SỐ 227
KINH TIỂU PHẨM BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT
Dịch Phạn ra Hán: Đời Diêu Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư
Dịch Hán ra Việt: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 4

Phẩm 9: KHEN NGỢI THANH TỊNH

Khi ấy, Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh ấy rất sâu xa, do đó Phật nói thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh ấy sáng suốt, do đó Phật nói thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh ấy không sinh cõi Dục, không sinh cõi Sắc, không sinh cõi Vô sắc, Phật nói rất thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh ấy không dơ, không sạch, do đó Phật nói thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh ấy không chứng đắc, không quả, do đó Phật nói thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh ấy không tạo tác, không phát khởi, do đó Phật nói thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh ấy không có khả năng nhận biết, do đó Phật nói thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh ấy không biết sắc, không biết thọ, tưởng, hành, thức, do đó Phật nói thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật đối với Nhất thiết trí không tăng, không giảm, do đó Phật nói thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Cớ gì Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh, đối với pháp không có chỗ thủ chấp, do đó Phật nói thanh tịnh.

Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ngã tịnh, cho nên sắc cũng tịnh, Phật nói rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Ngã thanh tịnh, cho nên thọ, tưởng, hành, thức cũng thanh tịnh, Phật nói rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Ngã thanh tịnh, cho nên quả thanh tịnh, Phật nói rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Ngã thanh tịnh, cho nên Nhất thiết trí cũng thanh tịnh, Phật nói rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Ngã thanh tịnh, cho nên không chứng đắc, không quả, Phật nói rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Ngã vô biên, cho nên sắc cũng vô biên Phật nói rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Ngã vô biên, cho nên thọ, tưởng, hành, thức cũng vô biên, Phật nói rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, như thế gọi là Bát-nhã ba-lamật của Bồ-tát ư? Do đó Tu-bồ-đề rốt cuộc thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật chẳng phải bờ bên này, chẳng phải bờ bên kia, cũng chẳng phải giữa dòng, do đó Phật dạy rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nào phân biệt như vậy tức là mất Bátnhã ba-la-mật và xa lìa Bát-nhã ba-la-mật.

Phật dạy:

–Lành thay, lành thay, này Tu-bồ-đề! Từ danh tướng cho nên sinh ra chấp trước.

–Thật hiếm có thay, bạch Đức Thế Tôn. Ngài khéo nói sự chấp trước trong Bát-nhã ba-la-mật!

Bấy giờ, Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề:

–Vì nhân duyên gì gọi là chấp trước?

Xá-lợi-phất trả lời:

–Vì nếu thiện nam, tín nữ nào phân biệt sắc rỗng không tức gọi là đã chấp trước; phân biệt thọ, tưởng, hành, thức rỗng không tức gọi là chấp trước; phân biệt pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại tức gọi là chấp trước; phân biệt Bồ-tát mới phát tâm được bao nhiêu phước đức tức gọi là chấp trước.

Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tu-bồ-đề:

–Vì lý do gì mà việc ấy gọi là chấp trước?

Tu-bồ-đề trả lời:

–Này Kiều-thi-ca! Người ấy phân biệt tâm này và đem tâm ấy hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng giác.

Này Kiều-thi-ca! Tâm tánh không thể hồi hướng. Thế nên, Bồ-tát nếu muốn dạy cho người khác Vô thượng Chánh đẳng giác thì nên như thật tướng của các pháp mà chỉ dạy cho họ được lợi ích. Như vậy, mới không làm hại mình, điều đó Phật chấp nhận và cũng là cách giáo hóa của ngài cho thiện nam, tín nữ xa lìa sự chấp trước.

Khi ấy, Phật khen Tu-bồ-đề:

–Lành thay, lành thay, Tu-bồ-đề! Ông hãy chỉ dạy pháp chấp trước cho các Bồ-tát. Tu-bồ-đề! Ta sẽ nói lại sự vi tế của các pháp chấp trước. Bây giờ, ông hãy lắng nghe cho kỹ.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con xin thọ nhận lời dạy của Ngài.

Phật dạy:

–Nếu thiện nam, tín nữ nào chấp tướng mình niệm Phật thì theo sự chấp tướng ấy thì đều gọi là chấp trước. Pháp vô lậu mà chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai có được, đều tùy hỷ rồi hồi hướng lên ngôi Vô thượng Chánh đẳng giác tức cũng là chấp trước. Vì sao? Này Tubồ-đề! Vì tánh của các pháp không phải quá khứ, không phải vị lai và không phải hiện tại không thể chấp tướng, không thể phan duyên, không thể thấy, không thể nghe, không thể biết, không thể hiểu và không thể hồi hướng.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các pháp tính này rất là sâu xa nên Phật nói hoàn toàn lìa khỏi.

