Kính Tăng

Pháp Sư Thích Đạo Thế
Giác Chính dịch

I.3. Kính tăng

Gồm ba phần: Lời dẫn, Lợi ích, Tổn giảm.

I.3.1. Lời dẫn

[16b] Tăng bảo là những người giữ gìn nghiêm túc giới cấm, oai nghi khác người đời, phát tâm xuất gia, bỏ đời sống thế gian, học đạo pháp, không động lòng trước danh lợi vinh hoa, không chuyển ý trước thân thuộc, hoằng truyền Phật đạo để báo đáp bốn ân, tu dưỡng giới đức để cứu giúp ba cõi, vượt cao khỏi chốn trời và người, quí hơn vàng ngọc. Tăng bảo đem lại lợi ích không thể kể xiết.

Do đó, kinh nói: “Đối với vị tăng dù già hay trẻ, giữ giới hay phá giới, đều nên thật cung kính, không được khinh thường. Nếu trái lời dạy này thì bị tội nặng. Như Phật Thích-ca…, đúng thật là Phật bảo; giáo, lí, hạnh, quả do kim khẩu Ngài nói ra đúng thật là Pháp bảo; các sa-môn chứng quả đúng thật là Tăng bảo. Cho nên, người chiêm ngưỡng và lễ lạy tam bảo thì tiêu sạch muôn phiền não, khen ngợi và xưng danh tam bảo thì tan hết nghìn tai họa”. Riêng người phúc mỏng không gặp được chính pháp, song nhờ giáo pháp Phật để lại, may được hưởng phúc ấm của Như Lai, dùng sơn, chỉ xanh, đỏ… vẽ thêu hình Phật trên vàng, gỗ quí, đồng, lụa…, đó là Phật bảo. Những lời sâu xa ghi chép trên giấy, lụa, tre, vải … gọi là Pháp bảo. Người cạo râu tóc, mặc y nhuộm, ôm bình bát, gọi là Tăng bảo. Ba thể tướng ấy tuy giả, nhưng tiêu biểu cho hình ảnh chân thật. Do đó, tôn kính ba thể ấy thì mãi mãi thoát khỏi cảnh luân hồi; ngược lại, xem thường thì rước lấy khổ báo. Như tượng gỗ không phải mẹ ruột, nhưng lễ lạy thì phúc báo cũng hơn nghìn năm; phàm tăng không phải thánh tăng mà tôn kính thì ánh sáng cũng hơn vạn đời. Đó là phong tục lưu truyền từ lâu, khắp nơi đều theo. Công đức âm thầm cứu giúp chúng sinh siêu việt chẳng thể lường được. Nếu có lỗi lầm đối với bậc ấy thì mắc tội rất to. Người đã chấp nhận xuất gia, về lí phải khác thế tục”. Hơn nữa, kinh Lễ ghi: “Người mặc giáp thì không lễ lạy” là sai, đâu giống như người bỏ đời sống thế tục, thân khoác giáp nhẫn nhục mà quì lạy hàng cư sĩ, theo lí thì không thể chấp nhận được. Tam bảo đều tôn quí như nhau, cần phải kính trọng như nhau, không nên chỉ tuân theo Phật và pháp mà lìa bỏ tăng ni. Do đó, pháp không tự hoằng truyền, mà sự hoằng truyền là do người. Người có năng lực hoằng pháp thì nên tôn kính như Phật và pháp.

I.3.2. Lợi ích

Kinh Phạm võng ghi: “Phép tắc của người xuất gia là không lễ lạy quốc vương, cha mẹ, lục thân, cũng không thờ phụng quỉ thần”.

Kinh Niết-bàn ghi: “Người xuất gia không lễ lạy người tại gia”.

Luật Tứ phần ghi: “Phật dạy các tì-kheo theo thứ tự người trẻ lễ lạy người già, không nên lễ lạy tất cả người tại gia”.

Kinh Phật bản hạnh ghi: “Sau khi vua Thâu-đầu-đàn cùng quyến thuộc và các quan lần lượt lễ Phật, Đức Phật bảo:

– Bây giờ, đại vương nên lễ các tì-kheo Ưu-ba-li v.v…

[16c] Nghe lời Phật dạy, nhà vua đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cung kính lễ năm trăm tì-kheo, rồi lần lượt lễ các tì-kheo mới xuất gia”.

