SỐ 323
KINH ÚC CA LA VIỆT VẤN BỒ TÁT HÀNH
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ,  người nước Nguyệt Chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 1: THƯỢNG SĨ

Nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ngụ tại Tinh xá nơi khu vườn rừng Kỳ Đà – Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Đại Tỳ-kheo, năm ngàn Bồ-tát, như: Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Nhuyến Thủ, Bồ-tát Trừ Ác, Bồ-tát Quang Thế Âm v.v… đều hội đủ.

Bấy giờ, vô số trăm ngàn chúng vây quanh Đức Phật để nghe Ngài thuyết pháp. Trong thành Xá-vệ có một trưởng giả nổi tiếng tên là Úc-ca cùng với các trưởng giả Hảo Hỷ, trưởng giả Hảo Thán, trưởng giả Thiện Thí, trưởng giả Hữu Lượng, trưởng giả Sở Lạc, trưởng giả Thường Danh Văn, trưởng giả Thí Danh Văn, trưởng giả Hữu Danh Văn, trưởng giả Thiện Tài, trưởng giả Tuân Hành, trưởng giả Cấp Cô Độc, trưởng giả Tân Kỳ, trưởng giả Sủng Cụ Túc và trưởng giả Thẩm Lượng, mỗi trưởng giả ấy đều cùng năm trăm quyến thuộc đi đến chỗ Đức Phật nơi thành Xá-vệ rồi cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng và lui ra ngồi một bên. Những vị ấy đều đã lập chí nguyện nơi Đại thừa, gieo trồng các cội gốc công đức, chắc chắn sẽ được thọ ký đạo quả Chánh chân vô thượng.

Khi ấy, thấy chúng Bồ-tát và các trưởng giả rồi, trưởng giả Úcca nương oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, quỳ gối chấp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con có điều muốn thưa hỏi, cúi xin Đức Thế Tôn từ bi dùng phương tiện thiện xảo để giảng nói cho con.

Đức Phật bảo:

–Này trưởng giả! Ông muốn hỏi điều gì thì hãy thưa hỏi, Như Lai sẽ giảng nói khiến ông được hoan hỷ.

Trưởng giả Úc-ca bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào phát tâm cầu đạo quả Chánh chân vô thượng, được nghe vô số trí tuệ của Phật, học hỏi pháp Đại thừa, nguyện an trụ nơi Đại thừa, khuyến khích giúp đỡ người theo Đại thừa, nương nơi pháp Đại thừa, thông đạt về Đại thừa, giảng nói và làm an ổn cho tất cả chúng sinh, mặc áo giáp Đại thừa cứu giúp tất cả chúng sinh, phát nguyện: “Những ai chưa được độ thì ta sẽ độ họ, người chưa giải thoát thì ta sẽ giải thoát cho họ, người chưa an ổn thì ta sẽ làm cho họ an ổn, người chưa chứng đắc Niết-bàn ta sẽ khiến họ chứng đắc Niết-bàn, ta sẽ trừ hết mọi gánh nặng cho tất cả chúng sinh, kiến lập thệ nguyện rộng lớn nơi đạo vô thượng, tâm không ô nhiễm bởi vô lượng sinh tử và các hiềm khích xấu ác, vô số kiếp xoay vần trong sinh tử nhưng tâm họ vẫn không hề buông bỏ, nếu cầu đạo tại gia hay xuất gia của Bồ-tát, hoặc muốn hoàn bị pháp của Phật, phải thương tưởng đến chư Thiên và loài người, dùng pháp Đại thừa này ban bố khắp tất cả, không bỏ mất những lời dạy về ngôi Tam bảo và an trụ lâu dài nơi Nhất thiết trí thì đạt đầy đủ trí tuệ này”. Cúi xin Thế Tôn giảng nói pháp giới đức của hàng Bồ-tát tại gia, những ai lắng nghe và thực hành theo lời dạy của Như Lai thì đạt được quả vị Bất thoái chuyển, thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng, đời nay cho đến những đời sau, bất cứ ở đâu cũng đều là bậc trác tuyệt, cùng với hàng Bồ-tát xuất gia trừ sạch ái dục, dốc tâm giữ đạo, cạo bỏ râu tóc, làm vị Tỳ-kheo, thọ trì giới cấm, thực hành theo pháp, theo điều lành và làm theo sự chân chánh. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tại gia nên an trụ như thế nào? Hàng xuất gia ấy an trụ như thế nào?

Đức Phật bảo trưởng giả Úc-ca:

–Lành thay! Lành thay! Này trưởng giả! Chỉ có ông mới có thể phát tâm thưa hỏi Như Lai về ý nghĩa rộng lớn như vậy. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, Như Lai sẽ giảng nói về công hạnh chứa nhóm giới đức và sức tinh tấn của hàng Bồ-tát tại gia cùng xuất gia cho ông.

Khi ấy, trưởng giả Úc-ca lắng nghe để nhận lãnh.

Đức Phật dạy:

–Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nào tu đạo thì nên quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Nhờ công đức tự quy y này mới cầu đạo quả Chánh chân vô thượng.

Này trưởng giả! Thế nào là Bồ-tát tại gia quy y Phật? Bồ-tát tại gia nên nghĩ: Ta sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của Phật, tạo các công đức và cội gốc căn lành, chứa nhóm vô số hạnh nguyện, thường thực hành tinh tấn để hoàn bị ba mươi hai tướng tốt. Đó gọi là quy y Phật. Thế nào là quy y Pháp? Là thực hành theo giáo pháp, kính nhận giáo pháp, thông đạt nghĩa lý vi diệu của pháp, ưa thích giáo pháp, nương tựa nơi pháp, chí nguyện đối với pháp, nhờ pháp dẫn dắt, hộ trì pháp, an trụ nơi pháp tịch tĩnh, khua trống pháp và tăng, trụ vào hạnh nguyện của pháp, thực hành các pháp, vì pháp mà giảng nói về pháp giới, dùng diệu lực của pháp làm pháp chủ, thực hành bố thí pháp và cầu pháp bảo, lúc ta chứng đắc đạo quả Bo-đề vô thượng, thành bậc Tối Chánh Giác thì sẽ giảng nói pháp giúp cho chư Thiên và loài người được giải thoát. Đó là quy y Pháp. Thế nào là quy y Tăng? Hàng Bồ-tát tại gia nếu gặp bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Phật-bích-chi, Thanh văn hoặc phàm phu đều nên cung kính phụng sự, chiêm ngưỡng lễ bái, luôn vâng theo, nói năng từ tốn, không hề nghi ngờ, tôn trọng, cúng dường, nương vào các hạnh chân chánh, lúc nào cũng tâm niệm: Khi ta chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, thành bậc Tối Chánh Giác, thì sẽ thâu nhận tất cả chư Thiên và loài người làm chúng đệ tử, sẽ cung kính nói pháp cho họ, không hề khinh mất. Đó là quy y Tăng.

Lại nữa, này trưởng giả! Có bốn pháp để hàng Bồ-tát tại gia quy y Phật. Những gì là bốn? Một là chí nguyện nơi Phật đạo; hai là dùng tâm bình đẳng để bố thí, ý không thiên lệch; ba là tâm từ bi rộng lớn không gián đoạn; bốn là tâm không ưa thích thừa nào khác. Đó là bốn pháp để hàng Bồ-tát tại gia quy y Phật.

Này trưởng giả! Có bốn pháp để hàng Bồ-tát tại gia quy y Pháp.

Những gì là bốn? Một là cùng tu tập theo pháp của các Bồ-tát, đảnh lễ kính nhận giáo pháp chư vị ấy dạy bảo; hai là nhất tâm nghe pháp; ba là như pháp đã nghe rồi giảng nói lại cho người khác; bốn là nhờ công đức bố thí này mà nguyện cầu chứng đắc đạo quả Chánh chân vô thượng. Đó là bốn pháp để hàng Bồ-tát tại gia quy y Pháp.

Lại nữa, này trưởng giả! Có bốn pháp để hàng Bồ-tát tại gia quy y Tăng. Những gì là bốn? Một là vượt trên thừa Thanh văn và Duyên giác, chỉ ưa thích Nhất thiết trí; hai là nếu có dùng thực phẩm để bố thí thì cũng dùng pháp để giáo hóa, dẫn dắt; ba là đem pháp giải thoát của Hiền Thánh để dẫn dắt chúng Bất thoái chuyển; bốn là không xem công đức giải thoát của hàng Thanh văn là sự giải thoát. Đó là bốn pháp để hàng Bồ-tát tại gia quy y Tăng.

Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nếu gặp Như Lai, luôn tâm niệm cầu Phật, đó là quy y Phật; nghe thuyết pháp, chí tâm nghĩ nhớ đến pháp là quy y Pháp; được gặp chúng Hiền Thánh của Như Lai, nhớ nghĩ đến Phật đạo gọi là quy y Tăng.

Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia muốn đầy đủ hạnh nguyện bố thí là quy y Phật; bố thí, ủng hộ chánh pháp là quy y Pháp; sau khi bố thí mong được Nhất thiết trí là quy y Tăng.

