Kính Tháp

Pháp Sư Thích Đạo Thế
Ngộ Bổn dịch

II. KÍNH THÁP

Gồm bảy phần: Lời dẫn, Dẫn chứng, Làm phúc, Cảm báo, Nhiễu tháp, Nhập tự, Trùng tu.

II.1. Lời dẫn

[19c] Đức Như Lai ứng hiện thân vi diệu rực rỡ khắp tam thiên; bậc Chính Giác tuy đã nhập diệt, nhưng tám vạn xá-lợi vẫn còn lưu lại. Vì thế, bảo tháp vọt lên từ dưới lòng đất ở Linh Sơn, hình tượng Phật lưu lại trong các hang đá, chạm trên gỗ quí, vẽ trên giấy lụa, đúc bằng vàng, chạm bằng ngọc. Như Lai lưu lại xá-lợi toàn thân và toái thân[1], việc tụ tháp và tán tháp đều thật diệu kỳ, hào quang soi sáng lớp lớp tối tăm, phúc báo cứu giúp vô số hàm thức, khiến tiếng tốt lừng xa, bọn tà chuyển lòng tin.

Việc dựng tháp bắt đầu từ thời vua A-dục, truyền đến Trung Hoa vào đầu triều Đại Đường. Từ đó trải qua các đời, nhiều tháp đã được dựng lên, sự thần biến chẳng phải một. Do đó, kinh ghi: “Chính pháp còn ở đời hay chính pháp bị hủy diệt” chính là điều này vậy”.

II.2. Dẫn chứng

Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Đức Phật đã để lại hình ảnh trong hang đá cạnh ao rồng độc ở nước Na-kiền-ha-la. Bấy giờ, Phật ngồi trong thạch thất, hiện mười tám thứ thần biến để hàng phục loài rồng, rồi tung người vào trong vách đá bóng như gương sáng. Từ trong đá, bóng Ngài ánh hiện ra ngoài. Đứng xa nhìn thì thấy bóng Ngài, đến gần nhìn thì ẩn mất. Hàng trăm nghìn vị trời đã đến cúng dường bóng Phật. Hiện Ngài cũng còn đang thuyết pháp” (Đến nay, hình bóng ấy vẫn còn, truyền mãi đến ngài Di-lặc).

Kinh Đại tập ghi: “Trong vườn Chiếu Minh, phía đông cung điện của trời Đao-lợi có tháp thờ tóc Phật. Trong vườn Thô Sáp ở phía nam cung điện có tháp thờ y của Phật. Trong vườn Hoan Hỉ ở phía tây cung điện có tháp thờ bát của Phật. Trong vườn Giá Ngự ở phía bắc cung điện có tháp thờ răng Phật”.

Luận Đại trí độ ghi: “Thiên Đế Thích đem tóc và y của bồ-tát về, thờ trong ngôi tháp dựng ở bên ngoài cửa phía đông cung điện”.

Truyện A-dục vương ghi: “Vua khởi lòng tin, hỏi đạo nhân:

– Tôi xưa nay đã tùy tiện giết hại nhiều người, nay nên tu nghiệp thiện gì để thoát tội ấy?

– Chỉ có cách dựng tháp, cúng dường chư tăng, cứu người tù tội, giúp đỡ người nghèo túng.

(Do đó, kinh Thí dụ nói rằng trong cung nhà vua thường cúng dường bốn thứ cần dùng cho hai vạn sa-môn, hết lòng lễ kính khó kể xiết).

[20a] Vua hỏi:

– Nên dựng tháp ở đâu?

Đạo nhân liền dùng thần lực đưa tay trái che ánh mặt trời, tạo thành tám mươi bốn nghìn luồng ánh sáng tỏa chiếu khắp cõi Diêm-phù-đề, chiếu đến chỗ nào thì nên dựng tháp ở đó. Đó chính là những nơi có các ngôi tháp A-dục ngày nay.

Bấy giờ, nhà vua muốn dựng tháp xá-lợi, nên đem bốn đạo quân đến thành Vương Xá lấy xá-lợi trong tháp Phật của vua A-xà-thế. Nhà vua cho sửa sang ngôi tháp giống như trước. Sau đó, nhà vua còn lấy xá-lợi trong bảy ngôi tháp Phật. Nhà vua cũng đến thôn Chúng Ma, được long vương đưa vào long cung. Nhà vua hỏi xin xá-lợi để cúng dường, liền được long vương chia cho một số xá-lợi. Nhà vua đã cho làm tám mươi bốn nghìn chiếc hộp bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê để tôn trí xá-lợi Phật; rồi lại sai làm tám mươi bốn nghìn cái bình báu để giữ những chiếc hộp ấy. Vua còn sai làm vô số tràng phan, lọng để cúng dường xá-lợi. Đồng thời, nhà vua cũng ra lệnh quỉ thần bảo với một ức gia đình trong các xóm làng, thành thị khắp cõi Diêm-phù-đề hãy dựng tháp thờ Đức Phật.

Bấy giờ, nước Trước-xoa-thi-la có ba mươi sáu ức gia đình. Dân trong nước ấy cầu xin quỉ thần cho ba mươi sáu hộp xá-lợi Phật để họ dựng tháp. Nhà vua liền tạo điều kiện cho dân trong nước: sai đem cho họ một ít xá-lợi để được đủ số mà dựng tháp thờ.

Khi ấy, ở ấp Ba-liên-phất có vị thượng tọa tên Da-xá. Một hôm vua A-dục đến chỗ của sư, thưa:

– Tôi có ý nguyện dựng tám mươi bốn nghìn ngôi tháp ở khắp cõi Diêm-phù-đề trong cùng một ngày.

Thượng tọa nói:

– Lành thay! Vào giờ ăn chính của ngày rằm, đại vương hãy sai dựng, cùng lúc đúng số lượng tháp như thế ở cõi Diêm-phù-đề.

Thế rồi, trong một ngày, tám mươi bốn nghìn ngôi tháp đã được dựng lên. Dân chúng trên thế giới hết sức vui mừng, cùng gọi đó là các tháp vua A-dục”.

Kinh Đại A-dục vương ghi: “Bấy giờ, tám nước chia nhau xá-lợi Phật. Sau khi được chia tám mươi bốn nghìn viên xá-lợi và được riêng phần râu mép của Phật, vua A-xà-thế liền mang về nước. Giữa đường, vua gặp long vương Nan-đầu-hòa đòi chia phần xá-lợi. Vua A-xà-thế không cho, long vương liền nói:

– Ta là long vương, có thừa sức mạnh để phá hoại đất nước của ông.

Lo sợ, vua A-xà-thế đành chia râu Phật cho long vương. Trở về long cung ở sâu tám mươi bốn nghìn dặm dưới chân núi Tu-di, long vương dựng tháp bằng thủy tinh để thờ râu Phật. Phần vua A-xà-thế, sau khi về nước, liền lấy hộp bằng vàng ròng đựng xá-lợi, làm một ngọn đèn thắp sáng được một nghìn năm, dùng cát và nước của sông Hằng xây tháp, rồi chôn hộp xá-lợi dưới tháp ấy.[20b] Mãi sau khi vua A-dục chiếm được nước của vua A-xà-thế, đã cưới một bà phu nhân cao tám thước, tóc cũng dài bằng thân người, đủ các tướng tốt. Theo lệnh vua, xem tướng cho bà ấy xong, thầy tướng nói: ‘Phu nhân này sẽ sinh cho đại vương một đứa bé da màu vàng ròng’. Nhà vua liền phong bà ấy làm đệ nhị phu nhân. Thái hậu ganh ghét, luôn tìm thời cơ thuận tiện để trừ khử đệ nhị phu nhân. Một hôm, khi phu nhân ấy mang thai đã mười tháng, sắp sinh, nhà vua có việc phải ra khỏi cung. Thái hậu thừa dịp ấy, liền sai tìm một con lợn nái sắp đẻ, rồi bảo bà phu nhân:

– Em còn ít tuổi, lại mới sinh lần đầu, do đó, em không nên để lộ mặt ra ngoài trời.

Vừa trùm mặt lại, phu nhân liền sinh đứa bé trai da vàng sáng rực cung điện. Thái hậu trộm đem đứa bé giết đi, lấy lợn con đặt bên cạnh phu nhân, rồi mắng:

– Ngươi bảo rằng sẽ sinh cho đại vương đứa con trai da vàng, nhưng tại sao lại sinh ra con lợn?