Kinh Tát-già-ni-kiền ghi: “Nếu chê bai pháp của thanh văn, hoặc bích-chi phật và pháp Đại thừa, người chê bai và hủy hoại ấy phạm tội căn bản”. (Nay chư tăng theo kinh Tiểu thừa và Đại thừa, không lễ lạy vua chúa và cha mẹ là đúng lời Phật dạy từ xưa. Nếu buộc chư tăng quì lạy người thế tục thì trái lời Phật dạy. Như thế là không tin lời Phật, cho nên phạm tội căn bản).

Luận Thuận chính lí ghi: “Các thiên thần không dám nhận lễ lạy của người thụ ngũ giới. Người đứng đầu đất nước cũng không muốn tì-kheo lễ lạy mình vì sợ hao tổn công đức và tuổi thọ”.

Kinh Niết-bàn ghi: “Đức Phật bảo Ca-diếp:

– Nếu có người kiến lập và hộ trì chính pháp như thế, nên theo thưa thỉnh người ấy giảng dạy và phải xả thân cúng dường người ấy giống như Ta nói về kinh Đại thừa ấy:

Người hiểu biết chính pháp,
Dù già hay còn trẻ,
Nên cúng dường vị ấy,
Cung kính và lễ lạy,
Giống như bà-la-môn,
Chuyên tâm thờ cúng lửa.
Người hiểu biết chính pháp,
Dù già hay còn trẻ,
Nên cúng dường vị ấy,
Cung kính và lễ lạy,
Cũng như các vị trời,
Phụng thờ trời Đế Thích.

Ca-diếp thưa:

– Nếu có vị trưởng lão tôn túc hộ trì giới cấm theo tì-kheo trẻ tuổi học hỏi những điều chưa biết, có nên kính lễ tì-kheo kia không? Nếu lễ kính thì không gọi là người trì giới.

Nếu có tì-kheo trẻ tuổi giữ gìn giới cấm theo học hỏi những điều chưa biết với các tì-kheo lớn tuổi phá giới thì có phải lễ lạy tì-kheo ấy không? Trong Phật pháp, người trẻ tuổi phải nên cung kính bậc trưởng lão tôn túc nhiều tuổi, vì vị ấy thụ giới cụ túc và thành tựu các uy nghi trước. Do đó, phải nên cung kính cúng dường các vị ấy.

Nếu người xuất gia theo học hỏi những điều chưa biết với người tại gia, có nên lễ lạy người tại gia không? Người xuất gia không nên lễ kính người tại gia”.

Kinh Trung a-hàm ghi: “Làm thế nào biết được người nào trội, người nào kém? Đó là tì-kheo, biết có hai hạng người: người có lòng tin và người không có lòng tin. Người có lòng tin là người trội hơn, người không có lòng tin không bằng được. Người có lòng tin lại có hai hạng: thường đến gặp tì-kheo và không thường đến gặp tì-kheo. Người thường đến gặp tì-kheo thì trội hơn, người ít đến gặp tì-kheo chẳng bằng được. Người thường đến gặp tì-kheo lại có hai hạng: người lễ kính tì-kheo và người không lễ kính tì-kheo. Người lễ kính tì-kheo thì trội hơn, người không lễ kính tì-kheo chẳng bằng được. Người lễ kính tì-kheo lại có hai hạng: người hỏi kinh và người không hỏi kinh. [17a] Người hỏi kinh thì trội hơn, người không hỏi kinh chẳng bằng được”.

Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Ngày xưa, có vị quốc vương đi tuần du, mỗi lần gặp sa-môn, liền vội xuống xe đỉnh lễ. Có một đạo nhân bảo:

– Đại vương hãy thôi đi! Không cần bước xuống xe!

Nhà vua nói:

– Ta bước lên đấy chứ, đâu có bước xuống. Sở dĩ ta nói bước lên, không phải là bước xuống là bởi nay lễ đạo nhân, sau khi qua đời, ta sẽ sinh lên trời”.

