KINH VĂN-THÙ-SƯ-LỢI PHỔ SIÊU TAM-MUỘI

Hán dịch: Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: CHÁNH SĨ

Nghe như vầy:

Một thuở, Đức Phật hành hóa trên núi Linh thứu tại thành Vương xá cùng với chúng đại Tỳ-kheo gồm ba vạn hai ngàn vị, tám vạn ngàn Bồ-tát đều đạt đến bậc Thánh không chỗ nào chẳng sáng tỏ, là bậc Sa-môn Đại sĩ, đã đạt thần thông, đã được Tổng trì biện tài vô ngại, chứng đắc pháp nhẫn Vô sở trước bất khởi, hiểu rõ định hạnh, thấy được tâm của chúng sinh để tùy nghi hóa độ mà vì họ thuyết pháp, trời Tứ Thiên vương, trời Đế Thích, vua trời Phạm Nhẫn và còn vô số các trời, rồng thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Già-lưula, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, nhân phi nhân… mỗi loại có hàng trăm ngàn chúng đều đến trong hội.

Bấy giờ, Đồng chân Bồ-tát Nhuyễn Thủ đang ở trên sườn một ngọn núi khác, cùng với hai mươi lăm vị Chánh sĩ mà giảng luận đạo pháp. Tên các vị Bồ-tát đó là Bồ-tát Long Thủ, Bồ-tát Long Thí, Bồtát Thủ Cụ, Bồ-tát Thủ Tạng, Bồ-tát Liên Thủ, Bồ-tát Liên Thủ Tạng, Bồ-tát Trì Nhân, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Sư Tử Ý, Bồ-tát Sử Tử Bộ Lôi Âm, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Phát Ý Chuyển Pháp Luân, Bồ-tát Biện Chư Cú, Bồ-tát Biện Tích, Bồ-tát Hải Ý, Bồ-tát Đại Sơn, Bồ-tát Hỷ Kiến, Bồ-tát Hỷ Vương, Bồ-tát Sát Vô Ngạn, Bồ-tát Du Vô Tế Pháp Hạnh, Bồ-tát Siêu Ma Kiến, Bồ-tát Vô Ưu Thí, Bồ-tát Chư Nghị Cáo. Đó là hai mươi lăm vị Chánh sĩ. Trên trời Đâu-suất có bốn vị Thiên tử đều đứng hầu sau Bồ-tát Nhuyễn Thủ, những vị Thiên tử đó là: Thiên tử Phổ Hoa, Thiên tử Quang Hoa, Thiên tử Mỹ Hương, Thiên tử Thường Tấn Pháp Hạnh. Lại có nhiều vô số kể các Thiên tử khác đều đến đó đứng hầu.

Những Chánh sĩ, các Thiên tử ấy cũng đều ngồi lại lần lượt giảng giải, bàn luận hỏi rằng:

–Thưa Nhân giả! Muốn biết trí tuệ của Phật rộng khắp vô hạn, không thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lượng, không thể diệt độ đến cõi cùng cực, không thể dùng cái ý tưởng nhỏ mọn mà tư duy nguồn cội của áo giáp đại đức. Phải dùng cái phương tiện thệ nguyện gì để mặc áo giáp giới đức mà có thể đạt tới Đại thừa, Phật thừa, các thông tuệ thừa, bất khả tư nghị thừa, để cho những điều ấy ứng hợp với đạo ư?

Bồ-tát Long Thủ nói:

–Tích lũy công đức chẳng biết nhàm chán, kiến lập phúc lộc tốt lành chẳng thể hạn lượng mà chẳng hủy hoại áo giáp giới đức. Tất cả việc đã làm không mong cầu gì thì điều ấy ứng hợp với các thông tuệ của Đại thừa vậy.

Bồ-tát Long Thí nói:

–Tâm bình đẳng rộng khắp, điều hòa ý chí, tính thấm nhuần, ý nhu nhuyến, mà lòng nhân hậu kiên trì an trụ chính nguyện. Bằng các thông tuệ, mặc giáp giới đức, hóa độ sinh tử thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Thủ Cụ nói:

–Số kiếp nhiều không kể xiết hướng về Đại thừa, mặc giáp giới đức, đối với số kiếp chẳng nghĩ đến kiếp số thì ứng với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Thủ Tạng nói:

–Những ai tự kiến lập, an ổn cho riêng mình thì chẳng thể đạt đến thông tuệ của Đại thừa, bỏ sự an vui của mình, kiến lập cho chúng sinh, muốn cho luôn có sự an vui lớn, khiến chẳng cầu mong cũng không chỗ khởi. Khuyến tấn mọi người đứng vững nơi đạo pháp thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Liên Thủ nói:

–Này chư vị! Còn nhớ Như Lai đã giảng rằng: Giả sử có người tự chẳng nhu thuận, không có tịch tĩnh, chẳng theo Luật dạy mà muốn điều phục tịch tĩnh cho người khác, đem Luật khuyên người, thật chưa từng có vậy! Tự mình điều thuận tịch tĩnh, tuân theo luật pháp mới có thể hóa độ, khích lệ được kẻ cang cường, rối loạn, ức chế được kẻ phạm cấm giới. Như thế thì ứng hợp với các thông tuệ của Đại thừa vậy.

Bồ-tát Liên Thủ Tạng nói:

–Kẻ cùng ở trần lao sống theo pháp thế gian thì chẳng hóa độ được cuộc đời. Những ai chẳng cùng trần lao sống theo pháp thế gian thì mới có thể độ được đời. Vậy nên Bồ-tát có lợi, không lợi, hoặc khen, hoặc chê, có danh, không danh, hoặc khổ, hoặc vui, chẳng động, chẳng lay thì mới ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Trì Nhân nói:

–Không thể theo người khác mà đạt đến các thông tuệ Đại thừa. Ta riêng một mình mà không có bè bạn. Do vì chúng sinh nên thề mặc áo giáp đức, thiết lập sự hộ trì tất cả thì ta đã kịp thời đến cứu tế, ủng hộ, luôn tinh tấn dù trong chốc lát cũng chẳng biếng nhác, giáo hóa dân chúng, kiến lập, phát khởi học tập. Đó là ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Trì Địa nói:

–Ví như các Nhân giả được sự nâng đỡ của đất, tất cả các loại trái cây, trăm thứ hạt để ăn, dược thảo, cây cối đều nhờ đất mà sinh, nhưng đất không vứt bỏ thứ gì, cũng chẳng cầu báo đáp. Dân chúng, mọi thứ, mọi loài đều nhờ đất mà sống. Đất chẳng từ chối, chán nản, chẳng mệt nhọc, Khai sĩ, Đại sĩ cũng phải như vậy, phải phát tâm như đất, tâm không chỗ chấp trước, chẳng đem vui, giận khuyên bảo lê dân khiến họ hướng về Phật tuệ mà không nghĩ tưởng đến việc báo đền. Ấy là ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Bảo Chưởng nói:

–Nhân giả nên biết! Mặc giáp đức cao thượng mới đến được Phật tuệ, không thể bại hoại khiến phải bỏ Đại thừa, dù ở trong mộng cũng chẳng để tâm vào hai thừa: Thanh văn, Duyên giác, thường dùng tâm thật, các tâm thông tuệ, vì người giảng giải, tuyên nói với tấm lòng trân quý không chỗ tham trước, không chỗ ái kính, khuyên chúng Đại thừa thề mặc áo giáp đức. Học thừa của họ không phải không có thừa, chẳng tăng, chẳng giảm. Tâm họ như vậy, không chỗ kính mộ thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa.

Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói:

–Thấy chúng sinh rơi vào trong sáu đường mà phát tâm thương xót, ban ân huệ cho chúng sinh, làm người trao cho họ giáo pháp. Họ không tin thì làm người tạo cho họ lòng tin. Họ thiếu trí thì làm người giúp cho họ nghe rộng hiểu nhiều. Họ xan tham thì làm người làm cho họ có trí tuệ. Họ phạm giới thì làm người giúp họ hộ trì giới cấm. Họ sân hận thì làm người cho họ hạnh nhẫn nhục. Họ biếng nhác thì làm người giúp họ tinh tấn. Họ loạn ý thì làm người khiến họ được nhất tâm. Họ tà trí thì làm cho họ có trí tuệ. Cứ tùy theo chúng sinh xa rời pháp thanh tịnh nào mỗi mỗi đều ứng thời thiết lập đầy đủ các pháp đối trị. Bậc Khai sĩ tạo nhiều thủ ấn của gốc đức ấy, đưa đến ba món báu.

Những gì là ba? Đó là:

  1. Kiến lập đủ cho quần sinh trí tuệ Phật, khuyến khích, giúp đỡ họ đến với Bảo ấn thủ.
  2. Đã thành tựu cội gốc công đức là Bảo ấn thủ. 3. Nghĩ tất cả pháp như hư không là Bảo ấn thủ.

Kiến lập lên như thế nào là ba báu. Đó là ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Sư Tử Ý nói:

–Các Nhân giả nên biết! Nếu mặc áo giáp Vô úy thì không sợ hãi. Những áo giáp đức đã thề mang vào như: Áo giáp không khó, áo giáp không ngăn ngại, áo giáp không khiếp nhược, áo giáp không biếng nhác. Đó chính là Phật tuệ. Vậy hành giả chẳng nên kinh sợ, không khó, không ngại, không khiếp nhược, không biếng nhác, lìa khỏi ách nạn, chẳng rởn lông kinh sợ, từ đầu đến cuối không lỗi lầm dơ bẩn, cũng chẳng ngưỡng mong đức của Nê-hoàn, bình đẳng an trụ trong khổ vui mà không hai hạnh. Như vậy là ứng hợp với các thông tuệ của Đại thừa.

Bồ-tát Sư Tử Bộ Lôi Âm nói:

–Các Nhân giả nên biết! Những việc chẳng phải tài hạnh thấp hèn kia là đã kiến tạo nên người Chánh sĩ.

Người Chánh sĩ hướng về bình đẳng, rời khỏi tà kiến.

Người Chánh sĩ lòng chất phác mà không dua nịnh.

Người Chánh sĩ lao nhọc, khiêm nhường, nhu thuận, tôn thầy, kính Thánh.

Người Chánh sĩ siêng học, chẳng biết mệt mỏi. Đã học thì học đến tận nguồn gốc.

Người Chánh sĩ kính mừng chánh trị, kiến lập chánh nghiệp.

Người Chánh sĩ nếu có muốn là muốn xả bỏ những pháp ô uế. Người Chánh sĩ nếu có sân giận thì ý không có oán kết.

Người Chánh sĩ nếu có ngu si thì dùng trí tuệ chiếu trừ tối tăm.

Người Chánh sĩ tịch nhiên, rỗng lặng, gần với kho tàng định.

Người Chánh sĩ bố thí đầy đủ ân huệ và mọi tai nạn, bần khổ đều được cứu tế ngay.

Người Chánh sĩ giữ gìn thân, miệng, ý, trong sáng mà lặng yên.

Người Chánh sĩ lời nói việc làm tương ứng, tánh tình chất phác, ngay thẳng.

Người Chánh sĩ chí đã kiên cường, ưa chuộng pháp chân đế.

Người Chánh sĩ lìa phi pháp, gần gũi hộ trì chánh pháp, ưa hộ trì chánh pháp.

Người Chánh sĩ khinh thường thân mạng mình nhưng chẳng bỏ rơi chúng sinh.

Người Chánh sĩ đã vang dậy danh tiếng, thích bố thí nhưng lòng không ham thích.

Người Chánh sĩ chí thuần thục đạo pháp, tiêu trừ hóa giải hết hung ác, giả trá.

Người Chánh sĩ thì đem kho báu cứu tế nghèo thiếu.

Người Chánh sĩ là thuốc hay trị lành các bệnh tật.

Người Chánh sĩ hộ trì những kẻ sợ hãi, khiến họ được tự trở về.

Người Chánh sĩ dắt dẫn các tà kiến đến chỗ không bờ bến.

Người Chánh sĩ gắng sức tế độ nhọc nhằn, dơ bẩn, khuyên đến với kinh điển.

Người Chánh sĩ nhẫn nhịn điều hòa sân giận mà thuận theo điều cần nên làm. Vậy nên, kiến lập pháp của bậc chánh sĩ, đó chính là ứng hợp với các thông tuệ của Đại thừa vậy.

Bồ-tát Hư Không Tạng nói:

–Tu bằng lòng Từ vô lượng hư không. Hạnh tinh tấn kia chưa từng phế bỏ hạnh đại Bi, các căn vui mừng đều lộ vẻ hớn hở. Đối với các ái dục đã được vui sướng xem như hư không, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ đều cũng như hư không thì ứng hợp với các thông tuệ của Đại thừa vậy.

Bồ-tát Phát Ý Chuyển Pháp Luân nói:

–Phát tâm Bồ-tát, đã phát tâm thì chẳng nên phát tâm để cho ma phá hoại được, không để cho Như Lai vui mừng, không để cho trời người chẳng vui mừng, không để cho gốc đức bị hao tổn. Nếu muốn xây dựng đạo ý thì phải tùy thuận khuyến dụ, khiến cho chúng ma tệ ác chẳng làm hại được. Phát tâm mà thuận theo ý Như Lai thì trời, người vui mừng, chẳng mất gốc đức mà bản thân đã tạo nên. Tu được tất cả sự phát tâm như thế tức là chuyển bánh xe pháp. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy, các nhân duyên phát tâm của họ là không có chỗ sinh. Họ hiểu rõ các pháp hằng không sinh khởi. Chư Phật Như Lai thuận theo Chánh giác để chuyển pháp luân. Phát tâm mặc áo giáp giới đức như vậy là ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa.

Bồ-tát Biện Chư Cú nói:

–Người Chánh sĩ nên biết! Cái đạo tâm ấy là người Chánh sĩ vào khắp trần lao, sân hại, hữu lậu, vô lậu, hữu vi vô vi, cũng vào nơi tội lỗi mà không hệ lụy trong tội lỗi, cũng vào trong việc thiện, cũng vào pháp thế gian để độ pháp thế gian, cũng vào những điều chấp là đoạn diệt và thường còn, cũng vào những việc của các ấm, các suy, các nhập, cũng vào đất, nước, gió, lửa. Vì sao? Vì phần các nhân duyên đều tự nhiên. Cái tánh vốn thanh tịnh, ở đâu nếu đã có lời nói thì tất cả mọi thuyết giảng đều là rỗng không và không có sở hữu. Ví như hư không chỗ nào chẳng vào được. Đạo tâm như thế sẽ đến khắp tất cả, Bồ-tát với trí tuệ như thế thì trừ bỏ tất cả văn tự, biện tài, phân biệt được các trần là kiến lập được tuệ biện tài. Nếu có thể vào được Nhất thánh trí như thế tức là ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Biện Tích nói:

–Tất cả điều đã nói đều không có lời để nói. Tất cả âm thanh là những gì không thể có được. Bồ-tát với trí tuệ như thế thì lời tốt, lời xấu đều chẳng vui chẳng thích. Ví như núi Thái sơn, gió thổi đến thì liền bị dội lại mà núi chẳng lay động. Bồ-tát được như vậy thì đối với các học phái khác tất cả lời nói của chúng sinh chẳng làm lay động được. Các pháp ngoại đạo cũng không trụ chấp như Như Lai đã nói: Đối với pháp ngoại đạo các pháp khác phải quan sát, không vì đó mà để tăng giảm, cũng không rối loạn tâm mình. Thấy hết các biện tài, tất cả các pháp. Thấu rõ tường tận các pháp mà chẳng tự cao, cũng không chỗ suy nghĩ. Bồ-tát hay tu hành tuệ như thế thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Hải Ý nói rằng:

–Bồ-tát đã vào thì như vào biển, hiểu rõ đại đạo, tất cả Thanh văn chẳng thể bì kịp. Bồ-tát tin ưa chuyên tâm vào một pháp vị vào bao nhiêu pháp cũng không có nhiều pháp. Bồ-tát quan sát pháp thâm diệu chưa từng bị mê loạn. Đối với pháp duyên khởi chẳng tăng, chẳng giảm, đối với các kinh điển không thấy có nhiều. Đó gọi là không sinh, không khởi. Tất cả chúng sinh khởi nghiệp vì chẳng trồng gốc đức. Phước là không cùng tận. Việc giáo hóa không giới hạn. Bồ-tát phải phân biệt rõ, bỏ đi quan niệm đoạn diệt và thường còn, chẳng thọ lãnh các pháp, chẳng đoạn dứt các pháp phải kiến lâp ý chí làm vô lượng pháp khí. Bồ-tát chẳng quên xả pháp, tu tập các thông tuệ, cũng chẳng bỏ pháp đem pháp bình đẳng vì chúng sinh thuyết giảng. Bồ-tát phải tu tập tất cả các pháp thiện đức, đầy đủ vô số pháp Phật như thế. Đem tấm lòng như vậy mà mặc áo giáp giới đức thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Đại Sơn nói:

–Các Nhân giả nên biết! Thừa này vượt trên cả thế gian thì gọi là Phật tuệ. Hạnh ấy đã nhập vào thì chẳng thể hạn lượng. Do vậy nên vượt qua tất cả chí tánh của thế gian. Đã có thể vượt qua được hành vi thế gian thì chỗ tin tưởng vượt quá thế gian. Đã vượt quá thế gian về Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ cũng như vậy, đều có thể vượt qua tất cả tuệ của thế gian. Việc tạo phước hơn cả mọi phước lộc của thế gian. Như vậy mới ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Hỷ Kiến nói:

–Giả sử Bồ-tát mắt thấy sắc mà không ghét, sắc đó tự nhiên thì tâm kia thanh tịnh. Tai nghe tiếng cũng không ghét. Âm thanh tự nhiên thì tâm thanh tịnh. Mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, tâm hiểu các pháp. Đối với cõi sáu tình mà không ghét. Cõi sáu tình ấy tự nhiên vắng lặng thì tâm thanh tịnh. Không đem lòng yêu ghét thì tâm thanh tịnh. Quan sát chúng sinh thuận theo pháp Phật thì không pháp khí nào không tương ứng. Lại nữa chúng sinh ở trong tà kiến, cũng thấy như ở trong pháp khí của Phật. Người tự yêu mình, ở với vua chúa hoan hỷ theo tập tục, có dịp ban cho lại liền răn bảo, thì tôn kính ngang bằng như thế. Hành hóa của Bồ-tát Đại sĩ như thế thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừavậy.

Bồ-tát Hỷ vương nói:

–Giả sử có người mắng nhiếc, bài báng, khinh dễ, hủy nhục, đánh đập… Bồ-tát đối với việc này, lòng chẳng ôm hận mà còn vui mừng, đem tư tưởng bạn lành đối đãi với kẻ đối nghịch, thị hiện sức nhẫn để nhẫn nhục được. Trong lòng vui vẻ tư duy pháp ấy. La mắng chỗ nào? Ai là kẻ la mắng? Tin hiểu bên trong rỗng không. Tự thấy thân mình, lại thấy người khác thì hoan hỷ, liền có thể đem thân mạng, các chi phần như: đầu, mắt, tay, chân, vợ, con trai, con gái, quốc gia, thành ấp, xóm làng, của cải, lương thực, đồ trân báu ban cho… Lòng càng thêm hớn hở. Nghe được một câu kệ tụng mà bỏ đi vương vị Chuyển luân của vinh hiển ở đời cũng đành. Thường ưa vì người giảng nói kinh pháp, chẳng ham thích ngôi vị Đế Thích. Nghĩ rằng khai hóa được một người khiến phát đạo tâm, chứ chẳng cầu về cõi Phạm thiên. Nguyện được thấy Như Lai chứ chẳng tham nơi tam thiên đại thiên thế giới đầy trân bảo quý giá. Từ khi sinh ra đã thông đạt, chẳng thiếu các căn, ưa kính nhận đạo pháp, vui vẻ tạo hạnh như vậy là ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Vô Sát kỳ nói:

–Giả sử thấy tất cả pháp đến “bờ kia” chẳng rơi vào tham thân thanh tịnh các cõi Phật, nhìn thấy các cõi Phật cũng đều thanh tịnh, cũng không tưởng, hành, thấy tất cả các Đức Phật không phát sinh sắc tưởng, thấy được tư tưởng của chúng sinh tuy có Nhục nhãn nhưng nhìn tội phước thanh tịnh đầy đủ Thiên nhãn không bị hủy hoại, tuy có được Tuệ nhãn, lìa khỏi các phiền não mà vẫn tin ưa Phật nhãn, thành tựu đầy đủ mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đã được Pháp nhãn đầy đủ mười lực Như Lai, giả sử Bồ-tát đã mặc áo giáp đức tin để hành hóa như vậy tức la ứng với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Du Vô Tế Pháp Hạnh nói:

–Này các Tộc tánh tử! Các Nhân giả nên biết, tất cả duyên mà Bồ-tát đã làm đều quy về các tuệ thông mẫn. Vì sao? Vì quán tất cả nhân duyên vốn chẳng trụ ở trong, chẳng ở bên ngoài, chẳng tại miệng nói. Giả sử Bồ-tát chẳng trụ nhân duyên, cũng chẳng ngự trị chướng ngại của phiền não, cũng chẳng khuyến dẫn chướng ngại tội phước, không chướng ngại báo ứng… không chướng ngại các căn… không chướng ngại các pháp… không chướng ngại phi tuệ… Đã qua khỏi tội phước phiền não ma giới thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Siêu Ma Kiến nói:

–Các Tộc tánh tử! Đã trụ nơi ngã, ngã sở chấp bản thân mình tức ở với trong nghiệp của ma; đã đoạn dứt ngã, ngã sở chẳng thấy hư vọng, đã trừ kiến chấp thì không còn các ấm. Đã trừ các ấm thì chẳng thấy ma, đã qua khỏi các cảnh giới ma thì liền thành tựu Vô ngại giải thoát môn. Bồ-tát đã thành tựu Vô ngại giải thoát môn thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Vô Ưu Thí nói:

–Các Nhân giả nên biết, kẻ phạm ác về sau phải chịu nước sôi, lửa bỏng. Người làm nghiệp thiện về sau không lo lắng. Vậy nên, Bồ-tát phải tu nghiệp lành, điều đã làm thì không thể sai sót, điều đã tạo dựng thì về sau không phải hối hận, không gì ngăn ngại được. Giả sử chúng sinh buồn lo chẳng vui thì Bồ-tát vì họ thuyết giảng pháp xa lìa lo buồn. Hành hóa như vậy của Đại sĩ Bồ-tát thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Bồ-tát Chư Cáo Nghị nói:

–Thưa các Tộc tánh tử! Có bậc sĩ phu phụng trì cấm giới thì sở nguyện của họ ắt phải được, đã đạt được sở nguyện, sự đạt được này có được là do không buông lung, đã kiến lập được không buông lung thì đủ các phẩm pháp đạo, đã kiến lập đủ các phẩm pháp đạo thì các thông tuệ giới cấm đều chân chánh vậy. Bồ-tát đã an trụ nơi pháp không buông lung thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Thiên tử Phổ Hoa nói:

–Thưa các Tộc tánh tử! Ví như khi cây đầy hoa thì đem lại lợi ích cho tất cả mọi người. Bồ-tát dùng gốc công đức để tự trang nghiêm thì giống như cây hoa tươi tốt, đem lại nhiều lợi ích cho muôn dân. Như cây Trú độ của trời Đao-lợi luôn nở rộ chư Thiên của trời Đao-lợi không ai không kính ngưỡng. Bồ-tát dùng các pháp môn để tự trang sức mình như thế thì chư Thiên, Rồng, Thần, Kiền-đạphòa, Người, A-tu-la, không ai không tôn kính. Ví như vầng trăng sáng trên trời không chút bợn nhơ, đầy đủ các đức như bậc Khai sĩ chí tánh thanh tịnh, đức nghi hiển hiện đầy đủ thì ứng hợp các thông tuệ Đại thừa vậy.

Thiên tử Hoa Quang nói:

–Thưa các Tộc tánh tử! Ví như mặt trời mọc diệt trừ hết các tối tăm, xưa nay ánh sáng vẫn hiển hiện. Cũng như vậy Bồ-tát ban cho đời đầy đủ ánh sáng trí tuệ, đạo pháp trí tuệ, vì các chúng sinh ngu tối vô minh mà hiển thị ánh sáng lớn, dẫn đường cho chúng sinh đến với pháp tự nhiên. Các u tối kia chẳng có thể che lấp được ánh sáng. Ánh sáng kia thì có thể tiêu diệt được các tối tăm. Bồ-tát dẫn đường chỉ lối cho chúng sinh an trụ nơi nẻo chánh. Bồ-tát Đại sĩ thấy chúng sinh ở nơi đường tà thì hiện đường chánh làm cho an trụ nơi nẻo chánh thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Thiên tử Tâm Hoa Hương nói:

–Thưa các Tộc tánh tử! Ví như cây tâm hoa, hương thơm của nó xông ra khắp bốn ngàn dặm. Mùi hương ấy không thể tưởng. Cũng như vậy, Bồ-tát đem mùi thơm của giới, bác văn, định, tuệ, giải thoát, tri kiến để làm hương thơm xông khắp tam thiên đại thiên thế giới, để cho hương thơm đạo pháp không nơi nào không lan tỏa, tất cả mùi tật bệnh liền được trị khỏi. Giả sử Bồ-tát trang bị hương pháp này thì ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Thiên tử Thường Tấn Pháp Hạnh nói:

–Các Nhân giả nên biết! Người tinh tấn thì không có tâm biếng nhác. Vậy nên Bồ-tát tu các công đức mà chẳng chán nản, mệt mỏi, thường phải tuân tám pháp hạnh.

Những gì là tám?

  1. Lục độ vô cực.
  2. Tứ đẳng phạm hạnh.
  3. Đạt được ngũ thông.
  4. Dùng bốn ân cứu giúp chúng sinh.
  5. Chí nguyện ở ba cửa giải thoát, đạt được pháp nhẫn.
  6. Khuyên chúng sinh khai hóa Phật tuệ khiến phát đạo tâm.
  7. Dùng phương tiện quyền biến để dẫn đường chúng sinh.
  8. Tiếp tế hữu vi, hiểu rõ các pháp.

Đó là tám pháp hạnh. Bồ-tát tuân theo tám pháp hạnh là ứng hợp với các thông tuệ Đại thừa vậy.

Lúc ấy, Nhuyễn Thủ nói với các Chánh sĩ và Thiên tử:

–Chư vị muốn biết Bồ-tát có tinh tấn hoặc chẳng tinh tấn đối với các thông tuệ không. Vì sao? Vì quen chứa nhóm là hạnh tại ba cõi. Nếu siêng tu thì gọi các thấy biết đời trước. Quen chứa nhóm thì gọi là bên trong, nếu chẳng quen chứa nhóm thì gọi là bên ngoài. Quen chứa nhóm gọi là Thanh văn địa, nếu siêng tu gọi là Duyên giác địa. Quen tập ấy gọi là ở trong các kết sử mà siêng tu, nếu tu thì gọi là chẳng đắm trước pháp phàm phu. Quen chứa nhóm thì gọi là danh, nếu tu thì gọi là sắc. Quen chứa nhóm thì gọi là báo ứng, nếu tu thì gọi là có sở kiến. Quen chứa nhóm thì gọi là chấp trước, nếu tu thì gọi có sở đắc. Quen chứa nhóm thì gọi là ngã sở, nếu tu thì gọi là ngã. Quen chứa nhóm thì gọi là tham lam, nếu tu thì gọi là bố thí chẳng tưởng kiêu mạn. Quen chứa nhóm thì gọi là phạm giới, nếu tu thì gọi là trì giới chẳng tưởng kiêu mạn. Quen chứa nhóm gọi là sân hận, nếu tu gọi là nhẫn nhục mà chẳng tưởng kiêu mạn. Quen chứa nhóm thì gọi là biếng nhác, nếu tu thì gọi là tinh tấn mà chẳng tưởng kiêu mạn. Quen chứa nhóm thì gọi là loạn ý, nếu tu thì gọi là nhất tâm mà chẳng có tưởng kiêu mạn. Quen chứa nhóm thì gọi là ngu si, nếu tu thì gọi là trí tuệ mà chẳng tưởng kiêu mạn. Quen chứa nhóm gọi là gốc chẳng lành, nếu tu thì gọi là gốc thiện bình đẳng mà chẳng tưởng kiêu mạn. Quen chứa nhóm gọi là không tội gốc phước, nếu tu thì gọi là trồng cội gốc đức mà chẳng tưởng kiêu mạn quen chứa nhóm gọi là pháp thế tục, nếu tu thì gọi là pháp xuất thế mà không có tưởng kiêu mạn. Quen chứa nhóm gọi là pháp hữu vi, nếu tu thì gọi là pháp vô vi mà không tưởng kiêu mạn. Quen chứa chứa nhóm gọi là pháp tội, nếu tu thì gọi là pháp vô tội mà chẳng tưởng kiêu mạn. Quen chứa nhóm gọi là các hữu lậu, nếu tu thì gọi là vô lậu mà chẳng tưởng kiêu mạn. Đó gọi là chứa nhóm cho đến sự tuân tu lìa kiến chấp chẳng đắm trước, chẳng đoạn. Nếu Bồ-tát hướng về tôn chỉ của mình thì ứng hợp với các thông tuệ của Đại thừa vậy.

