KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ NGHĨA SỚ

MỘT QUYỂN

Sa-môn Thích Tuệ Viễn biên soạn tại chùa Tịnh Ảnh.

PHẦN ĐẦU

Mở đầu bộ kinh này, trước phải biết qua năm điều quan trọng, rồi mới giải thích tên gọi. Năm điều quan trọng gồm:

Thứ nhất là: Nên biết giáo pháp có Đại Tiểu, giáo có chia ra hai tạng là tạng Thanh văn và tạng Bồ-tát. Giáo pháp Thanh văn gọi là tạng Thanh văn. Giáo pháp Bồ-tát thì gọi là tạng Bồ-tát. Nghĩa khác nhau như đã thường giải thích. Kinh này thuộc tạng Bồ-tát.

Thứ hai là: Nên biết giáo thì hạn cuộc ở Tiệm và Độn. Tiểu giáo gọi là hạn cuộc. Đại từ tiểu mà vào, gọi là Tiệm. Đại không từ Tiểu gọi đó là Đốn. Kinh này là pháp luân đốn giáo. Làm sao biết? Kinh này Phật giảng nói cho là bà Vy-đề-hy nghe. Ở dưới nói Vy-đề-hy là phàm phu, nói cho phàm phu nghe, không từ Tiểu thừa mà thể nhập vào, cho nên biết kinh này là Đốn giáo.

Thứ ba là: Phải biết tông thú của kinh. Tông thú trong bày trong các kinh đều khác nhau. Như Kinh Niết-bàn thì lấy Niết-bàn làm tông, Kinh Đại Phẩm, lấy trí tuệ làm tông. Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Vô Lượng Nghĩa lấy tam-muội làm tông. Kinh Đại Tập lấy Đà-la-ni làm tông. Kinh này lấy tam-muội Quán Phật làm tông.

Thứ tư là: Phải biết tên kinh khác nhau. Sự đặt tên các kinh đều sai khác nhau, hoặc có kinh y theo pháp, như Kinh Niết-bàn, Bát-nhã, v.v… Hoặc y theo người, như Kinh “Tát-hòa-đàn Thái tử”, hoặc theo vào dụ, như Kinh “Kim Quang Minh ”, Kinh “Đại Vân”, hoặc theo sự việc như Kinh “Khô Thọ”,…. Hoặc y theo nơi chốn như Kinh “Già-da Sơn Đảnh”,… Hoặc y theo thời như “Thời kinh”,…, hoặc lấy người và pháp làm tên, như kinh “Thắng man”, hoặc nêu cả sự và pháp, như kinh “Phương Đẳng Đại Tập”…. Như nêu cả pháp và dụ, như kinh Pháp Hoa, kinh Pháp Cổ v.v… Nay kinh này lấy người và pháp làm tên, Phật là người nói, quán Vô Lượng Thọ là pháp.

Các kinh nói về người gồm có bốn loại:

  1. Nêu người nói, như kinh Duy-ma, kinh Thắng man, v.v…
  2. Nêu người hỏi, như kinh “Di-lặc Vấn”, v.v.…
  3. Nêu người được nói đến, như Kinh “Tát-hòa-đàn Thái tử”.
  4. Nêu người hành động, như Kinh Ngọc-da, Kinh Ma-đề-nữ,… nay kinh này là Phật nêu người được nói đến.

Thứ năm là: Phải biết người nói khác nhau, các kinh khởi thuyết gồm có năm thứ. Như ngài Long Thọ nói:

  • Phật tự nói.
  • Các thánh đệ tử nói.
  • Thần tiên nói.
  • Các vị trời, quỷ thần nói.
  • Biến hóa nói.

Kinh này thuộc về Phật tự nói. Đã biết qua năm điều thiết yếu này, kế là giải thích danh từ.

Trước nói Phật, là nêu người nói, Hán dịch là Giác.

Giác có hai nghĩa:

  • Giác sát: Đối lại với phiền não chướng, phiền não xâm hại, sự việc đồng như giặc cướp, chỉ có bậc Thánh giác biết nên không bị nó làm hại, nên gọi là Giác. Nghĩa này nói trong Kinh Niết-bàn.
  • Giác ngộ: Đối lại với sở tri chướng. Vô minh làm mê mờ, việc đồng như ngủ mê, trí tuệ của bậc Thánh một khi khởi lên thì đại ngộ tỏ soi, như ngủ mê chợt tỉnh giấc, nên gọi là Giác. Đối lại với vô minh có hai loại:

Tánh kết vô minh, mê mờ che phủ thật tánh, đối lại vô minh kia thì có giác ngộ thật tánh các pháp, nên gọi là Giác.

Đối với việc thì không biết, đối với việc không hiểu rõ, để đối trị vô minh kia thì giác biết tất cả điều thiện, bất thiện, đó gọi là Giác. Cho nên trong Kinh Địa Trì nói: “Đối với nhóm nghĩa lợi ích, nhóm nhóm phi nghĩa lợi ích, nhóm phi phi nghĩa lợi ích, bình đẳng khai giác, nên gọi là Phật”.

Đã có thể tự giác, lại có thể giác ngộ cho người, giác hạnh đều tròn đầy đều tròn đầy, nên gọi là Phật.

Nói tự giác để phân biệt khác với phàm phu, nói giác tha là để phân biệt khác với Nhị thừa, giác hạnh đều tròn đầy để phân biệt khác với Bồ-tát, cho nên chỉ có Ngài mới được gọi là Phật.

Kế là nêu pháp sở thuyết từ miệng vàng của Phật nói ra nên gọi là Thuyết. Buộc niệm quán xét gọi là Quán. Kinh Quán Vô Lượng Thọ là nói về Phật sở quán. Quán Phật có hai loại:

  1. Quán Chân thân.
  2. Quán Ứng thân.

Pháp môn Quán thân bình đẳng của Phật, gọi là quán Chân thân.

Quán thân Phật Như lai đồng với thân thế gian thì gọi là quán ứng thân.

Quán chân thân như phẩm Kiến A-súc trong kinh Duy-ma nói: Quán thân thật tướng, Quán Phật cũng thế. Ta quán Đức Như lai, trước không đến, sau không đi, nay không trụ, nói về chỗ thiết yếu, thì các tướng dứt bặt, đầy đủ các nghĩa. Các tướng dứt bặt, cho đến không có một tướng nào thật có. Đầy đủ hết các nghĩa cho đến không có một đức nào không đầy đủ.

Tuy đầy đủ các đức, mà nghĩa đồng thể chia ra, dụ như hư không, vô ngại bất động, không có tướng kia đây khác nhau, các căn tướng tốt đều trùm khắp pháp giới, như biển có mười tướng, đồng thể đều trùm khắp. Vì trùm khắp cho nên dùng nhãn căn làm môn. Các căn tướng tốt và tất cả chúng sinh trong cõi nước đều quán trong mắt đó. Quán các tướng tốt khác cũng giống như thế.

Còn Quán ứng thân, như trong Kinh Quán Phật tam-muội, giữ lấy hình tướng Phật, buộc niệm suy nghĩ, gọi là ứng thân quán. Ứng thân này, tùy theo hình tướng mà hóa hiện, phân biệt có kia đây, không cùng một loại. Trong quán ứng thân, có đầu có cuối. Nghe tạng Bồ-tát, biết các thế giới trong mười phương có vô lượng Phật, buộc niệm suy nghĩ khiến cho tâm được rõ ràng. Cứ như thế, thô tịnh đều tín kiến, gọi là Đầu.

Dùng đại thần không qua lại lễ kính, hoặc đựơc vãng sinh, tạn mặt cúng dường thì gọi là chân thật kiến, lấy đây làm cuối. Trong quán chân thân cũng có đầu có cuối, nghe tạng Bồ-tát biết được pháp thân Phật, buộc niệm suy nghĩ thô tịnh đều tin kiến, gọi là đầu. Dứt hết vọng tưởng, nội giác tương ứng, gọi là cuối. Nay theo sở luận này, là tín quán thô tịnh trong ứng thân.

Trong quán ứng thân thì có chung có riêng, như Kinh Quán Phật tam-muội kia nói hễ giữ tướng Phật mà quán sát, thì chắc chắn không có kia đây, đó gọi là chung. Như Quán Phật Di-lặc, Phật A-súc thì gọi là riêng. Nay luận này chính là quán riêng, quán riêng Phật Vô Lượng Thọ ở Tây phương. Nhưng danh hiệu phật có chung có riêng. Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, đó là hiệu chung. Phật Thích-ca, Di-lặc, A-súc… là hiệu riêng, trong đặt tên riêng thì có nhiều loại, hoặc từ chủng tánh như phật Ca-diếp, Thích-ca,… hoặc tùy theo sắc thân như Phật Thân Tôn, Phật Thân Thượng, hoặc tùy theo âm thanh như Phật Diệu âm, Phật Diệu thinh, v.v… Hoặc tùy theo ánh sáng như Phật Diệu Quang, Phật Phổ minh v.v.… Hoặc y theo nội đức như Phật Công Đức, Phật Trí Tuệ,… Hoặc y theo thí dụ, dụ các pháp riêng khác, hoặc tùy theo tuổi thọ. Nay sở quán này là tùy theo tuổi thọ. Nhưng tuổi thọ của Phật có Chân có Ứng. Chân thì như hư không, rốt ráo vô tận. Tuổi thọ của Ứng thân thì có dài có ngắn. Nay sở luận này là Ứng chứ chẳng phải Chân. Cho nên trong Kinh “Quán Âm Thọ ký” có nói: “Phật Vô Lượng Thọ, tuổi thọ tuy lâu dài nhưng cũng có lúc tận diệt” cho nên biết là Ứng. Phật này là ứng, tuổi thọ lâu dài vô biên, các người phàm phu Nhị thừa chẳng thể suy lường được, nên gọi là vô lượng. Mạng giới hạn gọi là Thọ.

Hỏi: Kinh này chẳng quán thẳng Phật, thì cũng quán cõi nước, Quán Âm, Thế Chí, cho đến vãng sinh chín phẩm v.v,… Vì sao chỉ gọi là Quán Vô Lượng Thọ? Đáp: Vì Quán Phật là chính, cho nên chỉ gọi là Quán Vô Lượng Thọ. Lại còn có các việc khác không thể nêu đầy đủ ra, chỉ nêu chung là quán Phật.

Kinh: Tiếng Phạm Tu-đa-la, Hán dịch là Tuyến (chỉ), là lời bậc Thánh nói, có công năng xuyên suốt các pháp như xâu kết các bông hoa lại, lấy đó để thí dụ, thì gọi là Tuyến. Nhưng nói kinh thì sợi chỉ có thể xâu kết lại để cầm nắm, đây là dùng tướng tương tư, cho nên gọi là Kinh. Nếu y theo thế tục mà nói thì kinh nghĩa là Thường, là một pháp trong giáo từ xưa đến nay, hằng hữu nên gọi là Thường.

Kinh này từ đầu đến cuối, văn chia làm ba loại: đó là phần tựa, chánh tông và lưu thông.

Từ đầu cho đến “Đức Thế tôn vì sao làm quyến thuộc với Đề-bàđạt-đa” đó là phần tựa. Cúi mong nói cho con nghe trở xuống là phần chánh tông, từ “A-nan bạch Phật rằng: Nên đặt tên kinh này là gì trở xuống cho đến hết là phần lưu thông. Hóa nữ là có lý do, cho nên trước nói về phần tựa. Do bài tựa đã hưng khởi, chánh trình bày ra phần sở thuyết, nên phần tiếp theo nói về chánh tông. Nói pháp đã xong, muốn truyền bá cho đời sau nên khen ngợi khuyên học, vì vậy thuộc về phần lưu thông. Y theo lời tựa đầu, Văn chia ra tuy có nhiều nghĩa nhưng chỉ có hai nghĩa quan trọng:

  • Tựa Phát khởi.
  • Tựa Chứng tín.

Nói phát khởi là khi Phật sắp nói kinh trước phải mượn thời gian, địa điểm, thần lực của đại chúng mà phát khởi nói ra, nên gọi là phát khởi. Vì việc phát khởi này làm nhân cho việc nói kinh, nên gọi là tựa phát khởi.

Tựa chứng tín là do ngài A-nan bẩm thừa lời Phật, muốn lưu truyền cho đời sau nên trước đối với chúng sinh mà nói rằng pháp này do ta nghe Phật nói ra, chứng thành đáng tin tưởng, nên gọi là chứng tín. Vì phần chứng tín này làm nhân cho việc truyền kinh nên gọi là tựa chứng tín.

Nghĩa rõ ràng như vậy văn chia ra như thế nào?

Câu đầu “Tôi nghe như vầy” là một bề chứng tín. Từ “Một thuở nọ, Đức Phật” v.v… trở xuống nghĩa gồm cả hai. Giữ lấy nghĩa bổn sự phát khởi, xếp vào phần phát khởi. Ngài A-nan dẫn ra để chứng thành đáng tin gọi là chứng tín. Nghĩa đã gồm cả hai thì không thể giữ riêng, nhân tình phải trái, đầy đủ như thường phân tích.

Y theo bài tựa một bề chứng tín ở đầu thì chia ra ba môn giải thích như sau:

Giải thích lý do câu “Tôi nghe như vầy”.

Nói về lập lý.

Giải thích câu: Tôi nghe như vầy.

1. Nói lý do, vì sao ở đầu kinh lại có câu: “Tôi nghe như vầy”. Vì Phật dạy để ở đâu như vậy, vì sao Phật dạy như vậy?. Vì ngài A-nan thưa hỏi. Vì sao A-nan thưa hỏi?. Là do ngài A-nậu-lâu-đà dạy thưa. Vì sao mà A-nậu-lâu-đà dạy? Là vì tâm A-nan lo buồn. Vì sao lại A-nan lo buồn? Vì thấy Như lai sắp nhập niết-bàn.