Luận Thiện kiến ghi: “Vua Thâu-đầu-đàn-na[16] lễ Phật xong, liền bạch:

– Đến nay, con đã ba lần lễ Đức Thế Tôn. Lần thứ nhất, lúc Phật mới đản sinh, A-di[17] xem tướng bảo: “Nếu là tại gia, đứa bé này sẽ làm Chuyển luân thánh vương. Nếu xuất gia học đạo, đứa bé này chắc chắn sẽ thành Phật”. Bấy giờ mặt đất chấn động, con thấy thần lực ấy, liền lạy Đức Thế Tôn. Lần thứ hai, con ra khỏi cung đi chơi, xem người cày ruộng. Khi ấy, bồ-tát ngồi ở cội cây diêm-phù, mặt trời đã xế, nhưng bóng cây vẫn dừng lại phía trên để che bồ-tát, không dời chuyển. Thấy thần lực ấy, con liền lạy Đức Thế Tôn. Lần thứ ba, nay con đón tiếp Thế Tôn đến nước con, Ngài đã bay lên không trung hiện mười tám thứ thần biến, như thần lực vô úy hàng phục ngoại đạo, thấy thế, con liền cúi lạy”.

Kinh Trung a-hàm cũng ghi: “Bấy giờ, Đức Phật bảo các tì-kheo:

– Vào thời quá khứ, mỗi lần đến ngồi trong vườn, Thích-đề-hoàn-nhân thường ra lệnh cho người đánh xe sửa soạn xe ngựa. Sửa soạn xong, người đánh xe tâu cho vua biết. Lúc ấy, trời Đế Thích liền bước xuống điện Thường Thắng, hướng về phía đông lễ Phật. Người đánh xe thấy thế, lòng rất kinh ngạc, dựng đứng chân lông, chiếc roi ngựa rơi xuống đất. Thấy vậy, Đế Thích liền nói kệ:

Sao ngươi lại hoảng sợ
Rơi roi ngựa xuống đất?
Người đánh xe dùng kệ đáp:
Thấy thiên vương Đế Thích,
Phu quân của Xá-chi[18],
Sở dĩ lòng sợ hãi,
Rơi roi ngựa xuống đất,
Vì thường thấy Đế Thích
Khắp các cõi lớn, nhỏ,
Bốn thiên vương hộ đời,
Và các trời Đao-lợi,
Thảy đều cung kính lễ,
Ngài Đế Thích thiên vương.
Còn bậc tôn quí nào,
Tôn quí hơn Đế Thích,
Nay ngài hướng phía đông,
Chắp tay cung kính lễ?
Đế Thích nói kệ đáp:
[17b]Đối với tất cả vua,
Lớn, bé trong thế gian,
Bốn thiên vương hộ thế,
Và các trời Đao-lợi,
Quả ta tôn quí nhất,
Tất cả tôn kính ta,
Nhưng thế gian có bậc,
Chứng quả Đẳng chính giác,
Hiệu là Mãn Đại Sư,
Nên ta dập đầu lễ.
Người đánh xe lại thưa:
Hẳn tối thắng trong đời,
Mới khiến trời Đế Thích,
Chắp tay về phía đông,
Cung kính dập đầu lễ,
Nay tôi cũng sẽ lễ,
Người mà Thiên vương lễ.

Phật bảo các tì-kheo:

– Thiên Đế Thích kia là vua cõi trời Tự Tại còn cung kính Phật. Tì-kheo các ông xuất gia học đạo cũng nên cung kính Phật như vậy. Thiên Đế Thích kia, chồng của Xá-chi, cung kính lễ pháp và tăng, cũng khen ngợi người lễ kính pháp và tăng. Các ông đã có lòng chính tín xuất gia học đạo, thì cũng nên kính lễ pháp và tăng, ngoài ra, còn phải khen ngợi người lễ kính pháp và tăng.

Bấy giờ, Đế Thích từ điện Thường Thắng bước xuống, chắp tay hướng về các phương, lễ một cách cung kính. Thấy trời Đế Thích bước xuống khỏi điện, đứng ở giữa sân, chắp tay cung kính hướng về các phương, người đánh xe sợ hãi, buông chiếc roi ngựa rơi xuống đất, nói kệ:

Tại sao Kiều-thi-ca,
Tôn trọng người không nhà?
Giảng nghĩa ấy cho tôi,
Tôi khao khát muốn nghe.

