơi ba cõi đắc quả A-la-hán, là nhờ sức mạnh của trí tuệ. Ví như điều phục voi khiến voi phải theo móc sắt để di chuyển. Đại vương nên biết!

Người tu học đều do sự cấm chế, thâu giữ năm căn, sau đó thông đạt, không có gì trở ngại, nên gọi là trí vô ngại. Người đạt trí vô ngại có đủ bốn biện tài, nay Phú-lâu-na đầy đủ bốn biện tài đều do chuyên tâm siêng năng khổ nhọc học tập mà được. Cho nên ta nói phàm là trí tuệ thông tỏ có bảy đức tài:

  1. Tín tài.
  2. Tinh tấn tài.
  3. Giới tài.
  4. Tàm quý tài.
  5. Văn tài.
  6. Xả tài.
  7. Định tuệ tài.

Phu nhân Mạt-lợi có đầy đủ bảy tài ấy. Đại vương nên biết! Mặc dù là thân nữ nhưng phu nhân Mạt-lợi có tài cao trí rộng, khác với người thường. Đó đều do từ nhỏ đến nay luôn thận trọng về thân, khẩu, ý, một lòng chuyên niệm tu tập trí tuệ. Nhờ diệu lực của trí tuệ mà được giải thoát. Lại dùng trí tuệ giác ngộ cho mọi người.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhân trường hợp Sa-di La-hầu-la, vì đại chúng mà nói kệ:

Nghe là chim cánh vàng
Có oai lực mạnh mẽ
Nghe là kho của báu
Để tạo lợi ích nhau.
Nghe là cầu cống lớn
Giúp người vượt các khổ
Nghe là lái thuyền lớn
Đưa người qua biển khổ.
Nghe nhiều được sáng suốt
Nhờ sáng, trí tuệ tăng
Trí thì hiểu rõ nghĩa
Thấy, nghe hành pháp vui.
Nghe nhiều trừ khổ não
Thường lấy định làm vui
Hiểu rõ pháp cam lồ
Nhờ đó chứng Niết-bàn.
Nghe là biết pháp luật
Giải nghi được chánh kiến
Nhờ nghe bỏ phi pháp
Đi đến chốn không chết.
Tiên nhân kính thờ nghe
Chư Thiên cũng như vậy
Ngăn tâm không buông lung
Nghe nhiều thành Thánh trí.
Trí tuệ phá ưu sầu
Cũng trừ hết tà suy
Muốn cầu vui an ổn
Nên phụng thờ minh sư.
Nhờ đó mù được thấy
Như trong tối được đèn
Hướng dẫn người thế gian
Như sáng đến người tối.
Cho nên phải bỏ si
Lìa vui, giàu sang, mạn
Gắng học, thờ minh sư
Đó là tích tụ đức.

Nói kệ xong, Đức Phật lại bảo nhà vua:

–Nay vua được phước đức, thông minh, hiểu rộng đều do kiếp trước vua gần gũi minh sư, siêng năng phụng sự, tinh tấn học tập, nhờ đó mà được phước báo làm vua, có trí tuệ sáng suốt, giàu sang nhiều quyền uy, an ổn, thế gian không ai bằng. Cho nên ta nói: Trí tuệ Bát-nhã có bốn nghĩa. Nên biết rằng người cầu pháp nơi ba thừa phải học Bát-nhã. Người nào muốn lìa khổ hoạn, ba ác, tám nạn, muốn hưởng quả báo diệu lạc nơi cõi trời, người, nói chung là muốn cầu tất cả phước đức đều phải tu học phương tiện trí tuệ. Như ta đã nói ở trước, vua A-dật-đa siêng năng tu học mà có trí tuệ. Nhờ diệu lực của trí tuệ nên dù bị mất hạnh, sinh trong đường ác mà vẫn biết được túc mạng. Nhờ biết túc mạng nên sửa ác tu thiện, mau được giải thoát, cảm ứng đến chư Thiên tới cứu giúp, cúng dường. Do năng lực của trí tuệ mà được làm thầy chư Thiên. Vì nhân duyên đó ta nói Bát-nhã có bốn nghĩa.