Khi Phật sắp diệt độ, Ngài nằm xoay đầu về hướng Bắc dưới cây Ta-la Song thọ. Lúc ấy A-nan thấy Phật sắp nhập diệt, tâm rất lo buồn, không thể kềm chế được, A-nậu-lâu-đà liền khai giác cho A-nan: “Ông là người truyền pháp, vì sao không thưa hỏi Phật những việc ở đời vị lai, luống lo buồn như thế có ích gì?

A-nan đáp: Giờ đây Tâm tôi chìm trong biển lo buồn, biết thưa hỏi gì bây giờ?

A-nậu-lâu-đà bèn dạy A-nan thưa hỏi Phật bốn việc:

Sau khi Phật diệt độ, các Tỳ-kheo lấy gì làm thầy?

Sau khi Phật diệt độ, các Tỳ-kheo nương vào đâu để an trụ?

Tỳ-kheo Ác tánh làm sao ở chung?

Ở đầu tất cả kinh nên đặt chữ gì?

Sau khi được chỉ dạy tâm A-nan có phần tỉnh ngộ, liền thưa hỏi Phật. Phật y theo đó giải đáp, rằng các Tỳ-kheo y vào Ba-la-đề-mộcxoa làm thầy. Nếu ta còn trụ thế thì điều này cũng chẳng khác, Mộcxoa là giới, là sở học của Tỳ-kheo, cho nên lấy đó làm thầy. Nói các Tỳ-kheo nương vào pháp nào để an trụ, nên y vào bốn niệm xứ mà an trụ. Bốn niệm xứ là gì? Là Tỳ-kheo quán ở trong thân, quán tu thân, nhất tâm siêng năng, dứt hết tham ái ở đời. Như thế quán, ngoài thân, trong ngoài, thân, thọ, tâm, pháp cũng giống như thế. Đó là chỗ y trụ của các Tỳ-kheo. Cho nên kinh nói: “Nếu trụ vào bốn niệm, gọi là tự cảnh giới, không bị ma chướng. Nếu trụ vào năm dục, gọi là tha cảnh giới, bị ma trói buộc. Tỳ-kheo Ác tánh thì làm sao ở chung, thì dùng phạm-đàn để trị. Nếu tâm điều phục, thì nói kinh lìa hữu vô. Phạm-đàn là tiếng Phạm là im lặng không nói chuyện.

Tất cả kinh điển nên đặt chữ đầu là gì? Nên đặt là tôi nghe như vầy.

Thứ hai: là Kiến lập ý “Tôi nghe như vầy” vì sao Phật đặt ra câu này? Là muốn chúng sinh có niềm tin, nói như thế vì sao lại tin? A-nan tự mình tin thuận lời Phật. Nói lại lời Phật như chính Phật nói, khiến cho chúng sinh khởi lòng tin như mình. Nói “Tôi nghe” vì sao lại khởi tin? A-nan tự cho mình là người không đáng tin, nếu nói pháp này do mình nói thì nhiều người sẽ không tin. Do đó phải nói là được nghe từ Phật thì người mới tin.

Chúng sinh tin như thế. Tin nghĩa là gì mà vì đó sinh ra? Vì tin là cửa ngõ nhập đạo, là chỗ đầu tiên để nhiếp pháp, hễ muốn vào cửa Phật pháp thì trước phải phát khởi lòng tin. Cho nên trong kinh, luật, luận lấy niềm tin làm đầu. Như người có ta đi đến chỗ có châu báu, tùy ý lấy về. Nếu như không có tay thì không thể làm gì được. Niềm tin cũng giống như thế, người vào trong Phật pháp có lòng tin làm tay thì tùy ý nắm lấy pháp bảo. Nếu không có niềm tin thì chẳng thể đạt được, cho nên phải sinh lòng tin.

Trong môn thứ ba, kế là giải thích câu: “Tôi nghe như vầy”.

Trước là giải thích chữ như vầy. Hai chữ này người giải có nhiều cách. Ở đây giải thích theo chánh luận thì có hai nghĩa:

Pháp giải thích theo

Người giải thích theo. Nói y theo pháp, A-nan nói lại những pháp Phật đã nói. Cho nên gọi là “Như”.

Nhưng pháp Như lai nói ra đều xưng là tiền pháp, nói lý đúng như lý, nói sự đúng như sự, nói nhân đúng như nhân, nói quả đúng như quả, tất cả đều gọi là như cho nên gọi là như. Nói như pháp là đúng với đạo lý, chính là như thế. Bởi trái với pháp gọi là phi, đúng như pháp thì gọi là thị.

Nói theo người, nay Đức Thích-ca nói như thế, tất cả lời Phật nói trong quá khứ, nên gọi là như dị thuyết, thì phi như thuyết, nên gọi là như thị.

Nói tôi nghe, A-nan đối với chúng sinh đời vị lai mà nói lại những gì mình đã nghe, nên gọi là tôi nghe, nghe thật như cho nên nói là Thị. Các căn khác nhau, đều do ta sử dụng làm công cụ. Thuận theo tên chủ mà trình bày rõ ràng, nên nói là nghe.

Hỏi: Trong pháp không có người, thì lấy gì làm chủ, mà sao nói y theo chủ nói là tôi nghe.

Giải thích rằng: Trong pháp tuy không có định chủ nhưng chẳng phải không có nghĩa giả danh thống ngự, nên gọi là Ngã. Trong Kinh Niết-bàn chép:

Thí như bốn binh hợp lại thành quân, tuy không có định chủ nhưng cũng được gọi là quân ta mạnh mẽ chiến thắng địch quân, ý ở đây cũng gióng như thế.

Hỏi rằng: A-nan đắc lý bậc Thánh, là vì sao? Lại đồng với phàm phu mà nói là ngã?

Giải thích rằng: A-nan tuy nói là Ngã, nhưng không đồng với phàm phu, vì sao không đồng? Vì như ngài Long thọ giải thích, nói ngã có ba:

1. Thấy tâm mà nói ngã. Nghĩa là các phàm phu chấp kiến sử, chưa quên ngã kiến, trong tâm xưng nói có ngã.

2. Mạn tâm mà nói ngã: nghĩa là các vị Hữu học kiến sư tuy đã dứt trừ; nhưng trong tâm vẫn còn ngã mạn, nên xưng nói có ngã.

3. Tùy sự lưu bố ở đời mà nói là có ngã. Nghĩa là người Vô học kiến mạn đã trừ, tùy theo sự lưu bố ở đời mà nói ngã. Nhưng nay ngài A-nan kết tập pháp, thân ở chỗ Vô học, kiến mạn đã trừ nhưng tùy theo sự lưu bố ở đời mà nói ngã, nên không đồng với phàm phu.

Hỏi rằng: Đạo lý vô ngã rất tinh túy, cao siêu, vì sao A-nan không thuận theo đó mà nói vô ngã, mà lại tùy theo thế tục nói ngã?

Vì cách muốn hóa ngã của chúng sinh nên phải nói như thế. Nếu không nói ngã thì làm sao có thể nêu được sự riêng khác kia đây, khiến cho người biết? Vì thế cho đến Chư Phật khi hóa độ người cũng nói ngã.

Từ “Một thuở nọ” v.v… trở xuống nghĩa tuy gồm cả hai, nhưng đối với trước đều nhất hướng về tựa chứng tín. Từ phần sau là riêng thuận theo phần phát khởi mà giải thích, thuận theo tùy xứ mà chia ra làm hai.

Văn này có năm:

Nói hai xứ là:

  1. Dị xứ mà khởi ra hóa tựa, Phật ngự tại núi kỳ-xà, sau thời huyền khởi liền đến giáo hóa cung vua.
  2. “Phật từ núi kỳ-xà-quật cho đến thân vãng nhiếp hóa tựa. Đây và Kinh Thắng man phần lớn đều giống nhau. Trong các kinh điều này trình bày chẳng phải một.

Văn chia làm năm, đầu tiên nói một thuở nọ là nói thời khởi hóa.

Thứ hai: Phật nêu ra hóa chủ.

Thứ ba: “Tại Vương xá ” v.v… trở xuống là nói về nơi khởi hóa.

Thứ tư: “Cùng với đại” v.v… trở xuống là nêu đồ chúng.

Thứ năm: “Lúc bấy giờ, đại thành Vương xá ”… trở xuống là nói việc khởi hóa. Đầu tiên nói về một thuở nọ, có người giải khác, đầy đủ như thường phá. Nay chánh luận này, lấy buổi sáng để hóa, đó là thời. Một đời Phật giáo hóa rất nhiều chúng sinh, để phân biệt với thời khác, cho nên nói là một. Ở đây cũng giống như Kinh Niết-bàn chép: “Một thuở nọ ta ngự tại nước Ca-thi ”, “Một thuở nọ ta ngự tại thành Vương xá ”, “Một thuở nọ, ta ngự bên bờ sông Hằng”, lời ấy tương tự, chớ giải thích khác. Chữ Phật như trước đã giải thích.

Thứ ba: Trong chỗ nói pháp tại thành Vương xá, chính là nêu rộng. Thành này ngày trước phần nhiều các vì vua đều ở đó nên gọi là thành Vương xá .

Núi Kỳ-xà-quật là tùy chỗ mà chỉ riêng, Hán dịch là núi Linh thứu. Vì núi này thường có các vị tiên linh ở đó, và các loài chim thứu cũng ở đó, nên gọi là núi Linh thứu, lại cũng gọi là núi Thứu Đầu, vì các loài chim thường ở trên đỉnh, nên gọi như thế, lại vì đỉnh núi này giống như đầu chim thứu, nên gọi là núi Thứu Đầu. Các Đức Phật du hóa đều ở đây, pháp thân đều bình đẳng, thật không nương gá. Thị hiện hóa độ có phương xứ cho nên gọi như thế. Vì trong các thành đó thì thành Vương xá là trên hết. Trong năm núi, Kỳ-xà là tốt nhất, nên dùng đó tiêu biểu cho pháp. Vì sao lại chỉ nói về các nơi này. Như trong luận Pháp Hoa có giải thích, vì để nói lên thắng pháp, cho nên Phật nói pháp tại đây.

Thứ tư: Trong chúng trước nói người Thanh văn, sau mới nói Bồtát. Các kinh phần nhiều đều như vậy, vì sao? Giải thích có ba nghĩa:

1. Xa gần đều phân biệt. Vì người Thanh văn đều tùy theo đức Như lai nên sau khi Phật diệt độ, tùy theo gần mà nói trước. Bồ-tát thì không như cho nên nói sau. Vì sao người Thanh văn lại gần với đức Như lai? Đây giải thích có hai nghĩa:

Nghĩa là các Thanh văn, trí giải còn yếu kém, chưa thông suốt đạo pháp. Tuy là đắc thánh quả, đi đứng cai nghi phải thuận theo lời Phật dạy, nên thường gần gũi bên Phật. Do đó mà đức Như lai trong suốt quá trình nói pháp cho đến khi ở Song Lâm cũng thường chế giới, như kinh “Niết-bàn” có chế ra giới Thanh văn không ăn thịt,… Các Bồ-tát thì đạo pháp đã sâu dày, không cần Phật phải dạy, cho nên không gần Phật.

Vì người Thanh văn mong cầu Phật cứu độ, vượt phàm lên thánh, mong đáp ơn sâu nặng cho nên phải theo Phật, hầu hạ cúng dường. Bồtát tùy cảm mà ứng hiện, du hóa bất định, cho nên không gần Phật. Đây là điều thứ nhất phân biệt xa gần

2. Hình tướng phân biệt: Người Thanh văn phải giữ uy nghi nghiêm chỉnh, người đời đều tôn kính, cho nên nêu ra trước. Còn các Bồ-tát thì tùy hóa, hình nghi bất định, cho nên trình bày sau. Như trong kinh nói: “Ngài Văn-thù một mùa hạ an cư ba chỗ, bị ngài Cadiếp quở trách” chính là việc này.

3. Y theo đức mà phân biệt: Như ngài Long Thọ nói về giáo có hai loại:

a) Giáo Bí mật: Bồ-tát đức tôn quý, lý thích nghi nên xếp ở trước, Thanh văn đức kém, theo pháp thì xếp ở sau.

b) Giáo Hiển thị: Thanh văn, Bích-chi và Phật đã diệt hết hữu lậu cho nên nêu trước. Các Bồ-tát tùy hóa hiện ra phàm phu, chưa dứt hết lậu. Nếu nghe nói Bồ-tát ở trên La-hán thì người đời phần nhiều đều kinh lạ, cho nên phải xếp ở sau. Nay theo đó mà hiển bày, trước nói Thanh văn sau mới nói Bồ-tát.

Trong chúng Thanh văn, đầu tiên nói là cùng, vì thân gồm cả Bồtát, nên nói là cùng. Đại Tỳ-Kheo, là nêu ra chúng ấy là lớn. Đại, tiếng Phạm là Ma-ha, Hán dịch có ba nghĩa:

  1. Gọi là Đa, như đa nhân (nhiều người) nhóm họp, nên gọi đại chúng.
  2. Gọi thắng là: thù thắng hơn các đạo khác.
  3. Gọi là đại: Cao đức rộng lớn đầy đủ. Tỳ-kheo là tiếng Phạm, nếu dịch nghĩa gồm có năm:

– Bố ma: khi sắp xuất gia làm cho ma quân khiếp sợ. Tỳ-kheo xuất gia, vì sao lại làm cho chúng ma khiếp sợ? Vì tánh ma ưa ghanh ghét, sợ người xuất gia sẽ hơn mình, cho nên mới lo sợ. Lại lo sợ tỳ- kheo giáo hóa người khác ra khỏi lưới ma làm cho cảnh giới ma trống rỗng, nên chúng lo sợ, như trong kinh Niết-bàn có nói.

– Khất sĩ: Đã dự vào hàng ngũ xuất gia thì không được chứa để, chỉ xin ăn tự sống, nên gọi là khất sĩ.

