(Phần Cuối)

8. NGHĨA TÁM THỨC

Chia làm mười môn:

  1. Giải thích tên gọi
  2. Nói về tướng
  3. Căn-trần có hay không
  4. Đại-tiểu có hay không
  5. Chân vọng nương giữ

. Chân vọng huân tập

  1. Mê ngộ – tu xả
  2. Phạm vi của mê ngộ

. Phạm vi của tu xả

10. Đối trị tà chấp

1. Giải thích tên gọi:

Nghĩa của tám thức xuất xứ từ kinh Lăng-già. Trong kinh ấy, ngài Đại Tuệ bạch Phật:

  • Đức Thế Tôn có lập tám thức hay không?

Phật đáp: Có lập.

Thức là tên khác của thần tri. Theo nghĩa phân biệt thì có vô lượng thức. Nay y cứ một môn để nói về tám loại, tám loại là:

  • Nhãn thức
  • Nhĩ thức
  • Tỷ thức
  • Thiệt thức
  • Thân thức
  • Ý thức
  • Thức A-đà-na
  • Thức A-lại-da

Sáu thức trước theo căn nhận tên.

Hai loại sau theo thể mà gọi tên.

  • Căn là mắt, tai, mũi, thân, ý. Từ đó chia ra các thức riêng nên có sáu thức. Thể gồm cả chân ngụy nên lại chia hai. Trong sáu loại trước, đối với sắc gọi là Nhãn, cho đến loại thứ sáu, đối với pháp gọi là ý. Nương vào các căn này sinh tâm, có thể có phân biệt rõ ràng gọi là nhãn thức, cho đến ý thức.
  • A-đà-na: Hán dịch là Vô giải. Thể là tâm vô si ám. Thêm nghĩa dịch nên có tám tên gọi khác nhau:
  1. Vô minh thức, thể là căn bản vô minh địa.
  2. Nghiệp thức, nương tâm vô minh bất giác vọng niệm, bỗng nhiên (vọng) động.
  3. Chuyển thức, nương nghiệp thức trước, tướng tâm thô dần, chuyển ra khởi tướng bên ngoài phân biệt chấp trước.
  4. Hiện thức: vọng cảnh sinh khởi, ứng hiện với tự tâm. Như trong gương hiện hành ảnh.
  5. Trí thức: Đối với danh hiện ra từ hiện thức trước, phân biệt pháp nhiễm, tịnh; trái thuận. Đây là phân biệt “chân vọng” gọi là trí; chẳng phải nói về “giải thoát” là trí.

. Tương tục thức: Vọng cảnh lôi kéo tâm, tâm theo cảnh giới, bám víu không dứt, lại hay gìn giữ nghiệp quả thiện ác chẳng dứt.

  1. Vọng thức: Cả sáu loại trước đều chẳng chân thật.
  2. Chấp thức: Chấp thủ ngã; lại chấp tất cả tướng luống dối.

– A-lại-da: Hán dịch là Vô một (không mất): Tuy ở trong sinh tử mà không mất đi. Tùy nghĩa dịch thêm có tám tên khác nhau:

  1. Tàng thức: Như Lai Tạng là thức này. Cho nên kinh nói: Như Lai Tạng gọi là Tàng thức. Vì thức này chứa đựng pháp giới Phật pháp nhiều như số cát sông Hằng nên gọi là Tàng. Lại bị nghĩa “Không” che đậy cũng gọi la Tàng.
  2. Thánh thức: Sinh ra chỗ dụng của bậc Thánh.
  3. Đệ nhất nghĩa thức: Vì thù thắng, nên kinh Lăng-già gọi là Đệ nhất nghĩa tâm.
  4. Tịnh thức: Cũng gọi là vô cấu thức, vì thể không nhiễm; nên kinh nói tự tánh tịnh tâm.
  5. Chân thức: Thể chẳng phải vọng.

. Chân như thức: Luận tự giải thích rằng thể tánh của tâm không bị phá nên gọi là Chân; không có lập nên nói là Như.

  1. Gia thức: Cũng gọi là Trạch thức, là chỗ sở y của pháp hư vọng.
  1. Bản thức: Làm căn bản cho tâm hư vọng. Tên khác như thế.

Hỏi: Sáu thức trước đã biết rõ, được gọi là Thức. Vì sao hai loại sau gọi là Thức?

Đáp: Có hai nghĩa:

Hai loại sau tuy không có dụng liễu mà là thể rõ ràng nên gọi là Thức.

Tám thức đều có nghĩa liễu biệt nên gọi là Thức.

Liễu biệt thế nào? Có ba loại:

Sự tướng liễu biệt là: Sáu thức trước.

Vọng tướng liễu biệt là: Thức thức bảy.

Tự thể chân thật liễu biệt: Thức thức tám.

Liễu biệt đã chung nên tám loại đều gọi là Thức. Danh nghĩa như thế.

2. Nói về tướng:

Thể tướng này có rộng, lược, khai, hợp không nhất định.

  • Có chỗ nói là một: Như sắc, tâm, phi sắc phi tâm. Trong ba nhóm pháp, tất cả Thức gọi chung là Tâm.
  • Có chỗ chia làm hai: Hai pháp này có ba môn:
  1. Chung, riêng.
  2. Chân, vọng.
  3. Thể, tướng.

1. Chung riêng: Chia ra hai môn:

a. Sáu sự thức trước là riêng. Thức thức bảy và tám là chung.

Sáu thức trước, mỗi thức đều theo sự chấp cảnh khác nhau. Khoảng trước và sau khởi không liên tục nên gọi là riêng. Thức thức bảy và tám thường có, nên gọi là chung.

Hỏi: Vì sao sáu thức trước khởi không liên tục?

Đáp: vì thể của tâm,cảnh của sáu thức trước riêng biệt nhau, nhưng khó biết rõ, niệm khởi mới biết. Do niệm khởi khác nhau nên sáu thức khởi cũng khác nhau, không khởi cùng lúc được. Lại nữa, sáu thức trước nhờ bốn duyên: Nhân duyên, thứ đệ, duyên duyên, tăng thượng sinh ra. Nơi sáu căn nương là duyên tăng thượng; sáu trần duyên là duyên duyên; tâm pháp sinh trước mở đường cho tâm pháp sinh sau gọi là duyên thứ đệ; Các pháp tự phần, tương ưng, cộng hữu, v.v… là nhân duyên. Không có một lúc đầy đủ sáu loại. Nghĩa duyên của thứ đệ là sáu thức không được sinh một lượt.

Hỏi: Nếu nói thứ lớp duyên riêng nên khiến cho sáu thức sinh trước, sau. Tỳ-đàm nói rằng: Tâm vô ký có mười hai tâm sở. Mười số chung cho đại địa và giác, quán. Lúc tâm thiện khởi, có hai mươi hai tâm sở: Mười hai tâm sở giống như trên, cộng thêm mười thiện địa.

Khi theo tâm vô ký thì có mười hai số đồng, trước có đồng loại làm duyên thức đệ; khiến cho chóng khởi. Mười thiện đại địa, trước không có đồng số làm duyên thứ đệ, làm sao cùng sinh được? Theo phẩm Bất thiện để vặn hỏi thì cũng thế! Do đâu mà năm phiền não địa, thùy miên, vô tàm, vô quí, bất cứ một sử nào, trong mười sử cùng sinh?

Đáp: pháp Tâm, tâm sở sinh trước, có tướng chung làm duyên, mở đường cho pháp sinh sau, chẳng phải là tướng riêng đối nhau nên các pháp tâm, tâm sở pháp sinh sau hoặc nhiều, hoặc ít đều cùng sinh.

Hỏi: Tâm pháp chẳng phải tướng riêng đối nhau, đều mượn duyên trước mà sau nhiều tâm pháp cùng sinh một lúc. Vì sao Tâm của sáu thức không như thế? Tại sao không mượn một thức trước làm duyên thứ đệ để cho nhiều thức sau cùng sinh một lúc.

Đáp: Không giống: pháp tâmvà tâm sở xưa nay giúp nhau, cùng tạo một duyên, cùng làm một việc nên được cùng sinh. Còn so sánh sáu thức với nhau, do chấp cảnh khác nhau, nên thành tựu có khác, vì thế không cùng sinh. Như tưởng, thọ, v.v… mỗi số pháp không cùng khởi được. Sáu thức tâm vương đâu cho là cùng khởi được!

Hỏi: Kinh Lăng-già nói rằng: “Sáu trần cùng hiện một lúc, sáu thức cùng dụng”, vì sao lại khởi không liên tục?

Đáp: Kinh ấy nói là sáu thức tập dụng (dụng tập hợp) trong vọng thức, không thuộc sự thức. Sự thức thì không cùng lúc. Phần nhiều kinh luận đều nói giống nhau.

Hỏi: Vì sao sáu thức trong vọng liền khởi một lúc, mà sự thức lại không như thế?

Đáp: Cảnh trong vọng theo tâm mà hiện, ngoài tâm không có pháp. Vì tâm hiện nên cùng sinh một lúc. Trong tự thức, tâm và cảnh khác thể, thể khác nên khó rõ. Vì thế nên thức không cùng sinh. Sáu thức trong vọng cùng đã dụng như vậy, sáu thức trong chân cùng dụng cũng như thế.

Hỏi: Trong sự chấp tánh. Vô minh trước sau thường có thông khắp sáu thức, vì sao không gọi là Thông?

Đáp: Trong sự có pháp riêng, mỗi pháp lập tánh cố định, không cho là một, nên không gọi là chung.

Hỏi: Trong hai loại thức chân và vọng, sáu thức khởi, nương vào

căn không, nhận cảnh khác nhau, do nghĩa gì mà không nói là riêng?

Đáp: Tướng sáu thức khác nhau tương tợ, suy về thể thì chỉ do một tâm làm ra; ngoài tâm không có pháp riêng. Nhiếp dụng về thể, nên nói là Chung.

b. Sự vọng và chân:

Sáu thức trong ba lớp thức đều gọi là riêng. Còn nghĩa chung có trong ba lớp thức đều gọi là Chung.

  1. Chung trong sự: Chấp tánh vô minh.
  2. Chung trong vọng: Vọng chấp ngã tướng và vô minh địa. Nghĩa Như sẽ giải thích ở sau.
  3. Chung trong chân: thể của Tâm chân như, cũng sẽ giải thích ở sau.

Chung và riêng như thế.

2. Chân – vọng: Khai – hợp thành hai:

Sáu thức trước và thức thứ bảy đều gọi là Vọng thức. Thức thứ tám là chân.

  1. Sáu thức trước trong vọng, vì mê pháp nhân duyên hư giả mà vọng chấp tánh cố định nên gọi là Vọng.
  2. Vọng thức thứ bảy, ngoài tâm vốn không có pháp, vọng chấp có tướng nên gọi là Vọng.
  3. Chân thức thứ tám, thể như một vị duy nhất, khéo ra khỏi tình vọng, nên nói là Chân. Lại nữa, tùy duyên các thứ, nên thể thay đổi thể không hoại mất nên gọi là Chân. Như một vị thuốc sinh ra vị khác mà thể chẳng khác. Lại do hằng sa chân pháp hợp thành, chiếu soi vào tự thể của chân pháp nhiều như số cát sông Hằng nên gọi là Chân.

    Chân vọng như thế.

    3. Thể – tướng: Chia ra làm hai:

Như luận Khởi Tín nói: 1) Môn tâm chân như là thể tánh của tâm. 2) Môn Tâm sinh diệt là tướng của tâm.

Theo chân để nói chân thì chân thể thường vắng lặng, bình đẳng một vị, gọi là tâm chân như.

Lại như Luận giải thích: Ở trong tâm này, không có pháp nào bị hoại nên gọi là Chân; không có pháp nào tồn tại được nên nói là Như.

Theo vọng để nhiếp chân thì chân hợp với vọng, duyên khởi hết gọi là tâm sinh diệt.

a. Trong tâm chân như có hai nghĩa:

1) Như thật không:

Luận tự giải thích rằng: Từ xưa đến nay chẳng tương ưng với tất cả

pháp nhiễm, lìa tướng khác nhau giữa tất cả pháp. Nghĩa là chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải phi hữu tướng, chẳng phải phi vô tướng, chẳng phải cả hai tướng hữu vô chung; chẳng phải tướng nhất cũng chẳng phải tướng dị; chẳng phải chẳng một tướng một chẳng phải không có tướng khác; chẳng phải cả tướng một và tướng khác chung; cũng chẳng phải tự tướng, cũng chẳng phải tha tướng; chẳng phải chẳng tự tướng, chẳng phải chẳng tha tướng; chẳng phải vừa chung tự tướng vừa tha tướng. Như tất cả vọng tâm phân biệt đều không tương ưng nên gọi là KHÔNG.

Nói “chẳng phải hữu tướng” xuất xứ từ câu “có”.

Nói “chẳng phải vô tướng” xuất xứ từ câu “chẳng có”.

Nói “chẳng phải chẳng có” chẳng phải chẳng không bắt nguồn từ câu “có-không”.

Nói “chẳng phải cả hai tướng có không” xuất xứ từ câu “vừa có vừa không”. Các câu khác cũng như thế.

2) Như thật bất không:

Luận (Khởi Tín) tự giải thích: Là lìa vọng tưởng, thường hằng bất biến, đủ các pháp thanh tịnh nhiều hơn số cát sông Hằng. Tuy chẳng phải không, mà không có tướng để nắm bắt, lìa cảnh giới niệm, chỉ chứng mới tương ưng chân như như thế.

b. Trong tâm sinh diệt cũng có hai môn: 1- Bản giác: Chân trong sinh diệt.

2- Bất giác: Vọng trong sinh diệt.

1) Bản giác: Luận tự giải thích rằng:

Vì đối với tâm vô minh bất giác nên nói là Giác, vì đối với tâm thỉ giác mé sau nên nói là Bản giác.

Tướng trạng thế nào?

Luận tự giải thích: Tâm thể lìa niệm bằng cõi hư không, không đâu chẳng khắp, tức là thể của Pháp thân Như Lai. Nên gọi là Bản giác.

Hỏi: Lúc là phàm chưa có trí hiểu, do đâu mà nói là Giác? Từ xưa đến nay có nghĩa đại trí tuệ sáng suốt nên chiếu soi khắp tất cả pháp giới. Vì nghĩa ấy nên gọi là Giác.

Nghĩa này thế nào?

Chân tâm là tất cả đức tánh lìa nhiễm, trí tuệ, Tam-muội, thần thông, giải thoát, v.v…, tức là tất cả đức. Nên luận nói rằng: Từ xưa đến nay có đủ tất cả pháp tánh công đức. Nói tánh trí tuệ trong tâm kia là nghĩa trí tuệ sáng suốt.

Lại trong tâm này, đầy đủ tất cả Phật pháp hằng sa, như trong vọng tâm có đầy đủ tất cả các pháp hư vọng. Tâm đối pháp ấy chiếu sáng đồng thể. Bởi không chướng ngại gọi là nghĩa chiếu tất cả cảnh giới. Vì có nghĩa này nên nói là Giác. Trong kinh Hoa Nghiêm cũng đồng với thuyết này. Nên kinh ấy nói: Trong tâm vi trần của tất cả chúng sinh, có trí Như Lai, trí vô sư, trí vô ngại, trí quảng đại, v.v…

2) Bất giác: Là vô minh địa mê lập chân như, sinh ra vô lượng pháp luống dối, nên nói Bất giác. Tâm bất giác này duyên tập tất cả hữu vi sinh tử gọi là tâm sinh diệt.

Thể tướng như thế.

Hoặc chia làm ba: Có ba môn:

  1. Lìa vọng và chân trong sự chia ra làm ba.
  2. Chân, vọng lìa hợp nói là ba.
  3. Chân, vọng hòa hợp gốc ngọn thành ba.

1. Lìa vọng và chân chia làm ba: Trong đây có sáu môn: a- Phân biệt về tướng. b- Phân biệt về tên gọi. c- Phân biệt tùy nghĩa. d- Nói về nghĩa tương khởi, tương nhiếp. e- Nói về nghĩa có tu và không tu. f- Nói về nghĩa hữu tận và vô tận. a. Phân định về tướng:

Tất cả các pháp: Căn, trần, và thức v.v…

  1. Bỏ gốc nói ngọn đều là có thật. Vì bỏ gốc nên không được nói là vọng, không được nói là chân. Trong phần này, tâm rõ biết gọi là sự thức.
  2. Nhiếp ngọn về gốc: hội sự vào hư vọng thì tất cả các pháp chỉ là vọng tưởng, tự tâm hiện ra; như việc trong mộng đều do tâm ngủ mê mà hiện. Trong phần này, tâm năng khởi và vọng phân biệt gọi là vọng thức, cho nên trong kinh nói: Tất cả pháp đều là vọng tưởng.

Lại làm thêm một lớp “nhiếp ngọn về gốc, hội hư về thật” thì tất cả các pháp đều là Phật tánh; chân tâm tạo ra như việc trong mộng đều do báo tâm làm. Ở trong phần này tâm năng khởi biến làm các tướng, nói là chân thức. Do tất cả pháp chân tạo ra. Kinh Niết-bàn nói: Tất cả các pháp đều là Phật tánh.

Ba thức như thế.

  1. Từ gốc khởi ngọn cũng chia làm ba:

Bỏ ngọn nói gốc: Tâm tánh vốn thanh tịnh, duyên khởi nhóm họp thành pháp giới vô tận, là chân thức.

Nương gốc khởi ngọn, cho thật là hư, chẳng phải có mà thấy có, là vọng thức.

Nương gốc khởi ngọn, nhận hư làm thật chẳng phải thật mà thấy thật, đó là sự thức.

Phân biệt về tướng như thế. b. Định về danh nghĩa:

1) Sự thức: Trong kinh Lăng-già gọi là chuyển thức. Trong luận Khởi Tín gọi là ý thức. Hoặc nói là phân biệt ý thức; hoặc gọi là ly thức; hoặc gọi là thức phân biệt sự.

Chuyển thức: Theo sáu trần mà chuyển, không giống như vọng thức chuyển khởi cảnh bên ngoài, nên gọi là chuyển thức.

Ý thức: Trong luận Khởi Tín nói: Gọi Chân thức thứ tám là tâm. Gọi Thức thứ bảy là ý, sáu sự thức trước từ ý sinh ra nên gọi là ý thức.

Ý thức phân biệt cảnh giới sáu trần nên còn gọi là ý thức phân biệt.

Theo sự đối với căn trần chia ra sáu loại khác nhau nên gọi là ly thức.

Phân biệt cảnh giới sự tướng của sáu trần nên còn gọi là phân biệt sự thức.

Hỏi: Thức này là hư vọng bậc nhất, tại sao không gọi là vọng thức?

Đáp: Nói chung thì cũng gọi là vọng, nhưng vì phân biệt nên nói là sự. Vì những hạng phàm phu và nhị thừa hoặc điên đảo càng sâu, cho hư là thật nên không gọi là Vọng.

Ở trong phần này: Căn, trần và thức, hoặc nhân hoặc quả, tất cả đều thật, nên kinh gọi là bốn Đế. Kinh Di Giáo nói: Khổ là khổ thật. Cho đến Đạo là chân thật là đạo. Vì chân thật nên hàng Nhị thừa thấy được nó gọi là được quả Thánh.

Xiển-đề phỉ báng nó nên thành tà kiến, dứt mất thiện căn, rơi vào ngục A Tỳ. Sự thật như thế, nên chẳng gọi là vọng.

  1. Vọng thức: Danh nghĩa như ở trước.

Hỏi: Vì sao thức này chỉ gọi là vọng?