Bạch Thế Tôn! Con kính lễ Bát-nhã ba-la-mật, Phật nói Phật chứng pháp không tạo tác ấy.

Bạch Thế Tôn! Phật đã chứng tất cả pháp phải không?

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, này Tu-bồ-đề! Như Lai đã đắc tất cả pháp. Này Tu-bồ-đề! Pháp tính chỉ là một, không có hai, không có ba, tánh ấy chẳng phải tánh và chẳng có tạo tác.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát có khả năng biết như vậy thì sẽ xa lìa các chấp trước.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật rất là khó biết.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật không có người hiểu.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật không thể nghĩ bàn.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật không thể dùng tâm mà hiểu được.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật không có sự tạo tác.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Vì sự tạo tác ấy chẳng thể nắm bắt được.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vậy Bồ-tát phải hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát không hành sắc tức là hành Bátnhã ba-la-mật, không hành thọ, tưởng, hành, thức tức là hành Bátnhã ba-la-mật; hoặc không hành sắc, không có tướng đầy đủ tức là hành Bát-nhã ba-la-mật, không hành thọ, tưởng, hành, thức, không có tướng đầy đủ tức là hành Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì sắc không đầy đủ thì không phải sắc; vì thọ, tưởng, hành, thức không đầy đủ thì chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Nếu ông có thể hành tướng không đầy đủ như vậy tức là hành Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề thưa:

–Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Ở trong các sự chấp trước mà Ngài nói không chấp trước.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát không hành sắc, không chấp trước tướng tức là hành Bát-nhã ba-la-mật; không hành thọ, tưởng, hành, thức không chấp trước tướng tức là hành Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát nào hành như vậy thì đối với sắc không sinh tâm chấp trước; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không sinh tâm chấp trước. Cũng không sinh tâm chấp trước đối với các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-nahàm, A-la-hán, Bích-chi-phật cho đến Nhất thiết trí cũng không sinh tâm chấp trước. Vì sao? Vì nếu vượt qua các chấp trước cho nên gọi là Nhất thiết trí không bị chướng ngại.

Tu-bồ-đề! Bồ-tát nào muốn vượt qua các pháp chấp trước thì nên tư duy Bát-nhã ba-la-mật như vậy.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Pháp ấy rất là sâu xa. Nếu có nói cũng không giảm, mà không nói cũng không giảm; nếu có nói cũng không tăng, mà không nói cũng không tăng phải không?

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, này Tu-bồ-đề! Giống như Phật trọn đời khen ngợi hư không, hư không vẫn không giảm, mà không khen ngợi cũng không giảm; có khen ngợi cũng không tăng, mà không khen ngợi cũng không tăng.

Này Tu-bồ-đề! Ví như khen ngợi người biến hóa của nhà ảo thuật cũng không vui vẻ, mà không khen ngợi cũng không sân giận.

Này Tu-bồ-đề! Các pháp tánh cũng như vậy. Dù có nói cũng không tăng, mà không nói cũng không giảm.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Việc làm của Bồ-tát rất khó, vì khi tu tập và thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm của vị ấy không tăng, không giảm, cũng không thoái, không chuyển.

Bạch Thế Tôn! Vậy tu tập Bát-nhã ba-la-mật cũng như tu tập hư không.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát vì muốn cứu độ tất cả chúng sinh mà được phát khởi đại trang nghiêm nên sẽ được cung kính và đảnh lễ.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát vì chúng sinh mà phát khởi đại trang nghiêm như người cùng chiến đấu với hư không.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát vì chúng sinh mà phát khởi đại trang nghiêm cũng như người cùng tranh cãi với hư không.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát này gọi là phát khởi đại trang nghiêm.

Bạch Thế Tôn! Vì chúng sinh mà Bồ-tát phát khởi đại trang nghiêm, cũng như người muốn nâng đỡ hư không.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát này gọi là đã vượt qua bên kia bờ tinh tấn, gọi là vị dũng kiện, gọi là đồng với các pháp như hư không mà phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng giác.

Bấy giờ, trong đại hội có một Tỳ-kheo nghĩ: “Ta sẽ cung kính đảnh lễ Bát-nhã ba-la-mật, vì trong Bát-nhã ba-la-mật không có pháp sinh cũng không có pháp diệt.”

Khi ấy, Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tu-bồ-đề:

–Nếu Bồ-tát tu tập Bát-nhã ba-la-mật sâu xa thì phải tu tập những pháp gì?