– Tịnh mạng: chánh mạng thì khất cầu, xa lìa hết là mạng, gọi là tịnh mạng. Hai điều này y theo trung gian mà đặt tên.

– Tịnh giữ giới: tinh tấn giữ giới, không hủy phạm.

– Phá ác: vì giữ giới nên xa lìa hết nghiệp ác, hai nghĩa sau này, ý cứ ở sau làm đề mục, chẳng phải một mà xưng nhiều.

Nói một ngàn hai trăm năm mươi vị, là nêu ra số lượng. Đây là một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo. Các kinh thường nêu. Vì sao như thế? Vì khi mới đắc đạo trước tiên Cõi Phật cho ba anh em Ca-diếp, và các đệ tử của ba vị này, hợp lại được một ngàn vị. Kế là đi đến thành Xá-vệ, độ ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên và đồ chúng của hai vị này là hai trăm năm mươi vị, hợp lại thành một ngàn hai trăm năm mươi vị, các bậc Thánh này này mong Cõi Phật trước tiên, bỏ tà về chánh, mang trọng trách ơn sâu đối với Phật, thường theo hầu Phật nên được nêu.

Phần dưới là nói về Bồ-tát. Nói Bồ-tát, là nêu chúng riêng. Tiếng Phạm là Bồ-đề Tát-đỏa, dịch lược là Bồ-tát, Hán dịch là đạo chúng sinh, vì các vị này trong tâm cầu đạo mà có đạo hạnh. Lấy sự tu đạo làm nhân nên gọi là chúng sinh. Nói như thế thì người Thanh văn, Duyên giác cũng đều cầu đạo, cũng có đạo hạnh, cũng do đạo mà thành tựu, vì sao lại chỉ riêng các Bồ-tát.

Giải thích rằng: Tên của bậc hiền thánh đều có chung và riêng. Chung thì nghĩa đồng, nên trong kinh Niết-bàn chép: “Cho đến Tu-đà cũng gọi là Bồ-tát. Cầu mong tận trí, vô sinh trí nên cũng gọi là Phật. Chánh giác, cộng đạo, bất cộng đạo. Cho đến Chư Phật cũng gọi là Tuđà, tu tập vô lậu, đi ngược lại với sinh tử, vì chia ra các bậc hiền thánh, cho nên gọi riêng là Bồ-tát. Cùng chia ra hiền thánh, vì sao riêng đây gọi là Bồ-tát? Giải thích có ba nghĩa:

Y cứ theo nguyện tâm mà mong quả phân biệt, chỉ có chúng sinh này cầu đại Bồ-đề. Các chúng khác không cầu, cho nên riêng gọi là đạo chúng sinh. Trong địa luận nói “Thượng quyết định đó là nguyện đại Bồ-đề” nghĩa này là chỉ riêng cho Bồ-tát.

Ý theo tâm giải ngộ mà mong lý phân biệt: Phàm phu trụ vào hữu, Nhị thừa thì chấp không. Hữu không đều trái, không hợp với Trung đạo. Cho nên không được gọi là đạo chúng sinh. Bồ-tát thì không như thế, khéo xả bỏ hữu vô, khế hợp Trung đạo, cho nên được gọi là Đạo chúng sinh.

Phân biệt theo hành, nhập vào pháp Phật, gồm có ba cửa:

  • Giáo.
  • Nghĩa.- Hành.

Giáo cạn mà nghĩa sâu, hành là tối thắng. Người Thanh văn căn cơ nhẹ nhàng, y theo giáo mà gọi tên. Thanh nghĩa là giáo, do nghe âm thanh mà giải ngộ, nên gọi là Thanh văn, Duyên giác là bậc thù thắng hơn, y theo nghĩa mà đặt tên. Duyên là nghĩa, từ duyên mà liễu ngộ, nên gọi là Duyên giác.

Bồ-tát là bậc tối thắng, do hành đạo mà đặt tên, thực hành tự lợi, lợi tha, thành tựu tròn đầy, nên gọi là Đạo chúng sinh. Trong Kinh Địa Trì chép: Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể tự độ, Bồ-tát thì không phải như thế, vừa tự độ vừa độ tha, nên gọi là Đạo thắng. Vì đạo thắng (đạo hạnh cao siêu), nên gọi là Đạo chúng sinh.

Ba mươi hai ngàn, là nói về số mục. Bậc thượng thủ Văn-thù nêu ra danh tự, cũng được gọi là bậc thù thắng hơn cả. Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu đức.

Từ phần thứ năm trở xuống là nói về việc khởi hóa, trong đó có hai:

Vua Tần-bà bị con giam vào cấm ngục, Như lai sai người đến nói pháp.

Bấy giờ, vua A-xà-thế hỏi người giữ ngục trở xuống. Bà Vy-đề-hy bị con giam vào ngục.

Như lai đi đến nhiếp hóa. Vì sao Phật trước sai người đi, sau Ngài lại tự đến?

Giải thích rằng: Trước vì vua Tần-ba-ta-la nguyện nghe pháp nên Phật sai người đến truyền thọ, vì hóa nghĩa đã đầy đủ cho nên thân bất trụ.

Phu nhân Vy-đề-hy cầu sinh về tịnh quốc. Sự giáo hóa của Tịnh độ, nếu không phải Phật thì không ai khai mở, cho nên Phật phải tự thân đến.

Vì sao nêu việc ác nghịch này, để làm khởi phát. Vì để hiền bày cảnh giới cực ác cần phải nhàm chán, xa lìa. Chính con của vua còn hại cha huống chi người khác, tức là muốn cho người cùng ưa thích cõi Tịnh độ.

Bà Vy-đề-hy bạch Phật rằng: “Cúi mong Phật nói cho con nghe cảnh giới vô ưu, con sẽ cầu vãng sinh về đó, không ưa thích cõi Diêmphù vẩn đục này”. Trong phần đầu văn chia ra làm bốn đoạn:

  1. Vua Tần-ba-ta-la bị con giam cầm.
  2. “Quốc Đại phu nhân tên Vy-đề-hy” v.v… trở xuống: Nói phu nhân bôi mật vào thân đem đến cho vua ăn.
  3. Từ: “Ăn xong” v.v… cho đến các bậc thánh nói, để an ủi tâm vua.
  4. “Suốt ba mươi bảy ngày như thế!” Vua nhờ được ăn, lại được nghe pháp, nên nhiều ngày vẫn không chết.

Trong phần đầu: “Khi ấy, ở thành Vương xá có Thái Tử tên là Axà-thế”, bắt giam vua cha.

Nói lúc bấy giờ đó là lúc Phật ở tại thành Vương xá. Thành Vương xá là chỉ cho nơi chốn. Thái tử là chỉ cho người, A-xà-thế là tên húy, Hán dịch là Vị sinh Oán. Là lúc Vua A-xà-thế chưa sinh ra, thầy tướng đoán rằng đứa bé này khi sinh ra, chắc chắn sẽ hại cha mình, do đó mà đặt tên là Vị Sinh Oán.

“Nghe theo lời của bạn xấu là Điều-đạt, bắt giam cha mình. Mọi việc như trong kinh nói:

Đề Bà-đạt-đa là em họ của Phật, là anh ruột của A-nan, sau khi xuất gia tu đắc được năm thần thông, dựa vào A-xà-thế làm đàn-việt. Có một thời gian ông đến chỗ Phật, xin thống lãnh đồ chúng rằng:

“Thế tôn nay tuổi đã cao, nên giao lại đồ chúng cho tôi, tôi sẽ giáo hóa họ.” Phật quở trách: “Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên là bậc thần thông đại trí, ta còn chưa giao đồ chúng cho họ, huống chi ông là kẻ si mê ăn đồ hỷ nhổ”.

Điều-đạt nghe Phật nói, rất giận dữ, bèn đi đến chỗ vua A-xà-thế nói lại nhân duyên khi ông chưa sinh ra xuýt bị vua cha giết chết, và khuyên nên giết cha để lên làm vua. “Ta giết Cù-đàm, tự mình thành Phật. Tân Vương, Tân Phật, cùng ngự trị thế gian, chẳng phải là vui lắm hay sao?”

Do đó mà A-xà-thế có tâm hại cha, cho nên nói là “Thuận theo bạn ác Điều-đạt”.

Phần sau nói về việc giam cầm vua cha. Nắm hết quyền hành của cha, rồi giam vào ngục thất, cấm các quan không được đến thăm vua cha. Vua Tần-bà-ta-la, đời trước đã gây ra nhân duyên gì, mà nay gặp phải nguy ách này. Như trong kinh Niết-bàn chép: “Tần-bà-ta-la đời trước làm vua, vào núi Tỳ-phú vui chơi săn bắn, nhưng không được gì, chợt gặp vị tiên, vua liền nghĩ: “Chính là do người ngồi này” liền ra lệnh hạ sát.

Khi qua đời, vị tiên liền phát nguyện ác “Nguyện đời sau ta sinh trở lại sẽ giết lại ngươi”.

Vị tiên đó nay là A-xà-thế, vị vua kia là Tần-bà-ta-la. Ngày nay bị A-xà-thế hãm hại trở lại.

Từ phần hai trở xuống, nói phu nhân đem thức ăn, sau nói vua ăn. Câu đầu nói: “Quốc đại phu nhân, tên là Vy-đề-hy.” Là nêu người. Đây là mẹ của A-xà-thế. “Cung kính đại vương” là bày tỏ lòng cung kính vua, do đó mà dâng thức ăn. “Tắm gội sạch sẽ”. Trét mật vào thân, dâng cho vua ăn.

Từ phần thứ ba, là nói Phật nói pháp cho nghe, để gội nhuần tâm vua. Đầu tiên nói vua Tần-bà-ta-la thưa thỉnh, bấy giờ Từ Mục-liên trở xuống là nói các bậc Thánh đến nói pháp. Trong phần khuyến thỉnh này đầu tiên là nói: Súc miệng xong, nhắc lại việc trước để sinh khởi việc sau, chắp tay lễ Phật từ xa, thân nghiệp thỉnh Phật, muốn Đức Như lai thương xót trao pháp, cho nên thân làm lễ. Mà nói rằng trở xuống là lời thỉnh Mục-liên. “Nói Đại Mục-liên là bạn thân của con”, mong Ngài đến đây.

“Nguyện ngài khởi tâm từ bi, truyền cho con tám giới” là lời hết lòng khuyến thỉnh. Trong phần bậc Thánh nói pháp cho nghe, đầu tiên nói ngài Mục-liên ứng theo lời cầu thỉnh truyền trao tám giới. “Như chim ưng bay nhanh đến chỗ Vua v.v…” Đối với lời cầu giới, đích thân truyền giới cho vua.

Tám giới là gì? Là không sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không ca múa hát xướng và đến xem nghe, không mặc y xông hương và đeo các vật trang sức khác, không ngồi giường cao rộng, không ăn quá ngọ,… Đây là chín giới vi sao lại nói tám? Nếu theo Tỳ-đàm thì giới không mặc y xông hương và không ngồi giường cao rộng lớn, hai giới này đồng là chỗ trang nghiêm, nên hợp lại thành một, cho nên gọi là tám. Nếu theo Luận “Thành Thật và luận Đại trí thì tám giới trước là giới, giới thứ chín là trai. Trai và giới hợp lại mà nói thì thành ra giới trai. Nghĩa của tám giới trai này, trong chương riêng có nói rõ, ở đây nếu nói đầy đủ thì tám giới này là người tại gia thọ trì pháp của người xuất gia, cho nên khiến truyền thọ. Phần dưới nói Đức Như lai không tự thân đến mà sai Tôn giả Phú-lâu-na đến giảng nói, ý nghĩa vì sao không tự đến như trước đã giải thích. Vì sao lại sai Phú-lâu-na đến giảng nói? Vì Phú-lâu-na là người nói pháp bậc nhất trong các đệ tử, khéo khai ngộ tâm người, cho nên đặc biệt phái đến.

Phần thứ tư: Vua Tần-bà-ta-la nhờ ăn và được nghe pháp, nên nhiều ngày vẫn không chết.

Từ phần thứ hai: Nói Phu Nhân bị con giam cầm, được Phật đến nhiếp hóa. Trong đây có bốn ý:

  1. Phu nhân bị con giam cầm.
  2. Vy-đề-hy vì bị giam cầm nên thỉnh Phật.
  3. “Chưa ngẩng đầu v.v… Phật và các đệ tử nghe lời khuyến thỉnh liền đến
  4. Bấy giờ Vy-đề-hy mong thấy Đức Thế tôn trở xuống, vì thấy nên thương cảm khen ngợi.

Trong phần đầu có ba ý:

  • A-xà-thế muốn hại mẹ.
  • Các đại thần khuyên mà vua không nghe.
  • Ra lệnh cho nội quan giam cầm mẹ.

Trong đây lại có ba câu:

Câu một: A-xà-thế hỏi người giữ cửa nay vua cha của ta còn sống không.

Câu hai: Người giữ cửa thưa lại các việc đầy đủ.

Câu ba: Vua giận dữ liền muốn giết hại mẹ. Trong đó, đầu tiên là nói vua nghe lời ấy rồi là nói lý do tức giận. Miệng quở trách mẹ, gọi cha là giặc, gọi mẹ là bạn, Sau đó quở mắng Sa-môn cho là người ác, bèn “Cầm gươm lên trở xuống là đích thân muốn hại mẹ”. Đây là ý đoạn đầu đã xong.

Thứ hai: Trong đoạn: Các quan khuyên mà vua không nghe. Văn có bốn ý:

  1. Các quan khuyên không nghe.
  2. Vua thấy liền kinh sợ.
  3. Kỳ-bà lại khuyên can.
  4. Vua nghe lời thả mẹ ra.

Trước nêu người khuyên, từ làm lễ vua trở xuống là tướng khuyên can.