Lại nữa, này các Nhân giả! Nếu chẳng được đến với các thông tuệ, vì sao chẳng đến? Phải cần những gì để đến với tuệ thông mẫn? Các thông tuệ thì lìa các tạo tác. Các thông tuệ ấy cũng không chỗ đến, cũng không có thành tựu. Các thông tuệ ấy lại là các thông tuệ, cũng không màu sắc, hình dáng, cũng không đau bệnh. Tư tưởng sinh tử là hình tướng của thức vậy. Các thông tuệ ấy cũng không phép tắc, cũng không phi pháp. Các thông tuệ ấy cũng không có bố thí. Vì sao? Vì các thông tuệ chính là Bố thí. Các thông tuệ lại không có Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ. Vì sao? Vì các thông tuệ chính là thánh tự nhiên. Các thông tuệ ấy không quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì các thông tuệ ấy siêu thoát ba đời. Các thông tuệ không nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm thức. Vì sao? Vì đã vượt trên các cõi vậy.

Này chư vị! Chư vị muốn biết về các thông tuệ! Nếu các Bồ-tát muốn được các thông tuệ an trụ chắc chắn ở thông tuệ thì phải an trụ như thế nào? Đối với các pháp mà không chỗ trụ thì đó chính là an trụ ở các thông tuệ. Tất cả các pháp đều chẳng phải ngã sở. Tất cả các pháp đều chẳng phải ngã sở. Các thông tuệ ấy đối với tất cả các pháp không chỗ trụ chấp. Các thông tuệ ấy bình đẳng với phàm phu địa, bình đẳng với Phật địa, thì đối với tất cả cũng là bình đẳng. Các thông tuệ ấy lại làm cho Bồ-tát chẳng phải cầu điều gì nữa. Các thông tuệ chỉ nên theo bốn đại giới mà cầu tự nhiên tạo tác hành động. Vì sao? Vì tự nhiên ấy không thể nắm bắt, tự nhiên ấy thì không có hình dạng. Ở đây pháp thiện tên gọi là “ngã”. Đối với “ngã thân” mà không có thân, không có thiện ác, không “ngã”, không thọ, không mạng, không nhân. Giả sử “ngã thân” không thể nắm bắt lại cũng không có kẻ khác thì đó cũng không hành, cũng không thật có. Dù có hình dạng thì cũng không thật, nhận thức ấy cũng không thể nắm bắt, cũng không có thật. Tuệ kia nhận thức đối với sở hữu, vô sở hữu, có thật, không thật… Các tuệ ấy là các thông tuệ.

Khi Nhuyễn Thủ nói lời này, hai ngàn Thiên tử đạt được pháp Nhẫn bất khởi, một vạn hai ngàn người đều phát tâm nơi đạo Vô thượng chánh chân.

 

Phẩm 2: HÓA PHẬT

Lúc này, Bồ-tát Biện Tích bạch với Bồ-tát Nhuyễn Thủ:

–Vả lại chúng ta nên đều đến hầu hạ Như Lai để trực tiếp thưa hỏi Đại thánh là Bồ-tát Đại sĩ nên kiến lập hạnh gì?

Nhuyễn Thủ liền ở ngay chỗ ấy hóa làm Như Lai, hình thể giống như Đức Phật Năng Nhân. Đồng chân Nhuyễn Thủ bảo Biện Tích:

–Này Thiện nam! Như Lai đang ở đây, sao ông không hỏi việc thiết lập hạnh của Bồ-tát Đại sĩ?

Lúc ấy Biện Tích hỏi Đức Như Lai hóa thân:

–Kính thưa Thế Tôn! Bồ-tát Đại sĩ phải thiết lập hạnh gì? Hóa Phật bảo:

–Như ta đã thiết lập và Bồ-tát cũng phải tu hạnh như vậy.

Lại hỏi:

–Thế Tôn đã tạo lập hạnh ra sao?

Hóa Phật đáp:

–Ta cũng chẳng hành bố thí, chẳng hành cấm giới, chẳng hành nhẫn nhục, chẳng hành tinh tấn, chẳng hành nhất tâm, chẳng hành trí tuệ, chẳng hành Dục giới, chẳng hành Sắc giới, chẳng hành Vô sắc giới, chẳng tạo hạnh của thân, chẳng tạo hạnh của lời nói, tâm chẳng nghĩ đến hành động, tất cả không hành động cũng không nhân duyên. Đó chính là hạnh Bồ-tát.

–Này Thiện nam! Ý ông thế nào? Sự hóa hiện ấy đâu phải là có hạnh ư?

Đáp:

–Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Hóa hiện ấy không phải hạnh.

Hóa Phật đáp:

–Đúng vậy, này thiện nam! Bồ-tát Đại sĩ phải tạo hạnh ấy.

Biện Tích bạch Nhuyễn Thủ:

–Nay đã thấy Phật thì sẽ không hóa hiện ư?

Nhuyễn Thủ đáp:

–Thưa Nhân giả! Nhân giả chẳng nghe tất cả các pháp hóa hiện tự nhiên ư? Tướng huyễn biến mà chẳng thoái chuyển.

Biện Tích đáp:

–Đúng vậy, quả thật các pháp hóa hiện tự nhiên, huyễn biến mà chẳng thoái chuyển.

Nhuyễn Thủ đáp:

–Này Thiện nam! Nay Nhân giả vì sao nói ta là thị hiện Như Lai sẽ không biến hóa nữa ư? Tất cả chư Phật và tất cả pháp chẳng phải là biến hóa sao?

Biện Tích lại hỏi:

–Ai là người biến hóa?

Đáp rằng:

–Nghiệp thanh tịnh tự nhiên mà hóa ra vậy. Lại nữa, này Thiện nam! Bồ-tát chẳng nên an trụ nơi ngã, nhân, thọ, mạng, đối với Thánh đạo của Đức Phật và phàm phu mà chấp có an trụ.

Biện Tích hỏi Đức hóa Như Lai:

–Thưa Đức Thế Tôn! Học cái gì để tự chứng được quả Phật?

Đáp rằng:

–Vô học chính là sự học của Bồ-tát. Sự học của Bồ-tát không có hình tượng, cũng không gì so sánh, cũng không chỗ nắm bắt, cũng không tưởng niệm, cũng chẳng lìa tưởng niệm, cũng không có hạnh, không có hạnh cũng chẳng phải không hạnh thì đó gọi là sự học của Bồ-tát, không đắm trước, chẳng phải không đắm trước, không kiêu mạn, cũng chẳng phải không kiêu mạn, cũng chẳng buông lung, cũng chẳng tu tập, chẳng lìa tu tập, không tưởng không chấp thủ, không chỗ đi ở, cũng không có tưởng, chẳng khởi chẳng diệt, chẳng đến chẳng đi không trụ không hóa, cũng không có hình, cũng không ngôn từ, lìa khắp tất cả các “hạnh tưởng” thì đó là sự học của Bồ-tát. Người tạo sự học ấy chính là cái học bình đẳng. Học như vậy thì không chỗ hướng về, thì không chỗ tăng thêm, cũng không chỗ hao tổn. Học như vậy cũng không vướng mắc, cũng không chỗ giải thoát, cũng không chỗ nhiễm ô, cũng không lìa trần cấu, cũng không oán kết, chẳng rơi vào ngu tối. Học như vậy mới gọi là học. Học như thế thì chẳng sa vào các đường.

Này Thiện nam! Như vậy Bồ-tát Đại sĩ muốn được đắc đạo Vô thượng chánh chân thì phải theo cái sự học của ta.

Biện Tích lại hỏi:

–Sao gọi là học Phật?

Hóa Phật đáp:

–Như ta không có giới thì cũng không chỗ phạm chẳng bố thí, chẳng nhận, chẳng giới, chẳng phạm, chẳng nhẫn, chẳng sân, chẳng tinh tấn chẳng biếng nhác, chẳng thiền định, chẳng tán loạn, chẳng trí tuệ, chẳng ngu si, vô học chẳng vô học, không có điều gì chẳng thực hành, mà ta không chứng đắc cũng không ai có thể sánh bằng được. Không Phật, không Pháp, cũng không ngã tưởng, cũng không nhân tưởng, cũng không thọ tưởng, cũng không mạng tưởng, cũng không pháp tưởng, cũng không hữu tưởng, cũng không vô tưởng. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không chỗ tạo tác. Tất cả các pháp do không chỗ tạo tác nên tự nhiên như huyễn, cũng không có tướng, cũng không có hai. Tất cả các pháp lìa các đối tượng ưa thích. Tất cả các pháp mà chẳng thể thấy. Tất cả các pháp vượt qua cái thấy của mắt. Các pháp bình đẳng không sai khác, đặc thù. Các pháp ngu tối mà không lối đi, vô vi không người nên không lời dạy bảo, nên không xứ sở. Không có lời dạy bảo nên không chỗ sinh. Ai tin điều này thì chẳng nghĩ có chỗ tin, cũng chẳng tự đại, cũng chẳng nghĩ đến đạo.

Vậy nên, này Thiện nam! Nếu có Bồ-tát so sánh như vậy để học Phật đạo thì chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng khó khăn, chẳng lo mới là Bồ-tát.

Này Thiện nam! Như sự sợ của hư không, chẳng sợ lửa, chẳng sợ gió, chẳng sợ mưa, chẳng sợ sương mù, chẳng sợ bụi, chẳng sợ sấm, chẳng sợ mây, chẳng sợ chớp, chẳng sợ tuyết. Vì sao? Hư không là tự nhiên nên gọi là sợ như “hư không”. Cũng như vậy, Bồtát đối với tất cả pháp mà không chỗ sợ, đối với tất cả pháp chẳng nghĩ khổ vui. Giả sử tâm Bồ-tát bình đẳng như thế thì có thể thành Phật, hàng phục các ma, thành được đạo Vô thượng chánh chân, là Tối chánh giác, đồng thời có thể dẫn đường, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Khi Đức hóa Phật nói lời này xong, liền biến mất không biết ở đâu. Bồ-tát Biện Tích hỏi Nhuyễn Thủ:

–Nay Đức Như Lai đã về chỗ nào?

Đáp rằng:

–Về từ chỗ đã đến đây.

Bồ-tát lại hỏi:

–Như Lai từ chỗ nào đến?

Đáp rằng:

–Như chỗ đã đi.

Lại hỏi:

–Thưa Bồ-tát Nhuyễn Thủ! Vậy sự hóa hiện ấy không từ đâu đến và không đi về đâu?

Đáp rằng:

–Này Thiện nam! Ví như sự hóa hiện ấy không từ đâu đến cũng không đi về đâu thì tất cả các pháp cũng lại như vậy. Tất cả chúng sinh… không có khác, chẳng đến, chẳng đi.

Lại hỏi:

–Thưa Bồ-tát Nhuyễn Thủ! Tất cả các pháp đi về đâu?

Đáp rằng:

–Về với tự nhiên.

Lại hỏi:

–Tất cả chúng sinh về chỗ nào?

Đáp:

–Sẽ tùy theo sự tạo tác của họ.

Lại hỏi:

–Thưa Nhuyễn Thủ! Tất cả các pháp không tạo tác, không báo ứng ư?

Đáp rằng:

–Thiện nam! Pháp giới ấy không tạo tác, không báo ứng, không đi qua bình đẳng chế ngự các pháp thì đó là pháp giới.

Lại hỏi:

–Tại sao nói có tạo tác, có báo ứng, có qua đi mà còn gọi là không qua đi?

Đáp:

–Này Thiện nam! Sự tạo tác ấy như thật, quả báo ấy như thật, sự đi qua cũng vậy.

Lại hỏi Bồ-tát Nhuyễn Thủ:

–Sao gọi là tạo tác? Báo ứng là gì? Sự qua đi do nhân ra nào?

Đáp rằng:

–Tạo tác ấy như thật, báo ứng cũng như thật, sự qua đi cũng như thật.

Lại hỏi Bồ-tát Nhuyễn Thủ:

–“Như thật” ấy không gốc chăng? Cũng không có tạo tác, không có báo ứng, không có nơi để đi chăng?

Đáp rằng:

–Này Thiện nam! “Như” không có nguồn gốc, cũng không tạo tác, cũng không báo ứng, cũng không có nơi đi đến. Do đó tạo tác, báo ứng, nơi đi đến cũng thế, không đến không đi. Tạo tác, báo ứng, đều đến nơi đã đến. “Như” ấy là gốc, không chỗ quy thú.

Khi nói lời ở trước Đức Thế Tôn Năng Nhân, Hiền giả Xá-lợiphất, Hiền giả A-nan và các đại đệ tử khác đều nghe lời giảng ấy. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật rằng:

–Kính thưa Như Lai! Thật lạ chưa từng có! Các Chánh sĩ ấy là những bậc Đại thánh nhân mà đồng thanh gầm lên tiếng sư tử về một pháp. Họ nói không biết bao nhiêu âm thanh, lời nói cùng phù hợp với pháp mà không lầm lẫn, lộn xộn. Ai nghe những điều ấy mà chẳng phát tâm nơi đạo Vô thượng chân chánh ư?

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Đúng như điều ông nói, Bồ-tát học rộng không trở ngại, điều đã nói hôm nay không chỗ ngăn ngại, như đã gieo giống ấy thì ắt thu hoạch được quả kia, như xuất hiện báo ứng ấy thì cũng thế. Như vậy Bồ-tát học không ngăn ngại, theo Thánh tuệ ấy mà nói phân biệt.

Như Xá-lợi-phất vốn đã học điều cấm giới, nên có trí tuệ biện tài cũng thế.

Bồ-tát Quang Tịnh hỏi Thế Tôn:

–Sao gọi là sự học của Thanh văn? Sao gọi là sự học của Bồtát?

Phật dạy:

–Có giới hạn, có ngăn ngại là sự học của Thanh văn. Không giới hạn, không ngăn ngại là sự học của Bồ-tát. Học của Thanh văn vì sự giới hạn kia mà trở thành ngăn ngại. Do cái điều này nên nói có giới hạn trở thành ngăn ngại mà sự học của các Bồ-tát không có giới hạn nên không ngăn ngại. Do điều này nên đã nói không giới hạn thì không có ngăn ngại.

Bồ-tát Quang Tịnh bạch Phật:

–Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Nguyện xin Ngài thị hiện cảm ứng khiến cho các vị Chánh sĩ vân tập đến đây, để cho chúng hội này được nghe pháp đã nói, ai cũng được hiểu không còn hoang mang nữa. Vì sao? Vì hạnh của Nhuyễn Thủ thâm sâu, sự luận bàn kinh pháp của ngài cũng thiết yếu vi diệu nữa.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền hiện điềm lành, thì Nhuyễn Thủ cùng với hai mươi lăm vị Chánh sĩ và các Thiên tử đến chỗ Phật cúi lạy dưới chân rồi đứng sang một bên. Bồ-tát Quang Tịnh nói với Nhuyễn Thủ:

–Thưa Nhân giả! Vì cớ gì Nhân giả ra khỏi hội Như Lai, một mình ở chỗ khác mà luận giảng kinh pháp?

Nhuyễn Thủ đáp:

–Này Thiện nam! Biết Đức Như Lai rất tôn quý mà mình không thể sánh nỗi với chư Phật đại Thánh. Cho nên tất cả những điều đã nói hoặc sợ chẳng đúng nên tôi tránh ở một bên.

Lại hỏi Nhuyễn Thủ:

–Nhân giả đã nói pháp gì? Có đúng với Như Lai không?

Nhuyễn Thủ đáp:

–Điều tôi nói Đức Thế Tôn đã biết rồi!

Quang Tịnh nói:

–Tuy nhiên, xin Nhân giả cứ nói ý ấy ra đi!

Đáp:

–Như cần kíp thì tôi sẽ tuyên nói ngay bây giờ. Thưa Thiện nam! Những điều đã nói chẳng trái với pháp giới, chẳng mất bản thể vô vi, chẳng mất bản tế. nếu điều đã nói được như thế thì đúng với Như Lai. Lại nữa, nếu những điều đã nói không tranh cãi chân lý, không trách cứ, không khởi dậy, cũng không nhân duyên, không có sắc tượng, cũng không so sánh được tức là là vâng thuận theo Như Lai. Không đồng với ngã, không giống hình người khác, chẳng ngang bằng diện mạo của pháp, không “phải không khác tướng” không “có tướng đầu tiên hay cuối cùng”, không có tướng Nê-hoàn. Nói như thế là đúng với Như Lai.

Đến đây, Thế Tôn bảo Nhuyễn Thủ:

–Hay thay! Hay thay! Ta thích lời nói này. Đúng như ông đã nói! Nói như thế là không trái với Như Lai. Lại nữa, này Nhuyễn Thủ! Giả sử xa lìa hết tất cả an lạc mà không rối loạn, nếu chẳng cần xa lìa các đối tượng của tưởng, không có các tưởng, có nói điều này là đã về với tịch nhiên mà chẳng chuyển động, người mặc áo giáp công đức lớn, tâm ý định tĩnh mà nói pháp thì không thể hủy hoại kinh điển ấy, chẳng thấy có các pháp tăng lên, có hủy diệt, nói những điều như thế thì đúng với Như Lai.

Khi Phật nói lời này, tám trăm Bồ-tát chứng đắc được Pháp bất khởi.

 

Phẩm 3: CỬ BÁT

Bấy giờ, một ngàn hai trăm Thiên tử ở trong chúng hội mà thuở xa xưa họ đã tạo hạnh Bồ-tát, bây giờ đã quên mất ý đạo, chí chẳng kiên cố nên tự nghĩ: “Phật tuệ lồng lông chẳng thể hạn lượng, ý đạo Vô thượng chánh chân khó thể hiểu được. Sự học của Bồ-tát mà chẳng thể thành tựu thì Tối chánh giác rất khó có thể đạt được. Đối với điều này, chúng ta chẳng thể học hỏi được, chi bằng đổi lại cầu học Thanh văn, Duyên giác để nắm chắc diệt độ.”

Bấy giờ Thế Tôn biết được ý nghĩ trong tâm của các Thiên tử, thấy những người này kham nỗi đạo Vô thượng chánh chân, làm Tối chánh giác mà lại muốn phế bỏ, chỉ theo Tiểu thừa. Phật muốn khuyến hóa các Thiên tử nên rời khỏi đạo tràng, ở trong chúng hội, hóa làm một vị trưởng giả tay bưng bình bát đựng trăm món đồ ăn thức uống đem đến chỗ Đức Phật, rồi bạch với Đức Thế Tôn:

–Kính thưa Đại Thánh! Xin Ngài xót thương nhận thực phẩm cho!

Phật liền nhận lấy bát. Bồ-tát Nhuyễn Thủ đứng dậy, đến chỗ Đức Phật, chắp tay bạch:

–Hôm nay được bữa ăn thịnh soạn, hẳn phải nghĩ đến ân xưa? Con xin chí thành lắng nghe. Đức đại thánh đâu chỉ ăn mà chẳng đem đạo pháp ban cho chúng con! Xin gia ân đem đạo pháp ban cho để khắc phục lại ý tưởng trước kia.

Đến đây, Hiền giả Xá-lợi-phất tự nghĩ: “Nhuyễn Thủ trước kia đã có ân đức gì mà lại nói với Đức Thế Tôn là tuy nhận bữa ăn cũng nên hồi tưởng lại ân pháp trước đây?” Rồi bạch Phật:

–Bồ-tát Nhuyễn Thủ đời trước đã có ân gì với Đấng Đại Thánh mà thưa Như Lai tuy nhận thức ăn nhưng phải nghĩ đến ân pháp đời trước?

Phật dạy:

–Hãy đợi trong giây lát thì ông sẽ tự phát hiện ra. Như Lai đã biết chẳng phải ông đã kịp hiểu ra.

Rồi Đức Phật liền thả bát xuống đất. Bát rơi xuống biến mất, đi vào các cõi Phật. Các Đức Phật Chánh Giác hiện đang tại thế, mỗi mỗi đều thấy bát ở dưới chân mình.

Ở tại phương dưới cách đây các cõi Phật nhiều bằng bảy mươi hai lần cát sông Hằng đến cõi nước của Đức Như Lai Quang Minh Vương, tên là Chiếu diệu, bát trụ ở trên hư không của nước ấy, không ai nắm giữ mà tự nhiên đứng vững. Chúng đệ tử các Đức Phật hiện tại đều thưa hỏi Đức Phật của họ là bát từ đâu đến. Các Đức Phật đều bảo với họ ý như sau: “Thế giới phương trên có cõi nước tên là Nhẫn, ở đó có Đức Như Lai tên là Năng Nhân, hiện đang thuyết pháp. Đức Năng Nhân Như Lai thả rơi bát ấy để mà khuyến hóa các Bồ-tát có tâm sai khác, ý chí thoái lui.” Đến đây, Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất:

–Ông hãy đi tìm bát, hãy quan sát biết được chỗ mà bát đã đến!

Xá-lợi-phất tức thời vâng lời, tự dùng trí lực, vâng Thánh chỉ của Đức Phật vào Tam-muội chánh thọ, dùng một vạn định vượt qua một vạn cõi Phật, tìm kiếm khắp nơi mà chẳng biết bát ở đâu, liền trở về bạch Phật:

–Kính thưa Thế Tôn! Con tìm mà chẳng thấy, chẳng biết bát ở đâu!

Rồi Thế Tôn bảo Đại Mục-kiền-liên:

–Nay ông hãy đi tìm kiếm bát về, hãy quan sát bát hiện ở chỗ nào?

Mục-kiền-liên nhận lời rồi, dùng lực thần túc, vâng Thánh chỉ của Đức Phật, bằng Tam-muội chánh thọ vào tám ngàn định, trong phút chốc vượt qua tám ngàn cõi Phật, tìm kiếm mà chẳng thấy, chẳng biết chỗ của bát, liền trở về bạch Phật:

–Con đã dùng hết thần lực mà chẳng tìm được bát, đâu có thể tròn bổn phận ư?

Thế Tôn bảo Tu-bồ-đề:

–Ông hãy đi tìm bát, biết chỗ nó đến để đem về lại.

Tu-bồ-đề cũng liền nhận lời, bằng Tam-muội chánh thọ vào một vạn hai ngàn định, trong phút chốc vượt qua một vạn hai ngàn cõi Phật để tìm mà chẳng thấy bát, chẳng biết chỗ dừng của nó ở đâu.

Như vậy, cả năm trăm vị Thanh văn ở tại hư không đều hiện thần túc, sức Tam-muội, thần thông thể lực bậc Thánh, Thiên nhãn nhìn suốt… để đi tìm bát mà chẳng biết chỗ đến của nó, cũng chẳng thể tìm được.

Khi ấy Tu-bồ-đề liền đến trước Bồ-tát Từ Thị nói:

–Thưa Nhân giả! Nhân giả là bậc tài cao, là Như Lai Nhất sinh bổ xứ sẽ chứng đạo Vô thượng chánh chân, thành Tối chánh giác. Ân từ bi rộng lớn, đạt nhiều trí tuệ, mọi người chẳng bì kịp, một mình đi lại ba cõi mà không bạn bè, chắc Nhân giả biết bát ở đâu. Xin Nhân giả có thể đến đó kính cẩn mang về đây, may ra nhờ uy lực của Nhân giả mà bát được mang trở về.

Bồ-tát Từ Thị đáp lại Tu-bồ-đề:

–Đúng như Nhân giả đã nói, tôi thọ được tuệ Như Lai sẽ thành Chánh giác. Hôm nay, Nhuyễn Thủ đã khởi định ý tiến, dừng, ngồi, đứng, tôi đây không bì kịp, chẳng thể hiểu rõ Tam-muội ấy. Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Tuy vào đời sau tôi sẽ thành Phật, có số Bồ-tát nhiều như cát sông nhưng tất cả đều là do Bồ-tát Nhuyễn Thủ đã khai hóa, dẫn dắt. Muốn biết cất một bước chân đã nghĩ chẳng biết về đâu. Vậy nên, thưa Nhân giả! Chúng ta phải thỉnh Bồ-tát Nhuyễn Thủ. Chỉ có vị Đại sĩ ấy mới biết được nơi chỗ mà bát dừng, mới đảm nhận việc đem bát về lại thôi!

Rồi Tu-bồ-đề thưa với Đức Thế Tôn:

–Nguyện xin Thế Tôn rủ lòng ban lời dạy bảo.

Đức Đại Thánh liền sai Nhuyễn Thủ đi lấy bát. Nhuyễn Thủ vâng lời tự nghĩ rằng: “Ta chẳng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, chẳng rời khỏi chúng hội mà mang bát về lại đây.” Nhuyễn Thủ vào Tammuội tên là Phổ siêu thì các Bồ-tát ở đây đều định ý chánh thọ. Lúc này Nhuyễn Thủ duỗi bàn tay phải vào trong lòng đất, vượt qua phương dưới, vượt qua các Đức Phật, đại Thánh nhiều vô cùng, rồi lần lượt bàn tay của Bồ-tát làm lễ từng vị một. Trong bàn tay ấy tự nhiên có tiếng xưng tụng Đức Như Lai Năng Nhân, Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Rồi kính hỏi thăm vô lượng các Đức Phật đang ở đời, khinh thường lợi dưỡng, thế lực, đi ở được an ổn chăng? Rồi từ mỗi một lỗ chân lông trên bàn tay, cánh tay ấy tự nhiên xuất phát hàng trăm ngàn vạn ức ánh hào quang sáng chói. Mỗi một hào quang đều biến hiện ra trăm ngàn hoa sen. Trên mỗi hoa sen ấy đều có Đức hóa Như Lai đầy đủ tướng tốt. Tất cả đều ngồi kiết già trên hoa sen. Rồi từng vị Thế Tôn ấy đều cùng khen ngợi danh đức, công huân của Đức Năng Nhân Như Lai.

Hiện tượng này đã trải qua các cõi Phật. Ngay khi ấy, các đất nước đều chấn động sáu cách các cõi nước của chư Phật, ánh sáng tự nhiên chiếu soi khắp nơi, tất cả các cõi Phật đều hiện ra bàn tay ấy.

Lại nữa, các cõi Phật lại tự nhiên có lụa ngũ sắc, cờ, phướn, lọng báu… không chỗ nào chẳng trang nghiêm, hoa tung khắp chốn, trang sức nơi nơi. Bàn tay của Bồ-tát Nhuyễn Thủ đi qua các cõi Phật nhiều bằng bảy mươi hai lần cát sông. Làm lễ các Đức Phật xong, bỗng trong chốc lát, bàn tay ấy đến thế giới Chiếu diệu, ở đó có cõi nước của Đức Phật Quang Minh Vương. Làm lễ Đức Phật xong, tự nhiên bàn tay ấy phát ra âm thanh lớn xưng tụng Đức Năng Nhân Như Lai, kính hỏi vô lượng việc. Đức Như Lai Minh Vương có vị Bồtát thị giả tên là Quang Anh, liền thưa với Đức Như Lai ấy rằng:

–Đây là bàn tay nào mà thù thắng vi diệu, lồng lộng uy thần khó bì kịp vậy? Sao tự nhiên phát ra trăm ngàn vạn ức ánh hào quang sáng rực, trong mỗi ánh hào quang ấy đều hóa ra trăm ngàn hoa sen trang nghiêm thanh tịnh, trên mỗi một hoa sen đó đều có Như Lai an tọa, lại ca ngợi công huân của Đức Năng Nhân thánh triết?

Đức Phật Quang Minh Vương bảo thị giả Quang Anh:

–Có Thiện nam ở phương Trên, cách đây số cõi Phật nhiều bằng bảy mươi hai lần cát sông, ở đó có thế giới tên là Nhẫn, có Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiệu là Năng Nhân, hiện đang thuyết pháp. Ở đó có vị Đại sĩ tên là Nhuyễn Thủ, ông ấy mặc áo giáp giới đức không thể nghĩ bàn, có tất cả sức thần thông Độ vô cực, tự tại ở chỗ ngồi, chẳng hề đứng mà di chuyển bàn tay đến đây để mang bát về.