Tu-bồ-đề đáp:

–Này Kiều-thi-ca! Bồ-tát nào tu tập Bát-nhã ba-la-mật sâu xa tức là tu tập hư không.

Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu người nào có thể thọ trì, đọc tụng Bátnhã ba-la-mật thì con sẽ bảo hộ vị đó.

Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân:

–Ông thấy pháp ấy có thể bảo hộ được không?

Thích Đề-hoàn Nhân trả lời:

–Không thấy.

Tu-bồ-đề nói:

–Này Kiều-thi-ca! Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật đúng như pháp tức là đã bảo hộ. Bồ-tát hoặc có lúc xa lìa Bát-nhã ba-la-mật, vị ấy sẽ bị nhân hoặc phi nhân làm hại.

Này Kiều-thi-ca! Nếu người nào muốn bảo hộ vị hành Bát-nhã ba-la-mật thì phải bảo hộ hư không.

Này Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Ông có thể bảo hộ tiếng vang được không?

Thích Đề-hoàn Nhân trả lời:

–Không thể được.

Tu-bồ-đề nói:

–Này Kiều-thi-ca! Bồ-tát cũng như vậy. Hành Bát-nhã ba-lamật là biết tất cả các pháp là không. Nếu như tiếng vang như thế, cũng chẳng phân biệt thì nên biết đó là hành Bát-nhã ba-la-mật.

Bấy giờ, Đức Phật dùng thần lực khiến cho cõi trời Tứ Thiên vương và các Thích Đề-hoàn Nhân, các Phạm Thiên vương làm chủ thế giới Ta-bà thuộc về tam thiên đại thiên thế giới đều đi đến chỗ Phật đầu mặt lễ dưới chân Phật rồi lui đứng qua một bên. Các Tứ Thiên vương, các Thích Đề-hoàn Nhân và các Phạm thiên vương… nhờ thần lực của Phật mà họ đều được thấy cả ngàn tướng Phật như vậy như vậy đặt tên là phẩm “Thuyết Bát-nhã ba-la-mật”, đều đặt tên gọi là “Tu-bồ-đề hỏi điều khó khăn” cũng như Thích Đề-hoàn Nhân và Bồ-tát Di-lặc sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng giác, cũng ở cõi này để nói Bát-nhã ba-la-mật.

Khi ấy, Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Khi Bồ-tát Di-lặc thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài ở nơi ấy thuyết giảng Bát-nhã ba-lamật như thế nào?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Khi Bồ-tát Di-lặc thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài nói Bát-nhã ba-la-mật: “Không nói sắc là trống không, cũng không nói thọ, tưởng, hành, thức là trống không; không nói sắc buộc, không nói sắc mở; không nói thọ, tưởng, hành, thức buộc, cũng không nói thọ, tưởng, hành, thức mở.” Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật cũng thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật cũng thanh tịnh.

Phật dạy:

–Hư không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật cũng thanh tịnh; sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh.

Này Tu-bồ-đề! Hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-lamật thanh tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, tín nữ nào có thể thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật thì sau khi mạng chung không bị chết oan, sẽ có bao nhiêu trăm ngàn chư Thiên đều cùng đi theo hộ vệ. Nếu mỗi tháng vào ngày mùng tám, mười bốn, rằm, hai mươi ba, hai mươi chín và ba mươi, bất cứ chỗ nào mà vị ấy thuyết pháp Bát-nhã ba-la-mật thì phước ấy rất nhiều phải không?

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, này Tu-bồ-đề! Nhờ giảng pháp Bát-nhã ba-la-mật mà người này được phước rất nhiều. Tu-bồ-đề! Nhưng Bát-nhã ba-la-mật có nhiều trở ngại. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật là trân bảo lớn. Đối với pháp ấy không có sự đắm trước, cũng không có chấp thủ. Vì sao? Vì các pháp ấy đều vô sở hữu nên chẳng thể nắm bắt được.

Này Tu-bồ-đề! Vì Bát-nhã ba-la-mật vô sở đắc nên không thể nhiễm ô. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật không có pháp nên gọi Bátnhã ba-la-mật là không nhiễm ô; vì Bát-nhã ba-la-mật không nhiễm ô nên các pháp cũng không nhiễm ô. Nếu như thế mà chẳng phân biệt gọi là hành Bát-nhã ba-la-mật.

Này Tu-bồ-đề! Vì Bát-nhã ba-la-mật không có pháp hoặc thấy, hoặc không thấy, cũng không có pháp hoặc chấp thủ hay hoặc xả.

Khi nghe Phật nói với Tu-bồ-đề như vậy thì bao nhiêu trăm ngàn các Thiên tử vui mừng phấn khởi ở trên hư không đồng thanh xướng lên:

–Chúng con lại trông thấy bánh xe pháp quay ở cõi Diêm-phùđề.