Bấy giờ, có hai vị đại thần thưa rằng, cho đến khuyên rồi bèn bỏ đi.

  • Làm lễ là tướng khuyên.
  • Thưa là miệng khuyên.

Trong đó, trước là nêu xưa khác nay, từ kiếp sơ đến nay có vô lượng ác vương mà không có ai giết mẹ, nay vua muốn giết hại mẹ làm nhơ danh dòng Sát-lợi, “Thần không nỡ nghe”: Là nói tâm bất nhân. Giết mẹ là việc mắt thấy sao lại nói là nghe? Là không nỡ nghe người đời truyền nói.

“Không nên trụ ở đây là thân bất trụ”.

Phần dưới nói bỏ đi, “Nói lời này xong” là trước kết sau khởi, “Dùng tay đè kiếm, khước từ lui ra”. Hai vị quan lại trái ý vua, sợ vua làm hại, nên cầm kiếm ngăn ngừa.

Trên là lời khuyên của quan Đại thần

Từ phần thứ hai trở xuống v.v… Vua thấy rất kinh hãi. Do thấy hai vị Đại Thần đè kiếm lui ra, sợ có ý khác “Bảo Kỳ-bà” v.v… là lời hỏi han. Vì sợ kia bỏ đi sẽ theo vua cha, cho nên nói: “Không vì ta sao?” Từ: Kỳ-bà thưa v.v… trở xuống, gồm ba ý:

Kỳ-bà lại can: Cẩn thận chớ hại mẹ.

Từ: Vua nghe lời này là đoạn thứ tư: Nhờ lời khuyên nên thả mẹ ra, sám hối cầu cứu hai vị Đại thần không giết mình, liền bỏ kiếm xuống: Là ý không làm hại mẹ nữa, là dừng lỗi sau.

Bốn đoạn trên hợp lại là phần thứ hai, là lời quan Đại thần khuyên mà không nghe. “Sắc ngữ” v.v… trở xuống là đoạn ba: Là nói vua Axà-thế giận giữ bắt mẹ, lại sợ mẹ đem thức ăn cho vua cha vì thế mà giam lại.

Phần hai: Do bị con giam cầm nên phu nhân thỉnh Phật, ở đây có ba ý:

  1. Khi thỉnh trước phải làm lễ.
  2. “Nói như vầy” chính là phát lời cầu thỉnh.
  3. Phát lời cầu thỉnh rồi, rơi lệ bi thương, thỉnh rồi lại làm lễ. Trước nói khi bị giam cầm, lo buồn áo não, hướng về núi Kỳ-xà-quật, thân nghiệp làm lễ. Lễ thì tự thân mình cầu thỉnh.

Phát lời khuyến thỉnh “Đức Thế tôn, ngày trước thường sai ngài A-nan đến khuyên lơn an ủi ta: Nêu ra việc từ trước và nay mong Phật đến.

“Nay ta lo buồn v.v…” cầu cho nay giống như xưa. Nói lên sự lo buồn của mình. “Đức Thế tôn uy đức không do đâu mà được thấy” là không dám mong thấy Phật. Từ “Xin sai v.v… trở xuống là thỉnh Phật sai đệ tử đến nói pháp”.

Bà Vy-đề-hy mong gặp được ngài Mục-liên và A-nan? Bởi Mụcliên là Gia môn Sư, A-nan là thị giả Phật, trước thường qua lại cung môn, cho nên cầu thỉnh. Vả lại, phu nhân ở cung sâu, nếu cầu thấy một vị e rằng bất tiện cho nên cầu thấy cả hai. Cầu thấy để làm gì? Trong tâm Bà Vi-đề nhàm chán cõi vẩn đục này, muốn cầu sinh về Tịnh độ, muốn cầu hai vị Tôn giả truyền lại ý thỉnh Phật, cho nên cầu được gặp.

Trong đoạn thứ ba: “Thốt lời cầu thỉnh rồi, lệ tuôn như mưa, mong Phật xót thương.”

“Hướng về Phật làm lễ, là cầu toại ý thỉnh Phật. Trước đã làm lễ rồi, nay lại lễ nữa, biểu hiện sự siêng năng cầu thỉnh.

Trong đoạn ba, Phật và đệ tử theo lời thỉnh cầu của phu nhân mà đến. Trong đây, phần đầu nói “Chưa ngẩng đầu lên v.v… thì Phật đã đến. Cơ hội khó gặp. Cho nên Vi-đề chưa kịp ngẩng đầu lên thì các thánh đã đến.

Từ lúc bấy giờ trở xuống là nói Phật cùng các vị thánh đến.

“Bây giờ, Đức Thế tôn ở tại núi Kỳ-xà-quật” là nói Chư Phật sở tại, “Biết tâm niệm Vi-đề-hi” là biết được nội tâm, “Sai Đại Mục-liên và A-nan” là miệng truyền lệnh. Phật biến mất ở núi Kỳ-xà, hiện thân đến cung vua: Là tự thân Phật đến.Vì ý cung kính cầu thỉnh của Vy-đềhy cho nên Phật sai các đệ tử nương hư không mà đến, tự thân Như lai ẩn mất nơi kia, hiện ra nơi đây. Lại vì Bà Vy-đề-hy bị giam nơi cung sâu, nếu đi trên mặt đất thì đi vào được, cho nên phải hiện ra thần biến này.

BàVy-đề-hy chỉ mong gặp các vị đệ tử vì sao Như lai cũng đích thân đến? Vì sự giáo hóa về Tịnh độ, nếu không phải Phật thì không ai khai hóa được. Cho nên Đức Như lai phải tự thân hiện đến.

Phần thứ tư: Bà Vy-đề-hy trông thấy lòng càng thương cảm. Trong đây đầu tiên trông thấy, sau mới thương cảm than thở.

“Bấy giờ, Vy-đề-hy làm lễ rồi ngẩng đầu lên liền thấy Phật. Chính là sở kiến. Phật và đệ tử đều vì phu nhân nên các nghi lễ thế gian cần phải tránh, Phật và đệ tử nương hư không đến. Phần sau nói về sự thương cảm, “Vy-đề-hy thấy Phật” là nói lại việc thấy ở trước, “Tự cởi châu anh lạc, toàn thân gieo xuống đất” là thân nghiệp áo não, bạch Đức Thế tôn trở xuống là miệng nghiệp oán thương “Kiếp trước Con đã gây tội chướng gì mà sinh ra đứa con ác nghịch này, Đức Như lai vì sao làm quyến thuộc với Điều-đạt: Là hỏi nhân duyên đời trước của Phật. Câu trước tự than mình có con ác nghịch, câu sau oán Phật có đồ chúng xấu ác, là do Đề-bà-đạt-đa dạy A-xà-thế làm ác, cho nên có lời oán này.

Từ phần thứ hai trở xuống là phần chánh tông, văn này có bốn ý:

  1. Vy-đề-hy cầu thỉnh.
  2. Bấy giờ, Đức Thế tôn phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày trở xuống: là Phật vì Vy-đề-hy mà hiện ra.
  3. Vy-đề-hy bạch Phật: Các cõi Phật tuy đều thanh tịnh trở xuống là lời Vy-đề-hy thỉnh riêng.
  4. Bấy giờ, Đức Thế tôn liền mỉm cười v.v… trở xuống: Như lai riêng hiện bày.

Trong phần đầu có bốn:

  1. Cầu sinh Tịnh quốc
  2. Không thích cõi đời vẩn đục ở cõi Diêm-phù: Là nói nhàm chán cõi uế.
  3. Nay hướng về Thế tôn, năm vóc gieo sát đất. Đối với việc nhàm chán ở trước, ở đây sám trừ nhân ác.
  4. Cúi mong Phật dạy con trở xuống: Đối với việc vui mừng ở trước, thưa hỏi nhân lành. Trong câu đầu: “Cúi mong” là từ ngữ chuyên cầu. Chuyên tâm cầu Phật nên gọi là Cúi mong.

Nơi “Vô ưu” chính là chỗ sở cầu. Cõi Tịnh độ an ổn nên gọi là chỗ vô ưu.

“Con sẽ vãng sinh” là nói những việc phải làm để mong cầu.

Phần thứ hai: Nói trong sự nhàm chán: Không ưa thích cõi vẩn đục Diêm-phù-đề. Nên gọi chung là đáng chán. Không ưa thích cõi Ta-bà vì trong đó con người oán hại nhau, chán cái khổ đường ác ở cõi Ta-bà. Vẩn đục này trở xuống là nói về sự đáng chán, lại nói hai phần ở trước, từ đầu cho đến nhiều điều bất thiện nhóm họp, nói lên ở trước không ưa thích cõi đời vẩn đục, nói có quả khổ ba đường.

Cõi Ta-bà vẩn đục địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh đầy khắp. Địa ngục, tiếng Phạm là Nê-lê. Theo giải thích của “Tạp tâm” là không có gì vui, nên gọi là địa ngục. Kinh Địa Trì giải thích là “Tăng thượng đáng chán”, nên gọi là Nê-lê. Ở đây giải thích theo tâm nhàm chán, chứ không y theo hình tướng. Nói về đương tướng thì có địa ngục dưới đất. Nói súc sinh, trong Tạp Tâm giải thích: Vì khi đi xương sống nằm ngang nên gọi là súc sinh. Ở đây nếu nói về tướng, thì không giải thích danh nghĩa. Danh nghĩa là gì? Là tùy theo người chủ nuôi dưỡng mà đặt tên. Loài súc sinh hoặc bị tất cả người đời xua đuổi, hoặc bị giết ăn, vì được nuôi dưỡng nên gọi là súc sinh.

Nói về ngạ quỷ, trong Tạp Tâm giải thích: Vì đa cầu nên gọi là Ngạ quỷ. Ở đây cũng là nói theo tướng, chẳng phải giải thích theo danh nghĩa, nếu giải thích theo danh nghĩa thì đói khát gọi là Ngạ, ở trong hư không chịu nhiều nỗi lo sợ nên gọi là quỷ. Trong thế giới Đại Thiên đều có điều vẩn đục này cho nên nói là dẫy đầy. Chứa nhóm nhiều điều bất thiện là nhân đường ác. Không ai chẳng khởi lên sự ác này cho nên nói là nhiều, lại thường hiện hành cũng gọi là nhiều.

Sát, đạo, dâm… đều trái lý tổn vật, gọi là bất thiện, chứa nhóm lại gọi là Tụ. Vì cõi vẩn đục này từ trước đến nay có đủ các nhân quả bất thiện cho nên không vui “Con nguyện ở đời vị lai không nghe tiếng ác, không thấy người ác”. Đây là nói những sự không vui ở cõi Diêm-phùđề. Vì cõi Diêm-phù-đề có những hành vi xấu ác, có những người ác, nên gọi là bất lạc. Vì gây ra tội từ trước nên nay gặp nhân ác.

Danh tự tội hành gọi là tiếng ác. Nguyện cho mình không nghe. Nghe còn không muốn, huống chi gây ra để gặp trong đời vị lai.Vua A-xà-thế là chúng sinh gây ra tội nghịch, nên gọi là người ác, nguyện không muốn thấy nữa.

Danh tự ác nghịch, gọi là tiếng ác. Nguyện mình không nghe, nghe còn không muốn huống chi là gặp người gây ra nghịch ác gọi là người ác, nguyện không gặp họ. Đây là phần thứ hai nói về sự nhàm chán.

Từ đầu trở xuống là phần ba đối với sự nhàm chán ở trước, sám trừ nhân nghiệp ác.

“Nay hướng về Đức Thế tôn năm vóc gieo sát đất”: Là nói về phương tiện sám. Hai tay, hai chân và đỉnh đầu là năm vóc. Năm vóc thường làm lễ là kính pháp, cho nên goị là “Gieo sát đất”. Cầu ai sám hối chính là nói sám, cầu Phật thương xót nghe lời sám hối của mình thì gọi là cầu ai.

Sám-ma là tiếng Phạm, Hán dịch là hối quá, ghép chung là sám hối

Bà Vy-đề-hy gây ra tội vào lúc nào mà nay cầu sám hối? Cho rằng đời quá khứ, bà Vy-đề-hy làm sao biết mình có tội lỗi mà nay cầu xin sám hối?

Giải thích rằng: Vi-đề ngày nay sinh ra đứa con nghịch ác, bị nó giam cầm là dùng quả mà nghiệm lại nhân, biết rõ trong thời quá khứ có lỗi, sợ rằng tội nghiệp này trả mãi không hết, cho nên phải sám hối cho tiêu diệt.

Từ phần thứ tư trở xuống, v.v… là đối với niềm vui ở trước, thưa hỏi nhân lành.

“Cúi mong Phật nhật” nói lên những việc sở cầu. Phật có khả năng phá hết si mê tối tăm của chúng sinh, như mặt trời xua tan tăm tối, cho nên gọi là Phật nhật.

“Dạy con quán chỗ nghiệp thanh tịnh” chính là nói lời cầu thỉnh. Các cõi Phật nhiệm mầu khác, là nơi thuần thiện đáng quy về, cho nên còn gọi là chỗ nghiệp thanh tịnh. Chỗ nghiệp thanh tịnh này, xin dạy con cách quán. Từ phần hai trở xuống, là lời Như lai đáp thỉnh, đây là sự hiện chung của tất cả cõi nước Phật. Trong đây, phần đầu nói phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày, trong ánh sáng của Đức Như lai có sợi lông trắng như ngọc kha, dài một trượng năm thước năm tấc,ở giữa hư không ánh lên như ngọc lưu ly, mềm mại cuộn tròn về bên phải. Nay từ tướng này phát ra ánh sáng.

Kế là: Là ánh sáng phát ra soi chiếu vô lượng cõi nước, rồi nhóm lại trên đảnh Phật, biến thành đài vàng.