Nghe Phật giảng nói nhân duyên của công đức nơi phương tiện trí tuệ, vua Ba-tư-nặc rất hoan hỷ. Thái tử Kỳ-đà, phu nhân, thái hậu, quần thần, dân chúng… tất cả đại chúng đều thông hiểu tỏ ngộ. Hết thảy mọi người đều cung kính đứng dậy lễ Phật rồi ngồi lại chỗ cũ.

Vua chắp tay bạch Phật:

–Như lời Phật nói, người đời tu thiện có hai hạng là thiện hữu lậu và thiện vô lậu. Hữu lậu và vô lậu hai nghĩa đều quy về một.

Bạch Thế Tôn! Như vậy sao Thế Tôn nói là có sai khác?

Đức Phật nói:

–Con người có hai hạng: Một là căn lanh lợi; hai là căn trì độn. Vì người căn trì độn mà nói hai loại thiện. Còn đối với người căn lanh lợi thì không nói có hai loại. Vì sao? Như các dòng sông, suối đều chảy về một biển, người căn trì độn do các căn tối tăm, chậm lụt nên vì họ mà phân biệt giảng nói như vậy.

Bấy giờ, thái tử Kỳ-đà bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giới pháp của mười thiện có sai khác không hay đồng một nghĩa? Nghĩa của giới vọng ngữ là một hay nhiều? Nếu một nghĩa thì con không thể giữ được, còn như sai khác thì xin Ngài hãy giảng nói rõ.

Đức Phật bảo:

–Vọng ngữ có hai: Một là nặng; hai là nhẹ. Sao gọi là nặng? Nếu người thọ giới mà không tu trí tuệ, ngu si vô trí nên không thể giáo hóa, làm hưng thịnh Phật pháp, do thế mà bị mọi người khinh chê, không cúng dường, nên bần cùng khốn khó. Vì muốn được cúng dường nên bên ngoài hiện ra vẻ tinh tấn mà bên trong thì làm những việc tà vạy, ô uế, thay phiên nhau nói với mọi người: “Tỳ-kheo đó tu khổ hạnh tinh tấn, chứng được cảnh giới thiền.” Hoặc nói: “Thấy Phật, thấy rồng, thấy quỷ.” Người như vậy gọi là đại vọng ngữ. Ai phạm tội ấy thì bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Lại nữa, vọng ngữ mà đưa đến giết người, phá hoại nhà cửa của người, đó là vọng ngữ loại nặng. Trường hợp có người vọng ngữ làm trái mất lời hẹn ước, khiến cho người khác phải sân hận, như vậy gọi là vọng ngữ bậc thấp. Người nào làm như vậy gọi là phạm giới và bị đọa vào địa ngục nhỏ. Ngoài ra, nói đùa giỡn cùng các việc riêng tư, những việc cần phải che giấu nên hoặc có nói không, không nói có thì không phạm giới.

Thái tử Kỳ-đà nghe vậy, liền đến trước Phật xin thọ pháp mười thiện đạo, rồi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ngày nay nghi ngờ của đệ tử đã được diệt trừ, con phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện Phật chứng tri.

Đức Phật nói:

–Lành thay! Ta rất tùy hỷ, thật là đúng lúc.

