KINH VỊ TẰNG HỮU CHÁNH PHÁP

Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Pháp Thiên
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 1

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật cùng một vạn hai ngàn năm trăm vị đại Bí-sô ở nơi núi Thứu Phong thuộc thành Vương xá. Lúc đó có tám vạn bốn ngàn vị Đại Bồ-tát từ các cõi Phật cũng đến pháp hội. Các Đại Bồ-tát ấy đều là những vị đại trí tuệ, chứng đắc Đại tổng trì, có biện tài vô ngại, đều chứng pháp Nhẫn vô sinh, nhập vào môn trí tổng trì của Tam-ma-địa, hiểu biết rất rõ về sở thích của các chúng sinh, giảng nói rành mạch về pháp yếu và y như pháp được giải thoát.

Lại có bốn Đại Thiên vương, trời Đế Thích, chủ cõi Ta-bà là Đại phạm Thiên vương cùng vô lượng trăm ngàn Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cũng đều đến pháp hội.

Lúc ấy, còn có Đại Bồ-tát tên Diệu Cát Tường cùng với hai mươi lăm vị Đại Bồ-tát ở bên triền núi kia. Tên của các vị là Đại Bồ-tát Long Cát Tường, Đại Bồ-tát Long Thọ, Đại Bồ-tát Cát Tường Sinh, Đại Bồ-tát Cát Tường Tạng, Đại Bồ-tát Tối Thượng Liên Hoa Cát Tường, Đại Bồ-tát Liên Hoa Cát Tường Sinh, Đại Bồ-tát Trì Thế, Đại Bồ-tát Trì Địa, Đại Bồ-tát Bảo Thủ, Đại Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Đại Bồ-tát Sư Tử Ý, Đại Bồ-tát Sư Tử Vô Úy Âm, Đại Bồ-tát

Hư Không Tạng, Đại Bồ-tát Bình Đẳng Tâm Chuyển Pháp Luân, Đại Bồ-tát Liễu Biệt Nhất Thiết Cú Nghĩa Đại Biện, Đại Bồ-tát Biện Tích, Đại Bồ-tát Hải Ý, Đại Bồ-tát Diệu Cao Vương, Đại Bồtát Ái Kiến, Đại Bồ-tát Hỷ Vương, Đại Bồ-tát Vô Biên Thị, Đại Bồtát Vô Biên Tác Hạnh, Đại Bồ-tát Phá Chư Ma, Đại Bồ-tát Vô Ưu Thọ, Đại Bồ-tát Nhất Thiết Nghĩa Thành.

Lại có, bốn Thiên tử ở cõi trời Đâu-suất, tên các vị ấy là Thiên tử Phổ Khai Hoa, Thiên tử Quang Minh Hoa, Thiên tử Mạn-đà-la Hoa Hương, Thiên tử Tinh Tấn Pháp Hành. Vì có lòng tin ưa pháp nên các Thiên tử này đưa các quyến thuộc đến chỗ Bồ-tát Diệu Cát Tường để nghe, thọ nhận chánh pháp. Sau khi đến pháp hội, các Đại Bồ-tát và chúng Thiên tử theo thứ lớp mà ngồi.

Bấy giờ đại chúng đều suy nghĩ: “Nhất thiết trí của Phật thâm diệu sâu xa vô lượng, rộng lớn vô biên, không thể nghĩ bàn, không ai sánh bằng, tối thượng không gì hơn, không thể thấu rõ được thì làm sao các Đại Bồ-tát mặc đủ áo giáp tinh tấn để có thể chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề?”

Lúc này trong chúng hội có Đại Bồ-tát tên là Long Cát Tường nói với các Bồ-tát:

–Nếu có Bồ-tát trồng các căn lành, tâm không còn chấp trước mà hồi hướng về thật tế, đó gọi là mặc áo giáp tinh tấn an trụ vào pháp của các căn lành, thì Đại Bồ-tát ấy có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Long Thọ nói:

–Nếu Bồ-tát phát khởi tâm bình đẳng, tâm điều phục, tâm ưa thích, tâm vui vẻ, tâm hòa nhã, tâm không phân biệt, đó gọi là mặc áo giáp tinh tấn một cách kiên cố thì vị ấy có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Cát Tường Sinh nói:

–Nếu có Bồ-tát trong nhiều kiếp ưa thích muốn biết rõ về Nhất thiết trí của Phật thì ở trong vô lượng kiếp nên mặc áo giáp tinh tấn vì các chúng sinh mà làm những việc khổ khó làm, không tự cao ngạo ngã mạn, thì vị ấy có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Cát Tường Tạng nói:

–Nếu các Bồ-tát có tâm lợi tha, không vướng vào sự vui thích của chính mình, không lệ thuộc vào sự thích thiền định, luôn tạo lợi ích lớn cho chúng sinh, đem vô lượng căn lành hồi hướng cho họ thì vị ấy có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Tối Thượng Liên Hoa Cát Tường nói:

–Theo như những gì Đức Phật nói, nếu các Bồ-tát đối với tất cả pháp không có mình, không có người, không hiển bày, không giấu kín, có thể điều phục khắp nơi nhưng không có hành động gì, tuy hành nhưng mà không còn gì để hành. Đó là Bồ-tát trụ vào pháp tương ưng với Xa-ma-tha. Tự mình có thể hành và có thể dạy người khác hành thì Bồ-tát này và có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Liên Hoa Cát Tường Sinh nói:

–Nếu các Bồ-tát chấp vào pháp thế gian thì không thể nào hiểu được Nhất thiết trí của Phật. Nếu đối với pháp thế gian không có gì để ưa thích chấp trước, không lợi, không suy, không chê, không khen, không ca ngợi, không gièm chê, không khổ, không vui tức là đối với các pháp vẫn không tăng không giảm. Đó gọi là Bồtát đã ra khỏi thế gian thì vị ấy có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Trì Thế nói:

–Nếu các Bồ-tát đem các hạnh thù thắng làm lợi ích cho tất cả chúng sinh để được tự lợi, không vì mình và người mà sinh tâm phân biệt, chỉ đem căn lành hồi hướng cho tất cả, phát đại tinh tấn, thường gieo trồng các căn lành cho chúng sinh. Đó gọi là Bồ-tát an trụ vào các hạnh thù thắng thì vị ấy có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Trì Địa nói:

–Ví như mặt đất hay sinh ra cây cối, thuốc cỏ… tươi tốt, kết trái đều được thành tựu, cho đến vạn vật đều nhờ đất mà có. Nhưng đất không nghĩ: “Ta sinh ra cây cỏ và làm cho chúng phát triển, đối với vạn vật nhờ đất mà được đứng vững. Tất cả chúng sinh nương vào địa pháp giới mà được sinh trưởng, nhưng đại địa không nghĩ rằng có thể sinh ra chúng sinh.” Đại Bồ-tát cũng như vậy, phát tâm bình đẳng giống như mặt đất, luôn luôn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không nghĩ rằng ta có thể làm lợi lạc cho tất cả các loài. Nếu xa lìa sự phân biệt ấy thì chứng được Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Bảo Thủ nói:

–Áo giáp tinh tấn là để hành các hạnh thù thắng rộng lớn, vô lượng. Nếu mình không đủ căn lành lớn thì không thể nào hành được. Nếu các Bồ-tát trụ vào tâm bình đẳng, không còn tư tưởng phân biệt, thậm chí trong giấc mộng đối với các chúng sinh không còn vui, giận, luôn mong cho các hữu tình đều mặc áo giáp Đại thừa, chứng Phật trí trụ vào bình đẳng, cũng không có ý của hàng Thanh văn, Duyên giác thì Bồ-tát ấy có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói:

–Tất cả cảnh giới chúng sinh đều phát tâm đại Bi, ban bố khắp pháp ấn. Các chúng sinh ai không tin thì làm cho có chánh tín, người không nghe thì làm cho họ nghe nhiều, kẻ tham lam keo kiệt thì thực hành bố thí. Người hủy phá cấm giới thì làm cho giới đầy đủ. Ai sân giận thì làm cho họ hành nhẫn nhục, người biếng nhác khiến họ phát tinh tấn. Ai tán loạn thì khiến họ trụ vào thiền định. Người ngu si thì khiến họ có đầy đủ trí tuệ và dạy họ thường tu tập pháp lành để tất cả đều được đầy đủ trọn vẹn căn lành. Thường hành ba loại Bảo ấn của Bồ-tát. Ba Bảo ấn là gì? Nghĩa là làm thế nào để chúng sinh được đầy đủ Phật trí, có bao nhiêu căn lành đều hồi hướng về cho tất cả chúng sinh. Đây là Bảo ấn thứ nhất. Mình làm điều thiện nào đều được lợi ích, thành tựu căn lành cho tất cả chúng sinh. Đây là Bảo ấn thứ hai. Quán cõi hữu tình giống như hư không, tự tánh thanh tịnh. Đây là Bảo ấn thứ ba. Nếu Bồ-tát thường thực hành những điều này không bao giờ dừng nghĩ thì chứng được Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Sư Tử Ý nói:

–Nếu Bồ-tát tinh tấn kiên cố, không còn sợ sệt gì cả, không có gì hủy hoại được, không có tâm biếng nhác, không có tư tưởng kinh hãi, dũng mãnh không thoái lui, đối với đau khổ trong luân hồi không run không sợ mà lại có thể vượt ra khỏi để chứng Niết-bàn. Đối với pháp khổ vui luôn luôn bình đẳng không có hai tướng, được như vậy tức là Bồ-tát mặc áo giáp tinh tấn, có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Sư Tử Vô Úy Âm nói:

–Ví như thế gian có lực sĩ không bao giờ thua ai, làm việc gì cũng đều hoàn tất. Đó gọi là Chánh sĩ.

Chánh sĩ ấy luôn thực hành chánh pháp, tránh xa các tội cấu, không sinh tà kiến, siêng năng tu hành hạnh lớn, tâm hòa nhã không có tướng thô ác, xa lánh kẻ hung bạo. Đó gọi là Chánh sĩ.

Thường phát ra những lời nói hoàn hảo, gần gũi với bạn lành, đem tâm nồng hậu tôn trọng cung kính sư trưởng, thực hành theo đạo chân chánh, không chút sai trái. Đó gọi là Chánh sĩ.

Xa lìa những tham ái, tu tập theo hạnh chánh mạng, dùng nghiệp thanh tịnh để dứt trừ những tội lỗi, đem tâm trí tuệ để đoạn trừ tà kiến ngu si, đối với ba nghiệp luôn an trú trong tịnh, không gây rối ren cho người, không bàn luận tốt xấu hay dở, không chê không khen. Đó gọi là Chánh sĩ.

Thương xót kẻ nghèo khổ, ban bố ân tuệ, không có phân biệt giữa kẻ oán người thân, bên trong thì tâm thật thà chất phác, bên ngoài thì thể hiện tướng nhu hòa, tránh xa những sự dua nịnh, luôn giữ hạnh chân thật, lấy pháp vô thượng để làm vui cho tâm mình, an nhiên vững vàng sống trong sự bình đẳng. Đó gọi là Chánh sĩ.

Chúng sinh nào có những sự chướng ngại thì phá trừ cho họ, đem bố thí tất cả thân mạng tài sản với pháp thắng nghĩa không tham tiếc, thấy chúng sinh nào thiếu phước thiếu tuệ thì tìm cách diệt trừ pháp bất thiện cho họ, sau đó ban bố cho họ kho báu pháp diệu, chúng sinh nào nghèo khổ thì bố thí trân báu, chúng sinh nào tật bệnh thì bố thí thuốc thang, chúng sinh nào sợ sệt thì bố thí sự an vui, người không chỗ nương tựa thì làm chỗ che chở cho họ, người bị đọa luân hồi thì cứu độ họ, người ở trong nhà tối tăm thì làm ánh sáng mà chiếu dắt dẫn họ đi, người đang ở trong đường tà thì chỉ dạy để đi đường chánh, luôn luôn dùng giáo pháp để chỉ dạy hướng dẫn cho tất cả chúng sinh, thấy lỗi lầm của người không sân giận. Đó gọi là Chánh sĩ.

Các Bồ-tát tu hành hạnh như vậy thì có thể an trụ vào pháp tương ưng của Xa-ma-tha và có thể chứng Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Hư Không Tạng nói:

–Các Bồ-tát thấy chúng sinh nên tu hành đại Từ quán giống như hư không, không có biên giới. Hành đại Bi quán rộng lớn vô biên cũng như vậy, thường sinh hoan hỷ, giữ gìn các căn lành, tránh xa những đắm nhiễm, luôn thực hành sáu pháp Ba-la-mật không cho bê trễ, hành Bố thí giống như hư không, không có gì làm trở ngại được. Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ cũng đều như vậy. Bồ-tát thực hành được như thế thì có thể chứng Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Bình Đẳng Tâm Chuyển Pháp Luân nói:

–Nếu có Bồ-tát hành đạo Bồ-đề, đối với các pháp không còn thấy các tướng và tâm phân biệt. Vị này không bị ma làm não hại, luôn được chư Phật nhớ nghĩ, được chư Thiên, Rồng, Thần luôn ủng hộ, tạo ra căn lành nào đều chân thật không mất. Nếu Bồ-tát đối với pháp mà tâm còn thấy có tướng, còn phát sinh tư tưởng, phân biệt thì vị này ở cảnh giới ma, bị ma quấy nhiễu, chư Phật không hộ trì, chư Thiên không ủng hộ. Nếu vị nào vững chãi bất động, không còn thấy có tướng, không còn phân biệt, thì đó là Bồ-tát Chuyển pháp luân vô thượng, ban bố cho tất cả. Vì sao? Vì Bồ-tát hiểu rõ các pháp là không phát sinh, không tạo tác. Mặc dầu Bồ-tát còn phát sinh các tâm nhưng không chấp trước vào nó, đem tâm vô tướng mà chứng Phật Bồ-đề, cho đến chuyển bánh xe pháp vi diệu cũng như vậy. Đây gọi là Đại Bồ-tát mặc áo giáp tinh tấn, chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Liễu Biệt Nhất Thiết Cú Nghĩa Đại Biện nói:

–Các vị Chánh sĩ nên biết! Tất cả xứ là Bồ-đề. Phiền não là Bồ-đề. Các việc đã làm là Bồ-đề. Pháp hữu vi là Bồ-đề. Pháp vô vi là Bồ-đề. Pháp hữu lậu là Bồ-đề. Pháp vô lậu là Bồ-đề. Tâm có chấp trước là Bồ-đề. Tâm không chấp trước là Bồ-đề. Căn lành là Bồ-đề. Căn chẳng lành là Bồ-đề. Pháp thế gian là Bồ-đề. Pháp xuất thế gian là Bồ-đề. Pháp luân hồi là Bồ-đề. Cõi Niết-bàn là Bồ-đề. Hư vọng là Bồ-đề. Chân thật là Bồ-đề. Uẩn, xứ, giới là Bồ-đề. Địa, thủy, hỏa, phong, không là Bồ-đề. Vì Đại Bồ-tát hiểu rõ tự tánh của tất cả pháp đều là không, các việc đã tạo ra đều không có tự tánh, với tất cả ý nghĩa đều biết rõ một cách như thật. Ví như hư không đầy khắp tất cả nơi, pháp Bồ-đề cũng như vậy ở tất cả xứ. Nếu Bồ-tát hiểu rõ các pháp sẽ được đầy đủ biện tài và được chánh trí, phân biệt các câu nghĩa thì vị này có thể chứng Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Biện Tích nói:

–Nếu Bồ-tát với trí tuệ giải thoát, có làm được điều gì cũng không nắm giữ, bởi vì tâm không thấy tướng. Không tăng giảm, không lay, không động. Tất cả lời nói ra cũng đều xác định đúng lý, bị chê bai hay được khen ngợi cũng không lay động. Tất cả lời nói của ngoại đạo, tất cả lời nói của Như Lai, dù trong, dù ngoài, dù ẩn hay hiện đều bình đẳng không có sai khác, biết tất cả pháp đều quy về tịch diệt. Tâm không chấp trước đối tượng nào cả, giữ vững bất động như núi Diệu cao không động chuyển. Nếu Bồ-tát với trí tuệ giải thoát, tâm trở về tịch diệt thì có thể chứng Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Hải Ý nói:

–Nếu Bồ-tát có trí tuệ như biển lớn, biết vạn pháp đều quy về một vị bình đẳng. Bồ-tát đa văn nắm giữ hết tánh của các pháp như một vị không khác, biết rõ tự tánh chân thật của các pháp chẳng phải vô sở hữu, mà pháp do duyên sinh tức là nghĩa chân thật, tất cả pháp lành từ đấy sinh ra, nên biết pháp ấy không tăng, không giảm, tánh của gốc ngọn phước lợi nhiều vô tận, là cứu cánh tịch diệt, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, nên biết một cách như thật. Còn như đối với chúng sinh mà phát sinh tâm vô lượng, không quên, không bỏ, thường có tâm tôn trọng giảng nói rõ ràng cho họ, chỉ dạy bình đẳng về pháp bất cộng, trồng các căn lành cho khắp chúng sinh thì Bồ-tát này mặc áo giáp tinh tấn, chứng Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Diệu Cao Vương nói:

–Các vị Chánh sĩ nên biết, Nhất thiết trí của Phật chẳng biết được một cách dễ dàng đâu, khó mà lường tính, làm sao có thể chứng được. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát vượt qua tất cả tâm hành của chúng sinh trong thế gian, vượt qua tất cả sự thấy nghe của chúng sinh trong thế gian, cho đến tin ưa, tri thức đều có thể vượt qua chúng sinh trong thế gian mà Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ được phước đức vượt hơn núi Tu-di, thì Bồ-tát này có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Ái Kiến nói:

–Đại Bồ-tát nào quán xét sáu trần cảnh mà không có gì để quán cho đến duyên mà không có gì để duyên. Vì sao? Vì nếu sắc hay tâm thì bản tánh nó đều thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên mắt không có gì để thấy. Vì thanh thanh tịnh nên tai không có gì để nghe. Vì hương thanh tịnh nên mũi không có gì để ngửi. Vì vị thanh tịnh nên lưỡi không có gì để nếm. Vì xúc thanh tịnh nên thân không có gì để cảm giác. Vì pháp thanh tịnh nên ý không có gì để duyên. Vì sao? Vì các căn thanh tịnh nên tự tánh nó đều không, không có mình, không có người, không yêu thích, không chán bỏ, tự tánh là bình đẳng, quán chúng sinh không có cao thấp, tất cả đều bình đẳng. Đối với Phật pháp có tâm quyết định không sinh nghi ngờ, vui thích với pháp không nhàm chán, được rồi thì bố thí trở lại, bố thí rồi không hối tiếc, dần dần hành trì đầy đủ trọn vẹn tất cả Phật pháp. Đại Bồtát nào làm đúng như vậy thì có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Hỷ Vương nói:

–Đại Bồ-tát tâm an trụ vào bố thí, nhẫn nhục, nếu có người đến mắng chửi, quở trách, khinh khi, đánh đập mà Bồ-tát không có tâm sân giận họ mà còn có tư tưởng hoan hỷ, luôn làm bạn lành với các chúng sinh, không còn tướng mình và người, không có người hủy nhục, không có người bị hủy nhục, các pháp đều là không. Vì nội không, ngoại không, tướng ngã, tướng nhân cũng đều không, cho nên luôn sinh tâm hoan hỷ, thực hành hạnh bố thí. Giả sử có người đến xin đầu, mắt, tay, chân, vợ, con, quyến thuộc cho đến thân mạng của mình cũng không tiếc rẻ, lại bố thí một cách hoan hỷ. Bồ-tát thích cầu diệu pháp, nếu nghe một bài kệ, giả như có đổi ngôi vị Chuyển luân vương cũng không luyến tiếc. Nếu làm tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề, giả sử có được ngôi vị Đế Thích cũng không ưa thích. Nếu vừa nghe pháp hy hữu giả sử có được ngôi vị Phạm thiên vương cũng không ưa thích. Nếu được thấy chư Như Lai giả sử trong tam thiên đại thiên thế giới đầy ngập châu báu thì cũng bỏ vứt như sỏi gạch, thích nhìn chư Phật với lòng tràn đầy hoan hỷ, các căn đầy đủ thành tựu pháp phần Bồ-đề, thì vị này có thể chứng Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Vô Biên Thị nói:

–Đại Bồ-tát nào không còn thấy tướng ngã, quán tất cả pháp đều thanh tịnh không còn nghi ngờ gì cả, thì có thể thấy tất cả chư Phật, quán các sắc mà không còn chấp trước, không có tưởng sắc, thấy các chúng sinh mà không có tưởng về chúng sinh, cho đến quán tất cả sắc tướng ở thế gian cũng đều như vậy.

Tất cả cõi Phật thấy bằng Nhục nhãn đều thanh tịnh, vì nghiệp báo thanh tịnh nên được đầy đủ Thiên nhãn, do có đại thần thông mà được đầy đủ Tuệ nhãn, pháp Bất cộng của Phật được tròn đầy nên được đầy đủ Pháp nhãn, xa lìa các phiền não nên được đầy đủ Phật nhãn, Bồ-tát này sẽ được đầy đủ mười Lực và có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Vô Biên Tác Hạnh nói:

–Tất cả những gì của chư Phật làm đều là Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-đề là do Nhất thiết trí phát sinh ra, không có nội tưởng, không có ngoại tưởng, cũng không có trung gian, cho nên với tất cả pháp, Bồtát không chấp trước thì diệt sạch hoàn toàn phiền não, không còn việc của ma và ra khỏi cảnh giới ma. Bồ-tát này có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Phá Chư Ma nói:

–Nếu Bồ-tát không còn sinh ngã kiến tức là xa lìa các kiến. Nếu các kiến không còn phát sinh thì có thể xa lìa nghiệp ma, tức là đã tỏ ngộ được các uẩn. Các uẩn đều là không, diệt hẳn tướng ngã. Tướng ngã đã diệt thì ma không làm gì được. Nếu nghiệp ma đã diệt thì các chướng được giải thoát. Nếu xa lìa các chướng thì đắc Bồ-đề, đó gọi là chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Vô Ưu Thọ nói:

–Nếu người tạo nghiệp bất thiện thì luôn lo sợ, hối hận tự trách mình. Còn người tạo các nghiệp thiện thì không lo sợ gì cả. Thế nên Bồ-tát luôn thực hành pháp lành không gián đoạn, liên tục nơi hiện tại. Bồ-tát này không bị mũi tên độc lo buồn làm tổn hại, có thể mặc áo giáp tinh tấn và chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bồ-tát Nhất Thiết Nghĩa Thành nói:

–Thiện nam nào giới pháp đầy đủ, hạnh nguyện đầy đủ thì có thể an trụ vào căn bản của giới pháp. Ví như hương thơm xông ướp tất cả, có thể xa lìa các lỗi lầm, xa lìa các ác, mới viên mãn pháp phần Bồ-đề. Nếu pháp phần Bồ-đề đã viên mãn thì thành Nhất thiết trí. Do đó nên biết rằng chân giới là gốc. Pháp phần Bồ-đề mà được thành tựu, Bồ-tát nào hiểu đúng như vậy thì có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Sau khi các Bồ-tát nói pháp xong, trong chúng hội có Thiên tử ở cõi trời Đâu-suất tên Phổ Khai Hoa nói như vầy:

–Thưa các Bồ-tát! Ví như thế gian có cây hoa đẹp nở rộ tốt tươi, sắc hương thơm sạch, ai ai cũng ưa thích. Các Đại Bồ-tát cũng như vậy. Các pháp giải thoát giống như hoa nở tăng thêm sắc đẹp được tất cả Đại Bồ-tát ưa thích, lại giống như cây mọc trong vườn của cung trời Đao lợi. Cây ấy cao lớn sum suê, hoa nở rất đẹp trông rất thích mắt. Thưa các Đại Bồ-tát! Nếu đầy đủ pháp giải thoát thì như hoa nở tăng thêm vẻ đẹp, được tất cả Bồ-tát và trời người ưa thích. Cũng giống như đại Ma-ni quý báu tối thượng, trong suốt không có tỳ vết, đủ đức như ý. Các Đại Bồ-tát trong tâm thanh tịnh, không còn các cấu nhiễm, đầy đủ pháp công đức. Như vậy thì có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Thiên tử Quang Minh Khai Hoa nói:

–Các Bồ-tát như mặt trời tỏa ánh sáng phá tan các tăm tối, làm hiển lộ tất cả sắc tướng. Đại Bồ-tát cũng như vậy, đầy đủ ánh sáng trí tuệ làm ngọn đuốc diệu pháp chiếu khắp chúng sinh để diệt trừ những si ám. Tất cả đều được ánh sáng trí tuệ thông suốt hiện ra, không còn các tăm tối và không bị sự ngu mờ che lấp, luôn đi theo đạo sáng suốt. Cho nên Bồ-tát hướng dẫn chỉ dạy cho những chúng sinh bị lạc đường trở về con đường chân chánh. Bồ-tát này có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Thiên tử Mạn-đà-la Hoa Hương nói:

–Thưa các Bồ-tát! Mùi thơm của hoa Mạn-đà-la bay xa cả trăm do-tuần. các Đại Bồ-tát đầy đủ giới, định, tuệ cũng như vậy. Hương giới, hương định, hương tuệ bay xa khắp tất cả trong thế gian.