Thiên Đế Thích nói kệ đáp:

Ta cung kính người kia,
Bậc xuất gia không nhà,
Tự tại dạo các phương,
Đến bất cứ nơi đâu,
Mọi đất nước, thành thị,
Lòng đều chẳng vướng bận,
Không chứa vật mưu sinh,
Một đường định vô dục,
Đến đi chẳng cầu gì,
Chỉ vui thú vô vi,
Khi nói toàn lời thiện,
Lúc im, tâm vắng lặng,
Các trời, a-tu-la
Thường xuyên chống đối nhau,
Loài người tranh giành nhau,
Chống nhau cũng như thế.
[17c] Chỉ có người xuất gia,
Không màng việc tranh đấu,
Buông bỏ hết dao, gậy,
Chẳng hại các chúng sinh,
Lìa sắc đẹp, tiền của,
Không say, không phóng túng,
Xa rời mọi điều ác,
Nên ta phải kính lễ.

Người đánh xe lại nói kệ:

Người thiên vương tôn kính,
Chắc là quí trong đời,
Nên tôi từ hôm nay,
Sẽ lễ người xuất gia”.

Kinh A-dục vương ghi: “Ngày xưa, có lần trông thấy một sa-di bảy tuổi, vua A-thứ-già muốn đưa chú sa-di đến chỗ khuất để lễ, bèn bảo:

– Chú đừng nói với mọi người rằng ta lễ chú nhé!

Lúc ấy, trước mặt có một cái bình đựng nước, chú sa-di liền chui vào đó, rồi lại chui ra, bảo:

– Đại vương đừng nói với ai rằng có sa-di chui vào, chui ra từ bình dựng nước nhé!

Nhà vua liền nói:

– Ta sẽ nói cho mọi người biết. Đừng trốn nữa!”

Vì thế, các kinh đều ghi: “Sa-di tuy còn nhỏ nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Con vua tuy còn bé, nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Rồng con tuy còn bé, nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Sa-di tuy còn bé, nhưng có thể độ được mọi người. Con vua tuy còn bé, nhưng có thể giết được người. Rồng con tuy còn bé, nhưng có thể tạo mây, làm mưa, sấm, chớp. Đừng thấy họ bé mà xem thường!”.

Kinh Phó pháp tạng ghi: “Xưa kia, sau khi Phật vào niết-bàn được một trăm năm, có vua A-dục kính tin tam bảo, thường tổ chức đại hội Ban-già vu-sắt[19]. Đến ngày hội, nhà vua tắm rửa bằng nước thơm, mặc áo mới, lên lầu cao, đỉnh lễ bốn phương và thỉnh chư tăng. Có hai mươi vạn thánh tăng bay đến. Lòng tin sâu xa của vua thật khó lường. Gặp sa-môn, dù già hay trẻ, dù phàm hay thánh, nhà vua đều đón tiếp, thăm hỏi và cung kính lễ lạy. Bấy giờ, có một vị quan tên Dạ-xa mang tà kiến nặng, không có lòng kính tin. Thấy nhà vua lễ lạy chư tăng, ông ta nói: “Nhà vua thật không có trí tuệ, tự hạ thấp thân tôn quí đức độ, lễ lạy trẻ con”. Nghe lời ấy, nhà vua liền ra lệnh cho các quan cho người tìm đầu thú vật đã chết, mỗi vị dâng một đầu thú. Riêng Dạ-xa, vua sai tìm một đầu người. Sau khi mọi người tìm được đầu, vua lại ra lệnh họ mang ra chợ bán. Tất cả các đầu thú đều bán được. Nhưng cái đầu người Dạ-xa cầm, ai trông thấy cũng ghét bỏ, khinh chê, chẳng ai mua. Qua mấy ngày sau, cái đầu người ấy sắp thối. Mọi người trông thấy đều mắng chửi Dạ-xa và nói:

[18a] – Ông hiện nay không phải là hạng người chiên-đà-la, hoặc dạ-xoa, hay la-sát, tại sao ông lại tìm đầu người để bán?

Sau khi bị mắng chửi, Dạ-xa vào cung tâu:

– Đi bán đầu người, thần bị nhiều người chửi mắng! Không có ai muốn nhìn đầu người, huống gì mua.