Phần sau nói trong đài có hiện ra nhiều cõi nước, để cho Bà Vyđề-hy trông thấy.

Hỏi rằng: Bà Vy-đề-hy thích sinh về cõi An dưỡng, sao không hiện thẳng ra nước kia mà lại hiện chung (hiện ra nhiều cõi nước)?

Đáp: Nếu không hiện chung, thì không do đâu mà hiển bày được cõi Di-đà là tối thắng, vì muốn tăng thêm sự vui sâu xa của cõi Cực lạc, cho nên mới hiện chung.

Từ phần ba trở xuống là lời bà Vi-đề thỉnh riêng, thỉnh riêng về cõi An dưỡng. “Vi-đề bạch Phật rằng: Các cõi nước tuy đều thanh tịnh, đều có ánh sáng thông suốt hiện tiền, nhưng nay con thích sinh về thế giới Cực lạc của Đức Phật A-di-đà” là lời thỉnh riêng.

“Cúi mong Phật dạy con suy nghĩ, chánh thọ” là nhân thỉnh hỏi.

Suy nghĩ, chánh thọ: Chia thành hai môn.

  1. Định tán phân biệt: Ba nghiệp thanh tịnh, tán tâm suy nghĩ suy lường, gọi là suy nghĩ. Mười sáu pháp chánh quán gọi là chánh thọ.
  2. Trong mười sáu pháp quán đó, tùy nghĩa phân biệt. Hai pháp quán tưởng đầu gọi là suy nghĩ.

Mười bốn địa quán sau, nương nhập vào mà tu khởi gọi là Chánh thọ, từ phần thứ tư trở xuống là sự hiển bày riêng của Như lai. Trong đây có hai phần:

  1. Thân phát ra ánh sáng, làm lợi ích cho vua.
  2. Miệng nói pháp: Làm lợi ích cho phu nhân. Trong đây phần đầu nói Phật chiếu ánh sáng đến vua. Trước vua đã đắc quả Tu-đà-hoàn, sau được thêm lợi ích thành tựu quả A-na-hàm.

Trong sự lợi ích của phu nhân, đầu tiên là lời Phật nói pháp, bà Vy-đề-hy cùng năm trăm thị nữ đắc quả Vô Sinh, tất cả đều được lợi ích.

Trong phần trước có bốn:

  1. Lược nêu ra nơi chốn, cách đây không xa.
  2. Từ: “Người nên buộc niệm v.v…”: là khuyên chung quán sát.
  3. “Ta nói rộng thí dụ cho phu nhân nghe”: Nói về tướng và nói về sự lợi ích.
  4. “Muốn sinh về cõi kia phải tu ba thứ phước” là nói về sinh nghiệp.

Trong phần đầu nói: “Phu nhân nên biết cõi Phật A-di-đà cách đây không xa”: Mười muôn ức cõi nước gọi là không xa.

Trong phần khuyên quán chung ở đoạn hai: phu nhân quán cõi nước kia, là phần khuyên quán y báo.

Tịnh nghiệp thành là khuyên quán chánh báo. Nghĩa là Phật, Bồtát và người vãng sinh ở ba phẩm gọi là nghiệp thành.

Trong đoạn ba: “Ta nay vì phu nhân mà nói rộng các thí dụ” gọi là chúng dụ, “Cũng khiến cho” v.v… trở xuống là nói về sự lợi ích cho mọi người nên nói:

Cũng khiến cho tất cả phàm phu tu tịnh nghiệp được sinh Tây phương.

Trong đoạn thứ tư: văn chia làm hai:

1. Dạy tu tập ba thứ tịnh nghiệp tán thiện được vãng sinh.

2. “Phật bảo A-nan”. Là dạy tu tập mười sáu pháp chính quán, định thiện được vãng sinh. Ở trước phần đầu là khuyên chung quán tu tập. Phần hai là nêu riêng, phần ba là tổng kết khen ngợi. Muốn sinh về cõi kia, nên tu ba thứ phước, là khuyên chung. Phần một là nói các pháp phàm phu. Phần hai là các pháp cộng Nhị thừa. Phần ba là pháp Đại thừa bất cộng. Trong môn đầu, trước nói làm các điều lành, giáo dưỡng, phụng thờ sư trưởng, kính bậc thượng hạnh, tâm từ bất sát, từ trở xuống là hạnh.

Tu mười nghiệp lành, là chỉ cho hạnh, thân trừ được ba thứ tà, miệng lìa bốn lỗi, ý dứt ba ác, đó là mười hạnh. Rộng như trong chương riêng riêng, ở đây nên nói đầy đủ.

Trong môn thứ hai, thọ trì ba quy y, là giới tại gia. Đây cũng nằm trong mười giới Sa-di. Về nghĩa Sa-di, rộng như trong chương riêng có nói, đây nên nói đủ. Các giới cụ túc không phạm uy nghi là giới của người xuất gia.

Không phạm vào bốn giới trọng, gọi là giới cụ chúng. Lìa các lỗi nhẹ còn lại gọi là uy nghi. Lại lìa các tánh tội gọi là giới Cụ chúng. Nghĩa là lìa các nghiệp sát, đạo, dâm… lìa lỗi già tội, gọi là không phạm uy nghi, nghĩa là lìa các lỗi như uống rượu, …

Trong môn thứ ba, trước tu phần tự lợi, sau nói về lợi tha. Trong pháp tự lợi, phát tâm Bồ-đề chính là khởi nguyện, Bồ-đề là đạo, quả Phật được viên thông thì gọi là Bồ-đề. Khởi ý thú hướng gọi là phát tâm. Tóm lại, như sở đắc của Phật, ta cũng sẽ đắc. Tâm Bồ-đề có ý nghĩa rộng, như trong chương riêng có nói, ở đây cũng nên nói đầy đủ, tin sâu nhân quả, là nói về tu tín. Đọc tụng Đại thừa là nói về tu giải, hạnh có thể vận thông gọi là Thừa, thừa có chia ra ba loại. Sở thừa của Chư Phật, hai thừa khác không tăng thêm, gọi là Đại. Đây là phần tự lợi. Khuyên nên tiến hành đó là lợi tha. Phần trên là nêu riêng, phần dưới là tổng kết khen ngợi.

“Như ba việc này, gọi là tịnh nghiệp”.

Đó là phần tổng kết.

“Phật bảo Vy-đề-hy: Ba nghiệp này là chánh nhân tịnh nghiệp của Chư Phật ba đời”. Đây là thán từ. Trong phần Định thiện sinh, là quán riêng mười sáu pháp.

  1. Quán mặt trời.
  2. Quán nước.
  3. Quán đất.
  4. Quán cây.
  5. Quán ao.
  6. Quán tưởng chung tất cả lầu các, vườn cây, ao hồ…
  7. Quán tòa hoa.
  8. Quán tượng Phật, Bồ-tát.
  9. Quán thân Phật.
  10. Quán Quán Thế Âm.
  11. Quán Đại Thế Chí.
  12. Quán tự vãng sinh.
  13. Quán chung Phật, Bồ-tát.
  14. Quán sinh thượng phẩm.
  15. Quán sinh trung phẩm.
  16. Quán sinh hạ phẩm.

Trong mười sáu pháp quán này, bảy pháp quán đầu là quán y báo, chín pháp quán sau là quán chánh báo.

Trước nói phu nhân nên quán kỹ cõi kia, là bảy pháp quán đầu. Tịnh nghiệp được thành đó là chín pháp quán sau. Quán riêng đều như thế.

Nay trong văn này, sáu pháp quán đầu là nói về nhất xứ, mười

pháp quán sau là nói theo nhất xứ. Quán tòa hoa, nên cùng nói về nhất xứ của sáu quán trước. Vì cùng với quán Phật, có nghĩa tương khởi, cho nên nói sau.

Trong sáu pháp quán trước, văn chia làm ba:

  1. Phật hứa nói pháp.
  2. Vy-đề-hy thưa hỏi.
  3. Như lai nói pháp.

Trong phần đầu có năm:

  • Là đối chung với A-nan và Vy-đề-hy, bảo nghe và hứa nói.
  • “Lành thay” v.v… trở xuống là riêng đối lời than thở của Vy-đềhy mà giải quyết.
  • “A-nan!” là riêng đối với ngài A-nan khuyên thọ trì, khuyên giảng nói.

-“Nay Như lai trở xuống” là Phật tự nói về sự lợi ích.

  • “Vy-đề-hy! ngươi là phàm phu v.v…” là nói về tướng.

Trong đoạn đầu, trước nói về hai người, kế là bảo lắng nghe và khéo suy nghĩ, phần sau là hứa nói. Đức Như lai vì sự khổ não của chúng sinh ở đời vị lai mà nói nghiệp thanh tịnh. Vì bị phiền não xâm hại nên gọi là giặc. Sinh ra năm ác, năm thống, năm thiêu… gọi là khổ. Vì nói định nghiệp để đối trị, cho nên nói mười sáu pháp quán này là tịnh nghiệp.

Trong đoạn hai “Lành thay Vi-đề!” là từ khen ngợi chung. Lành là dụ cho sự tốt lành, thay là trợ từ.

Giải quyết việc này là lời khen ngợi. Do lời thưa hỏi ở trước, rộng khai nghiệp Tịnh độ vãng sinh, cho nên khen ngợi.

Trong đoạn ba, đầu tiên Phật bảo A-nan, nay tự thọ trì, sau dạy A-nan nói rộng cho người khác nghe.

Trong đoạn thứ tư: Nay Như lai là nêu ra người năng giáo.

“Dạy Vy-đề-hy” là nêu pháp sở giáo, gần là dạy cho bà Vi-đề, xa là dạy cho tất cả chúng sinh, thánh ý là cùng khắp.

Quán thế giới Cực lạc ở Tây phương, xuất xứ từ việc sở giáo, trong sáu pháp quán trước, chưa dạy quán người, cho nên nói thẳng quán cõi Cực Lạc “Nhờ Phật lực trở xuống” là quán lợi ích, lợi ích này có ba thứ:

  1. Nhờ Phật lực cho nên thấy, thấy một cách rõ ràng, như gương sáng tự soi thấy mày mặt. Do giáo lực và thần lực Phật, cho nên được thấy.
  2. Do thấy nên sinh tâm vui mừng.

3.“Ứng thời trở xuống”: Do thấy tâm sinh vui mừng, đắc Vô sinh nhẫn. Do biết cõi kia từ tâm hiện ra, nên được pháp vốn không, được vô sinh, vô sinh là lý.

Tuệ tâm được an ổn gọi là vô sinh nhẫn, Nhẫn có năm thứ như “Kinh Nhân Vương” nói:

  1. Phục nhẫn: Ở giai vị chủng tánh giải hạnh, học quán các pháp, hàng phục được phiền não, nên gọi là Phục.
  2. Tín nhẫn: Các quả vị sơ, nhị, tam địa, đối với lý vô sinh, tín tâm quyết định, nên gọi là Tín nhẫn.
  3. Thuận nhẫn: Tứ, Ngũ, Lục địa thì phá tướng nhập vào như, thuận theo vô sinh, gọi là Thuận nhẫn.
  4. Vô sinh nhẫn: Thất, Bát, Cửu địa là chứng thật ly tướng, gọi là Vô sinh nhẫn.
  5. Vắng lặng nhẫn: từ Thập địa trở lên phá tướng đã xong, minh tâm đến chỗ vắng lặng, chứng đại Niết-bàn, gọi là Vắng lặng nhẫn. Ở đây nói vô sinh chính là pháp thứ tư. Phần dưới là nói Bà Vy-đề-hy đắc vô sinh nhân, chính là điều này.

Trong đoạn năm “Phật bảo Vy-đề-hy: Ngươi là phàm phu” là nói sự phạm vi giới hạn, không thể quán xa, bày rõ sự bất kham. Phu nhân Vi-đề thật là đại Bồ-tát. Trong hội này được Vô sinh pháp nhẫn, biết rõ không phải là Tiểu thừa, do hóa độ mà làm phàm phu.

“Tâm tưởng yếu kém chính là nói sự bất kham, tâm tưởng già yếu là nói tâm không thể chiếu xa đến cõi kia.

“Chưa được thiên nhãn” là mắt không thể nhìn thấy cõi kia.

“Có phương tiện khác lạ để cho ngươi được thấy” là nói sự khai thị khéo léo. Đây là nói lược về tướng.

Dạy quán về các việc như quán mặt trời, quán nước ở cõi này, khiến cho biết phương kia, gọi là dùng phương tiện khác lạ khiến cho được thấy. Trên đây là phần thứ nhất Phật hứa nói pháp.

Từ phần thứ hai Bà Vy-đề-hy khởi thỉnh “Vi-đề bạch Phật: Con nhờ năng lực Phật thấy được cõi nước kia”, nương theo ân Phật, nói về những điều mình thấy. Vi-đề trước ở trong đài ánh sáng của Phật được thấy cõi nước kia, nên gọi là “Phật lực kiến” (nhờ năng lực Phật mà thấy được). Từ “Như sau khi Phật diệt” v.v… trở xuống là thưa hỏi cho người khác. Sau khi Phật diệt độ, chúng sinh trong đời vẩn đục làm nhiều điều bất thiện. Đây là nói có nhân ác.

Trược: Là năm trược, vì sao có năm thứ?

  1. Mạng trược: Tuổi thọ ngắn ngủi.
  2. Chúng sinh trược: Không có người hành trì chánh pháp
  3. Phiền não trược: Các kiết phược thêm nhiều.
  4. Kiến trược: Chê bai, không tin.
  5. Kiếp trược: Đó là các nạn đói khát, bịnh tật, đao, binh v.v… Năm thứ này đều là vẩn đục, làm loạn tịnh tâm, nên gọi là trược.

Ác gồm có năm: sát, đạo, dâm, nói dối, uống rượu…

Bất thiện là mười nghiệp bất thiện, gồm có thân ba, miệng bốn và ý ba.