Thái hậu liền cầm cây luân đầu[2] đánh và nhốt bà phu nhân ở khu vườn phía sau cung điện, bắt trồng rau cải. Vừa trở về cung, nghe thái hậu tâu lại, nhà vua rất bực bội. Sau đó khá lâu, một hôm trong lúc đi dạo trong vườn, nhìn thấy phu nhân, nhà vua chợt thấy nhớ thương, liền cho đón bà về cung. Dần dần được gần gũi nhà vua trở lại, đệ nhị phu nhân kể lại đầy đủ sự tình trước kia. Nghe xong, vua A-dục rất kinh dị, liền sai giết tám mươi bốn nghìn bà phu nhân. Sau đó, nhà vua lại cho xây một nhà ngục ở ngoài kinh thành để trừng trị tội nhân.

Biết nhà vua vì giết các vợ mình nên phải đọa địa ngục, Da-xá liền sai tì-kheo Tiêu Tán đến giảng giải cho nhà vua tin và hiểu đạo lý. Bấy giờ, nhà vua hỏi:

– Tôi đã giết tám mươi bốn nghìn người vợ. Tội ấy có thể chuộc được không?

Tì-kheo đáp:

– Cứ giết một người thì phải dựng một ngôi tháp, rồi đặt dưới tháp một viên xá-lợi. Làm như thế thì ngài sẽ được thoát tội.

Vua A-dục liền đi tìm xá-lợi Phật của vua A-xà-thế. Khi ấy, có một vị tướng phụ[3] đã một trăm hai mươi tuổi, dẫn năm trăm người đi lấy xá-lợi trong nước. Tìm được xá-lợi, vua rất vui mừng, liền giao cho các quỉ thần mỗi vị đem xá-lợi về chỗ của mình. Vua ra lệnh đồng thời trong một ngày phải đưa xá-lợi đến tám mươi bốn nghìn nơi. Các quỉ thần nói:

– Bởi có nhiều núi ngăn cách, nên các nơi không thể báo tin được cho nhau.

Nhà vua bảo:

– Các ngươi hãy trở về cõi nước của mình chuẩn bị sẵn sàng và treo chuông gió lên. Ta sẽ sai A-tu-la dùng tay che mặt trời để khắp thế giới có cùng một giờ”.

Kinh A-nan ghi: “Khi dựng xong mới được một nghìn hai trăm ngôi tháp, các tấm phan đã dệt xong chưa kịp treo lên cùng với hoa, nhà vua luôn sợ mình qua đời. Do đó, sáu ngày sau, nhà vua liền thỉnh chư tăng đến thượng uyển để cúng dường. Bấy giờ, có la-hán Ưu-ba-quật-đa nhận lời thỉnh của vua, đưa mười tám nghìn vị a-la-hán đến. Tôn giả Quật-đa có dung mạo xinh đẹp, da dẻ mịn màng; còn nhà vua thì thân thể xấu xí, da dẻ thô nhám. Tôn giả liền nói kệ:

[20c] Khi ta làm bố thí,
Dùng tâm tịnh, của tốt.
Không như vua bố thí,
Dùng cát dâng chư Phật.

Nghe rồi, nhà vua bảo các đại thần:

– Ta vì dùng cát cúng dường Phật, nên chịu quả báo như thế. Tại sao ta không tu hạnh cung kính Thế Tôn?

Sau đó, nhà vua sai tìm những ngôi tháp của các đệ tử Phật thời Phật tại thế, như Ca-diếp, A-nan v.v… Đích thân vua đến chỗ các tháp ấy, thành tâm cung kính lễ, tỏ bày sự xót xa và cúng dường mọi thứ. Nhà vua còn dựng một ngôi đại tháp cho mỗi vị và cúng dường mỗi ngôi tháp này mười vạn lượng châu báu.

Đến lượt phải cúng dường ngôi tháp của Bạc-câu-la, nhà vua hỏi:

– Vị này có công đức gì?

Tôn giả Quật-đa đáp:

– Vị ấy là bậc ‘Vô bệnh đệ nhất’, nhưng không giảng câu pháp nào cho ai cả, chỉ luôn luôn im lặng.

Nhà vua sai các quan:

– Hãy cúng dường một đồng tiền.

Các quan hỏi nhà vua:

– Công đức vốn bình đẳng, tại sao bệ hạ chỉ cúng dường tháp này một đồng tiền?

Nhà vua bảo:

– Hãy nghe kệ của ta:

Tuy trừ vô minh si,
Trí tuệ soi xét khắp,
Tuy có Bạc-câu-la,
Thế gian được ích gì?

Sau đó, đồng tiền kia tự quay trở lại cung điện. Thấy việc lạ lùng ấy, các quan cùng ca ngợi vị a-la-hán kia:

– Than ôi! Tôn giả giữ hạnh thiểu dục tri túc, ngay cả một đồng cũng không cần.

Từ đó, nhà vua liên tục cúng dường cây bồ-đề. Một phu nhân tên Đê-xá-la-hi-đa nghĩ: ‘Đức vua đang rất yêu mến ta, nhưng nay lại bỏ thân ngọc ngà ta mà đến cội bồ-đề. Vậy ta nên tìm cách làm cho cây ấy chết để đức vua không đến chỗ ấy nữa. Như thế, đức vua mới chịu vui vầy với ta’. Bà phu nhân liền sai người tưới sữa nóng vào cây bồ-đề ấy khiến cây khô, lá rụng. Nghe tin cây bồ-đề chết, quá đau buồn, nhà vua đã ngất xỉu. Thấy nhà vua mãi âu sầu, bà phu nhân muốn làm vui lòng vua, liền hỏi nguyên do. Vua bảo:

– Nếu không có cây kia thì mạng ta cũng không còn. Như Lai đã đắc đạo ở cây ấy. Nay cây ấy không còn thì ta đâu cần sống!

Bà phu nhân bèn sai tưới sữa lạnh vào cây ấy, nó liền sống lại. Vua nghe tin, vui mừng, đến cội cây bồ-đề chiêm ngưỡng mắt không rời. Sau đó, nhà vua sai dùng một nghìn bình nước thơm tưới cây, khiến nó trở nên đẹp hơn trước nhiều, cao to và sum sê.

Về sau, nhà vua chuẩn bị thân tâm thanh tịnh, bưng lư hương ở trên điện thờ, lễ bốn phương, tâm nghĩ, miệng nói:

– Các đệ tử hiền thánh của Như Lai ở các nơi! Hãy thương xót mà nhận sự cúng dường của con!

Khi nhà vua nói như thế xong, có ba mươi vạn tì-kheo tập hợp đến. Trong số đó, mười vạn người là a-la-hán, hai mươi vạn là thánh hữu học. Nhân dịp này, nhân dân, cung nhân, thái tử, các quan và nhà vua đã tạo công đức lớn lao vô cùng, không thể kể xiết”.

[21a] Kinh Tạp a-hàm ghi: “Vua A-dục hỏi các tì-kheo:

– Ai ở trong Phật pháp thường thực hành bố thí rộng lớn?

Các tì-kheo nói:

– Trưởng giả Cấp Cô Độc thực hành bố thí rộng lớn nhất.

Vua hỏi:

– Ông ấy bố thí như thế nào?

– Ông ấy đã bỏ ra ức nghìn lượng vàng để bố thí.

Vua nghe xong, nghĩ: ‘Ông trưởng giả kia còn có thể bỏ ức nghìn lượng vàng để cúng dường. Nay ta là vua, lý do gì lại dùng ức nghìn lượng vàng để bố thí? Ta sẽ dùng ức trăm nghìn lượng vàng để bố thí, cho đến đem hết kho báu riêng, cùng tất cả phu nhân, mỹ nữ, đại thần, thái tử cúng dường cho các thánh tăng. Sau đó, ta sẽ dùng bốn mươi ức lượng vàng chuộc họ lại. Tính ra, như thế ta đã dùng chín mươi sáu ức nghìn lượng vàng’. Đến khi bị bệnh nặng, nhà vua tự biết số mạng mình sắp hết, thường muốn dùng ức trăm nghìn lượng vàng làm công đức, nhưng nay điều nguyện chưa tròn thì sắp phải sang đời sau, chỉ còn thiếu bốn ức lượng vàng. Do đó, nhà vua sai lấy châu báu đưa đến chùa Kê-đầu-ma dâng cúng dường, ngay đến còn nửa quả a-ma-lặc cũng cúng dường. Nhà vua lễ chân chư tăng, thăm hỏi các đại thánh, nói:

– Con cai trị cõi Diêm-phù-đề này, cõi này là của con. Nay của cải đã hết, không được tự chủ nữa, chỉ còn nửa quả a-ma-lặc này, xin các ngài nhận lấy để con thêm phúc.

Thượng tọa Da-xá sai nghiền quả a-ma-lặc, cho vào canh thạch lựu. Làm như thế, tất cả chư tăng đều được phần.

Nhà vua liền hỏi cận thần:

– Ai là vua cõi Diêm-phù-đề?

Các quan tâu:

– Chính là đại vương.