Nếu chúng sinh nào mà ngửi được hương thơm ấy thì tất cả phiền não đều được tiêu trừ. Đại Bồ-tát đầy đủ hương pháp công đức như vậy thì có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Thiên tử Tinh Tấn Pháp Hành nói:

–Nếu các Bồ-tát biếng nhác thoái lui thì không thể tu tiến về hạnh thù thắng để đắc quả Bồ-đề của Phật. Nếu tâm tinh tấn không kể kiếp số, luôn luôn dũng mãnh, trồng các căn lành, tâm không nhàm chán, thường thực hành tám pháp Trợ đạo. Thế nào là tám?

  1. Siêng năng làm tăng thêm pháp tương ưng với hạnh thù thắng.
  2. Thường tu bốn pháp hạnh vô lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả.
  3. Tu tập năm pháp trí tuệ thuộc trí thông.
  4. Thường tu hành theo bốn Nhiếp pháp, đó là: Bố thí, ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự.
  5. Đối với ba môn giải thoát đầy đủ pháp nhẫn.
  6. Giảng nói rộng rãi về diệu pháp cho mọi người.
  7. Phát tâm Vô thượng đại Bồ-đề.
  8. Làm phương tiện tốt lành hồi hướng cho tất cả mọi người đều được ở trong chánh pháp.

Bồ-tát nào hành theo tám pháp này thì có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Diệu Cát Tường nói với các Bồ-tát và chúng trời:

–Này các Đại Bồ-tát! Đối với các pháp nên xa lìa mọi phân biệt thì có thể chứng Phật trí. Làm thế nào để lìa sự phân biệt? Nghĩa là không phân biệt ba cõi, không phân biệt các kiến, không phân biệt đây là nội kia là ngoại, không phân biệt đây là quả vị Thanh văn, kia là quả vị Duyên giác, hay địa vị chúng sinh phàm phu; cũng không phân biệt đây là luân hồi, kia là phiền não; đây là năng quán, kia là sở quán; đây là nhân, kia là quả; là cảnh giới hay chẳng phải cảnh giới, là tăng hay giảm, kia là kiến của ngã, đây là sở kiến của ngã, là xan tham hay bố thí, là hủy giới hay trì giới, là sân giận hay nhẫn nhục, là biếng nhác hay tinh tấn, là tán loạn hay thiền định, là ngu si hay trí tuệ. Cũng không phân biệt căn lành này hay sinh các pháp lành, còn kia là căn không lành thì sinh pháp không lành. Không phân biệt đây là pháp thế gian kia là pháp xuất thế gian, mà trụ vào pháp bình đẳng, không phân biệt là vô vi hay hữu vi, không phân biệt tâm có chấp trước hay tâm không chấp trước, không phân biệt là hữu lậu hay vô lậu.

Các Đại Bồ-tát nên biết! Pháp ấy không còn sự phân biệt mà là trụ vào chỗ tương ưng với bình đẳng thì có thể chứng đắc Nhất thiết trí của Phật.

Lại nữa, thưa các Đại Bồ-tát! Vô thượng Bồ-đề của chư Phật vốn không thể thủ đắc. Vì sao? Vì chẳng phải nơi tâm để duyên, chẳng phải nơi trí để biết, mà chỉ có Phật mới chứng được thôi. Ai bình đẳng với chư Phật thì cũng bình đẳng với Nhất thiết trí. Quán về Nhất thiết trí đều vô sở hữu. Vì vô sở hữu cho nên không chấp trước vào Nhất thiết trí, chẳng phải sắc nắm bắt mà thọ, tưởng, hành, thức cũng đều không thể nắm bắt, đó gọi là Nhất thiết trí, không có tướng của pháp mà cũng không có tướng của phi pháp, đó gọi là không của Nhất thiết trí. Bố thí ba-la-mật có thể chứng, Trì giới ba-la-mật có thể chứng, Nhẫn nhục ba-la-mật có thể chứng, Tinh tấn ba-la-mật có thể chứng, Thiền định ba-la-mật có thể chứng nhưng Trí tuệ ba-lamật thì không thể chứng. Vì sao? Vì các pháp không có chỗ thủ đắc, cho nên Nhất thiết trí cũng không chỗ thủ đắc.

Lại nữa, thưa các Bồ-tát! Nhất thiết trí chẳng phải ba đời có thể thủ đắc, vì quá khứ không thể thủ đắc, hiện tại không thể thủ đắc và vị lai cũng không thể đắc. Vì không chấp trước vào ba đời nên chẳng phải là đối tượng để nhãn thức quán, chẳng phải là đối tượng để nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức quán. Vì sao? Vì xa lìa các cảnh giới.

Các Đại Bồ-tát nào muốn thành tựu Nhất thiết trí thì nên trụ như vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp cũng đều trụ như vậy. Vì các pháp bình đẳng nên Nhất thiết trí cũng bình đẳng, cho đến pháp chư Phật, pháp phàm phu cũng đều bình đẳng. Đó gọi là Nhất thiết trí. Các Đại Bồ-tát nên trụ như vậy, nên học như vậy. Ví như tự tánh của bốn đại đều không, nếu nó vốn có tánh thì cũng không thể thủ đắc. Vì sao? Vì tự tánh của chúng là không. Vì tự tánh của các pháp thiện hay bất thiện ở thế gian đều không, nên nó cũng không thể thủ đắc. Vì sao? Vì không phân biệt. Phân biệt đã là không nên đó là nghĩa chân thật.

Khi Bồ-tát Diệu Cát Tường nói pháp này, trong hội có hai ngàn Thiên tử đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Một vạn hai ngàn Thiên tử phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

QUYỂN 2

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Biện Tích thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Chúng ta hãy đến chỗ Đức Phật để hỏi Đại Bồ-tát nên trụ như thế nào.

Khi ấy vẫn ngồi yên giữa chúng hội, Bồ-tát Diệu Cát Tường thâu nhiếp thân tướng Bồ-tát, hóa hiện ra thân tướng Như Lai với đầy đủ tướng tốt, giống y như Phật Thích-ca Mâu-ni.

Lúc này, Bồ-tát Biện Tích không biết tướng hóa hiện nên cho là Đức Như Lai và đến trước Phật, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nên trụ như thế nào?

Hóa Phật trả lời:

–Theo những gì ta làm thì Bồ-tát nên trụ như vậy.

Bồ-tát Biện Tích thưa:

–Theo Phật Thế Tôn thì trụ như thế nào?

Hóa Phật nói:

–Phật Thế Tôn không tu hành pháp Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, không chấp trước vào cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc; không hành thân nghiệp, không sinh ngữ nghiệp, không tạo ý nghiệp. Như vậy đối với tất cả xứ đều không có chỗ hành.

Này Thiện nam! Vì tất cả những gì để hành đều như huyễn hóa.

Bồ-tát Biện Tích thưa:

–Vậy thì Phật, Thế Tôn cũng là tướng huyễn hóa sao?

Hóa Phật nói:

–Đúng vậy, đúng vậy. Đại Bồ-tát nên trụ như thế.

Bồ-tát Biện Tích lại bạch Phật:

–Vì sao Thế Tôn cũng là tướng huyễn hóa?

Hóa Phật nói:

–Này Thiện nam! Không những vậy mà tất cả các pháp đều là tướng huyễn hóa.

Bồ-tát Biện Tích thưa:

–Đúng vậy, đúng vậy! Tánh không của các pháp đều là tướng huyễn hóa, không lẽ Phật Thế Tôn của con cũng là huyễn hóa sao?

Hóa Phật nói:

–Này Thiện nam! Đâu chỉ có Đức Phật đây là tướng huyễn hóa mà tất cả Như Lai cũng đều là tướng huyễn hóa.

Bồ-tát Biện Tích thưa:

–Ai là người có thể hóa?

Hóa Phật nói:

–Do nghiệp thanh tịnh, chứ chẳng phải là có chủ thể hóa cùng đối tượng được hóa, cũng không có ta, không có người, không có chúng sinh, không có thọ mạng, không có sĩ phu, không có thức, không có Bổ-đặc-già-la, không có Phật, không có các tướng phàm phu.

Bồ-tát Biện Tích bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nên học như thế nào để chứng đắc Bồ-đề?

Hóa Phật nói:

–Tất cả các pháp không có chỗ học, Bồ-tát nên học như vậy. Các pháp không có chỗ hành, Bồ-tát nên học như vậy. Các pháp không có gì sợ, Bồ-tát nên học như vậy. Các pháp không có nghi ngờ, Bồ-tát nên học như vậy. Các pháp không có sở hữu, không có chỗ duyên, không hư vọng, không tụ tập, không tạo tác, không văn tự, không sinh, không diệt, không đã có, không hiện có và không sẽ có; chẳng phải huyễn hóa, chẳng phải hình tượng, chẳng phải chỗ quán của trí, xa lìa tất cả tưởng. Đại Bồ-tát nên học như vậy. Ai học như vậy thì gọi là học đúng, không giảm mất cũng không tăng trưởng. Nếu ai học như vậy thì không còn gì để viễn ly, không còn gì để bàn luận, không còn gì để vui thích, không còn gì để nhàm chán, không vui không giận, không đến không đi. Nếu ai học như vậy, gọi là học đúng. Cho nên, này Thiện nam! Nếu có người nào cầu Vô thượng Bồ-đề thì nên biết rằng không có luân hồi, không có Niếtbàn, không nắm bắt, không xả bỏ, không bố thí, không xan tham, không giữ giới, không phạm giới, không nhẫn nhục, không sân giận, không siêng năng, không biếng nhác, không định, không loạn, không trí tuệ, không ngu si, chẳng phải học, chẳng phải vô học, chẳng hành chẳng phải không hành, không có gì để đắc không có gì để chứng, không có Bồ-đề, không có Phật pháp, không có tưởng ngã, không có tưởng người, không có tưởng chúng sinh, không có tưởng thọ giả, không có tưởng Bổ-đặc-già-la, không có tưởng pháp, cũng không có tưởng phi pháp, chẳng phải hữu tưởng chẳng phải vô tưởng. Vì sao? Vì các pháp như huyễn hóa, không có hai, không sai khác, không có tướng chuyển động. Với tất cả pháp chẳng phải sắc nắm bắt tướng. Mắt không thể quán được vì tất cả pháp không có tướng phân biệt, tâm không thể biết. Tánh của các pháp là không, không pháp nào có thể hành, không có Bồ-đề nào để chứng đắc. Cho nên, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát nên hành như vậy, nên học như vậy. Nếu có thiện nam nào nghe nói điều này mà không kinh sợ, không nghi ngờ thì người ấy có thể chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện nam! Ví như hư không không có gì có thể xâm hại được, lửa không thể đốt, gió không thể làm lay chuyển, nước không thể thấm ướt, bụi không thể làm dơ, khói mây sấm sét không thể nào vướng vào được, bởi vì hư không không chướng ngại. Đại Bồ-tát cũng như vậy, tâm không chướng ngại, không bị các pháp làm chuyển động, tâm không ưa thích không nhàm chán giống như hư không. Các uẩn không bị chúng ma làm lay động, Bồtát ấy sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề tạo lợi ích lớn vô cùng tận cho chúng sinh.

Sau khi nói pháp xong, Hóa Phật bỗng biến mất. Bồ-tát Diệu Cát tường trở lại thân cũ.

Bồ-tát Biện Tích thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Như Lai Thế Tôn vừa mới giảng pháp từ đâu đến vậy, bây giờ đi về đâu?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Vốn không từ đâu đến nên bây giờ không đi về đâu.

Bồ-tát Biện Tích lại hỏi:

–Đến mà không đến thì từ đâu đến?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Từ như vậy mà đến.

Bồ-tát Biện Tích hỏi:

–Theo như Phật đã nói thì tất cả Như Lai đều là tướng huyễn hóa. Vậy tướng huyễn hóa chẳng từ đâu đến cũng không đi về đâu sao?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Đúng vậy, đúng vậy. Tướng huyễn hóa không đến, không đi.

Tất cả pháp, tất cả chúng sinh cũng như vậy.

Bồ-tát Biện Tích lại hỏi:

–Tất cả pháp trụ chỗ nào?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Các pháp không có tự tánh nên trụ như vậy.

Bồ-tát Biện Tích hỏi:

–Tất cả chúng sinh trụ thế nào?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Tất cả chúng sinh mỗi mỗi đều có nghiệp báo nên cũng trụ như vậy.

Bồ-tát Biện Tích hỏi:

–Tất cả nghiệp báo của chúng sinh như thế nào?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Các pháp không có chủ nên cũng không có nghiệp báo. Vì các pháp bình đẳng nên trụ như vậy.

Bồ-tát Biện Tích hỏi:

–Nếu không có nghiệp báo thì sao lại nói mỗi mỗi có nghiệp báo?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Tạo ra nghiệp gì thì thọ quả báo theo nghiệp đó, đó là nghiệp báo.

Bồ-tát Biện Tích hỏi:

–Nghiệp báo của chúng sinh là tánh không, đang sống cũng như vậy thì làm sao thọ quả báo?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Như pháp chân thật thì không có nghiệp không có quả báo, không có sinh, chẳng phải có chẳng phải không, đó là nghiệp báo. Nhưng nghiệp báo của chúng sinh không mất mát, tánh của tự nghiệp là không, nên đó là nghĩa chân thật.

Khi Bồ-tát Diệu Cát Tường nói pháp này, trong chúng hội của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có Tôn giả Xá-lợi Tử, A-nan và những vị Thanh văn khác nhờ oai lực của Phật mà được nghe pháp diệu của Bồ-tát Diệu Cát Tường đã nói.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử đứng dậy thưa Phật:

–Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát đều dùng phương tiện thiện xảo để giảng nói pháp thâm diệu. Nếu người nào được nghe thì không ai là không phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Đại Bồ-tát đem tâm không chấp trước mà tu học các hành, đem tâm không biếng trễ mà giảng nói chánh pháp.

Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Như những gì Bồ-tát làm, thọ quả báo, có trí tuệ và giảng pháp cũng đều như vậy. Như ông Tôn giả Xá-lợiphất thì nẻo hành hóa, ta học đều là hạnh của Thanh văn còn có tướng chấp trước, chỗ đạt được trí tuệ cũng như vậy.

Bấy giờ, có vị Bồ-tát tên Quang Nghiêm đứng dậy đến trước Phật, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là hạnh của Thanh văn?

Phật bảo:

–Này Thiện nam! Hạnh của Thanh văn nghĩa là đối với pháp còn có hạn lượng, đối với sự tu hành không thể xa lìa các tướng, thích tránh sinh tử để chứng Niết-bàn, chán bỏ chúng sinh không cứu vớt, trí tuệ còn hạn hẹp, không có tâm rộng lớn, cho nên Bồ-tát quán các hành của Thanh văn giống như hạng ngu mờ, do đấy tâm của Bồ-tát hành mà không chấp trước, trí tuệ không chướng ngại và còn có thể độ khắp chúng sinh đạt được vô lượng lợi ích.

Bồ-tát Quang Nghiêm lại thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Cát Tường và các Đại sĩ, sao bây giờ không đến hội này để giảng nói diệu pháp? Chúng con rất muốn nghe. Vì sao? Vì Bồ-tát Diệu Cát Tường đã chứng đắc pháp thâm diệu, nhập vào môn giải thoát, dùng vô ngại biện tài nói rõ về pháp giải thoát.

Bấy giờ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền dùng thần thông cảnh giác bảo Bồ-tát Diệu Cát Tường đến pháp hội. Khi ấy, Bồ-tát Diệu Cát Tường cùng hai mươi lăm Đại Bồ-tát và chúng trời, người đều đến chỗ Phật Thích-ca Mâu-ni, tất cả đều lễ lạy sát chân Phật, đi nhiễu bên phải ba vòng rồi lui qua một bên.

Bồ-tát Quang Nghiêm thưa với Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Vì sao Đại sĩ rời bỏ chỗ Phật để nói pháp chỗ khác?

Diệu Cát Tường trả lời:

–Giáo pháp mà Đức Phật nói ra rất sâu xa khó lãnh hội, lìa các ngôn ngữ, tôi không thể biết.

Bồ-tát Quang Nghiêm hỏi:

–Phật nói pháp rất thâm diệu khó lãnh hội, như Đại sĩ đây có trí tuệ vô lượng mà còn không thể hiểu thì chúng tôi làm sao mà hiểu nổi.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Chỉ có Phật với Phật mới thông đạt tất cả, ngoài Như Lai ra không ai có thể tin ngộ được, cho nên tôi tùy theo năng lực giảng nói của mình mà nói pháp, chỉ theo pháp mà nói còn đối với pháp giới chân tế thì chẳng lìa, chẳng phải không lìa. Nói như vậy gọi là nói pháp. Đối với ngôn ngữ, đối với hý luận, đối với danh tướng, đối với các thứ sinh diệt cũng chẳng lìa chẳng phải không lìa, là các pháp bình đẳng, đó gọi là nói pháp. Các pháp không có tướng mình, không có tướng người, không có tướng pháp cũng không có tướng phi pháp, không có tướng luân hồi, không có tướng Niết-bàn, đó gọi là nói pháp.

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Lành thay! Lành thay! Này Diệu Cát Tường! Ông nói pháp đúng là nói pháp đích thực. Vì sao? Vì các pháp lìa ngôn ngữ, lìa tất cả tưởng, không có pháp lớn không có pháp nhỏ, đoạn trừ những phân biệt, chẳng phải là tâm Tam-muội để quán để thấy, không có một pháp nào tăng hay giảm, nói pháp như vậy gọi là hiểu pháp, tức là đã thấy Phật.

Khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng nói pháp này, trong chúng hội có tám ngàn Bồ-tát chứng pháp Nhẫn vô sinh, có hai trăm Thiên tử trước đây phát tâm Đại thừa chẳng bao lâu lại suy nghĩ: “Pháp của Phật sâu xa khó hiểu, khó biết, không thể cùng tận, chúng ta không thể nào hiểu rõ ý thâm diệu ấy, thực hành những hạnh thù thắng để chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, không bằng với quả Thanh văn, Duyên giác thì cầu Niết-bàn, nhất định không có nghi ngờ gì cả.” Thế rồi tất cả thoái lui tâm Đại thừa.

Biết được tâm niệm của các Thiên tử, Đức Thế Tôn dạy các Thiên tử:

–Các ông đừng có tâm biếng trễ mà làm mất đi tâm Đại thừa, cần phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề cho kiên cố, không hề thoái lui.

Vì muốn độ các Thiên tử, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền hóa làm một trưởng giả cầm bình bát đầy những thức ăn uống vào pháp hội. Đến chỗ Phật, ông dâng thức ăn cúng dường Thế Tôn, rồi đầu mặt lạy sát chân Ngài, thưa rằng:

–Cúi xin Thế Tôn hãy thương xót con mà thọ nhận thức ăn này!

Để tùy thuận theo ý của trưởng giả, Thế Tôn nhận thức ăn, lúc đó, Bồ-tát Diệu Cát Tường đứng dậy, chắp tay cung kính, thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thức ăn mà Phật thọ nhận không có hạn lượng, đáp ứng cả pháp giới, không bị chấp trước, không có người bố thí, không có người thọ nhận, tất cả đều bình đẳng, như pháp mà thọ thực.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử nghi ngờ nghĩ rằng: “Ông trưởng giả cúng dường thức ăn này từ đâu đến, chẳng lẽ do Bồ-tát Diệu Cát Tường biến hóa ra để làm Phật sự hay sao.” Biết sự hồ nghi của Tôn giả Xá-lợi-phất. Thế Tôn liền nói với Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Này Xá-lợi Tử! Chớ nghĩ như vậy, dù đến hay đi thì tự Phật đã biết thời.

Thọ thực xong, Thế Tôn đem bình bát ném xuống đất. Bình bát được ném mạnh rơi vào thế giới phương dưới, trong lúc chư Phật ở các cõi đều đang nói pháp.

Đệ tử của chư Phật đều hỏi:

–Bát này từ đâu đến?

Chư Phật đều nói:

–Thế giới phương trên tên là Ta-bà, có Phật Thế Tôn hiệu Thích-ca Mâu-ni, hiện đang thuyết pháp. Bình bát này từ cõi ấy đến đây, vì nhằm để giáo hóa các Bồ-tát. Bình bát ấy rơi xuống hơn bảy mươi hai hằng hà sa số cõi Phật, có thế giới tên Quang minh, Phật hiệu Quang Minh Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang giảng pháp, bình bát ấy lơ lửng giữa hư không trước Phật ấy.

Sau khi ném bình bát, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Này Xá-lợi Tử! Ông hãy dùng thần lực quan sát xem bình bát đã ném nay đang ở cõi nào và trụ nơi đâu?

Tôn giả Xá-lợi Tử liền nhập vào tám mươi ngàn môn Tam-mađịa, ở trong các định ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử dùng trí lực của mình và sức thần thông của Phật, quán xét khắp mười ngàn cõi Phật nhưng không thấy bình bát ấy ở đâu cả. Sau khi ra khỏi định, Tôn giả Xálợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con đã quán sát qua mười ngàn cõi Phật nhưng không thấy bình bát ấy ở đâu cả.

Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

–Này Tôn giả Đại Mục-kiền-liên! Tôn giả hãy dùng thần lực quán sát xem bình bát đang ở đâu?

Vâng Thánh chỉ của Phật, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền nhập vào tám ngàn môn Tam-ma-địa. Ở trong những định ấy, Tôn giả dùng thần thông của mình xem qua tám ngàn cõi Phật ở thế giới phương dưới, quan sát khắp nơi nhưng cũng không thấy bình bát ở đâu cả. Sau khi ra khỏi định Tôn giả thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con đã dùng thần thông qua tám ngàn cõi Phật ở thế giới phương dưới, nhưng không thấy bát ấy ở đâu cả.

Thế Tôn bảo Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Ông hãy dùng thần thông quán sát xem bình bát đã ném nay ở cõi nào và trụ nơi đâu?

Vâng Thánh chỉ của Phật, Tôn giả Tu-bồ-đề liền nhập vào một vạn hai ngàn môn Tam-ma-địa. Ở trong định ấy, Tôn giả quán sát khắp một vạn hai ngàn cõi Phật nhưng không thấy bình bát ấy ở đâu. Sau khi ra khỏi định, Tôn giả thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con đã dùng sức thần thông, quán sát khắp một vạn hai ngàn cõi Phật nhưng không thấy bình bát ấy ở đâu cả.