Tu-bồ-đề nói với các Thiên tử:

–Bánh xe pháp không phải chuyển lần đầu tiên và không phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì trong pháp Bát-nhã ba-la-mật không có lưu chuyển và cũng không có hoàn diệt.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Ma-ha ba-la-mật là Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát. Đó gọi là đối với tất cả các pháp không có chuyển, không có chấp trước nên chứng Vô thượng Chánh đẳng giác cũng không có sở đắc. Khi chuyển pháp luân không có chỗ để lưu chuyển, cũng không có pháp hoàn diệt, không có pháp có thể chỉ thị, cũng không có pháp có thể thấy là vì pháp ấy chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này Tubồ-đề! Vì rỗng không nên không có lưu chuyển và hoàn diệt. Không hình tướng, không tạo tác, không phát khởi, không sinh đều là vô sở hữu nên không có lưu chuyển và không hoàn diệt. Nói như vậy gọi là nói Bát-nhã ba-la-mật. Vì không có người nghe, không có người thọ nhận, không có người chứng, cũng không có người vì pháp mà làm phước điền.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô biên là Bát-nhã ba-la-mật, vì hư không vô biên.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật chân chánh là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp bình đẳng.

Bạch Thế Tôn! lìa Ba-la-mật là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp tánh xa lìa.

Bạch Thế Tôn! Không thể phá hoại Ba-la-mật là Bát-nhã bala-mật, vì các pháp chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô xứ là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không có hình tướng và không có tên gọi.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp vô lai.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô đoạt là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không thể chấp thủ.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô tận là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp vô tận.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô sinh là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp vô sinh.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô tác là Bát-nhã ba-la-mật, vì người tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không sinh ra là Bát-nhã ba-la-mật, vì người sinh ra chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không đến là Bát-nhã ba-la-mật, vì không thoái lui.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô cấu là Bát-nhã ba-la-mật, vì các phiền não đều thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô nhiễm là Bát-nhã ba-la-mật, vì không có sự nhiễm ô.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật bất diệt là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp lìa chặng trước.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật huyễn hóa là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp bất sinh.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật mộng mị là Bát-nhã ba-la-mật, vì ý thức bình đẳng.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không hý luận là Bát-nhã ba-la-mật, vì các hý luận bình đẳng.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật bất niệm là Bát-nhã ba-la-mật, vì các niệm không sinh.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật bất động là Bát-nhã ba-la-mật, vì pháp tánh thường trụ.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật lìa dục là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không hư vọng.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không khởi là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không phân biệt.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật tịch diệt là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp tướng bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không có phiền não là Bát-nhã bala-mật, vì các pháp không có lầm lỗi.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không có chúng sinh là Bát-nhã bala-mật, vì đời chúng sinh chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không đoạn là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không sinh khởi.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không có hai bên là Bát-nhã ba-lamật, vì các pháp không chấp trước.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không sai khác là Bát-nhã ba-lamật, vì các pháp không hòa hợp.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không dính mắc là Bát-nhã ba-lamật, vì không phân biệt địa Thanh văn và Bích-chi-phật.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không phân biệt là Bát-nhã ba-lamật. vì các sự phân biệt bình đẳng.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô lượng là Bát-nhã ba-la-mật, vì lượng pháp không sinh.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật hư không là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không có chướng ngại.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật bất sinh là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không phát khởi.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô thường là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không mất.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật khổ là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không có khổ não.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô ngã là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không bị tham trước.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp vô sở đắc.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô tướng là Bát-nhã ba-la-mật, vì tướng của các pháp chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô tác là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không có chỗ thành tựu.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật lực là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không thể phá hoại.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô lượng Phật pháp là Bát-nhã bala-mật, vì pháp vượt qua toán số.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật vô sở úy là Bát-nhã ba-la-mật, vì tâm không biến mất.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật như thật là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp không sai khác.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật tự nhiên là Bát-nhã ba-la-mật, vì các pháp vô tánh.

Phẩm 10: KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân nghĩ: “Nếu người nào được nghe Bát-nhã ba-la-mật thì phải biết người ấy đã từng cúng dường chư Phật, huống gì thọ trì, đọc tụng, rồi theo đó học và thực hành đúng như pháp. Hoặc người nghe nói Bát-nhã ba-la-mật, rồi thọ trì, đọc tụng và thực hành đúng như pháp thì phải biết người ấy đã từng cúng dường nhiều Đức Phật đã rộng hỏi thật nghĩa đó và ở nhiều chư Phật quá khứ đã nghe Bát-nhã ba-la-mật mà không kinh nghi sợ sệt.” Khi ấy, Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát có khả năng tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật sâu xa thì phải biết Bồ-tát ấy như là bậc không thoái chuyển. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nếu người ở thời quá khứ không thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa lâu dài thì không thể tin hiểu.