Vua bạch Phật:

–Đức Phật đã giảng nói, mười phương Hiền thánh sáng suốt, thông đạt về nhân duyên quả báo của chúng sinh. Phụ vương của con phụng thờ ngoại đạo, tu trì giới cấm, không bao giờ uống rượu, ăn thịt và năm món cay nồng, cúng dường Phạm thiên và mặt trời, mặt trăng, nước, lửa, luôn thực hành hạnh bố thí. Vì cầu phước nơi Phạm thiên nên hàng năm thường lấy sữa của một ngàn con bò để cúng dường các Bà-la-môn. Tính ra trong bốn mươi năm thì có bốn vạn con bò. Các Bà-la-môn luôn được ăn uống đủ các vị sữa, bơ, sữa tươi, sữa chín, đề hồ… Công đức như vậy thì sinh vào cõi trời nào? Cúi xin Phật rủ lòng thương xót phân biệt chỉ dạy để cho các hành giả đều nghe biết.

Đức Phật nói:

–Quả báo của tiên vương nay ở trong địa ngục. Vì sao? Vì không gặp thời cơ tốt, không gặp bạn lành, không có phương tiện hay. Mặc dù tu tập tạo công đức nhưng không thoát khỏi tội. Công đức của bố thí không mất, nên sau khi tội hết rồi mới được hưởng phước. Đại vương nên biết! Người tu phước không đổi được tội. Vì không đổi được nên cần phải có phương tiện để có thể diệt tội. Sao gọi là phương tiện? Là tri thức thiện. Sao gọi là bạn lành? Nghĩa là người có chánh kiến. Là bạn lành, tức luôn dùng chánh giáo để điều phục tâm. Chánh giáo nghĩa là gì? Nghĩa là quán vô thường, khổ, không, vô ngã và mười hai nhân duyên trói buộc trong sinh tử, tu tập bốn chân Đế: Thấy Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt và tu Đạo, thực hành sáu pháp Ba-la-mật, bốn Tâm vô lượng. Đó là phương tiện để điều phục các căn. Nhờ các căn được điều phục nên thành tựu được định tuệ. Nhờ định tuệ thành tựu nên tâm được chánh trực. Tâm chánh trực thì luôn tinh tấn. Tâm tinh tấn nên có thể giữ giới cấm. Giới cấm giữ rốt ráo thì được định tuệ sáng suốt, thông tỏ. Nhờ trí tuệ thông tỏ mà đối với vạn hạnh đều thông đạt, không bị chướng ngại. Do hành không bị chướng ngại nên gọi là giải thoát. Tâm giải thoát tức là Niết-bàn. Đó gọi là tri thức thiện. Đại vương nên biết! Minh sư dẫn đường giỏi, đó là nhân duyên lớn không thể xem thường. Đại vương nay gặp được Hiền thánh là đều nhờ quả báo từ nhân duyên kiếp trước, nghe pháp tin hiểu, lại có thể làm cho người khác tin hiểu. Cho nên ta nói: Người trí sáng khó gặp, không ai sánh bằng, sinh ra chỗ nào thân tộc đều được nhờ ơn nên phải tu trí tuệ Bátnhã.

Vua bạch Phật:

–Nghe Đức Thế Tôn nói về phương tiện trí tuệ, con đã thấu triệt. Như Thế Tôn nói, họa phước bất động, tiên đế đại vương của con tạo nghiệp ác gì mà bị khổ báo như vậy?

Đức Phật bảo vua:

–Tiên đế đại vương có sáu tội:

  1. Kiêu mạn và xét việc không rõ ràng, bất cứ việc nặng hay nhẹ liền đánh phạt, không nhẫn nại được.
  2. Tham lam của cải, xử việc không công bằng làm cho thiên hạ oán hận.
  3. Đi săn bắn, vui chơi để cho dân chúng khốn khổ, làm tổn hại chúng sinh chỉ dốc yêu mến thân mạng của mình.
  4. Giam giữ cung nữ, không cho họ tự do nên họ luôn phải chịu khổ.
  5. Đắm chìm trong nữ sắc, được mới chán cũ, đối xử không công bằng, làm cho họ oán hận.
  6. Sợ các Bà-la-môn nên trộm ăn thịt, uống rượu và ăn năm thứ cay nồng, sợ bị quở trách nên làm điều dối trá.