Khi ấy, các vị Bồ-tát ở cõi của Đức Phật Quang Minh Vương đều khát khao, ngưỡng mộ muốn được chính mắt thấy Đại sĩ Nhuyễn Thủ ở thế giới Nhẫn của đức Năng Nhân Như Lai kia. Đức Phật Quang Minh Vương biết hết suy nghĩ trong tâm ý của chúng hội liền phóng ra hào quang Mi đảnh tướng. Ánh sáng đó chiếu suốt qua các cõi Phật nhiều bằng bảy mươi hai lần cát sông, lên đến cõi Nhẫn. không chỗ nào mà chẳng sáng rực rỡ. Có chúng sinh nào ở đó được nhờ ánh sáng ấy soi rọi thì tất cả được yên ổn, không có hoạn nạn. Như ở bốn cõi của hoàng đế Chuyển luân thánh vương có những người tu hành tinh chuyên học định, gặp ánh sáng ấy thì đều được Tu-đà-hoàn. Người đã đắc thiền định rồi thì qua hết ba cõi, đạt được Tứ chứng đức. Người đã lậu tận rồi thì được vào tám cửa giải thoát. Bậc La-hán thiền định thì được Vô trước nguyện. Thân các vị Bồ-tát được ánh sáng ấy soi rọi thì đều thành tựu được Nhật quang Tammuội. Như thế, các Bồ-tát Đại sĩ của cõi Phật Quang Minh Vương Như Lai nhìn Đức Thế Tôn Năng Nhân, Bồ-tát Nhuyễn Thủ, tất cả Thánh chúng Thanh văn Tỳ-kheo, các vị Bồ-tát… Bồ-tát Quang Anh nhìn thấy các Bồ-tát của thế giới Nhẫn liền rơi nước mắt, rồi đem lời này bạch với Đức Phật:

–Kính thưa Thế Tôn! Như nước tinh khiết vi diệu, như châu sáng Như ý mà bị rơi vào chỗ bất tịnh, thật đáng thương tiếc! Các vị Bồ-tát này sinh ở thế giới Nhẫn cũng lại như vậy, rất đáng thương cảm!

Đức Phật Quang Minh Vương bảo Bồ-tát Quang Anh rằng:

–Ông chớ tuyên bố lời này. Vì sao? Ở cõi Phật chúng ta mà siêng tu thiền hạnh đến mười kiếp chẳng bằng ở cõi Nhẫn tu từ sáng sớm đến buổi ăn sáng. Phát khởi tấm lòng thương nghĩ đến chúng sinh, công đức này tối thắng không ai bằng, khó có thể bì kịp. Vì sao? Vì các chúng Bồ-tát Đại sĩ ấy không có ấm cái, trần lao đã hết. Các vị ở cõi Nhẫn hộ trì chánh pháp thì công đức chẳng thể lường.

Bấy giờ, các vị Bồ-tát ở cõi Nhẫn được ánh sáng chiếu vào thân mình thì hỏi Đấng Thiên Trung Thiên Năng Nhân:

–Thưa Thế Tôn! Đây là ánh sáng gì? Ai đã phóng đến tiêu diệt hết trần lao, khiến chúng con không còn tỳ vết?

Phật bảo:

–Này các Thiện nam! Ở phương Dưới, cách đây số cõi Phật nhiều bằng bảy mươi hai lần cát sông, có một thế giới tên là Chiếu diệu, Đức Như Lai ở đó hiệu là Quang Minh Vương Như Lai Chí Chân ấy phóng ra hào quang Mi đảnh quang. Ánh sáng ấy chiếu suốt qua các cõi Phật nhiều bằng bảy mươi hai lần cát sông. Ánh sáng rực rỡ đó soi đến từ cõi ấy.

Khi đó, các Bồ-tát và chúng Thanh văn đều bày tỏ với Đức Phật:

–Kính thưa Thế Tôn! Chúng con muốn nhìn thấy thế giới Chiếu diệu, Đức Quang Minh Vương Như Lai và các chúng Bồ-tát ở đó.

Năng Nhân Như Lai từ lòng bàn chân phóng ra hào quang Thiên bức tướng luân quang. Ánh sáng ấy chiếu khắp cõi Phật nhiều bằng bảy mươi hai lần cát sông ở phương Dưới, đến cả cõi Chiếu diệu, không đâu mà không cùng khắp. Ở thế giới phương Dưới, thân của các chúng Bồ-tát nhờ ánh sáng ấy đều thành tựu được Tam-muội Tu-di quang. Bấy giờ, ở cõi Phật này và thế giới kia có hiện tượng: từ cõi ấy nhìn thấy cõi kia, từ cõi kia nhìn thấy cõi này. Nhìn thấy qua lại lẫn nhau, giống như người ở cõi Diêm-phù-đề này, đứng trên đất ngẩng lên nhìn mặt trời, mặt trăng và ở thế giới phương Dưới, họ quan sát các Bồ-tát, Đức Năng Nhân Như Lai và thế giới Nhẫn cũng như vậy. Còn nhân dân cõi này nhìn thấy ở phương dưới giống như chư Thiên đứng trên đỉnh núi Tu-di cúi nhìn xuống thiên hạ ở cõi Diêm-phù-đề. Các vị Bồ-tát trên đó nhìn thấy Đức Quang Minh Vương Như Lai, các vị Bồ-tát… dưới đó mặc áo giáp đại đức khó bì kịp, khó đo lường được.

Lúc này, Bồ-tát Nhuyễn Thủ đưa bàn tay phải đến cõi Chiếu diệu, cõi nước Phật của Đức Quang Minh Vương Như Lai ở giữa hư không, bàn tay ấy liền cầm lấy bát rồi cùng với vô số trăm ngàn các chúng Bồ-tát có quyến thuộc vây quanh, vọt lên phương Trên. Bàn tay bưng bát đã trải qua các cõi Phật, chuyển dần lên trên thì ánh sáng hoa sen liền biến mất. Bàn tay phải cầm bát trở về thế giới Nhẫn, Bồ-tát Nhuyễn Thủ ở trước Đức Đại Thánh quỳ xuống dâng bát trao lên rồi bạch Đức Thế Tôn:

–Kính mong Thế Tôn rủ lòng nhận cho!

Phật liền nhận lấy bát. Các Bồ-tát cùng bàn tay Bồ-tát Nhuyễn Thủ đều đã trở về lại, đến chỗ Đức Phật, cúi đầu xuống đất, mọi người đều tự tuyên xưng danh hiệu Đức Như Lai, rồi kính hỏi thăm:

–Đức Phật Đại Thánh đáng kính không lường! Thánh thể thù thắng, dạo bước hóa độ không giới hạn, tuệ lực vô biên, vẫn được bình an khang kiện chăng?

Các chúng Bồ-tát đã kính hỏi thăm xong, lui về ngồi một bên, đúng vào chỗ ngồi yên ổn mà Phật đã chỉ cho. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất:

–Nay ông hãy lắng nghe! Suy nghĩ cho kỹ! Hôm nay ta vì ông

nói. Thuở xa xưa, khi thân ta tu tập Bồ-tát là chính do Nhuyễn Thủ đã phát. Nay sở dĩ ông ấy nói cái ý rằng: Thế Tôn tuy nhận thức ăn mà phải nghĩ đến cái ân pháp thí xưa; đó là chuyện đời quá khứ xa xưa, cách đây hàng ức trăm ngàn kiếp, nhiều vô số kể. Bấy giờ có Đức Phật hiệu là Mạc Năng Thắng Tràng Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Vô biệt dị. Đức Mạc Năng Thắng Tràng Như Lai có tám muôn bốn ngàn chúng Thanh văn, mười hai ức chúng Bồ-tát Đại sĩ. Đức Phật Thế Tôn ấy ở trong đời ngũ trược diễn thuyết giáo pháp Tam thừa. Có một vị Tỳ-kheo làm Pháp sư tên là Tuệ Vương, sáng sớm đắp y, mang bát vào nước Hoằng quảng khất thực. Tỳ-kheo ấy khất thực được hàng trăm món, rất nhiều thức ăn. Khất thực xong ra về, đến ngã tư đường thì gặp con của một Tôn giả tên Ly Cấu Tý xa trông thấy vị Tỳ-kheo đi đến thì rời khỏi nhũ mẫu, theo vị Tỳ-kheo xin ăn. Khi ấy, vị Tỳ-kheo cho đứa bé một thứ mật ngon. Đứa trẻ ăn vào biết mật ấy ngon ngọt, liền theo vị Tỳ-kheo, khi mật sắp hết nó quay lại nhìn nhủ mẫu, ý muốn được bồng trở lại. Vị Tỳ-kheo lại cho mật, đứa trẻ lại đi theo. Cứ tiến lên dần dần đến chỗ Đức Mạc Năng Thắng Tràng Như Lai. Hai người cúi đầu dưới chân Đức Phật rồi đứng trước mặt Ngài. Đến đây, vị Tỳ-kheo Tuệ Vương đem đồ ăn khất thực của mình cho đứa bé mà bảo:

–Này Đồng tử! Ngươi hãy đem của khất thực này cúng dường Như Lai!

Đức Như Lai liền nhận của cúng dường đó. Thức ăn đã chuyển vào bát của Đức Phật mà chẳng giảm bớt, hao tổn tí nào, rồi lần lượt đem thức ăn khất thực ấy cúng dường cho bốn mươi tám ngàn Thanh văn, mười hai ức Bồ-tát. Chỉ chừng ấy thức khất thực mà Đức Phật và Thánh chúng đều no đủ. Cúng dường như thế trọn bảy ngày mà thức ăn khất thực ấy vẫn như cũ chẳng hề tổn giảm. Khi ấy, đứa trẻ rất đỗi vui mừng, phát sinh lòng thành, đứng trước Đức Thế Tôn mà nói kệ tụng:

Phật, Thánh chúng no đủ
Bát thức ăn chẳng hao
Phụng sự Đấng Thế Tôn
Ruộng phước không nghi ngờ.
Thế Tôn nhận no đủ
Thức ăn chẳng giảm hao
Dâng lên Đấng Thế Tôn
Đạo vô tận chẳng nghi.
Món ăn chẳng giảm bớt
Vật cúng thành nhiều hơn
Cung kính Đẳng Chánh Giác
Pháp thanh tịnh tăng lên.
Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Khi đó đứa trẻ dùng một bát thức ăn cúng dường Đức Thế Tôn và các Thánh chúng, nương Thánh chỉ Phật, lòng đã thanh tịnh nên đứa trẻ cúng dường đầy đủ trong bảy ngày mà thức ăn chẳng tổn hao. Tỳ-kheo Tuệ Vương giáo huấn đứa trẻ quy y Phật, Pháp và Thánh chúng, thọ lãnh cấm giới, lòng gắng sám hối lỗi lầm, khuyến khích hỏi đạo, khiến phát tâm đạo Vô thượng chánh chân.

Lúc ấy, cha mẹ đứa trẻ đi kiếm con mình, tìm đến chỗ của Đức Như Lai Mạc Năng Thắng Tràng, cúi đầu làm lễ, rồi lui về đứng một bên. Đứa trẻ hỏi thăm cha mẹ, dùng kệ tán thán:

Chí con cầu Phật đạo
Thương xót các chúng sinh
Nhàn hạ khó gặp được
Xin thân sinh cho phép.
Vả xem thân Chánh giác
Các tướng đẹp trang nghiêm
Tuệ độ đến vô cực
Đạo ý ai chẳng phát.
Con xin phép mẹ cha
Được bỏ tục xuất gia
Thuận theo lời dạy trí
Được học định tịch tĩnh.
Cha mẹ liền đáp là:
Đạo chúng ta ưa thích
Nhờ con mà biết được
Cũng nguyện muốn bỏ nhà.
Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Khi đó, đứa trẻ hóa độ cho cha mẹ mình và năm trăm người đều tâm niệm học pháp, ý chí ấy đặt ở đạo Vô thượng chánh chân. Tất cả đều ở đời Đức Phật ấy bỏ nhà tu đạo, đều được Đức Phật dạy cho hạnh của đạo Bồ-tát như: Sáu độ vô cực, bốn đẳng tâm, bốn ân… phân biệt hiểu rõ về “không”, tinh tấn chẳng biếng nhác, tự tu chứng đến Phật quả.

Này Xá-lợi-phất! Có biết Tỳ-kheo Tuệ Vương làm Pháp sư bấy giờ là ai khác ư? Chớ có ý niệm ấy. Vì sao? Vì chính là Bồ-tát Nhuyễn Thủ vậy. Còn Ly Cấu Tý, con ông Tôn giả ấy chính là ta đây vậy. Đời trước xa xưa, Bồ-tát Nhuyễn Thủ đã đem thức ăn cho ta để cúng dường Phật và Thánh chúng, khiến cho ta phát tâm nơi đạo Vô thượng chánh chân. Đó chính là nguồn gốc phát tâm ban đầu của bản thân Ta. Do đó nên biết rằng hôm nay Như Lai đã thành tuệ Thánh giác vô cực, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám Tuệ bất cộng vô quái ngại, tất cả đều là do ân khuyến hóa của Bồ-tát Nhuyễn Thủ. Vì sao? Vì do từ khi phát tâm cho đến khi đạt được các thông tuệ, như ta đây đã nhờ nhân ấy mà đạt thành đại đạo. Nay ta quan sát thấy ở các cõi Phật trong thế giới mười phương, nhiều không nói hết, không kể xiết, các Đức Phật hiện đang tại thế mà đồng hiệu là Năng Nhân đều do Nhân giả Nhuyễn Thủ đã khuyến hóa cả. Các vị ấy hiệu là Thạnh Thánh, hoặc hiệu là Minh Tịnh, hoặc tên là Sở Hoan, hoặc tên là Định Quang, hoặc gọi là Ly Lậu, hoặc gọi là Diệu Thắng…

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Hôm nay, ta dành ra một kiếp, hoặc hơn một kiếp để tuyên dương, diễn thuyết danh hiệu của các Đức Phật hiện đang chuyển pháp luân mà do Bồ-tát Nhuyễn Thủ Đại sĩ đã khai hóa thì chẳng thể nói hết được, huống chi là kể về những người tu Bồ-tát thừa, hoặc kẻ ở trên cung trời Đâu-suất, hoặc người trở lại vào thai mẹ rồi khi sinh ra lại bỏ nhà tu đạo, hoặc bậc ngồi dưới cây Bồ-đề, hoặc người ở chốn đạo tràng thành Tối chánh giác… nhiều đến nỗi chẳng thể ví dụ được. Muốn nói lên sự thật này thì quả thật không hư dối. Bồ-tát Nhuyễn Thủ chính là cha mẹ của Bồ-tát vậy. Người thương xót khuyến hóa, hiển bày đạo lớn. Nói đến người thân trong đời thì phải nói đến Bồ-tát Nhuyễn Thủ. Nay ta hướng về Nhuyễn Thủ để tuyên dương báo ân, lại nói rõ ràng. Mặc dù lúc đang ăn ấy có cúng cho ta bát thức ăn nhưng ăn mãi vẫn còn. Thời xưa của ta, được ban cho trước chính là ở chỗ đó.

Bấy giờ, hai trăm vị Thiên tử sắp thoái lui, trong lòng đều nghĩ: “Ta phải kiên định ý chí, cung kính đạo pháp, tiêu trừ các nhân duyên, khử bỏ các căn nguyên. Hôm nay, Đức Thế Tôn lúc trước đã phát nguyện, Bồ-tát Nhuyễn Thủ khuyến hóa và khai ngộ nhiều người, khiến đến với đạo mà chẳng thoái chuyển Vô thượng chánh chân. Chúng ta sao lại muốn thoái lui, sao ở trước Đức Như Lai lại dấy khởi ý thấp hèn, chí lại sùng bái việc nhỏ? Nay chúng ta phải bỏ Thanh văn, Duyên giác, chí ân cần cầu ý đạo Vô thượng chánh chân.” Lúc Bồ-tát Nhuyễn Thủ duỗi bàn tay thị hiện biến hóa đến tận chỗ Đức Phật Quang Minh Vương, nơi đất nước ở phương dưới mà đặt bát vào tất cả mọi nơi, lại giảng thuyết việc nói kinh điển khai hóa thuở xa xưa, ở các cõi Phật phương dưới, số loài chúng sinh nhiều không thể kể xiết trong cõi của Đức Thế Tôn này liền phát tâm đạo. Chúng sinh khắp mười phương thế giới đều đến cúng dường Bồ-tát Nhuyễn Thủ. Các Đức Phật Thế Tôn đều điều khiển lọng báu đến cúng thí kinh điển. Lúc ấy lọng báu che trùm tam thiên đại thiên cõi Phật. Từ các lọng báu kia tự nhiên phát ra âm thanh: “Quả đúng như đấng Năng Nhân đáng kính! Quả đúng như lời Đức Như Lai đã tán dương.” Chính đây là sự khuyến hóa của Bồ-tát Nhuyễn Thủ.

 

QUYỂN TRUNG

Phẩm 4: ĐỒNG ẤU

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất:

–Giả sử có thiện nam, thiện nữ nào muốn được mau diệt độ thì phải nên phát khởi ý đạo Vô thượng chánh chân. Vì sao? Nay ta nhìn thấy họ sợ tai nạn từ vô thỉ đến nay mà chẳng chịu phát khởi ý đạo Vô thượng chánh chân, chí họ nguyện theo Thanh văn, muốn được mau diệt độ, do đó họ tiếp tục ở trong vòng sinh tử mà còn ưa thích nữa. Nhưng các Bồ-tát thì thông đạt, tinh tấn, trụ bình đẳng nơi pháp, thành tựu được các thông tuệ, tu Nhất thiết trí. Vì sao? Về thuở quá khứ xa xưa, số kiếp nhiều không kể xiết, không thể nghĩ bàn, có một vị Như Lai hiệu là Nhất Thiết Đạt Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu ra đời.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Đức Nhất Thiết Đạt Như Lai Chánh Giác có chúng hội Thanh văn có đến hàng trăm ức tuổi thọ, Đức Phật ấy trụ thế đến trăm ngàn năm. Đức Phật có vị đệ tử Thanh văn đứng đầu trí tuệ cao vời tên là Siêu Thù, có thần túc siêu tuyệt tên là Đại Đạt. Thuở đó, Đức Như Lai ra đời trong đời năm trược. Sáng sớm, Đức Phật đắp y chỉnh tề, mang bát cùng Thánh chúng quyến thuộc vây quanh đi vào thành của một nước lớn tên là Văn vật để khất thực. Vị đại Thanh văn trí tuệ tối tôn kia hầu bên phải Đức Phật. Những vị trí tuệ học rộng hiểu nhiều tối cao thù thắng thì làm tùy tùng sau Đức Phật. Tám ngàn vị Bồ-tát đi trước dẫn đường, hóa hiện hoặc thân như Đế Thích, hoặc thân như Phạm thiên, như Tứ Thiên vương, hoặc như hình dạng Thiên tử, nghiêm trang trên đường đi.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Khi Đức Như Lai sắp vào thành thì thấy có ba đứa trẻ trang sức các loại báu và chuỗi ngọc. Chúng nô đùa tự nhiên giữa đường đi. Có một đứa trẻ trông thấy Đức Như Lai sáng rỡ, uy thần hiển hách, cao vời lồng lộng, đoan nghiêm không ai bằng, chí tánh Ngài thanh tịnh đạt được sự điều thuận tuyệt vời, tịch mịch đệ nhất, các căn đã hàng phục như là rồng, voi nhân từ, như việc lớn lắng trong, không chút bợn nhơ. Ngài có ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân thể như khi mặt trời mọc, ánh sáng chiếu ngời ngời. Ngài cùng đi với đại chúng giống như mặt trăng giữa ngàn vì sao. Một đứa trẻ bảo hai đứa kia: “Các ngươi không thấy Đức Như Lai đến ư? Đây đúng là Đấng Như Lai chí tôn vô thượng của tất cả, là ruộng phước của thế gian, ánh sáng rực rỡ, huy hoàng khó ai sánh nỗi. Chúng ta đây đều nên cúng dường Ngài sẽ được lợi ích rộng lớn.”

Rồi dùng kệ tụng khen:

Bậc ấy chúng sinh kính
Ruộng phước không ai trên
Chúng ta phải dâng cúng
Cúng Ngài phước không lường
Đứa trẻ thứ hai nói kệ:
Ta nay không có hoa
Cũng không có các hương
Thánh ấy không ai sánh
Lấy gì mà cúng dường.

Đến đây, một đứa trẻ liền cởi vòng ngọc đeo cổ trị giá hàng trăm ngàn rồi dùng kệ tụng khen:

Dùng vật này hiến cúng
Đấng Phước Điền vô thượng
Người trí sáng ở đâu
Thấy Ngài đều cung kính.

Lúc ấy, hai đứa trẻ còn lại theo đứa trẻ kia, đều cởi chuỗi ngọc đeo cổ, cầm ở tay mà ca tụng:

Cúng dường Bậc Chánh Giác
Qua sóng nước sông sâu
Thoát vô lượng ý chí
Trụ trong pháp bình đẳng.

Bấy giờ, một đứa trẻ bảo hai đứa trẻ kia: “Các ngươi dùng cội gốc đức ấy, chí muốn cầu điều gì?” Một đứa trẻ đáp:

Ở cạnh Đức Thế Tôn
Bên phải đại Thanh văn
Thần tốc tối siêu việt
Ta nguyện được như ông.

Khi ấy hai đứa trẻ nói với đứa trẻ kia: “Này ngươi dùng cội gốc đức ấy muốn được điều gì?” Đáp rằng:

Muốn như Đức Như Lai
Chí Chân, Chánh Đẳng Giác
Thấy rõ khắp tất cả
Giống như sư tử bước
Soi Thánh chúng sáng rỡ
Ta nguyện được như thế
Bậc nhất ba cõi kính
Độ thoát cả mười phương.

Một đứa trẻ vừa nói lời này thì trong hư không, tám ngàn vị Thiên tử đều khen ngợi: “Hay thay! Hay thay! Chúng ta rất ưa thích lời nói này. Nay Nhân giả đã phát ý thì chư Thiên, thế gian đều được nhờ cứu giúp.”

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Bên cạnh Nhất Thiết Đạt Như Lai Chánh Giác có vị thị giả tên là Hải Ý học rộng hiểu nhiều bậc nhất. Ngài gọi mà bảo: “Ông có thấy ba đứa trẻ đều cầm chuỗi ngọc đi đến chăng?” Bồ-tát Hải Ý thưa: “Thưa Đấng Thiên Trung Thiên, con đã thấy.” Đức Thế Tôn bảo rằng: “Này Tỳ-kheo! Ông nên biết, đứa trẻ ở giữa đã kiến lập cái chí tánh cao vời khó lường kia, cứ trong mỗi một bước vượt qua được hoạn nạn cả trăm kiếp từ vô thỉ đến nay, một lần cất bước cội gốc công đức thì sẽ lại làm Chuyển luân thánh vương trăm lần, nhận địa vị Đế Thích cũng lại như thế… thăng lên cõi Phạm thiên là vua trời Phạm cũng sẽ như vậy, mỗi lần cất một bước cội gốc công đức lại gặp trăm Đức Phật.”

Ba đứa trẻ đến chỗ Đức Như Lai Nhất Thiết Đạt, cúi đầu dưới chân Ngài rồi tung chuỗi ngọc báu lên Đức Thế Tôn. Những đứa trẻ phát khởi ý nhỏ Thanh văn thì tung chuỗi ngọc lên ngang tầm mi mắt Đức Phật, còn đứa trẻ phát khởi tâm thông tuệ thì chuỗi ngọc ấy tung lên giữa hư không trên Đức Phật. Chúng biến thành đường sá, lầu đài, màn rủ, bốn bên che chắn trang nghiêm bằng phẳng. Ở trong đó hóa làm giường ngồi để Đức Như Lai dùng. Đến đây, Đức Nhất Thiết Đạt Như Lai liền vui cười. Vị thị giả hỏi Đức Phật: “Kính thưa Thế Tôn! Vì cớ gì Ngài cười? Ngài cười chắc có ý gì?” Như Lai bảo: “Này Hải Ý! Ông nhìn thấy hai đứa trẻ phát khởi ý Thanh văn, tay cầm chuỗi ngọc tung lên cúng dường Như Lai chứ?” Tỳ-kheo Hải Ý đáp: “Thưa Đại Thánh, con đã thấy.” Phật lại bảo: “Này Tỳ-kheo! Ông nên biết hai đứa trẻ đó sợ nạn sinh tử, phát khởi ý khiếp nhược, lòng mong cầu cứu giúp. Do vậy, chẳng phát ý đạo Vô thượng chánh chân mà muốn được Thanh văn làm đệ tử tôn quý. Về đời sau đều sẽ chứng đắc, một người thì trí tuệ tối tôn, người thứ hai thì thần túc vô song.”

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Ý ông nghi ngờ gì chăng? Vị đồng tử ở giữa phát khởi ý thông tuệ là bản thân ta đó. Vị đồng tử nguyện đứng bên phải chính là ông. Vị đồng tử nguyện đứng bên trái chính là Đại Mục-kiền-liên.

Này Xá-lợi-phất! Ta quán sát các ông khi ấy vốn sợ nạn sinh tử, tuy có trồng cội gốc đức mà không thể phát khởi ý đạo Vô thượng chánh chân, tâm chí khiếp nhược, muốn mau diệt độ thì chẳng thể mau chóng được. Ông nương nơi pháp của ta mà đạt được vô vi, nay ông nhìn thấy các thông tuệ của ta chăng? Bằng hữu của các ông làm đệ tử Đức Phật mới được giải thoát. Do nhân này nên ta mới quán sát như vậy. Giả sử có người muốn mau chóng diệt độ thì phải phát khởi ý đạo Vô thượng chánh chân. Vì sao? Đã nói là nhanh chóng, đã gọi là các thông tuệ thì không có gì có thể vượt qua, chắc thật mà không lừa dối. “Thừa” đó là bậc nhất, yên ổn khắp các chúng sinh thì đó là các thông tuệ vậy, là vi diệu tôn quý vô thượng, là không ai sánh bằng, là so sánh vô song, không ai có thể vượt qua, là “Thừa” vô quái ngại, tất cả thừa Thanh văn, Duyên giác đều chẳng bì kịp, đó gọi là các Thừa thông tuệ.

Khi Phật nói pháp điển Đại thừa ấy, một vạn người phát khởi đạo ý Vô thượng Chánh chân. Ngay khi ấy các vị đại Thanh văn như: Hiền giả Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, Ly Việt, Anan, Luật Hòa Lợi, Phân-nậu-văn-đà-ni Tử, Tôn giả Tu-bồ-đề… tự gieo mình xuống đất, cúi đầu dưới chân Phật, bạch Thế Tôn:

–Kính thưa Đại Thánh! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào phát khởi ý chí lớn, nên cúng dường, sẽ được đạo giải thoát vi diệu ở hạnh chí chân. Vì sao? Vì giả sử trăm ngàn các Đức Phật Thế Tôn vì chúng con thuyết giảng các hạnh thông tuệ nhưng chúng con chẳng thể kham nhận vì không có thế lực. Nếu phát tâm thông tuệ đối với Nhất thiết tuệ ấy thì không chỗ ngăn ngại thù thắng khó bì kịp. Chúng con thà phạm tội ngũ nghịch đọa vào địa ngục vô gián mà chẳng dừng lại, chứ chẳng bỏ đi ý đạo Vô thượng chánh chân để làm Thanh văn. Vì sao? Vì giả sử phạm ngũ nghịch, tội đọa vào địa ngục, chịu các khổ độc, khi khổ đau kia hết rồi, từ địa ngục thoát ra mà chẳng xa lìa, tâm không chỗ ngăn ngại các thông tuệ. Xét như hôm nay phải làm gì để không kham chịu? Thiêu đốt chánh chân, bại hoại nguồn gốc đối với Phật tuệ, đối với trí vô quái ngại thì chẳng phải pháp khí của Phật, ví như người đã chết không còn lợi ích cho thân thuộc, chúng ta dùng thừa Thanh văn để lập chí giải thoát cũng giống như vậy. Như thế là bỏ tất cả, không lợi ích cho chúng sinh. Ví như đất này làm sung túc cho tất cả chúng sinh hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân.

Bạch Thế Tôn! Cũng giống như thế những ai phát khởi ý đạo Vô thượng chánh chân thì chúng sinh ở trên chư Thiên, thế gian đều nhờ ân đức được độ cả.