Như vậy lần lượt năm trăm đệ tử Thanh văn đều dùng thần thông của mình và sức Thiên nhãn để quán sát, nhưng đều không thấy bình bát ấy.

Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề thưa Đại Bồ-tát Từ Thị:

–Nhân giả được Đức Thế Tôn thọ ký còn một đời nữa sẽ được làm Phật, cúi xin Nhân giả hãy nhập vào Tam-ma-địa, quán sát bình bát ấy đang ở đâu để trình cho các đại chúng.

Bồ-tát Từ Thị nói với Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Thưa Tôn giả! Đúng là tôi được Phật thọ ký còn một đời nữa sẽ chứng đắc Vô thượng Chánh giác, nhưng tất cả môn Tam-ma-địa của Bồ-tát Diệu Cát Tường, tên của chúng tôi; còn không thể biết huống chi là chứng nhập, chỉ có Bồ-tát Diệu Cát Tường mới có thể chứng nhập được hết, vì mọi nẻo hành hóa và tạo tác đều thông đạt cả. Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Những gì chư Phật Như Lai làm tôi đâu có thể biết, cho nên trí tuệ thần thông của tôi chưa kịp bằng Bồ-tát Diệu Cát Tường. Bình bát mà Thế Tôn đã ném chỉ có Bồ-tát Diệu Cát Tường mới biết ở đâu thôi. Chúng tôi đã đến khắp nơi nhưng đều không thể biết.

Tôn giả Tu-bồ-đề thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Cát Tường có công đức thù thắng, ngoài Như Lai ra không ai có thể sánh bằng. Bồ-tát ấy sẽ biết chỗ bình bát Như Lai đã ném đang ở đâu. Cúi xin Thế Tôn sai Bồ-tát Diệu Cát Tường dùng đại thần thông lấy bát ấy trở về để trình cho đại chúng mà làm Phật sự.

Thế Tôn liền bảo Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Này Bồ-tát Diệu Cát Tường! Ông là người biết bình bát ấy đang ở đâu và trụ chỗ nào.

Sau khi nhận lời dạy của Phật, Bồ-tát Diệu Cát Tường suy nghĩ: “Ta không rời khỏi tòa, không lìa pháp hội của Phật, cũng không ẩn thân mà vẫn lấy bình bát ấy về trình cho đại chúng.” Nghĩ như vậy xong, Bồ-tát liền nhập vào Tam-ma-địa, ở trong định ấy làm duỗi tay phải của mình ra qua mỗi mỗi cõi Phật ở thế giới phương dưới, nơi trước mỗi Đức Phật, tay của Bồ-tát phát ra tiếng như vầy:

–Con nay kính lạy chư Phật, Phật Thích-ca Mâu-ni của con có gởi lời thăm hỏi Thế Tôn có ít bệnh, an vui, đi đứng nhẹ nhàng và có khỏe mạnh không?

Sau khi gởi lời thăm hỏi, thì nơi mỗi lỗ chân lông trên tay ấy phóng ra trăm ngàn câu-chi ánh sáng. Mỗi ánh sáng có trăm ngàn hoa sen, trên mỗi hoa sen có Như Lai ngồi. Mỗi Đức Như Lai đều khen ngợi Phật Thích-ca Mâu-ni, mỗi thế giới đều chấn động sáu cách, hiện ánh sáng lớn chiếu khắp cõi Phật. Lại hiện ra các cờ phướn, lọng báu đủ loại trang nghiêm để làm Phật sự. Mỗi cõi Phật cũng đều như vậy. Qua bảy mươi hai hằng hà sa số cõi Phật rồi lại đến chỗ Phật Quang Minh Vương. Tay ấy lại phát ra tiếng thăm hỏi rất cung kính cũng như trên, lại phóng trăm ngàn ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có trăm ngàn hoa sen. Trên mỗi hoa sen đều có Phật ngồi. Chư Phật đều khen ngợi Đức Thích-ca Như Lai. Ánh sáng chiếu hợp lại thông suốt vô lượng.

Bấy giờ, trong pháp hội của Phật Quang Minh Vương có Bồ-tát tên Quang Tràng đứng dậy thưa với Đức Như Lai Quang Minh Vương:

–Tay ấy từ đâu đến mà hiện tướng như vậy, lại phóng ánh sáng này, trong ánh sáng còn hiện ra hoa sen như vậy, trên mỗi hoa sen đều có chư Như Lai khen ngợi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Vì sao có sự việc như thế, cúi xin Phật chỉ dạy cho con.

Như Lai Quang Minh Vương nói với Bồ-tát Quang Tràng:

–Phương trên cách đây bảy mươi hai hằng hà sa số cõi Phật có thế giới tên Ta-bà, Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Ứng Chánh Đẳng Giác, hiện đang giảng pháp giáo hóa đại chúng, ở đó có Bồ-tát tên Diệu Cát Tường gồm đầy đủ công đức, mặc áo giáp tinh tấn chẳng nghĩ bàn, có đại trí lực đã đến bờ bên kia. Ở trong pháp hội Phật Thích-ca Mâu-ni, Bồ-tát ấy ngay nơi tòa, duỗi tay phải để thu lấy bình bát ấy. Do đó mà có sự việc này.

Bấy giờ, Như Lai Quang Minh Vương từ nơi giữa chặng mày phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp bảy mươi hai hằng hà sa số cõi Phật, đến thế giới Ta-bà đều tỏa chiếu rực rỡ rộng lớn. Những chúng sinh ở thế giới này nhờ ánh sáng chiếu nên rất vui mừng giống như vua Chuyển luân. Những người tu hạnh Bồ-tát được ánh sáng ấy chiếu đều chứng đắc quả, tu hành viên mãn.

Tất cả Đại Bồ-tát đều đạt được môn Tam-ma-địa Nhật Quang. Những ai tu hạnh Thanh văn đều được tám pháp môn giải thoát. Các Bồ-tát ở cõi Phật Quang Minh Vương nhờ ánh sáng của Như Lai đều thấy Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà và Bồ-tát Diệu Cát Tường cùng các chúng Thanh Văn đang vây quanh nghe Phật thuyết pháp.

Đại Bồ-tát Quang Tràng thấy chúng sinh nơi cõi Ta-bà này tạo nghiệp cấu nhiễm nên rất buồn bã thưa với Như Lai Quang Minh Vương:

–Bạch Thế Tôn! Con nhờ ánh sáng của Phật nên được thấy cõi Ta-bà, nhưng cõi Ta-bà ấy đầy dẫy nhiễm cấu. Các Đại Bồ-tát sinh vào cõi đó giống như châu báu phệ-lưu-ly bị chìm trong bùn, việc ấy như thế nào?

Như Lai Quang Minh Vương nói với Bồ-tát Quang Tràng:

–Này Thiện nam! Ông đừng nói như thế. Những người tu hạnh Bồ-tát ở thế giới của ta đây, tu tập thiền định trong mười kiếp nhưng không bằng chúng sinh nơi cõi Ta-bà kia phát khởi một niệm về Từ, Bi, Hỷ, Xả có thể đạt được vô lượng công đức, tiêu trừ tất cả chướng nặng phiền não. Vì sao? Vì chúng sinh nơi cõi Ta-bà rất dũng mãnh, lanh lợi, cho nên các Bồ-tát đã sinh vào cõi ấy. Vì ủng hộ Phật pháp, ông chớ nên buồn bã làm gì.

Các chúng Bồ-tát nơi pháp hội của Phật Thích-ca Mâu-ni được ánh sáng chiếu, bèn thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có ánh sáng chiếu rực rỡ khắp như vậy và làm cho chúng con rất vui thích, làm cho các chúng sinh diệt trừ hết các phiền não?

Phật Thích-ca Mâu-ni dạy các Bồ-tát:

–Này các Thiện nam! Phương dưới cách đây bảy mươi hai hằng hà sa số cõi Phật có thế giới tên Nhật quang minh, Đức Phật Như Lai nơi cõi ấy hiệu là Quang Minh Vương Ứng Chánh Đẳng Giác, hiện đang giảng pháp giáo hóa chúng sinh, giữa chặng mày của Phật đó đã phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp thế giới này.

Khi ấy các Bồ-tát thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con muốn thấy Đức Phật Quang Minh Vương và các Bồ-tát ở cõi Quang minh kia, cúi xin Phật dùng sức thần thông để chúng con được thấy.

Bấy giờ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bèn hiện bày tướng bánh xe ngàn căm dưới bàn chân. Trong bánh xe phóng ra ánh sáng lớn, chiếu xuống bảy mươi hai hằng hà sa số cõi chiếu rực rỡ rộng lớn trong cõi Phật Quang Minh Vương. Các chúng Bồ-tát nương nơi ánh sáng của Phật đều được thấy Phật Quang Minh Vương và các Bồ-tát cõi ấy đạt được pháp môn Tam-ma-địa Diệu cao đăng.

Lúc này, ánh sáng ở mỗi cõi Phật nơi phương dưới chiếu rực rỡ đến tận khắp cõi Ta-bà, làm cho hai bên nhìn thấy nhau không bị chướng ngại. Như vậy các thế giới của phương dưới cho đến các chúng Bồ-tát của cõi Phật Quang Minh Vương các Bồ-tát ở cõi Tabà này đều nhìn và chiêm ngưỡng nhau. Ví như ánh sáng mặt trời xua tan những tăm tối, tất cả chúng sinh đều được thấy nhau. Khi ấy, các Đại Bồ-tát đều phát tâm tinh tấn cầu đạt đại quả.

Khi Bồ-tát Diệu Cát Tường duỗi tay đến trước Đức Như Lai Quang Minh Vương đứng giữa hư không sắp lấy bình bát, thì có vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha chúng Đại Bồ-tát ở các cõi Phật cung kính vây quanh theo bình bát để lên cõi Ta-bà và tướng ánh sáng đẹp đẽ ấy cũng dần dần biến mất. Bồ-tát Diệu Cát Tường đặt bình bát ở giữa hư không trước Phật Thích-ca Mâu-ni. Thế rồi Bồ-tát ra khỏi định, đứng dậy đến trước Phật, lạy sát chân và thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con vâng lệnh của Phật, đã lấy bình bát được ném xuống phương dưới, nay con để giữa hư không trước Đức Phật, cúi xin Phật nạp thọ.

Thế Tôn im lặng nhận. Bấy giờ, chư Bồ-tát nơi các cõi Phật ở thế giới phương dưới theo bình bát đến, đều cùng nhau đảnh lễ lạy sát chân Phật Thích-ca Mâu-ni và cùng xưng danh hiệu Phật của mình và thưa:

–Đức Phật Như Lai Chánh Đẳng Cháng Giác… thăm hỏi Thế Tôn có ít bệnh, an vui, đi đứng nhẹ nhàng, có khỏe mạnh không?

Giáo hóa chúng sinh có thuận hợp chăng?

Sau khi biểu lộ sự cung kính, được Thế Tôn an ủi rồi, các Bồtát ngồi qua một bên.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Tôn giả hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ nói cho ông về những nhân duyên xưa và việc làm trong quá khứ của Bồ-tát Diệu Cát Tường.

Tôn giả Xá-lợi Tử vâng lời và lắng nghe.

Phật nói:

–Này Xá-lợi Tử! Vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp về quá khứ, có Phật hiệu là Vô Năng Thắng Tràng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Thế giới của Đức Phật ấy tên là Bất khả hủy, có tám vạn bốn ngàn chúng Thanh văn, một vạn hai ngàn chúng Bồ-tát. Đức Phật ấy giảng nói pháp Tam thừa để giáo hóa chúng sinh. Đức Phật ấy cũng ở trong đời đủ năm thứ ô trược, nói sáu pháp Ba-la-mật cho các Bồ-tát. Này Xá-lợi Tử! Bấy giờ có Bí-sô tên Trí Vương, thông minh, trí tuệ, giảng nói thông suốt về pháp giải thoát. Buổi sáng, Bí-sô ấy đắp y ôm bình bát vào thành theo thứ tự khất thực. Thành ấy tên là Quảng đại. Sau khi bình bát đã đầy thức ăn, Bí-sô sắp sửa ra khỏi thành thì có con của vị trưởng giả tên là Tịnh Tý đang ngồi trong lòng mẹ. Thấy Bí-sô ấy ôm bình bát đi ngang qua, đồng tử liền đến trước Bí-sô muốn xin thức ăn uống trong bình bát. Thấy đồng tử có căn lành thành thục, Bí-sô nghĩ đây là đại pháp khí nên lấy một vắt cơm trong bình bát hoan hỷ đưa cho đồng tử. Được thức ăn, đồng tử phát tâm hoan hỷ và theo Bí-sô Trí Vương đến chỗ Phật Vô Năng Thắng Tràng Như Lai. Lúc này, đồng tử đến trước Phật lễ lạy sát chân Phật. Bí-sô Trí vương đem thức ăn đã khất thực được đưa cho đồng tử và nói:

–Con hãy đem thức ăn này dâng cúng dường Đức Thế Tôn và đại chúng, con sẽ được phước đức vô lượng.

Làm đúng như lời Bí-sô dạy, đồng tử dâng thức ăn ấy lên Thế Tôn, sớt thêm thức ăn vào bát của Thế Tôn nhưng cứ vẫn còn. Sau đó lần lượt cúng dường đại chúng. Các Bồ-tát Thanh Văn trong chúng hội cũng thọ nhận thức ăn, ai nấy đều no đủ cả mà thức ăn vẫn cứ còn.

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Đồng tử Tịnh Tý đã cúng dường với lòng đầy hoan hỷ. Đồng tử trên đến trước Phật nói kệ:

Đem thức ăn vô tận

Con cúng Phật, đại chúng

Nay con cúng dường xong Chắc chắn được phước đức.

Thức ăn cúng vô tận

Công đức Phật vô tận

Nay con cúng dường Phật Quyết được phước vô tận. Đem thức ăn vô tận

Con cúng dường Thế Tôn Để tăng trưởng căn lành Mãi mãi không cùng tận.

Thế rồi, đồng tử đem thức ăn trong bình bát cúng dường Như Lai và chúng Thanh văn Bồ-tát suốt bảy ngày, nhờ oai lực của Phật nên thức ăn vẫn còn.

Khi ấy, Bí-sô Trí Vương nói với đồng tử:

–Con đã cúng dường xong, bây giờ hãy xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, thọ giới pháp của Phật, thọ trì suốt đời.

Nghe lời dạy của Bí-sô, đồng tử quy y Phật, Pháp, Tăng. Sau khi quy y rồi, đồng tử rất hoan hỷ phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ vì tìm con nên cha mẹ của Tịnh Ý đi vào pháp hội của Như Lai Vô Năng Thắng Tràng. Đến nơi, hai người lạy sát chân Phật rồi đứng qua một bên. Thấy cha mẹ, đồng tử Tịnh Ý rất vui mừng thăm hỏi và ở trước cha mẹ nói kệ:

Cha mẹ nay đến đây
Chư Phật rất khó gặp
Con cầu đại Bồ-đề
Vì tất cả chúng sinh.
Hãy quán tướng tốt Phật
Thân phóng ánh sáng đẹp
Những người có trí tuệ
Nên cầu quả Bồ-đề.
Con nay muốn xuất gia
Xin cha mẹ cho phép
Con không thích giàu vui
Bởi vì Phật khó gặp.
Cha mẹ nói kệ với con mình:
Ta cho con xuất gia
Hướng Vô thượng Bồ-đề
Ta theo nhân duyên con
Cũng sẽ học như vậy.

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Đồng tử Tịnh Ý được cha mẹ cho phép xuất gia. Còn cha mẹ của đồng tử có lòng tin ưa chánh pháp một cách sâu xa cũng lại xuất gia và quy y Phật, Pháp, Tăng với lòng hoan hỷ tín thọ. Lúc đó lại có năm trăm người đồng thời phát tâm Vô thượng Bồ-đề xin xuất gia và được Phật thâu nhận cả.

Phật dạy Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Tôn giả nên biết! Bí-sô Trí Vương lúc đó không ai khác, nay chính là Bồ-tát Diệu Cát Tường. Còn đồng tử Tịnh Ý chính là thân ta.

Này Xá-lợi Tử! Thuở xưa, ta làm con của trưởng giả, nhờ Bồtát Diệu Cát Tường trao bình bát cho ta, khiến ta phát tâm đại Bồđề.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Từ lúc mới phát tâm đại Bồ-đề đến lúc chứng quả đầy đủ mười Lực, Vô úy, tất cả công đức, đầy đủ Trí vô tận ta đều nhờ Bồ-tát Diệu Cát Tường hướng dẫn chỉ dạy. Vì sao? Vì ta phát tâm giống như hư không, không có biên giới. Này Xá-lợi Tử! Tất cả vô lượng, vô số Phật ở mười phương đồng một danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni, đều giống như ta là được Bồ-tát Diệu Cát Tường khai mở tâm Bồ-đề.

Này Xá-lợi Tử! Ở thời quá khứ có Như Lai Kỳ-để-sa, Như Lai Phất-sa, Như Lai Nhiên Đăng, Như Lai Thi-khí, chư Phật như vậy trong vô lượng kiếp ta đã khen ngợi danh hiệu của chư vị ấy. Và chư Phật ấy cũng giống như ta là được Bồ-tát Diệu Cát Tường khai mở tâm đạo, được thành Chánh giác chuyển diệu pháp luân.

Này Xá-lợi Tử! Tất cả những ai tu hạnh Bồ-tát, đầu tiên ở cõi trời Đâu-suất, thị hiện tướng giáng sinh ra thế gian. Trước hết là sinh ở cung vua, sau đó tu những hạnh khổ cho đến khi ngồi nơi đạo tràng cũng đều nhờ Bồ-tát Diệu Cát Tường giáo hóa chỉ dạy.

Này Xá-lợi Tử! Tôn giả nên biết rằng Bồ-tát Diệu Cát Tường là mẹ của các Bồ-tát, vì sinh ra tất cả Bồ-tát. Những gì ta nói đều là sự thật. Những nhân duyên xưa kia như vậy thì nay ông nên biết như vậy.

Khi Đức Phật nói lời này, tất cả cõi Phật nơi mười phương đều hiện đủ loại lọng báu đến cúng dường Bồ-tát Diệu Cát Tường, nơi mỗi lọng đều phát ánh sáng lớn chiếu khắp cõi Ta-bà, trong lọng lại phát ra âm thanh vi diệu.

–Đúng như vậy, đúng như những gì Phật Thích-ca Mâu-ni đã nói. Đúng vậy, đúng vậy, thuở xưa đều do Bồ-tát Diệu Cát Tường làm cho phát tâm Bồ-đề.

Bấy giờ, trong pháp hội của Phật Thích-ca Mâu-ni, có hai trăm Thiên tử trước đây thoái lui tâm Bồ-đề, nay thấy Phật Thế Tôn và Bồ-tát Diệu Cát Tường hiện ra đủ các việc không thể nghĩ bàn như vậy và nghe Phật giảng nói về nhân duyên xưa kia, nên họ đều suy nghĩ: “Đại pháp vô thượng của tất cả chư Phật không thể nào được nghe, huống chi là được thấy công đức của chư Phật Như Lai, ta nay đến trước Thế Tôn xả bỏ tâm thấp kém mà phát tâm Vô thượng đại Bồ-đề, chắc chắn đạt được đạo quả đại Bồ-đề Vô thượng.” Nghĩ vậy xong, họ liền phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề một cách kiên cố, không thoái chuyển.

QUYỂN 3

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni lại bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Tôn giả nên phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tu các hạnh của Bồtát, không nên ưa thích quả Thanh văn. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tất cả chúng sinh ở trong luân hồi, không biết sợ hãi thì làm sao giải thoát? Cho nên các Bồ-tát nên phát đại tinh tấn ở trong luân hồi dùng đủ cách hóa độ để họ sợ sinh tử nhằm ra khỏi ba cõi. Nếu ông chỉ thích quả Thanh văn thì không thể nào phát tâm đại Bồ-đề để cứu độ tất cả chúng sinh. Cho nên tất cả chúng sinh nếu được gặp Bồ-tát khuyên dạy phát sinh tinh tấn thì được giải thoát khỏi sinh tử và cũng có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Này Xá-lợi Tử! Vào thời quá khứ có Phật ra đời tên là Cụ Túc Công Đức gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Trong pháp hội của Phật ấy có trăm câu-chi chúng Thanh văn, có tám ngàn chúng Bồtát. Đức Phật ấy sống mười vạn tuổi, có hai vị Thanh văn làm thượng thủ. Một vị tên Xuất Hiện có Trí tuệ bậc nhất. Còn vị thứ hai tên Phấn Tật có Thần thông bậc nhất. Bấy giờ, đúng giờ ăn Như Lai Cụ Túc Công Đức đắp y ôm bát có đại chúng đi theo vào một vương thành theo thứ lớp khất thực. Thành này tên Diệu âm. Khi Phật vào thành, vị Thanh văn trí tuệ đi bên phải Đức Phật, vị Thanh văn thần thông thì ở bên trái, còn chúng Thanh văn khác đều đi phía sau. Riêng chúng Bồ-tát thì đi trước hướng dẫn. Lại có Đại phạm thiên vương, Đế Thích Thiên chủ, Hộ thế Tứ Thiên vương và các chúng trời đi theo Thế Tôn vào vương thành ấy.

Bấy giờ, trong thành có ba đồng tử trang sức đủ loại trên thân

đứng ở bên đường cùng nhau đùa nghịch. Ba đồng tử nhìn thấy Thế Tôn với tướng tốt đẹp đẽ, oai đức vô lượng, ánh sáng rực rỡ giống như vàng ròng, hình dáng oai nghiêm như đại Long vương. Thấy vậy, ba đồng tử hoan hỷ sinh lòng cung kính. Đồng tử thứ nhất nói:

–Các bạn thấy Đức Phật Thế Tôn kia không? Là Bậc tối tôn tối thượng trong chúng sinh, có phước đức vô cùng tận, trời người đều cung kính. Chúng ta nên cùng nhau cúng dường, chắc chắn được quả lớn.

Cùng nhau bàn luận xong, đồng tử thứ nhất nói kệ:

Phật này tôn quý trong chúng sinh
Bậc xứng đáng trời người cúng dường
Chúng ta nên thiết lễ cúng dường
Được quả báo lớn, không uổng công.
Hai đồng tử còn lại nói kệ:
Tôi bày cúng dường không hương hoa
Cũng không có những vật tốt đẹp
Nhưng chỉ có cả thân mạng này
Sẽ đem cúng dường Phật Thế Tôn.

Thế rồi đồng tử thứ nhất liền cởi những châu ngọc anh lạc quý báu đeo trên thân giá trị hàng trăm ngàn lượng vàng nói với hai đồng tử bằng kệ:

Nay tôi sẽ đem anh lạc này
Cúng Phật Như Lai Đại Trí Tôn
Nguyện tôi sau khi cúng dường Phật
Sẽ được đại phước đức vô thượng.

Thấy đồng tử ấy đã cúng dường rồi, hai đồng tử còn lại cũng đều cởi những anh lạc quý giá đeo nơi thân, hướng tới đồng tử kia nói kệ:

Tôi đem anh lạc dâng cúng dường
Bậc Nhất Thiết Tối Thắng Chánh Giác
Đã cúng dường với lòng thành này
Nguyện cầu được chánh pháp của Phật.

Thấy hai đồng tử này cùng dâng cúng anh lạc, đồng tử trước nói với họ:

–Hai bạn đã tạo phước lợi vô tận, đối với Phật pháp nên cầu những quả gì?

Đồng tử thứ hai nói:

–Tôi nguyện vào đời vị lai được làm đệ tử ở bên phải của Đức Thế Tôn và được Trí tuệ bậc nhất.

Đồng tử thứ ba nói:

–Tôi nguyện vào đời đương lai được làm đệ tử ở bên trái của Đức Phật và được Thần thông bậc nhất.

Sau khi nói sở nguyện của mình xong, hai đồng tử lại hỏi đồng tử thứ nhất:

–Bạn dẫn đường rất giỏi, là bạn lành của tôi. Vậy bạn dâng cúng dường là muốn cầu gì?