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia thực hành theo hạnh cao cả, không làm theo điều thấp kém. Thế nào là hạnh cao cả? Nghĩa là sử dụng tài sản đúng pháp, không dùng vật phi pháp, theo chánh pháp, không tà vạy, không làm theo sự sai quấy, thực hành nghiệp ngay thẳng, không quấy nhiễu người khác, thường bố thí, thuyết pháp, luôn tưởng vô thường đối với tài sản, làm nhiều việc lành, hiếu thảo cung phụng cha mẹ, thường ưa thích bố thí, cung kính bà con dòng họ, kết bạn với tri thức thiện, đem pháp cao thượng chỉ dạy cho khách khứa, tôi tớ. Vì thực hành đúng pháp nên vị ấy trừ bỏ hết các gánh nặng và từ bỏ tất cả gánh nặng năm ấm, luôn siêng năng, khiến các sự việc nặng nề không còn dấy khởi, không học tập theo thừa Thanh văn và Duyên giác, dẫn dắt giáo hóa chúng sinh không nhàm chán, vì sự an lạc của mình mà quán tưởng vô thường, muốn tất cả đều an lạc, đối với sự lợi ích hay chẳng lợi ích, khen hay chê, có danh tiếng hoặc vô danh, khổ hay vui đều đã vượt trên pháp hữu vi của thế gian, tâm không kiêu mạn, không vướng mắc vào giàu nghèo, không màng đến tài lợi, danh dự, khổ vui, thực hành theo chánh pháp và tùy thuận theo pháp thế gian, trụ vững chắc nơi chân lý, giữ gìn đạo pháp, giúp đỡ những người tu hành thanh tịnh, an trụ chân chánh vào Phật đạo, trừ hết các nhơ uế, thường sử dụng tâm bình đẳng, thệ nguyện được trọn vẹn, cũng khiến cho người khác cùng hoàn bị thệ nguyện, không buông bỏ sự hành hóa, khiến cho người khác cũng như vậy, mọi việc làm đều rốt ráo không có sự do dự, thường biết đền ơn, kiến lập điều lành, gặp người bần cùng thì đem tài sản để cứu giúp, người sợ hãi thì đem năng lực không sợ hãi để trấn an họ, người lo buồn thì an ủi để trừ hết hoạn nạn, người thấp kém thì khuyên họ nhẫn nhục, người có thế lực thì khiến không còn kiêu mạn, người tự cao thì làm cho họ bỏ hết tính tự cao tự đại, cung kính bậc tôn trưởng, thưa hỏi những bậc đức độ, gần gũi những người uyên bác, thưa hỏi những phương pháp tu tập để thông suốt các điều nghi ngờ, thường hiểu biết đúng đắn, tâm không dua nịnh, từ bi, bình đẳng khắp tất cả, hành hóa không thiên vị, không có tâm làm tổn hại người khác, không phân biệt chủng tánh, cũng chẳng mong cầu, trụ vững chắc vào nhất tâm, ưa thích hạnh tinh tấn, cùng chúng hội với bậc Hiền Thánh, tự tư duy tu tập, gặp người chẳng phải Hiền Thánh thì khởi tâm bi rộng lớn, trụ vào tâm từ bi, lại khởi tâm từ bi bình đẳng đối với các pháp, tự mình tu tập theo pháp, không có thầy hướng dẫn, nếu có nghe pháp là để khai mở nẻo đạo, nghe rồi thì tư duy nghĩa lý, đối với các niềm vui về ái dục và âm nhạc đều quán tưởng vô thường, không tiếc thân mạng, quán tưởng thân mạng như sương sáng sớm, xem tài sản như huyễn, như bọt nước, quyến thuộc là oán thù, vợ con, nam nữ là địa ngục tăm tối; tất cả sự nhận lãnh là khổ, nhà cửa, tài sản phải nên xa lìa, những sự tìm cầu là nguồn gốc của bất thiện, gia đình nên tưởng về chủng loại quyến thuộc, tri thức nên tưởng về địa ngục, súc sinh, ngày đêm đều bình đẳng, không sai khác, thân không có gì quan trọng nên thực hành pháp cốt lõi, mạng sống không gì quan trọng nên trụ vào pháp cốt yếu, tài sản không gì quan trọng nên phải làm điều chính đáng. Thế nào là điều cốt lõi của thân? Là có thể giúp đỡ người khác, cung kính và nương tựa nhau. Đó là điều cốt lõi của thân. Nếu làm cho cội gốc công đức không giảm sút mà khiến công đức thường tăng thêm. Đó là điều cốt lõi của mạng sống. Đối với các pháp không có đối tượng nắm giữ, không chấp giữ tài sản, thường bố thí. Đó là điều cốt yếu của tài sản. Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên tạo lập gia thất như vậy, đó là hạnh cao cả của hàng tại gia, không bỏ mất giới của Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, đó chính là chí thành gọi là thực hành đúng pháp, không hề thoái chuyển đối với đạo Chánh chân vô thượng.

Phẩm 2: GIỚI

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên thọ trì năm giới. Một là không sát sinh, tức tay không được cầm dao, gậy, gạch ngói để làm hại đối phương, không quấy nhiễu người khác, tâm bình đẳng đối với tất cả, thường ban rải tâm từ bi. Hai là vật không cho thì không được lấy, không được xâm phạm, tự mình đối với tài sản phải biết đủ, không tham của cải của người khác, xa lìa dua nịnh, không làm việc mờ ám, tự biết vừa đủ, không tham vật sở hữu của người khác, từ cọng cỏ, ngọn lá, sợi lông đến hạt gạo, người khác không cho thì không được lấy. Ba là không tà dâm, tức phải biết gìn giữ đối với vợ (hay chồng) của mình, không phạm sắc ở bên ngoài, không nên nhớ nghĩ việc dâm dục, chứa nhóm dâm dục thì sẽ đau khổ vô cùng, phải tự giữ gìn chính mình, nên quán như vầy: Khởi tưởng đối với vợ mình thì sẽ gặt quả ác, phải thường sợ hãi dục trần, không nên có tâm lén lút, chứa nhóm việc dâm dục, nếu làm như vậy thì sẽ khiến mọi người gần với cõi địa ngục, nếu thân khởi tưởng mà cho là bình thường thì ý chẳng được yên ổn, nên lập chí nguyện: “Từ nay về sau, tôi không nhiễm vào viec dâm dục huống nữa là nghĩ đến cùng với người khác làm việc dâm dục sao!”. Bốn là không nói dối: Lời nói phải thành thật, xét kỹ mới nói, lời nói phải đi đôi với việc làm, không nói đôi chiều, không thêm bớt, khong nói sai lệch, nên thực hành các giác ý, như điều đã thấy nghe mà giảng nói để hộ trì pháp, thà mất thân mạng, trọn đời không nói dối. Năm là không uống rượu, tức không ưa thích rượu, không nếm rượu, thường an trụ nơi tánh chân thật, không hung dữ, không ngu si, luôn định tĩnh, tâm ý nên mạnh mẽ, nên nhớ nghĩ đến sự an ổn, bố thí các vật sở hữu, chế ngự đối với các điều phi nghĩa. Nếu đem rượu cho người khác thì nên nghĩ: Đây là luc Bố thí Ba-la-mật, tùy theo ý muốn của người khác, vì đáp ứng mong cầu của họ, nguyện nhờ việc bố thí rượu này khiến con có được trí tuệ, ý chí chuyên vào việc bố thí, không loạn động. Vì sao? Vì Bồ-tát thì đầy đủ tất cả Bố thí Ba-la-mật.

Đức Phật bảo:

–Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia đem rượu cho người khác như vậy thì đối với pháp không có tội. Công đức của Bồ-tát tại gia thọ trì năm giới này, nên nguyện cầu được đạo Chánh chân vô thượng, nên biết khéo léo giữ gìn năm giới là tinh tấn bậc nhất. Nếu có sự tranh cãi thì phải giải thích khiến hòa hợp, không nói lời ngang bướng, nên nói lời hòa nhã, rõ ràng, không nói đôi chiều, những điều giảng nói đều đúng nghĩa, không làm việc phi pháp, lời nói đều hợp với thiện, không bỏ mất tâm từ bi, ngôn ngữ không sai lệch, không thể lay chuyển, dứt sạch mọi khổ đau, không có ý làm tổn hại người khác, dùng nhẫn nhục làm sức mạnh, mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn, thường phải chánh kiến, xa lìa tà kiến, nếu có bố thí thì không nên thấy có đối tượng bố thí.

Phẩm 3: Y DƯỢC

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia dù ở nước thành, huyện ấp nào cũng nên ủng hộ chánh pháp ở nơi ấy. Người nào không có niềm tin thì chỉ dạy khiến họ tin tưởng, không cung kính thì dạy cho họ cung kính, người thiếu trí tuệ thì dạy bảo khiến họ có trí tuệ, người bất hiếu với cha mẹ, không biết ân nghĩa, nên dùng pháp giáo hóa làm cho họ trung hiếu, tôn kính bậc trưởng thượng, thực hành tinh tấn, tu tập cẩn trọng. Đối với người ít trí tuệ thì dạy bảo khiến họ học rộng hiểu nhiều, người nghèo khổ thì dạy họ bố thí, người không giữ giới thì khuyên họ trì giới, người sân hận thì khuyên họ nhẫn nhục, người biếng nhác thì khuyên họ siêng năng, người buông lung thì dạy họ giữ gìn tâm ý, người có trí tà vạy thì chỉ dạy cho họ trụ vào trí chân chánh, người bị bệnh tật thì cho thuốc men, người không ai giúp đỡ thì giúp đỡ cho họ, người không nơi nương tựa thì làm chỗ cho họ nương nhờ, người không ai cứu giúp thì giúp họ được an lac, làm thầy dẫn dắt cho tất cả chúng sinh như vậy là đã hộ trì chánh pháp. Giả sử có một người bị đọa vào cõi ác thì hàng Bồ-tát tại gia nên dạy cho họ an trụ vào pháp thiện và thực hành những công đức, căn lành khác từ một lần, hai lần hoặc ba cho đến trăm lần. Bồ-tát tại gia nên kiến lập tâm bi lớn đối với tất cả chúng sinh, trụ vững chắc vào Nhất thiết trí, mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn và nên suy nghĩ: “Ta phải thoát khỏi hoạn nạn, giúp cho người bị tai nạn khổ đau khiến họ được giải thoát và chứng ngộ sau đó mới chứng đắc đạo quả Chánh chân vô thượng. Tâm ta như vậy, không vì người có lòng tin ngay thẳng cũng không vì người dua nịnh, lại không dối trá, giới pháp hoàn bị, là người có đức độ, mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn. Ta nhờ được nghe pháp này nên không làm theo người khác, mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn, nguyện cho ta thường tinh tấn, khiến cho chúng sinh ở chốn tối tăm thấy ta đều hoan hỷ”. Bồ-tát nên ở nơi yên tĩnh, quan sát chân lý, không hề vọng tưởng. Giả sử khiến cho một người làm điều sai trái, bị đọa vào đường ác thì Bồ-tát ấy có lỗi lớn với Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác. Thực hành như vậy là Bồ-tát tại gia đã tu đạo ở nhà mình, thường nên mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn này, nguyện: “Tôi sẽ khiến tất cả dân chúng trong cõi nước nơi tôi cư trú không ai bị đọa vào đường ác”. Ví như trong cõi nước, thành ấp nọ có vị thầy thuốc, ở đó có một người bị chết oan thì vị thầy thuốc ấy có lỗi đối với dân chúng. Bồ-tát cũng vậy, ở cõi nước thành ấp nào mà không nhớ nghĩ, cứu giúp chúng sinh, hoặc làm cho một người bị đọa vào cõi ác thì vị Bồ-tát ấy có lỗi đối với Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác.