 

Phẩm 5: KHÔNG TÔI TA

Bấy giờ Thế Tôn nói đầu đuôi câu chuyện ấy sắp kết thúc thì vua A-xà-thế cỡi xe tứ mã đem theo bốn binh chủng: voi, xe, bộ, kỵ, đến chỗ Phật cúi đầu dưới chân, nhiễu phải ba vòng, lùi về ngồi một bên rồi bạch Thế Tôn:

–Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Chúng sinh nương vào nhân nào để an trụ? Trụ vào nhân duyên gì để mà hưng khởi? Do điều gì mà đắc tội?

Phật bảo nhà vua:

–Chúng sinh đã trụ vào nhân, ngã, thọ, mạng. Do đó chúng sinh tạo tội lỗi, nương vào thân tham mà khởi duyên điên đảo. Nhân đó mà khởi lên tai họa.

Vua lại hỏi:

–Thân tham ấy nguồn gốc ở đâu?

Thế Tôn đáp:

–Nguồn gốc thân tham ấy là không trí tuệ.

Vua lại hỏi:

–Căn bản của không trí tuệ ấy là cái gì?

Đáp rằng:

–Căn bản là nghĩ theo tà.

Lại hỏi:

–Nghĩ theo tà thì chỗ nào là căn bản?

Đáp rằng:

–Hư giả là căn bản.

Lại hỏi:

–Hư giả chỗ nào là căn bản?

Đáp rằng:

–Các tưởng không thật chính là căn bản.

Lại hỏi:

–Các tưởng không thật thì chỗ nào là căn bản?

Đáp rằng:

–Nghĩa là vô sở hữu, vô giác là căn bản.

Lại hỏi:

–Sao gọi là vô hữu, vô giác?

Đáp rằng:

–Nghĩa là vô sinh, vô hữu gọi là vô giác.

Lại hỏi:

–Vô sinh, vô hữu thì lấy gì mà tính toán và ở chỗ nào?

Đáp rằng:

–Vô sinh, vô hữu nên không thể tính toán.

Lại hỏi:

–Sự hồ nghi do nhân duyên gì khởi lên?

Đáp:

–Hồ nghi là từ do dự khởi lên.

Lại hỏi:

–Do dự là thế nào?

Đáp rằng:

–Nghe lời nói của Hiền thánh là chân lý mà còn hoài nghi, ấy gọi là do dự.

Lại hỏi:

–Sao gọi là Hiền thánh?

Đáp:

–Hiền thánh là những người đã diệt trừ tất cả ái dục và các kiến chấp. Chân lý là biết tất cả pháp đều không thật có.

Vua A-xà-thế bạch Đức Thế Tôn:

–Đã gọi là Hiền thánh không có sở hữu thì thật là hư ngụy! Thế Tôn đã an trụ từ chốn trần lao mà tạo lập ra, nương vào sự nghe của thế gian. Các Hiền thánh đã giảng thuyết mà lòng còn do dự thì bị tội không thể kể xiết.

Bạch Thế Tôn! Cha lành của chúng con! Ngài không còn tội lỗi, không còn chỗ ràng buộc hay còn sợ nguy hiểm đến tính mạng. Con vì tham đất nước, mê hoặc của báu, mê theo vinh hoa phú quý, sản nghiệp, đắm lợi hại dân mà làm điều nghịch hại, luôn hồ nghi, kinh sợ, chẳng thể tự yên ổn, như tại cuộc vui mà đùa giỡn không chán, như ở trong cung cùng thể nữ du hý, hoặc nằm hoặc ngồi mà làm việc triều chính. Như ở riêng một mình nghe xét việc nước, xử sự bá quan, ngày đêm lo lắng không thể bỏ đi, uất kết trầm ngâm chẳng buồn ăn uống, tuy có bữa ăn thịnh soạn, chẳng thấy ngon, mắt kia mờ mờ, nhìn thấy mông lung, thân thể tiều tụy, tâm luôn run rẩy hồi hộp, ở chẳng được yên sợ sau khi chết phải đọa vào địa ngục. Con ngưỡng cầu Đức Như Lai ban cho những kẻ sợ hãi hết sợ, kẻ mù tối được mắt thấy, kẻ chìm đắm được cứu vớt, kẻ gặp khổ não được an lạc, kẻ không chỗ về được về, kẻ không được hộ trì được cứu tế, kẻ nghèo cùng được cho của cải, kẻ bệnh tật được trị liệu dứt bệnh, kẻ rơi vào đường tà được thấy nẻo chánh, kẻ đang ở nẻo chánh thì phát khởi lòng đại Bi, lòng chấp nhận lao khổ chẳng cho đó hoạn nạn, bình đẳng cứu giúp muôn loài, lòng Từ bi kiên cố, rốt ráo đầu đuôi chẳng vì khổ lạc mà lay động. Như Lai đã cứu độ chúng sinh thì không để sót một ai, không bỏ rơi một người nào.

Kính thưa Đức Thế Tôn! Người trông cậy của mọi người! Ngài ban ân an ủi trừ khử nỗi kinh sợ. Người cô đơn không ai cứu, xin Ngài ra tay cứu vớt, khiến cho kẻ đói khát được no đủ, kẻ thiếu thốn sắp quị xuống đất, xin nhờ Ngài nâng đỡ, kẻ không chỗ về, xin được trở về, kẻ chìm đắm xin gia ân cứu vớt. Bản thân con xin được không bị đọa vào địa ngục vô gián, được đến nơi không còn phân biệt.

Kính thưa Đức Đại Thánh! Đúng là cần phải thuyết giảng đạo pháp để giải quyết sự hồ nghi của con, đánh tan sự sầu kết, khiến cho con không còn do dự nữa, khiến cho trọng tội ấy được trở nên nhẹ nhàng.

Lúc này, Đức Thế Tôn nghĩ: “Vua A-xà-thế nói đã thông đạt mà còn rất vi diệu, đã vào được pháp rất thâm áo, những người khác không thể kham nhận được, muốn giải quyết được sự hồ nghi khiến vua không còn kết sử thì chỉ có ông Nhu Thủ kia mới có thể làm sạch được mọi chướng ngại.”

Bấy giờ Xá-lợi-phất vâng Thánh chỉ của Đức Phật, gọi vua Axà-thế bảo:

–Bệ hạ muốn biện luận sự nghi hoặc thì phải chuẩn bị một bữa trai soạn, rồi mời Bồ-tát Nhu Thủ đến thì sẽ giải quyết được những kết sử hư ngụy, trần lao, hồ nghi của nhà vua, trấn an được đất nước và để cho những người trong cung vua được cúng dường trai soạn. Nhờ đó, thể nữ và những người hầu trong cung được phước vô lượng, vô số chúng sinh trong thành La-duyệt, của nước Ma-kiệt đều hưởng được lợi ích.

Vua A-xà-thế liền bạch với Bồ-tát Nhu Thủ:

–Xin Bồ-tát rủ lòng thương xót, đi cùng với chúng tôi dự bữa tiểu thực.

Nhu Thủ đáp:

–Đại vương hãy thôi vì đã cúng dường đủ rồi, ở chánh pháp luật chưa có ghi điều này, nhận y phục hoặc thức ăn đầy đủ, chỉ tăng thêm lòng mong cầu.

Nhà vua lại nói:

–Phải bày tỏ thế nào để biểu lộ tấm lòng son của mình?

Nhu Thủ đáp:

–Giả sử đại vương nghe sâu xa, cái chân nghĩa đặc thù của diệu nghiệp mà không lo, không sợ, không kinh hãi, không run rẩy, thì mới là gia tăng lòng bi mẫn. Giả sử đại vương chẳng tưởng niệm pháp, cũng chẳng phải vô tưởng, không tưởng cái vô tưởng, như vậy hành giả mới gia tăng lòng thương xót. Giả sử đại vương bỏ tâm chẳng tưởng, cũng không phải chẳng tưởng, chẳng nghĩ đến tâm, cũng không có chẳng tưởng, đối với tâm hiện tại cũng không chỗ chấp thủ thì mới là gia tăng lòng ai mẫn. Giả sử đại vương cũng chẳng rơi vào tà kiến cũng chẳng diệt trừ, cũng không kiến chấp cũng chẳng phải không kiến chấp thì mới là gia tăng lòng ai mẫn.

Vua A-xà-thế lại bạch với Bồ-tát Nhu Thủ:

–Nay đã nói hết sự chuyển tải của pháp, xin Bồ-tát rủ lòng thương xót nhận lời mời ấy!

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Đại vương nên biết! Điều pháp luật ghi chép chẳng dùng ân

để ban và cúng dường người khất thực quần áo thức ăn uống, nên đại vương chẳng chấp có ngã chẳng chấp có nhân, chẳng chấp có thọ, chẳng kể có mạng thì mới là gia tăng lòng ai mẫn, mới là nhân của cúng dường. Giả sử nhà vua chẳng tự yêu thân, chẳng yêu thân người khác, tất cả đều không chấp thì mới là gia tăng lòng ai mẫn. Giả sử đại vương chẳng hộ trì tâm mình, chẳng chấp nhân duyên, chẳng ở tại các ấm, các nhập, không có pháp, bên trong không có pháp bên ngoại, chẳng ở trong ba cõi, chẳng vượt qua ba cõi, không thiện, không bất thiện, không đức, không bất đức, chẳng ở với thế gian, cũng chẳng vượt qua thế gian, không tội không phước, cũng không hữu lậu, cũng chẳng vô lậu, cũng chẳng hữu vi cũng chẳng vô vi, chẳng bỏ sinh tử, chẳng nhận diệt độ. Ấy là gia tăng lòng ai mẫn.

Nhà vua đáp:

–Đúng thế, thưa Bồ-tát Nhu Thủ! Tôi sẽ nhận lãnh đúng như lời pháp ấy. Do đó, xin Bồ-tát sẽ nhận lời mời của tôi, rủ lòng thương xót xuống những người hạ liệt chúng tôi.

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Nhà vua nên biết! Giả sử các pháp có chỗ nương tựa, có chỗ thọ lãnh, có chỗ đạt được, có chỗ cứu hộ thì chẳng cần lòng ai mẫn, chẳng cần được đến chỗ yên ổn. Giả như đối các pháp có chỗ nương tựa mà khởi lên tưởng niệm, có chỗ kiến lập mà khởi lên buông lung, đó đều là nương chấp vào tưởng niệm có chỗ ủng hộ buông lung. Giả sử đại vương mong đến cứu cánh cùng cực yên ổn vĩnh viễn mới không có khổ đau. Giả như nhà vua lại có chỗ tạo tác thì chẳng có được lòng ai mẫn, chẳng đến được sự yên ổn.

Vua A-xà-thế lại hỏi Bồ-tát Nhu Thủ:

–Thọ trì pháp gì mà không có khổ đau, đạt đến giải thoát?

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Nếu rõ được lý Không mà không tạo tác, cũng không có chỗ chẳng tạo tác. Vô tưởng, Vô nguyện, cũng không có tạo tác, cũng không chẳng tạo tác. Giả như đại vương có tạo lập mà hành động ấy là hành động của thân, miệng, ý. Đó chính là tạo tác. Giả sử chẳng có tạo tác, cũng không hành, do thân, miệng, ý. Đó chính là tạo tác. Giả sử chẳng có tạo tác, cũng không vận hành, do thân, miệng, ý không tạo nghiệp nên không tạo tác. Này đại vương! Vậy nên tất các các pháp đều không có tướng. Không vận hành ấy đã không thật có thì chính là tướng đó.

Nhà vua lại hỏi Bồ-tát Nhu Thủ:

–Sao gọi là vận hành mà không vận hành, chẳng có tạo tác cũng không chẳng tạo tác, chẳng tăng, chẳng giảm?

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Giả sử chẳng nghĩ đến quá khứ đã qua, chẳng nghĩ đến tương lai chưa tới, chẳng nghĩ đến hiện tại mà không khởi lên, chẳng tưởng thường còn hay vô thường. Đó là hành cũng không chẳng hành, điều này có thể bình đẳng với sắc, đối với các nhân duyên mà làm các duyên chẳng tăng chẳng giảm.

Nhà vua lại hỏi Bồ-tát Nhu Thủ:

–Các dục của trần lao chính là đạo ư? Thế nào là cùng hòa hợp?

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Ý nhà vua thế nào? Ánh sáng mặt trời cùng với bóng tối hòa hợp ư?

Nhà vua đáp:

–Chẳng được vậy. Ánh sáng mặt trời vừa xuất hiện thì bóng tối bị tiêu diệt.

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Nhà vua có biết bóng tối đi về đâu không? Ở phương nào?

Tích tụ ở đâu không?

Nhà vua đáp rằng:

–Chẳng biết được.

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Như vậy, nếu đại vương phát khởi đạo tuệ thì phiền não bị tiêu diệt mà chẳng biết chỗ tụ họp lại của phiền não cũng không có xứ sở, không có phương hướng. Vậy nên, bệ hạ phải biết rằng: Đạo cùng phiền não chẳng hòa hợp, lại bình đẳng với phiền não thì gọi là đạo, bình đẳng với đạo thì phiền não cũng bình đẳng. Phiền não cùng với đạo bình đẳng không sai khác. Tất cả các pháp cũng lại bình đẳng. Giả sử phân biệt như sự bàn bạc ấy thì phiền não là đạo. Vì sao? Vì có nhiều phiền não nên phải thị hiện có đạo vậy. phiền não vô hình, không thể nắm bắt. Cầu phiền não chính là cầu đạo vậy.

Nhà vua lại hỏi:

–Sao lại gọi là cầu phiền não mà là cầu đạo ư?

Ngài Nhu Thủ nói rằng:

–Giả sử có mong cầu chẳng vượt khỏi tâm người cũng chẳng nghĩ rằng đó là phiền não thì đó là tà đạo vậy. Vì thế nên phiền não là đạo. Phiền não ấy cũng nhập vào đạo.

Nhà vua lại hỏi:

–Sao gọi là phiền não mà nhập vào với đạo? Sao gọi là hành?

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Đối với tất cả pháp mà không vận hành thì mới là hành đạo.

Đối với tất cả pháp cũng không chẳng hành thì đó hành đạo.

Nhà vua lại hỏi:

–Hành đạo như thế thì đi về đâu?

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Hành như vậy là không chỗ hướng đến. Nhà vua lại hỏi:

–Đạo lẽ nào chẳng phải đến Nê-hoàn ư?

Bồ-tát Nhu Thủ hỏi:

–Có phải các pháp đến diệt độ không?

Nhà vua đáp:

–Chẳng phải vậy.

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Thưa đại vương! Như vật đạt đến không có chỗ đến là đạo của Thánh hiền.

Nhà vua lại hỏi:

–Hiền thánh ấy ở đâu?

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Đạo Hiền thánh ấy thì không chỗ trụ.

Nhà vua lại hỏi:

–Đạo Hiền thánh ấy chẳng thực hành cấm giới, học rộng hiểu nhiều, định, tuệ ư?

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Cấm giới của Hiền thánh là không có hành tướng, không có tướng buông lung, là định ý bậc Thánh. Tướng không chấp trước là định ý bậc Thánh, tướng không chỗ niệm là trí tuệ Thánh. Ý vua thế nào? Vì không có chỗ sở hành ấy không có buông lung lại có nơi chốn ư?

Nhà vua đáp:

–Chẳng phải vậy.

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Vì thế nhà vua nên biết, không chỗ trụ thì chính là đạo Hiền thánh.

Nhà vua lại hỏi:

–Thiện nam, thiện nữ, sao gọi là hướng đạo?

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Giả sử đã chẳng cầu thì chẳng nhìn thấy pháp thường, vô thường, cũng không sở đắc, chẳng chấp các pháp có tịnh không tịnh, có rỗng không, không rỗng không, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc khổ, hoặc vui. Đối với các pháp cũng không thể nắm bắt, chẳng thấy các pháp ở đầu tiên hay cuối cùng, ai muốn diệt độ thì thực hành như thế, là hướng về với đạo.

Vua A-xà-thế bạch với Bồ-tát Nhu Thủ:

–Do vậy, xin Bồ-tát hãy nhận lời mời của tôi. Nhân đây khiến cho tôi lìa khỏi các điên đảo, khiến được giải thoát phân biệt tịnh hạnh. Xin hãy cùng các quyến thuộc cùng về cung để thọ thực.

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Như vừa rồi đã nói, tất cả đều không thật có, không có sinh ra, không có “lành thay” với “chẳng lành thay”. Vô sở hữu kia không có giải thoát thì giải thoát ấy vô sở hữu, cũng không giải thoát. Cũng không giải thoát là vì sao? Vì tất cả các pháp đều tự nhiên thanh tịnh.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Nhu Thủ:

–Ông nên nhận lời mời của vua A-xà-thế. Nhờ duyên này khiến cho vô số người thành tựu được lợi ích đạt đến sự yên ổn.

Bồ-tát Nhu Thủ được Đức Thế Tôn khuyên, liền nói:

–Thưa vâng, con sẽ nhận lời mời ấy. Con chẳng dám trái lời dạy của Như Lai.

Vua A-xà-thế rất vui mừng được nhận lời mời rồi, vua phát sinh tâm thiện, cúi đầu dưới chân Đức Phật và Bồ-tát Nhu Thủ. Tất cả Thánh chúng đều lui ra. Nhà vua hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Quyến thuộc của Bồ-tát Nhu Thủ có bao nhiêu vị?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Sẽ có năm trăm người cùng đến.

Nhà vua vào thành, trở về cung. Ngay đêm ấy, vua cho dọn ra hàng trăm món thức ăn, bày ra năm trăm tòa ngồi trải nhiều tọa cụ lên trên, rồi cho treo lụa năm màu, phướn, lọng để trang hoàng cung điện, cho đốt các loại hương thơm, tung các loại hoa và ở các đường phố, ngã tư trong ngoài thành đều được quét dọn sạch sẽ, rảy nước thơm cả. Vua ra lệnh cho dân chúng trai gái, lớn nhỏ trang sức đẹp đẽ, mang theo hương hoa để cùng nghênh đón Bồ-tát Nhu Thủ.

 

Phẩm 6: TỔNG TRÌ

Bấy giờ vào lúc đầu đêm, Bồ-tát Nhu Thủ ra khỏi tịnh thất, tự nghĩ: “Bản thân ta chẳng nên cùng một số ít quyến thuộc đến chỗ nhà vua mời. Nay ta nên đến các cõi Phật khác để mời thêm các vị Bồ-tát cho họ được nghe thuyết giảng kinh pháp, đoạn trừ các hồ nghi và đến cung vua A-xà-thế thọ thực.”

Bồ-tát Nhu Thủ trong thời gian co duỗi cánh tay của lực sĩ, bỗng nhiên biến mất. Trong giây lát, Bồ-tát đã vượt qua tám muôn cõi Phật, đến tận cõi Thường danh văn ở phương Đông, Đức Phật ở đó hiệu là Ly Văn Thủ Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, hiện đang thuyết pháp. Ngài vì các vị Bồ-tát nói pháp điển thanh tịnh. Ở cõi pháp ấy, Đức Như Lai cùng một lúc chuyển pháp sáu độ vô cực, tự nhiên thông đạt đầy đủ, tuyên thuyết rộng rãi pháp không thoái chuyển. Ở cõi pháp ấy, tất cả các cây trổ không biết bao nhiêu loại hoa, quả trái sum suê. Từ những cây ấy đều tự nhiên phát ra tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng chúng Bồ-tát không thoái chuyển. Vậy nên, danh hiệu thế giới ấy là Thường danh văn.

Bồ-tát Nhu Thủ đến chỗ Đức Phật Ly Văn Thủ, cúi đầu dưới chân bạch Đức Như Lai:

–Kính thưa Thế Tôn! Xin Thế Tôn sai các vị Bồ-tát cùng với con đi đến cõi Nhẫn, tề tựu về cung của vua A-xà-thế, theo lời mời của vua.

Đức Như Lai Ly Văn Thủ bảo các vị Bồ-tát:

–Này các Thiện nam! Các ông hãy cùng với Bồ-tát Nhu Thủ đến thế giới Nhẫn cho ông ấy vui lòng.

Hai vạn hai ngàn vị Bồ-tát Đại sĩ đang ở trong hội cùng lúc lên tiếng đáp:

–Kính thưa Thế Tôn! Chúng con nguyện cùng với Bồ-tát Nhu Thủ đến cõi Nhẫn.

Lúc ấy, từ nước Thường danh văn, Bồ-tát Nhu Thủ cùng hai vạn hai ngàn vị Bồ-tát bỗng nhiên biến mất. Tất cả hiện đến trong thất của Bồ-tát Nhu Thủ. Bồ-tát Nhu Thủ nhóm họp các vị Bồ-tát Đại sĩ vào đầu đêm thuyết giảng pháp Tổng trì. Thế nào gọi là Tổng trì? Sở dĩ gọi Tổng trì vì bao gồm: Các pháp (1). Tâm chưa từng quên (2). Chí nguyện không loạn (3). Tâm ấy chưa từng bỏ phế (4). Học nghiệp trí tuệ (5). Xét tinh túy các pháp, quán sát kỹ càng nghĩa lý (6). Phân biệt chánh tuệ (7). Chứng được quả chỉ là văn tự vậy (8). Đạt đến tịch nhiên (9). Sắp đặt tất cả các pháp theo chương cú (10).

Nắm tất cả cốt yếu của Hiền thánh (1). Chẳng đoạn dứt lời Phật dạy (2). Chẳng trái với Phật (3). Bao gồm tất cả chúng Hiền thánh (4). Đối với kinh pháp, chia điển tịch (5). Nhập vào tất cả trí tuệ tuyệt vời (6). Chẳng dựa vào chúng hội, cũng không khiếp nhược

(7). Đi khắp các chúng hội tuyên dương kinh điển không sợ hãi (8). Phát xuất các thiện nam, đắn đo, kén chọn minh trí (9). Với trời, rồng, thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc thông suốt các ngôn ngữ ấy mà vì họ nói pháp (12).

Phát ra tiếng Thích, Phạm (1). Hiểu thấu bình đẳng chân chánh, biết rõ các nguồn cội (2). Biết kén chọn tà kiến các chỗ kiến lập (3). Tổng trì quan sát tất cả nguồn gốc hướng đến của chúng sinh (4). Đã trụ tâm bình đẳng (5). Đối với tám pháp thế tục chẳng chuyển động (6). Đầy đủ tất cả pháp chân chánh (7). Tùy theo tội phước, báo ứng, quả chứng của họ mà vì họ thuyết pháp (8). Khơi dậy cho chúng sinh tạo ra ý chí (9). Kiến lập cho chúng sinh sống với giới cấm (13).

Trí tuệ ấy nhập vào khắp cả (1). Vì các chúng sinh gánh vác trách nhiệm năng nề (2). Chẳng do khổ cực mà nhàm chán (3). Hiểu rõ các pháp vốn tánh thanh tịnh (4). Do bản tánh thanh tịnh ấy mà vì người diễn nói (5). Do hiểu bản tánh tuệ thanh tịnh nên thiết lập đạo nghĩa (6). Trí tuệ không ngăn ngại (7). Tu tập thiết lập pháp khí (8). Tâm ấy kiên cố, chưa từng biếng nhác, mệt mỏi (9). Đã giảng nói thì không có nghi kết (14).

Chẳng tham tất cả lợi ích cúng dường (1). Chẳng quên bỏ các tâm thông tuệ (2). Gắng sức chứa nhóm nhiều các hạnh, ưa thích vắng lặng (3). Bố thí không biết nhàm chán đều khuyến giữ gìn các thông tuệ (4). Giữ cấm giới không nhàm chán, do đó khuyến hóa được tất cả chúng sinh (5). Nhẫn nhục không nhàm chán, cầu giống như sắc thân Đức Phật (6). Tinh tấn không nhàm chán, tích tụ được các gốc đức (7). Nhất tâm không nhàm chán, tu hành tinh chuyên khiến không còn các tối tăm (8). Trí tuệ không nhàm chán nhập vào tất cả hạnh (9). Đem sự nghiệp đạo pháp đến với tất cả mà không chỗ sinh ra (15).1

Này các Thiện nam! Gọi là Tổng trì là bao gồm tất cả, không thể nghĩ bàn, yếu nghĩa các pháp, nắm giữ các pháp, không có sự tạo tác cũng chẳng phải có sự tạo tác nên gọi Tổng trì..

Lại nữa, này các Thiện nam! Tổng trì ấy là bao gồm các pháp. Sao gọi Tổng trì các pháp? Là nắm lấy tất cả các pháp, tất cả đều rỗng không, nắm lấy các pháp, tất cả không tưởng, nắm lấy các pháp, tất cả không nguyện, lìa các hành, tịch mịch không hình tướng đều không thật có, cũng không thể hiểu, cũng không thể hành, không có xứ sở, cũng không chỗ sinh, cũng không chỗ khởi, cũng không nơi đến, cũng chẳng diệt hết, không lại không qua, cũng không hoại, cũng không vượt qua, cũng không chỗ tan rã, cũng không chỗ tịnh, cũng không bất tịnh, cũng không nghiêm, cũng không chẳng nghiêm cũng không chấp trước, cũng không thật có, cũng không kiến, chấp cũng không nghe, cũng không đến, cũng không giáo hóa, cũng không hữu lậu, cũng không tưởng niệm, cũng chẳng rời tưởng niệm, không ứng, chẳng ứng, cũng không điên đảo, cũng không đầy đủ, không ta, không người, không thọ, không mạng, cũng không buông lung, cũng không giữ lấy, cũng không chấp thủ, cũng không đặc thù, giống như hư không không có tiếng khen, cũng không đạt được, không chỗ phá hoại, cũng không có hai, quả nhiên an trụ nơi bản tế. Tất cả pháp giới, tất cả các pháp đều an trụ nơi bản thể vô vi. Đó gọi là Tổng trì.

Lại nữa, này các Thiện nam! Tất cả các pháp ví như huyễn mà đều tự nhiên. Nắm giữ tự nhiên như mộng, tự nhiên như sóng nắng, tự nhiên như bóng, tự nhiên như tiếng vang, tự nhiên như hóa hiện, tự nhiên như bọt nước, tự nhiên như bong bóng, tự nhiên như hư không… phân biệt các pháp như thế thì chính là Tổng trì.

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Này các Thiện nam! Ví như sự nâng đỡ của đất không chỗ nào chẳng giống nhau, chẳng thêm, chẳng bớt, cũng không chỗ đặt để, chẳng cho là nhàm chán. Giả sử Bồ-tát đạt được Tổng trì thì có thể lợi ích tất cả chúng sinh, ban ân, cứu tế vô số kiếp, từ cội gốc đến cả các thông tuệ mà tâm Tổng trì cũng không chỗ đặt để, chẳng nhàm chán.

Này các Thiện nam! Ví như ở trên đất này, tất cả chúng sinh nhờ vào đó mà sinh sống, loài hai chân, loài bốn chân, không loài nào mà chẳng nhờ. Bồ-tát Đại sĩ đạt được Tổng trì cũng lại như vậy, nhiều loài chúng sinh được nhiều lợi ích.

Này các Thiện nam! Ví như dược thảo, cây cối, trăm giống lúa, các loại trái cây đều nhờ đất sinh ra, giả sử Bồ-tát thành tựu được Tổng trì cũng cũng lại như vậy, liền có thể mở được tất cả cội gốc đức và pháp của chư Phật.

Này các Thiện nam! Ví như sự nâng đỡ của đất cũng không chỗ đặt để, cũng chẳng lo lắng, chẳng động, chẳng lay, chẳng tăng, chẳng giảm. Bồ-tát cũng như vậy, không chỗ đặt để, chẳng lo lắng, chẳng tăng chẳng giảm, cũng chẳng lay động.

Này các Thiện nam! Ví như ở trên đất này nhận nước trời mưa chẳng nhàm chán. Như thế, Bồ-tát thành tựu được Tổng trì đều nhận tất cả kinh điển của chư Phật và pháp của các Bồ-tát. Tất cả Duyên giác, Thanh văn, kể cả người chánh kiến, người hành bình đẳng, Sa-môn, Phạm chí khác, tất cả chúng sinh ở trên trời, ở thế gian nghe nói pháp ấy chẳng nhàm chán, nghe nói kinh chẳng mệt mỏi.