Đồng tử thứ nhất trả lời:

–Sở nguyện của tôi là nguyện sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề, đầy đủ Nhất thiết trí, phóng ánh sáng rực rỡ, để tất cả chúng sinh thấy đều hoan hỷ mà phát tâm Bồ-đề, giống như sư tử chúa có đại chúng vây quanh, giống như Phật ngày nay không khác. Phật bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Khi ba đồng tử ấy phát thệ nguyện thì trong hư không có tám ngàn Thiên tử cùng nói rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông nói lời này rất hay. Sự mong muốn về đạo quả thù thắng quyết định là có thật không nghi ngờ.”

Ba đồng tử ấy đều đem anh lạc đến trước Đức Phật. Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Như Lai Cụ Túc Công Đức thấy ba đồng tử đem các anh lạc đến chỗ Phật liền nói với Bí-sô Hải Tuệ:

–Này Bí-sô! Ông có thấy ba đồng tử này không?

Hải Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy!

Phật nói:

–Này Bí-sô! Tâm nguyện của đồng tử thứ nhất khác với hai đồng tử kia, vì cất chân, hạ chân đều tự tại, đặc biệt tôn quý giống như Chuyển luân thánh vương. Giả sử trăm ngàn Phạm vương, Đế Thích cũng không thể sánh bằng. Nay đến chỗ Phật phát tâm đạo vì muốn cầu chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Đến chỗ Phật, ba đồng tử đều lễ lạy sát chân Thế Tôn và đem anh lạc dâng lên cúng dường, được Đức Phật thọ nhận. Người phát tâm Thanh văn thì những anh lạc đã hiến cúng trụ trước Phật. Người ai phát tâm Bồ-đề thì anh lạc đã hiến cúng trụ trong hư không phía trên Đức Phật, biến thành đài báu có bốn trụ, được trang hoàng đẹp đẽ, trên ấy có vô lượng chư Phật ngồi kiết già, hiện các tướng đẹp, đủ những trang nghiêm thù thắng vô lượng.

Bấy giờ, Như Lai Cụ Túc Công Đức liền nhập Tam-muội, quán khắp tướng biến hóa của chư Phật Như Lai. Từ giữa mặt Phật ấy, phóng ra ánh sáng đủ màu sắc, như xanh vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, xanh lục, tỏa chiếu khắp vô biên thế giới lên đến trời Phạm thiên, che lấp ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Sau khi ánh sáng ấy chiếu như vậy rồi thì nhiễu quanh Phật theo bên phải ba vòng và trở lại nhập nơi đảnh đầu của Như Lai.

Bí-sô Hải Tuệ thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà phóng ra ánh sáng này, cúi xin Thế Tôn chỉ dạy cho con được biết.

Phật bảo Bí-sô:

–Ông thấy anh lạc mà hai đồng tử kia cúng dường Phật đang trụ trước Phật không?

Bí-sô thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.

Phật bảo Bí-sô:

–Hai đồng tử này vì cầu quả Thanh văn, ưa thích chứng Niếtbàn tự lợi nên không thể phát tâm đại Bồ-đề.

Này Bí-sô! Anh lạc mà đồng tử đầu tiên cúng dường đang ở trong hư không phía trên Đức Phật, hiện ra những biến hóa. Người ấy vì cầu chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Còn hai đồng tử kia chỉ thích trí tuệ và thần thông nên không tạo lợi lạc cho muôn loài, nên sự cúng dường ấy cũng không có tướng thù thắng. Ông nên biết, ai phát tâm đại Bồ-đề thì được phước đức cũng không thể lường. Nay ông nên xả bỏ tâm Thanh văn mà cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Đồng tử thuở đó phát tâm Bồ-đề chẳng phải là người nào khác, mà chính là ta vậy. Người thích trí tuệ chính là ông. Còn người thích thần thông chính là Tôn giả Mục-kiền-liên. Thanh văn các ông dù tránh khỏi luân hồi, chỉ thích cầu về Niết-bàn, không bao giờ làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh. Chư Phật thì tâm bình đẳng giống như hư không vô cùng vô tận, phước tụ vô lượng và công đức vô lượng vượt qua cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác.

Này Xá-lợi Tử! Các ông hãy mau phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề..

Khi ấy, các đại Thanh văn Tôn giả Xá-lợi Tử, Đại Mục-kiềnliên, Đại Ca-diếp, A-nê-lô-đà, Ưu-ba-ly, Phú-lâu-na, Tu-bồ-đề… đồng thanh thưa:

–Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã khai mở chỉ đạo một cách tường tận. Chúng con nay phát tâm đại Bồ-đề. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn biết cho, thiện nam, thiện nữ nào trồng các căn lành, muốn cầu giải thoát, nên phát tâm rộng lớn và hạnh nguyện rộng lớn. Người ấy sẽ được thấy và nghe chánh pháp với trăm ngàn chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ xưa đến nay vì trí tuệ hạn hẹp nên không dám mong cầu trí vô biên của Phật, nay tự trách mình mà dốc phát tâm rộng lớn. Ví như có người sau khi đã tạo nghiệp bất thiện, nếu không ăn năn hối lỗi sửa ác theo lành thì không thể nào tránh khỏi những khổ não. Thanh văn chúng con chỉ cầu tự lợi nếu không bỏ tâm hạn hẹp để cầu trí tuệ của Phật thì trọn không thể được Niết-bàn vô dư, lại giống như người sắp chết tâm thức hôn mê rối loạn, không còn có thể lưu luyến với quyến thuộc yêu thương. Cũng vậy, chúng con cầu Niết-bàn tự lợi nên không có tâm nguyện hóa độ chúng sinh.

Xin Thế Tôn biết cho, Vô thượng Bồ-đề giống như mặt đất. Tất cả chúng sinh trên thế gian đều nhờ đất mà được tồn tại, nhờ đất mà được phát triển. Cũng vậy, tất cả căn lành đều nương vào Vô thượng Bồ-đề mà được sinh trưởng.

Bấy giờ, trong chúng hội có một vạn người sau khi nghe Phật nói về nhân duyên của những việc xưa và nghe các Tôn giả Xá-lợi Tử nói như vậy đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, vua nước Ma-già-đà sửa soạn xa giá đến chỗ Đức Phật. Sau khi đến pháp hội của Phật, vua đem đầu mặt lạy sát chân đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi ngồi qua một bên. Lúc ấy, vua chắp tay hướng về Phật nhất tâm cung kính thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh do đâu mà tạo nghiệp?

Nhân duyên tạo nghiệp dựa vào đâu mà tồn tại?

Phật nói:

–Này đại vương! Tất cả chúng sinh, thọ giả cho đến Bổ-đặcgià-la đều nương vào thân kiến của ngã mà tồn tại để rồi phân biệt một cách điên đảo. Do phân biệt nên mới tạo nghiệp. Vì tạo nghiệp nên không được giải thoát.

Vua lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Thân kiến của ngã lấy gì làm căn bản?

Phật nói:

–Lấy vô minh làm căn bản.

Vua hỏi:

–Như vậy, vô minh ấy lấy gì căn bản? Phật nói:

–Lấy tác ý không như lý làm căn bản.

Vua hỏi:

–Tác ý không như lý lấy gì làm căn bản?

Phật nói:

–Lấy tâm không bình đẳng làm căn bản.

Vua hỏi:

–Sao gọi là tâm không bình đẳng?

Phật nói:

–Từ vô thỉ đến nay không biết đúng như thật nên gọi là tâm không bình đẳng.

Vua hỏi:

–Sao gọi là không biết đúng như thật?

Phật nói:

–Từ vô thỉ đến nay, tất cả chúng sinh đối với không chấp là có, đó gọi là không biết như thật.

Vua hỏi:

–Đối với không cho là có, nghĩa là sao?

Phật nói:

–Vì pháp phân biệt là không sinh, không thật mà chấp là có thật.

Vua hỏi:

–Nếu pháp không sinh thì nay lấy gì để nói?

Phật nói:

–Này đại vương! Vì thân của ngã hãy còn không, nên pháp không có chỗ nêu bày.

Vua hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Nếu thân là không thì làm sao tạo tác, làm sao tồn tại?

Phật nói:

–Này đại vương! Mặc dầu có tạo tác nhưng không chấp trước vào nó.

Vua hỏi:

–Vậy không chấp trước ấy phải nói như thế nào?

Phật nói:

–Pháp không chấp trước, nên nói đúng như thật, đó là lời nói của bậc Thánh.

Vua hỏi:

–Sao gọi là lời nói đúng như thật? Sao gọi là lời nói của bậc Thánh?

Phật nói:

–Này đại vương! Đối với tất cả pháp lìa trần lìa kiến, lời nói chân thật ấy gọi là nói đúng như thật. Người nào nói đúng như thật, đó là lời nói của bậc Thánh. Người nào có lời nói của bậc Thánh tức là người hiểu rõ các pháp vốn không chỗ sinh, nên trụ như vậy, nên học như vậy.

Nghe Phật giảng nói pháp, vua nước Ma-già-đà rất hoan hỷ và thưa Phật:

–Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã dạy rất rõ về pháp chân thật chưa từng có này. Như Phật Thế Tôn lấy trí vô lậu để làm lợi lạc khắp cho tất cả chúng sinh, cho nên nói pháp chân thật. Đối với chúng sinh bị nghiệp tội trói buộc thì không thể nào nghe, thọ nhận để tu hành. Con cũng như vậy, xin Thế Tôn thương nghĩ đến con, từ xưa đến nay, con không gặp bạn lành, do tâm bất thiện nên con cũng tạo nhiều nghiệp bất thiện. Vì thế mà con không thể nào gần gũi Thế Tôn để nghe chánh pháp. Con ở nơi thâm cung, chỉ thích vui chơi, ăn uống, yến tiệc, đêm ngày không chút tạm bỏ, nên con không thể đến chỗ Đức Phật để nghe chánh pháp.

Bạch Thế Tôn! Con nay hối hận về lỗi lầm và tự trách mình. Những tội ác xưa đã tạo đã ăn sâu vào tư tưởng của con, ngày đêm không khi nào thấy an lạc, giống như người tội bị mắc nợ luôn luôn sợ hãi. Thế Tôn có lòng đại Bi là cha của chúng sinh, làm chỗ nương tựa cho người không nơi nương tựa, làm người dẫn đường cho người mắt không thấy, làm sự an lạc cho những người đau khổ, làm người chỉ đường chánh cho người bị lạc, làm người bố thí châu báu cho người nghèo thiếu, tâm Thế Tôn bình đẳng không mệt mỏi, làm lợi lạc cho tất cả, không có tư tưởng kẻ oán người thân. Cúi xin Thế Tôn thương xót cứu độ cho con, nghĩ đến những tội lỗi đã tạo, con rất sợ hãi, giống như người sắp rớt xuống hầm hố chỉ mong được cứu vớt. Con sợ bị đọa trong các đường ác, cúi xin Thế Tôn cứu hộ diệt trừ tội cấu của con, để con được hiểu ngộ chánh pháp.

Biết vua nước Ma-già-đà sám hối tội lỗi, tha thiết phát lộ, ưa thích pháp sâu xa của Đại thừa, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Bồ-tát Diệu Cát Tường có trí tuệ biện tài, có thể giảng nói cho vua.” Nhờ oai lực của Đức Phật, nên Tôn giả Xá-lợi Tử biết tâm niệm của Đức Thế Tôn bèn nói với vua nước Ma-già-đà:

–Đại vương nên biết! Bồ-tát Diệu Cát Tường có biện tài vô lượng, trí tuệ vô lượng, nói hoàn hảo về pháp giải thoát. Bồ-tát chắc chắn sẽ giảng nói chánh pháp cho vua để vua tỏ ngộ, đạt được an lạc lớn. Vua nên thỉnh Bồ-tát vào cung cúng dường thức ăn uống để được vô lượng lợi ích.

Tôn giả Xá-lợi Tử lại khuyên bảo tất cả dân chúng trong thành Vương xá hãy chiêm ngưỡng lễ lạy ca ngợi và tùy hỷ theo sự nghe thấy, trồng các căn lành đạt được phước thù thắng.

Theo lời của Tôn giả Xá-lợi Tử, vua nước Ma-già-đà liền thưa với Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Bồ-tát có lòng đại Bi xin hãy thương xót con vào cung để con cúng dường thức ăn uống. Cúi xin Bồ-tát thương mà nhận lời thỉnh cầu này.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói với vua:

–Ta nhận lời mời của vua để cho vua được thỏa nguyện. Vua phát tâm thù thắng đó là ta đã nhận sự cúng dường rồi. Vua ưa thích nghe pháp, ta sẽ giảng nói cho.

Này đại vương! Đối với các pháp không nên chấp trước, đó là ta nói pháp cho vua. Đối với các pháp, không nên nghi ngờ, đó là ta nói pháp cho vua. Đối với các pháp, không chấp trước vào tướng ba đời, đó là ta nói pháp cho vua. Đối với các pháp Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác là tướng tịch diệt, đó là ta nói pháp cho vua.

Vua thưa với Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Cúi xin Bồ-tát thương xót con cùng các đại chúng đồng nhận cúng dường của con.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Đại vương hãy gác qua một bên về việc đem thức ăn uống, y phục cúng dường cho đại chúng. Vì sự thương xót mà nhận sự cúng dường, đây không phải là lợi, không phải là phước. Phàm người cúng dường là đối với pháp nên sinh tâm hy hữu, không có tưởng về tạo tác, không có tưởng ngã, không có tưởng chúng sinh, không có tưởng thọ mạng, không có tưởng Bổ-đặc-già-la, không chấp trước vào tướng mình, không chấp trước vào tướng người. Đó là cúng dường. Nên quán các pháp không nắm bắt, không có uẩn xứ giới, không có trong, không có ngoài, không ở trong ba cõi, chẳng lìa ba cõi, không thiện cũng không ác, không ưa thích, không nhàm chán, chẳng phải thế gian chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng có phiền não, chẳng lìa phiền não, chẳng phải luân hồi, chẳng phải tịch diệt, ai quán đúng như vậy tức là cúng dường.

Vua lại hỏi Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Bồ-tát xin hãy thương xót tạo lợi lạc mà nhận sự cúng dường của con.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Này đại vương! Không nên cầu lợi lạc, không có gì để thương xót. Vì tâm ấy không chấp trước, không động không chuyển, không khen không chê, không nắm bắt không xả bỏ, không cầu lợi lạc nên không có gì để thương xót. Các pháp bình đẳng và không sở đắc. Đó gọi là nhận sự cúng dường.

Này đại vương! Nếu ai được như vậy thì đó là lợi lạc chân thật. Vua thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Pháp vốn là vô tướng và không động tác. Vậy con dâng sự cúng dường cũng như vậy.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Không tánh, vô tướng cũng không động tác. Người nào cầu pháp là vô tưởng, vô nguyện, vô hành, vô tác cũng chẳng phải là vô tác. Vì sao? Này đại vương! Vì tự tánh của các pháp vốn không động, cũng không có tạo tác. Tự tánh của chúng sinh vốn không, nên ba nghiệp không có động tác. Đại vương nên quán tất cả hành đều là vô tác, đó là hiểu rõ tự tánh của tất cả pháp là không.

Vua nói:

–Các hành có tạo tác sao lại nói là không?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Này đại vương! Như pháp quá khứ đã diệt, pháp vị lai chưa đến, pháp hiện tại không chỗ sinh. Các hành hữu vi cũng lại như vậy. Sở dĩ không chấp vào ba đời vì tất cả đều là vô thường, pháp không tăng cũng không giảm.

Này đại vương! Nên hiểu rõ các hành là như vậy.

Vua hỏi:

–Hai pháp Thánh đạo và phiền não có bình đẳng không?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Hai pháp đều bình đẳng, không tăng, không giảm.

Này đại vương! Khi ánh sáng mặt trời xuất hiện có hòa hợp với tối tăm không?

Vua thưa:

–Không! Khi ánh sáng mặt trời xuất hiện thì những tối tăm không còn.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi:

–Vậy khi ánh sáng mặt trời xuất hiện thì những tối tăm ấy đi về đâu?

Vua trả lời:

–Những tối tăm ấy cũng không có chỗ đi.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Phiền não và Thánh đạo cũng như vậy. Hai pháp này không gặp nhau cũng không tăng, không giảm, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.

Này đại vương! Vì phiền não bình đẳng nên Thánh đạo cũng bình đẳng. Vì hai pháp này bình đẳng cho nên các pháp cũng đều bình đẳng.

Đại vương nên biết! Tánh của phiền não là không, cũng không có chỗ trụ. Nhờ phiền não mà được Thánh đạo. Vì được Thánh đạo nên không còn phiền não. Cho nên hai pháp này không tăng, không giảm, cũng không khác nhau.

Vua hỏi:

–Phiền não và Thánh đạo từ đâu sinh ra?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Do tâm sinh ra. Nếu tâm không sinh thì phiền não không sinh. Nếu phiền não không sinh thì Thánh đạo không sinh. Cho nên biết rằng, phải quán phiền não như vậy và Thánh đạo cũng phải quán như vậy. Nếu đã quán như vậy thì tâm vô sở đắc.

Vua hỏi:

–Pháp Thánh đạo có quy về Niết-bàn không?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Không. Vì các pháp không đến không đi. Niết-bàn cũng thế.

Vua hỏi:

–Thánh đạo trụ thế nào?

Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời:

–Thánh đạo trụ như vậy.

Vua hỏi:

–Thánh đạo không phải chỗ trụ của giới, định, tuệ sao?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Các pháp là vô hành, vô tướng, xa lìa các hý luận. Nếu là giới, định, tuệ thì tức là hý luận. Nếu có hành, có tướng thì không nên trụ như vậy. Trụ như vậy tức là chẳng phải trụ, chẳng phải bất trụ. Thánh đạo cũng như vậy.

Vua hỏi:

–Tất cả thiện nam, thiện nữ nếu tu hạnh Bồ-đề thì có đắc Thánh đạo không?

Bồ-tát nói:

–Người nào tu hạnh Bồ-đề thì không có pháp nhỏ nào có thể đắc. Vì đạo Bồ-đề chẳng phải khổ chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng thường, chẳng phải vô thường, chẳng tịnh chẳng uế, không có luân hồi để nhàm chán, cũng không có Niết-bàn để chứng đắc. Cho nên tất cả pháp đều không thể thủ đắc. Pháp Thánh đạo cũng không thể thủ đắc.

Vua thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Lành thay! Đại sĩ thật là hy hữu. Đại sĩ giảng nói rất hoàn hảo về pháp giải thoát làm con đều tin hiểu. Con thành tâm cung kính bày sự cúng dường. Con sẽ dâng thức ăn uống để cúng dường đại chúng, xin Bồ-tát đến chỗ con.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Thức ăn không có sự làm, bố thí không có sự thọ. Người bố thí và người thọ nhận không hai, không khác. Vua đã thành tâm thì tôi sẽ thọ nhận.

Bấy giờ, Thế Tôn nói với Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Nay đã đúng lúc, hãy nhận lời thỉnh của vua để làm lợi ích lớn cho nhiều người.

Bồ-tát Diệu Cát Tường thưa Phật:

–Con vâng lệnh Phật đã nhận lời thỉnh cầu của vua và sẽ cùng đại chúng thọ nhận sự cúng dường.

Biết Bồ-tát Diệu Cát Tường đã nhận lời thỉnh cầu của mình, vua nước Ma-già-đà rất vui mừng và được an ổn lớn, nên cung kính lễ lạy Thế Tôn và Bồ-tát Diệu Cát Tường cùng các đại chúng. Sau đó vua đến hỏi Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Bồ-tát Diệu Cát Tường đã nhận sự cúng dường của con, các Bồ-tát cùng đến là bao nhiêu vị?

Tôn giả Xá-lợi Tử nói:

–Sẽ đi chung với năm trăm vị Bồ-tát đến dự hội của vua.

Bấy giờ, vua nước Ma-già-đà về cung trước, sửa soạn phòng xá rộng lớn, bảo những người tôi tớ đều phải thanh lọc tâm mình cho thanh tịnh, chuẩn bị sắp đặt đủ thứ món ăn uống thượng hạng, dựng cờ phướn, lọng báu với các loại châu ngọc quý giá, rải các hoa đẹp, đốt đủ loại hương thơm, gắn trân châu, anh lạc hết trên hoa ấy, trải năm trăm chỗ ngồi. Còn ở thành vua thì cho sửa sang đường xá, rải hoa, đốt hương, không còn bụi nhơ, dọn sạch sẽ những con đường ấy.

Khi ấy, dân chúng trong thành nghe Bồ-tát Diệu Cát Tường vào cung vua nhận sự cúng dường, tất cả đều hoan hỷ, nhất tâm mong chờ. Ai nấy đều đem hương hoa đứng chực sẵn bên đường.

Lúc này vào đầu đêm, Bồ-tát Diệu Cát Tường suy nghĩ: “Sáng mai đến chỗ vua thỉnh, Bồ-tát đi cùng ta ít quá. Ta nên tới các cõi Phật để mời các vị Đại Bồ-tát cùng dự thắng hội trang nghiêm trong cung vua. Nếu ta thuyết pháp cho vua thì các Bồ-tát ấy có thể làm các vị chứng minh.” Vừa nghĩ xong, Bồ-tát liền biến mất, trong chốc lát đã vượt qua tám vạn cõi Phật ở phương Đông, đến một thế giới tên Thường thanh. Phật hiệu là Cát Tường Thanh Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Đức Phật ấy giảng nói pháp Đại thừa cho các Bồ-tát. Các Bồ-tát này đều ở vào địa không thoái chuyển. Trong cõi Phật ấy có cây bảy báu trổ nhiều hoa quả, nơi cành lá cây ấy thường phát ra âm thanh vi diệu, như là tiếng khen ngợi Phật, tiếng khen ngợi Pháp, tiếng khen ngợi Bồ-tát địa không thoái chuyển, thường phát ra tiếng khen ngợi Tam bảo như vậy. Nên gọi là thế giới Thường thanh.

Sau khi đến cõi đó, Bồ-tát Diệu Cát Tường đến trước Như Lai Cát Tường Thanh lễ dạy dưới chân ngài và thưa:

–Con từ cõi Ta-bà đến đây. Con được vua nước Ma-già-đà thỉnh vào cung để cúng dường thức ăn uống, nhưng vì chúng Bồ-tát ít quá, nên con đến thỉnh mời các thượng sĩ Đại Bồ-tát vào sáng mai đi cùng con đến cung vua thọ nhận sự cúng dường, để cho tất cả chúng sinh được phước. Cúi xin Đức Thế Tôn bảo các Bồ-tát nhận lời thỉnh cầu của con.

Bấy giờ, Như Lai Cát Tường Thanh bảo tám vạn Đại Bồ-tát:

–Này các nam tử! Nay Bồ-tát Diệu Cát Tường đến thỉnh các ông đến cung vua nước Ma-già-đà trong thế giới Ta-bà để nhận cúng dường thức ăn uống. Các ông hãy cùng đi mà làm Phật sự.

Nghe lời dạy của Đức Thế Tôn, các Bồ-tát liền phụng hành. Thế rồi Bồ-tát Diệu Cát Tường làm lễ từ biệt Như Lai Cát Tường Thanh và cùng tám vạn Đại Bồ-tát biến mất trở về cõi Ta-bà đến chỗ cũ. Sau khi cùng các Đại Bồ-tát an tọa, Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Tôi có pháp môn tên là Đại tổng trì, nay tôi sẽ giảng nói, phân biệt cho các Đại sĩ. Sao gọi là pháp môn Tổng trì? Nghĩa là người nào muốn chứng pháp môn Tổng trì thì phải trụ tâm nơi chánh niệm không tán loạn, lìa bỏ si giận, dùng trí tuệ thông đạt tất cả pháp, thực hành đạo của Như Lai, đắc môn biện tài, trụ vào vô tướng, thể nhập tất cả pháp, nắm giữ hết các trí môn, nối dõi Thánh đạo, giữ gìn Tam bảo, nói năng luận bàn điều gì không bị ngưng trệ, trở ngại, hiểu rõ ngôn ngữ của tất cả chúng sinh.