Phẩm 4: CHỖ Ở KHÔNG THANH TỊNH

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên biết rõ mọi việc cấu nhiễm ở gia đình, nên tư duy: “Thế nào gọi là tại gia? Là đoạn mất các cội gốc căn lành gọi là tại gia; không hộ trì kinh điển và các công đức gọi là tại gia; ở nơi các phiền não bất thiện, ở nơi tưởng bất thiện, ở nơi sự hành hóa bất thiện, thường ở với người không lương thiện, không định tĩnh, không có phép tắc, khiến tâm tán loạn, nhóm họp với người ác, hung dữ, đó gọi là tại gia; do làm theo những việc như vậy nên bị ma quấy nhiễu gọi là tại gia; thường ở nơi tham, sân, si và các pháp tạp nhiễm ở thế gian như phiền não, khổ đau, không thể đầy đủ cội gốc căn lành, đó là tại gia; tuy ở trong pháp này nhưng không thực hành theo lại còn xem thường, không cung kính cha mẹ, bậc tôn trưởng, Phật, Sa-môn, Phạm chí và Đạo sĩ, đó gọi là tại gia; ưa thích ái dục, thường buồn khổ, ưu sầu, mọi việc đều chẳng vừa ý, gọi là tại gia; luôn bị giam cầm sân hận, tranh cãi, không hòa hợp, kiện tụng mắng nhiếc, gọi là tại gia; không thể chứa nhóm pháp thiện, diệt hết các cội gốc công đức, điều không nên làm mà làm, chê bai chư Phật, Bồ-tát và Thanh văn, đó là tại gia; tuy ở trong pháp này nhưng khiến người đọa vào cõi ác, ở trong pháp này nhưng làm cho người sợ hãi đối với tham, sân, si, đó là tại gia; không giữ gìn giới luật, xả bỏ định, không thực hành trí tuệ, không cầu pháp giải thoát, không làm sinh khởi pháp giải thoát tri kiến, đó là tại gia; tuy trụ trong pháp này nhưng vướng mắc vào cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, bạn bè, lo buồn về ân ái, không biết nhàm chán như các dòng sông đều đổ về biển, đó gọi là tại gia; từ sự nhiễm ô, tham lam mà khởi tư tưởng không gián đoạn, tại gia có nhiều tưởng tham lam, các việc ác, lo buồn không bao giờ chấm dứt; tại gia thì chứa nhóm ân ái như thức ăn ngon có nhiều chất độc; tại gia xem nguồn gốc các khổ như bạn lành; tại gia phần nhiều bỏ hết lời dạy của Hiền Thánh; tại gia thường ưa thích tranh cãi, do có nhiều nhân duyên, sự việc; tại gia mong cầu nhiều của cải, giàu có, thường làm các việc thiện, việc ác; tại gia là vô thường, không thể tồn tại lâu dài vì pháp là tan hoại; tại gia là khổ đau, thường có sự mong cầu, tham đắm các vật sở hữu; tại gia thường có tâm ác, dùng dao, gậy để gây oán kết; tại gia biết là vô ngã nhưng vẫn có đối tượng thọ nhận cho nên luân hồi mãi; tại gia không hề thanh tịnh vì tự cho mình là thanh tịnh; tại gia như vạch tia sáng, vì chỉ mới xuất hiện rồi lại mau chóng tiêu diệt; tại gia như huyễn như hóa vì không có ngã mà thích đến đi, nhóm họp; tại gia giống như hoa Tumạn, vừa sinh khởi lại tiêu mất nhưng có nhiều người mong cầu; tại gia như sương sáng sớm, mặt trời mọc liền tan biến, chỉ lo âu về sự chết; tại gia như cha mẹ, vui ít buồn nhiều; tại gia như lưới giăng, thường lo buồn đối với các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc; tại gia giống như chim mỏ sắt, chỉ lo buồn các pháp bất thiện; tại gia là rắn độc, lo buồn, bàn luận về các pháp; tại gia như lửa đốt thân, do ý luôn tán loạn; tại gia thường sợ hãi oán thù, đó là năm loại giặc như: oán kết, con hư v.v…; tại gia ít an ổn, không thể giải thoát do không bình đẳng. Như vậy, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên phân biệt rõ tại gia là nơi chốn không thanh tịnh.

Phẩm 5: BỐ THÍ

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên thực hành các việc thiện như: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn. Nên tư duy: Chỗ bố thí chính là ngã sở, người tại gia chẳng phải là ngã sở. Người bố thí là cần thiết, người tại gia thì không cần thiết. Người bố thí đời sau được an lạc, người tại gia đời sau chịu khổ đau. Người bố thí không hề lo sợ, người tại gia thì lo ưu sầu. Người bố thí chẳng cần sự ủng hộ, người tại gia thì mong giúp đỡ. Người bố thí trừ sạch ái dục, người tại gia thì tăng thêm ái dục. Người bố thí không có đối tượng thọ nhận, người tại gia thì có đối tượng thọ nhận. Người bố thí không còn lo âu, người tại gia luôn lo âu. Người bố thí thành tựu Phật đạo, người tại gia làm quyến thuộc với ma. Người bố thí là không cùng tận, người tại gia thì chẳng thường còn. Người bố thí được an lạc, người tại gia luôn khổ đau. Người bố thí đoạn trừ dục trần, người tại gia tăng trưởng dục trần. Người bố thí vô cùng giàu sang, người tại gia luôn bần cùng. Người bố thí thực hành hạnh cao thượng, người tại gia làm theo điều thấp kém, ý không có đối tượng để niệm cũng không thọ nhận. Người bố thí được chư Phật khen ngợi, người tại gia bị người khác chống đối, chê bai. Như vậy, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên thực hành bố thí như vậy. Nếu thấy người đến cầu xin thì nên khởi ba ý niệm. Những gì là ba? Một là tiếp đón như bậc tri thức thiện, hai là khiến họ đạt được Phật đạo, ba là khiến họ đời sau được giàu sang. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là trừ sạch tướng tham lam, ganh ghét; hai là luôn có ý niệm bố thí, ba là không bỏ Nhất thiết trí. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là tạo niềm an lạc như Đức Như Lai, hai là hàng phục các ma, ba là không mong được báo đáp. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là gặp người bần cùng khốn khổ đến cầu xin thì phải giáo hóa, dẫn dắt họ; hai là thực hành theo bốn ân, không bỏ các ân đức; ba là không có một mảy may biên vực về sự nhận chịu sinh tử. Lại có ba ý niệm. Một là xa lìa tưởng dâm dục, hai là xa lìa tưởng sân hận, ba là xa lìa tưởng ngu si. Vì sao? Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia gặp người đến xin thì tham, sân, si liền được giảm bớt. Thế nào là giảm bớt? Là dùng tâm từ để bố thí nên không luyến tiếc, tức tham được giảm bớt. Nếu đối với người đến cầu xin mà không có tâm sân thì sân hận được giảm bớt. Nếu bố thí để nguyện cầu đạt được Nhất thiết trí thì ngu si liền được giảm bớt. Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia gặp người đến xin liền được đầy đủ sáu Ba-la-mật. Thế nào là đầy đủ? Nếu bố thí cho người khác mà không nghĩ có người tho nhận và có vật để cho, đó là Bố thí Ba-la-mật; tâm không lo buồn đối với Phật đạo, đó là Trì giới Ba-la-mật; gặp người đến cầu xin mà không có tâm sân hận, không làm hại, đó là Nhẫn nhục Ba-la-mật; tâm không suy nghĩ nếu đem thực phẩm cho người khác thì mình sẽ bị đói khát, dù có ai muốn làm hại cũng không làm trái với tâm bố thí, đó là Tinh tấn Ba-la-mật; nếu bố thí cho người đến xin mà hoan hỷ, không nhàm chán, không có tâm hối hận, luôn vui vẻ, đó là Thiền định Bala-mật; nếu bố thí mà đối với tất cả các pháp không thấy có đối tượng chấp giữ cũng chẳng có tưởng báo đáp, đó là Trí tuệ Ba-la-mật.