Đáp: Vì thức này vào hư hội thật, suy kỹ thì sự chẳng phải sự, chỉ do tâm vọng thấy nên nói là vọng.

Lại, tâm vọng này tự mê chân mà khởi, mê chân vọng chấp nên gọi là vọng.

  1. Chân thức: Danh nghĩa như trên, vì thức này hội hư vào thật, chỗ thật thì không có vọng nên gọi là chân.

c. Phân biệt theo nghĩa:

Sự, vọng và chân đều có bốn lớp:

1) Sự:

Tướng của Dụng: Tâm của Sáu thức, biết rõ sáu trần, cảnh giới sự tướng. Đối với phần hạn của sự, sáu thức chính là thể của thần tri. Cho nên sáu thức này cũng gọi là thể tướng.

Ngã tướng: Ngã có hai loại:

Chấp trược pháp ngã: Chấp Tâm tánh, ở căn, trần, thức vọng lập tánh cố định. Tánh ngã này, trong luận Khởi Tín gọi là Chấp tướng, cũng gọi là Chấp tương ưng nhiễm.

Chấp trược nhân ngã: Đối với ấm, giới, nhập chấp ngã, ngã sở. Trong luận Khởi Tín gọi đây là Kế danh tự tướng, đuổi theo những tên gọi ngã, nhân, chúng sinh, v.v… vọng có dựng lập ngã tướng như thế.

Ám tướng: Chẳng biết các pháp giả dối không có tánh; lại không thể biết ấm, giới, nhập, v.v… không có ngã, ngã sở.

Lý tướng: Rõ ba lớp trước chẳng phải có, chẳng phải không. Do nhân duyên giả có gọi là chẳng phải không. Pháp giả, không có tánh nên nói không thật có. Lại, ba lớp trước chẳng phải ngã, ngã sở gọi là chẳng thật có, mà có thức, v.v… nên nói chẳng phải không. Chẳng phải có là chân đế, chẳng phải không là thế đế.

Lớp đầu tiên là sự trong sự.

Hai lớp giữa là vọng trong sự.

Lớp sau là chân trong sự, vì tâm không thuộc về có – không.

2) Vọng:

Dụng tướng: Tâm của Sáu thức, vọng tâm biến khác thành căn, trần, thức như việc làm trong mộng. Ở trong phần này, vọng khởi sáu thức, đối với sáu căn do tự tâm khởi, biết rõ sáu trần do tự tâm tạo nên gọi là Dụng.

Ngã tướng: Ngã có hai loại:

Pháp chấp ngã: Vô minh biến khởi thức A-đà-na, chấp pháp do vọng tâm kia tạo ra cho là thật có.

Nhân chấp ngã: Đối với pháp do vọng tâm khởi chấp có ngã, ngã sở. Như người trong mộng thấy thân là ngã, ngoài thân là ngã sở.

Ám tướng: Là vô minh địa. Không hiểu biết tâm, không rõ Chân như. Lại không thể biết vọng tâm khởi luống dối không có pháp thật.

Lý tướng: Tức là ba lớp trước chẳng phải có, chẳng phải không

có. Vọng tướng không có tự thể, gọi là chẳng phải có. Vọng tình nhóm khởi gọi là chẳng phải không. Lại, căn, trần, thức do tâm khởi, ngoài tâm không có pháp gọi là “chẳng phải có”. Vọng tâm dối hiện cho nên là “chẳng phải không”. Chẳng phải có là chân đế, chẳng phải không là thế đế.

Lớp đầu là sự trong vọng.

Hai lớp giữa là vọng trong vọng.

Một lớp sau là chân trong cọng, vì là tâm chẳng phải có – không.

3) Chân:

Dụng tướng: Tâm của sáu thức. Chân tâm đổi khác thành căn, trần, thức. Như việc hiện trong mộng đều do báo tâm tạo. Sáu thức bị tạo nương sáu căn do chân tâm tạo, biết rõ sáu trần do chân tâm tạo nên gọi là Dụng.

Hỏi: Sáu thức này và sáu thức trong vọng ở trước có gì khác nhau chăng?

Đáp: Sáu thức cùng khởi chân và vọng. Nhiếp sáu theo vọng thì đều do vọng tâm làm ra. Như rắn trên giây đều do vọng tâm tạo ra. Nhiếp sáu về chân thì đều do chân tâm tạo, như con rắn trên sợi giây đều là giây làm ra. Nếu lấy nghĩa trước thì là sáu thức vọng, lấy nghĩa sau thì là sáu thức chân.

Ngã tướng: Trong phần này, ngã có hai loại, tướng trạng thế nào?

Pháp thật ngã: Như Lai Tạng tánh là chân, là thật. Tánh không thay đổi gọi là Ngã. Lại, chân tâm này là chỗ nương của vọng, làm thể cho vọng nên nói là Ngã. Kinh Niết-bàn ghi: Ngã tức là Như Lai Tạng. Tàng là Phật tánh. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tức là nghĩa của ngã.

Ngã tập dụng của giả danh: Phật tánh duyên khởi nhóm thành ngã, nhân. Như nương báo tâm tập hợp mà khởi thân mộng. Nên kinh ghi rằng: “Ngay pháp giới này mà trôi lăn năm đường, gọi là chúng sinh. Đây là ngã của sáu pháp trong kinh Niết-bàn. Năm ấm và ngã là sáu. Năm ấm chia ra làm năm pháp. Năm ấm hòa hợp lại thành người hư giả là pháp thứ sáu. Nên kinh Niết-bàn nói: “Từ ngã của phàm phu cho đến ngã của Phật, tánh của ngã không đổi gọi là Phật tánh. Bởi chúng sinh là do chân, vọng tập hợp thành, cũng như sợi giây và con rắn. Nếu nhiếp theo vọng thì đều là vọng làm. Nếu nhiếp theo chân thì đều là chân tạo. Nay môn này theo chân để phân biệt.

Tướng ngã như thế.

Tướng không phân biệt: Chân tâm tuy là tánh của thần tri mà chẳng phải pháp phan duyên, lấy bỏ nên không phân biệt. Lại bị si che, chưa chiếu sáng rõ ràng như trí Phật, không phân biệt được nên là vọng, huân tập sinh ra vô minh địa, theo vọng trôi lăn.

Lý tướng: Tức là thể của ba lớp trên chẳng phải có, không. Nghĩa “như thật không” lìa tất cả tướng, lìa tất cả tánh gọi là chẳng phải có. “Như thật bất không” nhiều hơn hằng sa pháp môn thanh tịnh nên nói chẳng phải không.

Lại, hay duyên khởi sinh tất cả pháp gọi là chẳng phải không, mà thể thường vắng lặng, gọi là chẳng phải có.

Lớp đầu là chân dụng.

Hai lớp giữa là chân.

Một lớp sau là chân tánh, vì là chân lý như.

Nói về tướng như thế.

d. Nói về nghĩa tương khởi, tương nhiếp:

1. Tương khởi: Nương sáu thức hợp dụng trong chân khởi sáu thức vọng. Lìa pháp chân, vọng thì không khởi một mình được. Nương sáu thức vọng, khởi sáu thức sự. Chấp vọng là thật gọi là sự. Như người trong mộng nói căn, trần, thức đều là việc thật. Nương chân ngã, khởi ra vọng ngã. Dùng chân huân tập vọng, khởi ngã chấp. Lại giữ tánh ngã khởi vọng chấp. Như kinh Niết-bàn nói: “Nương vọng ngã khởi sự ngã, tình chấp càng sâu, nói căn, trần, v.v… có tánh cố định. Lại nương vọng tâm khởi ra ấm, v.v…, điên đảo chấp có ngã, ngã sở. Nương nghĩa không phân biệt trong chân, khởi vô minh trụ địa trong vọng thức. Nếu chân tâm kia đồng với trí Phật, chiếu sáng, bày rõ thì vô minh ám hoặc không có nghĩa sinh được. Nên kinh Lăng-già nói: “Như Lai Tạng bị tập khí ác huân tập từ vô thỉ, gọi là thức tàng sinh vô minh địa”. Trong Khởi Tín cũng đồng với thuyết này. Luận chép: “Chân như huân tập, sinh vô minh địa. Nương vô minh trụ địa trong vọng khởi vô minh mê tánh trong sự thức, vì đồng tánh tối tăm. Lại nương lý chẳng phải có, không trong chân, khởi nghĩa chẳng phải có không trong vọng thức. Vì đồng gốc – ngọn. Do tánh vọng thức, chẳng phải có – không, khởi ra sự thức lại chẳng phải có – không, vì đồng lý.

Tướng khởi như thế.

2. Tương nhiếp: Nhiếp sáu thức có trong sự kia tức là sáu thức tập dụng trong vọng, căn trần cũng vậy. Vọng tâm đổi khác làm sự.

Nhiếp sáu thức vọng tức là sáu thức tập dụng trong chân. Chân tâm biến đổi thành vọng kia.

Nhiếp ngã tướng khởi từ trong sự, tức là vọng ngã, vì trong pháp vọng chấp làm sự.

Nhiếp vọng ngã kia tức là chân ngã. Chân ngã đổi khác làm ngã kia. Nên được chân ngã thì không vọng nào để còn.

Nhiếp vô minh mê tánh trong sự tức là tướng vô minh ám trong vọng, vì vô minh trụ địa khởi ám chướng kia.

Nhiếp thể của vô minh địa trong vọng kia tức là nghĩa vô phân biệt trong chân. Chân tâm là tánh của vô minh kia. Nên kinh Duy-ma nói: “Minh và vô minh là hai, thật tánh của vô minh tức là minh. Minh cũng không giữ, lìa tất cả số, tâm như hư không”. Lìa số, như không, tức là nghĩa chân tâm vô phân biệt.

Lại nhiếp nghĩa chẳng phải có không trong sự tức là phi hữu phi vô trong vọng vọng tâm biến thành sự, thì sự là vọng.

Lại nhiếp chẳng phải có không trong vọng tức là nghĩa phi hữu phi vô trong chân. Chân tâm biến đổi thành pháp vọng kia. Ngoài chân không có pháp vọng tưởng khác. Nên kinh nói rằng: “Tất cả hư vọng chỉ do một tâm tạo” nghĩa là chỉ do một chân tâm làm ra.

Tương nhiếp như thế.

e. Nói về nghĩa có tu, không tu do:

Sự, vọng và chân. Trong ba tâm đều có tu, vì trong ba thứ tâm đều có sáu thức.

Trong phần sáu thức: Gần bạn, nghe pháp, suy lường tu, hai thứ chân, vọng như luận Khởi Tín nói: Nghĩa vọng tâm huân tập có hai loại:

  1. Phân biệt ý thức huân tập: Nghĩa phàm phu, Nhị thừa chán lìa sinh tử, tùy sức chịu đựng, cần đạo vô thượng.
  2. Ý huân tập: Các Bồ-tát phát tâm mạnh mẽ, chóng hướng Niếtbàn.

    Loại trước là tu trong sự thức.

    Loại sau là tu trong vọng thức.

    Kia nói vọng thức, cho đó là ý sinh sáu thức.

Có người nói: “Vọng thức không chịu huân tập, hoàn toàn không tu”. Lời này sai lầm! Luận ấy nói rằng: “Tại sao nói rằng vọng không chịu huân tập? Vọng tâm huân tập chân như, sao lại nói rằng vọng thức không tu, chân thức có tu?”

Nhiếp luận nói rộng tướng tu thế nào? Luận ấy nói: Chân tâm và vọng hòa hợp gọi là A-lại-da; cũng gọi là bản thức; cũng gọi là Tàng thức. Vốn do duyên huân tập, biến sinh sáu thức. Ý thức trong sáu thức khởi văn, tư, tu, huân tập bản thức, thành hạt giống thiện pháp văn, tư, tu. Bản huân tập vô minh khiến nó mỏng dần. Vì vô minh mỏng, khởi A-đà-na chấp ngã cũng mỏng. Vì chấp ngã mỏng, nên sinh khởi sáu thức, khởi hoặc cũng mỏng. Như thế lần lượt thì có lỗi đều sạch, có đức đều đủ. Chân tu như thế.

Hỏi: Sự huân và vọng huân, ngã tướng, ám tướng, lý tướng trong tâm, có tu riêng không?

Đáp: Không khác. Nhưng ngã tướng là bị tu phá, vì phá lìa ngã. Tất cả ám tướng là tu để diệt, vì diệt si ám. Tất cả lý tướng là tu để quán, cũng là chỗ chứng. Quán chẳng phải có không để phá chấp trước.

Chứng chẳng phải có không để thành định, tuệ.

Hỏi: Ngã tướng, v.v… trong chân thế nào?

Đáp: Tất cả giả ngã trong chân là bị tu chuyển, như kinh Niết-bàn nói: “Chuyển năm ấm bất thiện thành năm ấm thiện, chuyển năm ấm thiện thành quả năm ấm”. Ngã cũng như thế. Ngã của pháp thật là chỗ tu nương, tất cả nhiễm tịnh nương đó mà khởi, cũng là chỗ dứt. Lúc vọng hết, dụng nhiễm cũng dứt, không còn làm nơi nương gá cho nó nữa. Cũng là chỗ hiển, hiển bày tánh ngã kia. Vì Đại Niết-bàn là ngã chân thật.

Trong môn thứ ba là tướng vô phân biệt, vô phân biệt là chỗ tu nương, nương vào tướng không phân biệt, xa lìa tất cả tướng phân biệt. Cũng là chỗ chứng, chứng thành đức bình đẳng không duyên.

Lý tướng thứ tư là chỗ tu nương. Nương vào pháp chẳng phải có không, xa lìa tất cả kiến chấp có – không. Lại, nương vào pháp chẳng phải có để thành tựu đoạn đức; nương vào pháp chẳng phải không để thành tựu trí đức. Lại, nương vào pháp chẳng phải có để thành tựu tuệ hạnh; nương vào pháp chẳng phải không để thành tựu phước hạnh.

Lại nương vào pháp chẳng phải có để thành tựu chứng hạnh; nương vào pháp chẳng phải không để thành tựu giáo hạnh.

Cũng là chỗ chứng: Chứng pháp chẳng phải có, thành nhất thiết trí. Chứng pháp chẳng phải có thì quả thể thanh tịnh. Chứng pháp chẳng phải không thì quả đức đầy tròn. Lại, chứng pháp chẳng phải có thì quả thể vắng lặng. Chứng pháp chẳng phải không thì quả dụng vô tận.

Tướng tu như thế.

f. Nói về nghĩa hữu tận – vô tận:

  1. Theo tướng tạm chia:

Sự và thức vọng thức hoàn toàn hữu tận, vì thấy pháp thật. Chân tâm vô tận vì vọng dứt thì hiển bày.

  1. Dùng thật để nói chung: Sự, vọng và chân đều có nghĩa tận và có nghĩa chẳng tận.

Sự tâm và vọng tâm, thể diệt nên có nghĩa tận, còn năng lực huân ở tại chân nên nói không hết. Luận Khởi Tín nói: “Vọng huân tập có hai loại là ý thức huân tập và ý nghĩa tập”. Như trên đã nói, chân tâm thể thường, nghiên cứu chỉ là cái sáng, do đó chẳng tận, lúc vọng diệt, theo vọng mà dụng ngừng nên cũng có tận.

Ba thức sự, vọng và chân như thế.

2. Chân – vọng lìa và hợp để nói ba loại. Trong đây có hai môn:

a- Môn lập tướng: Nói lập ba tánh. b- Môn khiển tướng: Nói ba vô tánh. a. Môn lập tướng: Chia năm môn:

Đặt tên dẫn chứng, mượn ví dụ để hiển bày.

Nói về thể tướng.

Nói về một và khác.

Nói về có tu hay không tu.

Nói về tận và chẳng tận.

1) Đặt tên, dẫn chứng, dùng dụ để bày rõ:

Danh tự thế nào? a- Tánh phân biệt.

b- Tánh y tha. c- Tánh chân thật. Cũng gọi là Tướng. a) Phân biệt:

Theo vọng để nói vọng: Tâm vọng luống dối, nhóm khởi tình tướng, theo đó mà có sự lấy, bỏ. Nên nói phân biệt. Điều này, kinh Lăng-già và luận Địa Trì gọi là vọng tưởng, sự nắm giữ không chân thật nên gọi là vọng. Vọng tâm lấy, bỏ nên nói là Tưởng. Luận Nhiếp Đại Thừa cũng gọi là ý ngôn phân biệt. Trong giác quán tâm, nói có sắc, v.v… gọi là ý ngôn; phân biệt tự tâm khởi ra cảnh giới, nên nói là phân biệt. Thể của phân biệt gọi là tánh, phân biệt thể trạng gọi là Tướng.

  1. Tánh y tha:

Theo vọng để bày rõ chân. Vọng khởi nương vào chân, chân chuyển theo vọng. Nên nói là Y tha. Tánh, tướng đồng như trước.

  1. Tánh chân thật theo chân để nói chân, thể chân thường vắng lặng, không vọng nào theo được nên nói là chân thật. Tánh tướng như trên.

Danh tự như thế.

Dẫn văn làm chứng:

Nói rộng về ba tánh này thì như luận Nhiếp Đại Thừa (Nhiếp luận thứ 5). Luận đó y cứ vào đâu mà kiến lập ba tánh này? Luận nói y cứ vào kinh “Trong tất cả kinh, chỉ nói tất cả pháp hư vọng không thật, vắng lặng, không thât có là “tánh phân biệt”. Hoặc nói các pháp như huyễn, như mộng, như trăng đáy nước, v.v… là “tánh y tha”; Hoặc nói các pháp là chân là thật, bổn tánh thanh tịnh là “tánh chân thật”.

Lại, kinh Địa Trì (Địa Kinh Luận thứ 11) nói: Tâm hạnh rất nhiều, chia ra làm chín:

Tướng tâm tạp: Sáu thức tâm khác nhau.

Tướng tâm chuyển chuyển: Sinh, trụ, diệt.

Tướng tâm vô hình: Tâm tánh vắng lặng.

Tướng vô lượng: Thuận hành vô lượng cảnh giới hư ngụy.

Bốn loại này tức là nghĩa phân biệt.

Tướng tự tánh không nhiễm: Tâm tánh vốn tịnh.

Loại này là nghĩa chân thật.

Tướng tâm nhiễm và không nhiễm: Tùy khởi phiền não.

Tướng tâm phược và giải: Chân tâm tùy theo sử.

Tướng tâm huyễn khởi: Các Bồ-tát tùy nguyện thọ sinh.

Tướng tâm tùy đạo sinh: Các phàm phu tùy nghiệp thọ sinh.

Bốn loại này là nghĩa Tánh y tha.

Kinh nói chẳng phải một, lược nêu như thế.

Văn chứng như thế.

Mượn thí dụ để nói rõ:

Phân biệt như gió, chân thật như nước, y tha như sóng.

Lại tánh y tha như sợi dây làm con rắn. Rắn nương tình tạo ra, phân biệt như tình, chân thật như sợi dây.

Lại, Luận chép: Y tha như đất, lại cũng như quặng; phân biệt tựa như cát đá trong quặng, nấu chảy thì hết. Chân thật như vàng, nấu chảy thì hiện. Ví dụ rất nhiều, ở đây chỉ nêu như thế.

2) Nói về thể tướng:

a) Trong tánh phân biệt, khai hợp không nhất định.

  • Hoặc chung thành một, chỉ một phân biệt.
  • Hoặc chia làm hai:

Vọng thức phân biệt: Mê chân khởi tướng.

Sự thức phân biệt: Mê hư lập thật.

  • Cũng được chia làm bốn:

Vô minh địa: Là gốc của vọng thức.

Tâm vọng tưởng: Tâm vọng tưởng do vô minh khởi.