Này các Thiện nam! Ví như việc gieo trồng trên đất đều theo thời tiết mọc lên, chẳng mất thời vụ, cũng chẳng lẫn lộn trái thời tiết, hợp thời vụ thì càng phát triển. Như thế, Bồ-tát đạt Tổng trì thì bao gồm tất cả các pháp công đức, chẳng xâm phạm lừa dối người, cũng chẳng trái thời, đầy đủ các hạnh ngồi ở gốc cây Phật, nơi đạo tràng, đạt đến các thông tuệ.

Này các Thiện nam! Ví như kẻ cao sĩ dũng mãnh ở các nước thành vào cuộc chiến đấu, hàng phục kẻ địch thì không ai mà chẳng theo về. Như thế, Bồ-tát đạt được Tổng trì thì ngồi ở gốc cây Phật nơi đạo tràng, hàng phục chúng ma.

Này các Thiện nam! Ví như xét tất cả pháp là thường, vô thường, nếu vi diệu thì an ổn, phi ngã và chấp cũng là vô thường cùng các lầm lỗi và khổ, cũng phi ngã. Này các Thiện nam! Vì rời hai phía nên gọi là Tổng trì.

Này các Thiện nam! Ví như hư không, không gì chẳng nắm giữ, cũng chẳng phải nắm giữ, cũng chẳng phải không nắm giữ. Như thế Bồ-tát đạt được tổng trì thì nắm tất cả yếu nghĩa các pháp.

Này các Thiện nam! Ví như tất cả các pháp và các tà kiến đều

là “không”, đều nắm lấy tất cả. Như vậy, Tổng trì là bao gồm nghĩa lý của tất cả các pháp.

Này các Thiện nam! Nếu nói về Tổng trì thì không có khi nào hết được. Do không cùng tận thì không buông lung, do không buông lung thì không ở trung gian, đã bình đẳng thì không có thân, như cõi hư không, đã như hư không thì hư không và đất đều không có hai.

Bồ-tát Nhu Thủ vừa nói xong, năm trăm vị Bồ-tát cũng chứng đắc Tổng trì này.

 

Phẩm 7: TAM TẠNG

Vào giữa đêm, Bồ-tát Nhu Thủ vì các Bồ-tát Đại sĩ giảng thuyết ba tạng bí mật của Bồ-tát. Sao gọi là yếu nghĩa của tạng bí mật của Bồ-tát? Vì các kinh pháp không điều nào chẳng quy nhập vào tạng này. Như pháp thế tục, pháp xuất thế, pháp hữu vi, pháp vô vi hoặc pháp thiện, hoặc pháp bất thiện, pháp hữu tội, pháp vô tội, pháp hữu lậu, pháp vô lậu… đều quy nhập vào tạng Bồ-tát. Vì sao? Vì hiểu yếu nghĩa kinh điển của tạng Bồ-tát thì hiểu rõ tất cả nghĩa các pháp.

Này các Thiện nam! Ví như tam thiên đại thiên thế giới này, hàng trăm ức đất đai bốn thiên hạ, hàng trăm ức mặt trời, mặt trăng, hàng trăm núi chúa Tu-di, hàng trăm ức biển lớn đều quyện hợp vào tam thiên đại thiên thế giới làm một cõi Phật.

Này các Thiện nam! Như thế pháp phàm phu và các pháp học khác như: pháp Thanh văn, pháp Duyên giác, hoặc pháp Bồ-tát và cả pháp Phật đều đến quy vào tạng Bồ-tát. Vì sao? Vì tạng Bồ-tát bao gồm tất cả Thanh văn, Duyên giác đem nuôi dưỡng Đại thừa.

Này các Thiện nam! Ví như gốc rễ của cây kia có kiên cố thì cành lá, hoa trái mới thêm sum suê. Lại nữa, này các Thiện nam! Giả như có đạt được tạng Bồ-tát thì Bồ-tát Đại sĩ mới đạt được tất cả các thừa để đem nuôi dưỡng tất cả các pháp của phước đức. Tạng Bồ-tát tên là Vô lượng khí. Gọi Vô lượng khí là ví như biển cả, chứa được nước nhiều vô lượng. Đó là vật chứa đựng bao hàm nên các Rồng, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca lưu la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc và các loại chúng sinh cầm thú đều lấy từ đó, nên còn gọi là Vô hạn khí. Kinh điển bí mật cốt yếu của tạng Bồ-tát cũng lại như vậy. Đó là sự bố thí vô hạn về văn, giới, định, tuệ, giải thoát, tri kiến. Do vậy, nên gọi là tạng Bồ-tát. Ví như loài có máu sinh ở biển cả, vì sinh ra ở đó nên chẳng uống nước nào mà chỉ uống nước biển. Như vậy, nếu Bồ-tát đã hành tạng Bồ-tát thì không tu hành các pháp khác, mà chỉ thường tu hành các pháp nghĩa thông tuệ. Do vậy nên gọi là tạng Bồ-tát.

Lại nữa, này các Thiện nam! Bồ-tát có ba tạng cốt yếu. Sao gọi là ba?

  1. Tạng Thanh văn.
  2. Tạng Duyên giác.
  3. Tạng Bồ-tát.

Tạng Thanh văn là nương theo âm hưởng người khác mà được giải thoát.

Tạng Duyên giác là hiểu rõ duyên khởi của mười hai nhân duyên, phân biệt báo ứng, chấm dứt nhân sinh khởi.

Tạng Bồ-tát là nắm giữ nghĩa lý vô lượng của các chánh pháp, tự phân biệt giác ngộ.

Lại nữa, này các Thiện nam! Thừa Thanh văn ấy không có ba tạng, Duyên giác ấy cũng không có ba tạng, chỉ có pháp Bồ-tát mới nghiên cứu, rèn luyện ba tạng mật yếu. Nhờ pháp Bồ-tát mà phát sinh ba tạng là Thanh văn, Duyên giác và đạo Vô thượng chánh chân. Vậy nên gọi là ba tạng. Bồ-tát thuyết pháp khuyến hóa chúng sinh khiến họ ở nơi ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Vô thượng chánh giác. Vậy nên Bồ-tát tên là Tam tạng. Có ba tạng này thì không học tạng khác. Những gì gọi là ba? Đó là Thanh văn học, Duyên giác học và Bồ-tát học.

Sao gọi là Thanh văn học? Sự học này chỉ làm sáng tỏ bản thân mình.

Duyên giác học thì gọi là Trung học.

Hành đại Bi thì gọi là Bồ-tát học. Sự học này đạt đến vô lượng trí tuệ, bao gồm cả đại Bi.

Thừa Thanh văn kia chẳng học theo sự học của thừa Duyên giác, cũng chẳng hiểu thấu Duyên giác. Còn Duyên giác kia chẳng học theo sự học của Bồ-tát, cũng chẳng hiểu được sự học của Bồ-tát. Nhưng Bồ-tát thì học hết sự học của Thanh văn đều hiểu rõ mà chẳng theo cái học đó, cũng chẳng khuyến khích tu theo hạnh ấy. Bồ-tát học sự học của Duyên giác, hiểu rõ hết nhưng chẳng ưa theo sự học ấy, cũng chẳng khuyến hóa tu theo cái thừa đó. Nhưng Bồ-tát lại còn học theo sự học của Bồ-tát, hiểu rõ hết cả và ưa thích khuyến hóa tu theo hạnh của thừa đó. Bồ-tát khuyến hóa bằng hạnh của mình rồi thuyết giảng hạnh giải thoát của Thanh văn. Bồ-tát cũng thuyết giảng hạnh giải thoát của Duyên giác, Bồ-tát phân biệt sự tu tập giải thoát của Bồ-tát.

Như vậy, này các Thiện nam! Bồ-tát hiểu rõ sự học này gọi là tạng Bồ-tát, giống như đồ vật đựng trong vật bằng lưu ly tức thời tự nhiên tánh chúng hiện bày như sắc lưu ly.

Như vậy, này các Thiện nam! Giả sử Bồ-tát đã được thể nhập trong tạng Bồ-tát thì đối với các pháp, Bồ-tát nhìn thấy tất cả pháp đều là Phật pháp. Giả sử Bồ-tát đã vào tạng Bồ-tát thì chẳng nhìn thấy các pháp có xứ sở. Giả sử Bồ-tát hiểu rõ các Phật thừa thì chẳng thấy hình tượng các pháp. Những ai chẳng học đến Bồ-tát học thì thấy các pháp có xứ sở. Giả sử Bồ-tát học theo sự học của Bồ-tát thì chẳng thấy các pháp có xứ sở. Giả sử Bồ-tát học theo sự học của Bồ-tát thì chẳng thấy các pháp có trụ xứ. Những ai chẳng tu hành thì chấp tất cả đều là tự nhiên. Như vậy, này các Thiện nam! Giả sử Bồtát vào tạng Bồ-tát thì nơi mọi hành động của các pháp, tất cả đều thấy là pháp của chư Phật. Giả sử, Bồ-tát vào tạng Bồ-tát thì chẳng thấy các pháp có các hình tượng. Giả sử Bồ-tát hiểu rõ các Phật pháp thì cũng chẳng nhìn thấy xứ sở các pháp. Học Bồ-tát học thì chẳng thấy chỗ quy thú của các pháp. Những ai không tu tập quán sát thì họ nhìn thấy tất cả chúng sinh nhìn thấy chẳng thuận thì Bồtát đều thấy các pháp thuận chính. Bồ-tát nhìn đến các pháp thì không có một pháp nào là chẳng phải Phật pháp cả. Vậy nên, gọi là tạng Bồ-tát.

Lại nữa, này các Thiện nam! Tạng Bồ-tát đã nói thì không bờ không đáy, dùng văn tự để diễn đạt thuận mà đúng lúc thì chẳng thể kể xiết, chỗ kiến lập của nó chẳng thể nghĩ bàn, tỏa ánh sáng xuống thì không đâu chẳng thông đạt. Ánh sáng không bờ cõi, không chỗ nào chẳng soi tới, rất nhiều ích lợi, khiến chúng sinh đều quay về các thông tuệ, lại còn khiến cho chúng sinh đều ưa thích bản thể vô vi. Giả sử có người học đến sự học kia, vừa mới học thì tất cả đều sẽ nhập vào tạng Bồ-tát. Vào được Đại thừa rồi, muốn học thì sẽ đạt được tất cả. Nếu họ chẳng đạt được Đại thừa thì cũng khiến họ đến với Đại thừa, khiến vào khắp cả. Như vậy, Bồ-tát Nhu Thủ vì các chúng Bồ-tát nhóm họp ở đây, ngay lúc nửa đêm thuyết giảng bí mật cốt yếu của kinh điển tạng Bồ-tát, phân biệt diễn giảng rộng rãi ý nghĩa mục đích hướng đến.

 

Phẩm 8: BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN

Vào cuối đêm, Bồ-tát Nhu Thủ lại vì các Bồ-tát Đại sĩ tuyên giảng rộng rãi về Bất thoái chuyển luân Kim cang cú tích.

Sao gọi là Bất thoái chuyển luân?

Lại nữa, này các Thiện nam! Sở dĩ gọi Bất thoái chuyển luân là như khi nghe Bồ-tát thuyết giảng kinh pháp nếu có người đến nghe thì đều hiểu được nghĩa lý rồi quay về luôn, chẳng quay trở lại, do thuyết giảng về Bất thoái chuyển luân khiến cho họ ưa thích, tin tưởng. Hạnh Bất thoái chuyển luân của Bồ-tát là chẳng vì chúng sinh tạo ra một số hạnh, chẳng vì các pháp tu một số hạnh, chẳng ở trong đất nước sinh khởi một số hạnh, chẳng đối với chư Phật khởi lên một số hạnh, chẳng ở các thừa tu hành một số hạnh, tất cả chỗ đến đều nhìn thấy khắp, chuyển bánh xe pháp mà chẳng hủy hoại pháp giới. Đó mới gọi là Chuyển pháp luân. Vậy nên, có tên là Bất thoái chuyển luân, do đã chuyển bánh xe mà không đoạn dứt. Bánh xe ấy đúng lý thì không có hai. Như vậy, bánh xe ấy đúng là bánh xe Từ bi. Ý nghĩa nẻo về tự nhiên của bánh xe ấy là ở chỗ mình đã đến. Chỗ hướng về của bánh xe ấy là bánh xe đạo tràng pháp giới.

Lại nữa, này các Thiện nam! Giả sử Bồ-tát tin tưởng, ưa thích hạnh Bất thoái chuyển luân ấy giải thoát được khổ đau của bản thân mình, tin tưởng, ưa thích tất cả những điều đã tin, tất cả tư tưởng mà Như Lai đã dấy khởi cũng đều tin cả. Do tin nên được giải thoát đối với Như Lai thì không có hai giải thoát, cũng chẳng nói có hai, như tướng tốt giải thoát của Như Lai ấy là tướng các pháp, là tất cả pháp tướng. Tin Như Lai giải thoát thì không có tướng, đã lìa tướng giải thoát thì tự nhiên tế độ được bản thân mình. Hạnh như thế thì đâu có thể hơn được, cũng đâu có thể vượt qua tuệ ấy được. Vậy nên gọi là Bất thoái chuyển luân.

Lại nữa, này các Thiện nam! Bất thoái chuyển luân chẳng quay trở lại sắc. Sắc là tự nhiên vậy. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Thức chẳng thoái chuyển, thức cũng tự nhiên. Vì sao? Vì thức chẳng thoái chuyển đối với tất cả các pháp, giống như bản thể vô vi chính là pháp luân. Vậy nên, gọi là Bất thoái chuyển luân. Pháp luân ấy không có bờ cõi, hạn định, không ràng buộc, không góc cạnh, không có đoạn dứt, không thường hằng vậy. Pháp luân ấy không có pháp môn, không có hai nên chính là cửa pháp luân. Pháp luân ấy không thể chuyển, không chuyển được nên pháp luân ấy cũng không thể nói. Pháp luân ấy không thể nói nên pháp luân ấy cũng không có danh xưng, không chỗ hiển hiện chiếu sáng, pháp luân ấy không đạt được vậy.

Lại nữa, xét về Bất thoái chuyển luân này vào hư không thì không có tướng trụ vào cửa thanh tịnh thì không có tướng đến nhưng đến khắp nơi vì tướng rỗng không. Tất cả đều an trú ở cội gốc thanh tịnh vô tướng. Vậy nên gọi là Bất thoái chuyển luân.

Lại nữa, này các Thiện nam! Bất thoái chuyển luân có chỗ đi mà có chỗ đến. Vậy nên gọi là Bất thoái chuyển luân. Có chỗ buông bỏ có chỗ đi đến cho nên gọi là Bất thoái chuyển luân.

Như thế, Bồ-tát Nhu Thủ nói với các vị Bồ-tát:

–Này các Thiện nam! Sở dĩ gọi là Kim cương cú tích vì tất cả các pháp đều tịch diệt. Sao gọi là tất cả các pháp đều tịch diệt? Này các Thiện nam! Đã thấu rõ lý không, chính là Kim cương cú tích. Tiêu trừ sáu mươi hai tà nghi nên vô tướng ấy là Kim cương cú tích.

Đoạn trừ tất cả các tưởng niệm nên vô nguyện ấy là Kim cương cú tích. Vượt hết tất cả năm đường hữu vi, khiến được tịch diệt nên pháp giới ấy là Kim cương cú tích. Siêu việt bao nhiêu bờ cõi nên bản thể vô vi ấy là Kim cương cú tích. Đạt đến vô ngã tịch diệt nên lìa khỏi sắc dục ấy là Kim cương cú tích. Diệt trừ tham dục, sự chấp trước nên duyên khởi hành ấy là Kim cương cú tích. Chẳng hoại bản tánh, xét rõ vô vi ấy là Kim cương cú tích, thấy các pháp tự nhiên….

Bồ-tát Nhu Thủ vì các vị Bồ-tát phân biệt khắp các pháp trọn ba đêm liền, các vị Bồ-tát kia đều được thân cận với Tam-muội Quang Minh. Bồ-tát đạt đến định này thì mỗi một lỗ chân lông phóng ra trăm ngàn ánh hào quang, mỗi một ánh hào quang hóa hiện trăm ngàn các Đức Phật. Nghi dung các Đức Phật ấy lại giống Đức Phật Thiên Trung Thiên của cõi Phật hiện tại, đang làm Phật sự, khai đường dẫn lối cho chúng sinh. Các Đức Phật ấy được tất cả chúng sinh nghênh đón, nghe nhận giáo pháp.

 

Phẩm 9: BIẾN ĐỘNG

Rạng ngày hôm sau, bấy giờ vua A-xà-thế dậy sớm, đến chỗ Bồ-tát Nhu Thủ cúi đầu thưa:

–Vật phẩm cúng dường đã bày biện rồi, đã đến lúc xin Bồ-tát khởi hành.

Hiền giả Đại Ca-diếp sáng nay dậy sớm, đắp y, mang bình bát cùng với năm trăm vị Tỳ-kheo sắp vào đại thành Xá-vệ khất thực. Đến giữa đường Tôn giả Ca-diếp nghĩ: “Ta đi khất thực quá sớm như vậy mới có thể gặp được Bồ-tát Nhu Thủ”, nghĩ xong liền đi đến. Tôn giả cùng với Bồ-tát bàn luận giải bày rộng rãi, những điều cốt yếu.

Bồ-tát Nhu Thủ nói với Tôn giả Đại Ca-diếp:

–Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp! Còn sớm, sao đã đến?

Tôn giả Đại Ca-diếp đáp:

–Muốn đi khất thực sớm để học hỏi Đại sĩ.

Bồ-tát Nhu Thủ nói:

–Nay Tôn giả nên cùng quyến thuộc tề tựu về chỗ trai soạn cúng cho tôi thì tôi sẽ cúng cho Tôn giả thực phẩm.

Tôn giả Ca-diếp đáp:

–Vật phẩm cúng dường đã có được rồi. Tôi vì pháp nên đến đây, chẳng vì ăn uống!

Bồ-tát Nhu Thủ lại nói với Tôn giả Ca-diếp:

–Tôn giả nhận lời mời là nhận cả hai việc: Cúng dường đại pháp và đồ ăn thức uống, cũng chẳng chọn đạo pháp cũng chẳng bỏ việc ăn uống

Tôn giả Ca-diếp đáp:

–Chúng tôi chỉ trân trọng đạo pháp, tuyệt đối chẳng vì ăn uống. Chúng tôi đem hết thân mạng, ý chí suốt đời bảo tồn đạo pháp. Vì sao? Vì chúng tôi chẳng theo người khác mới có thể đạt đến được. Chẳng hạn như pháp môn này, nghĩa chân chánh mà Bồ-tát đã nói.

Rồi lại hỏi:

–Thưa Bồ-tát Nhu Thủ! Hôm nay Bồ-tát và các Bồ-tát vì sao thọ thực?

Bồ-tát Nhu Thủ đáp lại:

–Chúng ta thọ thực và bố thí cho họ, việc này cũng chẳng lợi ích lâu dài, cũng chẳng hao tổn, chẳng động đến sinh tử, chẳng gần với Nê-hoàn, cũng chẳng vượt qua cõi phàm phu, cũng chẳng chứng minh pháp của Hiền thánh, chẳng vượt Thanh văn chẳng bỏ Duyên giác. Chúng ta sẽ nói việc thỉnh mời kia, việc bố thí ấy cũng chẳng trừ sạch tuệ thanh tịnh cùng sự hiểu biết chẳng tồn tại mà ích lợi, chẳng đến được giải thoát; đối với kinh pháp cũng không chỗ dấy khởi, cũng chẳng đắc pháp, cũng không chỗ cởi bỏ.

Tôn giả Ca-diếp đáp:

–Đúng là đại thí, bố thí vô cực, đã vào đến chỗ bản thể vô vi vậy.

Bấy giờ Bồ-tát Nhu Thủ tự nghĩ: “Hôm nay vào thành chắc được Đức Phật cảm động biến hóa.” Ngay lúc ấy Bồ-tát dùng thần túc Tam-muội biến động để nhập định. Khi vừa dùng định này để nhập định tức thời tất cả tam thiên đại thiên thế giới, khắp nơi đều bằng phẳng như bàn tay. Ở khắp cõi Phật này được ánh đại hào quang kia soi khắp, không đâu chẳng tới. Ánh sáng ấy đến địa ngục thì mọi khổ đau tức thời ngưng nghỉ, đến với loài súc sinh, ngạ quỷ thì các bất an tức thời được yên ổn, tâm tưởng của các loài chúng sinh đều được khai mở, không còn tham giận, không xan tham ganh ghét, cũng không dua nịnh, không có các kết sử, sân hận kiêu mạn, không chỗ dấy khởi, cũng không phiền não.

Bấy giờ, chúng sinh nhìn thấy nhau như cha mẹ, thấy tam thiên đại thiên thế giới này chấn động. Thiên tử Dục Hành, Thiên tử Sắc Hành đều đến chúng hội để cúng dường Bồ-tát Nhu Thủ. Họ tấu nhạc, đờn ca, diễn xướng hàng trăm ngàn thứ, mưa hoa trời xuống trang nghiêm đường đi. Bồ-tát Nhu Thủ vừa khởi các định ấy, thì từ thất Bồ-tát đến cửa thành, tự nhiên đường cái bằng phẳng, vừa rộng vừa dài đều được trang hoàng bằng vô số bảy báu trân quý, có bao nhiêu vật dụng trang trí tự nhiên xuất hiện, báu vật nhiều không kể xiết hóa làm hào báu. Trong hào ấy mọc lên hoa sen, cành hoa chen đầy đỏ hồng rực rỡ. Trên hào hóa ra chuỗi ngọc giăng, màn phủ dựng lên cờ, phướn, lọng, hoa bằng lụa là năm sắc. Giáp vòng hào ấy đều có lan can. Bên trái, bên phải lan can đều có cây báu rất cao to. Các cây báu được nối kết lại với nhau bằng những sợi dây báu. Bên cạnh mỗi một cây báu đều có giá báu, trên đặt lư hương đốt các loại hương thơm quý giá. Mỗi một lư hương đốt các loại hưong thơm xa đến bốn mươi dặm. Khoảng giữa các cây hóa ra ao tắm báu, trong các ao ấy tràn đầy nước tám vị. Đáy ao toàn là cát bằng vàng, lan can quanh khắp ao bằng các thứ báu. Bờ ao bằng lưu ly. Dưới ao mọc toàn hoa sen xanh. Đất dưới những cây báu cũng bằng các thứ báu. Trên tất cả đất báu đặt các lư hương báu, đốt các loại hương quý. Nơi mỗi một cây báu có năm trăm ngọc nữ đứng thẳng hàng. Họ đều kiến lập công đức bố thí.

Bồ-tát Nhu Thủ vừa dùng định Tam-muội chánh thọ này, ngay khi ấy có thầy ngoại đạo kia thị hiện biến hóa, lồng lộng không lường, không đâu chẳng phô bày.

Bồ-tát Nhu Thủ liền đứng dậy, đắp y, mang bát, chuẩn bị ra đi. Bồ-tát nói với Tôn giả Ca-diếp rằng:

–Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp! Tiện thể xin đi lên trước, tôi xin đi theo sau. Vì sao? Vì Tôn giả niên kỷ đã cao, thuộc hàng kỳ túc, vốn tu phạm hạnh, làm Sa-môn đã lâu, chưa gặp Đức Như Lai mà đã xuất gia tu học. Kể ra thế gian đã có nhiều La-hán theo Tôn giả tu học. Do vậy, nên Tôn giả phải đi trước, tôi nay xin theo sau.

Tôn giả Ca-diếp đáp:

–Xét theo pháp luật thì chẳng lấy tuổi tác làm tôn trưởng. Theo pháp luật thì lấy trí tuệ làm tôn trưởng. Thần trí bậc thánh mới là đáng tôn kính, học nhiều hiểu rộng, có biện tài thì mới gọi là tôn trưởng, các căn minh triệt mới gọi là tôn trưởng, thông hiểu pháp luật mới là tôn trưởng. Do những điều kể trên, Bồ-tát Nhu Thủ trí tuệ lồng lộng, học rộng hiểu nhiều, thông đạt hết các biện tài vô ngại, hiểu rõ nguồn gốc chúng sinh nên Bồ-tát rất to lớn, rộng rãi, cao xa. Bồ-tát quả là một bậc Đại tôn trưởng. Vậy nên, Đại sĩ phải đi trước, tôi xin đi sau.

Nay muốn ví dụ để phân biệt ý nghĩa này, Tôn giả Ca-diếp nói tiếp:

–Ví như con của sư tử vừa sinh chưa lâu, tuy là còn nhỏ, khí lực chưa thành, nhưng bước đi của sử tử con ấy còn lưu lại cái hơi của nó khiến nai rừng, các thú vật đánh được cái hơi mạnh ấy đều trốn chạy hết. Như có con voi lớn sáu ngà, sáu mươi năm tuổi, thân cao lớn, nếu dùng dây da buộc con voi ấy ba lớp mà nó đánh được hơi uy mãnh của sư tử con thì sợ hãi, kinh hoàng, khích động hết sức, vùng đứt ba lớp dây trói, vội vàng chạy trốn mất vào nơi hang hốc, khe suối, rừng rậm, hốc cây… Nếu vào sông lớn thì tự lặn mất. Chim làm tổ trên cây, cố che khuất. Thú chạy dưới đất náu mình ẩn trốn. Loài dưới nước như cá, ba ba, lặn sâu xuống vực cho đến các loài chim bay lượn giữa hư không, Bồ-tát phát tâm cũng lại như vậy. Giả sử người phát tâm, trí tuệ đạo lực chưa được thành tựu, lòng còn khát ngưỡng, học tập bước sư tử, đi qua con đường của các bậc Thanh văn, Duyên giác thì tất cả chúng ma ở cung điện Tự tại đều sợ hãi, chẳng được tự yên ổn. Giả sử sư tử con thấy các sư tử khác thế lực uy mãnh, nếu con sư tử này gầm lên, sư tử con nghe âm thanh ấy chẳng kinh, chẳng sợ cũng chẳng sợ hãi, không sợ hoạn nạn mà càng thêm vui mừng, hớn hở. Nương theo thế lực ấy, sư tử con cũng sẽ gầm lên. Như vậy, Đại sĩ Nhu Thủ khi nghe Đức Phật gầm tiếng sư tử thì chẳng lo lắng, cũng chẳng sợ hãi, không sợ hoạn nạn mà còn vui mừng hớn hở, tâm yên ổn vậy. Tôi cũng sẽ tập tiếng gầm sư tử của Phật như hôm nay. Giả sử có nói về sự bình đẳng của bậc Chánh chân, bậc Duyên giác, bậc Thanh văn là Đức Như Lai vì tôn trọng sự phát tâm Bồ-tát, điều ấy chính là căn bản. Lời nói ấy chí thành, bình đẳng, không tà vạy. Vì sao? Vì chính do điều ấy sinh ra tất cả các pháp mà hiển hiện khắp nơi. Do vậy nên tôi biết rõ Đại sĩ Nhu Thủ là bậc đáng tôn kính. Tuổi Đại sĩ tuy nhỏ mà đã là bậc Thánh tôn trưởng nên phải đi trước, tôi nên theo sau.

Bồ-tát Nhu Thủ liền đi trước, rồi đến các Bồ-tát, các chúng Thanh văn mới theo sau. Bồ-tát Nhu Thủ vừa hướng về con đường báu trang nghiêm thì trời đổ mưa hoa, vô số nhạc cụ chẳng tấu mà tự vang lên. Ngay lúc ấy, đất đai chấn động, ánh hào quang lớn không đâu mà chẳng soi thấu. Khi ấy, Bồ-tát Nhu Thủ đã thị hiện biến hóa, uy thần cảm động, phóng ánh hào quang lớn, mưa hoa, xông hương các tiếng âm nhạc hòa nhau tấu lên mà tiến vào thành Vương xá. Vua A-xà-thế suy nghĩ: “Bồ-tát Nhu Thủ cùng với hai mươi ba ngàn chúng Bồ-tát và các quyến thuộc Thanh văn làm tùy tùng đang trên đường đi đến, vua liền lo sợ. Hôm nay, ta chuẩn bị vật phẩm cúng dường cho năm trăm người mà người đến thì nhiều quá, đâu có thể cúng dường đều khắp được! Chư vị đã ngồi vào rồi, lấy gì để dùng đây?” Rồi vua lại nghĩ: “Bồ-tát Nhu Thủ quả nghi ngờ nhau mới phát khởi tâm này.”