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên xa lìa tám pháp thế gian, không luyến tiếc tài lợi ở thế gian, như vợ con, nhà cửa, tôi tớ, của báu và các sự lợi ích khác, ý không vướng mắc, không vui mừng cũng chẳng buồn lo, đối với tất cả tài sản không hề tham tiếc, nên thực hành, tư duy về pháp, nên quán như vầy: “Cha mẹ, vợ con, nhà cửa, tôi tớ đều từ tham dục mà có, chúng là nguyên nhân khiến cho ta khởi tưởng khổ, vui, đây chẳng phải là tài sản của ta, chẳng phải là vật dụng của ta, nguyện luôn luôn tinh tấn, nếu sử dụng những vật dụng này thì sẽ khiến các điều ác tăng trưởng, tuy đời hiện tại được các niềm vui nhưng đời sau phải chịu nhiều khổ đau, vì vậy ta nên mau chóng cầu những phap khác, đó là bố thí, trì giới, trí tuệ và tinh tấn, không hề buông lung, an trú nơi Phật đạo, đầy đủ cội gốc căn lành, đây mới chính là những tài sản của ta, tuy ta có cầu xin nhưng chỉ cầu xin những ước nguyện này mà thôi, thà mất thân mạng chứ không bao giờ vì vợ con, nam nữ mà phạm các điều ác”. Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia tu đạo, nếu thấy thê thiếp thì nên tư duy ba điều. Những gì là ba? Một là tưởng vô thường, hai là tưởng không thật có, ba là tưởng không có đối tượng để chấp giữ. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là đời này làm bạn với những điều vui thích nhưng chẳng phải là bạn ở đời sau; hai là luôn tinh tấn tu hành, lúc nào cũng giữ gìn tâm ý, đây là những người bạn; ba là, lấy những điều này làm sự an ổn, không tạo ra các khổ. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là tưởng không trong sạch, hai là tưởng nhơ uế, ba là tưởng xấu ác. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là tưởng La-sát, hai là tưởng quỷ thần bước chân đi, ba là tưởng chỉ có sắc. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là tưởng khó giữ gìn trọn vẹn, hai là tưởng đọa lạc, ba là tưởng không đền đáp, không biết đủ. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là tưởng tri thức ác, hai là tưởng tham chấp, ba là tưởng bỏ phế phạm hạnh. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là tưởng bị đọa vào địa ngục, hai là tưởng bị đọa vào súc sinh, ba là tưởng khiến sinh vào ngạ quỷ. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là tưởng sợ hãi, hai là tưởng chấp có, ba là tưởng chấp giữ. Lại có ba ý niệm. Những gì là ba? Một là tưởng vô ngã, hai là tưởng không chấp giữ, ba là tưởng xa lìa loạn động.

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên khởi tưởng như vầy: “Không nên tham ái đối với thê thiếp của mình, nếu có tâm thương con thì không nên nặng hơn người khác, nên dùng ba pháp sau để tự can ngăn tâm ý của mình. Những gì là ba? Một là, Phật đạo là tâm bình đẳng, không có ý tà vạy, sai lệch; hai là, Phật đạo là hạnh bình đẳng, không có hạnh tà vạy, sai lệch; ba là, Phật đạo chỉ dùng một pháp làm hạnh, không có hạnh nào khác. Bồ-tát nên dùng ba pháp này để tự can ngăn tâm ý mình, đối với con thì nên xem như oán thù, chẳng phải là tri thức thiện. Vì sao? Vì xem con như tri thức thiện khiến ta xa lìa tri thức thiện và hạt giống Phật, nên dùng tâm ý thánh thiện nhớ nghĩ đến Như Lai, đem tâm thương con để khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sinh, đem sự ưa thích tự thân để ban bố từ bi khắp tất cả, nên suy nghĩ như vầy: “Tất cả đều là con ta, ta cũng làm con của tất cả, do đó không có nhà cửa, nơi thân cận để qua lại, sinh ở chỗ nào cũng là oán thù. Nguyện sự tạo tác và hạnh nguyện của con không có tri thức thiện cũng không có tri thức ác. Vì sao? Nếu có tri thức thiện thì tăng thêm tưởng ái dục. Nếu có tri thức ác thì tất cả ái dục đều không có. Con luôn muốn điều phục tâm mình khiến không còn vướng mắc, thường thực hành tất cả pháp, thể nhập vào tất cả hạnh, nếu tạo tác tà hạnh thì rơi vào việc tà, nếu làm theo chánh hạnh thì đạt được việc chân chánh. Do vậy, nguyện của con mới không có tà hạnh, đối với tất cả việc làm, sự vận hành của tâm và ước nguyện của con đều nguyện thể nhập Nhất thiết trí”. Như vậy, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia không chấp giữ các vật sở hữu, không có đối tượng để thọ nhận, cũng chẳng có đối tượng để tham đắm, không ái nhiễm cũng chẳng khởi dục cho đến khiến không còn đối tượng để sinh khởi. Bồ-tát tại gia nếu gặp người đến cầu xin thì nên làm gì để bố thí cho họ? Đó là, tâm nên suy nghĩ: “Ta đem vật này để bố thí thì sẽ đạt được các hạnh về giới luật, trừ hết sự lo âu về dâm dục, sinh tử, thể nhập vào pháp chân chánh. Ta đem vật này để bố thí, khi chết được an lành. Ta đem những vật dụng này để bố thí thì khi sắp lâm chung, tâm được hoan hỷ, không hối hận. Hoặc lại tâm niệm: Nếu không thể bố thí thì thấy người đến xin, nên khởi lên bốn ý niệm. Những gì là bốn? Một là nếu ý không mạnh mẽ thì công đức của ta rất ít; hai là tội của ta là đối với Đại thừa, tâm không tự tại để kiến lập sự bố thí; ba là,nếu phát tâm thực hành thì đều vì ta cả, nên nhẫn nhục để bố thí cho người khác; bốn là nguyện cầu khiến việc làm của con đầy đủ thệ nguyện và tất cả mọi người cũng giáo hóa cho người đến xin”.

Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nếu cách xa giáo pháp của Thế Tôn, không có Phật ra đời, không có người thuyết pháp cũng chẳng được gặp Hiền Thánh Tăng thì nên niệm khắp tất cả chư Phật ở mười phương. Chư Phật này lúc thực hành đạo Bồ-tát đều tu hành tinh tấn, sau đó mới được thành Phật, đầy đủ hết thảy Phật pháp. Nhớ nghĩ đến tất cả chư Phật rồi, nên siêng năng như vầy: ngày đêm ba thời, lắng sạch thân, miệng và ý của mình thực hành từ bi bình đẳng, nhớ nghĩ đến các cội gốc căn lành, xa lìa các vật sở hữu, nên có sự hổ thẹn, dùng các cội gốc công đức để tự trang sức, tâm luôn thanh tịnh khiến mọi người đều hoan hỷ, tâm ý tin ưa Phật đạo, không hề loạn động, mọi việc làm đều đúng chánh pháp, luôn cung kính, dứt hẳn các tâm tự cao, kiêu mạn, nên đọc tụng ba loại kinh pháp, trừ bỏ tất cả các hạnh ác, dùng tám mươi pháp để sám hối, nhất tâm thực hành các phước đức, đầy đủ tướng tốt, nên vận chuyển các pháp luân của Phật, kính thỉnh chư Phật chuyển pháp luân, dùng vô lượng hạnh để trang nghiêm cõi nước của mình, tuổi thọ không thể tính kể.

Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên tu tập tám giới quan trai. Trì giới quan trai này được công đức thanh tịnh như hạnh Sa-môn, tu tập nguồn gốc căn lành của Bồ-tát, giữ các giới này thì đầy đủ đạo đức của hàng Sa-môn, được Phạm chí làm tùy tùng, cung kính phụng sự, không hề thấy việc ác hay xét sự tốt, xấu của người khác. Nếu thấy Tỳ-kheo phạm giới thì nên cung kính ca-sa, vì ca-sa này chính là Thế Tôn Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, ca-sa chính là giới, Tam-muội, trí tuệ, tuệ giải thoát kiến chấp. Nếu đảnh lễ ca-sa ấy rồi, sẽ được xa lìa phiền não tham dục, đó là pháp thần thông của chư Hiền Thánh. Nghĩ như vậy roi, lại tăng thêm sự cung kính đối với vị Tỳ-kheo ấy, nên khởi tâm bi rộng lớn đối với vị ấy, chính vị ấy đã làm điều ác, phạm giới, làm theo giới bất thiện. Pháp của Như Lai luôn tịch tĩnh, nhu hòa, người có trí tuệ thể nhập vào pháp môn của Như Lai làm vị Sa-môn. Những ai không tịch tĩnh cũng chẳng nhu hòa thì chẳng phải bậc Hiền Thánh thường làm theo khổ đau. Như Lai đã dạy: Không nên khinh dể người không trì giới cũng chẳng tu học. Vì sao? Vì không phải là lỗi lầm của người ấy. Lỗi lầm này do phiền não, tham dục, do ái dục nên thấy trạng thái, nguồn gốc đều bất thiện. Giáo pháp của Phật có sự hộ trì, nếu thông đạt được phiền não tham dục là rỗng khong thì có khả năng đạt được đạo ý bậc nhất, đạt được nhẫn bình đẳng. Vì sao? Vì trí tuệ có khả năng phá trừ ái dục. Thế Tôn dạy: “Người nào không hề xem thường thì đạt được tướng bình đẳng không có giới hạn. Vì sao? Vì muốn trở thành người có tướng bình đẳng cũng chính là Như Lai có tướng bình đẳng, sự thấy biết của Như Lai chẳng có ngã và ngã sở. Như vậy, đối với người khác không nên khởi tâm ác và tìm tòi điều phải, quấy của họ”.