Tâm chấp tánh là: Gốc của sự thức.

Kiến ái v.v… là do chấp tánh khởi.

  • Lại cũng có bốn:

Tâm vọng thức: Mê chân khởi tình.

Tướng luống dối: Nương tình khởi tướng cảnh giới bên ngoài, như theo tâm ngủ khởi cảnh giới mộng.

Tâm sự thức: Mê cảnh chấp trước luống dối, chẳng biết do tâm khởi, chấp là thật có.

Tướng sở thủ: Do tâm chấp trược cảnh giới sự tướng, tạo tướng thật, hiện đến ứng với tâm mình.

  • Cũng lại chia làm tám:

Tâm vọng tưởng: Mê chân khởi tình.

Nương vọng tâm khởi cảnh hư vọng. Nên Địa Trì (thứ 2) ghi:

Nương tám vọng tưởng khởi vọng, duyên sự.

Hai loại này là một cặp.

Chẳng biết cảnh hư vọng vô pháp trước, chấp cho là có, vì nó đặt tên, thì sinh tâm đặt tên.

Tâm đặt tên sinh rồi, tên gọi theo đó phát khởi.

Đây là cặp thứ hai.

Danh tự khởi rồi, theo tên gọi này chấp pháp bị đặt tên, tức là giác quán.

Nương giác quán phát khởi lời nói, lời nói theo đó phát sinh.

Đây là cặp thứ ba.

Lời sinh rồi lại khởi tâm tưởng, chấp pháp được nói, đó là cho ngôn ngữ là Đạo, tâm là hạnh.

Nương tâm hạnh này, tất cả cảnh trái thuận, khổ vui, v.v… lăng xăng ứng với tâm.

Đây là cặp thứ tư.

Từ đó sinh tử làm hưng thịnh lẫn nhau tăng trưởng không dứt.

Phân biệt như thế.

b) Trong tánh y tha:

Khai hợp không nhất định.

  • Chung thành một, chỉ một y tha.
  • Hoặc chia làm hai: Chân và vọng, làm y tha lẫn nhau làm năng y lẫn nhau.
  • Cũng chia làm ba:

Bản thức: Như Lai Tạng (Lăng-già nói) vì tập khí ác từ vô thỉ

huân tập sinh vô minh địa; hòa hợp với nó, cộng thành bản thức.

Nương bản thức này, khởi tâm chấp ngã A-đà-na. Tâm này thường tương ưng với bốn hoặc: Vô minh ngã kiến, ngã ái và ngã mạn khởi thô do đâu sinh tâm này? Do huân tập khí về ngã từ vô thỉ nên khởi chấp này. Đây là thể bị sinh nhưng là bản thức. Bản thức thay đổi thành chấp này. Nên Luận gọi là thức Tợ ngã. Như thân thể trong mộng là tâm ngủ mê.

Nương bản thức sinh ra sáu căn, sáu trần và sáu thức.

Do đâu mà sinh các pháp này?

Do huân tập danh tự ấm, giới, nhập từ vô thỉ và có phần huân tập thiện, ác, v.v… mà sinh. Luận nói như thế. Nhưng thể bị sinh này là bản thức. Bản thức thay đổi thành việc này. Nên Luận nói là Tợ căn thức, tợ trần thức,và tợ thức thức. Thể của việc trong mộng, là tâm.

Ba tướng như thế.

Cũng được chia làm sáu:

Trong bản thức chia làm hai có chân, có vọng.

Thức A-đà-na chân vọng cùng khởi cũng được chia làm hai.

Sáu thức cũng vậy. Tức là sáu.

Tùy chia ra từng phần nhỏ, cũng được vô lượng. Vì các pháp thế tục đều là Thức. Y tha như thế.

c) Trong tánh chân thật:

Khai hợp không nhất định.

Chung chỉ một chân. Cũng được chia hai:

Có cấu nhiễm như: Ở trong nhiễm mà thường tịnh.

Không cấu nhiễm như: Trừ nhiễm mới tịnh. Luận (Nhiếp luận dịch vào đời Lương quyển ) nói như thế.

Lại có hai loại:

Như thật không: Lìa tánh lìa tướng.

Như thật chẳng phải không: Đầy đủ vượt hơn vô lượng hằng sa pháp tịnh, như trên đã nói rõ.

Cũng được chia làm ba:

Không cấu nhiễm như: Xưa nay thường tịnh, không có cấu nhiễm nào có được.

Có cấu nhiễm như: Ở trong nhiễm mà không dơ.

Lìa cấu nhiễm như: Trừ chướng mới sạch.

Cũng được chia làm bốn:

Như Nhiếp luận (bản dịch đời Lương quyển 7) nói:

Cấu nhiễm như: Ở trong nhiễm mà thường tịnh.

Không cấu nhiễm như: Trừ nhiễm mới sạch.

Tướng tịnh: Tu sinh chân đức.

Giáo tịnh: Mười hai bộ kinh, từ pháp giới thanh tịnh lưu xuất.

Lại nói từ Pháp thân thanh tịnh lưu xuất, gọi là Tịnh.

Kinh Niết-bàn cũng nói (bản Bắc quyển 27, bản Nam 1 25): xuất xứ từ biển đại trí của Như Lai; nên được gọi là chân.

Cũng được chia làm năm: Năm Phật tánh.

  • Tánh nhân: Nhân Niết-bàn.
  • Tánh nhân nhân: Nhân Bồ-đề.
  • Tánh quả: Quả Bồ-đề.
  • Tánh quả quả: Quả Niết-bàn.
  • Tánh không phải nhân quả: Lý tánh.

Cũng được nói là mười: Như luận Bảo Tánh (thứ ba) nói mười Phật tánh.

Rộng thì vô lượng. Nên kinh nói nhiều hơn hằng sa pháp.

Thể tướng như thế.

3) Nói về nghĩa một hay khác của ba tánh:

Ba tánh này so với nhau, chẳng phải một chẳng phải khác. Chia ngọn khác gốc, được nói là chẳng phải một. Nghĩa như trên đã nói.

Theo vọng nói vọng là tánh phân biệt.

Theo vọng nói chân là tánh y tha.

Theo chân nói chân là tánh chân thật. Dùng gốc nhiếp ngọn, là chẳng phải khác. Nghĩa này thế nào?

Như Lai Tạng là tánh chân thật, tánh này là gốc.

Huân với Ác tập, sinh vô minh v.v… cùng chung với nó gọi là y tha. Ngoài chân lại không có pháp nào để nương. Theo phần y tha thay đổi, sóng hư vọng chấp là phân biệt. Ngoài y tha, không có phân biệt riêng.

Lại nữa, duyên nhiếp một tánh y tha, trong đó pháp vọng được gọi là phân biệt; pháp chân gọi là chân thật, nên không có khác nhau.

Một – khác như thế.

4) Nói về nghĩa có tu, không tu:

Trong ba thức này đều có tu.

  1. Trong tánh phân biệt: Tu có hai loại:

Tu trong sự thức: Quán sát năm ấm chẳng phải ngã, ngã sở và quán năm ấm luống dối vô tánh. Các pháp cũng vậy.

Tu trong vọng thức: Quán tất cả pháp do tâm vọng tưởng hiện ra,

ngoài tâm không cảnh, và quán vọng tâm do y tha biến thành, không có thể vọng riêng.

  1. Trong tánh y tha: Tu cũng có hai:

Quán nhân không.

Quán pháp không.

Trong hai pháp này, trước trên khởi văn tuệ, văn (nghe) hai vô ngã, huân tập vào bản thức. Bản thức bị huân tập thành văn huân tập. Trong bản thức có chân, có vọng. Chân chịu huân tập thanh tịnh, vọng chịu huân tập nhiễm ô, chân được huân tập rồi, chuyển đến huân tập vô minh, khiến vô minh mỏng, hạt giống ngã kiến chứa nhóm từ vô thỉ trong vô minh cũng theo đó mỏng dần. Loại này mỏng rồi, khởi ngã chấp A-đà-na nhẹ dần. Chấp này nhẹ rồi, khởi ngã kiến về sáu thức cũng nhẹ. Kiến này nhẹ rồi, khởi văn càng cao sâu. Dùng văn này huân tập lại bản thức. Lần lượt như thế, dùng ngọn huân tập gốc. Gốc lại huân tập ngọn Tư, tu cũng vậy, dùng ngọn huân tập gốc, hoại hạt giống ngã kiến trong bản thức, thành tựu hạt giống Pháp thân xuất thế. Dùng gốc huân tập ngọn, ngăn dứt việc khởi hoặc, thêm lớn tịnh hạnh, cho đến rốt ráo.

  1. Vì sao trong tánh chân thật có tu?

Đáp: Riêng chân thì không có nghĩa tu. Mà nói có là tất cả chỗ tu, chân vọng cùng khởi. Nhiếp tu theo vọng đều là vọng tu; nhiếp tu theo chân đều là chân tu. Như ba tánh trước, chân vọng hòa hợp gọi là tánh y tha. Trong y tha chia giữ phần vọng gọi là tánh phân biệt; Chia giữ phần chân gọi là Tánh chân thật. Tu cũng như thế. Vì có tu, nên lúc vọng hết, riêng chân thành đức, thành đức có hai:

Chân thức: Tâm vọng hết gọi là gốc; thành tựu thì chứng hạnh.

Từ thể khởi dụng, thành tựu giáo hạnh.

Hai loại này đều dùng gia hạnh làm nhân. Tác ý tu tập gọi là Gia hạnh.

Chứng Gia hạnh trước có hai loại:

  • Quán các pháp xưa nay chỉ có chân, không có vọng để theo; khiến cho vọng tâm không lôi kéo pháp sau. Pháp sau không khởi, pháp trước bị dứt sạch. Chân tâm riêng hiển bày.

Quán ngoài tâm không có lý như khác, ngoài lý như cũng không có tâm khác. Ngoài “như” không có “tâm”, thì tâm chẳng khác như; Ngoài “tâm” không có “như”, thì như chẳng khác tâm.

Tâm chẳng khác như: Chiếu mà thường tịch. Như chẳng khác tâm: Tịch mà thường chiếu.

Do hai quán này liền thành tựu chứng hạnh.

Giáo gia hạnh trước cũng có hai loại:

  • Quán thể của chân tâm là tất cả pháp môn công đức sinh ra các hạnh.
  • Theo đó mà tu khởi các thứ gốc lành. Do hai loại này mà thành tựu giáo hạnh.

    Nghĩa tu như thế.

    5) Nói về nghĩa hữu tận – vô tận:

Tánh của phân biệt hoàn toàn có tận, vì suy đến cùng thì không thật có.

Tánh của y tha vừa tận vừa vô tận: Lúc vọng hết, dụng hết theo vọng gọi là Tận. Ở trong bản thức, loại hạnh được thành, khi vọng hết thì chuyển y về gốc gọi là Vô tận.

Tánh của chân thật luôn luôn vô tận, vì thường trụ.

Nếu nói chung:

Thể phân biệt tận, sức huân tập ở chân gọi là chẳng tận.

Thể chân tánh vốn vắng lặng, gọi đó là tận; diệu dụng khó cùng, gọi là vô tận.

Lập tướng như thế.

b. Khiển tướng thế nào?

Luận (Nhiếp luận bản dịch đời lương quyển 7) nói có ba:

  1. Tánh vô tướng: Luận còn gọi là tánh vô phân biệt. Quán sát cảnh bên ngoài chỉ từ tâm hiện, ngoài tâm không có cảnh gọi là tánh vô tướng. Quán sát vọng tâm do bản thức biến ra, ngoài bản không có vọng, nên còn gọi là tánh không phân biệt.
  2. Tánh vô sinh: Theo thật suy chân, không có vọng khởi theo, gọi là tánh Vô sinh.
  3. Tánh vô tánh: Luận cũng gọi là Vô tánh.

Trong Như Lai Tạng nhiều hơn hằng sa pháp đồng thể mà nghĩa riêng. Nhiếp riêng về chung thì các pháp đều có. Đem riêng chia chung thì các pháp đều Như. Không có một pháp giữ riêng tự tánh gọi là tánh vô tánh. Theo chân để nói về chân thì thể chân thường tịch, không có hai tướng trước để dẹp thành không gọi là vô vô tánh. Lại chân thật có, chẳng phải hoàn toàn không có Pháp; gọi là Vô tánh.

3) Chân vọng hòa hợp với gốc ngọn, chia làm ba:

Trong đây lại chia ra bốn môn:

Nói riêng về tướng.

Nói về một – khác.

Nói về khởi tu, không khởi tu khác nhau.

Nói sự khác nhau về hữu tận và vô tận. a. Nói về tướng:

Như Nhiếp luận (quyển 10) nói:

  • Bản thức.
  • Thức A-đà-na.
  • Sinh khởi sáu thức.

Ba thức này cũng như sự khác nhau trong tánh Y tha ở trước. Theo vọng nhiếp chân, chân theo vọng chuyển, cộng thành chúng sinh. Ở trong sự cộng chung này, tâm chân thức bị ác tập từ vô thỉ huân tập sinh vô minh địa. Vô minh được sinh chẳng lìa chân tâm, cộng thành gốc của tinh thần gọi là Bản thức. Đây cũng gọi là thức A-lại-da. Nên Luận (luận Khởi Tín) nói: Như Lai Tạng là pháp bất sinh diệt hợp với sinh diệt gọi là A-lai-da. A-lại-da này bị ngã kiến từ vô thỉ huân tập thành hạt giống ngã. Do năng lực của hạt giống này nên khởi tâm chấp ngã A-đà-na. Nương ngã tướng này khởi ra ngã kiến, ngã mạn, ngã ái. Chấp cái nào là ngã? Nương vào bản thức, biến ra ấm thân, chẳng biết đây là không, chấp nó làm ngã.

Lại, bản thức này bị danh tự sáu thức, căn, trần từ vô thỉ huân tập thành hạt giống. Vì sức của hạt giống này nên biến ra sáu thứ thức sinh khởi và sáu căn, sáu trần. Như nương tâm ngủ mê khởi ra căn, trần và thức trong mộng.

Nói về Định tướng sơ lược như thế. b. Nói về một khác:

Chia ngọn khác gốc, nói là khác. Nhiếp ngọn theo gốc, được nói là một. Vì là một, nên tất cả các pháp đều do một tâm tạo, như việc trong mộng đều do tâm ngủ tạo.

Một – khác như thế.

  1. Nói về khởi tu, không khởi tu khác nhau:

Trong phần này, tâm của sáu thức ở cảnh giới thiện, thấy, nghe, hiểu biết, chính khởi tu hành.

Thức A-lại-da là nhân của tu, là chỗ huân tập của tu, là chỗ chuyển của tu, không khởi chính tu, vì vô niệm.

Thức A-đà-na là chỗ chuyển của tu, chuyển lìa ngã chấp, chẳng khởi chính tu. Vì không khởi niệm gần bạn, nghe pháp, suy nghĩ, tu.

  1. Nói rõ nghĩa hữu tận – vô tận:

Trong phần này, ba thức đều tận. Vô minh diệt nên chân không bèn theo, không thành bản thức. Nên bản thức cùng tận. Nên luận nói:

Lúc bốn tu đã mãn, bản thức đều sạch. Tín tâm, Bát-nhã, Tam-muội, đại bi là bốn tu. Vì bản thức dứt nên ngã chấp không sinh, được nói rằng thức A-đà-na tận. Vì bản thức không có, sáu thức không sinh nên sáu thức tận. Trong ba loại này: tất cả thể của vọng diệt nên nói tận. Nơi Chân nương, dụng dứt nên nói tận. Thể trở về bản (gốc) nên được nói là bất tận.

Ba thức như thế.

Hoặc chia làm bốn: Bốn có bốn môn:

1. Khai vọng hợp với chân để nói bốn loại. Trong vọng chia làm ba: Năm thức chia thành hai, vọng thức là ba. Nên kinh Lăng-già (quyển 1) nói: Tâm là nghiệp thái tập. Ý là quảng thái tập. Sở thức mà các thức biết hiện cảnh có năm (biết năm cảnh bị biết hiện tại là năm).

Vọng thức thứ bảy là gốc của tập khởi gọi là tâm. Nương tập khởi này, tất cả cảnh vọng theo đó mà phân biệt gọi là thái tập nghiệp (gom góp nghiệp).

Ý thức thứ sáu tập khắp các trần, gọi là ý, chung khắp sáu trần gọi là Quảng thái tập (gom góp rộng).

Năm thức tâm tùy cảnh chia rõ, gọi là các thức.

Hiện ở năm trần gọi là thức sở thức. Chỉ biết cảnh riêng của năm trần hiện tại, không chung cho quá khứ, vị lai. Nên nói các cảnh hiện tại là năm.

Vọng chia ba thứ này. Chỗ nương của vọng này tức là chân thức. Chung và riêng là bốn loại.

2. Khai chân hợp vọng để nói bốn loại: Trong chân chia làm ba, như luận Khởi Tín nói:

Thể đại: Pháp chân như bình đẳng một vị, không thêm không bớt. Tất cả phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật như nhau không khác, không có cái khác của mé trước, mé sau.

Tướng đại: Luận tự giải thích: Như Lai Tạng từ xưa đến nay, có vô lượng pháp công đức của tánh. Như trong vọng tâm đầy đủ tất cả các pháp phiền não.

Dụng đại: Dụng có hai loại: Nhiễm và tịnh.

1) Nhiễm dụng có hai:

  1. Y trì dụng: Pháp Như Lai Tạng là chỗ nương của vọng, hay giữ gìn vọng. Nếu không có cái chân này thì vọng không lập được. Nên kinh nói: Nếu không có tàng thức thì bảy pháp không trụ, không trồng khổ vui, không cầu Niết-bàn.
  2. Duyên khởi dụng: Vừa rồi tuy lại nhiễm mà không tạo nhiễm.

Này, hợp cùng vọng, duyên nhóm khởi nhiễm, như nước theo gió mà sóng mòi nổi dậy. Cho nên không thêm không bớt. Kinh nói: Tức pháp giới này trôi lăn năm đường gọi là chúng sinh.

Nhiễm dụng như thế.

2) Tịnh dụng: Cũng có hai loại:

  1. Tùy duyên hiển bày dụng: Thể của chân thức, vốn bị vọng che, sau dứt vọng nhiễm, tùy duyên mới tịnh. Trong tịnh khác nhau, gọi là tánh tịnh không tạo nhân quả.
  2. Tùy duyên tức dụng: Vốn lúc ở phàm, tùy duyên tạo tác sinh tử sáu đường. Sau đó đối trị, nhóm sinh phương tiện có tạo nhân quả. dụng của Tịnh như thế. Vì chân thức có đủ ba nghĩa này, hợp với một pháp vọng thức thành bốn.

    3. Chân vọng đều khai, để nói bốn loại:

    Trong chân chia làm hai:

  3. Thức A-ma-la, Hán dịch là vô cấu, cũng dịch là Bổn tịnh. Y theo chân để nói chân, của thể chân thường tịnh nên nói Vô cấu. Đây cũng là môn tâm chân như ở trước.
  4. Thức A-lại-da, Hán dịch là vô một (không mất) tức là chân tâm ở trước; trôi lăn theo vọng, mà thể không hoại mất nên nói Vô Một. Nên luận Khởi Trí Luận nói: Như Lai Tạng là pháp bất sinh diệt, hợp với sinh diệt gọi là A-lại-da.

    Trong vọng chia làm hai: Vọng và sự.

Chân và vọng, mỗi loại có hai, hợp lại thành bốn. Thể tướng bốn loại không đồng, chia ra bốn loại. Tướng trạng thế nào?