Nhà vua ngồi dậy, ngoảnh nhìn bốn phía, chắp tay lễ, nghĩ đến công đức của Phật, lòng nghĩ, miệng nói:

– Nay ta cúng dường cõi Diêm-phù-đề này cho tam bảo.

Nhà vua viết giấy xác nhận, niêm phong lại, dùng ấn ngà đóng lên. Làm xong, nhà vua liền qua đời.

Bấy giờ, thái tử và nhân dân cúng dường mọi thứ và lo việc tống táng theo nghi thức hỏa thiêu dành cho vua”.

Kinh Pháp ích ghi: “Nay đất nước này thuộc tam bảo, tại sao lại lập thái tử làm vua?

Nghe dân nói thế, các quan liền bỏ ra bốn ức lượng vàng đem đến chùa chuộc lại đất nước”.

Luận Thiện kiến ghi: “Vua A-dục dùng chín mươi sáu ức đồng tiền vàng dựng tám mươi bốn ngôi tháp báu và bố thí rộng rãi nhiều thứ”.

II.3. Dựng tháp

Hỏi: Qua những kinh luận đã dẫn, lý do dựng tháp đã biết, nhưng chưa biết tháp nghĩa là gì, có mấy loại tháp, người được dựng tháp có thể là phàm phu không?

[21b] Đáp: Bởi chữ Phạn và chữ Hán khác nhau, việc phiên dịch lại thực hiện vào các thời điểm trước sau không đồng, cho nên đã dẫn đến việc dùng danh từ thuật ngữ khác nhau, văn tự cũng nhiều sai biệt.

Tháp, Phạn âm là tháp-bà, Trung Hoa dịch là phương phần; hoặc Phạn âm là chi-đề, Trung Hoa dịch là nơi diệt ác sinh thiện; hoặc Phạn âm là đẩu-tẩu-ba, Trung Hoa dịch là hộ tán, như người ủng hộ và khen ngợi người đáng được ủng hộ và khen ngợi. Chính âm tiếng Tây Phạn của tháp là tốt-đổ-ba, Trung Hoa dịch là miếu. Miếu nghĩa là mạo, tức là linh miếu.

Việc dựng tháp có ba ý nghĩa:

1. Biểu thị đức tính ưu việt của người được thờ.
2. Khiến người khác tin.
3. Để báo ân.

Nếu là tì-kheo phàm phu có đức hạnh cao trọng, cũng được dựng tháp thờ. Không nên dựng tháp thờ những người khác.

Dựng tháp, (chi-đề) ở bốn nơi:

1. Nơi đản sinh.
2. Nơi thành đạo.
3. Nơi chuyển pháp luân.
4. Nơi niết-bàn.

Nơi đản sinh và nơi thành đạo của chư Phật chắc chắn phải có chi-đề. Đức Phật chắc chắn sinh ở cội cây a-thâu-kha, Trung Hoa dịch là cây vô ưu. Đó là nơi phu nhân của vua Tịnh Phạn đã sinh thái tử, nên gọi cây ấy là chi-đề đản sinh. Như Lai thành đạo ở cội cây bồ-đề, nên gọi cây ấy là chi-đề thành đạo.

Nơi Như Lai chuyển pháp luân và niết-bàn thì không cố định. Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên để hóa độ năm vị tì-kheo ở Lộc Dã. Vườn này ngang dọc mỗi bề hai mươi lăm tầm. Một tầm bằng tám thước. Người xưa thân hình cao to nên một tầm bằng tám thước. Tổng cộng, hai mươi lăm tầm bằng hai mươi trượng. Hiện nay, người Ấn Độ lập chuyển pháp luân ở khắp nơi, chọn vị trí đẹp, theo kích thước ấy, trồng ba cây trụ và đặt lên đó ba bánh xe để biểu thị ngày xưa Đức Phật đã ba lần chuyển pháp luân tứ đế. Những nơi ấy gọi là chi-đề chuyển pháp luân.

Nơi Như Lai nhập niết-bàn có dựng tháp để tôn trí xá-lợi Ngài, gọi là chi-đề niết-bàn. Ngày nay, nơi ấy có lập chùa, tên là chùa niết-bàn, là nơi cố định. Nếu căn cứ vào các nơi dựng tháp có xá-lợi thì chi-đề niết-bàn không cố định. Bốn loại tháp ấy đều gọi là tốt-đổ-ba.

Luận Tì-bà-sa ghi: “Nếu có người dựng tháp lớn ở nơi Như Lai đản sinh, chuyển pháp luân…, lại có người lấy hòn đá nhỏ cũng làm tháp ở những nơi ấy, thì phúc của người này bằng với phúc của người dựng tháp lớn ở trên. Vì hai việc làm ấy đều tôn quí. Nếu dựng tháp, dù lớn hay nhỏ để thờ Như Lai, Đại Phạm thì phúc như nhau, vì việc làm giống nhau”.

Kinh A-hàm ghi: “Có bốn hạng người đáng được dựng tháp thờ là Như Lai, bích-chi phật, thanh văn và Chuyển luân vương”.

Kinh Thập nhị nhân duyên ghi: “Có tám hạng người được dựng tháp là Như Lai, bồ-tát, duyên giác, a-la-hán, a-na-hàm, tư-đà-hàm, [21c] tu-đà-hoàn và Chuyển luân thánh vương. Còn những hạng dưới Chuyển luân vương thì không được dựng tháp. Thấy tháp có lộ bàn[4] một tầng thì không cần lễ, vì đó không phải là tháp của thánh nhân. Tháp của hàng sơ quả thì làm lộ bàn hai tầng…, cho đến tháp của Như Lai thì làm lộ bàn tám tầng. Tháp có lộ bàn tám tầng trở lên đều là tháp Phật”.

Luật Tăng kỳ ghi: “Muốn dựng chùa, trước hết phải đo đất. Chỗ định làm tháp không được ở phía nam chùa, không được ở phía tây, mà phải ở phía đông hoặc phía bắc, không được lấn vào chỗ thờ Phật. Chỗ thờ tăng phải ở phía tây, phía nam dùng làm tăng phòng. Tháp Phật phải làm chỗ cao ráo, quang đãng. Không được giặt, nhuộm, phơi y phục hoặc khạc nhổ trong khuôn viên tháp. Phải làm khám thờ ở bốn mặt tháp. Phải vẽ hình sư tử, chim, thú… Phải treo phan, lọng trong tháp. Nên tạo vườn hoa, rừng với nhiều loại cây trái quanh tháp. Hoa mọc trong vườn ấy nên dùng cúng dường tháp. Nếu những cây ấy do thí chủ tự phát tâm trồng thì thí chủ nên nói: “Hoa trong vườn này để cúng dường Phật, quả cho tăng dùng”.

Đức Phật bảo:

– Phải làm theo lời thí chủ. Nếu hoa nhiều thì có thể đưa cho thợ kết hoa xâu thành vòng cho mình. Số hoa còn thừa phải tính xem, nếu có giá trị thì vị hương đăng bán đi để mua hương cúng dường Phật và sửa sang tháp. Nếu số hoa ấy bán được nhiều tiền thì cất vào vô tận vật[5] của Phật. Nếu người nào nói Phật không có tham, sân, si, nhưng lại tự lấy hoa trang điểm cho mình và hưởng quả, thì người ấy bị tội báo nặng.

Đức Phật dạy: “Cũng phải làm chi-đề. Có xá-lợi thì gọi là tháp, không có xá-lợi thì gọi là chi-đề. Nơi Phật đản sinh, đắc đạo, chuyển pháp luân và niết-bàn đều phải dựng tượng bồ-tát, tượng bích-chi phật. Nơi có chạm khắc dấu chân Phật thì phải che lọng đẹp cúng dường những chi-đề ấy. Về việc cúng dường, bậc thượng là cúng dường tháp Phật, bậc hạ là cúng dường chi-đề. Nếu chợt gặp mưa gió, phải thu dọn các vật cúng dường đặt vào chỗ kín đáo gần đó. Không được nói rằng ta là thượng tọa, là đại đức ở a-lan-nhã khất thực, nên không làm việc ấy. Nếu không, sẽ bị tội Việt tì-ni[6]. Nếu có giặc cướp đến, trong lúc nguy cấp, không được cất giấu các vật thờ ở tháp hoặc vật của tăng. Vật thờ Phật phải dùng trang nghiêm tượng Phật, tọa cụ của chư tăng cũng nên trải ra, sắp bày các thức ăn uống để giặc cướp trông thấy. Nếu bọn cướp khởi tâm từ hỏi han thì tì-kheo đừng sợ, cứ ra gặp. Người trẻ tuổi nên lưu ý, nếu giặc cướp chợt đến thì không được cất giấu vật dụng, mà phải nói với chúng rằng tất cả các hành đều vô thường. Nói xong, thì bỏ đi. Đây là cách ứng xử khi gặp nạn cướp”.