Tất cả những thứ ngôn ngữ khác nhau của tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, Nhân phi nhân cho đến Đế Thích, Phạm vương dưới đến loài bàng sinh dị loại vẫn có thể theo từng ngôn ngữ của chúng mà thuyết pháp, biết rõ căn tánh của chúng sinh lợi hay độn, tùy theo hạng ấy mà được hiểu biết, các căn thanh tịnh, tránh xa các tà kiến, bình đẳng an trụ vào pháp môn Tổng trì, không vướng vào tám loại pháp thuận nghịch ở thế gian, viên mãn tất cả pháp lành xuất thế, giảng nói cho chúng sinh về hành nghiệp nhân duyên quả báo để họ được nhiều an lạc, dùng trí tuệ thông đạt tất cả xứ, có thể làm cho chúng sinh bỏ được gánh nặng. Tâm không lo buồn, biết tự tánh của các pháp, tùy theo căn cơ mà giảng pháp để phù hợp với chứng bệnh làm cho họ tinh tấn đạt được nhiều thiện lợi. Tâm của Bồ-tát hoan hỷ không mong cầu quả báo. Nếu có các căn lành chỉ hồi hướng lên Nhất thiết trí, cầu Nhất thiết trí, làm lợi lạc lớn cho tất cả chúng sinh. Đối với lục độ đều hành thành tựu.

Hạnh bố thí viên mãn hồi hướng lên Nhất thiết trí. Hạnh trì giới viên mãn hồi hướng cho chúng sinh để chúng được an lạc. Hạnh nhẫn nhục viên mãn được tướng tốt của Phật, trang nghiêm đầy đủ. Tinh tấn viên mãn làm thành thục tất cả căn lành. Thiền định viên mãn đắc pháp tương ưng tự tại vô ngại. Trí tuệ viên mãn thông đạt tất cả pháp. Đối với pháp được tự tại tránh xa các lỗi lầm.

Này Thiện nam! Pháp môn Tổng trì là như vậy. Nếu đươc pháp môn này rồi thì không bị quên mất. Vì tổng là giữ gìn Nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện nam! Pháp môn Tổng trì lại có thể giữ gìn tất cả pháp, nghĩa là hiểu rõ tất cả pháp là Không, Vô tướng, Vô nguyện, không động, không tạo tác, lìa các phân biệt, không sinh không diệt, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng phải hữu, chẳng phải vô, không đến không đi, chẳng thành chẳng hoại, chẳng tụ chẳng tan, chẳng phải hữu tánh chẳng phải vô tánh, chẳng phải hữu tưởng chẳng phải vô tưởng, lìa các hý luận, chẳng phải ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, Bổ-đặc-già-la, không nắm bắt, không xả bỏ, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng hay, chẳng biết. Đó gọi là giữ gìn tất cả pháp.

Lại nữa, này Thiện nam! Pháp môn Tổng trì còn gọi là giữ tất cả pháp, vì tự tánh nó là không, như thấy trong mộng, như bọt nước, như sóng nắng, như hư không… lại có thể giữ gìn tất cả pháp là khổ, không, vô thường, vô ngã, tịch diệt… tự tánh nó không tạo tác, không lạc, không khổ, không đắc, không chứng. Pháp môn Tổng trì lại ví như mặt đất vì giữ gìn thế gian, không lớn, không nhỏ, nó đều giữ gìn cũng không mệt mỏi. Đại Bồ-tát đắc pháp môn Tổng trì cũng như vậy. Vì chúng sinh mà phát tâm Bồ-đề, thâu nhiếp các căn lành không cho tan mất, dù trải qua a-tăng-kỳ kiếp cũng không chút biếng nhác, thoái lui. Lại như mặt đất có thể nuôi dưỡng vạn vật.

Bồ-tát được pháp môn Tổng trì có thể giáo hóa làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Như mặt đất có thể sinh sản ra cây cối để làm chất dinh dưỡng nuôi chúng sinh. Bồ-tát được pháp môn Tổng trì có thể sinh ra tất cả pháp lành để làm lợi ích chúng sinh. Như mặt đất không tăng không giảm, giữ gìn vạn vật không cao không thấp. Tâm Bồ-tát được pháp môn Tổng trì cũng như vậy, không tăng không giảm, giữ gìn chúng sinh không có tư tưởng oán hay thân. Như mặt đất nhận nước mưa không bao giờ nhàm chán. Bồ-tát được pháp môn Tổng trì ưa thích nghe thọ pháp hội Bồ-tát của Phật không nhàm chán. Như mặt đất có thể giữ gìn tất cả hạt giống, theo thời gian tăng trưởng, không bao giờ dừng nghỉ. Bồ-tát được pháp môn Tổng trì có thể giữ gìn tất cả hạt giống pháp lành. Lại như người dũng sĩ ở thế gian, oai lực mạnh mẽ có thể chiến thắng quân địch khác. Bồ-tát được pháp môn Tổng trì có đầy đủ tinh tấn, thần thông oai đức có thể chiến thắng quân ma.

Này Thiện nam! Nên biết, tự tánh của tất cả pháp là không quên không ghi nhớ, là thường hay vô thường, là khổ hay lạc, là tịnh hay bất tịnh, là ngã hay vô ngã, là hữu tình hay chẳng phải hữu tình, là thọ mạng hay chẳng phải thọ mạng, là Bổ-đặc-già-la hay chẳng phải Bổ-đặc-già-la… Pháp môn Tổng trì cũng như vậy, cũng không ghi nhớ vì các pháp lìa hai tướng, cũng không quên mất.

Này Thiện nam! Pháp môn Tổng trì giống như hư không, tuy giữ gìn mặt đất nhưng không có tư tưởng giữ gìn, thâu giữ tất cả pháp mà không có tướng nắm giữ. Lại như ánh sáng mặt trời chiếu sáng tất cả tướng, pháp môn Tổng trì có thể quán chiếu tất cả pháp. Lại như chúng sinh có thể giữ tất cả các loại phiền não không bao giờ tan mất. Pháp môn Tổng trì có thể giữ gìn tất cả pháp không cho tan mất. Lại như chư Phật, Bồ-tát có bánh xe tâm ghi nhớ, có thể chuyển tâm ý của tất cả chúng sinh. Pháp môn Tổng trì có thể giữ gìn tất cả pháp mà cũng không có tướng giữ gìn.

Này các Thiện nam! Theo những ví dụ đã nói ở trên là không cùng tận, các pháp không cùng tận, thì pháp môn Tổng trì cũng không cùng tận. Vì vô lượng, vô biên giống như hư không.

Khi Bồ-tát Diệu Cát Tường giảng nói pháp này, trong hội có năm trăm Đại Bồ-tát chứng được pháp môn đại Tổng trì.

 

QUYỂN 4

Bấy giờ vào giữa đêm, Bồ-tát Diệu Cát Tường giảng nói về pháp môn Bồ-tát tạng cho các Bồ-tát:

–Này các Đại sĩ! Cần phải hiểu rõ pháp môn của Bồ-tát tạng là không có một pháp nào nằm ngoài tạng của Bồ-tát. Tất cả pháp thế gian hay xuất thế gian, hữu vi vô vi, thiện hay bất thiện, hữu tướng hay vô tướng, hữu lậu, vô lậu đều là tạng của Bồ-tát.

Này Thiện nam! Ví như trong tam thiên đại thiên thế giới có trăm ức bốn đại châu, có trăm ức mặt trời, mặt trăng, có trăm ức núi Tu-di, có trăm ức biển lớn nhưng tất cả không nằm bên ngoài tam thiên đại thiên thế giới. Pháp tạng của Bồ-tát cũng vậy, tất cả pháp phàm phu, pháp Thanh văn, pháp Duyên giác cho đến pháp của chư Phật cũng không nằm ngoài tạng của Bồ-tát. Vì sao? Vì Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và chư Phật thừa đều đồng một thừa. Ví như cây đại thọ dù có thân nhánh cành lá sum suê tươi tốt nhưng cũng cùng chung một gốc. Tạng Bồ-tát vì vốn phát sinh ra pháp tam thừa nhưng không sai khác, nó rộng lớn không thể nào lường tính được. Ví như biển lớn rộng mênh mông không có bờ bến, giả sử A-tu-la vương, các Dạ-xoa… cho đến các đại lực sĩ muốn lường biển ấy nhưng không thể nào biết được. Các Thanh văn, Duyên giác, tất cả chúng trời, người muốn biết Pháp tạng của Bồ-tát cũng không thể cùng tận. Những vị có trí tuệ muốn biết pháp giới, định, tuệ của Bồtát còn không thể biết. Chỉ có người nhập vào tạng Bồ-tát mới tự mình biết được thôi.

Này Thiện nam! Ví như tất cả chúng sinh cư trú trong biển lớn chỉ uống nước biển, chứ không thể biết được mùi vị của sông. Người tu Bồ-tát thừa chỉ biết pháp tạng Bồ-tát, không thích đạo Thanh văn, Duyên giác.

Này Thiện nam! Trong tạng Bồ-tát miễn cưỡng gọi là ba, đó là Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát. Chỉ nghe lý Tứ đế mà chứng Niếtbàn, đó gọi là tạng Thanh văn. Chỉ thích lý duyên sinh mà chứng Niết-bàn đó gọi là tạng Duyên giác. Còn tạng Bồ-tát là chứng đạt Nhất thiết trí.

Này Thiện nam! Nên biết rằng tạng Thanh văn, tạng Duyên giác và tạng Bồ-tát đều bình đẳng như nhau. Vì lòng ham muốn của chúng sinh nên có sự học về ba thừa. Sở dĩ người học cầu Thanh văn là vì trí tuệ họ cạn hẹp, không rộng lượng, sợ khổ nơi luân hồi nên rất ưa thích pháp Tứ đế để chứng Niết-bàn cầu an ổn. Người thích cầu Duyên giác thì tâm còn hạn ngại, không có tâm rộng rãi với chúng sinh, không có tâm đại Bi để hành hạnh lợi tha, chứng Niếtbàn cho đó là cứu cánh. Đại Bồ-tát học tạng Bồ-tát với tâm rộng lớn vô lượng, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể lường xét được. Chỉ có các Bồ-tát tu học pháp ấy mới có thể hiểu rõ.

Này Thiện nam! Thanh văn, Duyên giác chỉ ưa thích thừa của mình, tu các căn lành để cầu quả Nhị thừa, còn đối với pháp của Bồtát thì không thể nào biết được. Các Bồ-tát quán pháp Thanh văn thì đối với đạo Tứ đế đều chứng biết hết tất cả, phân biệt rất rõ nhưng không chứng quả ấy; quán pháp của Duyên giác đối với mười hai nhân duyên Bồ-tát đều chứng biết tất cả, phân biệt rõ nhưng không chứng quả ấy. Bồ-tát làm viên mãn các hành và thông đạt tất cả. Ví như tô báu bằng lưu ly đựng các vật thì những vật ấy đều cùng một màu trong suốt như nhau. Pháp của Thanh văn và Duyên giác khi nhập vào trong tạng Bồ-tát vốn không khác. Cho nên các Đại Bồ-tát đã nhập vào tạng Bồ-tát rồi thì thấy các pháp bình đẳng không khác nhau, không có tướng pháp của chư Phật, không có tướng pháp của Bồ-tát, không có tướng pháp của Nhị thừa. Với tất cả pháp không có sự nhớ nghĩ vì lìa các ngôn ngữ văn tự, không nêu ra, không biểu thị. Vì sao? Vì vô tướng nên không thể quán. Vì vô nghĩa nên không thể nhớ nghĩ. Người học như vậy là thâu nhiếp Nhất thiết trí.

Này Thiện nam! Đó gọi là tạng Bồ-tát, thông đạt tự tại vô ngại như vậy.

Vào cuối đêm, Bồ-tát Diệu Cát Tường lại giảng nói câu Kim cang về pháp luân không thoái chuyển cho các Đại Bồ-tát.

Bồ-tát nói:

–Này Thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào khéo giảng pháp để người nghe hiểu rõ ràng, người nói người nghe tất cả đều là pháp bất thoái chuyển, nó không động chuyển không bị hư hoại.

Này Thiện nam! Pháp không thoái chuyển, dù là thừa hay cảnh giới của thừa, dù Phật, Pháp, Tăng cũng đều là bất thoái chuyển luân. Vì sao? Bất thoái chuyển luân là pháp giới. Nếu lìa pháp giới thì không do đâu sinh, luân ấy không có tướng chuyển nên gọi đó là chuyển pháp luân. Không khác không hai tức là tự tánh của pháp giới.

Này Thiện nam! Cho nên người nào tu các hạnh Bồ-tát mà biết như vậy thì được giải thoát, được bất thoái chuyển luân. Đại Bồ-tát biết rõ như vậy là đã giải thoát sẽ được chứng quả Như Lai, làm lợi ích lớn cho tất cả chúng sinh, đối với môn giải thoát không có hai pháp để đắc. Tướng giải thoát của Như Lai và tướng giải thoát của tất cả pháp đều như nhau. Tất cả pháp không có tướng giải thoát cũng không có hai tướng. Vì sao? Vì thân chẳng giải thoát, tâm cũng chẳng giải thoát. Vì tự tánh của hai pháp là tướng giải thoát. Tất cả pháp cũng như vậy. Các Bồ-tát biết rõ như vậy tức là Bất thoái chuyển luân.

Thiện nam! Nên biết rằng, bất thoái chuyển luân không có chỗ chuyển. Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc vốn không có chỗ chuyển, Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, tự tánh của thức cũng không có chỗ chuyển. Tự tánh của các pháp đều không có chỗ chuyển, đó tức là bánh xe không thoái chuyển. Pháp luân ấy vốn xưa nay không hư hoại, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải có sở đắc, chẳng phải không sở đắc, chẳng nói chẳng phải không nói, không danh tự, không chấp trước.

Lại nữa, tướng Không, Vô tướng, Vô nguyện giải thoát môn là pháp phân biệt không thể đắc, do đâu mà đắc? Tất cả tướng ấy giống như hư không, không có chỗ nương tựa. Tự tánh của các pháp không có chỗ để trụ, đó gọi là câu Kim cang về pháp luân không thoái chuyển.

Này Thiện nam! Tánh không của các pháp không thể hủy hoại. Câu Kim cang ấy lìa tất cả kiến nên trụ như vậy, đó là Không giải thoát môn. Câu Kim cang ấy lìa các phân biệt, nên trụ như vậy, đó là Vô tướng giải thoát môn. Câu Kim cang ấy xa lìa các nghi hoặc, nên trụ như vậy, đó là Vô nguyện giải thoát môn. Câu Kim cang ấy xa lìa các hữu chấp, nên trụ như vậy, đó là pháp giới. Câu Kim cang xa lìa tất cả pháp, không có ngã, không tạo tác, không tham, không chấp trước, tự tánh an trụ vào Niết-bàn thanh tịnh. Đó gọi là câu Kim cang.

Vào đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm, Bồ-tát Diệu Cát Tường đã giảng nói tất cả pháp cho các Bồ-tát. Các Bồ-tát ấy đều đắc pháp môn Tam-ma-địa Quang minh hoa Tam-ma-địa. Từ trong lỗ chân lông trên thân của các Bồ-tát ấy phóng ra trăm ngàn ánh sáng. Nơi mỗi ánh sáng hiện ra trăm ngàn chư Phật. Mỗi Đức Phật ở mười phương thế giới vì các chúng sinh mà thi hành Phật sự.

Sau khi đã chuẩn bị những thức ăn uống xong, vua nước Magià-đà vào sáng sớm, đến chỗ Bồ-tát Diệu Cát Tường, thưa với Bồtát:

–Nay đã đến giờ, xin Bồ-tát hãy đến nhận sự cúng dường của con.

Bồ-tát nhận lời thỉnh, vua liền trở về cung.

Bấy giờ vào buổi sáng, Tôn giả Đại Ca-diếp đắp y ôm bát cùng năm trăm Bí-sô vào đại thành Vương xá theo thứ lớp mà khất thực. Đi nửa đường Tôn giả suy nghĩ: “Bây giờ ta không vào thành này mà hãy đến chỗ của Bồ-tát Diệu Cát Tường để nghe chánh pháp.” Suy nghĩ vậy xong, Tôn giả cùng chúng Bí-sô đến chỗ Bồ-tát Diệu Cát Tường. Đến đó, Tôn giả vui mừng kính lễ thăm hỏi Bồ-tát rồi đứng lui qua một bên.

Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi Tôn giả Đại Ca-diếp:

–Vì sao đến giờ ăn mà Tôn giả Ca-diếp lại ôm bát đến đây?

Tôn giả Ca-diếp thưa:

–Tôi định vào thành Vương xá để khất thực nhưng tôi đến đây trước.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Tôi sẽ cúng dường thức ăn uống cho Tôn giả và chúng Bí-sô!

Tôn giả Ca-diếp trả lời:

–Thưa Bồ-tát! Không được đâu! Tôi đến đây là vì nghe pháp chứ chẳng phải xin thức ăn uống.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Tôn giả nên biết, người cầu đạo có hai loại để nuôi dưỡng, một là thức ăn uống và hai là diệu pháp.

Tôn giả Ca-diếp thưa:

–Thưa Đại sĩ! Hữu tình trên thế gian nếu lìa ăn uống thì không phù hợp được, không thể nuôi dưỡng sắc thân thì làm sao có thể nghe thọ chánh pháp?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Tôn giả hãy nhận thức ăn uống. Tôi sẽ cúng dường cho Tôn giả. Sau khi được nhận sự cúng dường thì không lìa luân hồi, không chứng Niết-bàn, chẳng lìa pháp dị sinh, không lìa pháp Thánh đạo. Vì sao? Vì người được cúng dường và người cúng dường không tăng, không giảm, không có pháp để sinh, không có pháp để diệt, không có pháp để học cũng không có pháp để đắc cho nên tôi sẽ cúng dường thức ăn uống cho Tôn giả.

Ca-diếp thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Lành thay! Bồ-tát là đại thí chủ. Người bố thí như vậy chính là chân bố thí.

Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường suy nghĩ: “Ta hãy vào đại thành Vương xá vì vua nước Ma-già-đà mà làm Phật sự lớn.” Nghĩ vậy xong, Bồ-tát liền nhập vào Tam-ma-địa Nhất thiết thần thông biến hóa. Ở trong Tam-ma-địa ấy phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp thế giới Ta-bà, thấy tam thiên đại thiên thế giới rõ như lòng bàn tay. Tất cả loài hữu tình nơi địa ngục, bàng sinh nhờ ánh sáng ấy chiếu đến đều được lìa các khổ, không có một chúng sinh nào sinh tâm ba độc, cũng không còn oán ghét thù nhau, yêu thương nhau như con như mẹ, tất cả tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động sáu cách. Khi ấy, các Thiên tử ở cõi Dục, cõi Sắc đều đến cúng dường Bồ-tát Diệu Cát Tường. Họ tấu lên trăm ngàn điệu nhạc, mưa hoa đẹp của trời đầy ngập khắp đường để tạo sự trang nghiêm. Bồ-tát Diệu Cát Tường dùng thần lực khiến cho con đường ấy đều bằng phẳng giống như bàn tay, trang hoàng với vô số châu báu, rải hoa đẹp lớn như bánh xe. Đó là những loại hoa Ưu-bát-la, Câu-mẫu-đà, Bôn-noa-lợica… lại dùng tràng lưới báu che phía trên, dựng các cờ phướn, lọng báu đầy khắp hư không. Lại hiện đài bảy báu và các cây báu. Trên cây báu ấy, hoa quả bằng lưu ly báu, dùng các dây báu nối kết lại với nhau. Mỗi cây hoa báu đều tỏa ra mùi thơm vi diệu bay khắp cả do-tuần. Giữa rặng cây ấy có ao đáy bằng cát vàng ròng chứa đầy nước gồm đủ tám công đức và mọc nhiều hoa đẹp. Đó là hoa Ưubát-la, Bát-nạp-ma, Câu-mẫu-đà, Bôn-noa-lợi-ca…

Lại có những giống chim như chim uyên ương, chim nhạn, vịt trời qua lại trong đó. Dưới mỗi gốc cây có hai mươi hai Thiên nữ cầm hương chiên-đàn để cúng dường. Ở trong định, Bồ-tát Diệu Cát Tường hiện ra những sự việc thù thắng như vậy. Sau khi xuất định, Bồ-tát nói với Tôn giả Ca-diếp:

–Bây giờ tôi với Tôn giả cùng đến đại thành Vương xá vào cung vua nước Ma-già-đà để thọ sự cúng dường thức ăn. Đại đức là bâc kỳ túc nên đi trước. Còn tôi phải đi sau.

Tôn giả Ca-diếp thưa:

–Thưa Bồ-tát! Như vậy không được. Đại sĩ có đại trí tuệ, thần thông vô lượng, đa văn biện tài, nói thông suốt về pháp giải thoát, được Phật Thế Tôn của tôi khen ngợi. Chúng sinh thấy đều phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát. Trong chúng Thanh văn, tuy tôi gọi là bậc kỳ túc nhưng không làm được, sao dám đi trước, tôi xin đi sau Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh mới phát tâm Bồ-đề, tất cả Thanh văn, Duyên giác và cả bản thân tôi còn không sánh kịp, huống chi bằng người hành lâu đạo Bồ-tát. Ví như sư tử con mới sinh liền có sức mạnh lớn, mạnh mẽ xông xáo không sợ sệt gì cả, mùi trên thân nó lan tỏa theo gió, bầy thú nào nghe được cũng đều kinh hãi, cho đến voi lớn tuy có nhiều sức mạnh, tất cả thế gian không ai điều phục được vậy mà nó nghe mùi của Sư tử con mới sinh cũng phải kinh sợ. Chúng sinh nào phát tâm Bồ-đề dũng mãnh kiên cố thì tất cả chúng ma đều lo sợ, Thanh văn, Duyên giác không sao sánh kịp. Nghe Phật nói pháp Đại thừa, các Đại Bồ-tát tâm bất động, rất hoan hỷ và gầm lên tiếng sư tử điều phục được tất cả. Cho nên Bồ-tát Diệu Cát Tường ở trong chân pháp không có ba thừa, chỉ lấy tâm Bồ-đề làm trên hết. Vì tất cả các pháp lành đều do tâm Bồ-đề sinh ra. Nay Bồtát đi trước giống như tâm Bồ-đề sinh ra vô lượng pháp lành.

Thế rồi, Bồ-tát Diệu Cát Tường đi trước, chúng Đại Bồ-tát đi hai bên, chúng Thanh văn đi phía sau, rời khỏi trụ xứ vào thành Vương xá. Khi ấy trời mưa nhiều loại hoa, trên hư không trổi lên trăm ngàn âm nhạc, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp đại chúng, trong ánh sáng ấy lại mưa nhiều hoa sen. Dân chúng trong thành Vương xá được thấy Bồ-tát, lòng họ rất vui mừng, đem các hương hoa để tung rải cúng dường.

Bấy giờ, nghe Bồ-tát Diệu Cát Tường cùng tám vạn Đại Bồ-tát và năm trăm chúng Thanh văn đến hội, vua nước Ma-già-đà suy nghĩ: “Ta đã chuẩn bị xong năm trăm phần thức ăn uống, nay chúng Bồ-tát này rất đông, thức ăn thì ít bây giờ làm sao cho đủ, lại ngồi đâu cho đủ.” Trong lúc vua đang nghĩ vậy, Bồ-tát Diệu Cát Tường liền sai Thiên vương Đa Văn và Cung-tỳ-la, chủ Đại Dạ-xoa trong chốc lát biến thành đồng tử đến trước vua, thưa:

–Đại vương đừng lo lắng suy nghĩ, Bồ-tát Diệu Cát Tường có đại phương tiện, phước đức trí tuệ không thể nghĩ bàn, có thể đem một phần thức ăn cung cấp cho tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đều no đủ mà thức ăn vẫn còn dư. Nay tám vạn Bồ-tát và năm trăm chúng Thanh văn này, số ấy không nhiều vua có gì phải lo. Vì sao? Vì Bồ-tát Diệu Cát Tường có phước đức trí tuệ vốn vô cùng tận, thức ăn cũng vô tận.