Phẩm 6: LỄ THÁP

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia vào chùa chiền, tinh xá, nên đứng bên ngoài cửa chí tâm kính lễ, sau đó mới vào các chốn ấy, nên suy nghĩ: “Đây là nẻo không, không có cảnh giới, không có tướng cũng chẳng có nguyện là chốn từ, bi, hỷ, xả, là nơi ở của người đạt được bình đẳng”. Lại tự nghĩ: “Lúc nào ta mới được ở chốn chùa chiền như vầy? Đây là nơi ở của những ai thoát khỏi trần cấu, vào ngày rằm, chúng hội thuyết giới nên hoàn toàn thanh tịnh, nên khéo léo giữ gìn tâm ý của vị Sa-môn vì không có Bồ-tát tại gia nào đạt được quả vị Tối Chánh Giác. Tất cả đều phải vào núi xuất gia, ở chỗ yên tĩnh, thanh vắng mới đạt được Phật đạo. Vì sao? Vì đời sống gia đình là ở nơi nhơ uế, người xuất gia thì được bậc trí và chư Phật nhiều như số cát sông Hằng khen ngợi. Ta nên cúng dường trong một ngày, bố thí tất cả những vật dụng, tài sản, phát khởi tâm xuất gia học đạo như vậy mới khiến cho tâm ta hoan hỷ. Vì sao? Vì người không có niềm tin thì không có người báo đáp. Giặc cướp, băng đảng hung dữ, La-sát cũng khiến dân chúng cung cấp vật dụng nhiều không thể nói hết. Ta xem giới và trí tuệ là bậc nhất, luôn có tâm từ, cung kính, không tiếc thân mạng, nhờ tu tập tất cả pháp. Ta cũng nên kính giữ giới của Đức Như Lai khiến hoàn toàn đạt được đạo quả Chánh chân vô thượng, thanh bậc Tối Chánh Giác, vì tất cả chúng sinh làm Phật sự, làm cho người chưa đạt được Niết-bàn của Như Lai được thể nhập vào Niết-bàn, nên vào Tinh xá để quán xét hạnh của các Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo nào có nhiều trí tuệ, vị nào hiểu rõ các pháp, vị nào trì luật, vị nào an trụ trong chánh pháp, vị nào thọ trì pháp Bồ-tát, vị nào có hạnh ở chốn yên tĩnh, vị nào có hạnh khất thực, vị nào mặc y ngũ nạp, vị nào biết đủ, vị nào ở một mình, vị nào ngồi thiền, vị nào tu pháp Đại thừa, vị nào tinh tấn, vị nào trông coi chùa chiền. Quan sát tất cả các hạnh của Tỳ-kheo rồi, nên dùng các vật dụng để cúng dường bình đẳng, không nên có tâm phân biệt huống nữa là ưa gần gũi những vị ở nơi xóm làng. Nếu gần gũi những vị ở nơi xóm làng thì cũng nên thưa hỏi, nên đến xóm làng ấy, thấy có Tỳ-kheo nào không có y, bát, hoặc bị bệnh nhưng không có thuốc thang cũng nên dùng tâm bình đẳng để cúng dường, không nên có tâm oán hận. Vì sao? Vì ở thế gian đều có pháp để cầu an ổn, muốn lợi ích thì nên giữ gìn tâm ý của phàm phu thậm chí đối với bậc A-la-hán. Vì sao? Vì pháp phàm phu có sự oán hận còn bậc A-la-hán thì không còn oán hận. Nên đến chỗ các bậc Tỳ-kheo nhiều trí tuệ để nghe chư vị ấy giảng nói, kính nhận, tu tập; nên theo vị hiểu rõ kinh điển để nghe vị ấy giảng nói rồi kính nhận, tu tập; nên theo vị trì luật, hieu rõ lỗi lầm rồi kính nhận tu tập; nên theo vị thọ trì pháp Bồ-tát để kính nhận, thực hành phương tiện thiện xảo và sáu pháp Ba-la-mật; nên theo vị có hạnh ở nơi yên tĩnh để kính nhận, nhất tâm tu tập các hạnh. Tỳ-kheo nào thiếu thốn vật gì, nên dùng y phục, bình bát, giường chiếu, thuốc men v.v… để cúng dường, đối với Phật đạo nên dùng tâm bình đẳng để tu tập. Vì sao? Vì có thể dùng phẩm vật để bố thí thì khuyến khích người khác khởi tam đại đạo, nên khéo léo tu tập hạnh Sa-môn như vậy. Nếu các bậc Sa-môn có tranh cãi thì phải hòa giải, nếu vì pháp mà tranh luận thì phải giữ gìn chánh pháp không tiếc thân mạng. Tỳ-kheo nào bị bệnh phải dùng thịt chính mình để bố thí, khiến vị ấy lành bệnh, nhưng tâm không hề ân hận, tất cả cội gốc công đức đều dùng tâm Phật làm nguồn gốc.

Đức Phật dạy:

–Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên so sánh như vậy, thực hành các hạnh như vậy, dùng sự đoan nghiêm như vậy, nên tu tập tại gia như vậy.

Bấy giờ, trưởng giả Úc-ca cùng các trưởng giả quyến thuộc đều khen ngợi:

–Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Thật là hiếm có! Như Lai đã khéo giảng nói về những điều làm chướng ngại và sự nhơ uế của người tại gia, cùng khen ngợi công đức của hàng xuất gia. Bạch Thế Tôn! Chính chúng con cũng thấy người tại gia có nhiều sự nhơ uế, còn công đức mà hàng xuất gia đã thực hành thì khó đo lường được. Chúng con xin nguyện theo Thế Tôn nghe pháp, muốn được cạo bỏ râu tóc, được làm vị Tỳ-kheo, kính nhận đại giới.

Đức Phật bảo chư vị ấy:

–Xuất gia rất là khó, luôn phải chuyên cần giữ gìn giới pháp khiến không có mảy may thiếu khuyết.

Các trưởng giả bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Xuất gia có những điều khó gì? Kính xin Như

Lai rủ lòng từ bi chấp thuận, cho chúng con được cạo bỏ râu tóc, nhận lãnh giới cấm. Chúng con có thể kính nhận, làm theo lời dạy của Ngài.

Đức Phật liền chấp thuận cạo bỏ râu tóc cho họ.

Khi ấy, Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc và Bồ-tát Chư Hạnh Thanh Tịnh:

–Nay Như Lai đem các trưởng giả này giao phó cho các ông. Hãy cạo bỏ râu tóc để họ trở thành những bậc Thượng sĩ.

Ngay lúc ấy, Bồ-tát Di-lặc cạo bỏ râu tóc cho một ngàn hai trăm vị trưởng giả. Bồ-tát Chư Hạnh Thanh Tịnh cạo bỏ râu tóc cho một ngàn hai trăm vị trưởng giả.

Lúc Đức Phật giảng nói về phẩm Giới đức thanh tịnh của Bồ-tát tại gia này, một ngàn hai trăm người đều phát tâm trọn vẹn đối với đạo Chánh chân vô thượng, hai ngàn năm trăm vị Bồ-tát đạt được pháp nhẫn âm hưởng, bốn ngàn chư Thiên và loài người đạt được pháp nhẫn nhu thuận.

Phẩm 7: TRI TÚC

Bấy giờ, trưởng giả Úc-ca bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác đã giảng nói về thiện, ác của người tại gia, đối với Đại thừa thì nên thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Cúi xin Thế Tôn giảng nói lại về các hạnh của Bồ-tát xuất gia, cùng với công đức của trì giới, tinh tấn, trí tuệ và tri túc. Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Bồ-tát xuất gia nên làm thế nào để được cạo bỏ râu tóc, thực hành pháp luật? Thế nào là xuất gia, là nhất tâm, là tu tập chuyên nhất, cũng chẳng cầu được ngưỡng mộ, lễ bái?

Đức Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này trưởng giả! Chỉ có ông mới có thể thưa hỏi Như Lai về các hạnh hoàn hảo của sự cạo bỏ râu tóc đối với Bồ-tát xuất gia. Trưởng giả hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ.

–Thưa vâng! Bạch Thế Tôn!

Đức Phật dạy:

–Bồ-tát xuất gia nên suy nghĩ: Vì sao ta lại cạo bỏ râu tóc để xuất gia? Lại nên suy nghĩ: Vì ta muốn đầy đủ pháp Phật nên xuống tóc xuất gia, phải luôn tinh tấn đối với trí tuệ, không có đối tượng chấp giữ, như lửa cháy ở trên đầu phải luôn cứu ngay. Đã được xuất gia, phải nên thể nhập vào các hạnh, an trụ nơi bậc Hiền Thánh, đó là biết vừa đủ. Biết vừa đủ thì được khen ngợi. Nếu người xuất gia đối với việc khất thực, hay các thứ vật dụng như giường chiếu, thuốc thang trị bệnh và y phục v.v… mà biết vừa đủ thì luôn luôn được khen ngợi. Này trưởng giả! Đó gọi là hạnh của bậc Hiền Thánh, nên tu tập như vậy để đạt đến các pháp của Phật. Đó gọi là hạnh của bậc Hiền Thánh.

Đức Phật dạy:

–Này trưởng giả! Có mười hạnh để Bồ-tát xuất gia biết vừa đủ đối với y phục. Những gì là mười? Một là thân mặc y phục thường biết hổ thẹn; hai là thân đắp ca-sa để ngăn ngừa ái dục, không hề chấp giữ; ba là y phục của Sa-môn khiến không còn kiến chấp, không còn đối tượng để nhớ nghĩ; bốn là đầy đủ phước đức của ca-sa để giúp đỡ chư Thiên và loài người; năm là sở dĩ mặc ca-sa là để tâm không còn ưa thích ái dục, không chứa nhóm tham dục; sáu là dùng ý thiện xảo để diệt trừ các phiền não, tham lam; bảy là biết vừa đủ vì nguồn gốc pháp thiện nên thích y này; tám là trừ sạch các điều ác, làm nhân duyên cho điều thiện; chín là không lay chuyển đối với đạo Hiền Thánh, luôn nhất tâm tinh tấn; mười là nguyện cho mình luôn nhất tâm, mặc ca-sa được hoàn hảo. Này trưởng giả! Đó là mười hạnh để Bồ-tát xuất gia mặc ca-sa thực hành hạnh biết vừa đủ.

Người xuất gia lại có mười hạnh, nên suốt đời đi khất thực. Những gì là mười? Một là chính mình có phước đức, trí tuệ, không nhờ vào người khác; hai là nếu có người cùng đi khất thực với ta thì trước nên kiến lập ba thừa, sau đó mới nhận phẩm vật khất thực; ba là nếu người ấy không cùng đi khất thực với ta thì ta nên khởi tâm bi rộng lớn đối với họ; bốn là nếu có người bố thí cho ta thì nên mau nhận phẩm vật để thành tựu cho họ; năm là không quên mất giáo pháp của Như Lai; sáu là dù phát tâm trong khoảnh khắc cũng khiến được nhất tâm, biết vừa đủ; bảy là tu tập các hạnh khiến không còn kiêu mạn; tám là từ công đức này sẽ đạt được tướng Vô kiến đảnh; chín là người nào được gặp tôi thì nên học hỏi theo những điều tôi đã học; mười là tất cả già trẻ, nam nữ đã bố thí cho tôi, tôi sẽ dung tâm bình đẳng khiến tất cả đều lập chí đạt được Nhất thiết trí. Này trưởng giả! Đó là mười hạnh, Bồ-tát xuất gia không nên bỏ hạnh khất thực. Nếu có tri thức thiện thì làm cho họ hoan hỷ, không hối hận điều gì, dù ở đâu cũng chẳng ưa thích, huống nữa là chấp ngã, ngã sở, cũng không dua nịnh, đối với nơi có thực phẩm thì chỉ dùng để nuôi thân, nên khiến cho người khác được đầy đủ ước nguyện.