II.4. Cảm báo

[22a] Kinh Tiểu vị tằng hữu ghi: “Đức Phật bảo A-nan:

– Giả sử cây cỏ trong khắp bốn thiên hạ đều có người chứng được bốn quả Sa-môn hoặc là Bích-chi phật, rồi có một người suốt đời cúng dường bốn thứ cần dùng cho các vị ấy, sau khi các vị ấy diệt độ, lại xây tháp cho từng vị, rồi cúng dường hương, hoa, tràng phan, lọng báu cho các tháp. Lại có người thiện nam hoặc thiện nữ làm trăm nghìn ức ngôi điện lớn và trang nghiêm như cung điện của trời Đế Thích, có tám mươi bốn nghìn cột báu, tám mươi bốn nghìn cửa sổ báu, tám mươi bốn nghìn cửa sổ báu ở thiên tỉnh, tám mươi bốn nghìn lầu gác được trang trí các thứ báu xung quanh để cúng dường tăng sĩ ở khắp nơi, người đó sẽ được nhiều phúc, nhưng còn kém phúc của người sau khi Phật vào niết-bàn, làm tháp bé như quả am-ma-lặc, trụ của lộ bàn bằng cây kim, các tầng lộ bàn bé như chiếc lá táo, bên trong tháp tôn trí xá-lợi nhỏ như hạt cải hoặc tượng Phật nhỏ như hạt lúa mạch. Công đức của người này lớn hơn của người kia gấp trăm lần, nghìn, vạn, trăm nghìn vạn lần, không thể tính nổi.

A-nan! Nên biết Như Lai có vô lượng công đức, gồm vô lượng công đức thuộc giới phần, định phần, tuệ phần, giải thoát phần, giải thoát tri kiến phần, có thần thông biến hóa, sáu ba-la-mật.., vô lượng công đức như thế”.

Kinh Vô thượng ý ghi: “A-nan chắp tay bạch Phật:

– Hôm nay con vào thành Vương Xá khất thực, thấy một căn gác lớn và đẹp mới được xây xong, trong ngoài đều kín đáo. Có một cư sĩ cúng dường căn gác ấy và đầy đủ bốn thứ cần dùng cho tăng sĩ bốn phương. Nếu sau khi Như Lai diệt độ, có người dựng tháp nhỏ như hạt a-ma-la, trụ của lộ bàn nhỏ như cây kim, các tầng lộ bàn nhỏ như chiếc lá táo, để tôn trí viên xá-lợi nhỏ như hạt cải, và làm tượng Phật nhỏ như hạt lúa mạch. Trong hai công đức này, công đức nào lớn hơn?

Đức Phật bảo A-nan:

– Giả sử số người chứng quả Sa-môn và Bích-chi phật đầy khắp bốn thiên hạ, nhiều như rừng mía, ruộng lau, tre.., có người suốt đời cúng dường những vị ấy đầy đủ bốn thứ cần dùng, sau khi họ vào niết-bàn, lại xây tháp lớn, thắp đèn, đốt hương, treo tràng phan, dâng y.., để cúng dường, thì ông nghĩ thế nào? Công đức của người kia có nhiều không?

A-nan đáp:

– Bạch Đức Thế Tôn, công đức của người kia rất nhiều.

Đức Phật bảo:

– A-nan! Hãy gác qua việc ấy. Ở cung trời của Đế Thích có tòa lầu cao lơ lửng trên không tên là điện Thường Thắng, được trang trí bằng nhiều thứ báu, mỗi thứ đều tám mươi bốn nghìn vật. Nếu có người nam hoặc nữ làm trăm nghìn muôn ức ngôi điện Thường Thắng để cúng dường tăng sĩ bốn phương; lại có người khác, sau khi Đức Phật vào niết-bàn, lấy được viên xá-lợi Phật bằng hạt cải, [22b] làm ngôi tháp thờ nhỏ như hạt a-ma-la, trụ của lộ bàn nhỏ như cây kim, các tầng lộ bàn nhỏ như chiếc lá táo, làm tượng Phật nhỏ như hạt lúa mạch, thì công đức của người này lớn hơn của người trước hơn trăm lần, hơn nghìn vạn ức lần, hơn a-tăng-kì lần, không thể thí dụ được. Vì sao? Vì công đức Như Lai lớn vô lượng. Dẫu nghiền nát thế giới Ta-bà thành bụi nhỏ, mà có số người nhiều bằng số bụi ấy lần lượt đều chứng bốn quả Sa-môn hoặc Bích-chi phật, nếu có cư sĩ nam hoặc nữ suốt đời cúng dường số thánh ấy, sau khi các vị ấy diệt độ, lại dựng tháp cúng dường, thì cũng không bằng người làm tháp thờ xá-lợi Phật nhỏ như hạt cải, cho đến thờ tượng Phật nhỏ như hạt lúa mạch. Công đức của người này lớn hơn công đức của người nói trên gấp trăm, gấp nghìn vạn ức lần, không tính toán hoặc thí dụ được.

A-nan! Như thế, tất cả Như Lai ngày xưa còn ở nhân địa, đều biết chúng sinh giới vốn tự tính thanh tịnh, nhưng bị khách trần phiền não làm ô nhiễm. Các Ngài không vào chúng sinh giới thanh tịnh, mà vẫn ở tại thế giảng cho tất cả chúng sinh nghe diệu pháp sâu xa, giúp trừ phiền não chướng. Lẽ ra các ngài khởi tâm cho là hèn kém, nhưng vì lòng đại lượng, nên các Ngài khởi tâm tôn trọng, tỏ lòng cung kính họ như đại sư, khởi trí bát-nhã, tâm tổng trì, tâm đại bi. Theo pháp này, bồ-tát lên được địa vị A-bệ-bạt-trí[7]. Nương nơi trí như thật mà đạt được phương tiện trí, chứng đắc Vô thượng bồ-đề”.

Kinh Niết-bàn ghi: “Nếu cúng dường Phật, pháp, tăng một nén hương, một ngọn đèn, cho đến một cành hoa, sẽ sinh vào cõi nước Bất Động. Khéo giữ gìn vật của Phật và tăng, quét dọn chỗ thờ Phật hoặc chỗ ở của tăng, làm tượng, dựng tháp nhỏ như ngón tay cái, thì sẽ sinh tâm vui vẻ, cũng sinh cõi nước Bất Động. Đó là Tịnh Độ thường trang nghiêm, không bị ảnh hưởng bởi ba tai họa[8]”.

II.5. Nhiễu tháp

Kinh Bồ-tát bản hạnh ghi: “Khi còn tại thế, một hôm Phật cùng A-nan vào thành Xá-vệ khất thực. Bấy giờ, trong thành có một bà-la-môn từ ngoài thành đi vào. Trông thấy Phật với vầng hào quang rạng ngời quanh thân đang ra khỏi thành, bà-la-môn vui mừng, phấn khích, nhiễu quanh Ngài một vòng, đỉnh lễ, rồi bước đi.

Đức Phật mỉm cười, bảo A-nan:

– Bà-la-môn này gặp Phật, liền vui mừng, nhiễu Phật một vòng với tâm thanh tịnh. Nhờ công đức ấy, từ nay đến hai mươi lăm kiếp về sau, ông ta không bị đọa vào đường ác, mà được hưởng hạnh phúc vô cùng ở cõi trời và cõi người. Hết hai mươi lăm kiếp, ông ấy sẽ thành Bích-chi phật hiệu là Trì-thấn-na-kì-lê. Vì nhân duyên ấy, nếu người nào nhiễu Phật hoặc nhiễu tháp Phật thì sinh nơi nào cũng được phúc đức vô lượng”.

[22c] Kinh Đề-vị ghi: “Trưởng giả Đề-vị bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Rải hoa, đốt hương, thắp đèn, lễ lạy đều để cúng dường. Còn việc nhiễu tháp được phúc đức như thế nào?

Đức Phật dạy:

– Nhiễu tháp có năm điều phúc đức: một, đời sau được thân hình xinh đẹp; hai, được giọng nói hay; ba, được sinh lên trời; bốn, được sinh vào nhà vua chúa; năm, chứng được Niết-bàn.

Nguyên do gì mà được xinh đẹp? Do vui mừng khi nhìn thấy tượng Phật. Nguyên do gì mà có giọng nói hay? Do nhiễu tháp và giảng kinh. Lý do gì mà được sinh lên trời? Do tâm ý không phạm giới trong khi nhiễu tháp. Lý do gì mà được sinh vào nhà vua chúa? Do dập đầu lễ dưới chân Phật. Lý do gì mà được đạo Niết-bàn? Do có rất nhiều phúc.

Đức Phật dạy:

– Nhiễu tháp có ba điều: một, khi nhấc chân phải nghĩ đang nhấc chân; hai, khi hạ chân xuống phải nghĩ đang hạ chân xuống; ba, không được ngoảnh nhìn hai bên hoặc khạc nhổ quanh tháp.