Bạch Thế Tôn! Nếu có ai chê bai, chống báng Bát-nhã ba-lamật thì phải biết người này đã từ lâu chê bai, chống báng Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì đối với Bát-nhã ba-la-mật sâu xa mà người ấy không có tín tâm, không có tâm thanh tịnh, cũng không hỏi chư Phật và các đệ tử của chư Phật những chỗ nghi ngờ.

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân nói với Xá-lợi-phất:

–Bát-nhã ba-la-mật ấy rất là sâu xa. Nếu ai thực hành Bồ-tát đạo không lâu dài, không thể tin hiểu thì có gì đáng làm lạ. Vì nếu người nào cung kính đảnh lễ Bát-nhã ba-la-mật tức là đã cung kính đảnh lễ Nhất thiết trí.

Xá-lợi-phất nói:

–Đúng vậy, đúng vậy! Này Kiều-thi-ca! Nếu người nào cung kính đảnh lễ Bát-nhã ba-la-mật tức là đã cung kính đảnh lễ trí Nhất thiết trí. Vì trí Nhất thiết trí của chư Phật từ Bát-nhã ba-la-mật sinh ra, rồi từ Nhất thiết trí trở lại sinh Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát nên trụ Bát-nhã ba-la-mật như vậy và nên tu tập Bát-nhã ba-la-mật như vậy.

Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát phải thực hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào mới gọi là trụ Bát-nhã ba-la-mật và tu tập Bát-nhã ba-lamật?

Phật dạy Thích Đề-hoàn Nhân:

–Lành thay, lành thay, này Kiều-thi-ca! Ông có thể hỏi Phật về thật nghĩa ấy, những gì ông hỏi đều là thần lực của Phật.

Này Kiều-thi-ca! Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật là không trụ vào sắc. Nếu không trụ vào sắc tức là đã tu tập sắc, cũng không trụ vào thọ, tưởng, hành, thức. Nếu không trụ vào thức tức là đã tu tập thức.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Bồ-tát nào không tu tập sắc. Nếu không tu tập sắc tức là không trụ sắc; cũng không tu tập thọ, tưởng, hành, thức. Nếu không tu tập thức tức là không trụ vào thức. Như vậy, này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bồ-tát tu tập Bát-nhã ba-la-mật và trụ trong Bát-nhã ba-la-mật.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật rất sâu xa, vô cùng và vô tận.

Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát không trụ vào sắc sâu xa thì đó là đã tu tập sắc sâu xa; nếu không trụ vào thọ, tưởng, hành, thức sâu xa thì đó là đã tu tập thọ, tưởng, hành, thức sâu xa.

–Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát không tu tập sắc sâu xa thì đó là không trụ vào sắc sâu xa; không tu tập thọ, tưởng, hành, thức sâu xa thì đó là không trụ vào thức sâu xa.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã ba-la-mật ấy rất sâu xa nên đối với Bồ-tát không thoái chuyển đã nói ở trước thì người này nghe những pháp đó không nghi ngờ, không hối hận.

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân nói với ngài Xá-lợi-phất:

–Thưa Tôn giả! Nếu đối với Bồ-tát chưa được thọ ký đã nói ở trước mà nói pháp thì có lỗi gì?

Xá-lợi-phất trả lời:

–Này Kiều-thi-ca! Nếu Bồ-tát chưa thọ ký mà được nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật sâu xa thì phải biết Bồ-tát này đã phát tâm Đại thừa từ lâu mới được thọ ký và không bao lâu vị ấy chắc chắn được thọ ký. Nếu qua một vị Phật hoặc hai vị Phật thì vị ấy sẽ được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng giác.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, này Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát chưa thọ ký mà được nghe Bát-nhã ba-la-mật sâu xa thì phải biết Bồ-tát ấy từ lâu đã phát tâm Đại thừa.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nay con sẽ nói thí dụ.

Phật dạy:

–Nếu ông thích nói thì cứ nói.

Xá-lợi-phất liền nói:

–Ví như có người nào muốn cầu đạo Bồ-tát mà trong chiêm bao thấy mình ngồi đạo tràng, phải biết Bồ-tát này sẽ gần Vô thượng Chánh đẳng giác; hoặc người nào cầu Bồ-tát đạo mà được nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật sâu xa thì phải biết Bồ-tát này đã phát tâm Đại thừa từ lâu, thành tựu căn lành, gần được thọ ký và không bao lâu người này chắc chắn sẽ được thọ ký.