Như trên đã nói: Môn Tâm chân như là tâm thể, tức là một. Môn tâm sinh diệt là của tướng tâm, trong đây chia làm ba:

  • Bản thức: Chân hợp với si
  • Y theo bản thức khởi thức chấp ngã a-đà-na.
  • Y theo bản thức khởi ra sáu thức sinh khởi.

Đây cộng với trước, hợp thành bốn.

Bốn tướng như thế.

Cũng được chia làm năm:

Như trên đã biện rõ:

  1. Tánh chân.
  2. Tánh phân biệt.
  3. Tánh y tha chia làm ba nghĩa:
  1. Bản thức.
  2. Thức A-đà-na.
  1. Thức sinh khởi.Tất cả là năm.

Cũng được chia làm sáu:

Trong năm loại trước, chia tánh phân biệt thành hai thứ là sự và vọng, tức là sáu.

Lại như kinh nói: Bắt đầu từ nhãn thức cho đến ý thức, cũng là sáu loại. Nhiếp gốc theo ngọn, ngoài sáu thức này không còn có thức nào khác. Nên trong kinh Duy-ma (phẩm Quán chúng sinh) nói: Vô ngã, nhân, như tình thứ bảy, hoàn toàn không có pháp. Tình là thức. Ngoài sáu căn không có căn thứ bảy; Ngoài sáu trần không có trần thứ bảy. Nên ngoài sáu thức không có thức thứ bảy. Thức thứ bảy còn không có thì làm sao có thức khác?

Hỏi: Kinh nói Tưởng, thọ, hành, v.v…, Vậy, trong thức, nó thuộc về thức nào?

Đáp: Theo luận Thành Thật (thứ 2) thì trước, sau khởi riêng; đều gọi chung là thuộc về ý thức. Y theo kinh, luận khác thì tưởng, thọ, v.v… cùng chung với ý thức là thuộc về pháp trần, không thuộc về sáu thức. Nhiếp bạn theo chủ thì thuộc về sáu thức.

Cũng được nói bảy: Là bảy tâm giới. Ở sáu thức trên, ý căn giới là bảy. Sáu thức sinh sau gọi là Ý căn. Đây cũng là nói nhiếp gốc theo ngọn.

Cũng được nói tám: Như Lăng-già có nói. Trong đó, có hai môn:

  1. Sự, vọng và chân chia ra làm tám. Sự thức có sáu; chân và vọng mỗi loại có một, nên có tám loại.
  2. Chân, vọng hòa hợp cộng thành tám loại. Nghĩa như trên đã nói:
  • Bản thức là một.
  • Chân và si hợp thành thức a-đà-na là hai.
  • Chân, vọng cùng khởi tâm chấp ngã, sinh khởi sáu thức, lại là sáu, chung với trước là tám.
  • Chân vọng cộng thành bất biến, ở vọng cũng được nói là chín. Nên trong phẩm Tổng của kinh Lăng-già nói: Tám, chín loại thức như sóng trong nước. Tướng trạng thế nào? Chia ra làm hai:

1. Chân vọng phân biệt để nói chín loại:

  • Trong vọng chia thành bảy: Sáu sự thức và vọng thức.
  • Trong chân chia hai: A-ma-la và A-lại-da, nghĩa như trên đã nói.

Lấy đây chung với trước thành chín.

2. Chân vọng ly hợp để nói chín loại:

  • Riêng chân là một, nghĩa là thức A-ma-la vốn tịnh.
  • Chân vọng hòa hợp cộng thành tám loại. Nghĩa như trên đã nói. Cộng làm bản thức, thức A-đà-na và sáu thức. Chung với trước là chín loại.
  • Cũng được chia làm mười:

Mười có hai môn:

  1. Mở chân lìa vọng để nói mười loại. Trong vọng chia ra bảy. Nghĩa như trên đã giải. Trong chân chia ba là Thể đại, tướng đại, dụng đại cũng như trên đã giải thích.
  2. Chân vọng ly hợp để nói mười loại: – Ly thì nói hai:
    1. Tánh chân thật: Chỉ có chân không có vọng.
    2. Tánh phân biệt: Chỉ có vọng, không có chân.
  • Hợp thì có tám loại:

Tánh y tha, ở trong bản thức là một, chấp thức là hai, sáu thức sinh khởi, chung với trước là tám.

Ba thức lìa hợp nên có mười loại.

  • Cũng được chia làm mười một:
  1. Chân thức là một.
  2. Vọng thức có sáu.
  3. Sự thức có bốn.

Cho nên thành mười một.

1. Vọng thức có sáu. Như luận Khởi Tín chép:

a- Tâm vô minh. b- Nghiệp thức. c- Chuyển thức. d- Hiện thức. e- Trí thức.

f- Thức tương tục, cũng gọi là không dứt.

Sáu thức này, có thô tế khác nhau.

  1. Tâm vô minh: là căn bản vô minh trụ địa. Nên Luận chép: Nương A-lại-da nói có vô minh.
  2. Nghiệp thức: Nương vô minh ở trước nên có vọng niệm bất giác mà khởi, gọi là Nghiệp. Nên Luận chép: Vì vô minh nên bất giác tâm động. Động gọi là Nghiệp.
  3. Chuyển thức: Nương nghiệp thức trước, tâm lự thô dần, chuyển khởi cảnh ngoại, theo mà chấp giữ nên gọi là Chuyển. Luận nói rằng:

Nương vào tâm động, chuyển hiện cảnh ngoại, gọi là chuyển thức.

  1. Hiện thức: Nương cảnh giới do chuyển thức trước ở khởi, lại hiển bày tự tâm, gọi là hiển thức. Nên Luận chép: Hiện thức hiện ra tất cả cảnh giới như trong gương sáng hiện các hình ảnh. Nên nói là hiện. Lại như luận nói: Trong hiện thức này, tùy năm trần đối diện liền hiện, không có trước, sau, vì tất cả thời mặc tình mà hiện, vì thường ở trước. Nói theo thô thì năm trần cùng hiện một lúc. Lý thật thì sáu trần đều cùng hiện.
  2. Trí thức: Trong pháp được biết rõ hiện thức ở trước, phân biệt nhiễm tịnh, trái thuận khác nhau gọi là trí thức. Nên Luận chép: Nương vào cảnh giới khởi tâm, phân biệt đáng yêu, không đáng yêu v.v… gọi là Trí.
  3. Thức tương tục: Nương trí thức ở trước, tướng của tâm càng thô, cảnh giới lôi tâm. Tâm theo cảnh giới phân biệt không dứt, như sóng mòi của biển nên gọi là nối tiếp. Nên Luận chép: Nương vào trí thức khởi cảm giác khổ vui, tương ưng với khởi niệm này không dứt gọi là nối tiếp.

Lại nữa, tâm này giữ gìn nhân quả thiện ác trong ba đời, không để hoại mất nên gọi là tương tục. Nên Luận nói rằng: Thức tương tục này giữ gìn nghiệp thiện – ác của vô lượng đời quá khứ không để hoại mất, lại làm cho thành tựu quả báo khổ vui ở hiện tại, vị lai, không để sai trái. nên gọi là tương tục.

Lại, Luận chép: Thức tương tục này, vì năng lực không dứt, khiến việc quá khứ đã qua, bỗng dưng nhớ lại; việc vị lai bất giác nghĩ lo, bất chợt niệm khởi. Cho nên ba cỏi chỉ do tâm tạo, như chỗ thấy trong mộng, như bóng trong gương, không có tự thể, lìa tâm thì không có cảnh giới sáu trần. Vì theo tâm, nên tâm sinh thì pháp sinh, tâm diệt thì pháp diệt. Các pháp sinh diệt đều tùy ở tâm.

Luận nói như thế. Nhưng sáu loại này, tướng khó phân biệt, phải dùng thí dụ để hiển bày.

  • Như người thế gian nương vào báo tâm liền khởi tâm ngủ mê chẳng tỉnh (giác), khởi niệm dao động nhỏ nhiệm: Nghiệp thức như thế, Như tâm dao động của người ngủ.
  • Tâm tưởng sau càng thô, chuyển khởi cảnh ngoài: Chuyển thức như thế.
  • Lại như cảnh giới trong mộng thành rồi, lại hiển bày tự tâm, sắc, thanh, hương,vị, v.v… cùng hiện một lúc: Hiện thức như thế.
  • Lại như người mộng ở cảnh mộng đang hiện kia, phân biệt nhiễm tịnh, trái thuận khác nhau: Trí thức như thế.
  • Lại như cảnh giới trong mộng, dẫn dắt tâm, tâm theo cảnh giới phân biệt không dứt: thức tương tục như thế.

Trong vọng thức, thô tế khác nhau, có sáu bậc này. Có người nói rằng: Nghiệp thức thứ hai là vọng thức. Bốn lớp sau là sáu sự thức phân biệt. Nghĩa này không đúng. Theo luận Khởi Tín, sáu thức giới hạn hoàn toàn khác với đây. Luận nói rằng: Sáu thức nối tiếp không dứt thức sau, khởi riêng sáu loại sự thức phân biệt. Văn ấy nói: ngay tương tục này nương các phàm phu chấp trước càng sâu, chấp ngã, ngã sở, các thứ vọng chấp, theo việc phan duyên, phân biệt sáu trần gọi là ý thức, cũng gọi là ly thức. Nương kiến và ái mà khởi, đâu can dự gì đến sáu bậc khác nhau trongvọng thức.

  1. Cộng chung với chân là bảy.
  2. Sự thức có bốn. Như luận nói:
  • Tướng chấp thủ: Luận cũng gọi là chấp tương ưng nhiễm, nghĩa là căn bản chấp tánh vô minh.
  • Tướng kế danh tự: Nghĩa là mười sử thô khởi phiền não, theo tên chấp trước ngã, chúng sinh, v.v… nhóm khởi các kiết sử, cho nên nói là Tướng kế danh tự.
  • Tướng khởi nghiệp: Nương phiền não tạo ra các nghiệp.
  • Tướng nghiệp hệ khổ: Nương nghiệp thọ báo.

Lấy đây chung với trước hợp thành mười một.

Nếu theo sáu thức khai hợp trong sự, chung với trước thành mười ba.

Nếu theo chân, chia ba đại Thể, Tướng, Dụng khác nhau, chung với trước thành mười lăm.

Lại theo nghĩa chia, cũng được chia thức thành mười tám: Trong sáu thức kia, sự thức có sáu. Vọng thức gốc của sự thức có sáu. Chân thức mà vọng thức nương có sáu, nên có mười tám.

Hỏi: Nếu khiến vọng, chân đều có sáu, vì sao trong kinh chỉ nói tám thức?

Đáp: Vì sự thức có nghĩa khác nhau, nói lên y theo căn chia ra làm sáu. Còn vọng và chân không rõ ràng, chẳng chia theo căn nên chỉ nói tám.

Lại chia theo nghĩa, cũng được chia thành sáu mươi: Nhãn thức có mười, cho đến ý thức cũng đồng như vậy.

Mười nhãn thức:

Sự thức có một, ngay nơi tướng có thể tự biết.

Vọng thức có sáu, cũng như trên đã nói: Bắt đầu từ vô minh cho

đến tương tục.

Chân thức có ba, cũng như trên nói là Thể, Tướng, Dụng.

Trong nhãn thức có mười lớp này, cho đến ý thức cũng đồng như vậy, nên có sáu mươi.

Nếu lại nói rộng, số chia khó cùng. Các loại rộng lược này, mỗi thứ theo một môn.

Thể tướng như thế.

3. Lựa chọn căn trần có không:

Trong đây có hai môn:

  1. Theo ba thức: sự, vọng và chân để phân biệt có – không.
  2. Theo ba thức chân – vọng và cộng tướng để phân biệt có – không.

1. Theo ba thức: sự, chân, vọng để phân biệt có không. Lại chia thành hai môn:

a- Phân biệt căn trần có – không. b- Nói về chỗ nương thô – tế khác nhau.

a. Căn trần có – không: chia làm ba môn: 1) Phân biệt chung riêng:

  • Vì sáu thức riêng nên có căn – có trần.
  • Thức thứ bảy và tám chung nên không nói căn trần.

Vì sao? Vì sáu thức riêng, kia đây khởi lẫn nhau. Vì khởi lẫn nhau nên sinh phải có nương tựa, nương tựa có mạnh yếu. Mạnh là căn, yếu là trần, nên nói có căn trần.

Hỏi: Kinh Lăng-già nói: Cảnh giới sáu thức đều đến một lúc cùng dùng, vì sao nói sáu thức khởi lẫn nhau có căn, có trần?

Đáp: Như trên đã nói, nay lại nói thêm. Lăng-già nói cảnh giới đều đến, một thời cùng dùng. Theo luận Khởi Tín là hiện thức thứ tư trong vọng thức. Ở trong thức này, cảnh giới đều đến, các thức đều khởi tác dụng, không liên can đến sự thức. Sáu thức trong sự không có nghĩa cùng khởi tác dụng.

Hỏi: Vì sao sáu thức ở trong vọng cùng khởi tác dụng một lúc, mà sự thức lại không như vậy?

Đáp: Ở trong vọng thức kia, nói tất cả pháp đều là tâm tạo. Ngoài tâm không có cảnh. Pháp do tâm tạo không ngăn cách với tâm, dễ nói rõ được, nên được cùng chiếu.

Ở trong sự thức, ngoài tâm có pháp, pháp không phải tâm tạo. Pháp không phải tâm tạo thì khác thể với tâm, khó có thể nói rõ, nên không cùng biết. Vì không cùng biết, trước, sau gián đoạn mà khởi nên lập căn trần.

Thức thứ bảy và tám thường có thể, chẳng khởi lẫn nhau thì không nương gá. Vì không nương gá nên không thể nói rằng cái mạnh là căn, cái yếu là trần. Cho nên thức thứ bảy, thứ tám không nói căn, trần.

Đây là theo lúc phàm phu để phân biệt có – không, nếu theo lúc thành thánh thì thức thứ bảy, thức thứ tám duyên Pháp thân, khởi ra vô lượng căn trần.

Hỏi: Sáu loại trước nương căn để hiển bày rõ trần có thể gọi là Thức. Hai loại sau thường chung, không nói nương căn để rõ biết các trần. Vì sao gọi là Thức?

Đáp: Hai loại sau tuy không có sự phân biệt dụng mà là tánh thần tri của chúng sinh, biết rõ thể nên gọi là Thức.

Hỏi: Thể liễu biệt của thần tri, gọi là Thức, vậy thể là thức chăng?

Đáp: Thể của hai tâm thức này, thể tức là Thức.

Hỏi: Nếu thể của tâm thức nên gọi là Thức, thì căn và trần lẽ ra cũng có thể, vì sao không nói căn trần?

Đáp: Vì căn tuy có “thể”, được gọi là căn mà chẳng phải đối với trần sinh dụng của thức; Trần tuy có “thể”, được gọi là trần, mà chẳng đối với căn sinh ra dụng của thức; Thức tuy có “thể”, được gọi là Thức mà chẳng nương căn biết rõ dụng của trần. Vì thể của thức này không nương dụng của căn nên không nói căn, không rõ dụng của trần nên không nói trần.

Hỏi: Vừa nói căn trần có “thể”, cái nào là gốc?

Đáp: Hai tâm chân, vọng tạo ra căn – trần, có thể làm gốc cho sự, là thể.

Nói về chung riêng như thế.

  1. Phân biệt chân vọng: Bảy vọng thức trước có căn, có trần. Chân thức thứ tám không nói căn trần.

Sáu sự thức trước, căn trần có thể tự biết.

Vọng thức thứ bảy là pháp vô thường, niệm niệm sinh diệt. Sinh có nương gá nên nói có Căn. Tánh là pháp phân biệt, phan duyên nên nói là Trần.

Chân thức là pháp thường, thể không khởi diệt. Vì không khởi, không chỗ nương gá, nên không nói Căn. Tánh chẳng phải pháp phân biệt phan duyên nên không nói có Trần.

  1. Theo chung để chia riêng:

Tám thức đều có căn, cũng có cả trần. Nên kinh Lăng-già nói:

Nương cảnh và căn nên có tám thức sinh.

Căn tướng thế nào?

Sáu thức trước có thể tự biết.

Trong thức thứ bảy có thể, có dụng.

Nói về thể: Vô thường, trôi lăn; mượn trước sinh sau, nghĩa nói là căn, tánh là vô minh, mê lấp chân pháp. Chân pháp tức là trần bị mê.

Nói về dụng: Nhãn v.v… là căn, sắc v.v… là trần.

Nghĩa này thế nào?

Tức căn trần mà sự thức ở trước nương, dùng lý suy cùng thì đều là vọng tưởng từ tâm hiện ra: Giống như căn trần hiện trong mộng. Căn trần hư vọng này là chỗ nương của sáu thức vọng tưởng, gọi là dụng căn trần trong thức thứ bảy.

Trong thức thứ tám có thể, có dụng.

Nói về thể: Theo nghĩa trong pháp đồng thể Như Lai Tạng, mà nói về căn trần. Như Lai Tạng kia chẳng những là thể của tâm thức, mà còn là thể của căn. Kinh nói: Trong thân chúng sinh có mắt Như Lai, tai Như Lai, v.v… Phật pháp Hằng sa trong Như Lai Tạng bị tâm chiếu thì gọi là Trần, nên Mã Minh nói: Từ xưa đến nay, nghĩa chiếu khắp tất cả pháp giới.

Nói về dụng:

Lại dùng mắt, v.v… của chúng sinh làm căn, sắc v.v… làm trần. Nghĩa này thế nào?

Tức căn trần mà sự thức ở trước nương gá, suy cùng lẽ thật đều là do chân tâm tạo ra. Như căn, trần trong mộng của người đều do báo tâm tạo. Đây là do chân tạo, lai làm chân dụng, chỗ nương của sáu thức, gọi là căn trần tập dụng trong sự thức.

Chung có như thế.

Hỏi: Tám thức có chung căn – trần, vì sao trong kinh chỉ theo sự thức mà nói căn, nói trần?

Đáp: Vì sự thức trước có thể riêng, sinh khởi lẫn nhau, nghĩa nương gá rõ ràng nên theo căn – trần để chia ra sáu thức. Hai loại sau, thể chung cho, trước sau thường có, nghĩa nương gá yếu ớt, do đó không nói.

b. Nói về chỗ nương thô – tế khác nhau: Trong đây dùng bốn trường hợp phân biệt:

  1. Dùng thô nương tế: Nương vào chân thức khởi vọng trần, nương vọng thức khởi sáu sự thức. Lại, trong sáu thức, nương ý thức khởi ra năm thức. Đây đều gọi là dùng thô nương tế.
  1. Dùng tế nương thô: Nương sắc căn, sinh năm thức tâm chung với pháp tế. Nương năm thức sinh ý thức. Những loại này gọi là dùng tế nương thô.
  2. Đồng loại nương nhau: Trong ý thức có nhiều nghĩa nhiễm niệm nối tiếp, trước sau nương nhau, đồng loại nên nói nương. Thể sinh diệt của thức thứ bảy, sinh khởi lẫn nhau cũng là đồng loại để nói là nương (y).
  3. Đồng thể nương nhau: Thể của thức thứ tám lại nương tự thể, pháp giới như thật. căn – trần, có – không của ba thức sự, vọng và chân như thế.

    2. Theo ba thức cộng tướng chân – vọng để nói có – không:

Nói cộng tướng thứ ba là chân và vô minh, cộng thành bản thức. Nương bản cộng khởi các thức A-đà-na, nương bản cộng khởi sáu sinh thức.