Nên nhiễu theo chiều phải. Trong kinh luật đều dạy phải đi nhiễu theo chiều phải. Nếu đi nhiễu bên trái thì bị thần quở mắng…, cho đến người nhiễu trái đống lúa mạch còn bị người đời chê trách.

Việc đi nhiễu hiện thời thuận với lẽ trời thì từ hướng tây chuyển sang bắc, trịch áo bày vai phải, cung kính hướng về Phật. Có thể nhiễu trăm vòng, chục vòng, bảy vòng.., mỗi số đều biểu thị một ý nghĩa. Hơn nữa, thường nhiễu ba vòng là bày tỏ ý cúng dường ba bậc tôn quí, dừng ba độc, tịnh hóa ba nghiệp, trừ ba đường ác, được gặp tam bảo”.

Kinh Hoa nghiêm có bài kệ:

Nếu muốn nhiễu tháp,
Nên nguyện chúng sinh,
Thực hành điều phúc,
Thông suốt đạo ý,
Nhiễu tháp ba vòng,
Nên nguyện chúng sinh,
Được tâm rốt ráo,
Không mất tứ hỉ[9].

Kinh Hiền giả ngũ giới ghi: “Việc nhiễu tháp ba vòng biểu thị sự tôn kính ba ngôi tôn quí là Phật, Pháp và Tăng, cũng biểu thị nhớ việc diệt ba độc: tham, sân và si”.

Kinh Tam thiên oai nghi ghi: “Nhiễu tháp có năm việc: một, cúi đầu nhìn xuống đất; hai, không được dẵm lên côn trùng; ba, không được ngoảnh nhìn sang hai bên; bốn, không được khạc nhổ trước tháp; năm, không được đứng trong khuôn viên tháp chuyện trò với người”.

Kinh Đại tập ghi: “Đức Phật bảo các Phạm thiên vương:

– Đối với các đệ tử thanh văn của Ta hiện nay và đời sau giữ ba nghiệp tương đương và tương ứng với ba loại Bồ-đề, bậc vô học và hữu học, giữ giới đầy đủ, học rộng, tu các thiện hạnh, độ các chúng sinh trong ba cõi. Các thí chủ xây tháp, dựng chùa và cúng dường mọi thứ cần dùng cho đệ tử thanh văn của Ta, Ta ủy thác các ông phải bảo vệ họ và thân quyến họ, không để bị vua chúa hung bạo hành hạ một cách vô đạo.

[23a] Bấy giờ, Đại Phạm thiên vương, Đế Thích, tứ thiên vương, long vương và dạ-xoa v.v… đều chắp tay hướng về Phật, nói:

– Bạch Đại Đức Thế Tôn! Chúng con sẽ cùng bảo vệ tất cả tháp và chùa thờ Như Lai, các nơi thanh tịnh, những người tại gia hoặc xuất gia đời sau xây tháp, dựng chùa cho các đệ tử thanh văn của Đức Thế Tôn, khiến cho họ tránh khỏi mọi sự sợ hãi, tai nạn. Nếu có thí chủ cung cấp thức ăn uống, y phục, giường ghế, thuốc thang và tất cả những vật cần dùng như thế, chúng con cũng sẽ hộ trì họ”.

Kinh Thất Phật ghi: “Có mười tám vị thần bảo vệ chùa là:

1. Mỹ Âm
2. Phạm Âm
3. Thiên Cổ
4. Thán Diệu
5. Thán Mỹ
6. Ma Diệu
7. Hương Âm
8. Sư Tử
9. Diệu Thán
10. Phạm Hưởng
11. Nhân Âm
12. Phật-nô
13. Thán Đức
14. Quảng Mục
15. Diệu Nhãn
16. Triệt Thính
17. Triệt Thị
18. Biến Thị.

Chùa đã có thần bảo vệ, người ở chùa cũng nên siêng năng, không được biếng nhác. Nếu không, e rằng sẽ lãnh chịu quả báo hiện tại”.

II.6. Vào chùa

Giải thích:

– Theo Tây Vực, hễ nam hay nữ vừa đến cổng chùa, liền khởi tâm vui gặp được chùa, nên trước hết sửa ngay ngắn y phục, lễ chung một lạy. Sau khi vào bên trong cổng, lại lễ một lạy, rồi khoan thai bước thẳng, không được ngoảnh nhìn hai bên. Do đó, kinh Niết-bàn ghi: “Khi đến tăng phường[10], có bảy việc: khởi lòng tin, lễ lạy, nghe pháp, chí tâm, suy nghĩ ý nghĩa pháp được nghe, thực hành đúng như lời dạy, hồi hướng Đại thừa giúp nhiều người được lợi ích. Giữ bảy việc thiện này thì được công đức cao hơn cả, không thể thí dụ được”.

Kinh Úc-già trưởng giả ghi: “Đức Phật bảo:

– Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia khi vào chùa hoặc tinh xá, nên đứng ngoài cửa lễ lạy. Sau đó, bước vào chùa, tự nghĩ: “Bao giờ ta sẽ được ở chùa, nơi thoát ngoài trần lao, ô nhiễm”.

Luận Thập trụ tì-bà-sa ghi: “Nếu bồ-tát tại gia vào chùa, trước hết lạy sát đất ở ngoài cổng chùa, nghĩ rằng đây là nơi ở của bậc thiện nhân, nơi ở của người tu hạnh từ, bi, hỉ, xả, cho nên, mình phải lễ. [23b] Nếu thấy các tăng sĩ có đầy đủ oai nghi thì cung kính lễ lạy, gần gũi, thăm hỏi”.

Kinh Tự ái ghi: “Bấy giờ, có một vị vua đến chỗ Đức Phật. Thấy tinh xá ở phía xa, nhà vua liền xuống xe, xếp lọng, bỏ gươm, cởi giày, chắp tay đi thẳng đến”.

Luật Tăng-kì ghi: “Khi đi thì nhìn thẳng, lúc quay lại thì quay cả người. Khi bước đi, đặt gót chân xuống trước, đặt ngón chân xuống sau, nhìn xuống đất mà bước để tránh loạn tâm và bảo vệ chúng sinh. Đó là tác phong của bồ-tát bất thoái”.

Tây Quốc tự đồ ghi: “Đi đến chỗ của Phật, lễ ba lạy xong, đi nhiễu ba vòng, tán tụng ba bài. Sau khi lễ xong, mới đến tăng phòng, lễ một lạy ở ngoài phòng, rồi vào yết kiến vị thượng tọa, tuần tự đến vị hạ tọa, lễ mỗi vị ba lạy. Nếu tăng đông thì lễ một lạy. Nếu thấy việc không đúng pháp thì không được chê trách. Nếu lên tiếng chê trách thì tự đánh mất sự tốt đẹp; đó không phải là việc nên làm khi vào chùa”.

Kinh Niết-bàn ghi: “Người đến chùa nên bỏ dao, gậy và các vật linh tinh, rồi mới vào chùa. Bỏ dao gậy tức là bỏ lòng giận hờn tam bảo; bỏ vật linh tinh tức là bỏ tâm cầu xin tam bảo. Hãy bỏ hai lỗi ấy, rồi mới nên vào chùa. Đi nhiễu Phật theo chiều thuận, không được đi theo chiều nghịch. Giả sử gặp vật chướng ngại buộc phải đi theo bên trái thì phải luôn luôn nghĩ tưởng Phật ở bên phải. Lúc vào và ra khỏi chùa đều quay mặt về phía Phật lễ lạy. Luôn nhớ thể của tam bảo chỉ là một. Vì sao? Vì bậc giác ngộ pháp, có đủ phúc trí được gọi là Phật, đạo mà Phật giác ngộ gọi là pháp, người tu học Phật đạo gọi là tăng. Cho nên, thể của tất cả phàm và thánh như nhau, không hai. Khi vào chùa, nên cúi đầu nhìn xuống đất, không được nhìn lên cao, thấy côn trùng thì đừng làm tổn thương chúng. Phải ca tụng, khen ngợi tam bảo. Không được khạc nhổ trong khuôn viên chùa. Nếu thấy cỏ rác dơ bẩn thì phải dọn sạch”.

Luật Tứ phần ghi: “Vào chùa rồi, trước hết phải lễ tháp Phật, kế đó lễ tháp thanh văn. Sau đó, lễ vị thượng tọa lớn nhất, cho đến vị thượng tọa thứ tư”.

Luật Ngũ phần ghi: “Nếu vào chùa có nhiều tăng thì chỉ lễ riêng sư trưởng, còn những người khác thì lễ chung, rồi đi”.

Luật Tứ phần lại ghi: “Phải lễ tháp Như Lai và tháp của năm chúng xuất gia”.