Nhà vua bảo:

– Nếu không có ai mua, ông hãy cho không đi!

Vâng lời vua, Dạ-xa lại đem đầu người ra chợ, bảo mọi người:

– Người nào không có tiền để mua sắm thì tôi cho không cái đầu này.

Người đi chợ nghe thấy thế, lại càng mắng chửi Dạ-xa thậm tệ hơn, chẳng ai chịu lấy cái đầu. Dạ-xa hổ thẹn, trở về cung vua, chắp tay tâu:

– Cái đầu này thật khó bán. Thần cho không cũng không ai lấy, ngược lại, còn bị mắng chửi!

Nhà vua hỏi Dạ-xa:

– Vật gì quí nhất?

Dạ-xa thưa:

– Người quí nhất.

Nhà vua hỏi:

– Nếu quí, tại sao bán không được?

Dạ-xa đáp:

– Người sống tuy quí, nhưng chết rồi thì rẻ mạt.

Nhà vua lại hỏi:

– Nếu ta chết, đầu ta cũng rẻ mạt như thế chăng?

Dạ-xa hoảng sợ, không dám trả lời.

Nhà vua liền bảo:

– Ta cho phép, ngươi đừng sợ, phải trả lời thành thật!

Sợ hãi, không dám ngửng đầu lên, dạ-xa đáp:

– Nếu đại vương chết thì đầu ngài cũng rẻ mạt như cái đầu này.

Nhà vua hỏi tiếp:

– Nếu ta chết thì đầu ta cũng giống như cái đầu hèn mạt này. Thế thì, tại sao ngươi ngạc nhiên về việc ta lễ kính chư tăng? Nếu ngươi đúng là bạn tốt của ta, phải nên khuyên ta đem cái đầu mong manh đổi lấy cái đầu bền chắc. Tại sao nay ngươi ngăn cản ta lễ lạy chư tăng?

Nghe vua nói thế, Dạ-xa mới hối hận, tự trách mình, bỏ tà kiến, theo chính kiến, qui kính tam bảo.

Vì nhân duyên ấy, chúng sinh nào được nghe hoặc thấy tam bảo, phải nên chí tâm cung kính lễ bái”.

I.3.3. Tổn giảm

Kinh Tượng pháp quyết nghi ghi: “Tất cả mọi người tại gia, không kể sang hay hèn, đều không được đánh đập người phục dịch và súc vật của tam bảo, không được nhận lễ lạy của người phục dịch ấy. Nếu không, sẽ bị tội”.

Kinh Tát-già-ni-kiền ghi: “Nếu người nào phá chùa, tháp Phật, hoặc lấy vật của tam bảo, hoặc bảo người khác làm các việc ấy, hoặc vui mừng khi thấy người khác làm, hoặc đánh đập, trói, nhốt, bắt hoàn tục hoặc giết sa-môn mặc y nhuộm trì giới hay phá giới, thì phạm trọng tội căn bản, chắc chắn sẽ chịu khổ sở trong địa ngục vô gián. Nếu đất nước nào có vị vua làm những việc bất thiện ấy, các tiên nhân và thánh nhân sẽ bỏ đi khỏi nước ấy, các thần có thế lực sẽ không bảo vệ nước ấy, các quan tranh giành, khắp nơi binh biến, thiên tai xảy ra, gió mưa trái thời, nhân dân đói kém, giặc cướp tung hoành, bệnh dịch tràn lan, người chết vô số. Vì không biết đó là do tự mình gây ra, nên vua nước ấy thường oán trách chư thiên”.

[18b] Kinh Nhân vương ghi: “Quốc vương và các đại thần tự cậy mình cao quí, nên chế định ra luật lệ để hủy diệt pháp của Ta như ngăn cấm không cho xuất gia, không cho tạo tượng Phật, đặt chức thống quan để kiểm soát tăng đoàn, lập sổ ghi chép lý lịch tăng sĩ, bắt tì-kheo đứng dưới đất trong khi người tại gia ngồi trên cao. Quốc vương và thái tử ngang ngược lập ra các biện pháp ngăn cấm, không theo lời Phật, phá hoại tăng đoàn, các thống quan kiểm soát tăng đoàn, dùng sổ sách quản lý tăng tịch, khống chế, khiến chư tăng chịu nhiều khó khăn, Phật pháp không tồn tại được lâu”.