Ngay khi ấy, Bồ-tát Nhu Thủ đã kiến lập thần oai thánh đức, vua trời Tức Ý liền tự hóa thân làm quỷ thần Kim Tỷ, biến hiện thân thể vi diệu, gọi vua A-xà-thế bảo:

–Đại vương hãy yên tâm, chớ lo nghĩ khiến mệt long thể. Bồtát Nhu Thủ phương tiện, quyền xảo khéo léo, trí Tuệ vô cực, thị hiện công đức lớn, uy linh hiển hách, thần lực sáng rực rỡ. Bồ-tát lên đường đến đây thì phần ăn của một người có thể dùng cho khắp cả tam thiên đại thiên thế giới chúng sinh đều được no đủ, huống gì ở đây chỉ có hai mươi ba ngàn quyến thuộc đến mà thôi. Vậy nên, chẳng đủ khiến đại vương lo nghĩ khó nhọc. Đại vương hãy an tâm, chớ lo thêm vật phẩm cúng dường. Tất cả những người đến đây đều sẽ được no đủ hết. Vì sao? Vì Bồ-tát Nhu Thủ được sự hộ giúp rộng lớn không cùng tận, khó lường được.

Khi ấy vua A-xà-thế vui mừng không tự kềm chế được phát ý nghĩ rộng lớn về Bồ-tát Nhu Thủ như Phật Thế Tôn. Vua A-xà-thế cùng các quần thần, quan lại trong cung mang theo hương hoa, các thứ bột thơm, quần áo, cờ, phướn, lọng bằng lụa năm màu, nhạc cụ, đàn cầm, đàn sắt, không hầu… đến phụng nghênh Bồ-tát Nhu Thủ. Họ cúi đầu làm lễ xong, theo hầu Bồ-tát Nhu Thủ vào thành về cung.

Khi Bồ-tát Nhu Thủ cùng các quyến thuộc mới vào thành, nhân dân nội thành đều mang của cải đến để cúng dường. Ở trong hội có một vị Bồ-tát tên là Phổ Quán, Bồ-tát Nhu Thủ bảo vị ấy:

–Này Thiện nam! Hãy khiến cho cung điện, nhà cửa kia che chở hết chúng hội.

Vị ấy liền nhận lời, quan sát trái phải, thấy được khắp cung điện của vua A-xà-thế. Tự nhiên cung điện rộng lớn, lọng hoa bằng lụa năm sắc treo giăng, cờ phướn dựng đầy. Đất ở cung vua bằng phẳng, rộng rãi, tung đầy hương hoa. Lại có vị Bồ-tát tên là Pháp Siêu, Bồ-tát Nhu Thủ bảo vị ấy:

–Này Thiện nam! Hãy bày biện trang nghiêm các tòa ngồi.

Vị ấy liền nhận lời ngay. Chỉ trong khoảnh khắc, ở cung điện kia tự nhiên đầy đủ giường ngồi cho hai mươi ba ngàn người với ngần ấy loại trang hoàng vi diệu trang nghiêm, vô số tọa cụ trải trên đó. Bồ-tát Nhu Thủ và các vị Bồ-tát đều đến ngồi vào chỗ, tiếp theo là hàng Thanh văn.

Nhà vua thấy Bồ-tát Nhu Thủ, các vị Bồ-tát và các vị Thanh văn ngồi xong, tự đến trước thưa rằng:

–Xin quý Ngài hãy đợi trong giây lát, để tôi bày biện thêm vật phẩm cúng dường.

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Đại vương hãy an tâm, tự khắc sẽ đầy đủ, chớ lấy làm nhọc sức.

Khi ấy, Tứ Thiên vương cùng với quyến thuộc đều đến hầu cúng Bồ-tát Nhu Thủ. Lại có Thiên đế Thích, phu nhân Lương Thiện và hàng ngàn ngọc nữ mang đến nào là chiên-đàn của trời, đủ loại hương nào là hương mật, hương bột dùng để tung lên cúng dường tất cả các vị Bồ-tát, các vị Thanh văn. Khi các vị Bồ-tát thấy các hoa hương và các ngọc nữ thì họ không tưởng đến ngọc nữ, không tưởng đến hoa hương. Trời Phạm Nhẫn Tích hóa làm thân hình của Phạm chí Ma-nạp, tay cầm quạt đứng hầu bên trái Bồ-tát Nhu Thủ, dùng quạt để quạt. Các Thiên tử cõi Phạm đều cầm quạt hầu các vị Bồtát, đều đứng quạt. Vua rồng Vô Nhiệt ẩn mình trên hư không thả rủ xuống một chuỗi trân châu. Từ trong chuỗi trân chân ấy tuôn ra nước tám vị, vừa trong mát vừa ngọt lành, cung cấp đủ dùng cho các vị Bồ-tát ấy. Trước các vị Thanh văn đều có rủ chuỗi ngọc xuống cũng tuôn ra nước ngon lành để cung cấp cho các vị ấy dùng. Vua A-xàthế tự nghĩ: “Các vị Bồ-tát này chẳng mang theo bát, họ sẽ dùng thế nào?”

Bồ-tát Nhu Thủ biết tâm vua nghĩ nên bảo:

–Các vị Chánh sĩ ấy đi đến đây chẳng mang bát đi theo. Họ có thể đi qua các cõi Phật, vừa ngồi xuống muốn ăn là bát tự nhiên hiện ra do các vị Bồ-tát ấy đã kiến lập được. Hơn nữa, Đức Như Lai ở chỗ các vị Bồ-tát ấy xưa đã từng tạo nguyện như thế.

Bát từ hư không hiện đến trong bàn tay các vị Bồ-tát. Vua Axà-thế hỏi Bồ-tát Nhu Thủ:

–Các vị Bồ-tát này từ cõi Phật nào đến? Thế giới đó tên gì?

Đức Như Lai Chánh Giác hiệu là gì?

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Thế giới tên là Thường danh văn, Đức Như Lai hiệu là Ly Văn Thủ, nay đang thuyết pháp. Các vị Bồ-tát này từ đó đến tham dự buổi cúng dường của nhà vua là muốn được thức tỉnh sự hồ nghi của nhà vua vốn ôm ấp hư vọng.

Khi chí nguyện của các vị Bồ-tát đã kiến lập được bản nguyện của Đức Như Lai thì bát từ hư không tự nhiên bay đến, rơi vào ao nước tám vị của rồng Vô Nhiệt, tẩy rửa sạch sẽ rồi đến chỗ các vị Đại sĩ. Hai vạn ba ngàn thể nữ rồng mang hương thơm đặt vào tay các vị Bồ-tát. Thấy thế nhà vua càng thêm hớn hở, liền cúi đầu trước Bồ-tát Nhu Thủ. Bồ-tát Nhu Thủ bảo nhà vua:

–Hãy bày biện phẩm vật cúng dường, nên biết đã đúng thời.

Nhà vua nhận lời chỉ giáo, liền cho bày thức ăn lên bao nhiêu là món ăn ngon lành trân quý. Tất cả đều dùng mà thực phẩm chẳng giảm bớt. Như vậy, thức ăn của vua A-xà-thế vốn chỉ cúng dường cho năm trăm vị, thì bây giờ đủ cho hai mươi ba ngàn vị đều đủ mà thức ăn vẫn như cũ. Vua A-xà-thế bạch Bồ-tát Nhu Thủ:

–Thức ăn hiện vẫn như cũ, sao chẳng giảm bớt?

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Giống như nhà vua hôm nay, hồ nghi chưa hết, nghi ngờ chưa hết nên giống như thức ăn ấy, dùng mà chẳng tiêu mất.

Các vị Bồ-tát dùng cơm xong liền lấy bát ấy ném lên không trung, bát ở giữa hư không, không chỗ nương tựa mà chẳng rơi rớt.

Vua A-xà-thế hỏi Bồ-tát Nhu Thủ:

–Hôm nay, các bát ấy sao dừng được vậy?

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Giống như sự hồ nghi của đại vương còn tồn tại, nay các bát ấy đang ở nơi kia.

Nhà vua đáp:

–Bát không có chỗ đứng.

Bồ-tát Nhu Thủ đáp:

–Giống như nhà vua đã có hồ nghi thì cũng không có chỗ đứng. Nay các bát này không chỗ y cứ mà chẳng rơi rớt. Như vậy các pháp đều không thật có, cũng không có chỗ trụ. Do đó, các pháp cũng không đọa lạc.

 

QUYỂN HẠ

Phẩm 10: QUYẾT NGHI

Đến đây, vua A-xà-thế thấy các vị Bồ-tát và chúng Thanh văn ăn xong, rửa tay rồi, nhà vua lấy cái giường thấp, ngồi trước Bồ-tát Phổ Thủ để lắng nghe thuyết pháp. Nhà vua thưa:

–Kính xin Bồ-tát Phổ Thủ giải cho tôi sự hồ nghi.

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

–Sự hồ nghi đại vương dù cho hằng hà sa số các Đức Phật Thế Tôn cũng chẳng có thể giải quyết được.

Khi nhà vua tự xét mình không cứu, không hộ được nên rơi từ giường xuống như cây đại thọ bị xô đổ xuống đất. Tôn giả Đại Cadiếp nói:

–Xin đại vương hãy tự yên ổn, chớ hốt hoảng, chớ lấy làm sợ hãi. Vì sao? Vì Bồ-tát Phổ Thủ mặc áo giáp đại đức, phương tiện thiện xảo mà thiết lập lên lời nói này. Nhà vua có thể từ từ mà hỏi.

Nhà vua liền bắt đầu hỏi Bồ-tát Phổ Thủ:

–Thưa Đại sĩ! Sao Đại sĩ nói sự hồ nghi của tôi dù cho số Đức Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng cũng không thể vì tôi giải quyết được?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

–Ý nhà vua thế nào? Các Đức Phật Thế Tôn duyên theo tâm mà làm ư? Đáp:

–Chẳng phải vậy.

Bồ-tát Phổ Thủ lại hỏi:

–Các Đức Phật Thế Tôn phát tâm mà làm ư?

Đáp rằng:

–Chẳng phải vậy.

Các Đức Phật Thế Tôn diệt tâm mà làm ư?

Đáp rằng:

–Chẳng phải vậy.

Lại hỏi:

–Các Đức Phật Thế Tôn làm theo hữu vi ư?

Đáp rằng:

–Chẳng phải vậy.

Lại hỏi:

–Các Đức Phật Thế Tôn đã dạy hành vô vi ư?

Đáp rằng:

–Chẳng phải vậy.

Bồ-tát Phổ Thủ lại hỏi:

–Ý vua thế nào? Các pháp ấy mà không có pháp, không có người thực hành, không có chỗ hướng đến mà có thể có người giáo hóa đối với sự đoạn trừ pháp đó sao?

Đáp rằng:

–Chẳng phải vậy

Bồ-tát Phổ Thủ nói tiếp:

–Nhà vua nên biết, do vậy tôi mới nói lời này, sự hồ nghi của nhà vua dù cho các Đức Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng cũng chẳng thể giải quyết được.

Lại nữa, này đại vương! Giả sử có người tự nói rằng: “Ta lấy bụi đất, tro, khói, mây mù làm cho ô nhiễm hư không.” Người ấy đủ sức làm ư?

Đáp rằng:

–Chẳng thể làm ô nhiễm được!

Bồ-tát Phổ Thủ lại hỏi:

–Giả sử đại vương sai tôi lấy hư không này đem rửa sạch, tôi làm được ư?

Đáp rằng:

–Không thể được!

Bồ-tát Phổ Thủ lại nói:

–Thưa đại vương! Như vậy bản thân Đức Như Lai hiểu rõ các pháp giống như hư không. Đã thành Tối chánh giác thì tự nhiên thanh tịnh, không chỗ nhiễm ô. Vì vậy, nên thấy có pháp nào bị ô nhiễm là thấy ngược ư? Đâu có thể thấy rõ là trừ sạch được? Đại vương hãy quán sát cái nhìn của pháp ấy. Vì vậy nên vừa rồi tôi nói rằng: “Các Đức Phật Thế Tôn nhiều như các sông Hằng cũng chẳng thể giải quyết được vậy.”

Lại nữa, này đại vương! Các Đức Phật Thế Tôn chẳng chứng đắc bên trong tâm mà có chỗ trụ, chẳng chứng đắc bên ngoài tâm mà có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả các pháp tự nhiên thanh tịnh, không có xứ sở. Tự nhiên ấy là không có xứ sở, không có chí nguyện. Có chỗ trụ ấy là vì sao? Là vì được tự tại vậy!

Các pháp tự nhiên nên không tự nhiên vậy!

Các pháp không kiến lập nên không ngã đổ vậy!

Các pháp không thật có nên không thể nắm bắt vậy!

Các pháp rời khỏi hình dáng nên không hình dáng vậy!

Các pháp rỗng rang nên không ngăn ngại vậy!

Các pháp không có tướng giáo hóa nên không thể giáo hóa vậy!

Các pháp tự nhiên không vướng mắc nên lìa khỏi chấp trước vậy!

Các pháp bỏ nơi hướng đến nên không hướng đến vậy!

Các pháp không biệt ly nên không biệt ly vậy!

Các pháp không chỗ sinh nên không chỗ nương tựa vậy!

Các pháp tự nhiên thanh tịnh nên tâm tánh thanh tịnh vậy!

Các pháp không phân chia bình đẳng như hư không nên không gì so sánh vậy!

Các pháp không bè đảng nên không có bạn bè vậy!

Các pháp lìa khỏi hai nên không có hai vậy!

Các pháp rỗng lặng nên không lường vậy!

Các pháp không chấm dứt nên không biên tế vậy!

Các pháp không bến bờ nên không chân thật vậy!

Các pháp từ điên đảo chẳng chân thật mà không có chỗ trụ nên không điên đảo vậy!

Các pháp thường thanh tịnh, được an ổn rồi nên yên ổn vậy!

Các pháp không nơi hướng đến nên thanh tịnh vậy!

Các pháp vốn thanh tịnh, do minh đạt nên đã tự nhiên vậy!

Các pháp vô ngã mà hiện sáng nên yên ổn vậy!

Các pháp không tưởng niệm nên không do dự vậy!

Các pháp bên trong tịch nhiên nên không lừa dối vậy!

Các pháp hoàn toàn không chân thật nên tịch mịch vậy!

Các pháp tướng rỗng rang nên không có ngã, ngã sở vậy!

Các pháp trừ tận ngã nên không xuyên thủng rơi rớt vậy!

Các pháp tướng giải thoát nên về với tịch diệt vậy!

Các pháp lìa nhớ nghĩ nên không sợ sệt vậy!

Các pháp lìa số lượng nên tạo ra “một bình đẳng” vậy!

Các pháp đều ngự thoát nên hoảng hốt vậy!

Các pháp chẳng tưởng, chẳng bờ cõi nên không có tưởng vậy!

Các pháp không hủy hoại cái duyên an nhàn tịch mặc nên thuận với lý không vậy!

Các pháp lìa các kiến chấp nên không có nguyện cầu vậy!

Các pháp lìa được ba đời nên đoạn dứt được ba đời vậy!

Các pháp không quá khứ, vị lai và hiện tại nên vô vi bình đẳng vậy!

Các pháp hoàn toàn vô sinh nên theo ý nhà vua thì thế nào? Pháp kia không sinh cũng không khởi, cũng không thật có, không chân đế, đâu ai có thể làm ô nhiễm nó được ư?

Nhà vua đáp:

–Chẳng được vậy.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

–Pháp kia chắc có thể đoạn trừ được chăng?

Đáp rằng:

–Chẳng được vậy.

Bồ-tát Phổ Thủ lại nói:

–Tất cả các pháp bình đẳng với Nê-hoàn. Đức Như Lai hiểu được điều này nên đạt đến Tối chánh giác. Do điều này nên sự hồ nghi của nhà vua chẳng thể giải quyết được. Vậy nên, đại vương chẳng thể tu hành, có chỗ tạo lập cũng chỉ theo tâm điên đảo. Nhà vua phải tu hành tạo lập quán sát của chân đế, quán sát bản thể vô vi, thiết lập được khả năng quán sát ấy thì đối với các pháp không chỗ nắm bắt, cũng không chỗ hiểu, chẳng cùng chung ở. Nếu đại vương chẳng ở cùng với các pháp thì ấy mới là tin. Có niềm tin ấy mới là tịch mịch. Có sự tịch mịch ấy mới là tự nhiên tịnh. Có tự nhiên thanh tịnh mới là không chỗ tạo tác. Có sự không tạo tác thì tất cả các pháp không có chủ. Nhờ đó tạo ra Nhẫn, tất cả các pháp không có tác giả. Nhà vua nên biết điều này, không tạo tác là diệt độ. Xét các pháp kia cũng không tạo tác, không phá hoại, cũng không có tạo, cũng không chẳng tạo, đó là diệt độ. Giả sử đại vương thuận theo sự giải thoát là bình đẳng giải thoát. Đã bình đẳng giải thoát rồi thì đối với pháp ấy không nơi chốn, không đuổi kịp, chẳng tăng, chẳng giảm. Vì sao? Vì ở tất cả các pháp không lợi ích, cũng không mong cầu, các pháp không nguồn gốc. Các pháp không nguồn gốc thì không chỗ sinh. Không chỗ sinh thì không nguồn gốc. Bản thể vô vi ấy bình đẳng không sai khác, nên gọi là không nguồn gốc. Giả sử đại vương tin hiểu bản thể vô vi thì tất cả hồ nghi tự nhiên bị đoạn dứt. Lại nữa, nếu nhà vua mắt không nhiễm ô, cũng không sáng sạch, sự tự nhiên của mắt là không nguồn gốc vậy, không nguồn gốc tự nhiên thì gọi là mắt vậy. Tai, mũi, lưỡi, thân và tâm ý cũng lại như vậy.

Này đại vương! Tâm ấy không có nhiễm ô, cũng không thanh tịnh. Tự nhiên của tâm là không nguồn gốc. Không nguồn gốc thì gọi là tâm. Nhà vua nên biết, sắc không nhiễm ô cũng không thanh tịnh, sắc ấy tự nhiên là không nguồn gốc. Không nguồn gốc tự nhiên thì gọi là sắc vậy. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Thức không nhiễm ô, cũng không thanh tịnh. Sự tự nhiên của thức là không nguồn gốc. Không nguồn gốc tự nhiên thì gọi là thức vậy. Nhà vua nên biết, tất cả các pháp không có nhiễm ô, cũng không thanh tịnh. Các pháp tự nhiên là không nguồn gốc, không nguồn gốc tự nhiên thì gọi là các pháp. Tâm không hình sắc, cũng không thể thấy không chỗ nguy hại, không có xứ sở, không có ngôn giáo.

Ví như huyễn, chẳng ở bên ngoài, chẳng ở bên trong. Tâm ấy vốn tịnh mà tự nhiên sáng. Giả sử tâm thanh tịnh thì không nhiễm ô, cũng không thanh tịnh. Nhà vua nên hiểu, đây, kia vốn thanh tịnh, tâm chẳng thể nhiễm ô, không có thanh tịnh, không có hư vọng, cũng không nhiễm trước, không chỗ nguy hại, do không có tưởng chân thật nên có tạo tác, không có chân thật nên thiết lập chỗ trụ. Phàm phu ngu si dựa vào ham muốn trần lao thì sao gọi là không có chân thật mà phát khởi tưởng không chân thật. Do không chân thật nên không thể khởi chân thật. Tất cả các pháp trụ đều chẳng chân thật. Do chấp ở đó nên không có tưởng chân thật.

Thưa đại vương! Ví dụ như hư không này không màu sắc, không thấy chẳng thể cầm nắm được, cũng không bỏ được, cũng không ngôn giáo. Giả sử có người nói rằng: “Nay hư không này không màu sắc, không thấy không cầm nắm được, cũng không thể bỏ, không có ngôn giáo. Ta nay muốn dùng bụi, khói, tro, mây mù để làm ô nhiễm hư không.” Nhà vua đáp:

–Chẳng thể được.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

–Như vậy, này đại vương! Tâm vốn thanh tịnh, tự nhiên hiển sáng thì chẳng có thể dùng bụi, khói, tro, mây, sương mù làm ngăn ngại, làm ô nhiễm. Ví như bụi khói mây mù trụ ở hư không, nhưng nhất định chẳng nhiễm vào hư không, làm nó dơ bẩn được.

Như vậy, thưa đại vương! Phát khởi tư tưởng ngã, ngã sở là do duyên kết sử là tham, sân, si chứ chẳng nhiễm ô tâm pháp, chẳng nhiễm ô cái thanh tịnh tự nhiên của tâm pháp. Vậy nên, đại vương đối với điều kia chớ ôm lấy hoài nghi. Nhà vua nên biết, tâm quá khứ và tâm vị lai kia thì không hình dáng. Tâm vị lai và tâm quá khứ cũng không hình mạo. Tâm hiện tại thì không chỗ nương tựa, cũng không thật có. Ý của tâm trước, chẳng ngăn ngại tâm sau. Ý niệm của tâm sau, chẳng ngăn ngại tâm trước. Tâm hiện tại ấy cũng lại như vậy. Bậc trí đối với việc kia mà tạo ra sự quan sát ấy. Tâm không thật có cũng chẳng phải không thật có. Tâm quá khứ đã diệt tận, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không trụ, nhìn thấy các pháp, tâm vị lai không trụ, tiêu trừ các kiến chấp không chỗ ngăn ngại thì đó là giải thoát. Tưởng thanh tịnh thì các pháp lìa khỏi dơ bẩn, bình đẳng, khắp thế gian sáng suốt bình đẳng khắp không chỗ sinh ra thì không có ngôn giáo, không có ngôn giáo thì không chỗ nào chẳng ở. Đức Thế Tôn đã nói cái ý nghĩa của tịch nhiên, tịch nhiên ấy đối với pháp kia thì không có chỗ. Giả sử có người tìm cầu nơi ngôn giáo, tìm tòi các pháp.

Thưa đại vương! Giả sử ở tại các pháp mà không ý niệm thì trừ được tất cả kết sử hồ nghi, mà đối với các pháp không chỗ đoạn trừ. Vì sao? Vì sự hồ nghi ấy cùng pháp vừa bình đẳng lại không sai khác. Vậy nên nói là các pháp ngự trị bình đẳng, tất cả các pháp và cả pháp giới, ở các pháp này sẽ ngự trị bình đẳng. Vì sao? Vì tất cả các pháp nhập vào trong pháp giới. Thiết lập pháp giới bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Vậy nên nói rằng pháp giới bình đẳng với tất cả các pháp. Pháp giới ấy bình đẳng thống lãnh các pháp.

Khi Bồ-tát Phổ Thủ nói lời này, thì vua A-xà-thế đạt được pháp nhẫn Nhu thuận, vui mừng hớn hở, lòng được an lạc lớn. Nhà vua liền chắp tay khen rằng:

–Hay thay! Rất sung sướng được nghe lời diệt trừ sự hồ nghi của tôi.

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

–Nhà vua nên biết, đây là cái kết sử hồ nghi rất tối tăm vậy.

Nhà vua đã hoàn toàn xa lìa tất cả các pháp nên nói:

–Hay thay! Thưa Bồ-tát Phổ Thủ! Tôi rất sung sướng nghe lời đoạn trừ nghi hoặc ấy.

Nhà vua lại nói:

–Do vì diệt hết các sự ngăn che của các “ấm” “chấp ngã”, giả sử thân mạng tôi đến lúc chết thì sẽ được đến với đạo.

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

–Đó là sự nghi ngại rất lớn của đại vương. Diệt được nó mới

đạt được cứu cánh tất cả các pháp đến với diệt độ, mới có thể mong cầu tưởng đến Nê-hoàn. Tất cả các pháp là Niết-bàn rốt ráo mà lại mong tưởng diệt độ ư? Nê-hoàn cứu cánh ấy là bản tánh thanh tịnh của các pháp mà không chỗ sinh.

Bấy giờ, vua A-xà-thế lấy áo mềm mại, đẹp đẽ trị giá hàng trăm ngàn, dâng lên Bồ-tát Phổ Thủ để đền đáp ân pháp mà Bồ-tát đã che chở cho mình. Bồ-tát Phổ Thủ bỗng nhiên biến mất, chẳng biết thân Bồ-tát đã đi về đâu, ở hư không có tiếng nói:

–Như hôm nay đại vương chẳng nhìn thấy thân của Bồ-tát Phổ Thủ thì quan sát sự hồ nghi ấy cũng sẽ như thế. Như thấy sự hồ nghi, thấy tất cả các pháp cũng lại như vậy. Như quan sát các pháp đã thấy như vậy, thấy không chỗ thấy.

Lại nói rằng:

–Này đại vương! Đại vương đã thấy thân nên dùng áo để cúng dường.

Ngồi tiếp theo Bồ-tát Phổ Thủ là Bồ-tát tên Tuệ Anh Tràng, vua A-xà-thế đem áo cúng dường cho vị ấy. Khi ấy, vị Bồ-tát chẳng chịu nhận áo, nói với vua:

–Tôi chẳng muốn thoát khỏi sở hữu, cũng chẳng sân hận, cũng chẳng diệt độ. Tôi cũng chẳng gần với pháp phàm phu mà nhận áo ấy. Tôi cũng chẳng theo hạnh cứu giúp phàm phu, chẳng theo học, cũng lại chẳng theo pháp thoát khỏi phiền não, chẳng theo ‘bất học’, chẳng theo vô học mà vượt qua pháp. Tôi chẳng theo Duyên giác, cũng chẳng theo pháp vượt qua Duyên giác mà nhận áo ấy. Tôi cũng chẳng theo sự thọ nhận của Như Lai, cũng chẳng theo pháp giải thoát của Như Lai mà nhận áo này. Giả sử đại vương cũng hành pháp này, chẳng xả pháp này thì tôi mới nhận. Người được nhận nếu có người ban cho, người nhận người cho đều bình đẳng, không sai khác. Người bố thí như thế này là đúng như Chúng Hựu thanh tịnh đã dạy.

Vua A-xà-thế lấy áo mặc vào thân ngài Tuệ Anh Tràng, ở trên tòa lập tức Bồ-tát biến mất. Rồi ở hư không lại nghe có tiếng nói:

–Thân hiện tiền kia, hãy lấy áo để cúng dường!

Thứ đến, có vị Bồ-tát tên là Tín Hỷ Tịch, vua A-xà-thế đem áo cúng cho vị ấy. Bồ-tát kia nói:

–Tôi cũng chẳng theo cái thấy có tự thân như có sự nhận cũng chẳng theo cái thấy có người khác, chẳng theo cái thấy có sắc trần mà có sự thọ nhận. Tôi chẳng theo sự lìa bỏ sắc trần, cũng không theo sự nương tựa vào tịch tĩnh mà có sự thọ nhận. Tôi chẳng theo sự không nương tựa, chẳng theo định ý, chẳng theo loạn chí, chẳng theo trí tuệ, chẳng theo vô tuệ mà có sự thọ nhận.

Nhà vua liền mặc áo lên người Bồ-tát thì Bồ-tát cũng biến mất, trên không trung như có tiếng nói:

–Vị nào đang có mặt thì đem áo để cúng dường.

Thứ đến, có vị Bồ-tát tên là Bất Xả Sở Niệm, vua A-xà-thế đem áo cúng cho vị ấy. Khi ấy, vị Bồ-tát cũng chẳng chịu nhận mà bảo rằng: Tôi không theo sự nương nhờ vào thân mà có sự thụ nhận, không theo sự nương nhờ vào lời nói, không theo sự nương nhờ vào tâm, không theo sự nương nhờ vào tuệ, không theo sự nương nhờ vào luận nghị, không theo sự nương nhờ vào các ấm, không theo sự nương nhờ vào chủng loại, không theo sự nương nhờ vào sự suy tàn, không theo sự nương nhờ vào thật lý, không theo sự nương nhờ vào âm thanh của Phật mà có sự thụ nhận. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không có chỗ nương nhờ cũng không có chỗ chấp trước, rốt ráo hằng an ổn không chấn động. Vua A-xà-thế đem áo cúng dường thì Bồ-tát cũng biến mất, ở hư không có tiếng nói với vua:

–Vị Bồ-tát kia hiện có mặt thì hãy đem áo để cúng dường!

Ngồi tiếp là vị Bồ-tát tên là Tôn Chí. Vua A-xà-thế đem áo cúng cho vị ấy. Khi đó vị Bồ-tát cũng chẳng chịu nhận nói:

Nhà vua nên biết, tôi chẳng theo sự giải thoát thấp hèn mà nhận. Giả sử đại vương phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, tâm ấy bình đẳng thì ý đạo bình đẳng, ý tin đạo bình đẳng. Đạo đã bình đẳng thì tâm kia cũng bình đẳng. Ý đạo đã bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Đã có thể bình đẳng tất cả các pháp thì mới nhận áo. Đối với tất cả pháp mà chẳng thọ, chẳng xả, cũng không bố thí, thoát khỏi các pháp mà không có ý cũng chẳng phải không có ý, nhìn tất cả pháp chẳng thấy ngã, ngã sở. Như vậy, hành giả mới nhận áo.