Ngũ bách vấn sự cũng ghi: “Đệ tử phải lễ tháp của thầy để báo ân”.

Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Khi ở trong tháp, không được lễ người khác”.

Luật Thập tụng ghi: “Trước tháp Phật và tháp thanh văn, không được lễ lẫn nhau”.

Ngũ bách vấn sự cũng ghi: “Ở trước tháp Phật mà lễ người khác thì bị tội”.

[23c] Kinh Tam thiên oai nghi ghi: “Không được ngồi trên cao mà lễ. Thời nay, thường ở một số chùa và các nhà cư sĩ, có người xuất gia và tại gia ngồi trên giường lễ Phật. Đấy là quá kiêu mạn. Ví dụ muốn lạy nhà vua, đâu được ở trên giường mà lạy! Đối với vua nhân gian còn không được phép như thế, huống gì đối với Pháp Vương lại được làm theo cách ấy sao?”.

Luận Tì-ni mẫu ghi: “Không được mang giày dép vào trong tháp”.

Ngũ bách vấn sự ghi: “Nếu là giày, dép, vớ sạch mới thì được mang khi lễ lạy”.

Luật Tăng-kì ghi: “Nếu nhận lễ lạy của người thì không được im lặng mà phải hỏi thăm họ có được khỏe và an vui không, đi đường có mệt nhọc không?”.

Giải thích: Nếu có người nam vì gặp nạn, phải đến chùa xin nghỉ qua đêm, thì không được nằm trên giường chiếu của chư tăng. Nếu không có đồ nằm riêng của mình thì nên mượn đồ nằm đúng phép tắc, nhưng không được chung giường với tăng. Cho nên, kinh Bảo lương ghi: “Nằm chung giường với tăng thì nửa người sẽ chết khô, đọa địa ngục chịu khổ cùng cực”.

Khi tăng chưa ngủ, không được ngủ trước, không được đùa giỡn, cười nói những lời trái pháp, làm mất uy nghi, xao động tâm mọi người. Nếu đại tiểu tiện, hỉ mũi, khạc nhổ, vì cầu pháp mà ban đêm không ra ngoài được, thì không phạm. Khi ngủ, phải nằm nghiêng người sang phải, hai chân để chồng lên nhau, tâm tự nhủ phải dậy sớm từ lúc trời vừa hừng sáng. Đó là biểu hiện nhân xuất gia.

Do đó, kinh ghi: “Nằm ngửa là cách nằm của a-tu-la; nằm sấp là cách nằm của ngạ quỉ; nằm nghiêng bên trái là cách nằm của người tham dục; nằm nghiêng bên phải là tư thế nằm của người xuất gia”.

Phải dậy sớm trước khi chư tăng dậy. Rửa mặt, sửa ngay ngắn y phục, đến trước phòng của tăng.

Kinh Sa-di oai nghi ghi: “Nếu muốn vào phòng của thầy, phải búng tay ba lần”.

Kinh Tam thiên uy nghi cũng ghi: “Nếu vào phòng của thầy, phải giữ đủ năm phép tắc: một, búng tay ở ngoài phòng thầy; hai, phải bỏ mũ; ba, phải lễ; bốn, đứng thẳng, thầy cho ngồi mới được ngồi; năm, không quên trì kinh”.

Luật Tăng-kì ghi: “Đệ tử phải dậy sớm, đến phòng thầy, bước chân phải vào phòng trước, lạy sát chân thầy, hỏi thầy ngủ có ngon không”.

Luận Thiện kiến[11] ghi: “Đệ tử tham vấn thầy nên tránh sáu vị trí:

1. Không được đứng ngay trước mặt thầy
2. Không được ở sau lưng thầy
3. Không được ở quá xa thầy
4. Không được đến quá sát thầy
5. Không được đứng ở chỗ cao
6. Không được đứng trên gió”.

Nên đứng chệch sang một bên không quá gần hoặc quá xa, để có thể nghe được lời nói nhỏ của thầy và thầy cũng không phí sức. Khi thực hành như thế, trong mọi uy nghi đều không được rời xa thầy.

Luận Thiện kiến ghi: “Đệ tử đi theo thầy không được đạp lên bóng thầy”.

[24a] Giải thích: Nếu phụ nữ vào chùa, cũng giữ phép tắc như trên, nhưng không được ngồi phía trước nam giới, không được trò chuyện, cười cợt, trang điểm son phấn, vẽ lông mày, đùa giỡn trái phép tắc, không được suồng sã nắm tay, chạm vào người khác. Cần phải giữ ý và giữ nghiêm vẻ mặt, vâng theo lời người trong chùa bảo, theo thứ tự cầm hương, nhất tâm cúng dường, sám hối tự trách rằng: “Mình bị sinh làm người nữ, luôn có chướng ngại, thiếu nhân duyên để tu tập diệu pháp này, không được tự chủ, phải làm theo ý người khác, thật khổ thay!”. Phải tỏ vẻ khẩn thiết. Nếu thấy sa-di, phải lễ như lễ vị tăng lớn, đừng cho là người nhỏ mà không cung kính, vì vị này nhỏ so với vị tăng lớn, nhưng tôn quí hơn người thế tục. Phải hết sức thực hành những phép tắc như thế. Có nhiều phép tắc cần tuân theo, được trình bày đầy đủ ở thiên Sĩ nữ trong bộ Pháp uyển châu lâm gồm một trăm quyển.

Nếu nam nữ cư sĩ đã thực hiện xong các hạnh tu, muốn rời khỏi chùa, phải lạy ba lạy ở trước tháp Phật, nhiễu bên phải tháp ba vòng, chắp tay tán tụng, sau đó, ra ngoài cổng chùa, lại lễ một lạy nữa. Khi trông thấy tăng, nếu ít người thì lễ mỗi vị ba lạy, nếu nhiều vị thì lễ từ biệt chung ba lạy.

Luận Thiện kiến ghi: “Khi lễ Phật, phải đi nhiễu ba vòng, lễ ba lạy, lễ bốn phương, đưa hai bàn tay xoa lên đầu, rồi đi lùi ra ngoài. Khi không còn trông thấy tướng Như Lai nữa, lại lễ, rồi quay về phía trước mà đi”.

Đến chùa là tạo nhân duyên xuất thế, xây chùa là gieo nhân Tịnh độ, cúng dường chư tăng là gieo nhân xuất ly. Do người thế gian ô trọc, tâm tính thô tháo bước vào chốn già lam thanh tịnh, e rằng có những hành vi trái phép tắc, nên phải xả bỏ chút ít của cải cúng dường tam bảo để tự chuộc lỗi. Như vậy mới tỏ rõ người xuất gia có pháp thí, kẻ tục gia có tài thí, hành động hợp phép tắc thì người trong chùa và ngoài đời đều được lợi ích.

II.7. Sửa chùa tháp cũ

Kinh Tượng pháp quyết nghi ghi: “Xây cái mới không bằng sửa cái cũ. Làm phúc không bằng tránh họa”.

Lời này rất đúng!

Nếu để chùa tháp cũ hư, điện thờ mục nát, nhà phòng sụp đổ, cửa rơm, vách lá không ngăn được bụi bặm, mái tranh chẳng che được móc sương, tường vách, cửa nẻo tàn tạ, rác rưởi đầy thềm, đường không dấu chân người, tăng chúng bỏ đi nương nhờ các nơi khác, mà không sửa sang, không chăm sóc, khiến chùa ngày càng suy tàn, thì không có ngày dứt được tội lỗi. Già-lam đêm tối không có đèn đuốc, ban ngày chẳng từng thấy cắm hoa, treo phan; trên điện thờ không ai tụng kinh, lư hương chỉ toàn tro lạnh, khiến ác quỉ lộng hành, thiện thần không bảo vệ; chùa chiền không bền lâu chỉ vì tăng sĩ kiêu mạn, biếng nhác; Phật pháp đã suy vi cũng do cư sĩ không tôn kính. Sự tình như thế mà không lo lắng, còn muốn cầu gì nữa?

[24b] Kinh Bảo lương ghi: “Một vị hiền giả có tướng làm vua hiện trên mặt. Một thầy tướng nhìn thấy, liền gả con gái cho vị ấy. Về sau, có lần vị ấy vào chùa dựa gậy vào vách. Vì sinh lòng kiêu mạn như thế, nên tướng làm vua lặn mất, lại còn bị đọa địa ngục”.

Kinh Tát-già ghi: “Có người không thích chùa tháp, nên bắt chùa tháp phải dời đi nơi khác. Người như thế là hạng chúng sinh ác nghịch, đáng bị trị tội nặng”.

Kinh Thập luân ghi: “Nếu tì-kheo phá chùa, giết hại chúng sinh, khi sắp qua đời, từng lóng xương đau nhức, nhiều ngày không nói được. Sau khi chết, người ấy bị đọa địa ngục A-tì, chịu đủ mọi khổ sở”.