Cũng chung với năm điều ác, nên gọi là vẩn đục bất thiện.

Năm khổ ép ngặt: Là nói quả khổ. Như trong Đại kinh nói: “Năm thống (năm sự đau khổ) năm thiêu (năm sự thiêu đốt) là năm khổ

Sao gọi là năm thống? Như có người gây ra các nghiệp sát, đạo, dâm, nói dối, uống rượu, hiện đời gặp sự nguy nan, bị pháp vua gia hình, đó là năm thống.

Sao gọi là năm thiêu? Tức năm điều ác trước, sẽ bị đọa ba đường, chịu các điều khổ độc, gọi là năm thiêu.”

Làm sao thấy được Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc? Đây chính là lời khải thỉnh.

Từ phần thứ ba: Phật giảng nói cho nghe. Trong đó, trước phải giải nghĩa Tịnh độ, sau mới giải thích nghĩa văn. Nghĩa như trong chương khác.

Trong văn này: Trước là dạy quán mặt trời, khiến là biết nơi chốn. Năm phần sau dạy quán tướng trang nghiêm ở cõi kia. Quán mặt trời thì có ba:

  1. Khuyên quán chung.
  2. Dạy bảo.
  3. Kết luận.

“Phu nhân và chúng sinh, nên chuyên tâm quán tưởng cõi Tây phương” đó là quán chung, từ “Vì sao” v.v… trở xuống là: Giáo, vì sao: là hỏi.

Từ: Hễ thực hành theo những lời dạy sau đây, tất cả chúng sinh có mắt đều thấy mặt trời lặn, là nêu ra việc sở quán.

Từ “Nên khởi tưởng” v.v… trở xuống: Là dạy quán sát.

Từ quán đó là trở xuống là phần kết.

Trong đệ nhị quán, văn chia ra làm bốn:

  1. Phân biệt về quán tướng.
  2. Từ “Đó là” v.v… trở xuống là phần kết.
  3. Từ “Tưởng này thành” v.v… trở xuống: là nói lên sự thành tướng.
  4. “Tưởng như thế là thô kiến”: Kết thành giới hạn, phạm vi.

Trong phần đầu có bốn:

  1. Thực hành tưởng nước.
  2. Biến nước thành băng.
  3. Biến băng thành pha-lê.
  4. Quán pha-lê thành mặt đất.Trong đó có ba:
  1. Quán lưu ly trong ngoài đều trong suốt
  2. Từ “Thấy đất” v.v… trở xuống: Là cột báu nâng đỡ.
  3. Thấy các tướng trang nghiêm ở trên mặt đất. Sự trang nghiêm này có bốn:
  • Các thứ báu trải khắp mặt đất.
  • Báu phát ra các tia sáng nhiều màu, quán thành các lầu gác.
  • Quán hai bên lầu gác có các tràng hoa.
  • Trên tràng hoa có nhiều các thứ nhạc khí, phát ra các âm thanh hay ho.

Trong phần quán thứ ba, văn lại chia làm năm:

  1. Nói về quán tướng, nương vào tam-muội mà thấy, gọi là địa tưởng.
  2. “Đó là” v.v… trở xuống: Là phần kết.
  3. “Phật bảo” v.v… trở xuống: Là phần khuyên thọ trì, khuyên giảng nói.
  4. “Nếu quán” v.v… trở xuống: Là quán lợi ích.
  5. “Thực hành quán này” v.v… trở xuống: Là nói về quán tà chánh.

Thứ tư: Là Quán cây, văn chia làm ba:

  1. Trước kết sau sinh: để làm phát khởi.
  2. Nói về quán tướng.
  3. Tổng kết.

Thứ năm: Quán nước có ba:

  1. Sinh khởi chung.
  2. Nói về quán tướng.
  3. Tổng kết.

Nước có tám công đức là:

Thanh tịnh, không hôi, nhẹ, mát, mềm, ngọt, khi uống thì chảy đều, uống vào không còn lo lắng.

  • Thanh tịnh là sắc nhập.
  • Không hôi là hương nhập.
  • Khinh, mát và mềm là xúc nhập.
  • Ngọt là vị nhập.

Hai phần sau là pháp nhập.

Phần thứ sáu là quán chung, văn chia làm bốn:

  1. Nói về quán tướng.
  2. Tổng kết.
  3. Nói về lợi ích của quán.
  4. Nói về quán tà chánh.Trong phần đầu có bốn:
  5. Quán lầu báu.
  6. Quán cây.
  7. Quán đất.
  8. Quán ao báu.

Ở trong phần quán lầu gác thì:

Chính là quán lầu gác.

Quán trên lầu và ở trên hư không có nhiều loại âm nhạc.

Kết thành tướng: gọi là thấy phần thô.

 

PHẦN CUỐI

Trong mười pháp quán sau, văn chia ra bốn loại:

1.“Phật đối với A-nan và Vy-đề-hy” bảo nghe pháp, hứa giảng nói, khuyến khích truyền trì.

2. Do Phật khuyên Vy-đề-hy cầu thấy cõi Phật, khiến cho thấy Phật và Bồ-tát.

3. Do kia quán Vy-đề-hy thiết lễ, nương nhờ Phật lực, vì chúng sinh mà khải thỉnh.

4. Nhân đó thỉnh Như lai giảng nói mười pháp quán sau. Trong phần trước, ba câu là:

  1. Đối với hai người khuyên nghe pháp, suy nghĩ.
  2. Phật hứa nói pháp dứt trừ khổ. Nhờ quán mà diệt tội, bỏ đây sinh kia, gọi là pháp dứt trừ khổ.
  3. Khuyên thọ trì khuyên giảng nói.Trong đoạn thứ hai có:

a) Trước nói Phật, Bồ-tát hiện.

b) Sau nói uy lực của Phật soi sáng không gì bằng.Trong đoạn ba:

  1. Vy-đề-hy do thấy Phật nên làm lễ.
  2. Nương vào Phật lực, hiện có chỗ thấy.
  3. Sau vì chúng sinh mà cầu thỉnh. Văn rõ ràng dễ biết.

Thứ tư: Phật nói trong mười pháp quán, còn lại nên theo bốn pháp.

Phần đầu có năm:

  1. Chia ra quán Phật và quán Bồ-tát.
  2. Có một môn tự vãng sinh.
  3. Lại nói về quán Phật, quán Bồ-tát.
  4. Quán về tha sinh.
  5. Y theo năm phần trước này thì một môn đầu thực hành quán tòa Phật.

Phần thứ hai quán một tượng Phật và hai tượng Bồ-tát.

Phần sau quán chân thân hai vị bồ tát và Phật.

Trong phần quán tòa chia ra làm sáu:

  1. Nói về quán tướng.
  2. Từ “Đó là” v.v… trở xuống là kết.
  3. “A-nan” v.v… trở xuống: Là nói “Tòa” này được thành. Nghĩa là do nguyện lực ngài Pháp tạng mà thành.
  4. Từ “Nếu muốn” v.v… trở xuống: là lại hiển bày quán nghi.
  5. “Do tương này mà thành” v.v… trở xuống là quán lợi ích.
  6. Thực hành pháp quán này trở xuống là phân biệt tà chánh. Ngay trong phần quán tượng cũng chia ra làm bốn:

Nói về quán tướng.

Từ “Khiến cùng Tu-đa-la” v.v… trở xuống là quán tà chánh.

Từ “Thực hành” v.v… trở xuống là quán lợi ích.

Trong phần một lại có bốn:

  1. Lược quán: Chỉ quán tượng một Phật và hai Bồ-tát.
  2. “Tướng này thành” là quán tướng thành.
  3. “Mỗi cây” v.v… là quán rộng. Quán mỗi gốc cây đều có tượng Phật và hai vị Bồ-tát.
  4. Tướng này thành trở xuống là nói lại sự thành tựu của tướng.

Y theo phần sơ lược thì trước quán tượng Phật, sau quán hai tượng Bồ-tát. Quán tượng Phật, thì trước khuyên quán Phật, lấy Phật làm sở biểu. Sau là quán tượng.

Trong phần khuyên quán Phật, trước giải thích ý nghĩa tam Phật, sau giải thích văn, nghĩa như trong chương riêng.

Trong đây, sở quán là ứng thân, trong văn có ba:

  1. Trước kết sau sinh cho là khởi phát, thấy việc trước rồi, kế là tưởng Phật.
  2. Từ “Sở dĩ” v.v… trở xuống là giải thích lý do.
  3. Từ “cho nên phải nhất tâm” v.v… trở xuống làKết khuyên quán sát.

Trong đoạn hai “Vì sao?” là thưa hỏi khởi phát. Vì từ thân Phật phát ra chúng hữu tính, khuyến tưởng trở xuống là giải thích, thân pháp giới của Phật nhập vào tâm của tất cả chúng sinh, cho nên khuyến quán tưởng. Từ “Cho nên” v.v… trở xuống là tưởng Tâm Phật sẽ thành. Trước nói nghĩa Phật nhập vào tâm chúng sinh. Trong đây có bốn câu.

Nói tâm là Phật. Nói “Cho nên”: là trước nương theo, sau tỏ bày. Vì tâm của Phật thể nhập vào tâm của tất cả chúng sinh. Lúc tâm tưởng Phật thì tâm chính là tướng tốt của Chư Phật.

Nói tâm thành Phật, trở thành tâm trước.

Tâm này là Phật, là kết thúc câu đầu ở trước.

“Chư Phật đều biết từ tâm tưởng sinh ra” là kết đoạn hai ở trước.

Thế nào làm? Thế nào là “Là”, có chia ra hai nghĩa:

Y theo quán Phật phân biệt trước sau, mới học gọi làm, sau thành thì gọi là “Là”.

Hiện phải phân biệt pháp thân Chư Phật đồng thể với mình, ngay lúc quán Phật, hiện ra trong tâm đó tức là thể pháp thân của Chư Phật, nên gọi tâm là Phật. Mong đạt được quả, do đó mà quán chúng sinh kia, gọi là tâm thành Phật.

Phần hai này là giải thích lý do khuyến thỉnh.

Từ phần thứ ba là kết khuyến quán sát. Nói “Cho nên” là Phật, Phật thể nhập vào tâm chúng sinh. Cho nên phải nhất tâm buộc niệm quán cõi Phật A-di-đà kia. Phật hiệu là Vô Lượng, lược nêu ra có bốn loại. Phật là Phật hiệu, nghĩa như trước có giải thích.

Đa-đà-a-già-độ là hiệu của Như lai. Nương vào đạo như thật, cho đến thành Chánh giác, đó gọi là Như lai

A-la-ha, Hán dịch là Ứng cúng. Phật có đầy đủ trí đoạn, hợp lại xứng đáng cúng dường, nên gọi là Ứng cúng. Trong ngôn ngữ của nước ngoài thì ba tên chung nhau:

A-la-ha: Hán dịch là Ứng cúng.

A-la: Hán dịch là Vô sinh, cũng dịch là Vô trước.

A-lô-ha: Hán dịch là Sát tặc.

Ở đây là nêu nghĩa thứ nhất:

Tam-miệu Tam-bồ-đề, Hán dịch là Chánh chân chánh giác.

Tam, Hán dịch là Chánh, Phật-đà, Hán dịch là Giác. Trên đã khuyên quán Phật, lấy tượng làm tiêu biểu.

“Quán tưởng Phật Di-đà, trước là quán tưởng”. Đây chính là khuyên quán tượng. Văn nói rõ ràng dễ hiểu.

Trước quán tượng Phật, kế là quán tượng hai vị Bồ-tát.

Trong pháp quán thân Phật, có chia ra bốn phần:

  • Trước kết sau sinh ra.
  • Nói rộng về quán tưởng.
  • “Đó là” v.v… trở xuống là kết.
  • Nói về quán là chánh.

Trong đoạn hai, văn lại chia làm bốn:

  • Phân biệt rộng về quán tướng.
  • “Thấy việc này, tức là thấy cả mười phương” v.v… trở xuống là quán lợi ích.
  • “Quán Vô Lượng Thọ Phật từ một tướng tốt” v.v… trở xuống là nói lại nghĩa biện quán.
  • “Thấy Phật Vô Lượng Thọ tức là thấy mười phương” v.v… trở xuống là nói lại sự lợi ích.

Trong phần đầu có nêu “Chúng sinh niệm Phật, nhiếp giữ không bỏ”… là tổng kết khuyến. Trong phần trước có ba:

  • Quán thân sắc Phật.
  • Từ “Thân Phật cao” v.v… trở xuống là quán sự lớn nhỏ.
  • “Từ… vầng ánh sáng tròn” v.v… trở xuống là quán sự nhiều ít.

Trong quán lớn nhỏ có chia làm năm:

Quán thân lớn nhỏ. Cao sáu mươi muôn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần.

Nêu kích cỡ sợi lông trắng lớn nhỏ như núi Tu-di. Núi Tu-di cao ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, mỗi bề cũng rộng như thế. Đức Phật Di-đà cao gấp năm lần như thế.

Mắt to rộng như bốn biển lớn. Y theo sợi lông trắng này và mắt to rộng mà đo sắc thân, thì lượng của thân quá cao. Y theo thân và cõi thì sợi lông trắng và mắt quá nhỏ. Vì sao? Vì thân người cao năm thước, mắt một tấc. Thân đối với mắt, kích thước chỉ dài hơn năm mươi, sáu mươi lần, Phật cũng như thế. Phật Vô Lượng Thọ mắt như bốn biển lớn. Một biển dài mỗi bề tám mươi bốn ngàn do-tuần. Bốn biển hợp lại có 33 vạn 6000 do-tuần. Thân lớn gấp năm, sáu mươi lần mắt. Nếu như thân cực lớn cũng không quá một trăm lần. Vì sao thân cao sáu mươi muôn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần?

Y theo mắt mà định thân, thì phải cao sáu mươi muôn lần na-dotha do-tuần.