Vua A-xà-thế đem áo cúng dường cho vị Bồ-tát đó Bồ-tát liền biến mất. Rồi từ hư không như có tiếng nói:

–Vị Bồ-tát nào hiện có mặt thì hãy đem áo để cúng dường.

Kế tiếp có vị Bồ-tát tên là Định Hoa Vương, vua A-xà-thế đem áo cúng vị ấy. Khi ấy, vị Bồ-tát cũng chẳng chịu nhận nói rằng:

–Giả sử đại vương tu hành các Tam-muội, chẳng mong đạt định ý, tin hiểu các pháp vốn thanh tịnh, bình đẳng không có giải thoát thì tôi mới nhận áo ấy.

Vua A-xà-thế lấy áo mặc lên thân vị Bồ-tát ấy. Khi đó, vị Bồtát cũng liền biến mất, rồi ở không trung có tiếng:

–Vị nào hiện có mặt thì đem áo để cúng dường!

Vị Bồ-tát tiếp theo tên là Vô Đãi Đắc. Vua A-xà-thế đem áo cúng dường cho vị ấy. Vị Bồ-tát kia cũng chẳng chịu nhận, nói rằng:

–Thưa đại vương! Giả sử đối với tất cả “ấm” mà tin được giải thoát. Văn tự, âm thanh, tất cả bình đẳng mà chẳng thể nắm bắt được. Đã thấy các pháp không thể nắm bắt thì dẫn đường lợi ích không đạt được nghĩa lý, chẳng nắm giữ các vẻ đẹp, chẳng chỉ bày trang sức. Làm hạnh ấy thì tôi mới nhận lấy.

Vua A-xà-thế đem áo trao cho vị ấy thì Bồ-tát kia bỗng nhiên biến mất. Rồi ở trong hư không có tiếng nói:

–Vị nào hiện có ở đây thì đem áo để cúng dường!

Vị Bồ-tát kế tiếp tên là Tịnh Tam Cấu. Vua A-xà-thế đem áo cúng cho vị ấy, thì vị Bồ-tát kia cũng chẳng chịu nhận mà nói rằng:

–Giả sử đại vương chẳng tự chấp thân, cũng không thọ nhận. Người kia có ban cho thì cũng không vọng mong cầu. Nếu như thế thì tôi mới nhận áo.

Vua A-xà-thế đem áo trao cho thì vị ấy cũng biến mất. Rồi ở không trung có tiếng nói:

–Vị Bồ-tát hiện có mặt thì đem áo để cúng dường!

Vị Bồ-tát ngồi tiếp tên là Hóa Chư Pháp Vương. Vua A-xà-thế đem áo cúng cho vị ấy. Khi ấy, vị Bồ-tát cũng chẳng chịu nhận mà nói rằng:

–Giả sử nhà vua thị hiện Thanh văn mà vào Nê-hoàn, cũng chẳng diệt độ, thị hiện Duyên giác mà vào Nê-hoàn cũng chẳng diệt độ, thị hiện Như Lai mà vào Nê-hoàn cũng chẳng diệt độ. Không có pháp đầu tiên, cuối cùng, không pháp diệt độ thì tôi mới nhận áo.

Vua A-xà-thế đem áo trao cho vị ấy thì vị ấy cũng biến mất.

Trên không trung nói rằng:

–Vị Bồ-tát nào hiện có mặt thì đem áo để cúng dường!

Vua A-xà-thế lần lượt đem áo dâng lên, nhưng các vị Bồ-tát đều biến mất, từng người một đều nói:

–Vị nào hiện có ở đây thì đem áo để cúng dường!

Giường, tòa, bàn ghế cũng biến mất.

Vua A-xà-thế nói với Hiền giả Đại Ca-diếp:

–Bây giờ, ai hiện còn ở đây, phải nhận áo này! Nhân giả đã được Đức Phật tối tôn khen ngợi nên phải nhận áo này.

Tôn giả Đại Ca-diếp nói:

–Tôi thì tham, sân, si không trừ hết vậy! Như tôi hôm nay chẳng nên nhận áo. Tôi chẳng xả vô minh, chẳng trừ ái dục, chẳng đoạn khổ não, chẳng diệt các tập, làm chẳng đến tận cùng, chứng cũng chẳng theo đường lối. Tôi chẳng thấy Phật, cũng chẳng nghe pháp, chẳng thống lãnh Thánh chúng, chẳng trừ phiền não, chẳng phát khởi tư tưởng, chẳng rời bỏ tư tưởng, chẳng kiến lập tuệ, cũng chẳng lìa khỏi tuệ. Mắt tôi chẳng tịnh, cũng chẳng tạo tuệ, cũng không chỗ diệt. Nếu nhà vua đem áo ấy ban cho tôi thì chẳng được phước lớn, cũng chẳng phải không phước. Tôi cũng chẳng ở với pháp sinh tử, không ở với pháp diệt độ, đại vương đem áo ấy ban cho tôi thì chẳng thể rốt ráo được phước đức của Bậc Chúng Hựu. Giả sử đại vương có thể làm như thế, hiểu hết các nghĩa lý thì tôi nhận áo này.

Nhà vua đem áo trao cho Tôn giả Ca-diếp thì Tôn giả bỗng nhiên biến mất, ở hư không nghe tiếng nói:

–Vị nào hiện có ở đây thì đem áo cúng dường!

Vua A-xà-thế lần lượt đem áo dâng lên thì chư vị đều biến mất. Như thế, tất cả các vị đại đệ tử, từng người một biến mất đi hết cả năm trăm người. Rồi lại nghe tiếng nói:

–Nhà vua nhìn thấy thân ai thì đem áo ban cho người đó.

Nhà vua tự nghĩ rằng: “Bồ-tát Thanh văn đều biến mất hết. Ta sẽ đem áo về cho bà hậu phi thứ nhất.” Nhà vua vào cung quan sát khắp cả cũng chẳng nhìn thấy tất cả thể nữ. Vua A-xà-thế liền được thân cận định ý như thế. Mắt của nhà vua chẳng nhìn thấy các sắc, cũng chẳng thấy nam nữ, chẳng thấy đồng tử, chẳng thấy đồng nữ, chẳng thấy lớn nhỏ, chẳng thấy tường vách, chẳng thấy cây cối, chẳng thấy nhà cửa, chẳng thấy thành quách mà liên tục thấy thân tướng. Lại nghe tiếng ở trên không trung nói:

–Cứ thân nào hiện thì đem áo ban cho.

Nhà vua liền tự mặc vào thì chẳng thấy thân nữa. Liền trắng như tuyết, tiêu hết tất cả sắc tướng. Lại nghe tiếng nói:

–Giả sử đại vương chẳng thấy các màu sắc, hình tướng của mình, nhu nhuyến, yên ổn quan sát hồ nghi, cũng sẽ thấy hồ nghi như thế. Quan sát tất cả pháp cũng lại như vậy. Như không kiến chấp thì đó mới là “thấy” rời khỏi “các thấy”. Giả sử lìa “thấy” để có “sự thấy” thì “không thấy” chẳng lìa “các thấy”. Như vậy, “thấy” ấy là quán bình đẳng. Giả sử đối với các pháp chẳng có “chỗ thấy”, đã không “chỗ thấy” thì chính là quán bình đẳng. Lúc này vua A-xà-thế lìa khỏi tất cả những tưởng niệm mà mình đã có. Rồi vua ra khỏi Tam-muội, trở về với hiện thực. Nhà vua lại thấy chúng hội, các hậu phi, thể nữ, thành quách, cung điện, nhà cửa trở lại như cũ. Vua Axà-thế bạch với Bồ-tát Phổ Thủ:

–Trước đó, chúng hội họp ở đâu? Ở trước mặt mà tôi chẳng thấy họ.

Bồ-tát Phổ Thủ đáp lại:

–Giống như những hồ nghi mà nhà vua đã nhóm họp. Chúng hội ấy trước vẫn ở chỗ đó.

Bồ-tát Phổ Thủ lại hỏi:

–Này đại vương! Đại vương thấy chúng hội ư?

Đáp rằng:

–Thấy rồi!

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

–Sao gọi là thấy.

Đáp rằng:

–Giống như hồ nghi, nhìn thấy chúng hội cũng lại như vậy.

Lại hỏi:

–Thấy những gì ở hồ nghi ư?

Đáp rằng:

–Như nhìn chúng hội, đã thấy các hình sắc trước mắt. Hồ nghi cũng vậy, chẳng thấy trong ngoài.

Lại hỏi:

–Này đại vương! Đức Thế Tôn nói rằng: “Kẻ phạm ngũ nghịch thì tội không được dừng nửa chừng, không có gián đoạn.” Nhà vua tự biết phải đến địa ngục ư?

Nhà vua liền đáp:

–Sao gọi là Phổ Thủ? Khi Đức Như Lai Chí Chân thành Chánh giác phải chăng thấy có pháp về nhà tù ư? Chỗ ấy về là tam đồ ư?

Chỗ ấy về là trên trời ư? Chỗ ấy về là Nê-hoàn ư?

Đáp rằng:

–Thưa đại vương! Chẳng phải vậy.

Nhà vua nói:

–Này Đại sĩ Phổ Thủ quan sát thấy nay tôi đã hiểu rõ tất cả các pháp thì đối với các kinh pháp cũng không có sở đắc, rơi vào địa ngục cũng như sinh lên trời hay vào Nê- hoàn. Tất cả các pháp đều là chân như thì chẳng khác nào phân biệt chỗ quy thú của hư không, ngắm nhìn hư không, không vào địa ngục, chẳng lên trên trời, chẳng vào Nê-hoàn. Tất cả các pháp không thể phá hoại. Tất cả các pháp đều trở về pháp giới. Pháp giới ấy chẳng về đường ác, chẳng lên trên trời, chẳng vào Nê-hoàn thì tội nghịch vô gián kia gọi là pháp giới. Các nguồn gốc của các tội nghịch thì gọi là pháp giới. Do đó nguồn gốc thanh tịnh ấy chính là tội nghịch. Các tội nghịch ấy chính là nguồn gốc thanh tịnh.

Vậy nên nói rằng: Các pháp vốn thanh tịnh.

Này Bồ-tát Phổ Thủ! Vậy nên, tất cả các pháp đạt đến vô sinh, từ đó tự biết chẳng rơi vào đường ác, cũng chẳng lên trời, chẳng vào Nê-hoàn.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

–Tại sao nhà vua làm rối loạn giáo pháp của Phật?

Nhà vua đáp:

–Tôi cũng chẳng trái giáo pháp của Đức Thế Tôn, chẳng trái Phật pháp. Vì sao? Vì Đức Thế Tôn phân biệt diễn giảng nguồn gốc vô ngã, nói nguồn gốc chân đế, đã không có ngã thì không có nhân, nhân không thật có. Chúng sinh hư vô không có thật. Như vậy, rõ ràng những cái ấy không chỗ tạo ra, cũng không tạo tác, cũng không thọ lãnh.

Bồ-tát Phổ Thủ lại hỏi:

–Thưa đại vương! Đại vương đã đoạn dứt hồ nghi rồi ư?

Đáp rằng:

–Đã tiêu trừ rốt ráo.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi rằng:

–Đại vương thế nào? Do dự đã dứt tuyệt rồi ư?

Đáp rằng:

–Đã dứt tuyệt vĩnh viễn.

Bồ-tát Phổ Thủ lại hỏi:

–Hôm nay ở trong chúng hội, mọi người biết nhà vua có tội nghịch mà tại sao nhà vua nói không tội nghịch?

Đáp rằng:

–Chẳng phải vậy.

Lại hỏi:

–Tại sao?

Đáp rằng:

–Đó đã là nghịch thì giải thoát đối với không kết sử mà chứng đắc. Các nghịch đó tách rời khỏi “hội nghịch” thì các nghịch ấy là pháp Nhẫn nhu thuận của Bồ-tát, mà muốn khiến mọi người được vào cái nhẫn ấy thì chẳng nên đối với họ nắm giữ các “nghịch”. Này Bồ-tát Phổ Thủ, sở dĩ gọi là “nghịch” vì từ đó đến đây không có các “nghịch”. Do vậy chẳng nên đối với họ nắm giữ các ‘nghịch’.

Khi ấy, Bồ-tát Tuệ Anh Tràng khen rằng:

–Vì con đường của đại vương trang nghiêm sạch sẽ nên mới có thể thành tựu được pháp nhẫn như thế.

Nhà vua đáp:

–Gốc ngọn của tất cả các pháp đều thanh tịnh. Lại nữa tất cả các pháp là hoàn toàn rỗng không, tịch mặc không chỗ nhiễm ô. Do đó, nên chẳng thể nhiễm ô mà làm dơ bẩn đạo Vô sở trước. Đó gọi là đạo. Lại nữa, đạo ấy chẳng hướng đến sinh tử, chẳng đến với Nêhoàn. Đạo của các Thánh hiền là đạo không nắm giữ, không chỗ khởi đạo. Đó gọi là đạo, là đạo không có đạo

Khi vua A-xà-thế nói lời ấy, là đã thành tựu được pháp nhẫn Minh đạt nhu thuận. Khi ấy trong cung bốn mươi hai thể nữ thấy uy thần biến hóa của Bồ-tát Phổ Thủ nên đều phát đạo ý Vô thượng Chánh chân, năm trăm dân chúng xa lìa phiền não chứng đắc Pháp nhãn thanh tịnh. Khi ấy, vô số trăm ngàn người đều đến tụ tập ở dưới cửa vương cung, muốn được nghe pháp, phụng sự cúng dường. Bồ-tát Phổ Thủ dùng ngón chân ấn xuống đất thì cả thành Vương xá đều trở thành lưu ly trong suốt, nên tất cả dân cư ở trong thành đều nhìn thấy Bồ-tát Phổ Thủ, các vị Bồ-tát và các vị Thanh văn, ví như tự thấy bóng mình khi soi vào gương sáng.

Bồ-tát Phổ Thủ vì những người tề tựu lại đây mà ứng thời nói pháp. Tám vạn bốn ngàn người nghe pháp đều đạt được Pháp nhãn thanh tịnh, năm trăm người đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

 

Phẩm 11: TÂM BẢN TỊNH

Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Thủ vì vua A-xà-thế và quyến thuộc cùng vô số người đến trong hội, khai hóa nói pháp. Bồ-tát liền đứng dậy cùng với chúng Tỳ-kheo, vua A-xà-thế, quần thần, quan lại và vô số người ra khỏi cửa cung lên đường.

Trên đường đi, họ thấy một người con trai làm hại mẹ mình ở

dưới gốc cây, tiếng khóc than áo não vang vọng. Làm thế nào để cuối cùng người ấy được độ ngay trong hiện tại? Làm sao cho nó hối hận, tự trách việc đã làm của mình, vì đã hại mẹ, tạo tội đại nghịch phải đọa địa ngục? Rồi đây người ấy sẽ tu theo hạnh luật.

Lúc ấy, Bồ-tát Phổ Thủ ở trước chúng Tỳ-kheo hóa làm một gia đình hóa nhân, đi đến chỗ người hại mẹ. Họ đứng ở giữa đường, cách chỗ ấy không xa. Người hại mẹ kia trông thấy một nhóm người gồm cha mẹ và đứa con trai. Cha mẹ bảo người con trai:

–Đây là đường chính.

Đứa con kia đáp:

–Đó không phải là đường chính.

Họ tranh cãi nhau. Rồi người con hóa ra ấy hiện bày tham, sân, si giết hại cả cha mẹ hóa thân. Đứa con tội nghịch kia trông thấy người con hóa thân giết hại phụ mẫu hóa thân liền kêu khóc, đau xót không kềm chế được. Người con hóa thân liền tìm đến chỗ người giết hại mẹ mà nói rằng:

–Tội giết cha mẹ sẽ bị đọa địa ngục, kêu khóc làm gì! Phải mau tìm kế sách gì đi!

Người hại mẹ ấy tự nghĩ: “Này người mới đến này giết hại cả song thân, ta chỉ hại mẹ thôi, kẻ ngu si tối tăm kia tội chẳng lớn lắm sao! Tội nghịch của ta còn thua nó. Nếu như nó chịu tội thì tội ta còn nhẹ hơn!” Người con hóa thân buồn khổ, chua chát lắm, đồng thời nói:

–Ta sẽ đến chỗ Đức Phật Năng Nhân. Tội kia không cứu được thì Đức Phật sẽ vì ta mà bày ra cách cứu độ. Tội kia đáng sợ thì Đức Phật an ủi, diệt trừ khổ đau cho ta. Như Đức Phật có điều dạy bảo thì ta sẽ tuân theo, phụng hành.

Khi ấy, người con hóa thân, kêu khóc lên đường tiến về phía trước. Người hại mẹ liền theo sau người này thầm nghĩ: “Như người kia biết hối lỗi thì ta đây cũng phải vậy thôi. Tội ta nhẹ, tội người kia rất nặng.” Người con hóa thân đến chỗ Đức Phật cúi đầu xuống đất mà bạch rằng:

–Kính thưa Đức Thế Tôn! Con làm điều đại nghịch, sát hại song thân, phạm tội ấy rất lớn!

Đức Phật bảo người con hóa thân rằng:

–Lành thay! Này thiện nam! Ông vì chí thành không gian dối, lời nói, hành động tương xứng, đến trước Như Lai nói lời thành thật, chẳng nói hai lưỡi, cũng chẳng tự bức bách. Ông phải tự tư duy, quan sát pháp tâm: Vì sao tâm mình làm hại song thân? Do tâm quá khứ ư? Do tâm vị lai ư? Hay do tâm hiện tại chăng? Tâm quá khứ kia đã diệt hết, tâm hiện tại kia đã đi mất, không có xứ sở, cũng không phương hướng, chẳng biết ở đâu? Còn tâm vị lai thì cũng chưa đến, không chỗ tụ tập, chưa thấy quay về, cũng không quay lại. Này ông, phải biết tâm cũng không tồn tại ở bên trong thân, cũng chẳng ở ngoài thân, cũng không cảnh giới, chẳng ở hai nơi, chẳng được dừng nửa chừng. Quan sát tâm ấy cũng không có năm màu: Xanh vàng, trắng, đỏ, đen.

Này ông nên biết, tâm ấy không màu sắc cũng chẳng có thể nhìn thấy được, cũng không chỗ trụ, cũng chẳng thoái chuyển, không có ngôn giáo, chẳng thể cầm nắm, giống như huyễn hóa. Ông muốn quan sát tâm, chẳng thể phân biệt chẳng thể hiểu rõ, chẳng thể gọi là tham, chẳng thể cho là sân, chẳng thể biết là si. Không tham, sân, si. Ông nên biết, tâm không hành động sinh tử, cũng không tạo tác, cũng không hiển hiện, cũng chẳng hiện tại. Tâm ấy thanh tịnh, cũng không cấu nhiễm, cũng không thanh tịnh. Tâm chẳng ở đây, cũng chẳng ở kia chẳng ở chỗ khác. Tâm giống như hư không, cũng không có gì sánh bằng, cũng không màu sắc, hình dạng, cũng không ngôn giáo. Bậc trí chẳng nên nương cậy, chớ nên nói rằng: Ta chính là ngã sở, không nên tạo xứ sở, không nên dấy tưởng, chớ tạo sự rốt cùng, chớ có chỗ làm, không nói về thân mình, chớ cho rằng ngã, ngã sở, chớ nghĩ đến quá khứ. Vì sao? Ông nên biết, tất cả các pháp đều không chỗ trụ, giống như hư không.

Ông hãy lắng nghe, hiểu được như vậy đó. Đức Phật chẳng cho rằng, người đối với pháp có sự giải thoát, hoặc có nhiễm ô đều chẳng về đường ác. Thiết lập tâm thanh tịnh mà không cấu nhiễm thì không có các đường để hướng về.

Khi ấy, người con hóa thân liền tán thán:

–Con được nghe điều chưa từng có. Thưa Đấng Thiên Trung Thiên Như Lai nhân đó thành Tối chánh giác, biết rõ pháp giới, không có tạo tác, cũng không thọ nhận, không có sinh ra, không diệt độ, không chỗ nương cậy. Con nguyện được xuất gia, theo Phật Thế Tôn làm Sa-môn thọ giới Cụ túc.

Đức Phật nói:

–Lành thay! Này Tỳ-kheo, hãy đến đây!

Khi ấy người con hóa thân được làm Sa-môn, liền bạch Đức Phật:

–Kính thưa Đức Thế Tôn! Con đã được thần thông. Nay con muốn diệt độ.

Nhờ uy thần của Đức Phật, người con hóa thân kia bay lên giữa hư không, cách mặt đất bốn trượng chín thước mà diệt độ. Thân người ấy bốc cháy, tự thiêu thân thể. Đến đây người tội nghịch thấy người hóa thân kia được làm Sa-môn, nghe nhận kinh pháp, được nghe điều Đức Phật đã nói, ông tự nghĩ: “Trước đây người ấy tự hại song thân, ở trước Thế Tôn được làm Sa-môn, rồi được diệt độ. Nay ta cớ sao chẳng được như người ấy, được làm Sa-môn, cũng sẽ diệt độ?”

Nghĩ như thế rồi, ông đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu dưới chân Đấng Đại Thánh, bạch trước Đức Phật:

–Con cũng tạo tội nghịch tự hại mạng mẹ mình.

Đức Phật nói:

–Lành thay! Này Thiện nam! Ông vì chí thành không gian dối, lời nói, hành động tương xứng, đến trước Như Lai nói lời thành thật, chẳng nói hai lưỡi, cũng chẳng tự bức bách. Ông phải tự tư duy quán sát pháp tâm: Vì sao tâm mình giết hại mẫu thân? Do tâm quá khứ ư? Do tâm vị lai ư? Hay là do tâm hiện tại chăng? Tâm quá khứ kia đã diệt tận rồi. Tâm hiện tại kia liền đi mất ngay. Nó không có xứ sở, cũng không phương hướng, chẳng biết an trụ ở đâu. Còn tâm vị lai thì cũng chưa đến, không chỗ tụ tập, chưa thấy quay trở lại, cũng không qua lại. Ông nên biết, tâm cũng chẳng ở bên trong thân, cũng chẳng ở ngoài thân, cũng không cảnh giới, chẳng ở hai nơi, chẳng được dừng nửa chừng. Quán sát tâm ấy thì cũng không có năm sắc: xanh, đỏ vàng, trắng, đen.

Ông nên biết, tâm ấy không màu sắc, cũng chẳng thể thấy, cũng không chỗ trụ, cũng chẳng thoái chuyển, không có ngôn giáo, chẳng thể cầm nắm, giống như huyễn hóa. Ông muốn quan sát tâm, chẳng thể phân biệt, chẳng thể hiểu rõ, chẳng nên gọi là tham, chẳng nên gọi là sân, chẳng nên biết là si, không tham, sân, si. Ông nên biết, tâm không hành động sinh tử, cũng không chỗ tạo tác, cũng không chỗ hiển hiện, cũng chẳng hiện tại, tâm ấy thanh tịnh, cũng không cấu nhiễm, cũng không thanh tịnh. Tâm chẳng ở đây, cũng chẳng ở đó, chẳng ở chỗ khác, giống như hư không, tâm không có gì sánh bằng, cũng không màu sắc, hình dáng, cũng không ngôn giáo. Bậc trí chẳng nương cậy. Chớ nên nói rằng: ta chính là ngã sở, chớ nên tạo xứ sở, không được dấy khởi tưởng, chớ tạo rốt cùng, chớ có chỗ làm, không nói thân mình, chớ cho rằng ngã, ngã sở, chớ nghĩ về quá khứ. Vì sao? Ông nên biết, tất cả pháp đều không chỗ trụ, giống như hư không.

Này ông, hãy lắng nghe, hiểu rõ như vậy đó. Như Lai chẳng cho rằng người đối với pháp có giải thoát hoặc nhiễm ô đều chẳng quy trở về đường ác. Thiết lập tâm thanh tịnh mà không cấu mhiễm thì không có các đường.

Lúc ấy người con bị tội nghịch bị lửa địa ngục từ trong lỗ chân lông phát ra, đau đớn khủng khiếp mà không ai cứu giúp nên bạch trước Đức Phật:

–Con nay bị thiêu đốt, xin Đấng Thiên Trung Thiên cứu tế cho. Con xin quy mạng Đức Đại Thánh.

Đến đây Đức Thế Tôn đưa cánh tay sắc vàng đặt lên đỉnh đầu người ấy, tức thời lửa tắt ngay, lại không còn đau khổ. Người ấy nhìn Đức Như Lai có nhiều tướng tốt thì bản thân hết đau khổ mà được yên ổn. Người ấy lại bạch trước Đức Phật xin được làm Sa-môn, Đức Phật liền cho phép vì cái chí tịch tĩnh đó. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì người ấy thuyết giảng Tứ đế. Người ấy nghe pháp này thì xa trần cấu đạt được Pháp nhãn thanh tịnh. Vị ấy tu hành theo lời Phật dạy thành tựu Tư-đà-hàm, A-na-hàm, chứng đến La-hán. Vị ấy lại bạch Đức Phật rằng:

–Con muốn nhập Nê-hoàn.

Đức Thế Tôn bảo:

–Tùy theo ý của con!

Đến đây vị Tỳ-kheo nhảy vọt lên hư không, cách mặt đất bốn trượng, chín thước, trong thân phát ra lửa tự đốt thân mình. Hàng trăm ngàn người, trời ở trong hư không kéo đến cúng dường. Tôn giả Xá-lợi-phất thấy người kia thọ trì luật giáo ấy mà được diệt độ thì rất lấy làm lạ nên bạch Đức Phật:

–Thật khó bì kịp vậy. Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Đức Như Lai đã ban ân thuyết giảng pháp luật, mới khiến cho kẻ tội nghịch được nhận giáo pháp. Nhưng như vậy hạnh ấy có chỗ sai khác. Người đủ sức cứu tế hạng người ấy chỉ có Đức Như Lai mà thôi. Bồtát Phổ Thủ mặc áo giáp đại đức sánh cùng Bồ-tát, có thể nhìn thấy căn nguyên của tất cả quần sinh mà độ họ, chẳng phải cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác.

Đức Phật nói:

–Như vậy, này Xá-lợi-phất! Đúng như điều đã nói. Đó chính là pháp nhẫn của Phật Đại sĩ, là cảnh giới của Bồ-tát.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Các ông đã nhìn thấy một người tưởng như đã đọa địa ngục rồi mà Đức Phật nhìn thấy đã đưa đến pháp diệt độ. Các ông nhìn thấy người đáng được diệt độ thì Đức Thế Tôn xét biết họ bị rơi vào đường ác. Hoặc căn cứ vào người có đức, tri túc, ở nơi chỗ vắng, giữ giới, đạt định Tam-muội thì các ông cho là đã đạt đến pháp diệt độ, nhưng Như Lai thấy ngược trở lại là bị rơi vào địa ngục. Vì sao? Vì hạng người như các ông lìa khỏi sự vận hành của tâm, chẳng thể quan sát khắp được các căn nguyên tấm lòng của chúng sinh. Hành động cửa chúng sinh nhiều không thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi-phất! Ông có thấy người giết mẹ này không? Nhờ được nghe pháp thậm thâm mà ông ta đạt đến cõi Vô dư Bát-nêhoàn.

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Dạ thấy, thưa Đấng Thiên Trung Thiên!

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Người giết mẹ ấy đã gieo trồng cội gốc đức với năm trăm

Đức Phật, nghe pháp thâm diệu hiểu rõ thông suốt, tâm vốn thanh tịnh sáng ngời, lại nhập vào kinh điển này, nhận tất cả pháp mà được giải thoát.

Đức Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Do đó nếu có thiện nam, thiện nữ, sau khi ta diệt độ được nghe ý nghĩa pháp này thì liền tín nhận. Lại có người mê hoặc tâm chống trái, theo bạn xấu, phạm tội mà chẳng mất pháp nhẫn thì mới đến Vô dư mà được giải thoát. Ta chẳng cho là những người ấy phải rơi vào đường ác vậy. Có kẻ tin ưa pháp thâm diệu như thế thì đạt được quả như vậy. Do cớ ấy, nếu có thêm nhiều chúng sinh ở nơi đường chánh chân, nghe được pháp điển này liền tin ưa, thuyết giảng bình đẳng, khen ngợi chương cú, vì người khác phân biệt diễn giảng rộng rãi thì công đức đều như thế cả. Huống gì những người vâng theo lời đã dạy mà phụng sự tu hành.