Đức Phật dạy:

–Này trưởng giả! Như Lai cho phép đi khất thực. Nếu Bồ-tát ngồi nơi nệm cỏ bên gốc cây hoặc ở bãi tha ma để hộ trì giới thì nên nhớ nghĩ về mười pháp. Những gì là mười? Một là đã đoạn trừ ngã và các ngã sở; hai là không có ngã và không có đối tượng thọ nhận; ba là luôn ở nơi thanh vắng; bốn là xa lìa ái dục và các sự chấp giữ; năm là ít mong cầu, không có đối tượng để chấp, nhớ nghĩ đến các cội gốc công đức; sáu là không tham tiếc thân mạng, chỉ ưa thích chốn rỗng lặng; bảy là xa lìa những nơi nhóm họp; tám là những tội đã tạo đều được tiêu diệt; chín là luôn nhất tâm nơi Tam-muội, không nhơ uế; mười là luôn nhớ nghĩ nghĩa không, lúc nào cũng giữ gìn tâm ý. Này trưởng giả! Đó là mười pháp của. Bồ-tát xuất gia ngồi nơi đệm cỏ bên gốc cây. Giả sử đến pháp hội để gặp Hòa thượng hay đi thăm bệnh, hoặc tự mình đến Tinh xá thì nên thân đâu tâm đó. Nếu tu tập, học hỏi, đọc tụng kinh điển thì nên dùng trí tuệ để hiểu rõ, ở chỗ phòng ốc nơi tinh xá hoặc nơi yên tĩnh để tư duy. Vì sao? Vì ở nơi yên tĩnh thì nên tinh tấn cầu pháp, tất cả vật sở hữu chẳng phải là ngã tưởng, tất cả các pháp là tha nhan tưởng.

Đức Phật dạy:

–Có mười pháp để Bồ-tát xuất gia tu tập hạnh về thuốc thang. Những gì là mười? Một là ta sẽ đạt được trí tuệ của Đức Như Lai; hai là không kết nghĩa thân thiết với người khác; ba là không chứa nhóm các tưởng nhơ uế, bất tịnh; bốn là ta nên an trụ thanh tịnh; năm là không còn nhớ nghĩ đến các mùi vị dục lạc, trừ bỏ hết thảy tham đắm; sáu là ta nên có sự đặc biệt đối với phàm phu; bảy là các mùi vị thiện tự nhiên hiển hiện trước mắt ta; tám là dùng thuốc thang để chữa lành các bệnh phiền não; chín là đoạn trừ các kiến chấp; mười là mau chóng dứt sạch các bệnh tật, khiến được an ổn. Này trưởng giả! Đó là mười hạnh. Bồ-tát xuất gia nên tu tập về hạnh thuốc thang trọn đời như vậy.

Phẩm 8: Ở NƠI VẮNG VẺ

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát xuất gia nên có hạnh ở chỗ thanh vắng, nên suy nghĩ: Vì sao ta lại đến ở chỗ thanh vắng? Lại nên suy nghĩ: Không phải chỉ ở nơi thanh vắng mới là Sa-môn. Vì sao? Vì người kia tuy ở nơi rất thanh vắng nhưng không thể định tĩnh, không thành tựu, không biết giáo pháp nên không hiểu nghĩa lý, chẳng khác nào hươu, nai, chim chóc, hổ, vượn khỉ, người rừng, rắn hay người săn bắn, người này chẳng gọi là Sa-môn. Ta đến nơi thanh vắng này phải đầy đủ ước nguyện, đó là ý nghĩa Sa-môn. Này trưởng giả, thế nào là ý nghĩa Sa-môn của Bồ-tát xuất gia? Nghĩa là, ý không loạn động, đạt được các pháp Tổng trì, đầy đủ sự hiểu biết, trí tuệ và sự học hỏi, do đó đều được thông suốt, chứa nhóm tâm từ rộng lớn, không bỏ tâm bi, đạt được năm thần thông, sáu pháp Ba-la-mật, tâm luôn tự tại, không xa lìa Nhất thiết trí, những điều nói ra đều phù hợp với trí thiện xảo, dùng pháp bố thí khắp tất cả, dẫn dắt dân chúng, không trái với hạnh bốn ân, nhớ nghĩ đến sáu niệm, nghe rồi liền tu tập, tinh tấn nhất tâm, giữ gìn, thông đạt chánh pháp, nhất tâm đạt được đạo tuệ, không xa lìa nơi tịch tĩnh, hộ trì chánh pháp, biết nhân duyên tội phước, dùng sự thấy biết chân chánh để đoạn trừ tất cả niệm và vô niệm, dùng niệm chân chánh mà nguyện thuyết pháp, thường nói đúng sự thật, chấm dứt mọi tội lỗi, đầy đủ công hạnh phước đức, dùng sự đối trị chân chánh để đoạn trừ các đối tượng chấp giữ, dùng nghiệp chân chánh để đạt đến Phật đạo, thực hành phương tiện chân chánh nên đối với các pháp không có ý niệm vướng mắc, dùng ý chân chánh nên đạt được Nhất thiết trí, thực hành định chân chánh nên đối với không chẳng hề sợ hãi, thực hành theo vô tướng nên đối với ngã không có nguyện không khởi lên sự tạo tác, luôn chí thành ủng hộ nghĩa lý kinh điển, không xa lìa ý nghĩa các pháp cũng không thấy có người. Này trưởng giả! Đó là ý nghĩa Sa-môn của Bồ-tát xuất gia. Vị Bồ-tát xuất gia ấy không chứa nhóm các việc khác và nên suy nghĩ: Ta nên vì tất cả chúng sinh mà chứa nhóm cội gốc công đức, không vì một người mà chứa nhóm cội gốc công đức.

Đức Phật dạy:

–Này trưởng giả! Bồ-tát xuất gia nên thực hành bốn việc. Những gì là bốn? Một là luôn đến pháp hội, hai là thường giảng nói cho người khác, ba là luôn cúng dường phụng sự Như Lai, bốn là không bao giờ gián đoạn tâm Phật thừa. Đó la bốn điều nên thực hành để trừ sạch thói quen khác.

Nếu ở nơi thanh vắng thì nên suy nghĩ: Vì sao ta lại đến ở nơi thanh vắng này? Lại suy nghĩ: Vì ta sợ hãi nên đến ở nơi này. Sợ hãi những gì? Sợ nhóm họp, sợ chứa nhóm tham, sân, si, sợ tự cao, kiêu mạn, có ý hại người, sợ tham lam, sợ các ý niệm về sắc, thanh, hương, vị, xúc, sợ ma thân, ma dục, ma tội, ma thiên, sợ vô thường mà tưởng là thường, sợ khổ cho là vui, sợ không thật tưởng là thật, sợ vô ngã tưởng có ngã, sợ có ngã, ngã sở, sợ nghi ngờ, tư duy sai lệch, do dự, dâm dục, sợ tri thức ác, sợ mê mờ đối với ái dục, sợ tâm, ý thức không lương thiện, sợ các cái che lấp những ước nguyện, sợ chấp thân mình, sợ tài lợi, các sắc, sợ tìm cầu các kiến chấp, sợ nhớ nghĩ đến vô niệm và các niệm khác, sợ không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, lời nói không có ý thức, sợ làm ô nhiễm Sa-môn, sợ vô số hạnh, sợ cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, sợ địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, sợ sinh vào nơi tám nạn, sợ sinh vào năm đường, sợ luôn nghĩ đến các pháp bất thiện nên ta mới đến đây, không thể ở nhà thế tục, đối với những nơi ồn náo phải nhất tâm nhớ nghĩ đến pháp không, nhờ vậy thoát khỏi sự sợ hãi và sự sợ hãi về những điều trong quá khứ. Do đó, Bồ-tát đều thoát khỏi sợ hãi, do diệu lực ở nơi thanh vắng nên thoát khỏi sợ hãi đạt được Phật đạo, các Bồ-tát khắp mười phương trong hiện tại và ở vị lai đều nhờ diệu lực ở nơi thanh vắng nên thoát khỏi sợ hãi, đạt được Phật đạo. Ta vì sợ hãi nên ở nơi thanh vắng để vượt qua tất cả sợ hãi. Tất cả các sự sợ hãi đều tồn tại trong ta, ở nơi ta, vướng mắc vào ta, làm ô nhiễm thân ta, tham đắm ta, khởi lên nơi ta, nên có tưởng về ngã, có kiến chấp về ngã, gọi là có thân nên nghĩ là có ngã, vì hộ trì thân ta nên mới đến ở nơi thanh vắng, vì muốn đoạn trừ sự tồn tại của ngã, muốn hiểu rõ nhân duyên về ngã và ngã sở nên ta ở nơi thanh vắng, đạt được ý nghĩa bình đẳng, không còn sợ hãi. Người ở nơi thanh vắng không có tưởng về ngã, không có tưởng về tha nhân, không có tưởng về thủ đắc, không chấp vào thân mình, không có tưởng mong cầu an trụ, không có tưởng Niết-bàn, huống nữa là có tưởng về phiền não, tham dục? Sở dĩ gọi là ở nơi thanh vắng vì đối với tất cả các pháp không có đối tượng trụ chấp, tất cả tư tưởng trong ba cõi đều an trú nơi tâm bi, không chứa nhóm các tưởng, đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, cũng không có đối tượng để nương tựa, tất cả Tam-muội không có nơi chốn để tranh luận, ý luôn định tĩnh ở nơi vắng lặng, bỏ hết các gánh nặng, ở đâu cũng không lo sợ, vượt trên các cõi. Vì đã vượt qua các dòng nước kiết sử, nên đối với các cõi không còn nơi cư ngụ, đối với hạnh Hiền Thánh không có ý niệm trụ chấp, luôn ở nơi nhất tâm, biết vừa đủ, ngồi trên đệm cỏ, thể nhập trí tuệ sâu xa, tinh tấn nhất tâm, an trụ trong giới, đoạn trừ các kiết sử trói buộc, lao ngục ở chốn giải thoát, trụ vào không, vô tướng, vô nguyện, đạt được ba môn giải thoát, nhu hòa, không có nơi hướng đến, ý luôn quan sát mười hai nhân duyên, việc làm đã xong, thể nhập vào định vắng lặng.