Trong ba thức này sáu thứ khởi thức, có căn, có trần. Căn có hai loại: Một là thật y, nương bản thức mà sinh. Hai là tợ y, vì nương sáu căn do tự tâm tạo ra. Như sáu thức nhãn, v.v… của người nằm mộng, thật nương tâm ngủ, tợ nương mắt, v.v… mà thật không nương. Chỗ có trần, chỉ là tợ trần, đều không có sự thật. Như người trong mộng thấy sắc, v.v… không thật có mà dường như có.

Thức A-đà-na cũng có căn trần. Căn có hai loại: Một là thật nương, nghĩa là, nương bản thức mà sinh. Hai là tợ y. Đồng loại so với nhau, tợ như pháp trước sinh pháp sau, như tâm chấp ngã của người nằm mộng, thật nương tâm ngủ. Đồng loại nương nhau tợ như pháp sau nương pháp trước. Chỗ có trần chỉ là tợ trần, đều không có việc thật, như người lúc ngủ, chấp thân trong mộng là ngã, không có thân để chấp giữ.

Một loại bản thức không có sinh chỗ nương, được gọi là không căn; nhưng thể sinh diệt, mượn pháp trước để khởi pháp sau cũng được nói là căn. Bản thức chẳng có duyên, không nói có trần, nhân mê pháp chân cũng được nói có trần.

Nói sơ lược về căn trần có – không như thế.

4. Nói về hai nghĩa Đại – Tiểu, Có – Không: Trong pháp Tiểu thừa chỉ nói sáu thức.

Trong pháp Đại thừa nói tám THỨC.

Trong pháp Tiểu thừa, chưa nói nghĩa vọng tưởng của tâm tánh, nên không có thức thứ Bảy. Chưa nói thể tánh chân thật của tâm nên không có thức thứ tám.

Hỏi: Tiểu thừa cũng nói sáu thức, thể là tâm ám hoặc chấp tánh. Do nghĩa nào mà không gọi là vọng thức?

Đáp: Tuy ám, hoặc đồng tên mà chỗ mê có khác. Trong pháp tiểu thừa Tâm ám hoặc chấp tánh mà đối với pháp ngoài tâm, vọng chấp tự tánh, không biết nghĩa danh, dụng không có tánh. Vọng thức được nói trong Đại thừa mê lấp chân tánh, đối với pháp do tự tâm của mình hiện, vọng chấp là có. Cho nên khác nhau.

Hỏi: Cái hiểu về không quán của Bích chi, La hán trong Tiểu thừa và duyên trí trong Đại thừa có gì khác nhau?

Đáp: Khác nhau. Hiểu về “không quán” trong Tiểu thừa là, hiểu biết về nghĩa không, danh dụng vô tánh, mà chẳng biết không có pháp vọng tưởng được hiện từ tâm của các pháp.

Trí vọng thức trong pháp Đại thừa là hiểu biết ngoài tâm hoàn toàn không có pháp, chẳng những không có tánh cho đến không có tướng nhân duyên. Chỉ là tâm ám hoặc vọng tưởng hiện như việc hiện trong mộng. Khác nhau như thế.

Hỏi: Trong pháp Tiểu thừa cũng nói các pháp tâm thể hợp thành, có gì khác với chân thức trong Đại thừa?

Đáp: Nhưng nhưng đều ấy, đối với Tiểu thừa thật là tâm chân thật của đạo lý. Còn trong Đại thừa, đó là tuyên nói cộng tuiwsng của pháp nhân duyên hư vọng hợp thành nên chẳng phải chân thức.

5. Nói về nghĩa y trì Trong đây có hai:

  1. Chân vọng đối nhau để nói y trì.
  2. Theo gốc ngọn đối nhau trong chân – vọng cộng tương để nói về y trì.

1. Phần đầu: Lại chia làm ba:

Chân vọng đối nhau để nói về y trì.

Chỉ theo vọng.

Chỉ theo chân.

a. Chân vọng đối nhau y trì (nương giữ) thế nào?

Bảy vọng thức trước có tình mà không có thể, muốn khởi phải gá chân, đó gọi là y. Nên kinh Thắng-man nói: Hai pháp sinh tử nương Như Lai Tạng. Kinh Địa Trì cũng nói: Mười hai nhân duyên đều nương nhất tâm nên nói là Trì. Kinh Thắng-man nói: không có Tàng thức thì bảy pháp chân tâm thứ 8 tướng ẩn mà tính thật, thường vì gốc cho vọng,giữ 258gìn nơi vọng không trụ. Không trồng được khổ, vui, cầu Niết-bàn.

Đây nghĩa là chân vọng y trì. Vọng nương chân, giống như sóng nương nước. Chân giữ vọng, như nước giữ sóng. Nên kinh Lăng-già nói:

Ví như sóng biển lớn,

Đây do gió mạnh thổi

Sóng to vỗ biển rộng

Không có khi nào dừng

Biển tàng thức thường trụ

Gió cảnh giới nổi dậy

Lớp lớp các sóng thức Ào ạt mà chuyển sinh.

Biển lớn vô minh tuy bị gió thổi, nhưng tánh nước không thay đổi. Do Tánh không thay đổi nên gọi là thường trụ. Tánh tuy thường trụ mà tướng nước kia theo gió chuyển sóng, dụ cho chân thức tuy bị gió cảnh giới vọng tưởng làm động mà chân tánh bất biến. Tuy tánh bất biến mà chân tướng theo cảnh giới vọng khởi ra bảy thức, như sóng mòi của biển.

Trong kinh Lăng-già nói cảnh giới là gió. Trong luận Khởi Tín, nói vô minh là gió. Vì sao? Vì những loại này đều có nghĩa dao động. Nếu lại nói về động thì vô minh, vọng tâm, vọng cảnh đều được gọi là gió. Nên luận Khởi Tín nói: Vô minh, vọng tâm, vọng cảnh đều là huân tập; huân tập động chân tâm, tức là nghĩa gió. Có điều, luận ấy theo căn bản nên nói vô minh là gió, còn Lăng-già theo ngọn nói cảnh giới là gió, đều chẳng hại gì.

Có người cứ nói nước biển dụ cho thức thứ bảy không phải dụ cho chân thức. Lời này rất lệch lạc. Như trong kinh nói: Như Lai thức là Tàng thức, vọng tâm thứ bảy là Nghiệp tướng thức. Kinh (Lăng-già quyển một) tự nói: Tạng thức như biển lớn, nghiệp tướng như sóng mòi. Vì sao lại nói nước dụ cho thức thứ bảy? Văn kinh lại nói: Như Lai Tạng bị ác tập hư vọng từ vô thỉ huân tập, gọi là Tàng thức, sinh vô minh trụ địa cùng chung với thức thứ bảy như sóng trong biển. Vì sao nước biển không dụ cho chân thức? Vì người đời mê lấp chân tâm. Vọng chấp nghĩa “không” làm chân thức, nên soạn luận này.

Chân vọng đối nhau nương giữ như thế.

Hỏi: Chân vọng là một nên nương nhau hay khác mà nương nhau?

Đáp: Nghĩa này không nhất định. Nếu hoàn toàn một thể thì không nương giữ, nếu hoàn toàn khác thể cũng không nương giữ. Không phải một không phải khác nên nói nương giữ. Kinh Lăng-già (quyển I) nói: Chẳng khác, chẳng không khác Tâm cùng hòa hợp sinh.

Ở đây nói vọng thức là chân tâm hòa hợp sinh. b. Theo vọng để nói về nương giữ

Vọng thức thứ bảy là gốc của các giả dối gọi là Năng trì. Sáu sự thức trước nương vọng mà khởi, gọi là năng y. Năng trì như nước, năng y như sóng. Sóng sinh ở nước, nước hết thì sóng diệt. Tình trạng như thế, nên kinh Lăng-già nói:

Như dòng nước lớn cạn

Sóng mòi sẽ chẳng nổi Cũng vậy ý thức diệt

Các thứ thức chẳng sinh.

Kia gọi vọng thức là ý thức, sáu sự thức là các thức khác.

Vì vọng thức là gốc của sáu thức. Ý vọng tướng diệt khiến các thức sáu thức chẳng sinh.

Gốc ngọn đối nhau nương giữ như thế. c. Chỉ theo chân để nói về nương giữ.

Chân có thể, dụng. Chân tâm vốn thanh tịnh gọi là Thể, tùy duyên ẩn hiển gọi là Dụng. Dụng phải nương thể gọi là Y. Thể hay giữ dụng, nên nói là trì, năng trì như nước; năng nương (y) như sóng. Dụ sợi giây, con rắn, v.v… cũng giống như thế.

Chân vọng đối nhau nương giữ như thế.

2. Theo gốc ngọn đối nhau trong chân – vọng cộng tướng để nói về nương giữ:

Chân hợp với si cộng thành bản thức. Nương bản cộng khởi thức A-đà-na. Nương bản cộng khởi sáu sinh thức. Ở trong phần này, bản thức là gốc, hai loại sau là ngọn. Ngọn nương gốc mà sinh, gọi là nương; gốc giữ gìn ngọn, nối tiếp không ngừng gọi là giữ. Năng trì như nước, năng y như sóng.

Hỏi: Thức A-đà-na trong ngọn cùng khởi sáu thức, có được nghĩa nương giữ nhau chăng?

Đáp: Không được, trong phần này, sáu thức đích thân khởi từ bản thức, bản thức biến thành, thể là bản thức. Hướng về bản thức nói nương, nói giữ, không phải là A-đà-na biến thành sáu thức. Thể của sáu không phải thức A-đà-na. Nên so với A-đà-na không nói nương giữ. Như thấy, nghe, hiểu, biết của người trong mộng từ tâm ngủ sinh; không từ tâm chấp ngã trong mộng khởi. Nếu theo duyên do để nói nương, nói giữ thì cũng được, không hại gì. Nghĩa này thế nào?

Đáp: Do tâm A-đà-na chấp ngã huân tập nơi bản thức, không thấy pháp Như, không chứng Niết-bàn, biến ra sáu thức và sáu căn, sáu trần, lìa nó thì không có. Nên kinh (Địa kinh luận quyển 8) nói rằng: Vì chấp ngã nên thế gian thọ thân, lìa ngã thì không có nữa, theo nghĩa này được nói nương giữ.

Nói về nương giữ như thế.

6. Nói về nghĩa huân tập:

Trong đây có hai:

  1. Theo thức chân vọng biệt tướng để nói về huân tập.
  2. Theo thức chân vọng cộng tướng để nói về huân tập.

1. Phần đầu lại chia làm ba: a- Định huân tập pháp thể. b- Giải thích chung nghĩa huân tập. c- Nói rộng Về huân tập lẫn nhau. a. Pháp huân tập:

Trong luận Khởi Tín nói có bốn loại: Tịnh pháp huân tập: Chân như Nhân nhiễm huân tập: Vô minh.

Vọng tâm huân tập: Nghiệp thức, trong thức thứ bảy bắt đầu từ nghiệp thức cho đến thức tương tục, gọi chung là Nghiệp thức.

Vọng cảnh huân tập: Cảnh luống dối do tâm vọng tưởng phát khởi.

Loại bốn này như trong luận Địa Trì (quyển 2) nói: Như là như thật, phàm phu không biết khởi tám thứ vọng tưởng, sinh hai việc. Chân như huân tập ví như thật kia, vô minh là phàm ngu chẳng biết, vọng tâm là khởi tám thứ vọng tưởng kia; vọng cảnh là sinh việc luống dối đầu tiên trong ba việc kia.

Hỏi: Sự thức và sự căn trần, vì sao không nói huân tập?

Đáp: Vì điều này chưa khởi huân tập nên không nói. b. Nói chung về huân tập:

Như trong luận nói: Nghĩa huân tập là như áo không có mùi thơm, xông ướp khiến cho có mùi thơm. Tâm cũng như thế. Trong chân không có nhiễm, vọng huân tập khiến có. Trong vọng không có tịnh, chân huân tập khiến có. Nên trong vọng kia khởi được hạnh phương tiện đối trị. Luận giải thích như thế.

c. Giải thích rộng về tướng huân tập: Trước nói về khởi nhiễm,

sau nói về khởi tịnh.

1) Theo khởi nhiễm: Có hai nghĩa:

  1. Theo bốn pháp trước, nói về thứ lớp sinh nhau của huân tập.
  2. Nói riêng về chỗ khởi của huân tập khác nhau.a. Tướng sinh:

Như trong luận nói: Vì nương pháp chân như bậc nhất, liền khởi nhân nhiễm vô minh thứ hai. Vì có nhân pháp nhiễm vô minh, huân tập chân như liền khởi vọng tâm. Như người ngủ vùi, che lấp báo tâm nên liền khởi tâm mộng. Vì có vọng tâm huân tập vô minh, không rõ chân như vắng lặng bình đẳng, bất giác niệm khởi liền sinh cảnh vọng. Như người nằm mộng, tâm động phát mờ mịt, khởi cảnh giới mộng. Vì có cảnh vọng huân tập vọng động, tâm liền khởi niệm dính mắc, gây ra các nghiệp, chịu các thứ khổ. Niệm cũng là ái; dính mắc cũng là kiến. Phiền não kiến – ái trong sự thức này tạo nghiệp chịu khổ, đều nương vọng mà sinh.

Tướng sinh như thế.

b. Chỗ khởi của huân tập khác nhau:

Như trong luận nói: Từ ngọn tìm gốc, thứ lớp trình bày:

Nơi Vọng cảnh khởi huân tập có hai:

  • Thêm lớn niệm, niệm là ái.
  • Thêm lớn thủ, thủ là kiến.

Nơi Vọng tâm khởi huân tập, cũng có hai:

  • Huân tập khởi quả biến dịch là chịu sự biến dịch của Thanh văn, Duyên giác, khổ nhỏ nhiệm của Bồ-tát.
  • Khởi quả phần đoạn là khổ thô phần đoạn của phàm phu. Do năng lực liên tục trong vọng thức giữ gìn các nghiệp, mà được các quả ấy.

Vô minh huân tập, sinh khởi cũng có hai:

  • Vì vô minh che lấp chân tâm, chịu vọng huân tập thành hạt giống vọng, sinh ra vọng thức.
  • Vì vô minh che lấp chân tâm chịu sự huân tập của thiện ác, thành hạt giống sự, sinh ra sự thức.

Chân như huân tập, sinh khởi cũng có hai:

  • Khởi vô minh
  • Khởi vọng tâm

Vì chân như vô phân biệt, sinh khởi vô minh, tánh giác kết bị hoặc che liền sinh vọng tâm. Như người chấp tâm là tánh biết. Ngủ mê che liền sinh cái biết mộng.

Khởi nhiễm như thế.

2) Nói về khởi tịnh:

Khởi tịnh có hai:

  1. Nói về chân huân tập vọng.
  2. Vọng huân tập chân.

a. Trong chân huân tập vọng, ban đầu nói về năng huân tập, sau

nói về Sở huân tập.

Năng huân tập, có hai:

Chân thể huân tập và chân dụng huân tập.

  • Thể huân tập:

Như trong luận nói: Từ vô thỉ đến nay có đủ pháp vô lậu và tánh tạo nghiệp không thể nghĩ bàn, huân tập vọng tâm có thể khiến cho chúng sinh chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn. Tự tin thân mình có pháp chân như, phát tâm tu hành. Bản thể của Pháp thân gọi là pháp vô lậu; nhân gốc của báo thân Phật gọi là tánh tạo nghiệp. Hai loại này cũng đã phân biệt rộng như trong nghĩa Phật tánh. Từ hai loại này, có thể huân tập vọng.

Hỏi: Nếu chân như có thể huân tập vọng mà khởi hạnh thiện, thì tất cả chúng sinh đều có chân như, sao không đợi cùng huân tập để phát tâm tu hành, hướng đến Niết-bàn? Mà các chúng sinh có người tin, người không tin hơn kém, trước sau khác nhau đến vô lượng?

Luận tự giải thích: Chân như vốn là một mà phiền não của chúng sinh có dày, mỏng khác nhau. Cho nên có trước sau, hơn kém không đều. Lại, trong Phật pháp có nhân, có duyên. Đầy đủ hai loại này mới thành tựu được. Giống như trong cây tuy có tánh lửa mà có người dùi mới phát ra. Nếu không có người dùi thì lửa không thể tự cháy. Chúng sinh cũng vậy, tuy có tánh Như mà không có nhân chính. Nếu không có các duyên: bạn tốt, chư Phật, Bồ-tát để khởi hạnh thì pháp chân không thể tự trừ phiền não, tự thành Niết-bàn.

  • Dụng huân tập:

Luận (nghĩa ký) tự giải thích: Tức là năng lực duyên bên ngoài của chúng sinh, là Phật, là Bồ-tát. Chứng chân như rồi khởi dụng nhiếp hóa chúng sinh khiến tu pháp lành. Trong đây có hai: Duyên sai biệt và duyên bình đẳng.

  • Duyên sai biệt:

Luận tự giải thích: Người tu hành nương Phật, Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến thành Phật. Ở khoảng giữa, hoặc thấy hoặc nghe chư Phật, Bồ-tát, hoặc làm quyến thuộc, hoặc làm thầy tổ, hoặc làm bạn tốt, hoặc làm tôi tớ, hoặc làm kẻ thù. Chư Phật, Bồ-tát đối với chúng sinh này dùng phương tiện từ bi, dùng bốn nhiếp mà nhiếp hóa, khiến họ tăng thêm hạnh lành, giúp vào chánh đạo, gọi là duyên sai biệt.

Trong sai biệt này có gần có xa. Gần là mau lẹ, xa là sâu xa. Đây là thân ứng hóa.

  • Duyên bình đẳng:

Luận tự giải thích: chư Phật Bồ-tát từ lâu đã phát nguyện lớn, thề độ tất cả. Do năng lực huân tập thiện căn này, tự nhiên thường theo tất cả chúng sinh, ứng theo sự thấy, nghe mà vì họ thị hiện là thị hiện, Pháp thân bình đẳng của Như Lai. Khiến các chúng sinh nương năng lực Tam-muội bình đẳng mà thấy Phật. Đây là lợi ích của chân thân.

Năng huân tập như thế.

Sở huân tập:

Như trong luận chép: Sở huân tập có hai:

  • Chưa tương ưng: Huân tập người mới phát tâm trong phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát, khiến ở tâm của thức thứ sáu và thứ bảy tin thuận tu hành, chưa thể bỏ vọng, tương ưng với thật.
  • Đã tương ưng: Huân tập Pháp thân xuất thế của Bồ-tát, khiến bỏ vọng tâm, trừ diệt vô minh, khế chứng chân như, tương ưng với Pháp thân Phật Như Lai, không có phân biệt. Chỉ nương pháp lực tự nhiên tu hành hướng về biển trí của Phật.

Môn trên là nói về chân huân, vọng tập, khởi pháp tịnh. b. Nói về vọng tâm huân chân, phát sinh pháp tịnh.

Trong đây có hai: Năng huân tập và sở huân tập.

Năng huân tập: Có chung, có riêng.

Huân tập chung:

Luận tự giải thích: Vì có vọng tâm chán lìa sinh tử, cầu Niếtbàn, nên huân tập chân tâm, tự tin tánh mình chỉ là chân như, ngoài như không có pháp. Chỉ là vọng tâm điên đảo mà thấy. Vì biết cảnh bên ngoài không thật có nên dùng các thứ phương tiện, tu tập hạnh lìa nhiễm hướng chân. Tuy có tu mà chẳng chấp, chẳng nhớ. Nhờ năng lực tu lâu, vô minh sẽ dứt. Vô minh diệt thì vọng tâm không sinh. Vọng tâm không sinh thì vọng cảnh theo đó dừng. Tâm tướng đều dứt gọi là được Niết-bàn. Được Niết-bàn thì tự nhiên thành tựu nghiệp dụng không thể nghĩ bàn đầy khắp pháp giới.