Kinh Tam thiên uy nghi ghi: “Có năm điều về việc quét tháp:

1. Không được mang giày dép.
2. Không được quay lưng về phía Phật mà quét.
3. Không được bỏ đất tốt trên tháp xuống dưới.
4. Không được lấy hoa cũ trên tượng Phật xuống.
5. Phải rửa tay mỗi ngày một lần, tự lấy khăn sạch lau tượng Phật”.

Lại có năm điều:

1. Phải tưới nước mặt đất trước khi quét.
2. Phải tưới cho đất thấm đều.
3. Phải đợi đất ráo nước.
4. Không được quét ngược.
5. Không được quét ngược gió.

Cũng có năm điều:

1. Không được bỏ đất tốt (trên tháp).
2. Phải tự tay nhổ cỏ.
3. Phải chuyển đất ở giữa xuống phía dưới.
4. Không được dồn rác vào bốn góc.
5. Phải quét sạch phạm vi sáu bước chân trước tháp.

(Đây là nói người bận công việc, nên hạn chế trong sáu bước chân. Nếu người rảnh việc, nên quét thêm ra thì tốt hơn).

Kinh Chính pháp niệm ghi: “Nếu có chúng sinh với tâm thanh tịnh cúng dường chư tăng, quét tháp Phật, khi qua đời sẽ sinh vào cõi trời Ý Lạc, thân không có xương thịt, cũng không bị cáu bẩn, có hương thơm tỏa xa một trăm do-tuần, sạch sẽ như gương sáng”.

Kinh Chính pháp niệm cũng ghi: “Nếu có chúng sinh hiểu biết về phúc điền, thấy tháp Phật hoặc tăng phòng bị mưa gió làm hư hỏng, khởi tâm tạo phúc đức sửa chữa, tô vá lại hoặc nhờ người sửa sang tháp cũ, thì khi qua đời sẽ sinh cõi trời Bạch Thân, được vào rừng lưu li hưởng thú vui ngũ dục với các thiên nữ. Khi hết nghiệp trời, người ấy sinh lại làm người có thân thể trắng trẻo”.

Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Nếu quét tăng phòng rộng bằng một cõi Diêm-phù-đề, không bằng quét khoảng rộng một bàn tay ở tháp Phật” (luận Thành thật cũng nói như vậy).

Kinh Soạn tập bách duyên ghi: “Quét mặt đất già-lam được năm công đức:

1. Tự trừ được phiền não trong tâm.
2. Trừ sạch cáu bẩn trên đất.
3. Dẹp được kiêu mạn.
4. Chế ngự được tâm.
5. Tăng trưởng công đức, được sinh về nơi tốt đẹp”.

[24c] Kinh Vô cấu thanh tịnh nữ ghi: “Quét tháp được năm công đức:

1. Tự tâm thanh tịnh, người khác trông thấy cũng sinh tâm thanh tịnh.
2. Được người thương mến.
3. Khiến các trời vui vẻ.
4. Tích chứa nghiệp nhân cảm báo xinh đẹp.
5. Sau khi qua đời sẽ được sinh vào cõi trời tốt đẹp”.

Kinh Sa-di uy nghi ghi: “Quét tháp có năm phép tắc:

1. Không được quay lưng về tháp.
2. Không được quét ngược.
3. Phải tưới nước.
4. Phải quét sạch
5. Phải quét lùi ra từng phần”.

Kinh Tăng nhất nói: “Quét tháp Phật có năm phép tắc:

1. Tưới nước mặt đất.
2. Nhặt bỏ ngói, đá.
3. San quét bằng phẳng mặt đất.
4. Giữ tâm ngay thẳng khi quét.
5. Quét sạch các chỗ dơ.

Sau khi quét sạch sẽ, nên rải một cành hoa thơm trên đất để cúng dường. Làm như thế, sẽ được vô lượng phúc”.

Kinh Hoa nghiêm có bài kệ:

Rải hoa tươi đẹp để trang nghiêm,
Trang hoàng hoa đẹp thành màn trướng,
Muôn sắc hoa tung khắp mọi nơi,
Cúng dường Như Lai mười phương cõi.

Kinh Pháp diệt tận (tiểu bản) ghi: “Về sau, khi kiếp Hỏa nổi lên, những nơi từng làm già-lam đều không bị cháy, cho đến chỗ làm thổ đàn[12] của Kim Cương giới[13] (thuộc Mật tông) cũng không bị cháy”.

Kinh Bồ-tát bản hạnh ghi: “Ngày xưa, lúc Phật còn tại thế, một hôm Ngài bảo năm trăm vị a-la-hán:

– Các ông hãy nói xem đời trước mỗi người đã tạo được công đức gì mà nay có nhân duyên được gặp Ta và được đắc đạo!

Bấy giờ, vị a-la-hán tên Bà-kiệt-đa-lê từ tòa đứng dậy thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn, con nhớ trước đây vô số kiếp có Đức Phật Định Quang ra đời. Sau khi Phật ấy vào niết-bàn, xá-lợi của Ngài được chia ra để mọi người xây tháp cúng dường. Vào thời mạt pháp, có một người nghèo không kế sinh nhai, bèn làm nghề bán củi. Một hôm, người ấy đến bên đầm nước tìm củi, trông thấy một ngôi chùa tháp hết sức đồ sộ, liền đến cạnh tháp chiêm ngưỡng tượng Phật, vui mừng, lễ lạy. Ông ta thấy nơi đây chỉ có chó sói, chim chóc và thú rừng nương náu; cỏ cây, gai góc bẩn thỉu đầy trong tháp, chẳng có bóng người, không dấu chân, không có người cúng dường. Thấy cảnh tượng tiêu điều, lòng tràn dâng cảm giác xót thương, nên dù không hiểu biết Như Lai đại đức, người ấy cũng vui vẻ chặt bỏ cỏ cây, quét dọn bùn rác, nhiễu tháp tám vòng, lễ lạy, rồi đi. Nhờ công đức đó, sau khi qua đời, người ấy sinh vào cõi trời Quang Âm, ở trong cung điện đồ sộ làm bằng các thứ báu, ánh sáng rực rỡ, đẹp nhất trong các cõi trời, không thể kể xiết. Khi hết tuổi thọ, người ấy trở lại làm Chuyển luân thánh vương một trăm lần, có đủ bảy thứ báu, làm vua bốn thiên hạ[14]. [25a] Về sau, khi qua đời, người ấy thường sinh vào nhà của vua chúa và các dòng họ cao quý, trưởng giả, tiền của vô số, dung mạo rất xinh đẹp, không ai sánh bằng, ai trông thấy cũng vui vẻ, mến trọng. Khi người ấy bước đi, đường sá tự nhiên sạch sẽ, trên không mưa xuống các thứ hoa”.

Ba-kiệt-đa nói:

– Người nghèo ngày xưa kia chính là con hôm nay. Nhờ công đức quét tháp, nên trong một a-tăng-kì và chín mươi kiếp con không bị đọa vào đường ác, dù sinh ở đâu trên trời hay trong cõi người, con tự nhiên được giàu sang, vinh hiển, được hưởng hạnh phúc vô cùng. Nay là thân sau cùng, được gặp Phật, con bỏ cảnh giàu sang, xuất gia và chứng được quả A-la-hán, có đủ tam minh, lục thông và bát giải thoát.

Nếu có người làm một việc thiện, dù nhỏ như sợi lông, cho Phật, pháp, tăng, thì sinh nơi đâu cũng được hưởng phúc báo to lớn vô cùng”.chữa

Kinh Thí dụ ghi: “Vào thời Phật Tì-bà-thi, thái tử Kì-đà cúng dường cho chùa một người hầu nam và một người hầu nữ lo việc quét dọn chùa. Nhờ công đức ấy, đời đời thái tử thường được cung điện bằng bảy báu, hai bên cửa thường tự nhiên có một người nam và một người nữ bưng bát báu đựng đầy bảy thứ báu, lấy dùng không bao giờ hết. Ban đêm thường có hơn năm trăm thiên binh cưỡi ngựa bảo vệ cung điện, không ai dám đến gần; lại có bảy thứ báu của Chuyển luân thánh vương: xe vàng, voi trắng, ngựa xanh, thần châu, ngọc nữ, quan giữ kho tàng, tướng chỉ huy quân đội”.

Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Ngày xưa, ở nước Xá-vệ có một trưởng giả xây một ngôi chùa tháp. Sau khi qua đời, ông ta sinh lên cõi trời Đao-lợi. Vợ ông ta ngày đêm thương nhớ chồng, nên luôn luôn buồn rầu, khổ sở. Để đỡ nhớ chồng, bà ấy thường xuyên đến quét dọn, sửa sang ngôi chùa tháp mà chồng đã xây. Bấy giờ, người chồng từ trên trời hạ xuống chỗ người vợ, thăm hỏi, an ủi:

– Bà nhớ tôi nên buồn rầu chăng?