Đó là sáu việc đưa đến nghiệp tạo tội, bị đọa nơi địa ngục.

Vua bạch Phật:

–Nếu như vậy thì khi Phật chưa xuất thế, đệ tử cũng có tội như vậy thì làm sao tu hạnh mười thiện để được thành tựu mà không bị chướng ngại?

Đức Phật bảo vua:

–Trước ta đã nói: Khi ánh sáng mặt trời xuất hiện làm cho các tối tăm đều bị tiêu diệt, có chỗ nào không sáng chăng?

Vua nói:

–Ánh sáng của lửa, đèn vẫn còn diệt được bóng tối huống chi là oai thế của ánh sáng mặt trời.

Phật hỏi:

–Vua nay được phước đức, nghe Phật thuyết pháp, thành tựu trí tuệ giống như ánh sáng mặt trời tiêu diệt mọi sự tối tăm, nên không còn tội nào nữa.

Vua bạch Phật:

–Cha của trẫm thờ thầy Bà-la-môn, trí tuệ tinh tấn, tu tập khổ hạnh, vì cầu phước mà không tiếc thân mạng, làm những việc khổ hạnh như: lao xuống vực, dùng lửa đốt thân hoặc tuyệt thực để cầu sinh lên cõi Phạm thiên, hoặc chất củi để tự đốt thân, hoặc giơ chân lên, hả miệng hướng lên mặt trời, hoặc dùng dây buộc vào chân rồi tự treo ngược trên cây cao, hoặc nằm trên gai gốc, ôm đá đè lên ngực… Những công phu khổ hạnh đó, phước đức quy về đâu?

Đức Phật đáp:

–Như trước ta đã nói: Làm khổ mắc quả báo khổ, làm vui được quả báo vui, vua không nghe chăng?

Vua thưa:

–Thế Tôn dạy các đệ tử nên giữ giới cấm không phải là khổ sao? Phàm con người khi đói mà không được ăn thì phiền não nổi lên hoành hành, tức giận đùng đùng, không tự biết rõ, như con đã nổi cơn giận dữ, ra lệnh giết Tu-ca-la. Việc như vậy chịu khổ nhiều đời, lẽ nào không là ác sao?

Phật nói:

–Trước đây sở dĩ ta chế pháp không ăn trước giờ ngọ vì các Tỳ-kheo vốn từ bỏ pháp ngoại đạo, ở trong pháp của Ta mà xuất gia tu học. Trước hết phải tập khổ hạnh, vì đói khát nên các đệ tử thấy thức ăn ngon thì tham mà ăn quá no, do ăn như thế nên khó tiêu, đưa đến nhiều bệnh hoạn, vì vậy mà ngăn chế chứ không phải chịu khổ, nhịn đói để cầu phước đức. Lại tiết chế ăn uống vì thấy các Tỳ-kheo đi khất thực không kể ngày đêm, ăn không có chừng mực nên bị các ngoại đạo giàu chê nói rằng: “Sa-môn Cù-đàm tự cho là đạo trong sạch, thật ra có khác gì với pháp của ngoại đạo”, nên tiết chế ăn uống, chẳng phải vì đói khổ, mà để cầu phước. Nói tóm lại, chế giới cấm chính là vì người si không có trí tuệ phương tiện, chứ không phải vì người trí biết cách ứng hợp thời. Như trước ta đã nói, trí tuệ Bát-nhã tức là giải thoát, những gì mà người trí thọ trì là điều mà bậc Thánh tu hành.

Nghe như vậy, vua càng vui mừng, đứng dậy cung kính lễ Phật.

Tất cả đại chúng cũng như vậy.

Vua Ba-tư-nặc lại chắp tay, bạch Đức Thế Tôn:

–Đại chúng hôm nay nghe Phật giảng nói làm cho lưới nghi đều được phá vỡ, giống như ánh sáng mặt trời xua đuổi tất cả sự tối tăm, được thấy thông suốt. Công ơn này khó báo đền, đệ tử phải cúng dường như thế nào để báo ân sâu nặng của Thế Tôn?