Nghe họ nói vậy, vua nước Ma-già-đà rất vui mừng, sung sướng, đối với Bồ-tát Diệu Cát Tường càng cung kính tôn trọng, hết sức thán phục, cùng quyến thuộc đem hương hoa, hương bột, hương xoa… trổi các âm nhạc ra đón Bồ-tát. Thấy Bồ-tát, vua quỳ lạy, thăm hỏi, rải hoa hương và đi trước đưa Bồ-tát vào cung.

Sau khi đến cung vua, Bồ-tát Diệu Cát Tường nói với Bồ-tát Phổ Chiếu:

–Này Thiện nam! Ông hãy sửa soạn đạo tràng, đã đến giờ rồi.

Nhận lệnh, Bồ-tát Phổ Chiếu liền dùng sức thần thông làm cho

cung điện của vua bỗng nhiên rộng lớn, sạch đẹp, trang hoàng đủ cách không gì bị trở ngại, treo các loại hoa, dựng cờ phướn, lọng báu, linh báu, anh lạc, trang hoàng thành đạo tràng vĩ đại nhất. Bồtát Diệu Cát Tường lại bảo Bồ-tát Pháp Thượng:

–Này Thiện nam! Ông hãy vì tôi mà sắp đặt tòa thượng diệu cho các đại chúng.

Khi ấy trong khoảnh khắc khảy móng tay, Bồ-tát Pháp Thượng liền triệu tập tám vạn ba ngàn tòa tốt đẹp hiện ra nơi đạo tràng được trang nghiêm đủ loại châu báu. Những tòa ấy đầy khắp trong đạo tràng mà không hề chật chội.

Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường liền đến tòa ngồi, bảo các chúng Thanh văn, Bồ-tát đều đến chỗ ngồi của mình.

Lúc này, vua nước Ma-già-đà thưa với Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Cúi xin Bồ-tát và đại chúng thương xót con, đợi một chút nữa thức ăn uống sẽ mang đến.

Bấy giờ, Tứ đại Thiên vương cùng các quyến thuộc đến nơi đạo tràng, lễ lạy cúng dường Bồ-tát Diệu Cát Tường và đại chúng. Lại có Thiên chủ Đế Thích và các quyến thuộc cùng quyến thuộc Atu-la đều đem hương bột chiên-đàn đến đạo tràng cúng dường đại chúng. Lại có Đại phạm Thiên vương chủ cõi Ta-bà biến thành đồng tử cùng các Phạm chúng đứng làm thị giả hai bên, ai cũng cầm phất báu đến đạo tràng. Sau khi lễ lạy Bồ-tát Diệu Cát Tường tất cả đều lui ra đứng qua một bên. Các Phạm chúng đến cũng cầm phất báu và đứng qua một bên nơi các Bồ-tát và chúng Thanh văn. Lại có Long vương Vô Nhiệt Não đến đạo tràng trụ giữa hư không, ẩn thân, rũ xuống vô số những anh lạc. Trong anh lạc tuông ra nước đủ tám thứ công đức, tất cả đại chúng dùng không hết.

Khi ấy, vua nước Ma-già-đà suy nghĩ: “Các Bồ-tát này đều không có bình bát làm sao mà ăn?” Biết tâm niệm của vua, Bồ-tát Diệu Cát Tường nói với vua:

–Vua đừng nghĩ như vậy, các Bồ-tát này không mang bình bát. Khi nào cần thì sẽ có tất cả bình bát ở cõi Phật của họ tự nhiên đưa đến.

Vua rất vui mừng, liền thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Các Bồ-tát này ở cõi Phật nào và từ đâu đến? Con muốn nghe danh hiệu Phật và quốc độ của các Bồ-tát đã đến đây.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Đại vương nên biết! Phương Đông có cõi tên là Thường thanh, Phật hiệu Cát Tường Thanh Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Các Bồ-tát này từ cõi đó đến, thọ nhận sự cúng dường của vua, để cho đại vương thấy được việc hy hữu.

Ngay lúc đó, thế giới Thường thanh đem đến tám vạn ba ngàn bát báu. Nhờ sức oai thần của Đức Phật ấy và diệu lực từ hạnh nguyện của các Bồ-tát mà bát báu từ hư không tới thế giới Ta-bà này. Đến ao Vô nhiệt não thì có tám vạn ba ngàn Long nữ lấy nước tám công đức để rửa sạch rồi tất cả đem tới trước các Bồ-tát. Thấy sự việc như vậy, vua nước Ma-già-đà khen ngợi thật là không thể nghĩ bàn, chưa từng có, lòng vua rất vui mừng.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói với vua:

–Bình bát của các Bồ-tát đã đến rồi, vua hãy phân các thức ăn uống cúng dường đại chúng.

Vua liền đem tất cả thức ăn uống đã chuẩn bị xong dâng lên cúng dường Bồ-tát và các đại chúng.

Bấy giờ đại chúng trong đạo tràng, ai nấy đều no đủ, không một vị nào thiếu thốn. Thấy thức ăn uống vẫn còn dư, vua thưa Bồtát Diệu Cát Tường:

–Thật là hy hữu, thưa Đại sĩ! Con đem ít thức ăn cúng dường khắp đại chúng mà vẫn còn dư.

Bồ-tát nói:

–Này đại vương! Pháp chân thật không cùng tận nên thức ăn từ nơi ấy sinh cũng không cùng tận.

Sau khi ăn xong, các đại chúng Bồ-tát đều ném bát lên hư không, không hề bị lay động.

Vua thưa Bồ-tát:

–Bát ấy trụ ở đâu?

Bồ-tát nói:

–Này đại vương! Pháp chân thật có chỗ trụ chăng?

Vua trả lời:

–Pháp chân thật không có chỗ trụ.

Bồ-tát nói:

–Đại vương nên biết! Pháp chân thật không có chỗ trụ, bát ấy cũng không có chỗ trụ. Nếu bát có chỗ trụ thì các pháp cũng thế.

Đại vương nên biết! Vì tánh của các pháp là không, nên phải trụ như vậy.

Sau khi cúng dường Bồ-tát Diệu Cát Tường và các đại chúng xong, vua nước Ma-già-đà đứng trước Bồ-tát nói với lòng khao khát được nghe pháp, vua liền thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Bồ-tát có lòng đại Từ bi vì con mà nói pháp hy hữu!

Bồ-tát nói:

–Này đại vương! Pháp hy hữu nghĩa là, giả sử hằng hà sa số chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác trải qua trăm ngàn kiếp cũng nói không hết.

Nghe nói vậy, vua kinh hãi, mê muội, không vui. Khi ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp nói với vua:

–Vua đừng cho rằng hằng hà sa số chư Phật không thể giảng nói pháp hy hữu, hay Bồ-tát Diệu Cát Tường cũng không thể nói. Nhưng vì pháp của chư Phật là không cùng tận, chẳng phải dùng lời nói mà có thể nêu bày hết được. Đại vương hãy theo sự ưa thích của mình mà hỏi Bồ-tát Diệu Cát Tường. Đại sĩ này có vô lượng sức phương tiện thiện xảo, chắc chắn có thể nói pháp hy hữu cho vua.

Nghe nói vậy, vua liền tỉnh ngộ và thưa:

–Vừa nghe Bồ-tát nói, tôi có nghi ngờ, nhờ Tôn giả nói rõ khiến tôi tỉnh ngộ.

Vua liền thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Bồ-tát cũng như hằng hà sa số chư Phật đều không thể giảng nói pháp hy hữu, con nghe như vậy, lòng con trở nên mờ mịt, cúi xin Bồ-tát quyết nghi cho con.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Này đại vương! Hằng hà sa số chư Phật đều chẳng phải là không thể giảng nói pháp hy hữu. Pháp không có đối tượng giảng nói đó là pháp hy hữu.

Này đại vương! Đối với tất cả pháp, tâm không chỗ trụ, pháp ấy không thể giảng nói. Chư Phật Như Lai cũng không thể nói. Đối với chư Phật, Thế Tôn, đại vương có thấy tướng chăng?

Vua trả lời:

–Không!

Bồ-tát lại hỏi:

–Tâm sinh có thể thấy không? Tâm diệt có thể thấy chăng? Vua trả lời:

–Không!

Bồ-tát hỏi:

–Pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp chân thật, pháp hư vọng đều có thể thấy chăng?

Vua trả lời:

–Không thể thấy.

Bồ-tát hỏi:

–Với tất cả pháp có tướng để thấy, với tất cả pháp có gì để nói chăng?

Vua trả lời:

–Không!

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Này đại vương! Do nghĩa như vậy nên ta nói: Pháp hy hữu, hằng hà sa số chư Phật không thể giảng nói.

Lại nữa, này đại vương! Hư không không có tướng cũng không chuyển động, khói, mây, bụi, sương không thể dính vào. Tánh của hư không vốn là thanh tịnh, không pháp nào có thể làm nhiễm cũng không pháp nào có thể làm tịnh. Chư Phật Như Lai hiểu rõ tất cả pháp giống như hư không. Vì nghĩa đó mà hằng hà sa số chư Phật giảng nói không thể hết.

Lại nữa, này đại vương! Trong tướng vô trụ, chư Phật Như Lai an nhiên, bất động, hoạt dụng mà thường tịch. Vì sao? Vì pháp không thay đổi, vì lìa xứ chẳng phải xứ. Pháp không thể đắc vì lìa các tướng chấp thủ. Đại vương nên biết! Các pháp chẳng phải sinh cũng chẳng phải không sinh, chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng chân thật chẳng phải không chân thật, chẳng phải hữu tưởng chẳng phải vô tưởng, không tạo tác chẳng phải không tạo tác, không trí tuệ không ngu si, không giữ lấy tướng, chẳng phải không giữ lấy tướng, chẳng tập chẳng tan, không đến không đi, chẳng điên đảo chẳng lìa điên đảo, chẳng phải là phiền não chẳng phải lìa phiền não, chẳng phải tự nhiên sinh, chẳng phải do vật khác sinh.

Này đại vương! Các pháp như hư không, không chuyển động, các pháp không gì bằng vì không bạn bè; các pháp không có hai tướng vì không phân biệt; các pháp không có biên giới vì không thể thấy, các pháp không có lường xét vì chẳng có lớn nhỏ, các pháp không cùng tận vì thường chuyển, các pháp rộng lớn vì hiển bày khắp pháp giới, các pháp không có chỗ trụ vì không có trong, ngoài, chặng giữa, các pháp không phân biệt vì lìa vọng tưởng.

Các pháp là thường vì không biến đổi, các pháp là lạc vì không khổ não.

Các pháp có chủ tể vì lìa vọng chấp.

Các pháp là thanh tịnh vì không có cấu nhiễm.

Các pháp tịch tĩnh vì luôn lắng trong.

Các pháp không chỗ thủ đắc vì lìa tướng ngã.

Các pháp không chỗ lạc vì tướng giải thoát.

Các pháp không bỉ thử vì lìa chấp ngã.

Các pháp không hủy hoại vì lìa các tướng.

Các pháp một vị vì đồng tánh giải thoát.

Các pháp một tướng vì lìa các dị tưởng.

Các pháp đều Không vì lìa các kiến.

Các pháp Vô tướng vì tướng thanh tịnh.

Các pháp Vô nguyện vì lìa ba đời.

Các pháp không ngoài ba đời vì quá khứ, hiện tại, vị lai không thể nắm bắt được. Sinh tử, Niết-bàn vốn bình đẳng nên các pháp đều bình đẳng.

Này đại vương! Các pháp đã như vậy thì phiền não nghi ngờ còn sinh chăng?

Vua trả lời:

–Không! Vì các pháp đều không, nên phiền não nghi ngờ làm sao còn.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Nếu phiền não không sinh thì pháp không giảng nói. Tánh của phiền não là không nên các pháp bình đẳng. Sinh tử, Niết-bàn vốn bình đẳng. Phiền não, Bồ-đề cũng bình đẳng.

 

QUYỂN 5

Lại nữa, này đại vương! Pháp hy hữu rất sâu xa khó lãnh hội, là tướng tịch diệt của tất cả pháp, chẳng nắm bắt, chẳng xả bỏ, chẳng tụ tập, chẳng tan rã, do nhân duyên sinh, không có chủ tể. Vì do duyên sinh nên chẳng phải mình, chẳng phải người, các pháp không có tự tánh. Vì tự tánh là không, nên nó không sở đắc. Do không sở đắc nên tất cả pháp tịch tĩnh. Tướng tịch tĩnh là tướng chân thật. Đại vương nên có lòng tin chân chánh nên tu học như vậy, nên quán sát như vậy. Nếu học như vậy là lìa tất cả tướng, chẳng phải có sở học chẳng phải không có sở học, không được không mất. Nếu hiểu rõ như vậy là chánh giải thoát. Tướng giải thoát là các pháp. Tánh không của các pháp là nghĩa chân thật, tức là không chấp trước, không hạn ngại. Nên đó gọi là pháp hy hữu vô thượng.

Lại nữa, này đại vương! Ông nên biết rằng nhãn căn chẳng nhiễm chẳng tịnh. Vì sao? Vì tự tánh của nhãn căn vốn chân thật. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn cũng chẳng nhiễm chẳng tịnh, vì tự tánh của chúng vốn chân thật.

Này đại vương! Sắc chẳng nhiễm chẳng tịnh; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng nhiễm chẳng tịnh. Vì sao? Vì tự tánh của uẩn vốn chân thật. Cho đến tất cả pháp cũng như vậy chẳng nhiễm chẳng tịnh vì tự tánh vốn chân thật.

Đại vương nên biết! Tâm không có hình tướng nên mắt không chỗ quán, tâm không chỗ trụ. Trong, ngoài, chặng giữa đều không thể thủ đắc. Vì sao? Vì tự tánh của tâm chẳng nhiễm chẳng tịnh, không tăng giảm không động chuyển. Cho nên, này đại vương! Nên quán như thật đừng có nghi ngờ hãy trụ vào pháp chân thật. Vì tâm này chân thật nên các pháp cũng như vậy.

Này đại vương! Ví như hư không lìa các sắc tướng, cũng không động chuyển. Nếu có người nói: “Ta lấy khói, mây, bụi, sương làm ô nhiễm hư không” thì điều này ông có tin không?

Vua trả lời:

–Không! Vì hư không không có tướng nên không bị cấu nhiễm.

Bồ-tát nói:

–Tâm cũng như vậy, xưa nay vốn thanh tịnh không chứa chấp trần cấu. Cũng vậy, cho đến tất cả pháp, tự tánh của chúng là không nhiễm.

Lại nữa, này đại vương! Tất cả pháp và pháp giới chẳng hợp chẳng lìa, vốn tánh bình đẳng không có sai khác. Nếu ai hiểu rõ điều này tức là đối với các pháp không bị chướng ngại cũng không tăng không giảm.

Khi Bồ-tát Diệu Cát Tường giảng nói pháp này, vua Ma-già-đà đã giác ngộ tánh không của các pháp, lòng rất vui mừng lập tức đạt được Pháp nhẫn Vô sinh, phát tâm hy hữu, chắp tay cung kính thưa với Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Bồ-tát có lòng đại Bi và phương tiện thiện xảo, pháp Bồ-tát nói rất là hy hữu, vi diệu sâu xa, xưa con chưa từng được nghe. Hôm nay, con không còn nghi ngờ gì nữa, tâm đã được mở bày sáng tỏ.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Này đại vương! Đừng cho rằng: “Nghi ngờ đã được trừ”, nếu ai nói như vậy tức là chưa đoạn được các tướng. Vì còn có tướng ở nơi tâm thì đó là đại nghi ngờ.

Đại vương nên biết! Các pháp tịch diệt không nói năng, không biểu thị, không nghe không đắc, thì chẳng lẽ có nghi ngờ để trừ sao?

Vua nói:

–Thưa Bồ-tát! Nếu như vậy thì tất cả phiền não tham, sân, si…có làm chướng ngại tâm không?

Bồ-tát nói:

–Này đại vương! Trước đây ta đã nói hư không vốn thanh tịnh, không bị nhiễm, nghĩa ấy như vậy. Này đại vương! Tâm vốn thanh tịnh, phiền não tánh không, hai pháp này không nắm bắt được thì sao bị chướng ngại. Cho nên trong tâm đừng có sinh tướng tội cấu.

Đại vương nên biết! Tâm quá khứ không thể nắm bắt được tâm vị lai không thể nắm bắt được, tâm hiện tại không thể nắm bắt được cho đến tất cả pháp cũng như vậy. Ở trong ba đời không đến, không đi, không trụ, không chấp, không có chỗ nhập vào không có chỗ nương tựa, lìa các vọng tưởng, chẳng phải dùng tri kiến để lường kịp. Nếu lìa tướng tri kiến thì đó là Phật nói. Cho nên người trí nên quán như vậy, nên hiểu rõ như vậy.

Bấy giờ, nhà vua thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường:

–Như Bồ-tát đã nói thì con hiểu rõ tự tánh của tâm, tự tánh của các pháp xưa nay vốn thanh tịnh, không bị những chướng làm ô nhiễm, cũng không có tướng để nắm bắt được. Cho nên hôm nay ở trước Bồ-tát con được lòng tin không hoại.

Bồ-tát nói:

–Này đại vương! Nếu như vậy tức là được giải thoát, xa lìa các lỗi lầm.

Nghe Bồ-tát Diệu Cát Tường giảng nói pháp vi diệu, vua nước Ma-già-đà rất vui mừng, liền đứng dậy đem vải mịn thượng diệu giá trị hàng trăm ngàn tiền đến dâng cúng dường Bồ-tát Diệu Cát Tường và định lấy vải ấy khoác vào thân Bồ-tát. Lúc đó, trong khoảng một sát-na, Bồ-tát biến mất, chỉ nghe giữa không trung có tiếng nói:

–Này đại vương! Nếu còn thấy có tướng thì ta không thọ nhận. Nếu muốn ta thọ nhận thì không còn thấy thân mình, không còn thấy thân người, không có người bố thí, không có người được bố thí, cho đến tất cả pháp cũng đều như vậy, không còn thấy các tướng xa lìa tâm chấp giữ.

Này đại vương! Vải để cúng dường đó nếu có thể thấy thân ai thì nên cúng dường cho vị ấy.

Bấy giờ có Bồ-tát tên Trí Ngộ. Vua liền đem vải ấy dâng cúng Bồ-tát. Bồ-tát ấy nói:

–Này đại vương! Nếu còn thấy tướng thì tôi không nhận. Nếu tôi thọ nhận thì không chấp nơi dị sinh (phàm phu) và pháp của hàng dị sinh, không trụ vào Hữu học và pháp Hữu học, không chứng Vô học và pháp Vô học, không hướng đến Duyên giác và pháp Duyên giác, cũng không cầu giải thoát Niết-bàn của chư Phật Như Lai để làm quả chứng. Như vậy, đối với tất cả pháp không có tướng để chấp. Hai loại chủ thể thí và đối tượng được thí đều thanh tịnh không lợi, không đắc. Nếu ai bố thí như vậy thì tôi có thể nhận.

Lúc ấy, nhà vua định lấy vải khoác vào thân Bồ-tát, nhưng lập tức Bồ-tát đã biến mất, chỉ nghe tiếng trong hư không:

–Nếu có thể thấy thân ai thì hãy cúng dường vị ấy.

Bấy giờ, có Bồ-tát tên Thiện Tịch Giải Thoát. Vua liền đem vải dâng cúng, Bồ-tát nói:

–Này đại vương! Nếu còn thấy tướng thì ta không nhận. Nếu ta nhận thì không còn có ta thấy và vật ta thấy, chẳng phải hợp phiền não chẳng phải lìa phiền não, chẳng phải tâm trụ định chẳng phải tán loạn, chẳng phải trí tuệ chẳng phải ngu si, lìa các nắm bắt và xả bỏ. Nếu bố thí như vậy thì có thể thọ nhận.

Lúc ấy, đại vương định lấy vải khoác lên thân Bồ-tát nhưng lập tức Bồ-tát biến mất, chỉ nghe tiếng trong hư không rằng:

–Nếu có thể thấy thân ai thì hãy cúng dường vị ấy.

Lại có Bồ-tát tên Tối Thắng Tác Ý, vua liền đem vải đến cúng dường.

Bồ-tát nói:

–Này đại vương! Nếu còn thấy có tướng thì ta không nhận. Nếu ta nhận thì không còn có các tướng, không hành thân nghiệp, không sinh ngữ nghiệp, không tạo ý nghiệp, không chấp vào uẩn, xứ, giới, hiểu rõ tất cả pháp đều không thể nắm bắt được, chẳng phải dùng trí để biết, chẳng phải dùng lời nói để lường xét, không có chỗ nương tựa mà phải lắng trong như hư không. Người bố thí như vậy thì ta nhận.

Lúc ấy, nhà vua định đem lấy vải khoác lên thân Bồ-tát nhưng lập tức Bồ-tát biến mất, chỉ nghe tiếng trong hư không:

–Nếu có thể thấy thân ai thì nên cúng dường vị ấy.

Lại có Bồ-tát tên Thượng Ý. Vua liền đem vải dâng lên cúng dường, Bồ-tát nói:

–Nếu còn tướng để thấy thì ta không nhận. Nếu ta nhận thì không còn chấp tướng và tâm mong cầu. Nếu ai nói phát tâm cầu đạt đạo quả Vô thượng Bồ-đề đó là chấp tướng có mong cầu. Vì sao? Vì lìa tâm hữu tướng đó là tâm Đại Bồ-tát. Vì tâm này bình đẳng cho nên tâm Bồ-đề cũng bình đẳng. Tâm Bồ-đề này là tâm của tất cả Như Lai. Do tâm bình đẳng cho nên các pháp cũng bình đẳng, không hai không khác, không nắm bắt, cũng không xả bỏ. Vì lìa nắm bắt và xả bỏ nên tướng ngã không sinh, tướng ngã đã diệt thì không có gì để mong cầu. Người bố thí như vậy thì ta có thể nhận.

Lúc đó, nhà vua định lấy vải khoác lên thân Bồ-tát nhưng lập tức Bồ-tát biến mất, chỉ nghe tiếng trong hư không:

–Nếu có thể thấy thân ai thì cúng dường cho vị ấy.

Lại có Bồ-tát tên Tam-muội Khai Hoa, vua liền đem vải đến cúng dường, Bồ-tát ấy nói:

–Còn thấy có tướng thì ta không nhận. Nếu như ta nhận thì đối với tất cả môn Tam-ma-địa đã chứng nhưng lại vô tướng, không phân biệt, hiểu rõ tự tánh của tất cả pháp là không động tức là Tamma-địa. Bố thí như vậy thì ta nhận.

Lúc đó, nhà vua định đem vải khoác vào thân Bồ-tát, nhưng lập tức Bồ-tát đã biến mất, chỉ nghe tiếng trong hư không:

–Nếu có thể thấy thân ai thì cúng dường cho vị ấy.

Lại có Bồ-tát tên Thành Tựu Ý, vua lại đem vải đến cúng dường, Bồ-tát ấy nói:

–Này đại vương! Còn thấy có tướng thì ta không nhận. Nếu như ta nhận thì hiểu rõ tất cả ngôn ngữ văn tự, tự tánh vốn không, không có tướng để chấp. Ai sinh tâm ham muốn cầu các pháp thì rơi vào hữu tướng, không gọi là thành tựu. Nếu hiểu rõ tất cả pháp là không sở đắc tức thành tựu tất cả. Tất cả đều như ý. Bố thí như vậy thì ta nhận.