Kinh Đại tập ghi: “Đức Phật nói:

– Tất cả chúng sinh đời này và đời vị lai phải nên tin sâu Phật, pháp và chư tăng. Những chúng sinh đó thường được hưởng quả báo tốt đẹp trong cõi trời và người, sẽ sớm được vào thành vô úy. Những chúng sinh làm các việc như thế, cho đến cúng dường một người xuất gia vì Ta hoặc theo Ta cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, song không thụ giới, cũng được công đức…, cho đến được vào thành vô úy. Vì nhân duyên ấy, Ta nói: ‘Nếu có chúng sinh nào vì Ta xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, mà không giữ giới cấm, những người đó đều đã được ấn chứng bằng ấn niết-bàn. Nếu có người dùng các cách sai trái để quấy rối, mắng chửi, chê bai, hoặc dùng tay, dao, gậy đánh, trói, chặt, cắt người xuất gia không giữ giới, hoặc đoạt y, bát và các dụng cụ sinh nhai của họ, thì đó là kẻ hủy hoại pháp thân và báo thân của chư Phật ba đời, là kẻ chọc vào mắt của tất cả trời, người, muốn phá hoại chính pháp của chư Phật và làm hủy diệt hạt giống tam bảo, khiến trời và người không còn được hưởng lợi ích, giúp ba đường ác lớn mạnh khắp nơi. Do đó, kẻ ấy sẽ đọa địa ngục’.

Bấy giờ, vị chúa thế giới Ta-bà là Đại Phạm Thiên vương thưa Phật:

– Nếu có người theo Phật cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa mà không thụ giới cấm hoặc thụ giới rồi vi phạm, bị vua dòng Sát-đế-lợi quấy rối, mắng chửi, đánh đập, bắt trói, thì vị vua ấy bị tội thế nào?

Đức Phật bảo:

– Này, Đại Phạm vương! Nay Ta sẽ nói sơ qua cho ông nghe. Nếu có người làm cho thân vạn ức Phật chảy máu, người ấy bị tội có nhiều không?

Đại Phạm vương đáp:

[18c] – Nếu chỉ làm thân một Đức Phật chảy máu thì cũng mắc vô lượng tội vô gián, không thể tính được, sẽ đọa đại địa ngục A-tì, huống gì kẻ làm thân vạn ức Đức Phật chảy máu. Trừ Đức Thế Tôn ra, không ai nói hết được quả báo nghiệp tội của kẻ kia.

Đức Phật dạy:

– Đại Phạm vương! Nếu có kẻ quấy rối, mắng chửi, đánh, trói người đã vì Ta mà cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, không thụ giới cấm hoặc thụ giới rồi vi phạm, kẻ ấy mắc tội còn nhiều hơn kẻ (làm thân Phật chảy máu) kia. Vì sao? Vì người xuất gia ấy còn có thể chỉ dạy con đường niết-bàn cho trời và người, người ấy đã ở trong hàng tam bảo nên lòng kính tin sâu chắc hơn tất cả chín mươi lăm phái ngoại đạo, người ấy chắc hẳn vào niết-bàn nhanh hơn tất cả mọi người tại gia, trừ người tại gia chứng được pháp nhẫn nhục. Vì thế, trời và người phải nên cúng dường người ấy, huống gì người thường giữ gìn giới cấm, ba nghiệp phù hợp chính pháp. Tất cả quốc vương, các quan và đoán sự tăng[20] nếu thấy người xuất gia theo giáo pháp của Ta phạm tội nặng như sát sinh, trộm cắp, làm hoen ố phạm hạnh, nói dối, hoặc các việc bất thiện khác, hãy trục xuất người ấy khỏi đất nước, không cho làm việc chung với tăng chúng trong chùa, nhưng không được đánh đập, chửi mắng, kết tội. Nếu ai cố ý làm trái, trách phạt người xuất gia ấy thì người này đã lạc mất đường giải thoát, chịu làm hạng thấp kém, xa lìa mọi đường thiện trời và người, chắc chắn sẽ vào địa ngục A-tì, huống gì kẻ đánh đập người xuất gia theo Phật và giữ gìn đầy đủ giới cấm”.