Nói về Tướng chung như thế.

Huân tập riêng:

Luận giải thích có hai:

Sự thức huân tập: Phàm phu, Nhị thừa chán khổ sinh tử, thú hướng Niết-bàn. Trong sáu thức này, phương tiện tu hành huân tập phát chân.

Ý huân tập: Các Bồ-tát thấy pháp hư vọng không nên tham giữ. Biết pháp chân như vắng lặng an ổn, phát tâm mạnh mẽ hướng đến Đại Niết-bàn.

Trong thức thứ bảy này, phương tiện tu hành, huân phát chân như, vì vọng thức sinh ra sự thức. Chỗ nương để sinh sự thức gọi là ý. Chẳng phải ý căn giới trong sự thức.

Nói về Năng huân tập như thế.

Sở huân tập có hai:

Huân tập sinh: Huân tập sinh phương tiện công đức của Báo Phật.

Huân tập hiển: Huân tập hiển bày công đức tánh tịnh của Pháp thân Phật.

Chân vọng, biệt thức, huân tập như thế.

Hỏi: Chân vọng huân tập nhau có trước, sau hay cùng một lúc?

Đáp: Huân tập nhau là ở đồng thời, nghĩa này thế nào?

Các pháp nhiễm tịnh, chân vọng cùng khởi. Riêng mình chân thì không sinh, chỉ có vọng cũng không thành. Vì sao?

Chỉ chân mà không có vọng thì tánh chân thường lặng, vô vi bất biến nên không khởi tác dụng. Chỉ vọng mà không có chân thì thể vọng không lập, cũng không có tạo tác. Nên kinh Thắng-man nói: Nếu không có tàng thức, bảy pháp không trụ, không gieo được giống khổ, không được chán khổ, ưa cầu Niết-bàn. Chân vọng nương nhau mới tạo tác được tất cả các pháp. Vì cùng tạo nên xếp pháp theo tình thì đều vọng làm, nhiếp pháp vào gốc thì đều là tâm tạo. Như người làm các việc trong mộng. Xếp sự vào ngọn là việc làm mờ mịt. Nhiếp việc theo gốc là do báo tâm làm. Cũng như người đời cho sợi dây là con rắn. Xếp rắn theo tình thì do vọng tình làm ra. Xếp rắn theo gốc thì đều là sợi dây tạo. Các pháp cũng giống như thế. Chân tuy năng tạo, tạo thì theo tình, như sợi dây làm thành con rắn, rắn ắt phải do tình mờ tối. Vọng tuy năng tạo, tạo thì nương chân, như tình tạo ra con rắn, rắn nương vào sợi dây. Chân không do tình gọi là vọng huân tập chân. Vọng tạo do chân, gọi là chân huân tập vọng. Nghĩa tương huân tập như thế không có trước sau nên nói một lúc. Chân vọng huân tập nhau, chỉ cốt ở đây, không nên chẳng nhớ.

2. Theo chân – vọng, thức cộng tướng để nói về huân tập:

Thức cộng tướng: Phật tánh chân tâm và vô minh địa hợp thành Bản thức, gọi là A-lại-da. Nương bản thức biến khởi thức A-đà-na là tâm chấp ngã. Nương bản thức biến khởi sáu thức, và sáu căn, sáu trần như nhãn, v.v…. Nghĩa như trên đã nói. Nay theo ba loại này nói về tướng huân tập.

Như Nhiếp Luận nói, ở đây chia làm ba môn:

a- Nói về tướng huân tập. b- Nói về năng huân tập, sở huân tập khác nhau. c- Nói về thọ huân tập, chẳng thọ huân tập khác nhau. a. Tướng huân tập thế nào?

Bây giờ, trước nói rõ nghĩa tướng thức A-đà-na huân tập với Alại-da.

Tâm chấp ngã A-đà-na kia, huân tập ở bản thức thành hạt giống ngã. Bản thức chịu A-đà-na huân tập rồi lại có thể dẫn tánh ngã trong tâm, sinh A-đà-na, huân tập nhau như thế, qua lại vô cùng, cho nên Ađà-na so với bản thức làm nhân quả lẫn nhau.

Hỏi: Ngã này do đâu mà dứt sạch?

Đáp: Do trong sáu thức, nghe dạy về vô ngã, dạy tu, hiểu về vô ngã, huân tập vào bản thức thanh hạt giống vô ngã. Chân tâm trong bản thức chịu kia huân tập rồi, huân tập vào vô minh trong bản thức khiến hạt mỏng. Vô minh mỏng khiến hạt giống ngã trong vô minh càng mỏng. Hạt giống ngã càng mỏng, chuyển sinh chấp ngã A-đà-na cũng mỏng, lần lượt như thế cho đến cùng tận.

Kế đến, đem sáu thức đối với bản thức, để nói về tướng huân tập và phát khởi. Trong sáu thức kia, khởi nhiễm – khởi tịnh. Lỗi khởi nhiễm, huân tập vào bản thức. Tất cả tánh mờ tối trong bản thức, chịu tánh nhiễm huân tập, thành hạt giống nhiễm. Hạt giống thành rồi, vô minh dày nên sinh ra sáu thức. Trong sáu thức, lỗi nhiễm càng thêm. Như thế dần dà chứa nhóm không cùng. Tất cả hạnh thiện trong sáu thức, huân tập vào bản thức. Ở trong bản thức, Phật tánh chân tâm gọi là giải tánh. Giải tánh được pháp tịnh huân tập thành hạt giống thanh tịnh. Hạt giống thanh tịnh thành tựu rồi, huân tập vào vô minh, vô minh càng mỏng. Vô minh mỏng biến khởi sáu thức. Ở trong thức, thiện khởi càng mạnh lần lượt như thế cho đến rốt ráo. Cho nên sáu thức so với bản thức, thì làm nhân quả lẫn nhau.

Luận nói như thế.

b. Sự Sai khác của năng huân tập và sở huân tập: 1) Luận nói năng huân tập, lược có ba loại:

  1. Ngôn thuyết huân tập: Luận cũng gọi là danh tự huân tập. Danh tự huân có hai loại:

Thanh danh: Phân biệt danh ngôn.

Tâm ngữ danh: Phân biệt giác quán.

Vì các phàm phu theo đuổi tất cả danh tự của các pháp ấm, giới, nhập v.v… phân loại chấp giữ, huân tập vào bản thức thành hạt giống các pháp ấm, giới, v.v…

  1. Ngã kiến huân tập:

Dùng thức A-đà-na và tâm ngã kiến trong sáu thức, huân tập vào bản thức thành hạt giống ngã.

  1. Hữu phần huân tập:

Nghiệp thiện ác là nhân ba cõi gọi là hữu phần. Vì nghiệp thiện ác huân tập vào bản thức thành hạt giống thiện ác gọi là hữu phần huân tập.

Năng huân tập như thế.

2) Sở huân tập: Là chỗ khởi, luận gọi là sự dụng chia thô thì có bốn, chia tế có mười một loại.

a) Chia thô có bốn:

Dẫn sinh: Bản thức bị thiện ác, v.v… kia huân tập thành hạt giống rồi, dẫn hạt giống ấy sinh quả vị lai.

Quả báo: Bản thức bị thiện ác, v.v… kia huân tập, biến thành tất cả quả báo khổ, vui, v.v…

Duyên tướng: Bản thức bị ngã kiến kia huân tập, khởi lên sự khác nhau về ngã, ngã sở, tự, tha, v.v…

Tướng mạo: Bản thức bị ngôn thuyết kia huân tập, khởi phát tất cả những việc hoặc trong, hoặc ngoài, ấm, giới, nhập, hữu vi, vô vi, v.v… Lại được chia làm bốn:

Tợ ngã thức: Ngã được chấp giữ trong A-đà-na và sáu thức; chẳng phải có mà dường như có, nên nói tợ ngã. Như thân trong mộng, bản thức biến làm thể. Bản thức này gọi là tợ ngã thức.

Tợ căn thức: Sáu căn như mắt, v.v… chẳng thật có mà dường như có, gọi là tợ căn. Bản thức biến thành thể. Bản thức này gọi là tợ căn thức.

Tợ trần thức: Sáu trần như sắc, v.v… chẳng thật có mà dường như thật có, gọi là tợ trần. Bản thức biến thành thể. Bản thức này gọi là tợ trần thức.

Tợ thức thức: Tâm A-đà-na và sáu thức, không thật có mà dường như có, nghĩa là tương tợ cái có của phàm phu chấp, gọi là tợ thức thức.

Bản thức biến thành thể. Bản thức này gọi là tợ thức thức.

Thô chia như thế.

b) Chia Tế có mười một:

Như trong luận (Nhiếp luận dịch vào đời Lương quyển 5) chép:

Thân thức: Năm căn thân v.v… Bản thức biến thành thể là bản thức.

Thân giả thức: Tâm chấp ngã A-đà-na. Bản thức biến thành thể là bản thức.

Thọ giả thức: Luận nói là ý. Ý căn giới này ở khắp các trần, lãnh nhận gọi là thọ, Bản thức biến thành thể là bản thức.

Ứng thọ thức: Cảnh sáu trần lẽ ra vì tâm thọ, nên nói ứng thọ. Bản thức biến thành thể, là bản thức.

Chánh thọ thức: Sáu thức tâm, chánh thâu nhận sáu trần, lãnh nạp gọi là thọ. Bản thức biến thành thể, là bản thức.

Thế thức: Thời gian, ba thời. Bản thức biến thành thể, là bản thức.

Số thức: Trăm, ngàn v.v… nghĩa Thức như ở trên.

Xứ thức: Là cõi nước, nghĩa Thức như trên.

Ngôn thuyết thức: Tất cả nói năng. Thức như trước đã giải thích.

Chín loại này là thuyết huân tập khởi ở trước.

Tự tha thức: Tự và tha có thân khác nhau. Bản thức biến thành thể, bản thức này gọi là tự tha thức.

Một loại này là ngã kiến huân khởi ở trước.

Thức sinh tử ở đường lành và đường ác: Sinh tử sáu đường, bản thức biến thành thể, là bản thức.

Một loại này là Hữu Phần huân tập khởi ở trước.

Chia Tế thì đến vô lượng, khác nhau như thế. c. Nói về nghĩa ba thức thọ huân khác nhau:

Chia làm ba:

  1. Huân tập sinh
  2. Huân tập chuyển3- Huân tập thành 1) Huân tập sinh:

Ba thức đều là môn tâm sinh diệt của tâm, đều có nghĩa huân tập lẫn nhau, sinh ra lẫn nhau.

  1. Hỏi: Nếu Bản thức là huân tập sinh, như kinh Lăng-già (quyển 4) nói: Như Lai Tạng bị ác tập từ vô thỉ kia huân tập gọi là Tàng thức, sinh vô minh địa, cùng làm bản thức nên gọi là Sinh, thế nào là ác 28 tập?

    Có chia làm ba:

Vô minh trụ địa trong bản thức, trước sau sinh khởi lẫn nhau. Do vô minh trước huân tập vào chân tâm, sinh vô minh sau. Như người ngủ quen, đến giờ thì ngủ.

Thức A-đà-na là tâm chấp ngã, huân tập vào bản thức thành hạt giống. Loại này làm ô nhiễm chân, không thấy được pháp thật, sinh ra vô minh.

Phiền não khởi lên trong sáu thức, huân tập vào bản thức thành hạt giống nhiễm. Loại này ô nhiễm chân, không thấy pháp thật, sinh ra vô minh.

  1. Tướng sinh của thức A-đà-na thế nào?

Có người nói rằng: Chỉ sinh ngã chấp, không sinh khởi sự hiểu về vô ngã được. Vì sao? Ngã chấp không có, lại không thuộc thức A-đà-na. Vì tất cả sự hiểu biết về vô ngã không phải là A-đà-na, đạo lý không cùng tận, nghĩa này thế nào?

Từ xưa đến nay, Phàm phu thường nghe nói ngã, sinh tưởng về ngã, huân tập vào bản thức, thành hạt giống ngã. Năng lực của hạt giống này sinh ra tâm chấp, chắc chắn cho là có ngã. Người này về sau, nghe nói vô ngã, sinh ra sự hiểu về vô ngã, huân tập vào bản thức thành hạt giống vô ngã. Năng lực của hạt giống này sinh ra tâm chấp, chắc chắn cho là vô ngã. Vì sao không được? Vì tất cả Thanh văn, Duyên giác, các Bồ-tát nhỏ, bất cứ lúc nào cũng thường chấp vô ngã. Cái ngã và vô ngã này đều do huân tập mà sinh. Tâm chấp ngã trong Đại thừa gọi là phiền não chướng. Chấp vô ngã trong Đại thừa gọi là Trí chướng.

  1. Tướng sinh của tâm sáu thức thế nào? Do hạt giống nhiễm trong bản thức, huân tập khởi sáu thức; lỗi nhiễm càng tăng. Do hạt giống tịnh trong bản thức, huân tập sinh ra sáu thức, khởi tịnh càng cao siêu.

Hỏi: Thức A-đà-na so với vọng thức có được nghĩa huân tập lẫn nhau, sinh ra lẫn nhau hay không?

Đáp: Cũng được. Do tâm chấp ngã A-đà-na, huân tập vào bản thức thành hạt giống ngã, sinh khởi sáu thức, ngã kiến càng thêm. Do A-đà-na chấp vô ngã huân tập vào bản thức thành hạt giống vô ngã. Vì năng lực của hạt giống này sinh khởi sáu thức. Trong sáu thức, ngã kiến mỏng dần, sự hiểu vô ngã càng thêm.

Huân tập sinh như thế.

2) Huân chuyển:

Ba thức bất định, trong đó phải có nghĩa huân tập.

  1. Trong bản thức, huân tập chuyển thế nào?

Giải thích có hai loại:

Do thức tu thiện khởi ác, huân tập vào bản thức, khiến hai chủng tử thiện ác trong bản thức dời đổi bất định, hoặc tăng hoặc giảm.

Do năng lực tu tập chân quán, huân tập diệt vô minh khiến chân xứng với bản thường tịch chẳng động. Quán pháp xưa nay chỉ có chân không có vọng là chân quán.

  1. Thức A-đà-na huân tập chuyển thế nào?

Phân biệt có hai:

– Trong sáu thức, nghe nói vô ngã, khởi văn tư tu, huân tập vào bản thức thành hạt giống vô ngã. Vì năng lực của hạt giống này, huân tập A-đà-na, ngã chấp yếu dần. Cái hiểu vô ngã sinh khởi.

-Trong sáu thức, nghe nói Phật tánh thường trụ, chân ngã xưa nay bình đẳng, như như một vị, khởi văn tư tu, huân tập vào bản thức, hoại vô minh địa. Vì vô minh hoại, bản thức chẳng thành. Bản chẳng thành thì hạt giống chẳng lập. Vì hạt giống chẳng lập nên thức chấp ngã chẳng sinh. Chấp ngã chẳng sinh nên cái hiểu về vô ngã diệt. Trước (Địa Trì, Lăng-già) lìa chấp ngã, trong kinh gọi là dứt phiền não chướng. Sau lìa vô ngã gọi là trừ Trí chướng.

c) Trong sáu thức huân, chuyển thế nào?

Có chia làm ba:

  • Trong sáu thức làm lành làm ác, huân tập vào bản thức thành hạt giống thiện, ác. Hạt giống này thành rồi, huân tập sinh sáu thức. Thiện ác bất định, giống ác huân tập khởi thì ác thêm, thiện bớt như người dứt thiện. Hạt giống thiện huân tập khởi thì thiện thêm ác bớt, như sinh người thiện.
  • Trong sáu thức tu tập quán không. Quán sinh vô ngã, quán pháp vô ngã, huân tập vào bản thức thành hạt giống hiểu biết. Hạt giống này thành rồi, hoại hạt giống hữu kiến trong bản thức. Vì hạt giống “hữu” bị hoại nên sáu thức sinh ra không khởi hữu kiến. Hữu kiến dứt nên phần đoạn bớt dần.
  • Trong sáu thức tu tập chân quán. Quán pháp xưa nay thuần chân không có vọng, khiến cho pháp vọng không sinh nữa, lại huân tập vào bản thức, phá hoại vô minh địa. Vì vô minh hoại nên bản thức chẳng thành; bản thức không thành thì hạt giống sáu thức không còn chỗ đứng. Hạt giống không lập thì sáu thức trong phần đoạn không sinh. Sáu thức không sinh thì quán không cũng diệt, quán “không” diệt thì biến dịch dứt sạch, biến dịch sạch hết gọi là được Niết-bàn.

    3) Nói về huân tập thành:

Huân tập thành hạt giống gọi là thành. Trong môn này chỉ có bản thức chịu huân tập thành hạt giống. Các thứ kia đều không thọ, vì sao như thế?

Giải thích có bảy nghĩa:

  • Vì bản thức là gốc của duyên khởi, hay tụ, hay tán, hay thọ tất cả các pháp. Chỗ huân tập chứa nhóm thành hạt giống gọi là Năng tụ. Tán sinh các pháp gọi là Năng tán. Các thức kia thì không phải như thế, do đó không thọ.
  • Vì bản thức là nguồn của các thức, biến khởi các thức. Trong các thức, làm thiện, làm ác đều là công lao của nó, nhiếp tất cả quy về gốc. Trong bản thức chịu ác pháp huân tập, chứa nhóm thành hạt giống. Thức khác thì không như vậy, do đó không thọ.
  • Trong bản thức có đủ hai pháp minh và ám. Chân tâm là minh, vô minh là ám. Ám thọ nhiễm, tăng trưởng sinh tử. Minh thọ tịnh, thú hướng Niết-bàn, nên thọ huân tập khắp mọi pháp; các thức khác không được như vậy, do đó không thọ.
  • Chính trong bản thức bao gồm chân thể kiên cố khó hoại, có công năng gìn giữ tất cả nghiệp quả, chịụ tất cả các huân tập về nhiễm tịnh, gom nhóm để thành hạt giống, dùng nó để chịu quả. Thức khác không phải như vậy, vì thế không thọ.
  • Bản thức vi tế, ngầm chung các pháp, đồng sinh, đồng diệt tất cả pháp, nghĩa giúp nhau gần nên thọ khắp tất cả pháp huân tập. Thức khác không như thế, do đó không thọ.
  • Bản thức không duyên vào thiện, ác, v.v… không ghi nhớ riêng, không nghĩ riêng. Các pháp nay, không ngăn ngại nhau nên thọ tất cả các pháp huân tập được, chứa nhóm thành hạt giống; thức khác nghĩ riêng, kia đây ngại nhau nên không chịu chung tất cả pháp huân tập.
  • Bản thức là tánh biết của tâm thần. Tâm đối với các pháp, tánh có công năng thọ lãnh ghi nhớ; lãnh thì năng thọ, nhớ thì năng giữ. Nên trong bản thức thọ cả các pháp, gìn giữ không để mất. Thức khác không phải tâm pháp, không thể như thế, nên không thọ huân tập.
  • Sáu thức trước phân biệt với thức khác, một loại sau phân biệt pháp chẳng phải tình.

    Huân tập thành như thế.

    Nghĩa huân tập khó, nói sơ như thế.

    7. Nói về nghĩa mê ngộ, tu xả:

  • Trong năm thức: Không nói riêng về mê ngộ tu xả. Trong đó, nghĩa mê ngộ, tu xả tùy ý nói.
  • Trong ý thức: Có mê, có ngộ. Lầm chấp ngã nhân; chấp tánh, tướng của pháp cho đó là mê. Hiểu biết lý không, nói đó là ngộ. Giải thích về ngộ khác nhau, chia thành ba loại.
  1. Quán sinh không: Quán sát năm ấm không có ngã nhân.
  2. Quán pháp không: Quán pháp hư giả không có tự tánh.
  3. Quán như: Quán sát các pháp chẳng thật có, chẳng thật không.Quán pháp thế nào?