Phật dạy:

–Lành thay, lành thay, này Xá-lợi-phất! Ông nương vào thần lực của Phật mà nói lại những lời đó.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ví như có người muốn đi qua con đường hiểm hoặc giả một trăm do-tuần, hoặc hai trăm, hoặc ba trăm, hoặc bốn trăm, hoặc năm trăm do-tuần, nếu khi họ muốn thoát khỏi các tai nạn thì trước hết phải thấy các tướng, hoặc thấy người thả trâu dê, hoặc thấy biên giới, hoặc thấy vườn rừng, người nào thấy các tướng như vậy thì họ sẽ biết trong vùng này chắc chắn có thành ấp, xóm làng. Khi thấy các tướng ấy rồi họ nghĩ như vầy: “Theo các tướng mà ta đã thấy là thành ấp xóm làng và cách đây không còn xa” nên tâm họ được an ổn, không còn lo sợ có oan gia, giặc cướp làm hại.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát cũng như vậy. Nếu được nghe Bát-nhã ba-la-mật một cách sâu xa thì phải biết Bồ-tát ấy gần được Phật thọ ký và không bao lâu nữa, vị ấy chắc chắn sẽ được thọ ký. Khi ấy, không còn sợ rơi vào địa Thanh văn và Bích-chi-phật. Vì sao? Vì Bồtát ấy đã được bổn tướng đó. Nghĩa là được thấy pháp Bát-nhã ba-lamật sâu xa, được nghe Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người muốn thấy biển lớn, liền đi lần về phía trước thì thấy cây, hoặc thấy tướng của cây, hoặc thấy núi, hoặc thấy tướng của núi, phải biết ở đó cách biển còn xa. Nếu như không thấy cây, hoặc không có hình tướng của cây, hoặc không thấy núi và không có hình tướng của núi thì phải biết biển lớn cách đó không xa, vì biển lớn rất sâu nên không có cây và núi. Vì vậy người này tuy chưa thấy biển mà biết chắc chắn là biển gần đó.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát cũng như vậy. Nhờ được nghe Bát-nhã ba-la-mật sâu xa nên tuy hiện tại chưa được chư Phật thọ ký trước mà tự biết chắc chắn mình gần chứng Vô thượng Chánh đẳng giác. Vì sao? Vì ta đã được thấy nghe và cúng dường pháp Bát-nhã bala-mật ấy sâu xa rồi.

Bạch Thế Tôn! Ví như vào mùa xuân lá úa trên cây rơi rụng thì phải biết không bao lâu cây này sẽ nẩy lộc, trổ lá, đơm hoa, kết trái.

Vì sao? Vì tướng của lá úa rụng hết nên mọi người ở cõi Diêm-phùđề thấy tướng lá cây úa rụng hết và tất cả họ vui mừng nghĩ: “Không bao lâu cây này sẽ nẩy lộc, trổ lá, đơm hoa và kết trái.”

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát cũng như vậy. Nếu Bồ-tát nào được thấy và nghe Bát-nhã ba-la-mật sâu xa thì phải biết Bồ-tát ấy do nhờ nhân duyên trồng căn lành được thành tựu căn lành từ kiếp trước nên nay mới được thấy, nghe Bát-nhã ba-la-mật sâu xa như vậy.

Bấy giờ, chư Thiên trong hội đã từng thấy Phật nên họ đều hoan hỷ và nghĩ: “Các vị Bồ-tát trước cũng có bổn tướng thọ ký như vậy và không bao lâu Bồ-tát này sẽ được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng giác.”

Bạch Thế Tôn! Ví như người phụ nữ khi mang thai thì thân thể họ mỏi mệt, đi đứng bất tiện, ngồi, nằm không yên, không thích làm việc, ít ăn uống, thân khổ não, không muốn nói năng, chán những thói quen cũ, không có nụ cười, với hiện tướng, nên biết người phụ nữ này không bao lâu sẽ sinh nở. Căn lành của Bồ-tát thành tựu cũng lại như thế. Nếu được thấy nghe và tư duy Bát-nhã ba-la-mật sâu xa thì phải biết không bao lâu Bồ-tát ấy được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng giác.

Phật dạy:

–Lành thay, lành thay, này Xá-lợi-phất! Những điều ông nói đều nhờ thần lực của Phật cả.

Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thật hy hữu thay, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai khéo giảng nói việc của các Bồ-tát.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Các Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã được nhiều lợi ích, được nhiều an ổn, được nhiều an vui và các vị ấy thương xót chúng sinh trong thế gian. Khi chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác, Bồ-tát diễn thuyết điều quan trọng của giáo pháp cho chư Thiên và người.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Đại Bồ-tát tu tập và thực

hành Bát-nhã ba-la-mật được đầy đủ?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật mà không thấy sắc tăng, đó là đã thực hành Bát-nhã ba-la-mật; không thấy thọ, tưởng, hành, thức tăng, đó là đã hành Bát-nhã ba-lamật; hoặc không thấy sắc giảm, là đã thực hành Bát-nhã ba-la-mật; cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức giảm, đó là đã thực hành Bát-nhã ba-la-mật, cho đến không thấy pháp, cũng không thấy phi pháp, đó là đã thực hành Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như lời dạy của Phật quả thật là không thể nghĩ bàn.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Sắc không thể nghĩ bàn; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể nghĩ bàn. Bồ-tát nào không phân biệt sắc không thể nghĩ bàn; không phân biệt thọ, tưởng, hành, thức không thể nghĩ bàn thì Bồ-tát đó đã tu hành Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ai có thể tin hiểu pháp Bát-nhã ba-la-mật như vậy?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Là người hành Bồ-tát đạo từ lâu.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ-tát hành Bồ-tát đạo từ lâu?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà không phân biệt mười Lực và bốn Đức không sợ hãi của Đức Phật cho đến không phân biệt Nhất thiết trí thực hành lâu dài. Vì sao? Vì mười Lực không thể nghĩ bàn, bốn Đức không sợ hãi của Phật, mười tám pháp Bất cộng không thể nghĩ bàn cho đến chẳng phân biệt Nhất thiết trí không thể nghĩ bàn. Sắc không thể nghĩ bàn; thọ, tưởng, hành, thức không thể nghĩ bàn; tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn Bồ-tát nào thực hành như vậy thì gọi là không thấy chỗ mình hành nhưng đã hành Bát-nhã ba-la-mật. Như thế, gọi là Bồ-tát thực hành lâu dài.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật rất là sâu xa, Bát-nhã bala-mật là nơi chứa trân bảo, cũng như hư không thanh tịnh.

Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật này có nhiều trở ngại, nếu người nào muốn biên chép cho đến một năm thì phải chép mau cho xong phải không?

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy! Này Tu-bồ-đề! Nếu thiện nam, tín nữ muốn biên chép đọc tụng và thực hành Bát-nhã ba-la-mật đúng như pháp cho đến một năm phải chép mau cho xong. Này Tu-bồ-đề! Vì trong pháp trân bảo, phần nhiều có oán tặc.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ác ma luôn muốn rình tìm cách làm cho Bátnhã ba-la-mật đoạn mất phải không?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Mặc dù ác ma luôn muốn rình tìm cách làm cho Bát-nhã ba-la-mật đoạn mất, nhưng chúng không thể nào làm được.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nhờ thần lực của ai mà ác ma không thể gây khó dễ Bát-nhã ba-la-mật?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Nhờ thần lực của Phật nên ác ma không thể làm trở ngại.

Này Xá-lợi-phất! Cũng là nhờ thần lực của chư Phật hiện tại ở vô lượng thế giới khắp mười phương nên ác ma không thể làm trở ngại. Vì chư Phật đều cùng nhau hộ niệm vị Bồ-tát ấy nên ác ma không thể làm hại được. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì Bồ-tát nào được chư Phật hộ niệm thì pháp ấy không bị trở ngại. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì người nào biên chép, đọc tụng giảng nói Bát-nhã ba-la-mật thì được vô lượng a-tăng-kỳ chư Phật ở hiện tại khắp mười phương hộ niệm pháp đó. Nếu Bồ-tát nào đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật thì phải biết Bồ-tát ấy được chư Phật hộ niệm nên có thể đọc tụng thông suốt.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, tín nữ có thể thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật thì phải biết người này đã thấy bằng Phật nhãn.

Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Nếu thiện nam, tín nữ nào có thể thọ trì, đọc tụng cho đến biên chép Bát-nhã ba-la-mật thì phải biết người ấy thấy bằng Phật nhãn.

Này Xá-lợi-phất! Nếu thiện nam, tín nữ nào cầu Phật đạo mà thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật thì gần Vô thượng Chánh đẳng giác cho đến tự mình biên chép và bảo người khác biên chép, chép rồi thọ trì, đọc tụng thì nhờ nhân duyên ấy mà phước đức của họ rất nhiều.

Này Xá-lợi-phất! Sau khi Như Lai diệt độ, Bát-nhã ba-la-mật ấy sẽ lưu truyền ở phương Nam. Từ phương Nam lưu truyền rộng đến phương Tây; từ phương Tây lưu truyền rộng đến phương Bắc.