Lúc đó, nhà vua định khoác vải lên thân Bồ-tát, nhưng lập tức Bồ-tát biến mất, chỉ nghe tiếng trong hư không:

–Nếu có thể thấy thân ai, thì cúng dường cho vị ấy.

Lại có Bồ-tát tên Tam Luân Thanh Tịnh, vua liền đem vải đến cúng dường, Bồ-tát ấy nói:

–Này đại vương! Còn thấy có tướng thì ta không nhận. Nếu như ta nhận thì phải không có người cúng dường, không có người thọ nhận. Người thọ nhận không sở đắc, người cúng dường không sở đắc, ngã còn không có thì sở hữu của ngã cũng không. Bố thí như vậy thì ta nhận.

Lúc đó, nhà vua định đem vải khoác lên thân Bồ-tát, nhưng Bồ-tát đã biến mất, chỉ nghe tiếng trong hư không:

–Nếu có thể thấy thân ai, thì cúng dường cho vị ấy.

Lại có Bồ-tát tên Pháp Hóa, vua liền đem vải đến cúng dường, Bồ-tát ấy nói:

–Này đại vương! Còn thấy có tướng thì ta không nhận. Nếu như ta nhận thì không lấy Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác làm quả chứng, cũng không lấy đại Bát-niết-bàn làm quả chứng, không lìa pháp luân hồi, không cầu pháp Niết-bàn. Vì sao? Vì sinh tử và Niếtbàn cả hai đều bình đẳng. Bố thí như vậy thì ta nhận.

Lúc ấy, nhà vua định lấy vải khoác lên thân Bồ-tát nhưng Bồtát đã biến mất, chỉ nghe tiếng trong hư không:

–Nếu có thể thấy thân ai, thì cúng dường cho vị đó.

Nhà vua đã đem vải dâng cúng dường, nhưng các Đại Bồ-tát đều ẩn thân không thọ nhận.

Nhà vua lại đem vải ấy đến chỗ Tôn giả Đại Ca-diếp, thưa:

–Thưa Tôn giả Ca-diếp! Trong chúng Thanh văn, Tôn giả tuổi cao đức lớn được Đức Phật khen ngợi là hạnh Đầu-đà đệ nhất, cúi xin Tôn giả nhận vải thượng diệu này để con được thỏa lòng dốc cúng dường.

Tôn giả Ca-diếp nói:

–Này đại vương! Còn thấy có tướng thì ta không nhận. Như người mà ta nhận là không đoạn tham, sân, si, không bị nhiễm chấp, cho đến vô minh, hữu ái cũng đều không đoạn, cũng không tương ưng với không. Thấy Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, không thấy Phật, không nghe Pháp, không nhập vào Tăng chúng, chẳng phải Tận trí, Vô sinh trí mà có thể đắc, có thể chứng, không có người bố thí, không có người nhận, không có quả lớn, không có quả nhỏ, không có luân hồi để nhàm chán, không có Niết-bàn để chứng. Các pháp thanh tịnh xa lìa các tướng. Người bố thí như vậy thì có thể nhận.

Vua liền đem vải định khoác vào thân Tôn giả, nhưng Ca-diếp cũng biến mất, chỉ nghe tiếng giữa hư không nói:

–Nếu có thể thấy thân ai thì nên cúng dường vị đó.

Cứ như vậy, nhà vua đã đem vải quý dâng cúng cho năm trăm đại Thanh văn nhưng vị nào cũng ẩn thân không thọ nhận.

Khi ấy, vua suy nghĩ: “Chúng Thanh văn, Bồ-tát này đều không nhận vải cúng dường của ta. Bây giờ ta đem về hậu cung để tặng phu nhân và các quyến thuộc, chắc chắn mọi người sẽ nhận.” Suy nghĩ vậy xong, vua đem vải vào cung định đưa cho họ, nhưng vua không thấy phu nhân. Vua lại nghĩ sẽ đem cho các cung tần nhưng cũng chẳng thấy họ đâu cả. Như vậy, vua lần lượt quán sát tất cả phòng ốc, cung điện, thành đều trống trơn chẳng thấy gì cả. Đại vương lại suy nghĩ: “Vải đẹp thượng diệu này không được cúng dường.” Nghĩ vậy xong, vua định lấy vải tự khoác vào thân mình, nhưng tức khắc vua cũng không thấy thân mình đâu nữa, chỉ nghe tiếng giữa hư không:

–Nếu có thể thấy thân ai thì hãy cúng dường vị ấy. Này đại vương! Ông hãy tự quán về sắc thân của mình nay ở đâu?

Vua tự quán mà không thấy tướng của mình, thì quán người khác cũng vậy. Tướng của mình và người đều không thể nắm bắt được. Nếu ai thấy như vậy tức là thấy pháp chân thật. Pháp chân thật là xa lìa tất cả kiến chấp. Vì lìa các kiến chấp cho nên trụ vào pháp bình đẳng.

Khi nghe giữa hư không nói như vậy, đại vương lìa tâm hữu tướng, đoạn trừ tưởng nghi ngờ. Như từ trong giấc ngủ mà được tỉnh ngộ, tức thì quyến thuộc, hậu phi, phòng ốc, cung điện, thành quách, đều hiện ra sắc tướng của nó trở lại như cũ. Vua liền đến chỗ đại chúng Bồ-tát, lại được nhìn thấy tất cả thân tướng của các Bồ-tát như trước không khác.

Bấy giờ, đại vương đến trước Bồ-tát Diệu Cát Tường, thưa:

–Đại chúng Bồ-tát vừa rồi đã đi đâu mà con không thấy?

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Này đại vương! Vua đừng nghi ngờ, đại chúng này tướng vốn không đến thì đi về đâu?

Này đại vương! Bây giờ vua có thấy đại chúng đây không?

Vua trả lời:

–Dạ con đã thấy.

Bồ-tát hỏi:

–Vua thấy thế nào?

Vua trả lời:

–Như thấy pháp chân thật thì quán đại chúng này cũng như vậy.

Bồ-tát hỏi:

–Pháp chân thật ấy vua thấy thế nào?

Vua trả lời:

–Pháp chân thật lìa tất cả tướng, chẳng phải dùng mắt để quán, không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa nên nói tướng nơi hai pháp là không thể nắm bắt được.

Bồ-tát Diệu Cát Tường lại nói với vua:

–Đại vương nên biết! Trước đây vua đã tạo nghiệp ác. Tôi nghe Phật đã ghi nhận là vào đời sau sẽ bị đọa vào đường ác phải không?

Vua thưa Bồ-tát:

–Thưa Đại sĩ! Không có việc ấy. Phật Thế Tôn chưa từng nói người bị đọa đường ác hay người chứng đắc Niết-bàn. Vì sao? Vì trong pháp chân thật không có hai tướng riêng biệt.

Bồ-tát lại nói:

–Này đại vương! Không phải thế. Như Đức Phật đã nói nghiệp quả của thiện ác ứng chiếu như vậy. Nếu nói như thế thì nghĩa là thế nào?

Đại vương nói:

–Thưa Đại sĩ Bồ-tát! Theo ý của con thì chư Phật Như Lai tùy

theo phương tiện mà khéo nói về sinh tử, Niết-bàn, để các chúng sinh nhàm chán khổ nơi sinh tử mà hướng đến vui của Niết-bàn. Nếu nói một cách như thật thì sinh tử và Niết-bàn đều bình đẳng. Vì sao? Vì các pháp đều không, không có tự tánh. Tánh của các pháp ấy là tánh của pháp giới. Trong tánh của pháp giới không có hai thứ riêng biệt. Do ý nghĩa đó mà các pháp không chỗ sinh, không chỗ trụ, không ham muốn, không nhàm chán. Nay con có lòng tin chân chánh nên không còn lo sợ.

Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:

–Lành thay, đại vương! Vua nói điều này rất rõ ràng, đó là lìa các tướng hữu.

Vua nói:

–Thưa Bồ-tát! Tự tánh của con là không, vậy người nói là ai? Pháp vốn vô tướng, vậy lìa cái gì? Như Phật đã nói, trong pháp chân thật thì ngã tướng vốn không lìa tình, chẳng phải là tình. Các hành không tạo tác cũng không có người thọ nhận.

Bồ-tát nói:

–Đại vương! Trong pháp chân thật mặc dầu ông đã hiểu rõ nhưng còn sinh chấp trước.

Vua hỏi:

–Làm sao để lìa chấp trước?

Bồ-tát trả lời:

–Không hủy hoại tướng của cõi ác, đó là không chấp trước.

Vua nói:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Theo ý của con tướng của cõi ác là không động chuyển, không hủy hoại, không chấp trước, không có gì lo sợ. Nay con đã lìa được các chấp trước, vĩnh viễn không còn sinh chỗ thấy về tướng hữu. Ví như Bồ-tát chứng đắc pháp Nhẫn không còn tưởng về ba độc.

Khi ấy Bồ-tát Trí Tràng nói với vua:

–Đại vương! Đối với đạo trí tuệ, vua đã được thanh tịnh, lìa các trần nhiễm, đạt đầy đủ pháp Nhẫn.

Vua thưa Bồ-tát:

–Các pháp rất thanh tịnh, rộng lớn không thể lường. Phiền não không thể làm nhiễm ô, Niết-bàn không thể nắm bắt được, chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể tự chứng tri.

Khi Bồ-tát Diệu Cát Tường và các Đại sĩ vào cung vua giảng nói chánh pháp, vua nước Ma-già-đà đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Trong cung vua có ba mươi hai nữ nhân, sau khi thấy Bồ-tát Diệu Cát Tường dùng thần thông biến hóa, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Trong chúng hội có năm trăm người đạt được Pháp nhãn thanh tịnh. Tất cả dân chúng trong thành Vương xá đều đem hương hoa thơm đẹp nổi tiếng tụ tập trước cửa cung vua để cúng dường Bồtát Diệu Cát Tường và các đại chúng.

Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường cảm thấy thương xót tất cả dân chúng trong thành, để làm lợi ích cho họ, Bồ-tát bèn dùng ngón chân đặt xuống đất. Tức thì mặt đất đều thành màu phệ-lưu-ly trong suốt sáng rỡ thấu cả trong lẫn ngoài.

Khi ấy, trong thành tất cả dân chúng dù nam hay nữ cũng đều được thấy Bồ-tát Diệu Cát Tường và các đại chúng không bị chướng ngại. Ví như gương tròn trong sáng chiếu rõ mặt của mình, tất cả dân chúng đều chiêm ngưỡng thân tướng của Bồ-tát cũng như vậy. Lúc đó, Bồ-tát Diệu Cát Tường vì họ mà giảng nói pháp có tám vạn bốn ngàn người đạt được Pháp nhãn thanh tịnh, năm trăm người phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Sau khi Bồ-tát Diệu Cát Tường thọ sự cúng dường thức ăn uống của vua nước Ma-già-đà, vì vua mà giảng nói giáo pháp thì quyến thuộc trong cung vua cho đến tất cả dân chúng đều được lợi lạc, phát tâm hy hữu và rất vui mừng.

Bồ-tát Diệu Cát Tường liền đứng dậy, cùng đại chúng Bồ-tát lần lượt rời khỏi cung vua. Vua nước Ma-già-đà, đám tùy tùng cùng quyến thuộc lễ lạy bái tạ và theo các vị Bồ-tát đến pháp hội của Đức Phật. Bồ-tát đã ra khỏi cung vua và đi chậm rãi. Giữa đường, Bồ-tát thấy một người ở bên gốc cây khóc lóc thảm thiết, nói:

–Tôi đã tạo nghiệp sát sinh, thật đáng sợ hãi, đời sau nhất định bị đọa vào địa ngục, làm thế nào để tôi được cứu độ đây?

Thấy người này, Bồ-tát quán biết căn duyên của họ đã thành

thục, có thể hóa độ được. Bồ-tát liền hóa thành một người giống y như người kia, đến gần bên ông ta cũng khóc lóc thảm thiết, nói như vầy:

–Tôi tạo nghiệp sát sinh rất đáng sợ hãi, đời sau nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục.

Sau khi nghe vậy, người kia liền nói với hóa nhân:

–Tôi cũng tạo nghiệp sát sinh như vậy. Đã gặp nhau ở đây, ai có phương tiện để cứu độ được?

Hóa nhân liền nói với người kia:

–Chúng ta tạo tội rất nặng, dù rất lo sợ, nhưng không có ai cứu được, chỉ có Phật Thế Tôn mới có đại phương tiện để cứu độ được thôi. Chúng ta nên cùng nhau đến chỗ Phật.

Hóa nhân nói vậy xong rồi liền đi trước. Người kia thấy vậy cũng đi theo đến chỗ Phật. Sau khi đến pháp hội của Phật, hóa nhân đem đầu mặt lễ lạy sát chân Phật và thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con tạo nghiệp sát sinh sợ bị đọa nơi địa ngục, cúi xin Phật từ bi cứu độ!

Thế Tôn liền khen:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Nay ở trước Phật ông đã nói lên lời thành thật. Việc ông làm gọi là nói một cách chân thật. Theo lời ông đã nói, người tạo nghiệp sát sinh thì với ông, từ nơi tâm nào mà có tướng tội, là quá khứ, vị lai hay hiện tại? Nếu khởi tâm quá khứ thì quá khứ đã diệt, tâm không thể nắm bắt được. Nếu khởi tâm vị lai thì vị lai chưa đến, tâm không thể nắm bắt được. Nếu khởi tâm hiện tại thì hiện tại không dừng nên tâm cũng không thể nắm bắt được. Ba đời đều không thể nắm bắt được tức là không tạo tác. Vì không tạo tác nên thấy tướng của tội ấy ở đâu?

Này thiện nam! Tâm không chỗ trụ, không ở bên trong, bên ngoài hay chặng giữa, tâm không có sắc tướng, chẳng phải xanh vàng, đỏ, trắng. Tâm không tạo tác vì không có người tạo. Tâm chẳng phải huyễn hóa vì vốn chân thật. Tâm không có biên giới vì chẳng hạn lượng. Tâm không lấy, bỏ vì chẳng phải thiện ác. Tâm không động chuyển vì chẳng sinh diệt. Tâm như hư không vì không chướng ngại. Tâm không nhiễm tịnh vì lìa tất cả số lượng.

Này thiện nam! Những người có trí nên quán như vậy. Ai quán như vậy tức là cầu tất cả pháp nhưng tâm không thể nắm bắt. Vì sao? Vì tự tánh của tâm tức là tánh của các pháp. Tánh không của các pháp là tánh chân thật. Do nghĩa này, ông không nên lầm lạc mà sinh sợ hãi.

Nghe Phật giảng nói pháp chân thật, hóa nhân rất vui mừng và thưa với Phật:

–Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói rõ về tự tánh thanh tịnh của pháp giới. Con nay ngộ được tánh không của nghiệp tội nên không sợ hãi. Con muốn ở trong Phật pháp được xuất gia tu đạo, giữ phạm hạnh. Cúi xin Đức Thế Tôn thâu nhận con.

Phật nói:

–Hay thay! Này thiện nam! Nay đã đúng lúc ta thâu nhận ngươi.

Khi ấy, chỉ trong chốc lát, hóa nhân râu tóc tự rụng, ca-sa mặc vào thân thành tướng Bí-sô và bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bây giờ con nhập Niết-bàn, cúi xin Phật cho phép.

Phật nói:

–Tùy ý.

Khi ấy, nhờ diệu lực nơi oai thần của Phật, hóa nhân liền vọt lên hư không cao bảy cây đa-la, hóa lửa tự thiêu thân không còn gì cả, giống như hư không kia.

Sau khi thấy hóa nhân xuất gia và nghe Phật thuyết pháp, người tạo nghiệp thật liền suy nghĩ: “Người này tạo nghiệp tội giống như ta, mà được giải thoát trước. Ta cũng nên cầu xin Phật hóa độ.” Suy nghĩ xong, liền lễ lạy sát chân Phật và thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con tạo nghiệp sát sinh sợ đời sau bị đọa vào đại địa ngục, cúi xin Phật từ bi rủ lòng cứu độ.

Phật nói:

–Lành thay, này thiện nam! Ở trước Phật, ông đã nói lên lời thành thật. Nghiệp ông đã tạo sinh ở tâm nào? Tướng của tội nghiệp ra sao?

Vì người này do căn lành đã thành thục nên sau khi nghe Phật hỏi thì từ các lỗ chân lông trên thân phát ra lửa dữ, cháy xung quanh thân ông. Ông ta liền thưa:

–Con nay quy y Phật, xin Phật rủ lòng cứu độ con.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn duỗi cánh tay vàng lên trên đỉnh đầu ông ta. Lập tức lửa trên thân của người ấy liền dập tắt, không còn khổ não và được an lạc lớn, với lòng tin thanh tịnh, chắp tay thưa trước Phật:

–Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Trước đây con nghe Phật giảng nói pháp thanh tịnh, pháp giới, lìa tướng. Nay con được giác ngộ về tánh không của nghiệp tội nên không còn tư tưởng sợ hãi. Con cũng muốn ở trong pháp Phật được xuất gia tu trì phạm hạnh, cúi xin Phật thâu nhận con.

Phật nói:

–Lành thay! Đã đúng lúc ta thâu nhận ngươi.

Tức thời râu tóc của người này tự rụng, ca-sa mặc vào thân thành tướng Bí-sô như người trăm tuổi lạp. Các căn ổn định, oai nghi đỉnh đạc, sở nguyện được viên mãn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn giảng pháp Tứ đế cho ông ta. Nghe pháp xong, ông ta liền xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn thanh tịnh, lại quán rất kỹ về đế lý. Ngay trong pháp hội, ông ta chứng quả A-lahán và bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bây giờ con muốn nhập Niết-bàn cúi xin Phật cho phép.

Phật nói:

–Tùy ý.

Khi ấy, Bí-sô bèn vọt lên hư không cao bảy cây đa-la hóa lửa tự thiêu thân không còn gì cả. Lúc đó, trong pháp hội có một trăm ngàn trời người phát tâm hy hữu đều cung kính lạy Phật.

 

QUYỂN 6

Sau khi thấy người tạo nghiệp sát sinh kia theo Phật xuất gia, chứng đắc quả Thánh với việc hy hữu như vậy, Tôn giả Xá-lợi Tử thưa Phật:

–Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Như Lai có lòng đại Từ bi dùng phương tiện thiện xảo, giảng nói chánh pháp. Người đã tạo nghiệp sát kia gốc tội rất nặng mà chỉ trong chốc lát Như Lai đã cứu độ, khiến người ấy được giải thoát. Đây chính là do diệu lực từ phương tiện của chư Phật, Như Lai. Pháp mà Ngài đã nói đều là cảnh giới của chư Phật. Chỉ có Đại sĩ Diệu Cát Tường và các Bồtát mặc giáp tinh tấn mới hiểu rõ, thông suốt. Đó chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác chúng con. Vì sao? Vì các hàng Thanh văn trí tuệ cạn hẹp, căn cơ của chúng sinh còn không thể phân biệt được, thì sao có thể hiểu rõ về pháp của phương tiện.

Phật nói:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Cảnh giới của chư Phật chỉ có các Bồ-tát đạt đầy đủ pháp Nhẫn mới có thể hội nhập. Hàng Thanh văn các ông mặc dầu lìa kiến chấp về Bổ-đặcgià-la, nhưng chỉ cầu Niết-bàn tự lợi. Mặc dầu tu tập công đức hạnh Đầu-đà nhưng cũng chỉ thích cầu đầy đủ về giới, định, tuệ, không thích tu học pháp của chư Phật, làm việc gì cũng có tướng, có ngại, cho nên đối với cảnh giới của Phật đều có thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi Tử! Ông nên biết người tạo nghiệp sát được hóa độ vừa rồi đã từng cung kính, cúng dường, trồng căn lành với năm trăm Đức Phật và cũng từng được nghe pháp như vậy. Cho nên người này nay ở trước ta được nghe giảng chánh pháp, nhờ sức từ căn lành xưa kia mà được thấy lý chân thật của các pháp, như pháp mà giải thoát.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu người nào được nghe chánh pháp này dù chỉ nghe một bài kệ bốn câu thì người ấy không bị đọa vào các cõi ác, dứt khổ não, được giải thoát và nhất định thành tựu Nhất thiết trí của Phật, huống gì còn thọ trì đọc tụng như pháp mà tu hành. Công đức người ấy đạt được là vô lượng, vô biên.

Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường cùng chúng Đại Bồ-tát, các đại Thanh văn Ca-diếp… và vua nước Ma-già-đà với quyến thuộc đồng thời trở về pháp hội của Phật Thích-ca Mâu-ni nơi núi Thứu phong. Sau khi đến chỗ Phật, tất cả đều lễ lạy sát chân Đức Thế Tôn và lui đứng qua một bên.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử nói với vua Ma-già-đà:

–Pháp hy hữu Đại thừa mà vua ưa thích, Bồ-tát Diệu Cát Tường đã khai thị giảng nói, như vậy với pháp ấy vua thật sự đã hiểu rõ rồi chăng?

Vua trả lời:

–Thưa Tôn giả! Tôi đã hiểu rõ về pháp hy hữu.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi:

–Vua hiểu rõ như thế nào?

Vua trả lời:

–Theo ý của tôi thì đối với tất cả pháp lìa các nhiễm chấp, không được không mất, chẳng nắm bắt, chẳng xả bỏ, chẳng phải cảnh giới của tâm, tướng không thể nắm bắt tức là pháp chân thật, hiểu rõ như vậy nên dứt hẳn các nghi ngờ, tất cả các chướng lụy không do đâu mà sinh.

Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Căn lành của vua Ma-già-đà đã thành thục, ưa thích mùi hương pháp sâu xa của Đại thừa, thấy được pháp vô sinh, tận trừ các nghiệp chướng. Như vậy là thật sự đã diệt tận hay là còn? Việc này như thế nào cúi xin Phật hãy giảng nói cho con!

Phật bảo:

–Này Xá-lợi Tử! Nghiệp chướng hiện có của nhà vua này đều tiêu hết, không còn. Này Xá-lợi Tử! Ví như hạt cải lượng của nó rất nhỏ, núi chúa Tu-di có thể nghiền nát nó được không? Ông nên biết, nghiệp chướng của vua giống như hạt cải, còn pháp thâm diệu mà ta đã giảng nói giống như núi chúa kia. Cho nên vua ấy được nghe pháp thâm diệu thì đâu còn chướng lụy nào mà không diệt tận.

Tôn giả Xá-lợi Tử thưa:

–Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Vua này thật là lợi căn sáng suốt, có thể nghe pháp, hiểu rõ và diệt sạch các chướng. Như những gì Phật nói là chân thật không hư dối.

Phật nói:

–Này Xá-lợi Tử! Vua này đã từng cung kính, cúng dường, trồng các căn lành với bảy mươi hai câu-chi Đức Phật ở thời quá khứ. Sau khi nghe chánh pháp từ nơi chư Phật ấy, nhờ căn lành đó nên về đời vị lai vua nhất định chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồđề.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ông có thấy Bồ-tát Diệu Cát Tường này không?

Tôn giả Xá-lợi Tử trả lời:

–Thưa đã thấy.

Phật nói:

–Nay vua nước Ma-già-đà này có nhân duyên lớn với Bồ-tát Diệu Cát Tường. Này Xá-lợi Tử! Về quá khứ có kiếp tên Vô cấu, có Phật ra đời hiệu là Diệu Tý. Trong kiếp ấy lại có ba câu-chi Đức Phật hiện ra đời. Chư Phật kia đều do Bồ-tát Diệu Cát Tường khai mở tâm đạo. Chư Phật Như Lai ấy sống rất lâu, chuyển đại pháp luân làm lợi ích cho chúng sinh. Trong kiếp đó, vua nước Ma-già-đà đã được gặp Bồ-tát Diệu Cát Tường giáo hóa mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Sau khi phát tâm, vua đã trồng các căn lành nơi chư Phật Thế Tôn ấy mà nghe, thọ pháp hy hữu của Đại thừa.