Bồ-tát Phổ Thủ cùng các vị Bồ-tát Đại sĩ, Tôn giả Đại Ca-diếp, vua A-xà-thế và vô số người kéo đến chỗ Đức Phật cúi đầu làm lễ dưới chân Đức Phật rồi lui về ngồi một phía.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thấy Bồ-tát Phổ Thủ cùng các vị trong chúng hội đều đã an tọa rồi, liền nói với vua A-xà-thế:

–Thưa đại vương! Sự hồ nghi của đại vương đã dứt rồi ư?

Đáp rằng:

–Vâng, thưa Tôn giả đã đoạn dứt rồi vậy.

Lại hỏi:

–Thế nào gọi là đoạn?

Đáp rằng:

–Chẳng thọ lãnh, chẳng bỏ đi thì gọi là đoạn. Cũng không đạt được gốc ngọn, vĩnh viễn hiểu ra không có cấu nhiễm thì gọi là đoạn vậy.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Đức Thế Tôn:

–Vua A-xà-thế đã dứt hết được bao nhiêu? Còn lại bao nhiêu?

Đức Thế Tôn bảo:

–Tai ương của vua còn lại nhỏ như hạt cải, tội đã diệt được của vua lới như núi Tu-di. Vua đã vào đến pháp thâm diệu, đã nói được nghĩa lý của kinh điển, đã đạt đến pháp Vô sinh.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Đức Phật:

–Vua A-xà-thế lại sẽ đi về đường ác ư?

Đáp rằng:

–Như Thiên tử ở cõi trời Đao-lợi ở lầu gác bảy báu rỡ ràng, xuống cõi Diêm-phù-đề, trở về bản xứ. Này Xá-lợi-phất! Như vậy vua A-xà-thế đã vào địa ngục tên là Tân-trạch-la (Tấn gọi là Tập

dục), vừa vào liền ra khỏi. Bản thân vua chẳng gặp hoạn nạn, khổ não.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

–Thưa Thế Tôn thật khó bì kịp. Các căn của vua A-xà-thế minh đạt mới được như thế ư? Lại có thể tiêu trừ bao nhiêu tội như sự độc hại của tai ương nặng trong địa ngục ấy.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Vua A-xà-thế trước đã cúng dường bảy mươi hai ức các Đức Phật Thế Tôn, trồng các cội gốc đức, nhận lãnh kinh điển, khuyến hóa đạo Vô thượng chánh chân cho người đã nghe pháp. Ông không thấy Bồ-tát Phổ Thủ ư?

Đáp:

–Thưa đã thấy.

Đức Thế Tôn bảo:

–Bồ-tát Phổ Thủ khuyên vua A-xà-thế phát ý đạo Vô thượng chánh chân vào kiếp xa xưa khó mà kể được vào thời Đức Ly Cấu Tạng Như Lai, trải vô số chư Phật, ở trong kiếp kia có ba ức Đấng Bình Đẳng Chánh Giác đều là do Bồ-tát Phổ Thủ khuyến dụ, khiến chuyển pháp luân, sống mãi ở đời. Có đến hàng trăm ngàn Đức Thế Tôn chẳng thể vì vua A-xà-thế thuyết pháp để giải quyết sự hồ nghi của vua. Chỉ có Bồ-tát Phổ Thủ mới có thể vì vị vua ấy giải quyết trừ được lưới hồ nghi. Vì sao? Bồ-tát Phổ Thủ đã nhiều lần theo chư Phật nghe được pháp thâm diệu này. Do vậy, nên phát khởi tư tưởng: “Chỗ kia có vị Bồ-tát đáng được độ, thì ngay khi phát khởi ý tưởng là được làm bổn sư của người ấy.” Rồi Bồ-tát vì họ thuyết pháp nên mới có thể giải quyết được vậy.

Vua A-xà-thế từ địa ngục Tập dục khinh ra, sinh lên phương trên, nơi đó cách đây năm trăm cõi Phật, thế giới ấy tên là Trang nghiêm. Đức Phật ở đó hiệu là Bảo Anh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, hiện đang thuyết pháp sẽ gặp trở lại lần nữa. Bồ-tát Phổ Thủ theo nghe kinh thâm diệu tại cõi ấy liền thành tựu được Bất khởi pháp nhẫn.

Khi Bồ-tát Di-lặc thành Chánh giác, Bồ-tát sẽ lại trở xuống cõi Nhẫn này, hiệu là Bồ-tát Đại sĩ Bất Động. Đức Như Lai Di-lặc sẽ vì chúng hội tuyên dương, ca ngợi những việc làm trước đây của Bồ-tát Bất Động. Đức Di-lặc lại phân biệt kinh điển này, trình bày hết nghĩa lý: Bồ-tát Bất Động Đại sĩ vào thời Đức Phật Năng Nhân làm vua một nước lớn tên là A-xà-thế, theo bạn xấu tự sát hại cha mình, rồi theo Bồ-tát Phổ Thủ nghe kinh điển này, chứng được Nhu thuận pháp nhẫn, nhân đó tiêu trừ hết tội, không còn nữa.

Đức Di-lặc Như Lai vì Bồ-tát Bất Động mà thuyết giảng kinh pháp này, tám ngàn vị Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn bất khởi. Tám mươi bốn ngàn vị Bồ-tát diệt trừ vô số không thể kể xiết những tội lỗi tích tụ lâu đời.

Này Xá-lợi-phất! Như vậy vua A-xà-thế từ hôm nay đến tám trăm, khó kể xiết kiếp tu hạnh Bồ-tát, khai hóa chúng sinh, trang nghiêm cõi Phật.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Vua A-xà-thế đã hóa độ chúng sinh, làm bậc Thanh văn hoặc bậc Duyên giác, hoặc tu hành Đại thừa. Các chúng sinh ấy, hoặc có tội hoặc không trần cấu, hoặc hồ nghi… đều tiêu trừ hết, không có do dự. Qua tám ngàn không thể kể xiết kiếp sẽ đạt được đạo Vô thượng chánh chân, làm Tối chánh giác, kiếp tên là Hỷ kiến trong thế giới tên là Vô tạo ấm, Đức Phật hiệu là Tịnh Giới Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, thọ được mười bốn kiếp, các chúng Thanh văn có đến bảy mươi vạn người, làm thành đại hội. Tất cả những vị ấy trí tuệ thông suốt, ý chí luôn đặt ở tám cửa giải thoát. Các chúng Bồ-tát có đến mười hai ức người. Các vị ấy đều được Trí độ vô cực, phương tiện thiện xảo. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp sẽ trụ thế một ức năm, nhân dân của thế giới Vô tạo ấm từ khi sinh đến khi chết không có hồ nghi. Sau khi họ chết chẳng rơi vào ba đường ác. Đức Như Lai Tịnh Giới vì chúng sinh thuyết giảng kinh pháp, nên họ đều bỏ các dơ bẩn, không có trần lao đều được thanh tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Vậy nên mọi người nhìn nhau chẳng thấy bình đẳng. Sở dĩ chẳng bình đẳng vì căn người khó thấy, chỉ riêng Đức Như Lai mới có thể thấy tướng người bình đẳng. Làm đúng như Đức Phật thì bình đẳng với người vậy.

Hiền giả Xá-lợi-phất và chúng hội kinh ngạc, rất vui mừng thưa:

–Kể từ ngày hôm nay đến khi chết, chẳng quan sát người khác, chẳng dám nói người này về địa ngục, người kia sẽ diệt độ. Vì sao? Vì hành động của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn.

Khi Đức Phật thuyết giảng ví dụ về vua A-xà-thế đoạn trừ nghi này, ba vạn hai ngàn Thiên tử phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Họ đều thệ nguyện: “Khi Đức Thế Tôn Tịnh Giới thành Chánh giác chúng tôi sẽ sinh ra ở cõi Phật ấy, chẳng tạo ra thế giới tham dục.” Đức Phật liền thọ ký cho họ sẽ sinh vào cõi kia.

 

Phẩm 12: NGUYỆT THỦ THỌ QUYẾT

Vua A-xà-thế có một vị Thái tử tên là Nguyệt Thủ, tuổi vừa lên tám. Thái tử cởi chuỗi ngọc đeo trên cổ, đem tung lên Đức Phật, mà thưa rằng:

–Con dùng công đức này nguyện cầu đạo Vô thượng chánh chân. Con dùng gốc thiện ấy để khi Đức Như Lai Tịnh Giới thành Chánh giác, nguyện được ở cõi ấy làm chủ bốn châu thiên hạ, Chuyển luân thánh vương để được trọn đời cúng dường Đức Như Lai và chúng Tỳ-kheo. Sau khi Đức Phật diệt độ, con phụng trì Xá-lợi, thọ nhận kinh điển. Về sau, con mới được thành đạo Vô thượng chánh chân, làm Tối chánh giác.

Thái tử vừa tung chuỗi ngọc lên hư không, liền trở thành lầu

các bảy báu sáng rỡ, bốn phương, bốn góc trên dưới ngang bằng, nghiêm chính vi diệu. Ở bên trong lầu đài ấy đặt bốn chiếc giường báu trải toàn lụa là năm sắc của cõi trời. Đức Như Lai ngồi lên đó, tướng tốt trang nghiêm. Khi ấy, Đức Phật liền cười. Đức Thế Tôn cười thì có vô số không thể giới hạn trăm ngàn sắc hào quang từ trong miệng ngài phát ra, chiếu soi không thể nghĩ bàn, không có bờ cõi, thấu đến các cõi Phật, lên tận cõi Phạm thiên. Cung điện của ma, ánh sáng mặt trời, mặt trăng tự nhiên mờ khuất. Ánh sáng ấy trở lại soi sáng quanh thân Ngài vô số vòng, rồi theo đỉnh đầu vào trở lại. Hiền giả A-nan liền đứng dậy, sửa áo bày vai phải, qùy gối, chắp tay dùng kệ khen:

Vượt tất cả trí tuệ
Siêu việt mọi cản ngăn
Hiểu rõ hết quần sinh
Tâm, hành mọi căn nguyên
Để phân biệt gốc ngọn
Mà ứng thời nói kinh
Soi khắp đời xin nói
Vì sao cười lặng thinh?
Mười phương bao chúng sinh
Tất cả ở trước Ngài
Người nhiều vô số ức
Từng người khó hỏi han
Đấng Thánh sư Năng Nhân
Mới kham giải nghi hoặc
Lành thay, nguyện giảng nói
Xót thương cớ gì cười?
Chư Phật đời quá khứ
Trụ lập chỗ tối thắng
Thế Tôn đời vị lai
Nhiều như cát sông Hằng
Phân biệt biết sáu đường
Đấng Tuệ độ vô cực
Vì sao hiện mỉm cười?
Xin Ly Cấu giải nghi
Ánh sáng hơn trời trăng
Che lấp cung Phạm ma
Thông suốt đến Thiết vi
Chiếu vượt các đỉnh núi
Yên ổn khắp chúng sinh
Khô kiệt, các lao nhọc
Khéo nói trừ phiền não
Cớ gì lại mỉm cười?

Đến đây, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

–Ông thấy Thái tử Nguyệt Thủ không?

Tôn giả A-nan đáp:

–Thưa vâng, con đã thấy.

Đức Phật nói:

–Hôm nay, Nguyệt Thủ ở trước Đức Phật trồng các cội công đức, dùng để khuyến cầu đạo Vô thượng chánh chân. Thái tử tu hạnh Bồ-tát, từng chút một sẽ thấm dần dần. Đến khi Đức Như Lai Tịnh Giới thành Phật thì vị thái tử này sinh vào cõi Phật kia làm Chuyển luân vương. Ông cúng dường, phụng sự Đức Tịnh Giới Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, trọn đời luôn lấy bố thí làm chỗ an trụ. Sau khi Đức Phật diệt độ thì ông cúng dường xá-lợi, thống lãnh chánh pháp. Sau khi chánh pháp diệt tận thì ông mất, để sinh lên cõi trời Đâu-suất. Rồi ở chính kiếp ấy, ông được thành đạo Vô thượng chánh chân, thành Tối chánh giác, hiệu là Nguyệt Anh Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư Vi Phật Chúng Hựu, cõi nước, thọ mạng của Đức Phật, các chúng Tỳkheo cũng giống như thế giới của Đức Tịnh Giới Thế Tôn không sai khác vậy.

Bấy giờ, những người đến trong hội, các vị Bồ-tát Đại sĩ ở các thế giới phương khác cùng với Bồ-tát Phổ Thủ đều đến cõi Nhẫn này nghe nói lời ấy. Họ bạch Đức Phật:

–Bồ-tát Phổ Thủ có thể đi đến thì sẽ quan sát thấy xứ sở đó. Xứ sở ấy đều là các Đức Như Lai không có khiếm khuyết, các Đức Phật Thế Tôn lại chẳng nhọc sức lo nghĩ. Vì sao? Thưa Đức Thế Tôn! Bồ-tát Phổ Thủ đã giáo hóa không có đường ác, chẳng đau khổ, chẳng nhàn nhã và không có việc ma, tội lỗi, trần uế. Chỗ ấy có khu vực, quận, nước, huyện ấp, gò đống, xóm làng, thành quách. Ở chỗ ấy chánh điển được lưu bố khắp nơi. Nhìn thấy xứ sở ấy, Đức Như Lai du hóa, cư trú không có hư không.

Đức Thế Tôn bảo:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Này các Thiện nam! Đúng như điều đã nói. Nay kinh điển này đã tuyên bố khắp nơi, thì đó chính là sự an trú của Đức Như Lai.

Lại nữa, này các Thiện nam! Thuở xa xưa thời Đức Phật Định Quang, ta đã được thọ ký vào đời ấy. Ta trải tóc lên đất, Đức Định Quang Như Lai đạp lên tóc ấy mà đi. Ta dùng hoa sen tung lên cúng dường nên đạt được pháp nhẫn. Đức Phật thọ ký cho ta: “Sau vô số kiếp ông sẽ được làm Phật hiệu là Năng Nhân Như Lai.”

Như vậy, này các Thiện nam! Khi ấy Đức Phật Định Quang bảo các Tỳ-kheo: “Các ông chẳng nên đạp trên đất ấy đi qua. Vì sao? Vì đây chính là chỗ đất thần thánh tháp Phật của trên trời và thế gian. Vị Bồ-tát trải tóc lên nơi ấy mà thành tựu được pháp nhẫn. Ai muốn dựng lên tháp ở đây?” Các vị Thiên tử kia có đến hàng tám mươi ức người, cùng lúc thưa: “Chúng con sẽ dựng lên”. Bấy giờ, trong chúng hội có một vị trưởng giả tên là Hiền Thiện, bạch với Đức Thế Tôn: “Con sẽ dựng chùa, tháp ở chỗ đất ấy.” Đức Phật nói: “Được đấy”.

Này các Thiện nam! Ông trưởng giả Hiền Thiện ngay ở chỗ ấy, cho xây dựng ngôi tháp bảy báu trang nghiêm đầy đủ. Làm xong, ông lại đến chỗ Đức Phật hỏi Ngài: “Ở tại đất ấy, con đã dựng lên tháp bảy báu thì phước đi về đâu?”

Đức Như Lai Định Quang đáp: “Trưởng giả nên biết! Bồ-tát Đại sĩ đạt được Nhẫn bất khởi, chỗ đất ấy giống như bánh xe, xuống tận bờ mé đất, tất cả chúng sinh nhận lấy bụi đất đều như là Xá-lợi nên cúng dường, rồi mới bay lên trời tam thập tam, trong ấy đất đầy cả bảy báu, đem bố thí chư Phật. Nếu muốn đem công đức đó so với phước đức xây dựng chùa tháp thì chẳng bì kịp nhau. Phước xây dựng chùa tháp rất nhiều, khó kể xiết. Trưởng giả ở đây đã trồng cội gốc các công đức, như nay ta thọ ký cho vị Bồ-tát đó sẽ làm đạo Vô thượng chánh chân. Nếu ông ấy làm Phật cũng sẽ lập đại đạo cho ngươi.”

Này các Thiện nam! Ý các ông nghĩ sao? Bấy giờ trưởng giả tên Hiền Thiện đó phải chăng là ai khác ư? Chớ có nghĩ thế. Vì sao? Vì trong hội chúng đây có một trưởng giả tên là Thọ Hạnh nay được ta thọ ký cho: vào đời vị lai, ông sẽ thành Phật đạo, hiệu là Thiện Kiến Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Vi Phật Chúng Hựu. Vì vậy, nên các thiện nam, thiện nữ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cư sĩ, nữ cư sĩ, hoặc đứng hoặc ngồi chép kinh điển này, thọ trì, đọc tụng, vì người khác thuyết giảng thì ở chỗ đất ấy xuống tận bờ cõi đất, tất cả các hạt bụi đều là chúng sinh, thêm nữa đất này đều như Xá-lợi. Vì sao? Vì Bồ-tát đạt được nhẫn thành tựu được các đức cũng lại như vậy.

Thế nên, Đức Phật ân cần phó chúc bảo các ông rằng: “Nếu có thiện nam, thiện nữ đem bảy báu chứa trong tam thiên đại thiên thế giới này ra bố thí cho Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ngày đêm đều ba lần mà chẳng biếng nhác, bố thí như thế cho đến một kiếp hoặc hơn một kiếp, chẳng bằng thọ trì kinh điển này. Vua A-xà-thế trừ các hồ nghi không có do dự, sạch các “ấm”’, “cái”, phân biệt tất cả các pháp bình đẳng. Hoặc chép, hoặc đọc, thọ trì phúng tụng, nghe kinh tin ưa, ghi chép vào tre, lụa, xếp đặt kinh quyển giữ gìn trang nghiêm, thọ trì thành thạo, khiến cho chánh pháp này trụ được lâu dài thì phước công đức này hơn sự bố thí kia rất nhiều, chẳng thể kể xiết.”

Đức Phật nói:

–Này các Thiện nam! Nếu có người ở trăm kiếp phụng trì cấm giới, biết dừng biết đủ mới được ở nơi thanh vắng, chí ưa chẳng xả. Nếu người ấy nghe kinh này, tin ưa theo thì phước công đức này hơn cả việc giữ cấm giới kia. Nếu có người ở trong trăm kiếp tu hành nhẫn nhục, dù cho tất cả chúng sinh mắng nhiếc, đánh đập, cho đến đánh bằng gậy đau đớn mà đều nhịn nhục. Nếu có người lại được nghe kinh này mà tin ưa theo thì phước công đức ấy siêu việt hơn cả người tu nhẫn nhục kia. Nếu có người trăm kiếp tu hành tinh tấn, cúng dường tất cả loài chúng sinh, chẳng yêu quý thân mình cùng tuổi thọ, cũng chẳng bằng nghe được kinh này mà hoan hỷ tin nhận. Nếu có người ở trăm kiếp tu hành thiền định, có kẻ gây nhiễu loạn mà chẳng bị mê hoặc, cũng chẳng bằng nghe kinh này hoan hỷ tin nhận. Nếu có người ở trăm kiếp tu hành trí tuệ, học rộng, hiểu thông, không chỗ nào không đạt, giả sử họ được nghe phẩm “Cứu cánh bản tịnh tâm sướng tự nhiên” của kinh điển này mà hoan hỷ tin theo, thọ trì, phúng tụng thì phước công đức ấy siêu việt hơn sự tu tuệ kia, có thể nhanh chóng kiến lập các thông tuệ vậy.

Khi ấy, các vị Bồ-tát đều bạch Đức Phật:

–Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng con đã thọ nhận kinh điển ấy rồi, ở tại các cõi Phật chúng con đi qua, ở trụ xứ nào chúng con cũng sẽ tuyên bố. Vì sao? Vì tuyên bố các kinh điển này là làm Phật sự.

Lúc ấy các vị Bồ-tát lại tung hoa lên khắp tam thiên đại thiên thế giới, đồng thời cũng khen ngợi:

–Giả sử kinh điển này được lưu truyền khắp cõi Diêm-phù-đề, lại ở đời lâu dài thì chánh pháp của Đức Như Lai Năng Nhân thành tựu Bồ-tát Phổ Thủ sẽ khiến cho còn mãi. Chúng con chưa từng xem xét, nghe được kinh này như vầy, giả sử có nghe được thì chúng con chẳng thể báo đáp ân của Đức Phật cùng Bồ-tát Phổ Thủ. Chúng con sẽ dùng vật gì để lập sự cúng dường lớn. Thiện nam nào theo người nghe kinh điển ấy thì ân kia khó mà báo đáp. Giả sử có người muốn gặp Đức Như Lai để nghe kinh này thì xem như người ấy đã gặp Thế Tôn. Giả sử muốn cúng dường Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác thì phải cúng dường vị thiện nam ấy. Nếu nhìn thấy thiện nam, thiện nữ ấy thì phải chiêm ngưỡng họ như Đức Phật Thế Tôn.

Các vị Bồ-tát bàn bạc như vậy rồi, mỗi vị đều trở về nước của mình. Mỗi người đều tự ở trước Đức Như Lai của họ, vì mọi người thuyết giảng lại giáo pháp mà họ vừa thọ lãnh. Ở trước Đức Phật của mỗi đất nước kia, họ mở đường dẫn lối, khai hóa vô số quần sinh, khiến họ phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

 

Phẩm 13: CHÚC LỤY

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Ông nên nhận lấy chánh pháp Minh điển này để vì vô số người mà phân biệt thuyết giảng, đem lại cho họ nhiều yên ổn, nhiều Từ bi. Chư Thiên người đời đều được nhờ ân.

Bồ-tát Di-lặc bạch Đức Phật:

–Kính thưa Đức Thế Tôn! Con nhận lời dạy của kinh điển ấy rồi thì cũng theo các Bậc Đẳng Chánh Giác trong quá khứ đã nhận kinh này. Hôm nay, con được gặp Đức Thế Tôn, được nghe pháp này. Kính thưa Đức Đại Thánh Như Lai! Hiện tại con đem kinh này diễn giảng khiến cho lưu truyền khắp nơi. Sau khi Đức Phật diệt độ, ở tại cung trời Đâu-suất con sẽ vì quần sinh thuyết giảng sự phát triển các cội gốc công đức này. Nếu thiện nam, thiện nữ ở đời sau nhưng tai được nghe kinh ấy, chí nguyện ở Đại thừa thì nên biết đó là sự kiến lập của Bồ-tát Di-lặc. Người phụng trì kinh này, nếu có ác ma theo rình tìm sơ hở thì chúng con sẽ nương Thánh chỉ của Đức Thế Tôn mà đến hộ trì họ, khiến cho họ không lầm lỗi.

Đức Phật bảo trời Đế Thích:

–Ông nên thọ lãnh phẩm “A-xà-thế đoạn nhất thiết kết” của kinh này. Vì sao? Vì giả sử trời và A-tu-luân hận thù mà chiến đấu, nếu trời nghĩ đến kinh ấy thì chư Thiên thắng lợi, còn A-tu-luân bị hàng phục.

Đức Phật nói:

–Này Câu-dực! Nay ta phó chúc cho ông, nếu kinh điển này ở tại châu vực, quận, nước, huyện, ấp, thành quách, gò đống, xóm làng nào thì ông sẽ ủng hộ cho đất ấy, làm cho các oán hận thù địch chẳng làm gì được. Hoặc đến vua quan, hoặc rơi vào đám giặc, hoặc gặp cầm thú, hoặc gặp quỷ thần, hoặc gặp dâm tặc, hoặc gặp nạn khủng bố nước lửa thì liền phải nhớ đến kinh điển này mà thuyết giảng ca tụng. Hoặc có oan gia, giặc giã nghịch ác cũng chẳng làm gì được.

Bấy giờ Đức Phật liền bảo A-nan:

–Ông hãy nhận kinh điển này giữ gìn đọc tụng. Vì sao? Giả sử có người theo ông cầu học ý nghĩa của kinh này thì thiện nam, thiện nữ ấy đoạn trừ tất cả các hồ nghi, không có do dự, rửa sạch các kết sử, trừ khử vĩnh viễn. Các ma tội ác chẳng thể che trùm được, những tai ương đời trước, tà hại ngăn ngại thì tự nhiên tiêu diệt. Vì sao? Vì nghe kinh này thì không còn hồ nghi.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Ta phó chúc cho ông, ân cần răn bảo. Như có kẻ phạm nghịch tội mà hiểu rõ yếu nghĩa của kinh này, hoan hỷ vui mừng thì không có tội nghịch nữa, cũng không nguy hại, cũng không tội lỗi.

Trưởng lão Ca-diếp bạch Đức Thế Tôn:

–Kính thưa Đấng Đại Thánh! Con đã chứng kiến rõ sự vi diệu của kinh điển này. Trước đây, khi tề tựu ở cung vua A-xà-thế phân biệt việc nghịch thì vua A-xà-thế liền thành tựu được pháp Nhẫn bất khởi, lưới nghi hoặc bị tiêu trừ. Con nghĩ rằng: “Vua A-xà-thế vốn chẳng hiểu rõ các pháp, cũng chẳng phân biệt được các việc nghịch.”

Kính thưa Đức Thế Tôn! Tánh các pháp tự nhiên vốn tịnh, mà trái lại tư tưởng con người chấp là ngã, ngã sở nên hình thành các kiến chấp không thể sửa đổi, rèn luyện bản tánh thanh tịnh của tất cả các nghịch tội vậy. Như việc vua A-xà-thế chứa nhóm sự điên đảo, các tư tưởng hư ngụy nên trở thành tai họa khổ đau. Nếu thông suốt điều này thì không có các tai nạn. Con nói từ trước đến nay các chúng sinh không có tội, không có pháp đường ác. Họ hiểu được điều này thì trở nên siêu tuyệt, không có đầu mối, kết thúc.

Đức Phật nói:

–Hay thay! Hay thay! Này Ca-diếp! Đúng như điều đã nói, sự chân chánh về đạo nghĩa của các Đức Phật Thế Tôn là không có trần cấu.

Hiền giả A-nan bạch Đức Phật:

–Kính thưa Đức Thế Tôn! Ngài kiến lập kinh điển này khiến

cho về sau, đời mạt thế được lưu hành ở cõi Diêm-phù-đề.

Bấy giờ, từ hai bên hông của Đức Thế Tôn phóng ra hào quang rất sáng, chiếu soi khắp tam thiên đại thiên thế giới. Cây cối, tường vách đều tự nhiên phát ra âm hưởng như vầy: Đức Như Lai đã kiến lập kinh điển này, giả sử được kinh điển này ở trong biển cả hoặc nơi kiếp thiêu, khi đang nghe kinh này thì không được dứt nửa chừng mà không nghe vậy.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Tất cả cây cối, tường vách đã phát ra âm thanh đúng như điều ông đã nói, các Chánh sĩ ấy gieo trồng các cội gốc công đức. Vào đời sau cùng, họ thọ nhận kinh này nhất định chẳng đoạn dứt nửa chừng.

Khi Đức Phật thuyết giảng kinh này, chín mươi sáu ngàn người, trời xa lìa trần cấu, đạt được Pháp nhãn tịnh, sáu mươi tám ngàn người, trời đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân, hai mươi hai ngàn vị Bồ-tát được pháp Nhẫn bất khởi, tám ngàn người lìa khỏi các tham dục, tam thiên đại thiên thế giới chấn động. Ngay khi ấy, âm thanh lớn phát ra tuyên cáo khắp trên trời, thế gian đều hãy đến cúng dường kinh điển này. Nhạc cụ của chư Thiên chẳng tấu mà tự vang lên, tuyên cáo khắp cả trên trời, thế gian đều đến để tung hoa, đốt hương đủ các loại hương thơm, bột thơm, hương xoa thắm đượm. Họ đều hướng về nơi chuyển pháp luân. Đức Như Lai ở chỗ này thuyết giảng kinh đều là vì hàng phục các tà đạo khác, trừ bỏ hạnh tà ức chế các ma. “Ấn Như Lai này là tinh tấn tu hành pháp của Như Lai, các thiện nam cần phải phân biệt cầu chánh kiến cứu cánh của pháp ấn này.”

Đức Phật thuyết giảng như vậy, vua A-xà-thế, Bồ-tát Phổ Thủ, Đại sĩ Di-lặc, tất cả vị Bồ-tát, các vị đại Thanh văn, Tôn giả Xá-lợiphất, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Tu-bồ-đề, Tôn giả A-nan… chư Thiên, người trong thế gian, A-tu-luân, nghe điều Phật đã nói, không ai không vui mừng.