Này Xá-lợi-phất! Khi pháp của ta hưng thịnh thì sẽ không có tướng đoạn diệt. Ở phương Bắc nếu có người nào cho đến biên chép, thọ trì và cúng dường Bát-nhã ba-la-mật thì người ấy cũng được sở kiến, sở tri, sở niệm bằng Phật nhãn.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Năm trăm năm sau, Bát-nhã ba-la-mật sẽ được lưu truyền rộng đến phương Bắc không?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Năm trăm năm sau Bát-nhã ba-la-mật sẽ được lưu truyền rộng rãi đến phương Bắc. Nếu ở trong đó thiện nam, tín nữ nào nghe Bát-nhã ba-la-mật rồi thọ trì, đọc tụng tu tập thì phải biết người này đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác từ lâu.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ở phương Bắc sẽ có bao nhiêu Bồ-tát có thể

thọ trì, đọc tụng tu tập Bát-nhã ba-la-mật?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Ở phương Bắc tuy có nhiều Bồ-tát đọc tụng, nghe và thọ trì Bát-nhã ba-la-mật nhưng ít người có thể tu tập, đọc tụng thông suốt, người này được nghe Bát-nhã ba-la-mật mà không kinh nghi, sợ sệt, vì người này đã từng gặp Phật và thưa hỏi, phải biết người này có thể thực hành đầy đủ đạo Bồ-tát. Vì Vô thượng Chánh đẳng giác mà vị ấy có thể làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Ta vì thiện nam, tín nữ ấy nói pháp Nhất thiết trí, người này khi chuyển thân trở lại cũng ưa nói Vô thượng Chánh đẳng giác, nhất tâm hòa đồng cho đến ma vương cũng không thể nào phá hoại tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng giác của họ. Người này nghe Bát-nhã ba-la-mật tâm rất hoan hỷ, tâm được thanh tịnh, làm cho nhiều chúng sinh gieo trồng căn lành Vô thượng Chánh đẳng giác. Thiện nam, tín nữ này ở trước ta thưa: “Bạch Thế Tôn! Khi hành Bồ-tát đạo, chúng con đem pháp này chỉ dạy làm lợi ích hoan hỷ cho vô lượng trăm ngàn vạn chúng sinh, làm cho họ an trụ vào ngôi Vô thượng Chánh đẳng giác.

Này Xá-lợi-phất! Ta quán sát tâm của người ấy thì sinh lòng tùy hỷ, vì người này hành Bồ-tát đạo sẽ đem pháp Bát-nhã ba-lamật chỉ dạy làm lợi ích hoan hỷ cho vô lượng trăm, ngàn, vạn chúng sinh để họ trụ vào ngôi Vô thượng Chánh đẳng giác. Như vậy thiện nam, tín nữ tâm họ phát Đại thừa nguyện sinh về cõi Phật khác, nơi mà chư Phật hiện tại đang nói pháp. Ở cõi ấy, người này tiếp tục được nghe giảng Bát-nhã ba-la-mật và ở cõi Phật đó họ cũng đem pháp Bát-nhã ba-la-mật để chỉ dạy làm lợi ích hoan hỷ cho vô lượng trăm ngàn vạn chúng sinh làm cho họ an tru vào ngôi Vô thượng Chánh đẳng giác.” Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Thật hy hữu thay, bạch Đức Thế Tôn! Đức Như Lai đối với các pháp quá khứ, vị lai và hiện tại không có pháp nào mà Ngài không biết, không có pháp nào mà Ngài không hiểu. Như Lai đối với các Bồ-tát ở đời vị lai phần nhiều muốn siêng năng cầu Bátnhã ba-la-mật, còn thiện nam, tín nữ này có cầu mà được hay không cầu mà được thì Như Lai cũng đều biết rõ.

Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Phần nhiều có thiện nam, tín nữ siêng năng, không giải đãi nên Bát-nhã ba-la-mật không cầu mà được.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thiện nam, tín nữ này đối với các kinh khác tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật thì không cầu mà được không?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Nếu đối với các kinh khác tương ưng với Ba-la-mật thì thiện nam, tín nữ này cũng không cầu mà được. Vì sao? Này Xá-lợi-phất, vì pháp đúng như vậy.

Nếu có Bồ-tát nào vì các chúng sinh mà chỉ dạy cho họ được lợi ích Vô thượng Chánh đẳng giác, rồi cũng tự họ học trong đó thì người này sau khi chuyển sinh đời sau được các kinh Ba-la-mật sâu xa nên không cầu mà được.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10