Biết tất cả pháp chẳng thật có, chẳng thật không, giống như huyễn hóa. Cái có của huyễn hóa, pháp không cho làm có. Có mà chẳng thật có. Cái không của huyễn hóa, pháp có cho là không, không mà chẳng phải không. Cho nên nói huyễn hóa này có – không, là chẳng thật có – không, cũng chẳng phải không có “chẳng phải có – chẳng phải không” để được, lại tức là nói “chẳng phải có, chẳng phải không” này là có – không. Tướng có – không cũng chẳng thật có, tới lui tìm kiếm, không có pháp để giữ. Cảnh giới đã như vậy, tâm tưởng cũng thế, cho nên tâm tưởng tự nhiên dứt mất.

Ba loại này đều là trong pháp ngoài tâm để tìm lý. Nhiếp chung là Ý thức quán. Hai loại trước là tướng tăng, một loại sau là tướng dứt, là dứt sáu thức.

Trong thức thứ bảy cũng có mê, ngộ. Chẳng biết chân thật, vọng giữ các pháp do tự tâm khởi, gọi đó là mê. Trái vọng, hướng về thật, gọi đó là Ngộ. Giải thích về ngộ cũng có ba loại:

  • Quán vọng tưởng nương tâm: Quán sát tướng giả dối trong ba cõi; chỉ từ tâm khởi, như những điều được thấy trong mộng. Ngoài tâm hoàn toàn không có pháp để được.
  • Quán vọng tưởng nương chân thật: Quán tâm vọng tưởng luống dối không thật có, nương chân mà lập. Như sóng nương nước, mê nương vào vọng.
  • Quán chân thật lìa vọng tưởng: Quán tất cả pháp chỉ là chân thật, duyên khởi nhóm thành, ngoài chân hoàn toàn không có một pháp để khởi vọng tưởng. Đã không có pháp để khởi vọng tưởng, thì theo lý, tâm vọng tưởng cũng không có. Hai loại trước là quán tướng tăng, một loại sau là tướng xả. Tức là Xả thức thứ bảy.

Trong thức thứ tám cũng có mê ngộ, theo vọng thành nhiễm, không chứng được thật tánh của mình gọi là mê. Lìa vọng hợp với bản tánh, gọi là Ngộ.

Giải thích về Ngộ hiểu, có ba loại khác nhau:

  • Quán dứt tướng: Sinh tử Niết-bàn vốn là chân thức, theo vọng mà khởi. Khi chứng được thật, thì trái với vọng, thì biết không có vọng. Vọng tưởng đã không, đâu có được tướng của pháp sinh tử, Niết-bàn theo vọng? Nên gọi là dứt tướng.
  • Quán thật tánh: Trong chiếu chân thật. Như Lai Tạng tánh chỉ là pháp giới, Hằng sa Phật pháp, đồng thể duyên hợp, thành tựu lẫn nhau, chẳng lìa chẳng thoát, chẳng dứt chẳng khác. Vì các pháp đồng thể duyên hợp thành tựu lẫn nhau nên không có một pháp nào tự giữ tánh riêng. Tuy không có một tánh mà không phải vô tánh, không có một tánh tức là môn nhất thật như như mà chẳng phải vô tánh tức là môn pháp giới thường lạc tịnh, v.v…. chân thật Thể tướng thường nhiên, xưa nay không đổi.
  • Quán chân dụng: Quán sát tất cả môn hóa dụng của chư Phật, Bồ-tát. Trong dụng môn này gồm đủ các pháp nhiễm tịnh ba thừa. Pháp đã tròn đủ, nương đó thành tựu đức. Đức không đâu chẳng thế, cho nên Đại Thánh khéo vào, thuận theo thế gian, hiện ra tất cả việc phiền não. Nên kinh nói rằng: Tám mươi bốn ngàn các môn phiền não, mà các chúng sinh mệt nhọc vì nó. Chư Phật lại dùng đây để làm Phật sự. Phiền não đã vậy, nghiệp khổ cũng thế. Lại, Địa kinh (Thập Địa Luận kinh quyển ) nói: Các môn này, những việc phiền não làm phát khởi hạnh cao quý. Kinh Duy-ma (Phẩm Phật Đạo) nói: Vì thông đạt Phật đạo. Lại nữa, khéo nhập pháp môn Nhị thừa, năng hiện tất cả việc của Nhị thừa. Nên kinh (phẩm Vấn Tật) chép: Thị hiện Thanh văn, Bíchchi-phật, v.v… là hạnh Bồ-tát. Lại nữa, khéo hội nhập tất cả môn tác dụng của Bồ-tát, tuy được Niết-bàn mà hoàn toàn không bỏ việc làm của Bồ-tát; cho đến khéo hội nhập môn tác dụng của chư Phật, Như Lai, hay dùng tám tướng thị hiện thành Chánh giác đầy khắp pháp giới mà không cùng tận. Đây là quán chân dụng thứ ba.

    8. Nói về phạm vi của mê ngộ

    1. Phạm vi của sáu thức sai biệt có năm:

    • Chỗ mê: Ở ngoại phàm thường bị chìm mất.
    • Chỗ tập giải: Cũng ở ngoại hàm gần với đường thiện.
    • Chỗ chính giải: Cũng ở trong cõi thiện thuộc ngoại phàm.
    • Chỗ xả dần: Từ Tập chủng trở lên.
    • Chỗ cùng tận (dứt hẳn): Sơ địa trở lên.

    Sơ địa trở lên lìa sáu thức, trong kinh nói đó là xuất thế gian. Lại,

kinh Lăng-già nói: Bồ-tát Sơ địa được hai mươi lăm Tam-muội, lìa hai mươi lăm hữu (cõi), là thân ba cõi. Xa lìa gọi là xả sáu thức. Lại, luận Đại Trí nói sơ địa được nhập hàng Bồ-tát, xa lìa nhục thân, được thân pháp tánh. Đây cũng là nghĩa lìa sáu thức. Nếu nói về tập khí còn sót lại thì đến Thập Địa mới sạch.

2. Phạm vi của thức thứ bảy, có năm:

  1. Chỗ mê: Ở ngoại phàm.
  2. Chỗ tập giải: Cũng ở vị Thập Tín của phàm.
  3. Chỗ chính giải: Từ Tập chủng trở lên.
  4. Chỗ dần xả: Sơ địa trở lên.
  5. Chỗ cùng tận: Ở Phật địa, nên Như Lai hoàn toàn chân thật.

3. Phạm vi của thức thứ tám có bốn:

Chỗ mê: Ở ngoại phàm cho đến Thập Tín.

Chỗ tập giải: Tập Chủng trở lên.

Chỗ chính giải: Sơ Địa trở lên.

Chỗ cùng mãn: Ở Phật địa.

Hỏi: Sáu thức hết ở Sơ địa. Sơ địa trở lên thì không còn sáu thức. Làm sao thấy, nghe, hiểu, biết được.

Đáp: Tuy không có sự tướng của sáu thức, nhưng vẫn có Pháp thân do thức thứ bảy duyên chiếu vô lậu mà được và chân thức kia duyên khởi các thức mắt, tai, v.v… của Pháp thân. Cho nên dùng nó để thấy nghe, hiểu biết.

Hỏi: Nếu dùng duyên chiếu Pháp thân để thấy nghe hiểu biết có gì khác với sáu thức trước?

Đáp: Sáu thức trước là sự thức, phân biệt sự tướng, ngoài tâm chấp pháp. Còn ngoài thấy nghe hiểu biết của duyên chiếu Pháp thân thì không có pháp. Tất cả đều từ tâm khởi. Như việc thấy trong mộng, ở tướng của tự tâm phân biệt soi biết, có sự khác nhau như thế.

Hỏi: Pháp thân chân thật duyên khởi thấy nghe hiểu biết có gì khác với thức duyên chiếu thứ bảy?

Đáp: Thức thứ bảy duyên chiếu Pháp thân là chỉ đối với pháp vọng tưởng duyên khởi mà phân biệt duyên chiếu lại ở chân pháp phân biệt duyên chiếu không thể lìa duyên. Chân Pháp thân là xa lìa vọng tưởng, tâm tịnh chiếu rõ pháp giới thanh tịnh, hiển nguồn tự tâm, gọi là thấy nghe, chẳng phải phân biệt mà biết.

9. Nói về phạm vi tu xả

Trước hết theo sự thức để nói về phần hạn tu; kế là, theo vọng

thức; sau theo chân thức.

1. Sự thức có hai: Tướng chướng và tướng trị.

a. Tướng chướng có hai:

  1. Tướng chấp thủ: Trong Luận (Khởi Tín Luận ký) cũng gọi là chấp tương ưng nhiễm. Đây là căn bản chấp tánh vô minh.
  2. Tướng kế danh tự: Tùy tên chúng sinh giữ lấy mà lập ngã nhân.

b. Tướng đối trị: Là tuệ tương ưng trong ý thức, đối trị hai chướng trước, gọi là tướng đối trị. Trong luận Thành Thật (quyển 14) nói là không tâm.

Kế danh tự là trong pháp Tiểu thừa là lúc kiến đạo thì dứt. Trong pháp Đại thừa thì đến khi Thập Tín thì dứt.

Tướng chấp thủ: Trong pháp Tiểu thừa, khi được vô học thì dứt hết hoàn toàn. Trong pháp Đại thừa khi chủng tánh dứt sạch. Nên luận Đại Thừa Khởi Tín nói: Chấp tương ưng nhiễm thì giải thoát của Nhị thừa, Bồt-tát Tín Địa dứt trừ được. Luận nói Chủng Tánh là Tín Địa.

Tướng đối trị: Trong pháp Tiểu thừa, lúc vào Niết-bàn vô dư thì diệt. Trong pháp Đại thừa lúc đến Sơ địa thì dứt sạch.

2. Theo vọng thức để nói về tu xả. Trong vọng thức cũng có hai loại: Tướng chướng và tướng trị.

a. Tướng chướng: Có sáu, như luận Khởi Tín chép:

  1. Tâm bất tướng ưng vô minh trụ địa.

Bất tương ưng, Phân biệt với Nhị Thừa, chỗ đoạn của Nhị thừa là vô minh khác thể với tâm, tương ưng với tâm. Vô minh địa: Tức chỉ cho tâm thể là vô minh chẳng phải ngoài tâm lập riêng số pháp tương ưng với tâm.

Ngày Mã Minh nói: Ngay tâm bất giác thường không có khác nhau. Không khác với tâm, đồng biết đồng duyên gọi là bất tướng ưng.

  1. Nương vô minh địa khởi ra nghiệp thức, bất tương ưng nhiễm. Ái trước gọi là nhiễm. Nghĩa bất tương ưng chẳng khác với giải thích trên.
  2. Nương nghiệp thức khởi ra chuyển thức bất tương ưng nhiễm. Nghĩa bất tương ưng cũng đồng như trên.
  3. Nương chuyển thức khởi ra hiện sắc bất tương ưng nhiễm. Hiện sắc cũng là hiện thức, hay hiện sắc của tự tâm khởi gọi là hiện sắc nhiễm. Bất tương ưng cũng đồng giải thích ở trước.
  4. Nương hiện thức khởi tâm trí thức tương ưng với nhiễm. Tương ưng là tâm tướng càng thô, nhiễm và tâm khác nhau, cùng tương ưng với tâm nên nói là tương ưng.

Luận chép: Tâm khác với niệm, đồng biết, đồng duyên nên nói tương ưng. Niệm là tham số (thuộc tham).

) Nương trí thức khởi thức không đoạn, tương ưng với nhiễm. Chẳng đoạn giống như tương tục thức, “Tương ưng” giống như trước.

Trong luận, Ngài Mã Minh thâu nhiếp sáu loại này thành hai chướng. Một loại trước gọi là Trí ngại cũng là Trí chướng. Năm loại sau gọi là Phiền não ngại, cũng là Phiền não chướng, Tướng chướng như thế.

b. Tướng đối trị: Cũng là là sự hiểu của bảy thức duyên chiếu, trị

sáu loại trước nên gọi là tướng Trị.

Tiếp theo là nói về chỗ đoạn.

Như luận Đại Thừa Khởi Tín nói: Trong sáu chướng trước, Không đoạn tương ưng với nhiễm thứ sáu là bắt đầu từ Tín địa học dứt trừ dần dần. Đến Tịnh tâm địa là dứt hẳn. Trí thức tương ưng với nhiễm thứ năm, từ Cụ giới địa lần lượt dứt trừ cho đến vô tướng phương tiện địa thì dứt hoàn toàn. Cụ giới địa là Nhị địa, Vô tướng phương tiện địa là địa thứ bảy. Hiện sắc không tương ưng với nhiễm thứ tư đến sắc Tự tại địa thì dứt rốt ráo. Sắc tự tại là địa thứ tám, làm thanh tịnh cõi Phật gọi là Sắc tự tại. Chuyển thức không tương ưng với nhiễm thứ ba đến tâm tự tại địa thì dứt rốt ráo. Tâm tự tại là địa thứ chín khéo biết tâm chúng sanh gọi là tâm tự tại. Nghiệp thức không tương ưng với nhiễm thứ hai, đến Bồ-tát địa tâm, thì dứt sạch, vào Như Lai địa. Căn bản vô minh trụ địa thứ nhất. Trong luận, ngài Mã Minh nói: Địa tiền học đoạn, Sơ địa trừ dần, Phật địa thì sạch hết. Nên kinh Thắng-man nói: Vô minh trụ địa là chỗ đoạn của trí Bồ-đề Phật. Phần hạn của chướng, của đoạn là như thế.

Tướng đối trị là sơ địa dần xả, đến Phật địa thì hết. Nếu nói chung thì từ chủng tánh trở lên cũng trừ từng phần.

3. Theo chân thức mà nói về phần hạn của tu: Trong chân thức, theo duyên có ba:

Tướng nhiễm, tương ưng với phiền não ám hoặc.

Tướng tạp nhiễm, chân tâm tương ưng với duyên trị kia.

Tướng tịnh, lìa vọng mới bày rõ.

Nếu nói về tướng nhiễm, Chủng tánh trở lên thứ lớp dứt trừ, đến Phật mới dứt trừ đến tận cùng. Nếu lại nói chung thì Thập Tín trở lên cũng có nghĩa xả. Thứ 2: tướng tạp: sơ địa xả từ từ đến quả vị Phật mới hết. Nếu noi chung thì từ chủng tính trở lên cũng có nghĩa xả. Nên kinh Địa Trì (quyển 1) nói: Bồ-tát chủng tánh có sáu căn (sáu nhập) cao quý, pháp như thế từ vô thỉ.

Tướng tịnh thứ ba, Bồ Tát Bát địa xả dần đến địa vị Phật mới cùng. Nên trong Bát Địa, quán pháp không sinh, không diệt, không xuất, biến tất cả pháp rốt ráo bình đẳng; không có tướng nhiễm cũng không có tướng tịnh. Nếu nói chung thì sơ địa trở lên cũng xả tướng tịnh. Nên trong Đại Phẩm nói rằng: Sơ địa được Vô sinh nhẫn, chứng được pháp vốn như, không thấy trước nhiễm rồi sau dứt thành tịnh, không lấy, không bỏ, như như bình đẳng.

10. Đối trị tà chấp, trình bày chánh nghĩa

Trước theo sự thức đối trị tà chấp, kế theo vọng thức, sau là theo chân thức.

Theo trong sự thức tà chấp có tám:

Chấp nhất định là một:

Có người nói rằng. Sáu thức tâm tùy theo căn nên có khác nhau, nhưng thể tánh là một, qua lại kia đây như một con khỉ, ở sáu cửa sổ đều hiện mà không phải có sáu khỉ. Tâm thức như thế, hiện trong sáu căn mà không phải có sáu tâm, thức không có tự thể riêng, duyên tri làm nghĩa. Đối với tà chấp này, nói tâm chẳng phải một.

Tâm sáu thức nương căn khác nhau, sở duyên cũng khác, sao nhất định là một? Nếu nhất định là một thì thường rõ một hạt bụi, không có đổi khác. Lại nữa, tâm pháp không có nghĩa qua lại, hễ biết chỗ nào thì, sinh ngay đó, không được nói rằng có một mà qua lại. Lại, họ dẫn khỉ làm ví dụ để chứng tỏ tâm là một. Nghĩa này không đúng. Người phàm nói khỉ là một, hiện trong sáu cửa sổ, nhưng thật ra con khỉ niệm niệm sinh diệt, con hiện ở cửa này không đến cửa sổ kia. Tâm thức như thế, Tâm nương mắt sinh, không đến căn khác. Như thế, tất cả cũng vậy.

Chấp nhất định khác:

Có người nói rằng: thể tánh của tâm sáu thức nhất định là khác. Đối với tà chấp này, nói tâm không khác. Ở phần hạn của sự, chỉ có một suy nghĩ nối nhau, chẳng phải hoàn toàn khác thể. Như một con ngựa đi đến sáu cửa chứ chẳng phải có sáu con ngựa. Nếu nói sáu thức có sáu thể khác nhau thì Pháp của thể khác không can dự nhau. Nhãn thức lại phải theo nhãn thức sinh, cho đến ý thức lại từ ý sinh, không được sinh khởi lẫn nhau mà hiện thấy năm thức sinh theo ý thức, ý thức sinh theo năm thức. Nên nói chẳng phải khác thể.

Lại, nếu sáu thức có thể riêng thì pháp có thể ấy chẳng ngăn ngại

nhau. Vì không ngại nhau, phải cùng có. Nếu thường cùng có, thường phải cùng dụng. Vì không thường cùng, nên nói là chẳng khác thể.

Chấp nhất định là thường:

Có người nghe nói nghiệp quả trong ba đời không dứt. Nghĩa là nói tâm nhất định là thường. Sinh tử qua lại thường là một, thức dụng tuy có hưng, phế mà tâm thể bất biến. Đối trị với chấp này, nói thức vô thường. Trong loài người tâm khác, ở trời cũng khác. Tâm trong sáu đường mỗi mỗi khác nhau, làm sao là thường được?

Lại như kinh nói: Khổ tương ưng khác, vui tương ưng khác, không khổ không vui tương ưng cũng khác. Tất cả như thế, mỗi mỗi khác nhau, làm sao là thường? Chỉ vì các phàm phu không biết tướng tâm, vọng nói là thường. Ví như con nít thấy vòng lửa quay nói là không đoạn đứt. Nếu tâm thường thì thiện nên luôn là thiện, ác nên mãi là ác, không có thay đổi. Vì thay đổi nên nhất định biết là Vô thường.

Chấp nhất định là đoạn:

Có người nghe nói tâm thức vô thường liền cho rằng tâm thức nhất định là đoạn. Đối trị chấp này nói tâm chẳng đoạn. Hiện đời tạo nghiệp, về sau nhất định chịu quả, sao nhất định là đoạn được? Ví như sữa bơ chuyển biến tuy khác, hễ bơ sữa độc thì giết người. Tâm cũng giống như thế, trong tâm làm ác. Phải chịu quả báo khổ, rõ ràng chẳng phải là đoạn.