Này trưởng giả! Ở nơi rừng sâu núi thẳm, có cây cối hoang dã nhưng trâu, voi, ngựa không hề sợ hãi. Như vậy, này trưởng giả! Bồtát xuất gia ở nơi thanh vắng để quan sát chính mình, như loài cỏ cây không hề có mảy may ý tưởng, thấy thân như vậy nên siêng năng tu hành, không nên khởi ngã tưởng, liền không còn sợ hãi. Quán thân mình là không, không có ngã, không có nhân, không tuổi thọ, không mạng sống, từ tâm mà có sự sợ hãi mọi người, do ái dục nên có sợ hãi, ta nhờ xa lìa ý niệm nên tưởng về điều thiện. Ví như chốn rừng sâu núi thẳm, đầy cỏ cây hoang dã nhưng trâu v.v… không hề sợ hãi, vì đã thấy rõ tất cả các pháp, người nào ở nơi thanh vắng đều nên như vậy. Vì sao? Vì người ở chốn thanh vắng đoạn trừ được các tưởng, xa lìa dâm dục và các việc ô nhiễm. Người ở nơi thanh vắng khiến người khác thấy không có ngã và không có đối tượng chấp giữ. Bồ-tát xuất gia nên học theo hạnh ở nơi thanh vắng như vậy. Người ở nơi thanh vắng nên nhu hòa, hộ trì giới pháp. Người ở nơi thanh vắng thì hòa thuận, định tĩnh. Người ở nơi thanh vắng luôn nhớ nghĩ về trí tuệ. Người ở nơi thanh vắng luôn nhớ nghĩ đến giải thoát. Người ở nơi thanh vắng an trụ nơi giải thoát tri kiến. Người ở nơi thanh vắng thích hộ trì Phật pháp. Người ở nơi thanh vắng đoạn trừ mười hai kiết sử. Người ở nơi thanh vắng nhớ nghĩ đến nguyện chân chánh. Người ở nơi thanh vắng đối với các pháp luôn bình đẳng. Người ở nơi thanh vắng không tạo ra giới hạn. Người ở nơi thanh vắng đã thoát khỏi các nhập. Người ở nơi thanh vắng tâm không sợ hãi Phật đạo. Người ở nơi thanh vắng đối với không chẳng thấy có đối tượng để quan sát, chấp giữ. Người ở nơi thanh vắng đối với pháp không hủy hoại. Người ở nơi thanh vắng vốn có pháp thiện, oai đức và tiếng tốt. Người ở nơi thanh vắng được Phật khen ngợi. Các bậc Hiền Thánh cùng ở chốn thanh vắng ấy. Người ở nơi thanh vắng thoát khỏi ái dục, vì có sự đặc biệt nên thể nhập vào Nhất thiết trí.

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát ở nơi thanh vắng, do rất ít sự việc nên tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Vì sao? Vì ở chốn thanh vắng tu tập không tiếc thân mạng. Đó là Bố thí Ba-la-mật; biết vừa đủ, tịch tĩnh an trụ sinh khởi đối với tam chuyên, đó là Trì giới Ba-lamật; không làm tổn hại, tâm từ ban rải khắp tất cả, nhẫn nhục đối với Nhất thiết trí, không bị rơi vào cõi khác, đó là Nhẫn nhục Ba-la-mật; trong suy nghĩ, lời nói không bao giờ bỏ sự rỗng rang, đạt được nhẫn rồi mới xả bỏ, đó là Tinh tấn Ba-la-mật; đạt được thiền, không chấp ngã, sinh khởi các cội gốc công đức, đó là Thiền định Ba-la-mật; thân thực hành theo sự tư duy của tâm, đối với đạo cũng vắng lặng, không khởi niệm, đó là Trí tuệ Ba-la-mật.

Này trưởng giả! Bồ-tát ở nơi thanh vắng có bốn pháp. Những gì là bốn? Một là Bồ-tát này có nhiều trí tuệ, hai là khéo léo phân biệt, quyết định các pháp và luật; ba là thông đạt các nguồn gốc công đức; bốn là có trí tuệ rộng lớn, nhất tâm tinh tấn, an trụ nơi tịch tĩnh. Lại nữa, này trưởng giả! Nếu Bồ-tát ở nơi phiền não, nhiều tham dục nhưng vị ấy chẳng chứa nhóm phiền não, đây mới chính là ở chỗ thanh vắng, không vướng mắc phiền não, không chấp giữ tham dục, như pháp đã nghe mà thực hành theo.

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát đạt được năm loại thần thông, giảng pháp cho chư Thiên, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà. Người ở nơi thanh vắng cũng nên làm như vậy.

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát nên học tập về trí tuệ, pháp Phật

sau đó mới ở nơi thanh vắng, nhờ học tập như vậy nên đạt được đầy đủ tất cả các cội gốc căn lành sau đó mới giữ gìn cội gốc công đức này, vào các cõi nước, huyện ap, dùng ý nghĩa như vậy để giáo hóa dân chúng. Nếu Bồ-tát muốn đọc tụng kinh điển thì nên đích thân cung kính, phụng sự bậc thầy hoặc Hòa thượng, bất kể Trưởng lão hay trung niên đều phải cúi đầu kính lễ, không nên bieng nhác, đối với mọi việc đều nên tinh tấn, không nên không cung kính phụng sự, nên suy nghĩ: Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác được chư Thiên, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà cúng dường, được A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già phụng sự, được các trời Đế thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương, người và phi nhân cung kính, là bậc tôn quý bậc nhất ở đời, khiến cho tất cả đều an lạc. Đức Phật không đích thân mong cầu sự cúng dường mà loài người tự đến cúng dường, huống gì là chúng ta chưa hiểu biết gì, chỉ mới muốn theo học hỏi mà thôi, ngược lại cầu mong được người khác cúng dường. Ta nên phụng sự tất cả loài người. Vì sao? Vì Tỳ-kheo tham cầu sự cúng dường sẽ giảm bớt phước đức nói pháp của mình. Vì sao? Vì người ấy sẽ vì pháp mà bố thí, nhưng tâm ta lại nghĩ: Nếu cúng dường thì nên đến phụng sự cho ta, không phải do pháp, dù người đó có lòng tin nên đến cúng dường bố thí thì phước của họ cũng không lớn, nên đến chỗ vị thầy hoặc Hòa thượng, thân và tâm nên hợp nhất, thân tâm nên thông đạt chỗ an trụ, nếu họ nhớ nghĩ đến vị thầy hoặc Hòa-thượng của ta thì nên đến chỗ chư vị, tâm không hề hối tiếc, nếu tụng niệm, học tập kinh kệ, trí tuệ thì nên vì Hòa-thượng không tiếc thân mạng, nên ưa thích giáo pháp, theo Hòa thượng để tu tập, đạt được lợi ích của pháp, nên xả bỏ tất cả sắc đẹp tài san, đối với Hòa thượng nên hoan hỷ lắng nghe dù chỉ một bài kệ bốn câu, hoặc đọc tụng, hoặc thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, hoặc vì pháp trí tuệ, hoặc pháp từ, bi, hỷ, xả, nhất tâm học tập Phật đạo, nghe bài kệ bốn câu hoặc đọc tụng v.v… nên cúng dường Hòa thượng, nên lãnh hội ý nghĩa từng câu từng chữ mới kính nhận đọc tụng, nên dùng tâm ngay thẳng, không dua nịnh, dùng tất cả phẩm vật để cúng dường còn chưa thể báo đáp ân sư trưởng, huống nữa là dùng để cúng dường pháp. Này trưởng giả, nếu được nghe sự giảng nói rộng rãi, hoặc âm thanh về thiện, âm thanh pháp Phật, âm thanh tịch diệt, âm thanh đúng như pháp, hoặc nghe âm thanh giảng nói về Như Lai đều nên cúng dường phụng sự vị Thầy trong một kiếp, còn chưa thể báo đáp đầy đủ ân đức của thầy.

Đức Phật dạy:

–Này trưởng giả! Do đó, phước đức thuyết pháp không có giới hạn, trí tuệ của vị ấy không thể lường xét, trụ nơi tâm pháp cũng vô số. Bồ-tát nào muốn cúng dường vô lượng pháp thì nên cúng dường Bồ-tát xuất gia. Thế nào là sự tu học của hàng xuất gia? Nghĩa là theo như pháp đã nghe mà thực hành, nên quan sát tinh tường, thanh tịnh giới hạnh.