Nói Hằng hà sa có lẽ do dịch sai mà ra. Nếu thân thật dài sáu mươi muôn lần na-do-tha do-tuần, thì sợi lông trắng và mắt trở nên quá nhỏ, thì đó là do người truyền dịch sai.

Kích cỡ thân lượng của hai vị Quán Âm, Thế Chí, y cứ theo thân lượng của Phật cao thấp không nhất định.

Vầng ánh sáng bao quanh thân và ánh sáng mỗi sợi lông tỏa ra như núi Tu-di.

Kích thước vầng ánh sáng tròn giống như trăm ức Tam thiên thế giới.

Trong đoạn ba nói về sự ít nhiều, có chia ra năm câu:

Trong ánh sáng có bao nhiêu hóa Phật thì trong vầng ánh sáng tròn có trăm ức na-do-tha Hằng hà sa hóa Phật.

Có bao nhiêu Thị giả thì mỗi vị hóa Phật có vô số Bồ-tát đều làm thị giả.

Có bao nhiêu Minh tướng? Có tám mươi bốn ngàn tướng.

Có bao nhiêu Tướng tốt? Mỗi tướng đều có tám mươi bốn ngàn vẻ đẹp.

Tia sáng có bao nhiêu? Trong mỗi vẻ đẹp, đều có tám mươi bốn ngàn tia sáng.

Như trên là phân biệt về chúng sinh quán niệm Phật. Phần dưới là kết khuyên chúng sinh niệm Phật nhiếp thủ không xả bỏ. “Ánh sáng tướng tốt, và hóa thân, không thể nói hết”.

Phần kết là nói thường. Chỉ nên nhớ nghĩ là từ ngữ khuyến khích.

Đoạn thứ nhất này đã xong.

Từ phần thứ hai, là nói về sự quán lợi ích. Trong đây có ba:

  • Nói được thấy Phật Di-đà, tức là thấy tất cả thân Phật.
  • Nói được thấy thân Phật A-di-đà, tức là thấy tâm Phật.
  • Kết khuyến quán sát.

Trong phần đầu có ba câu:

  • Nói thấy các thân tướng của Phật Di-đà tức là thấy tất cả Chư Phật mười phương. Thể của Chư Phật vốn bình đẳng, thấy một vị là thấy tất cả vị.
  • Nói nhờ thấy được tất cả Phật liền được đầy đủ tam-muội Niệm Phật.
  • Thực hành quán này v.v… trở xuống là kết thúc nói về lợi ích.

Trong đoạn hai, cũng có ba câu:

  • Nói thấy thân tức là thấy tâm Phật, thân do tâm khởi, được thấy thân là được thấy tâm. Lại do thấy thân, mà tâm tưởng lại càng sáng, cho nên được thấy tâm.
  • Nói tâm Phật, đại Từ bi v.v… trở xuống là nói về tướng của Tâm Phật. Nghĩa là dùng vô duyên từ nhiếp khắp chúng sinh. Nhưng tâm từ có lớn có nhỏ, do phan duyên phân biệt gọi là nhỏ. Tâm tưởng đều diệt mà đối với chúng sinh không phân biệt, tự nhiên hiển hiện lợi ích, chính gọi là Đại.

Trong Tiểu có ba:

  • Chúng sinh duyên duyên: Các chúng sinh, muốn ban vui cho họ, muốn nhổ hết gốc khổ cho họ.
  • Pháp duyên quán: Các chúng sinh vô ngã, vô nhân, chỉ có pháp số năm ấm sinh diệt mà thực hành từ bi. vô ngã, vô nhân thì lấy gì mà hành từ? Như trong “Duy-ma” nói: “Tự nghĩ vì chúng sinh nói pháp như thế, cho nên gọi là Từ”. Lại nghĩ chúng sinh, vọng bị ngã nhân trói buộc, rất đáng thương xót.

Kinh nói vô, chỉ là vô nhân tánh, chứ chẳng phải vô chúng sinh huyễn hóa giả danh. Cho nên bị trói buộc trong lời nói, ý niệm.

  • Vô duyên Quán: Ấm vắng lặng, vốn không thật có mà thực hành pháp từ bi, pháp đã không có, thì làm sao thực hành từ bi? Cũng có hai nghĩa:
  1. Nghĩ vì chúng sinh mà nói pháp này, tức là nghĩa đệ nhất, ban vui cho người gọi là Từ.
  2. Nghĩ rằng chúng sinh vọng bị các pháp trói buộc thật đáng thương xót, cho nên hành pháp từ bi.

Pháp đã không có, làm sao có người để nói? Giải thích rằng: Y theo từ tâm của Bồ-tát, thật không thấy có người, cũng không thấy có pháp. Không thấy pháp thì không lấy gì để nói. Không thấy người thì không thể nói. Cho nên trong kinh nói rằng: “Pháp giới Bình đẳng, Phật không có độ sinh” y theo chúng sinh kia mong cầu Bồ-tát, ngoài chúng sinh có Bồ-tát riêng. Nghe Bồ-tát kia nói không có người, pháp liền bỏ vọng khế thật, đồng với sở đắc, liền nói Bồ-tát vì chúng sinh mà nói pháp. Cho nên kinh nói: “Chúng sinh phân biệt càn, nói Cõi Phật chúng sinh” đây là ba thứ duyên quán tu tập, gọi chung là Tiểu.

Đại vô lượng tâm cũng có ba thứ:

  • Chúng sinh duyên: Vô tâm phan duyên với tất cả chúng sinh, nhưng chúng sinh tự nhiên hiện ra sự lợi ích. Cho nên Kinh Niết-bàn chép: “Ta không thật không đến, dùng từ lực gốc lành, khiến cho các chúng sinh thấy các việc như thế”.
  • Pháp duyên: Vô tâm pháp quán, các pháp tự nhiên chiếu khắp như mặt trời soi sáng muôn vật, không hề phân biệt.
  • Vô duyên: Không có tâm quán như, mà đối với pháp bình đẳng đệ nhất nghĩa đều tự nhiên an trụ. Nay điều nói ở đây là chúng sinh duyên trong Đại, cho nên nói rằng: “Dùng vô duyên từ mà nhiếp lấy chúng sinh”. Đây là phần hai, nói về tướng tâm của Phật.

Phần ba, người thực hành quán này thì xả thân trở xuống là kết nói về quán ích. Đây là phần hai, nói thấy tâm Phật. Từ “Cho nên trí”

v.v… trở xuống: là đoạn ba, kết khuyến quán sát. Phần hai ở trên là nói ích lợi của quán. “Quán Vô Lượng Thọ từ một tướng” v.v… trở xuống: là đoạn ba, lại nói về phần quán nghi.

Thấy Phật Vô Lượng Thọ tức là thấy vô lượng Phật ở mười phương là nói thêm phần quán ích. Đây là phần hai, phân biệt rộng về quán tướng, phần ba là tổng kết. Thứ tư là phân biệt chính tà. Văn rõ ràng dễ hiểu.

Kế là quán Bồ-tát Quán Thế Âm, văn chia làm sáu:

  1. Kết trước sinh sau.
  2. Từ “Bồ-tát này” v.v… trở xuống: Là nói rộng về quán tướng.
  3. Từ “đó là” v.v… trở xuống: Là phần kết.
  4. “Phật bảo” v.v… trở xuống: Là quán lợi ích.
  5. “Nếu có” v.v… trở xuống: Nói lại việc quán phụ.
  6. Thực hành quán này v.v… trở xuống là nói về quán chánh tà.

Trong đoạn hai, quán tướng có mười thứ:

  1. Quán thân tướng.
  2. Quán đảnh tướng.
  3. Quán vầng ánh sáng tròn.
  4. Quán mũ báu.
  5. Quán khuôn mặt.
  6. Quán sợi lông trắng.
  7. Quán anh lạc.
  8. Quán tướng tay.
  9. Quán tướng chân.
  10. Quán các tướng khác.

Đầu tiên là quán trong thân. Trước quán thân lượng, hướng về thân Phật cao sáu mươi muôn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần. Thân

Bồ-tát cao mười muôn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần

Sau đó quán thân sắc, sắc như vàng ròng. Quán đảnh cũng dễ biết.

Quán ánh sáng tròn đầy, có chia ra ba câu: Quán trong ánh sáng có từng ấy hóa Phật

Quán hóa Phật có từng ấy thị giả

Quán hóa Phật sắc thân chói sáng, chúng sinh trong năm đường đều hiện trong đó.

Trong phần quán mũ báu, trước quán mũ báu sau quán trong mũ có từng ấy hóa Phật.

Trong môn thứ năm, quán khuôn mặt màu sắc như vàng ròng ở cõi Diêm-phù-đề. Trong phần quán sợi lông trắng, có chia ra năm câu:

  1. Quán màu sắc của sợi lông trắng: màu sắc như bảy chất báu.
  2. Quán ánh sáng của sợi lông trắng.
  3. Quán sát trong ánh sáng của sợi lông trắng có từng ấy vị hóa Phật.
  4. Quán hóa Phật có từng ấy vị thị giả.
  5. Quán sự thị hiện thần biến của Hóa Phật, thần biến hiện tự tại, đầy đủ khắp pháp giới mười phương.

Quán anh lạc và tay chân… trong văn nói rõ dễ hiểu.

Trong phần quán Bồ-tát Thế Chí, văn chia làm năm:

  • Sinh khởi chung.
  • Nói rõ về quán tướng.
  • Tổng kết.
  • “Trừ vô số” v.v… trở xuống là quán lợi ích.
  • “Quán này thành” v.v… trở xuống là.

Tổng kết Quan Âm và Thế Chí, hai pháp quán đều thành tựu.

Trong đoạn hai: Văn chia ra làm bảy:

  1. Quán thân tướng.
  2. Quán mũ báu.
  3. Quán nhục kết.4. Quán bình báu.
  4. Quán các tướng khác (đồng với Quán Âm).
  5. “Hành thời” v.v… trở xuống: Quán hành tướng của hai vị Bồtát.
  6. “Khi ngồi” v.v… trở xuống là Quán tướng ngồi.

Trong phần sơ quán, trước quán thân lượng. Như Quán Thế Âm.

Sau thì quán ánh sáng của thân. Trong đó:

— Quán kích thước ánh sáng phát ra quanh thân.

“Hữu duyên” v.v… trở xuống nói về lợi ích của ánh sáng, có bốn:

  1. Người có duyên đều thấy ánh sáng trong mỗi lỗ chân lông của Bồ-tát này. Tức là thấy tất cả ánh sáng Phật trong mười phương. Vì Bồtát này đồng thể với tất cả pháp thân Phật.Cho nên thấy ánh sáng này cũng là thấy tất cả ánh sáng Phật.
  2. “Cho nên” là lời kết khen ngợi danh hiệu, hiệu là Vô Biên Quang.
  3. “Trí tuệ” v.v… trở xuống là nói về lợi ích của ánh sáng soi chiếu khắp chúng sinh, lìa xa khổ ba đường, được thượng lực của Phật.
  4. Lời kết khen ngợi tên gọi, tên là Đại Thế Chí.

Năm ý kế tiếp sau đây dễ hiểu:

  • Quán tướng ngồi.

Sau đó thấy rõ vô lượng phân thân của Chư Phật, Quán Âm, Thế Chí đồng nhóm họp, giảng nói pháp mầu.

Tổng kết.

  • Quán lợi ích.

Tổng kết Quán Âm, Thế Chí hai quán thành nghĩa. Trên đây là một phần quán Phật và Bồ-tát.

Kế là nhất môn tự vãng sinh quán. Trong đây có năm:

Tưởng Vãng sinh.

“Cùng với mười hai” v.v… trở xuống là nói nghi thức quán.

“Thấy đây” v.v… trở xuống là hiển bày rõ ràng.

Tổng kết.

  • Quán lợi ích. Hóa Phật, Bồ-tát thường đến chỗ này.

Trong phần đầu có bảy:

  1. Tưởng vãng sinh.
  2. Tưởng ngồi kiết già trong hoa.
  3. Tưởng hoa khép.
  4. Tưởng hoa nở.
  5. Tưởng khi hoa sen nở ra có các tia sáng chiếu vào thân.
  6. Tưởng khi mắt mở ra.
  7. Tưởng thấy Phật Bồ-tát và nghe pháp. Còn lại bao nhiêu dễ hiểu.

Một môn kế lại nói về Phật, Bồ-tát. Vì sao phải nói lại? Vì trước đã nói quán Phật, Bồ-tát, kẻ phàm chưa thể thực hành được, cho nên lại dạy cho các pháp quán sát. Trong đó, trước giải thích sau tổng kết. Giải thích thì trước quán sát thân Phật, sau quán Bồ-tát. — Quán Phật có sáu:

  1. Dạy quán sát tượng cao trượng sáu đứng trên ao nước. Tượng tiêu biểu cho Phật. Ao nước tiêu biểu cho đất lưu ly.
  2. “Như trước” v.v… trở xuống nói cho nên phải dạy pháp quán tượng, vì như trước đã nói thân Phật vô biên, phàm phu không thể quán nổi, cho nên dạy quán tượng.
  3. “Nhưng kia” v.v… trở xuống là nói các phàm phu quán đây sẽ thành, sinh ra ý tu tập cho người, do bổn nguyện lực của Như lai kia nên quán sẽ thành tựu.
  4. “Chỉ tưởng” v.v… trở xuống là quán nhiều lợi ích, khuyên người quán sát, chỉ quán hình tượng còn được vô lượng phước, huống chi quán thân Phật.
  5. A-di-đà v.v…trở xuống: Nói về sở quán. Hoặc lớn hoặc nhỏ đều là thân Phật, vì muốn dứt hết nghi lầm, phát sinh ý kính trọng cho người, vì sao lại sinh nghi? Trước nghe thân Phật cao lớn vô lượng, nay lại nghe quán tiểu, nên nghi chẳng phải thân Phật. Vì nhỏ nên bất kính, cho nên phải khiển trách, nói đều là Phật, làm cho người phát sinh ý kính trọng.
  6. “Sở hiện” v.v… trở xuống là nói về sở hiện lớn nhỏ tuy khác, nhưng sắc thân tướng tốt không khác với trước, ngăn người quán khác. Người nghe đại tiểu đều là thân Phật, nghĩa là tạo tướng khác, cũng được quan sát, cho nên nói như trước, ngăn ngừa quán khác.