Chấp nhất định là có: Như Tỳ-đàm nói: Mười tám giới, mỗi giới trụ trong tánh của mình, là “có” chẳng phải “không”. Dù nói không, là chỉ không có cái chấp tướng ngã nhân đối với ấm chứ chẳng phải không có pháp thể. Vì pháp chẳng phải không nên tâm thức nhất định là có. Đối với tà chấp này nói thức là không. Tướng không thế nào? Thức chính là lấy cái biết phân biệt làm nghĩa. Như một niệm thức có đủ bốn tướng. Sinh, trụ, dị, diệt. Đối với bốn tướng này, cái nào là biết? Là tướng biết đầu tiên hay tướng giữa, tướng sau? Nếu tướng đầu tiên là biết, thì lẽ ra không biết các tướng khác. Nếu không biết các tướng kia, thì không gọi là Thức. Nếu biết tướng khác thì lẽ ra không biết tướng đầu tiên. Nếu ban đầu không biết, thì ban đầu không gọi là Thức. Nếu nói bốn tướng riêng khác là biết thì đó là bốn niệm có pháp biết riêng, đâu can hệ gì với một niệm bốn tướng? Nếu nói bốn tướng riêng không biết, trong hòa hợp mới có tướng biết, thì nhiều cái không biết cộng chung lại làm sao thành cái biết? Như một trăm người mù hợp lại cũng thấy được ư? Hơn nữa, bốn tướng không có lý hợp lại, vì sao không có lý hợp? Vì lúc tướng sinh hiện, tướng khác chưa có thì hợp với cái gì?

Cho đến tướng diệt thứ tư lúc hiện, tướng khác đã mất thì hợp với cái gì? Tìm tòi tới lui đều không có nghĩa hợp, vì sao nói hòa hợp thì có biết? Nghĩa biết đã vậy, đâu có nhất định. Cho nên kinh (Bát-nhã …) nói: Sắc v.v… cho đến thọ, tưởng, hành, thức tất cả đều rỗng không.

Chấp nhất định là không:

Có người nói năm ấm rỗng lặng; nên cho rằng nhân duyên thế đế cũng rỗng không. Đối trị chấp này, nói thức chẳng phải không. Nếu không có tâm thức, làm sao thấy, nghe, hiểu, biết được? Hiện thấy sáu thức mỗi thức có đủ tác dụng, biết rõ chẳng phải không. Lại nếu không biết, thì không có thiện ác. Nếu không có thiện ác, cũng không có khổ vui, thì nhập vào tà kiến, đoạn thiện căn, không nên chấp nhận.

Kinh nói: Không là nói theo chân, chẳng phải không có tâm thức trong thế đế.

Chấp tâm thức độc lập không có tâm sở:

Như Thành Thật nói: Đối trị chấp này, nói đồng thời có pháp tâm và tâm sở. Nên kinh Niết-bàn nói: “Các đệ tử ta không hiểu ý ta, nói rằng: Phật nói nhất định không có tâm sở”. Lại, Niết-bàn (Bản Bắc quyển 27) chép: “biết rõ Tâm sở trong mười đại địa”, nhất định chẳng phải không có số. Lại, ngài Long Thọ (Trí Luận quyển 3) nói: “Ví như nước hồ, bỏ hạt châu vào thì trong, voi lội xuống thì đục”. Nước dụ cho tâm vương; hạt châu, voi dụ cho tâm sở. Trong dụ ấy chẳng thể nói nước, châu, voi là một. Tâm pháp như thế đâu không có số riêng?

Chấp ngoài tâm chắc chắn có số riêng.

Như Tỳ-đàm nói: rõ ràng không có định riêng để đối trị chấp này. Cho nên kinh Niết-bàn (bản sắc quyển 34) nói: “Các đệ tử ta không hiểu ý ta, nói rằng: Phật nói nhất định có tâm sở thì không dự vào việc tâm. Tại sao khi chẳng có tâm lại khởi riêng. Lại nếu ngoài tâm nhất định có tâm riêng, thức từ ý sinh thì các số cũng nên có chỗ nương riêng. Nếu có chỗ nương khác thì nghĩa ấy không đúng, vì sao không đúng? Vì Tông ấy nói: tâm tương ưng của ba tánh đều khác nhau. Như Dục ở giới địa, lúc tâm khởi, hai mươi hai tâm sở tương ưng cùng sinh. Lúc tâm bất thiện khởi, hai mươi mốt tâm sở tương ưng cùng sinh. Lúc tâm vô ký, có mười hai tâm sở tương ưng cùng sinh. Lúc từ tâm vô ký khởi thiện, có thể có mười hai đồng tâm sở có chỗ nương. Còn các tâm sở khác ngoài ý thì nương chỗ nào? Nếu không nương mà sinh thì tâm pháp không có duyên thứ đệ. Kinh luận không chấp nhận. Nếu không nương riêng, thì nương ý sinh đồng nương thức. Rõ chẳng phải đạo lý ngoài tâm.

Tại sao ngay tâm thể đồng thời có đủ các nghĩa thọ, tưởng, hành, thức khác nhau? Không đồng với sự thành lập trước sau của luận Thành Thật. Theo thể nhất tâm, tùy nghĩa phân biệt, không đồng với thể khác của Tỳ-đàm, hai nghĩa gồm thông, nên chẳng tranh luận.

2. Theo vọng thức đối trị tà chấp: Tà chấp có sáu:

Chấp nhất định là không:

Có người nghe nói chỉ có sáu thức, không có (thức) thứ bảy, nên nói không có thức thứ bảy. Để đối trị với chấp này nên nói có thức thứ bảy. Như trong Lăng-già nói nghĩa tám thức. Kinh Thắng-man cũng nói: Bảy pháp không trụ. Nếu không có vọng thức thì nói cái gì là tám, cái gì là bảy. Lại ngoài sáu thức không có vọng thức thì Thanh văn, Duyên giác lúc nhập Niết-bàn, sự thức đều diệt, thì lẽ ra là Phật, không phân biệt rõ riêng tâm vọng thức. Lúc nhập Niết-bàn tuy diệt sự thức, nhưng si vọng vẫn còn. Thức si vọng có, đâu được nói là không. Kinh nói không có bảy tình là trong sự thức không có tình thứ bảy, chẳng phải không có vọng thức.

Chấp nhất định là có:

Có người nghe nói có thức thứ bảy, liền nói thức thứ bảy có thể tánh riêng. Rõ ràng đối với tà chấp này, là hư vọng không có tự thể. Nên biết, Như Lai theo tâm pháp, phân chia giữ nghĩa hư vọng. Phân biệt là thức thứ bảy. Đâu được ở trong đây lập thể tánh riêng. Như người đời thấy sợi dây mà cho là rắn, dây là sự thật, dụ cho chân thức; rắn là gắn vào vọng tình dụ cho vọng thức. Rắn nương sợi dây mà có, rắn không có tự thể riêng. Vọng nương chân mà lập làm sao có tự thể? Những ví dụ mê mộng cũng đồng như thế.

Lại, trong kinh nói: Nếu không có chân thức, thì bảy pháp không trụ. Nếu có tự thể vì sao không trụ? Lại, nếu vọng thức tự có thể tánh, thì là thật có, đâu được nói là vọng.

– Chấp sự thức cho là vọng thức: Có người nghe nói chân thức gọi là tâm, vọng thức gọi là ý, sự gọi là ý thức; bèn nói Tiểu thừa, ý căn giới trong bảy tâm giới là thức thứ bảy. Đối trị chấp này nên nói vọng thức không đồng với sự thức. Ý căn giới trong bảy tâm giới tức là sáu thức, sinh theo nghĩa nên nói là ý căn, không có pháp riêng. Vọng thức khác xa với phần hạn của ý căn kia, làm sao nói là một?

Tướng khác thế nào?

Như ngài Mã Minh nói vọng thức có sáu, bắt đầu từ Vô Minh cho đến Nghiệp hệ khổ tướng thứ tư. Cũng như trên đã nói; phần hạn mỗi thứ khác, đâu được nói ý căn giới là thức thứ bảy?

Lại, kinh Lăng-già nói: Vọng thức thứ bảy chỉ Phật, Như Lai và Bồ-tát trụ địa mới hiểu được, những người khác đều không biết, làm sao nói ý căn giới là thức thứ bảy? Lại trong vọng thức là thức tâm giới, Thanh văn Duyên giác lúc vào Niết-bàn diệt thức tâm giới thứ bảy, lẽ ra vọng thức cũng diệt. Nếu diệt vọng thức, thì lẽ ra là Phật. Lúc nhập Niết-bàn, diệt thức tâm giới thứ bảy, vọng thức vẫn còn, chưa đồng với Phật được, nên biết rõ là hoàn toàn khác.

Hỏi: Nếu Vọng thức không phải ý căn, vì sao trong kinh Lăng-già và luận của ngài Mã Minh nói là ý?

Đáp: Đó là mượn tên để hiển bày, chẳng phải là ý căn. Như trong kinh Lăng-già nói thức thứ bảy là tâm, trong luận Mã Minh nói rằng chân thức là tâm, há y cứ giống tên bèn cho là một vật? Tên tuy đồng mà có chân, vọng khác nhau, tên ý tuy một, đâu ngại khác nhau.

Chấp thô làm tế:

Có người nói rằng lúc mắt thấy sắc, chẳng biết sắc không, tức là tâm bảy thức mê hoặc. Cái khác cũng thế. Nếu hiểu sắc không tức là tâm bảy thức rõ sáng, những cái khác cũng thế. Đối trị chấp này phải hiển rõ sự khác nhau.

Nói “lúc thấy sắc chẳng biết không” là chấp tánh vô minh trong sáu thức, chẳng phải thức thứ bảy. Chấp tánh này là tướng chấp thủ đầu tiên trong sự thức ở trước.

Hỏi: Nếu ở đây là tâm vô minh trong sáu thức thì có gì khác với vô minh trong bảy thức?

Ở đây như trên đã nói rõ, vì trong pháp sự tướng ngoài tâm, chấp tánh mê không nên chẳng phải vọng thức. Lại đối với pháp sự tướng ngoài tâm hiểu biết là không có tánh, đó là cái hiểu và phân biệt trong sự thức, chẳng phải là bảy thức biết.

Chấp chẳng diệt:

Có người nói rằng: Tâm thất thức lúc chưa thấy lý, sinh diệt vô thường. Thấy lý tức là vĩnh viễn thường chẳng diệt vì đối trị chấp này nên nói vọng cuối cùng diệt. Thể của bảy thức vọng tâm chỉ là tướng si ám, chỉ là phân biệt. Khi thành Thánh, thì hội nhập với như, bỏ phân biệt này, thấy thật chiếu sáng, sạch si ám thì đâu còn mà nói chẳng diệt? Đạo lý như thế, phải dùng văn kinh để dẫn chứng. Như kinh Lănggià (quyển 4) nói: “Dứt bảy chủng thức gọi là làm thân Phật chảy máu”, làm sao chẳng diệt? Lại, kinh ấy (quyển 2) nói: “Vọng tưởng là trí tuệ của Niết-bàn nên biết diệt Niết-bàn của ta là biết rõ vọng diệt”.

Lại Duy Thức nói: “Chỗ sở hành của chư Phật, Như Lai, chỉ có tàng thức chứ không có thức nào khác”. Làm sao chẳng diệt?

Lại luận Đại Trí giải thích nghĩa “như” rằng: Thật tướng như tánh lạnh của nước. Quán trí như nước biển bị lửa đốt nóng lên. Nếu lửa tắt rồi, nước lại lạnh như cũ. Nên gọi là Như. Thật tướng như thế, theo quán mà chuyển biến, quán này diệt rồi, thật tướng như cũ, nên gọi là như. Biết rõ cái hiển rõ vọng cuối cùng bị dứt sạch, nếu quán không diệt, lúc nước lạnh thì lửa đáng lẽ không tắt.

Có người nói rằng trong kinh nói diệt, chỉ diệt vô minh ám chướng trong trí chứ không diệt trí thể. Nghĩa này không đúng. Trong luận Thật Tánh có văn chứng thật, chẳng những diệt ám mà còn diệt cả trí giải. Nên luận này nói: Có bốn chướng không được tịnh, ngã, lạc, thường của Như Lai.

  • Duyên tướng: Vô minh địa làm chướng chân ngã của Phật. Dứt lìa nó thì được chân tịnh của Phật.
  • Nhân tướng: Nghiệp vô lậu làm chướng chân ngã của Phật. Dứt trừ nó thì được chân lạc của Phật.
  • Sinh tướng: ý sinh thân làm chướng chân lạc của Phật. Dứt trừ nó thì được chân lạc của Phật.
  • Hoại tướng: Sinh tử biến dịch làm chướng chân thường của Phật. Dứt trừ nó thì được chân thường của Phật.

Ngoài vô minh v.v… ra, nói riêng vô lậu cho là chướng, nên nói dứt trừ riêng. Làm sao nói không diệt vô lậu? Người nói trí thể không dứt sạch, thể không diệt là chân tâm, chẳng phải thức thứ bảy.

Hỏi: Nếu thức thứ bảy diệt thì ai được Bồ-đề? Ai chứng Niếtbàn?

Đáp: Tâm tướng tuy diệt sạch, nhưng tâm tánh vẫn còn. Tâm tánh còn tức là chân thức, cho nên theo đó nói được chứng.

  • Chấp nhất định là diệt:

Có người nghe nói vọng tâm trọn diệt, liền nói nhất định là diệt, không có nghĩa huân tập. Vì sao như thế? Trong chân thức có đầy đủ nhiều hơn hằng sa pháp thanh tịnh, chẳng còn thiếu gì, đâu cần vọng huân, đối trị chấp này nên nói vọng có huân tập. Như luận Khởi Tín nói vọng huân chân như, làm sao không huân tập? Nếu nói trong chân, pháp tịnh đầy đủ không cần huân tập nữa thì có thể nói tánh của Pháp thân vốn có của Phật, đầy đủ pháp thể; Còn tánh của báo thân Phật, xưa này chỉ có nghĩa năng sinh, chưa có pháp thể, như hạt giống không mọc lên thành cây, làm sao được gọi là đầy đủ? Báo Phật vốn không nhờ tu mới có, làm sao không huân tập? Năng lực huân tập ở chân nên không nhất định là diệt.

Hỏi: Chân và vọng tánh khác nhau, làm sao huân tập nhau được?

Đáp: Ở đây như trên đã nói rõ, tất cả chỗ tu, chân vọng cùng khởi. Nhiếp tu theo vọng, đều là vọng làm. Nhiếp tu theo chân, đều là chân tạo. Chân tuy năng tạo, tạo phải theo vọng. Vọng tuy năng làm nhưng làm phải nương chân. Từ chân, vọng tạo gọi là chân huân tập vọng. Từ vọng, chân tạo gọi là vọng huân tập chân.

Trong vọng thức đối trị như thế.

3. Theo chân thức đối trị tà chấp. Theo luận thì tà chấp có hai:

a- Phàm phu chấp ngã (chấp nhân). b- Nhị thừa chấp ngã, chấp pháp.

Hỏi: Phàm phu cũng chấp các pháp, vì sao chỉ gọi là “chấp nhân, chấp pháp”?

Đáp: Phần tế cũng chấp các pháp, nay đối với Nhị thừa thì phàm phu chấp ngã và ngã sở, gọi chung là chấp nhân. Các pháp đều nhiếp thuộc ngã sở.

a. Theo phàm phu, tùy nghĩa nói đủ, lược có hai loại: Chấp có và chấp không.

1) Chấp có: Chia làm bốn loại:

  1. Chấp thật đồng thần: Có người nghe nói Tàng thức là ngã, cho là đồng với chỗ chấp thần ngã của ngoại đạo. Đối trị chấp này nói Như Lai Tạng chẳng phải ngã, chẳng phải chúng sinh, chẳng phải mạng, chẳng phải thân.
  2. Chấp trong chân có đủ chân – nhiễm: Như ngài Mã Minh nói: Có người nghe nói hai pháp sinh tử là Như Lai Tạng, liền nói trong chân có cả sinh tử. Đối trị chấp này nên nói tự tánh thanh tịnh của Như Lai Tạng. Từ xưa đến nay chỉ có hằng sa Phật pháp thanh tịnh, không có nhiễm ô. Nếu nói trong chân thật có sinh tử, mà làm cho chứng nhập, lìa hẳn sinh tử thì không thể được. Nếu nói có tu pháp môn duyên khởi, tác dụng tùy theo thế gian thì chẳng phải không có nghĩa này.
  3. Chấp có tướng tịnh: Như ngài Mã Minh nói: Có người nghe nói trong Như Lai Tạng có đủ tất cả pháp công đức không thêm không bớt, liền nói trong chân có sắc, tâm, v.v… tự tướng khác nhau. Đối trị chấp này nói Như Lai Tạng tuy đủ các pháp, vì nương chân như nên không có tướng kia đây, không có tướng tự, tướng tha, cho đến cũng không lìa tướng tự, tướng tha. Vì đối lại với nhiễm nên nói trong chân có đủ tất cả pháp. Lại, trong Chân có hằng sa pháp, đồng thể duyên hợp không có khác nhau, không được giữ riêng tướng khác nhau.
  4. Chấp thỉ chung: Như Mã Minh nói: Có người nghe nói nương Như Lai Tạng bắt đầu khởi sinh tử. Lại nghe nói Như Lai Tạng khởi sinh tử, tuy được Niết-bàn lại khởi sinh tử nữa. Vì khởi sinh tử nên Niết-bàn có cuối cùng (chung). Đối trị chấp này nên nói Như Lai Tạng không thỉ không chung. Vì không có khởi đầu, y khởi sinh tử, nên sinh tử không có khởi đầu. Cho nên luận nói: Nếu có người nói rằng ngoài ba cõi lại có chúng sinh vừa mới khởi lên. Đó là thuyết của ngoại đạo, không phải pháp chân chánh của Phật. Vì không kết thúc nên y thành Niết-bàn, Niết-bàn không kết thúc.

    Chấp có như thế.

    2) Chấp không:

Có người nói: nghĩa không của các pháp là chân thức. Vì đối trị với chấp này nên nói mà Chân chẳng phải không. Trong thức này, có đầy đủ hằng sa tất cả Phật pháp, sao lại gọi là không? Nên trong kinh Thắng-man nói là bất không Như Lai Tạng. Kinh Niết-bàn (phẩm Như Lai Tánh thứ bảy) cũng nói: Có Như Lai Tạng tuy không thể thấy, phá phiền não rồi, chắc chắn sẽ được. Văn kinh ấy lại nói: Nếu có người nói vô ngã vắng lặng là Như Lai Tạng. Nên biết người này ở lâu trong sinh tử, chịu mãi các khổ, không được giải thoát. Mà trong Lăng-già nói: “Nương vô ngã nói Như Lai Tạng ” là ở trong tàng này không có vọng chấp nên gọi là Không, chẳng phải không có chân pháp.

Luận Duy Thức nói: Vì phá chấp ngã, ngã sở của ngoại đạo nên nói tất cả pháp sắc, v.v… là không, chẳng phải cảnh lìa ngôn thuyết, như thật là không. Cảnh như thật là chỗ sở hành của chư Phật, Như Lai, chỉ có tàng thức, không có thức nào khác. Đối trị tà chấp của phàm phu là như thế.

b. Nói về đối trị vọng chấp của Nhị thừa:

Trong đây có hai:

  1. Chấp có: Người Nhị thừa chưa đắc pháp không, nên thấy có tướng sinh tử Niết-bàn. Vì kiến chấp này nên rất sợ sinh tử; hướng tìm Niết-bàn, mê lấp Chân như. Để đối trị chấp này nên nói Như thật không. Lìa tất cả tướng, sinh tử vốn lặng. Niết-bàn cũng như.
  2. Chấp nhất định không: là phần kiến sinh không của người Nhị thừa (nhân không). Người lợi căn thấy chút ít pháp không liền chấp không này là rốt ráo, che chướng chân thật. Để đối trị chấp này nên nói thật chẳng phải không, đầy đủ hằng sa Phật pháp.

    Tám thức như thế.

Pages: 1 2