Kinh Thập luân ghi: “Đức Phật bảo:

– Này thiện nam! Có bốn hạng tăng. Đó là: Đệ nhất nghĩa tăng, Thanh tịnh tăng, Á dương tăng và Vô tàm quí tăng.

Đệ nhất nghĩa tăng là gì? Đó là bảy bậc: Phật, bồ-tát, bích-chi phật và bốn quả sa-môn.

Thế nào là Thanh tịnh tăng? Đó là những vị tăng giữ gìn đầy đủ giới cấm.

Thế nào là Á dương tăng? Đó là tăng không biết các việc: phạm hay không phạm, tội nặng hay tội nhẹ, lỗi nhẹ có thể sám hối. Đó hạng tăng ngu dốt, không có trí tuệ, không gần gũi thiện tri thức, không thường xuyên thưa hỏi nghĩa sâu xa. Dù thiện hay bất thiện, những tướng như thế đều gọi là á dương tăng.

Thế nào là Vô tàm quí tăng? Đó là những người vì mưu sinh mà vào Phật pháp, hủy hoại pháp, phá hòa hợp tăng, không sợ quả báo đời sau, buông lung lục tình, tham đắm ngũ dục”.

Bốn hạng tăng này, người tại gia đều phải cung kính.

[19a] Kinh Đại bi ghi: “Đức Phật bảo A-nan:

– Trong pháp của Ta, dẫu cho người tính là sa-môn, đắp ca-sa mà làm hoen ố hạnh sa-môn, tự xưng là sa-môn, thì trong kiếp Hiền, đầu tiên là Di-lặc Như Lai, cuối cùng là Lô-già Như Lai, một nghìn vị Phật như thế vào cõi niết-bàn vô dư rồi, những sa-môn kia lần lượt sẽ được vào niết-bàn không sót một ai. Vì sao? Vì tất cả sa-môn như vậy, ngay cả người xưng tụng danh hiệu Phật một lần, hoặc một lần khởi lòng tin, mọi công đức ấy đều không uổng phí.

A-nan! Ta dùng Phật trí suy lường biết được hết pháp giới. Tất cả nghiệp thiện đều được quả báo thiện, nghiệp ác đều chịu quả báo ác. Những chúng sinh có tâm thanh tịnh, nếu xưng niệm: ‘Nam-mô Phật’, nhờ thiện căn này, họ chắc chắn sẽ được gần niết-bàn, huống gì là gặp Phật, gần gũi phụng sự và cúng dường”.

Kinh Thập luân ghi: “Đức Phật dạy:

– Nếu các tì-kheo xuất gia theo Phật pháp, tất cả trời, người, a-tu-la đều nên cúng dường. Nếu vị ấy giữ gìn giới pháp thì không nên trách phạt, trói, nhốt, hoặc chặt tay chân, hoặc giết chết. Vì những việc ấy đều không đúng pháp. Nếu có tì-kheo phá giới, không có Phạm hạnh mà nói mình giữ Phạm hạnh, thì giống như cái nhọt mủ vỡ, người ấy đã lạc mất thánh đạo, quả chứng đã bị phiền não hủy hoại. Nhưng họ vẫn còn có khả năng chỉ bảo cho tất cả trời, rồng, người và phi nhân v.v… biết kho báu chính pháp. Vì thế, người theo Ta xuất gia, dù giữ giới hoặc phá giới, Ta đều không chấp nhận các vua, hoặc tể tướng, đại thần trách phạt, trói, giam, đánh đập, chặt tay chân, giết chết, huống gì tì-kheo phá giới vì phạm các lỗi nhỏ về oai nghi. Dẫu người ấy chết rồi, giới ấy vẫn còn sức mạnh, cũng như ngưu hoàng[21] trong thân trâu, tuy trâu chết rồi, mà người ta vẫn lấy dùng, hoặc như xạ hương vẫn còn có ích sau khi con hươu xạ đã chết. Tì-kheo phá giới còn có khả năng đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tì-kheo ác hạnh tuy phạm giới cấm, nhưng sức mạnh của giới còn làm được các lợi ích cho vô lượng trời và người, giống như hương đốt rồi thì tàn rụi, nhưng mùi thơm của nó đã xông ướp vào người khác khiến họ trở nên thơm. Tì-kheo phá giới cũng như vậy, tự thân đọa đường ác, nhưng có thể làm cho chúng sinh tăng trưởng căn lành.