Người vợ hỏi:

– Ngài là ai?

Người chồng liền đáp:

– Tôi chính là chồng của bà. Nhờ công đức xây chùa tháp nên tôi được sinh lên trời. Vì thấy bà nhớ tôi, thường đến quét dọn, sửa sang ngôi chùa tháp, nên tôi đến đây thăm hỏi.

Người vợ nói:

– Ông hãy đến gần đây.

Người chồng liền bảo:

– Thân thể con người hôi bẩn, nên tôi không thể đến gần được nữa. Nếu bà muốn làm vợ tôi trở lại, thì hãy siêng năng cúng dường Phật, tăng và quét dọn, sửa sang chùa tháp, đồng thời phát nguyện sinh lên cõi trời của tôi. Nếu sinh được lên đấy, tôi hẳn sẽ lại lấy bà làm vợ.

Người vợ làm theo lời chồng, tạo các công đức và phát nguyện sinh lên trời. Về sau, bà qua đời, được sinh lên trời, lại kết duyên vợ chồng với người chồng cũ. Hai vợ chồng lúc ấy đưa nhau đến chỗ Phật, được nghe Phật giảng pháp, cả hai cùng chứng được quả Tu-đà-hoàn, rồi cùng nhau trở về cõi trời”.

[25b] Luận Phân biệt công đức ghi: “Ngày xưa, trong thành Xá-vệ có một đôi vợ chồng không có con, rất siêng năng và kính tin tam bảo. Người vợ qua đời sớm, nhờ kính tin tam bảo nên được sinh lên trời Đao-lợi làm thiên nữ có dung mạo rất xinh đẹp, không vị trời nào sánh bằng. Thiên nữ ấy nghĩ: ‘Ta rất xinh đẹp, nơi này chẳng có ai đáng làm chồng ta’. Thiên nữ dùng thiên nhãn nhìn thấy người chồng cũ của mình bấy giờ đã xuất gia, già cả, tuy trí kém, nhưng dốc lòng tin, thường siêng năng quét dọn chùa tháp. Thấy vậy, biết ông ấy chắc chắn sẽ được sinh lên trời, thiên nữ liền hạ xuống, hào quang rực rỡ, đứng trước mặt ông ấy. Trông thấy thiên nữ, vị tì-kheo hỏi lý do. Thiên nữ đáp:

– Tôi là vợ ngày trước của ngài, nay là thiên nữ. Tôi thấy trên trời không có ai đáng làm chồng tôi, lại thấy ngài tinh tiến tu tập, siêng năng quét dọn chùa tháp, nên biết ngài sẽ sinh lên trời. Tôi mong nếu ngài được sinh lên trời sẽ ở cùng một nơi với tôi và lại làm chồng tôi. Vì thế, nay tôi đến để nói cho ngài biết. Nói xong, thiên nữ trở về trời. Từ sau khi thấy sự việc ấy, vị tì-kheo càng siêng năng quét dọn chùa tháp hơn, tích góp thêm nhiều công đức, đáng được sinh lên cõi trời Đâu-suất. Thiên nữ kia nhớ người chồng xưa, tìm đến nói:

– Phúc báo của ngài tăng thêm nhiều, nên đáng được sinh vào cõi trời Đâu-suất. Từ nay tôi không còn được làm vợ ngài nữa.

Nói xong, thiên nữ bỏ đi. Nghe nói thế, vị tì-kheo lại càng tinh tiến tu tập, chứng được quả A-la-hán, đầy đủ sáu thần thông và tám giải thoát”.

Kinh Bách duyên ghi: “Ngày xưa, lúc Phật còn tại thế, trong thành Ca-tỳ-la-vệ có một vị trưởng giả rất giàu, tiền của nhiều vô cùng. Vợ ông ta sinh một người con trai rất tuấn tú, ai thấy cũng quí mến. Khi trưởng thành, người con trai ấy được gặp Phật, xin xuất gia và chứng được quả A-la-hán. Bấy giờ, Phật bảo các tì-kheo:

– Trước đây chín mươi mốt kiếp, sau khi Phật Tì-bà-thi ra đời, rồi vào niết-bàn, vua Bàn-đầu-mạt-đế thu nhặt xá-lợi Phật, dựng tháp bằng bốn thứ báu để cúng dường. Về sau, tháp ấy bị hỏng một ít, một đứa bé vào chơi trong tháp, thấy chỗ tháp hỏng, liền vui vẻ kêu gọi mọi người cùng nhau sửa sang, lại phát nguyện, rồi bỏ đi. Nhờ công đức ấy, trong chín mươi mốt kiếp đứa bé không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, luôn được sinh vào cõi người và trời hưởng hạnh phúc, thường được người và trời kính trọng, xuất gia, đắc đạo.

Nghe Phật nói, mọi người đều vui vẻ vâng lời.

Tụng rằng:

Lưu thân tám vạn tháp,
Báu treo cao trăm trượng.
[25c] Phụng hoàng xen quạ linh,
Mâm vàng đỡ tay Phật,
Đẩu củng[15] nông kèo chạm
Mái tháp giăng lưới châu
Đất báu như cát vàng
Chuông gió thánh thót vang
Sinh động nghìn hình chạm
Rực rỡ muôn tượng vẽ
Thường ẩn hiện khói mây
Thần tiên chợt lai vãng
Sương sớm lưng chừng tháp
Phan bay chạm mây trời
Nghê[16] bay không dám thở
Côn[17] lượng há được nhìn
Dây vàng rải phúc địa
Quả báo trời đâu uổng
Nguyện nhờ thuyền từ giúp
Bờ kia đâu còn rộng!” .
[1] Toái thân 碎身: di cốt còn lại sau khi trà-tì. Như xá-lợi của Phật Thích-ca là toái thân xá-lợi, còn xá-lợi của Phật Đa Bảo trong tháp Đa Bảo là toàn thân xá-lợi.

[2] Luân đầu 輪頭: một loại cây giống như cây gậy gỗ.

[3] Tướng phụ 相 父: tức vị tể tướng của triều đại trước.

[4] Lộ bàn 露盤: kiến trúc hình luân bàn nhiều tầng trên bình đầu của tháp.

[5] Vô tận vật 無盡物 (Cg: vô tận tạng, vô tận tài): tự viện cho người vay tài vật do tín đồ dâng cúng, hoặc tài vật dư thừa, dùng tiền lời để làm chi phí sửa chữa, duy trì già-lam. Cũng có nghĩa là vốn lời xoay vần vô tận.

[6] Tội Việt tì-ni (Việt tì-ni tội 越毗尼罪): tội vượt bỏ, không tuân thủ giới luật Phật chế.

[7] A-bệ-bạt trí 阿鞞跋致: địa vị bất thoái chuyển.

[8] Ba tai họa (tam tai 三灾): trong bốn thời kì thành, trụ, hoại, không của thế giới, hữu tình xuất hiện trong một thời kì nhất định của kiếp trụ, đến thời kì cuối cùng của kiếp hoại thì thế gian hoàn toàn bị hủy diệt. Trong kiếp trụ và kiếp hoại lần lượt có ba thứ tai ách gọi là tam tai.

[9] Tứ hỉ 四喜: bốn niềm vui. Đó là niệm Phật ý hỉ, niệm pháp ý hỉ, niệm tăng ý hỉ và niệm giới ý hỉ.

[10] Tăng phường (tăng phòng 僧房): phòng xá của chúng tăng.

[11] Luận Thiện kiến (Thiện kiến luận 善見論): tên khác của Thiện kiến luật tì-bà-sa.

[12] Thổ đàn 土壇: đài bằng đất để tôn trí tượng Phật, bồ-tát, hình tam-muội-da và vật cúng dường trong pháp tu của Mật giáo.

[13] Kim cương giới 金剛界 (S: vajra-dhātu): trí đức nội chứng của Như Lai, thể rất vững chắc, không bị phiền não làm ô nhiễm phá hoại, cũng như kim cương vững chắc không bị vật khác làm hư hoại. Theo kinh Kim cương đảnh, Kim Cương giới được biểu thị bằng hình vẽ gọi là Mạn-đồ-la Kim Cương giới.

[14] Bốn thiên hạ (tứ thiên hạ 四天下): bốn châu lớn do Kim Luân thánh vương thống lĩnh. Đó là Đông Thắng Thân châu, Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Hóa châu và Bắc Câu-lô châu.

[15] Đẩu củng斗栱: cái trụ ngắn trên xà.

[16] Nghê 蜺: tên một loại ve sầu.

[17] Côn 鵾: một loài chim giống như con sếu.