Này Xá-lợi Tử! Ông nay nên biết, nhờ nhân duyên căn lành sâu dày đó mà sau khi vua Ma-già-đà qua đời, vượt qua bốn trăm cõi Phật ở phương trên có cõi Phật tên Trang nghiêm, Đức Phật nơi cõi đó hiệu là Bảo Tụ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhà vua sẽ sinh vào cõi Phật ấy, cũng gặp Bồ-tát Diệu Cát Tường, nghe thọ pháp thâm diệu. Nghe rồi vua hiểu rõ ràng và chứng pháp Nhẫn vô sinh. Cho đến đời vị lai, Bồ-tát Từ Thị nơi cõi Ta-bà này sau khi thành tựu đạo quả Vô thượng chánh giác, thì vua Ma-già-đà ấy từ cõi Phật Trang nghiêm kia sẽ sinh đến, ở trong pháp của Như Lai Từ Thị, được làm Bồ-tát tên là Vô Động, lúc ấy vua cũng gặp Bồ-tát Diệu Cát Tường. Bấy giờ, Như Lai Từ Thị sau khi giảng nói lại pháp cho Bồ-tát Vô Động đã được nghe từ thuở quá khứ, bèn nói với đại chúng:

–Các ông có thấy Bồ-tát Vô Động kia không? Bồ-tát này đâu phải người nào xa lạ, chính là vua nước Ma-già-đà trong pháp hội của Phật Thích-ca Mâu-ni ở quá khứ. Vị này được nghe thọ chánh pháp nơi Bồ-tát Diệu Cát Tường và được đắc pháp Nhẫn vô sinh.

Phật bảo:

–Này Xá-lợi Tử! Khi Như Lai Từ Thị giảng nói pháp vi diệu cho Bồ-tát Vô Động, trong chúng hội có tám ngàn Bồ-tát chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, hai vạn bốn ngàn các tiểu Bồ-tát tiến lên Sơ địa.

Này Xá-lợi Tử! Từ đó về sau, Bồ-tát Vô Động ấy tu hành trong tám trăm a-tăng-kỳ kiếp, làm thanh tịnh cõi Phật giáo hóa chúng sinh hướng vào địa Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát, khiến cho các chúng sinh diệt trừ tất cả nghiệp chướng, hiểu rõ chánh pháp, dứt hết nghi ngờ.

Sau khi trải qua tám trăm a-tăng-kỳ kiếp, Bồ-tát Vô Động ở thế giới Vô nhiễm sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề, hiệu là Thanh Tịnh Cảnh Giới Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười tôn hiệu. Đức Phật ấy sống bốn trung kiếp, chánh pháp trụ ở đời một câu-chi năm, có bảy mươi vạn chúng Thanh văn đều đầy đủ ba Minh, sáu Thông, đắc tám Giải thoát. Có mười hai câu-chi chúng Đại Bồ-tát, tất cả đều đầy đủ phương tiện trí tuệ. Tất cả chúng sinh nơi cõi đó đều ưa thích pháp sâu xa. Đức Phật Như Lai ấy giảng nói rộng rãi khắp nơi, chúng sinh nghe pháp đều giác ngộ, lìa các phiền não, thân tâm thanh tịnh và không còn tưởng về tướng ngã.

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng nói việc vua Ma-giàđà sẽ thành Phật cho Tôn giả Xá-lợi Tử nghe, trong pháp hội có ba vạn hai ngàn Thiên tử phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, họ cùng phát nguyện:

–Con nguyện sẽ được sinh vào thế giới Vô nhiễm để thấy Đức Như Lai Thanh Tịnh Cảnh Giới thành đạo Chánh giác.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền thọ ký cho họ:

–Các vị sẽ được sinh vào thế giới đó, để thấy Như Lai ấy thành tựu đạo quả Chánh giác.

Thuở đó, vua nước Ma-già-đà có một thái tử tên Nguyệt Cát Tường vừa mới tám tuổi, trước đây có theo phụ vương đến pháp hội của Phật. Sau khi nghe pháp của Phật, thái tử tự cởi các thứ châu báu, anh lạc đeo nơi cổ, dâng lên cúng dường Đức Phật và nguyện như vầy:

–Nay con xin dâng cúng Phật để được căn lành mà hồi hướng đến đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Con nguyện vào đời sau được sinh trong cõi Đức Như Lai Thanh Tịnh Cảnh Giới làm Kim luân vương trọn đời, con đem tứ sự cúng dường Đức Phật ấy và chúng Bí-sô. Sau khi Phật ấy diệt độ, con sẽ thâu lấy xá-lợi của Phật mà cung kính cúng dường. Con nguyện tiếp tục ở cõi Phật đó chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Thái tử Nguyệt Cát Tường phát nguyện xong, nhờ diệu lực từ oai thần của Phật nên anh lạc được cúng dường đã trụ trong hư không, phía trên Đức Phật biến thành lầu bảy báu, bên trong có tòa bảy báu, trên tòa có Phật ngồi kiết già, trang nghiêm, đầy đủ tướng tốt.

Bấy giờ, từ giữa chặng mày của Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng nhiều màu xanh vàng, đỏ, trắng, hồng, lục, tỏa chiếu khắp vô biên thế giới, lên đến cõi Phạm thế che lấp cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Ánh sáng ấy tỏa chiếu xong thì trở lại bao quanh Phật ba vòng rồi nhập nơi vào đỉnh đầu của Đức Thế Tôn.

Tôn giả A-nan đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay thưa trước Phật, nói kệ:

Đại Mâu-ni đã đến bờ kia
Đầy đủ các công đức thù thắng
Được trời, người, thế gian tôn quý
Bậc Nhất thiết trí lìa các chấp.
Căn tánh, tâm hành của chúng sinh
Như Lai đều biết rõ tận tường
Giảng pháp diệu làm lợi quần sinh
Bậc tối thắng hơn cả thế gian.
Ánh sáng lớn hy hữu phóng ra
Chiếu khắp tất cả cõi mười phương
Câu-chi na-do-tha chúng sinh
Nhờ ánh sáng chiếu được an ổn.
Bậc Thiện Thệ đã đủ mười Lực
Niệm tuệ viên mãn xuất thế gian
Biết rõ tâm, việc làm chúng sinh
Giảng pháp đoạn nghi không ai bằng.
Tất cả Phạm vương và Đế Thích
Mặt trời, trăng, sao các cõi trời
Nghe Phật giảng nói môn pháp diệu
Xa lìa phiền não được an ổn.
Như Lai tối thắng trong tất cả
Chúng sinh nào nghi được giải bày
Duyên gì nay phóng ánh sáng ấy
Xin Phật Từ bi nói cho con.

Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

–Ông có thấy thái tử Nguyệt Cát Tường chăng?

Tôn giả A-nan thưa:

–Dạ thưa, con đã thấy.

Phật nói:

–Trong quá khứ, thái tử này đã tu hạnh Bồ-tát, cúng dường Như Lai để trồng sâu căn lành. Do cơ duyên ấy đã thành thục, nay ở trước ta phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nêu bày đại thệ nguyện, vì thế mà Như Lai phóng ra ánh sáng này.

Này A-nan! Vào đời vị lai trong pháp của Đức Như Lai Thanh Tịnh Cảnh Giới ở cõi Vô nhiễm, thái tử này làm Kim luân vương cúng dường Đức Phật ấy và chúng Bí-sô. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, vương lại thâu lấy xá-lợi để cung kính cúng dường. Vị Kim luân vương ấy qua đời thì sinh vào cõi trời Đâu-suất. Sống trong thế giới Vô nhiễm mãn một kiếp, Kim luân vương chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề, tên là Nhật Tràng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười tôn hiệu. Đức Phật Thế Tôn ấy và tất cả chúng Bồ-tát Thanh văn đều có tuổi thọ như nhau.

Được nghe Đức Phật thọ ký cho thái tử Nguyệt Cát Tường, các chúng Bồ-tát từ phương khác đến pháp hội đều bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Bồ-tát Diệu Cát Tường ở nơi nào cũng làm đại Phật sự, đem lại lợi ích cho chúng sinh không uổng phí. Vì sao? Vì Đức Phật và Bồ-tát với tâm đại Bi làm các phương tiện, ở nơi thành ấp, đô thị cho đến khắp cả xóm làng đều vì các chúng sinh mà giảng pháp giáo hóa, để các chúng sinh nghe pháp được giải thoát, lìa các sợ hãi, đoạn trừ tất cả phiền não, chướng nặng. Hôm nay chúng con được ở đây nghe Đức Phật và Bồtát Diệu Cát Tường giảng nói pháp diệu và thấy việc hy hữu phóng ánh sáng, làm lợi ích chúng sinh thật không uổng phí.

Đức Thế Tôn bảo các Bồ-tát:

–Này các Thiện nam! Đúng vậy! Đúng vậy! Phật và Bồ-tát ở nơi nào cũng vì các chúng sinh giảng nói chánh pháp, hành hóa Phật sự, nên quán nơi ấy như tháp của Phật. Vì sao? Vì trong đời quá khứ ta gặp Đức Như Lai Nhiên Đăng, vì ta có lòng tin sâu sắc nên đã trải tóc trên đất để nâng chân Đức Phật. Ta liền chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh.

Biết ta đã đắc pháp Nhẫn vô sinh, Đức Như Lai Nhiên Đăng liền thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề cho ta và nói:

–Qua a-tăng-kỳ kiếp về đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười tôn hiệu.

Sau khi thọ ký cho ta, Đức Phật Nhiên Đăng nói với chúng Bísô:

–Ở đất này các ông nên có ý tưởng tôn trọng đừng khinh khi. Vì sao? Vì ở đất này có thiện nam trải tóc trên đất để nâng chân Thế Tôn. Do diệu lực thù thắng ấy mà đạt được đầy đủ pháp Nhẫn, làm cho tất cả hàng trời, người ở vùng đất này chiêm ngưỡng, cung kính, giống như tháp của Phật không khác.

Lúc Đức Phật Nhiên Đăng giảng nói như vậy, có tám mươi câu-chi trời, người đồng thanh thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con ở đất này có lòng tôn trọng cung kính như tháp của Phật.

Khi ấy, trong pháp hội có một trưởng giả tên Hiền Thiên, bạch Phật Nhiên Đăng:

–Nay con xây tháp bảy báu ở đây để các chúng sinh chiêm ngưỡng lễ lạy đạt được phước đức.

Theo lời nói, trưởng giả sinh tâm hy hữu, tập trung tất cả châu báu xây một ngọn tháp cao rộng đẹp đẽ, trang hoàng đủ loại. Công trình ấy rất nguy nga, chẳng phải làm một ngày mà hoàn thành. Sau khi xây tháp xong, trưởng giả liền đến thưa Phật Nhiên Đăng:

–Bạch Thế Tôn! Con đã xây xong ngọn tháp bảy báu rất đẹp, vậy đời sau con được bao nhiêu phước?

Phật nói:

–Này trưởng giả! Nếu có thiện nam nào ở nơi vùng đất của Đại Bồ-tát đã chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh chọn đào lấy đất ấy xuống tới đụng nước, rồi lấy đất này cung kính cúng dường thì phước đạt được hãy còn như là cúng dường tháp miếu của Phật, huống chi là nay ông với lòng tin thanh tịnh, xây tháp bảy báu nên phước đức đạt được nhiều gấp bội người kia, vô lượng, vô biên không thể lường tính.

Phật Nhiên Đăng lại nói với trưởng giả Hiền Thiên:

–Hôm nay ở đây, ông trồng sâu căn lành thì vào đời vị lai sẽ được Phật Thích-ca Mâu-ni thọ ký đạo quả Vô thượng chánh giác.

Vì các Bồ-tát từ phương khác đến pháp hội, Đức Phật Thích-ca đã nói về nhân duyên thọ ký thuở xưa và bảo các Bồ-tát:

–Các ông nên biết! Khi xưa ta đã trồng căn lành nơi Phật Nhiên Đăng, nên nay ta được thành Phật. Lúc ấy, ta đã đạt được địa của pháp Nhẫn, được trời người ở đó cung kính như tháp Phật. Hôm nay các ông ở nơi vùng đất này cũng nên có lòng tôn kính.

Lại nữa, này các Bồ-tát! Các ông nên biết! Trưởng giả Hiền Thiên thuở ấy không phải người nào lạ nay chính là trưởng giả Hiền Thiên này đây, vì trong pháp thuở ấy cũng tên là Hiền Thiên. Đời sau, vị này sẽ được thành Phật, hiệu là Thiện Kiến Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đầy đủ mười tôn hiệu.

Lại nữa, này các Bồ-tát! Pháp thâm diệu ta đã giảng nói, nếu có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào thọ trì tụng đọc, giảng nói cho người khác, thì nơi vị ấy ở được trời người cung kính, tôn trọng như tháp Phật không khác.

Lại nữa, này các Bồ-tát! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào tu hạnh bố thí, tập trung bảy báu đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, ngày đêm sáu thời cúng dường chư Phật và chúng Bí-sô, như vậy cho đến kiếp tận cũng không bằng đối với chánh pháp vị tằng hữu này mà nghe, thọ trì, đọc tụng dù chỉ mỗi một bài kệ bốn câu thì công đức của vị này nhiều hơn gấp bội vị trước.

Lại nữa, nếu người nào tu hạnh trì giới, trong một kiếp giữ giới pháp của Phật không hủy phạm, viên mãn tất cả công đức của tịnh giới, cũng không bằng đọc tụng thọ trì chánh pháp này. Công đức này nhiều hơn trước cả ngàn phần.

Lại nữa, nếu người nào tu hạnh nhẫn nhục, trong một kiếp luôn tu nhẫn nhục đối với tất cả chúng sinh không sân giận, làm hại, đạt được hạnh nhẫn viên mãn như vậy, nhưng cũng không bằng đọc tụng thọ trì chánh pháp này rồi như pháp mà tu hành, đạt được pháp nhẫn, đầy đủ công đức, như vậy là tối thượng.

Lại nữa, nếu người nào tu tinh tấn, trong một kiếp siêng năng giáo hóa tất cả chúng sinh, tâm không chút biếng trễ, đạt được tinh tấn viên mãn nhưng không bằng thọ trì đọc tụng chánh pháp này, công đức đạt được nhiều gấp bội ở trước.

Lại nữa, nếu có người nào tu thiền định, trong một kiếp trụ trong định, nhất tâm chuyên chú, xa lìa các tán loạn, đạt được hạnh định viên mãn như vậy cũng không bằng thọ trì đọc tụng chánh pháp này, công đức đạt được nhiều gấp bội ở trước.

Lại nữa, nếu người nào tu trí tuệ, trong một kiếp tu các phương tiện trí tuệ, đạt được trí tuệ viên mãn như vậy, nhưng không bằng nghe, thọ trì, đọc tụng chánh pháp này, công đức đạt được là lớn lao vô lượng, sớm viên mãn quả Nhất thiết trí.

Nghe Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng nói về công đức sâu xa của pháp này, các Bồ-tát từ phương khác đến pháp hội, đều thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con nghe, thọ pháp này, khi trở về trú xứ sẽ giảng nói rộng khắp cho mọi người để các chúng sinh đều được lợi ích.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói:

–Lành thay! Lành thay! Này các Thiện nam! Các ông nên làm cho pháp này được truyền bá khắp, hãy vì các chúng sinh mà thi hành Phật sự.

Lúc này, các vị Bồ-tát ấy bèn tung rải hoa đẹp đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Bồ-tát Diệu Cát Tường, rồi nói:

–Nguyện cho chánh pháp này tồn tại lâu dài trong cõi Diêmphù-đề để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nguyện Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Bồ-tát Diệu Cát Tường sống lâu nơi thế gian, phóng ra ánh sáng pháp để chiếu soi khắp chúng sinh. Hôm nay, chúng con được dự vào pháp hội này, được thấy Phật Thế Tôn, được nghe nói pháp diệu là đều nhờ Bồ-tát Diệu Cát Tường khuyên dạy. Giả sử chúng con xả bỏ đầu mắt tay chân của mình để cúng dường cũng còn không thể báo trọn ân của Bồ-tát. Nay tung rải hoa này chưa gọi là báo ân cúng dường. Cho nên nếu có thiện nam, thiện nữ nào được thấy chư Phật, được nghe chánh pháp, giả sử xả bỏ đầu mắt tay chân của mình cũng không bao giờ báo ân hết cho chư Phật. Cho nên đối với Phật, Bồ-tát và các kinh pháp cần phải có lòng tin thanh tịnh, tôn kính, cúng dường, đừng xem thường và có ý tưởng nghi ngờ. Ai có ý tưởng như vậy sẽ mắc trọng tội.

Nói xong, các Đại Bồ-tát từ phương khác đến pháp hội đều cung kính lạy sát chân Đức Thế Tôn, đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi biến mất khỏi pháp hội trở về nơi cõi Phật của mình. Mỗi vị ở trước mỗi Đức Phật thưa:

–Ở cõi Ta-bà, con được nghe Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Đại Bồ-tát Diệu Cát Tường giảng nói chánh pháp. Sau khi thọ trì, con sẽ giảng nói rộng rãi cho chúng sinh ở đây, để tất cả các chúng sinh nhất định chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ Tôn giả Đại Ca-diếp thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chánh pháp này rất là hy hữu, con đã thấy Bồ-tát Diệu Cát Tường thọ nhận thức ăn cúng dường trong cung của vua nước Ma-già-đà, Bồ-tát giảng nói pháp ấy cho vua và nhà vua đã chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, con cũng tùy hỷ nghe, thọ pháp ấy, tự thầm trách mình, nên rất vui mừng.

Bạch Thế Tôn! Về đời sau cùng, nếu có chúng sinh nào nghe chánh pháp này, hiểu một cách đúng đắn thì người ấy mới có thể biết được tự tánh của pháp, đoạn trừ các nghi ngờ, đương lai nhất định thành tựu đạo quả Đẳng chánh giác.

Phật nói:

–Này Ca-diếp! Lành thay! Lành thay! Ông nói lời ấy thật rất hoàn hảo. Nếu các chúng sinh nào sau khi nghe pháp này vào đời vị lai chắc chắn sẽ chứng quả Bồ-đề của Phật.

Đức Phật bảo Bồ-tát Từ Thị:

–Ông nay nên thọ trì pháp này vào đời rốt sau hãy giảng nói rộng khắp, lưu truyền để cho các chúng sinh được lợi ích, được an lạc lớn.

Bồ-tát Từ Thị thưa:

–Theo lời Thế Tôn chỉ dạy, con xin sẽ thọ trì. Bạch Thế Tôn! Ở nơi Phật thời quá khứ con cũng đã từng nghe, thọ pháp này. Nay ở trước Phật, con lại được nghe, thật là hân hạnh sung sướng. Vào đời sau, con sẽ hộ trì, giảng nói, truyền bá để pháp này tồn tại lâu dài, đến khi qua đời, con sinh lên cõi trời Đâu-suất, ở đấy, nếu có chúng sinh nào căn tánh thành thục, ưa thích pháp Đại thừa thì con cũng khai thị giảng nói để người ấy phát tâm đạo, còn ở cõi Diêm-phù-đề thì không khiến bị đứt đoạn. Lại trong đời mạt pháp, có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng chánh pháp này, nếu bị các ma làm nhiễu loạn thì khi đó con bí mật đến các nơi ấy hết lòng bảo vệ, không để các ma làm hại.

Bạch Thế Tôn! Trong đời mạt pháp, nếu ai được nghe pháp này, rồi đọc tụng, y như pháp tu hành, thì nên biết đó là do oai thần của Phật kiến lập.

Bấy giờ Đức Phật bảo Thiên chủ Đế Thích:

–Này Kiều-thi-ca! Ông hãy thọ trì, ghi nhớ chánh pháp này để ủng hộ cho đời sau cùng. Vì sao? Vì pháp này có thể đoạn trừ các nghi ngờ, có thể làm sạch các nghiệp chướng, bình đẳng với các pháp, lại có oai lực lớn.

Đế Thích nên biết! Nếu gặp lúc đánh nhau với chúng A-tu-la ông nên ghi nhớ pháp này, sẽ được chiến thắng, còn A-tu-la sẽ rút lui.

Lại nữa, nếu ai ở trong các nạn như nạn vua, nạn giặc cướp, nạn hổ lang, trùng, thú, kẻ ác mà tư duy, ghi nhớ pháp này thì người ấy sẽ tránh xa được các nạn.

Thiên chủ Đế Thích thưa:

–Theo Thế Tôn chỉ dạy, con sẽ hộ trì pháp ấy vào đời sau cùng. Nếu thành ấp, đô thị, xóm làng, chỗ nào có pháp ấy, con sẽ đến đó cung kính, cúng dường. Có ai trì giữ pháp này thì con sẽ đến bảo vệ, giúp đỡ.

Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Tôn giả hãy thọ trì chánh pháp này của ta vào đời sau cùng dốc sức giảng nói lưu truyền rộng khắp nơi các chúng sinh. Vì sao? Vì pháp này thâm diệu xưa chưa từng có. Nếu người nam, người nữ nào thọ trì pháp ấy thì chấm dứt được các nghi ngờ, diệt trừ tất cả phiền não, cấu uế cho nên Tôn giả phải ghi nhớ, thọ trì.

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con nhờ nơi oai thần của Phật gia hộ vào đời sau cùng, sẽ giảng nói rộng pháp này, để các chúng sinh đều được lợi ích.

Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Chúng con phụng hành như thế nào?

Phật nói:

–Này A-nan! Kinh này tên là Vị Tằng Hữu Chánh Pháp, nên thọ trì như vậy.

Sau khi Đức Thế Tôn phó chúc lại cho các Bồ-tát, Thanh văn và Đế Thích, thì Đức Thế Tôn ngay trong pháp hội từ hai bên thân phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả thế giới nơi mười phương. Trong ánh sáng ấy phát ra âm thanh vi diệu bảo đại chúng:

–Chánh pháp mà Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã giảng nói dù cho kiếp hoại, biển lớn có khô cạn đi nữa, nhưng chánh pháp này không hề bị hủy hoại, có thể đem lại lợi ích lớn cho chúng sinh.

Sau khi từ nơi ánh sáng phát ra âm thanh như vậy rồi thì ánh sáng ấy lại quay tròn quanh thân Phật.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

–Ông hãy giữ gìn lời nói của ta, đừng quên mất vào đời sau sẽ giảng rõ pháp ấy, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng nói Vị Tằng Hữu Chánh Pháp, có chín vạn sáu ngàn hàng trời, người xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn thanh tịnh, bảy trăm tám mươi vạn người phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, ba vạn hai ngàn Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh, tám mươi vạn Bí-sô không chấp giữ nơi các pháp, được lậu dứt sạch ý thông tỏ. Lúc này tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động sáu cách, cõi trời, cõi Dục, cõi Sắc ở trong hư không trổi lên trăm ngàn âm nhạc để cúng dường Thế Tôn và pháp đã giảng nói. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng nói chánh pháp này xong, tất cả các ma, ngoại đạo nghe được thảy kinh hãi nên đều quy y Đức Phật giống như Phật ban đầu chuyển pháp luân, chiến thắng Thiên ma. Pháp này là dấu ấn của chư Phật, là dấu ấn của đại pháp, là dấu ấn của giải thoát. Người nào có trí nên học như vậy, tu hành như vậy.

Sau khi Phật nói kinh này xong, vua nước Ma-già-đà cùng quyến thuộc, các Đại Bồ-tát Diệu Cát Tường…, các đại Thanh văn: Đại Ca-diếp, A-nan, Xá-lợi Tử, Mục-kiền-liên… cho đến trời, người nơi thế gian, các chúng A-tu-la, Càn-thát-bà… Nghe Phật giảng nói, thảy đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.