Vì lý do ấy, tất cả người tại gia không nên xúc phạm, khinh rẻ tì-kheo phá giới, mà nên bảo vệ, tôn trọng và cúng dường vị ấy, không cho phép ai phạt trách, giam, trói, hoặc giết chết vị ấy”.

Bấy giờ, Đức Phật nói kệ:

Hoa chiêm-bặc tuy héo,
Vẫn quí hơn hoa khác.
Các tì-kheo phá giới,
Còn tốt hơn ngoại đạo.

[19b] Trong kinh Đại tập, Đức Phật nói kệ:

Cạo đầu, mặc ca-sa,
Giữ giới và phá giới,
Trời, người nên cúng dường,
Thường giúp không thiếu thốn,
Cúng dường người như vậy,
Chính là cúng dường Ta.
Nếu vì cung kính pháp,
Nên cạo đầu qui y,
Thân đắp y ca-sa,
Ấy chính là con Ta,
Giả sử phá giới cấm,
Vẫn trụ địa Bất thoái.
Nếu ai đánh người ấy,
Tức là đánh đập Ta,
Nếu ai chửi người ấy,
Tức là chửi mắng Ta.
Tâm người kia muốn hủy,
Ngọn đèn lớn chính pháp.
Đánh nhau giành của cải,
Vua chúa cùng nổi giận.

Kinh Thập luân ghi: “Đời xưa, có vị vua tên Phúc Đức. Một hôm, có một tì-kheo phạm tội bị bắt trói, nhưng nhà vua không muốn giết, bèn sai đưa người ấy đến chỗ một con voi điên. Nó dùng vòi túm hai chân người ấy, định ném xuống đất, nhưng nhìn thấy người ấy mặc áo hoại sắc, nó liền nhẹ nhàng đặt người ấy xuống đất, không dám làm tổn thương. Nó ngồi xuống dùng mũi ngửi chân người ấy và tỏ lòng thương mến.

Này thiện nam! Voi là loài vật, nhưng thấy người mặc áo hoại sắc, nó còn không nảy sinh tâm độc ác làm hại. Đến đời vị lai, có vua Chiên-đà-la thấy trong pháp của Ta có người xuất gia có thể nhận lĩnh trách nhiệm pháp khí, song đã không trở thành bậc pháp khí. Do đó, nhà vua hành hạ hoặc giết người ấy. Sau khi qua đời, ông vua ấy chắc chắn bị đọa địa ngục A-tì”.

Hãy nghe bài tụng:

Ngựa hay nhờ roi thúc,
Hoa cậy gió đưa hương,
Khó gặp lý cao tột,
Không người, loài nào thông?
Thành tâm cầu viên mãn,
Thấu suốt chỗ vi diệu,
Nắm trọn hết ba cõi,

Quyền quí như ảo mộng,
Của tiền tựa bụi mù,
Mãi lìa xa cõi tục,
Thong dong khỏi lụy phiền.
———————————————-

[16] Vua Thâu-đầu-đàn-na (Thâu-đầu-đàn-na vương 輸頭檀那王; S: Śuddhodana): vua Tịnh-phạn, cha của thái tử Tất-đạt-đa.
 
[17] A-di 阿夷 (S: ārya): tức tiên A-tư-đà.
 
[18] Xá-chi 舍脂: đệ nhất thiên hậu của trời Đế Thích, con gái của a-tu-la.
 
[19] Hội Ban-già vu-sắt (Ban-già vu-sắt hội 般遮于瑟會; S: pañca-vārṣika-maha): đại hội Vô-già. Đó là trai hội cúng dường tất cả mọi người, do vua A-dục tổ chức năm năm một lần.
 
[20] Đoán sự tăng 斷事僧: vị tì-kheo thông hiểu giới luật, chuyên xử lý các việc vi phạm giới luật của tăng, ni trong tăng đoàn. Chức này tương đương chức giám luật ngày nay.
 
[21] Ngưu hoàng 牛黃: sạn trong mật của trâu, bò được dùng làm một vị thuốc.