Đức Phật nói:

–Giáo pháp cam lồ ấy khó báo đền. Giả sử có người trải qua hằng hà sa kiếp hết lòng phụng sự Phật, Pháp, Tăng với tất cả những vật cần dùng như: y phục, ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Ý vua thế nào? Phước ấy có nhiều không?

Vua bạch:

–Rất nhiều, không thể tính được.

Phật nói:

–Pháp cam lồ sâu xa vi diệu khó lường, cứu giúp không kể lớn nhỏ, không phải sức nơi phước đức của hàng trời, người có thể báo đáp được. Duy chỉ một điều là có thể báo đáp ân Phật, đó là thường dùng tâm Từ bi, đem tất cả pháp lành mà mình thông hiểu, lần lượt mở bày dẫn dắt, dù chỉ cho một người, để họ có tín tâm mà thành tựu trí tuệ, lần lượt giáo hóa hết thảy mọi người. Ví như một ngọn đèn lần lượt mồi đốt cho vô số đèn. Hành trì như vậy mới gọi là báo đáp ân sâu nặng của thầy. Đại vương nên biết! Muốn báo đáp ân giải thoát của thầy thì phải dùng trí tuệ để độ thoát chúng sinh. Làm như vậy tức là cúng dường ba đời chư Phật, chứ chẳng phải cúng dường để báo đáp ân một thầy.

Vua chắp tay bạch Phật:

–Truyền bá Thánh giáo, khai ngộ cho chúng sinh, khiến họ tu

tập đạt chánh kiến, hành trì Thánh đạo, phước ấy thế nào? Cúi xin Phật rủ lòng thương, khai mở, hướng dẫn cho chúng sinh.

Đức Phật bảo:

–Nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe thầy, nghe pháp, dù chỉ một nghĩa, rồi đem nghĩa đó lần lượt chuyển dạy, cho đến một người, làm cho người chưa tin được tin, chưa hiểu khiến cho hiểu. Công đức ấy là vô lượng vô biên, không phải những điều mà hàng phàm phu biết được. Đại vương! Giả sử có người suốt cả ngàn năm đem thức ăn uống, thuốc thang, y phục thượng hạng cung kính cúng dường Phật, Pháp, Tăng, phước ấy có nhiều không?

Vua thưa:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều, không thể tính lường.

Đức Phật bảo:

–Nếu thiện nam, thiện nữ nào theo thầy nghe chánh pháp của chư Phật, lần lượt chuyển dạy dù chỉ là một người, khiến họ tin hiểu, người này được phước đức hơn kia cả ngàn vạn lần. Vì sao? Vì công đức của việc giáo hóa pháp là vô lượng.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Giáo pháp này mà tinh tấn nêu dạy, giáo hóa cho tất cả muôn dân thì phước ấy là vô lượng. Này Tôn giả A-nan! Ta nay đem pháp mầu nhiệm vi diệu vô thượng này phó chúc cho ông để nêu giảng, lưu hành, giáo hóa, cứu độ chúng sinh, đó là cúng dường tất cả chư Phật.

Tôn giả A-nan chắp tay thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn phó chúc kinh này, vậy tên kinh là gì?

Đức Phật nói:

–Này Tôn giả A-nan! Kinh giáo này tên là Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên Kinh, phải siêng năng tu hành.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc, thái tử Kỳ-đà, phu nhân, hậu cung, bốn hàng đệ tử, Thích, Phạm, chư Thiên, tám bộ chúng rồng, thần, tám mươi vạn người nghe Phật giảng nói đều rất hoan hỷ. Tất cả đều phát tâm hướng đến ba môn giải thoát, rồi lạy Phật lui ra, như pháp phụng hành.