Đức Phật dạy:

–Này trưởng giả! Bồ-tát xuất gia có bốn pháp để làm thanh tịnh giới luật. Những gì là bốn? Một là tu tập theo lời dạy của Hiền Thánh; hai là đi khất thưc, lấy đức làm niềm vui, biết vừa đủ; ba là Bồ-tát xuất gia không ưa thích ở nhà thế tục; bốn là luôn tu tập giới hạnh, không dua nịnh, ở nơi thanh vắng. Lại có bốn pháp. Những gì là bốn? Một là thân luôn thành thật trong mọi hoạt động, thân cũng chẳng thủ đắc; hai là miệng luôn nói thành thật, miệng cũng chẳng thủ đắc; ba là ý luôn nhớ nghĩ đến sự nhu hòa, ý cũng chẳng thủ đắc; bốn là xa lìa các kiến chấp, an trụ nơi Nhất thiết trí. Lại có bốn pháp. Những gì là bốn? Một là không còn ngã, hai là xa lìa ngã sở, ba là luôn tự tại, bốn là xả bỏ pháp nhân duyên. Lại có bốn pháp. Những gì là bốn? Một là thân ta cùng với pháp là một, hai là các chủng loại đều bình đẳng với pháp, ba là các nhập bình đẳng với không, bốn là đạt được trí tuệ, tu tập nhưng không có đối tượng trụ chấp. Lại có bốn pháp. Những gì là bốn? Một là tự thực hành theo sự hiểu biết; hai là không bị người khác lay động; ba là không vướng mắc các tội lỗi của loài người, diệt trừ hết các ý niệm; bốn là kính nhận tất cả các pháp, nhất tâm quan sát tinh tường. Lại có bốn pháp. Những gì là bốn? Một là giang nói về pháp không; hai là không có tưởng, không hề lo sợ; ba là khởi tâm bi khắp tất cả; bốn là đạt được nhẫn vô ngã. Nếu ai được nghe Tammuội thanh tịnh thì nên tư duy: Thế nào là Tam-muội thanh tịnh? Nghĩa là tu tập tất cả các pháp, tâm buông bỏ tham dục và ngã sở, tâm vị ấy chuyên nhất, không lay chuyển, tâm không khinh suất, không bị tán loạn trói buộc tâm ý, tâm không vướng mắc, tâm không thể thấy, tâm hiện ở bên trong, cảnh giới của ý không thể chứa nhóm. Vậy ý suy nghĩ đến ngã và pháp thế nào? Là bình đẳng đối với pháp giới, không sinh khởi cũng chẳng vận hành, trong ngoài đều không thủ đắc, luôn định tĩnh. Đó gọi là Tam-muội, là an trụ vào pháp Tam-muội. Người nào được nghe và quan sát kỹ về trí tuệ thanh tịnh thì nên tư duy: Thế nào là trí tuệ? Nghĩa là, thông đạt các pháp cú, phân biệt về trí tuệ là tuệ, thể nhập và hiểu rõ là trí tuệ, biết suy nghĩ trong tâm người khác, thấu suốt các pháp là tuệ, đối với pháp thiền định, đối với trí, vô trí, đối với tướng, hoặc không thân tướng đều là không; tướng không thể nắm giữ cũng không thể buông xả, tướng không có xứ sơ cho đến nhớ nghĩ vô số tướng đều là không.

Đức Phật dạy:

–Này trưởng giả! Nên như vậy mà quan sát các pháp. Đó là hạnh của Bồ-tát xuất gia.

Khi Đức Phật giảng nói kinh này, tám ngàn người đều phát tâm nơi đại đạo, các trưởng giả cạo tóc xuất gia đều đạt được pháp nhẫn Vô sinh, ba vạn hai ngàn chư Thiên và loài người đều xa lìa phiền não, đối với pháp này đạt được pháp nhãn thanh tịnh, hai trăm Tỳkheo được giải thoát, không còn các lậu. Trưởng giả Úc-ca vô cùng hoan hỷ, dùng y hảo hạng trị giá gấp trăm ngàn lần để cúng dường Đức Như Lai rồi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con xin đem công đức căn lành này cúng dường đến tất cả các Bồ-tát, khiến công đức này trở về nơi các Bồ-tát tại gia, làm cho chư vị ấy đầy đủ pháp này giống như Đức Như Lai, làm cho hàng Bồ-tát xuất gia thành tựu giới đức, trí tuệ, đầy đủ pháp này. Nguyện xin hàng Bồ-tát xuất gia đạt được giới đức, trí tuệ giống như Đức Như Lai. Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để Bồ-tát tại gia ở nơi trụ xứ của mình nhưng vẫn học tập đầy đủ giới pháp của hàng xuất gia?

Đức Phật dạy:

–Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên bố thí tất cả mà không tham tiếc, tâm phải hướng đến Đại thừa, không mong cầu được báo đáp.

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên tu hành phạm hạnh, tâm không nghĩ đến sự dâm dục huống nữa là tự mình tạo.

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên hiểu rõ pháp không, hội nhập vào bốn thiền, dùng phương tiện thiện xảo để tu tập, không nương tựa người khác, khiến đạt đến tịch diệt.

Lại nữa, này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên siêng năng để đạt được Trí tuệ Ba-la-mật, khởi tâm từ rộng lớn khắp tất cả, kính nhận tất cả các pháp, nên ủng hộ và dùng giáo pháp để giáo hóa mọi người.

Đó là bốn pháp để Bồ-tát tại gia kiến lập giới pháp của hàng xuất gia.

Bấy giờ, Trưởng giả Úc-ca bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con tuy ở tại gia một mình nhưng sẽ an trụ vào giới pháp Như Lai dạy bảo. Con sẽ vì Đức Như Lai mà nêu giảng rộng rãi Phật đạo, cũng sẽ học pháp xuất gia này và cung kính thực hành theo giới cấm này.

Khi ấy, Đức Phật liền mỉm cười. Theo pháp của chư Phật Thế Tôn, lúc Phật mỉm cười thì có vô số màu sắc, đủ loại màu sắc không thể nghĩ bàn phát ra từ kim khẩu chiếu đến vô lượng cõi Phật, lên đến cõi trời Phạm thiên rồi trở lại nhiễu quanh thân Phật, đến đỉnh đầu thì bỗng nhiên biến mất.

Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Phật mỉm cười là chân thật, con xin được nghe ý của Phật.

Đức Phật bảo:

–Này Tôn giả A-nan! Ông có thấy trưởng giả Úc-ca dùng pháp để cúng dường Như Lai và gầm lên tiếng gầm sư tử không?

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Trưởng giả Úc-ca này, tuy ở tại gia nhưng sẽ cúng dường và nhận lãnh giáo pháp của chư Như Lai trong Hiền kiếp, tuy ở tại gia nhưng đầy đủ giới pháp của hàng xuất gia, ngay lúc này sẽ vì chư Như Lai nên giảng nói Phật đạo khắp nơi.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan hỏi trưởng giả Úc-ca:

–Sao tại gia là an lạc, tại gia là ô nhiễm, tại gia không lãnh thọ giáo pháp Hiền Thánh giống như xuất gia?

Trưởng giả Úc-ca đáp:

–Thưa Tôn giả A-nan! Tôn giả đừng nói như vậy. Các bậc Hiền Thánh không còn nhiễm ô mà chỉ có tâm bi rộng lớn, giải thoát, không nghĩ đến sự an lạc của chính mình. Các Bồ-tát thì nhẫn chịu các khổ, không bỏ tất cả chúng sinh.

Đức Phật dạy:

–Này Tôn giả A-nan! Trưởng giả Úc-ca này tuy tại gia nhưng thường có tâm bình đẳng, trong Hiền kiếp sẽ cứu độ chúng sinh rất nhiều, hơn cả sự giảng dạy của trăm ngàn Bồ-tát xuất gia. Vì sao? Này Tôn giả A-nan! Phước đức và trí tuệ của trăm ngàn Bồ-tát xuất gia cũng không thể sánh bằng phước đức và trí tuệ của Trưởng giả Úcca.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Làm thế nào để thọ trì?

Đức Phật dạy:

–Này Tôn giả A-nan! Tên thứ nhất của kinh này là “Những Điều Trưởng Giả Úc Ca Hỏi Phật”, ông nên thọ trì. Tên thứ hai là “Phẩm Tại Gia Và Xuất Gia”. Tên thứ ba là “Giữ Nhất Tâm An Tọa Mà Danh Đức Vang Xa”. Bồ-tát nào nghe kinh này thì đạt được đầy đủ các pháp, còn hơn cả trăm kiếp tu hạnh thanh tịnh mà biếng nhác. Do đó, này Tôn giả A-nan! Nếu muốn tu hành tinh tấn và muốn dạy người khác tinh tấn, muốn tự mình an trụ nơi công đức của tất cả các pháp và muốn kiến lập công đức của tất cả các pháp thì nên nghe, thọ trì và đọc tụng kinh điển này. Vì sao? Vì muốn đầy đủ tất cả các pháp thì nên xem kinh pháp này giống như Như Lai. Này Tôn giả A-nan! Bồtát nào xa lìa kinh này thì không được gặp tất cả chư Phật, cho đến không được thấy tất cả chư Phật. Vì sao? Vì những ai giảng nói kinh này tức được gặp tất cả chư Phật. Này Tôn giả A-nan! Giả sử ba ngàn đại thiên thế giới này chìm nhập trong lửa, Bồ-tát cũng nên vào trong ấy để cầu mong được nghe, thọ trì và đọc tụng pháp này, nên dùng châu báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới để cúng dường vị pháp sư để kính nhận, thọ trì và đọc tụng kinh pháp này. Này Tôn giả Anan! Bồ-tát nào trọn đời cúng dường chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại và vị lai, tuy cúng dường ngần ấy chư Phật nhưng không kính nhận kinh điển này, không đọc tụng, cũng không tạo các công đức đối với kinh pháp này thì giống như không cúng dường chư Phật trong ba đời. Này Tôn giả A-nan! Người nào được nghe, thọ trì và đọc tụng kinh điển này rồi giảng nói rộng rãi cho người khác là đã tạo các công đức đối với kinh này, cũng đã cúng dường chư Phật trong ba đời. Vì sao? Vì chư Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác lấy pháp làm trên hết, đều từ pháp sinh ra.

Khi Đức Phật thuyết giảng như vậy, Tôn giả A-nan, Trưởng giả Úc-ca, chư Thiên, A-tu-la và loài người nghe kinh này rồi, tất cả đều hoan hỷ, đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.