Phần dưới là nói quán Bồ-tát. Đầu tiên là quán Quán Âm, Thế Chí ở tất cả mọi nơi, thân đồng với chúng sinh, khó mà phân biệt khác nhau. Nhưng quán trở xuống là dạy người phân biệt. Chỉ quán tướng đầu, thì biết hai thứ khác nhau. Chỉ quán tướng đầu, chẳng quán tay chân. Quán trên đảnh Quán Âm có hóa Phật, trên đảnh Thế Chí có bình báu. Cho nên quán trên hai đầu, thì biết có sự khác nhau.

“Hai vị Bồ-tát này đều giúp sức cho Phật Di-đà”, ở đây nói về sự trợ hóa rất nhiều của hai vị Bồ-tát.

Từ “Khiến cho mọi người đều quán” v.v… trở xuống là phần tổng kết. Phật và Bồ-tát này, đều quán sát chung cho nên nói là tạp.

Từ đây trở xuống v.v… ba quán hợp thành một phần, là tha sinh quán. Quán sát tướng người vãng sinh chín phẩm. Vì sao lại quán? Vì khiến cho người đời biết được thứ bậc trên dưới của sinh nghiệp, tu được vãng sinh, cho nên khuyên quán. Trong đó, trước chia ra sáu môn, sau mới giải thích văn.

Sáu môn gồm:

  1. Phân biệt về người.
  2. Nói về nhân.
  3. Nói cách thời thấy Phật khác nhau.
  4. Nói về cõi kia, khi sinh có khác.
  5. Nói sinh về cõi ấy có năm thứ sanh khác nhau được lợi ích khác nhau.
  6. Giải thích kinh luận.

Sơ: Phân biệt về người, lược chia làm ba, chia chi tiết có chín phần.

Chia lược có ba: Đó là thượng, trung, hạ. Người chủng tánh trong đại thừa trở lên thì gọi là thượng phẩm, trong người Tiểu thừa, từ phàm đến thánh, giữ giới không phạm gọi là trung phẩm. Trong người Đại thừa thì ngoại phàm có tội, gọi là hạ phẩm.

Phân chia chi tiết có chín: Đó là thượng thượng, thượng trung và thượng hạ. Người trong Đại thừa, từ Tứ địa trở lên gọi là Thượng thượng. Nhị, Tam địa tín nhẫn Bồ-tát gọi là Thượng trung. Kinh nói sinh về cõi ấy quá một tiểu kiếp thì đắc vô sinh. Lý thật thì trong đó cũng có hai kiếp, ba kiếp mới được. Kinh nói một kiếp là nói theo gần.

Hỏi: “Địa Trì” chép: Trong bậc Sơ Địa, phải trải qua Vương xa một Đại a-tăng-kỳ kiếp mới đến Bát địa. Kinh này sao lại nói một tiểu kiếp liền được Vô sinh?

Giải thích có ba nghĩa:

Thời kiếp khác nhau. Như Hoa Nghiêm chép: “Ở Ta-bà một kiếp, bằng một ngày một đêm ở cõi Vô Lượng Thọ. Ở cõi kia một kiếp, bằng ở cõi Ta-bà này vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp”. Kinh “Địa Trì” y theo đây cho nên nói một đại a-tăng-kỳ kiếp mới đến Bát địa. “Quán kinh” là dựa vào trường kiếp ở thế giới Cực lạc, cho nên nói một kiếp đắc Vô sinh nhẫn.

Khác nơi chốn: “Địa Trì” chép: một đại tăng-kỳ cho đến Bát địa, là nói cách với Sơ địa.”Quán kinh” nói là qua một tiểu kiếp cho đến Vô sinh, đó là nói chỗ cuối trong Tín nhẫn. Cuối cùng của tín nhẫn, chính là Tam địa. Nêu y theo Sơ địa thì không phải chỉ một kiếp mà được vô sinh.

Sở đáo biệt (Khác chỗ đến): “Địa Trì” nói một đại a-tăng-kỳ cho đến Bát địa. “Quán kinh” nói chỉ trong một tiểu kiếp được Vô sinh, cho đến địa thứ bảy mới được vô sinh ở Thất địa. Hạng thượng trung đều như thế. Chủng tánh giải hạnh, gọi là thượng hạ. Kinh nói người này quá ba tiểu kiếp được trăm pháp minh, được đến Sơ địa.

Hỏi rằng: “Địa Trì” nói theo chủng tánh thì một đại a-tăng-kỳ mới đến Sơ địa, sao trong “Quán Kinh” lại nói ba tiểu kiếp mới được?

Giải rằng: Vì thời kiếp khác nhau nên như thế. Trong “Địa Trì” là căn cứ vào kiếp ngắn ngủi, nói một đại a-tăng-kỳ kiếp mới đến Sơ địa. Còn “Quán Kinh” là y theo kiếp số lâu dài ở cõi Cực lạc, nên nói ba kiếp đến được Sơ địa.

Hỏi rằng: “Địa Trì” nói từ chủng tánh cho đến Sơ địa, là hơn một đại a-tăng-kỳ kiếp. Từ Sơ địa đến Bát địa cũng hơn một đại a-tăng-kỳ kiếp. Nay vì sao lại nói bậc thượng trung trải qua một tiểu kiếp đã đạt được Vô sinh. Nói rằng bậc thượng hạ qua ba tiểu kiếp mới đến Sơ địa?

Lý thật thì đều bằng nhau, trước nói bậc thượng trung qua một tiểu

kiếp được Vô sinh nhẫn, là y theo Tín nhẫn mà nói. Còn cho rằng hơn ba tiểu kiếp mới đến Sơ địa đó là nói chỗ bắt đầu ở nơi phục nhẫn, đây là phỏng độ.

Lại trước nói qua một tiểu kiếp được Vô sinh, là bắt đầu ở Thất địa vô sinh, không vượt qua chỗ đó.

Sau nói ba kiếp mới đến Sơ địa đó là vượt qua cho đó. Cả hai điều này là nói theo chứng. Trên là phân về loài người ở bậc thượng.

Bậc trung cũng có ba: Đó là trung thượng, trung trung và trung hạ. Sự phân chia như thế nào? Người ở ba quả trước trong người Tiểu thừa gọi là trung thượng, sinh về kia liền đắc quả A-la-hán. Lý thật ở trong đó cũng có nhiều trường hợp đắc quả A-la-hán. Kinh nói được ngay là nói theo sự thù thắng.

Hỏi: La-hán là sinh hay bất sinh?

Kinh này không nói, vì A-la-hán là bất sinh.

Hỏi: Ngài Long Thọ nói: “A-la-hán cũng sinh về Tịnh độ” cho nên trong văn kinh nói: “Có cõi Tịnh độ mầu nhiệm, vượt hơn ba cõi, không có danh từ phiền não, là nơi bậc A-la-hán nên sinh về, nghe kinh Pháp Hoa vì sao không sanh, có hai nghĩa:

  1. Giải thích Theo ngu pháp của Thanh văn, chấp tiểu mê đại là ngu pháp. Vì người ngu pháp bỏ thân hiện ấm, chưa thọ thân ngay, nhập vào vô dư diệt bất khả tư nghì kiếp, vị lại ở trong cõi Niết-bàn Vô dư, lúc tâm tưởng sinh, mới ở Tịnh độ thọ thân nghe pháp. Ngài Long Thọ y theo ở cuối (chung) mà nói sinh về Tịnh độ. Kinh này thì nói chỗ bắt đầu nên không nói sinh.
  2. Giải thích theo bất ngu pháp: Trong các A-la-hán, hiểu Tiểu biết Đại nên gọi là bất ngu pháp. Vì người ở cõi này sau khi chết, liền ở cõi Tịnh độ thọ thân nghe kinh, nhưng chẳng phải tất cả. Nghĩa này thế nào? Cõi nước thì có thô diệu, chỗ thô thì tạp tiểu, chỗ diệu thì chỉ có đại.

Lại nói cõi nước thô có phần đoạn chung, phàm phu vãng sinh về cõi diệu chỉ có bậc Thánh biến dịch. Trong Tịnh độ cõi Phật Di-đà thì trong thô cũng có diệu sát, kinh này không nói ra. Trong Hoa Nghiêm thì nói đầy đủ. Kinh nói A-la-hán bất ngu pháp, ái kiết đã hết chuyên tâm cầu Đại thừa, sinh về cõi Diệu, không sinh vào nước thô. Ngài Long Thọ y theo diệu, nói La-hán nên sinh về Tịnh độ. Trong văn kia nói rằng: “Có diệu Tịnh độ, vượt qua ba cõi, không có danh từ phiền não, là nơi La-hán nên sinh về”.

Quán Kính y theo Thô, cho nên không nói sinh về, đó là nói ng-

hiêng lệch. Người ở ba quả trước gọi là Trung thượng. Trước đã kiến đạo, nội phàm ngoại phàm, tinh trì tịnh giới, cầu quả xuất ly, gọi là Trung trung.

Kinh nói: Sinh về kia được bảy ngài, nghe pháp được quả Tu-đàhoàn, trải qua nửa kiếp mới đắc quả La-hán. Lý thật thì ở trong đó cũng có trải qua nhiều thời nghe pháp chứng quả. Kinh nói bảy ngày và nửa kiếp, chính là nói bậc thù thắng. Từ kiến đạo trở xuống, các phàm phu thế tục, tu các thế phước khác, mong cầu xuất ly, đây vì người trung hạ mà nói. Kinh nói: “Sinh về cõi kia, trải qua một Tiểu kiếp đắc quả A-la-hán”.

Theo lý thật thì ở trong đó cũng có người trải qua nhiều kiếp mới đắc quả A-la-hán. Kinh là nói theo bậc thù thắng. Bậc trung cũng thế, bậc hạ thì có ba: Đó là hạ thượng, hạ trung, hạ hạ. Trong những người mới học Đại thừa thì tùy theo sự khinh trọng mà chia làm ba phẩm, chưa có đạo vị, khó luận được thứ bậc. Người được phân biệt như thế, môn này đã xong.

Kế là phân biệt về nhân, ở đây trước là phân biệt tướng, sau luận là y theo người. Đương tướng như thế nào? Các kinh đều nói khác nhau. Kinh “Đại phẩm” thì chép: Bát-nhã không tuệ làm nhân, vì tu không tuệ trừ diệt tội chướng, đối với cõi Tịnh độ muốn sinh thì liền sinh.Theo Kinh Niết-bàn thì: Tất cả nghiệp lành đều là nhân của Tịnh độ, không thể nêu ra đầy đủ.

Nói thô thì có bốn:

Tu giới làm nhân, xa lìa mười điều ác, tu hành mười điều lành, tự giữ tịnh giới, không ở chung với người phạm tội nặng, được sinh về Tịnh quốc.

Tu thí làm nhân. Ở chỗ hoang vắng đào giếng, trồng cây trồng rừng, cho thuốc người bệnh nghèo, xây dựng tăng phòng, cúng dường người giữ giới và nói pháp, đúc tượng xây tháp… tất cả những việc làm như thế đều được vãng sinh.

Tu tuệ làm nhân. Viết sách chép kinh, cho đến lắng nghe một bài kệ đọc tụng, giảng nói cho người nghe, được sinh về Tịnh độ.

Lấy việc hộ pháp làm nhân: giữ gìn chánh pháp, không chê bai Phương đẳng, được sinh về Tịnh độ.

Những điều trên đây có thể làm nhân cho cõi Tịnh độ, cầu quả an vui, cho nên phải tu tập.

Theo “Kinh Duy-ma” lấy tám pháp làm nhân, cho nên kinh này nói tám pháp đầy đủ, thực hành không thiếu sót thì được sinh về Tịnh độ. Tám pháp gồm:

Làm lợi ích cho chúng sinh không mong trả ơn. Đây chính là lòng từ.

Chịu các sự khổ não thay cho chúng sinh, đây là lòng bi.

Công đức làm ra, đều bố thí hết. Đây là tâm hỷ xả. Do hỷ nên trừ được tâm ganh ghét. Cho nên tất hồi hưởng cả công đức bố thí hết.

Tâm bình đẳng đối với chúng sinh, nhún mình không ngăn ngại, đây là tâm xả. Tâm xả thì trừ hết oán thân, cung kính tất cả, cho nên gọi là bình đẳng vô ngại.

Trên là bốn pháp lợi tha, bốn pháp sau đây là tự lợi.

Đối với các Bồ-tát, nên gần gũi như Phật, kinh nào chưa nghe thì nghe không nghi ngờ, đối với sở học của mình khởi tâm kính tin, đối với người khởi tâm cung kính, đối với pháp thì sinh tín.

Không chống trái với người Thanh văn, đối với các môn dị học khác dứt tâm ngăn ngại.

Không ganh ghét với người, không cống cao tư lợi, ở trong đó tự điều phục tâm mình, ở trong chỗ thọ dụng dứt tâm nhơ uế.

Thường tự biết lỗi mình, không trách lỗi người. Thường lấy sự nhất tâm tu các công đức. Đối với việc tu hành khởi tâm chuyên tinh.

Tám điều này có thể làm nhân cho tất cả cõi Tịnh độ. Cầu sự an vui cũng phải tu theo đó.

Theo “Luận Vãng Sinh” thì dùng năm môn làm nhân:

  1. Môn Lễ bái: Xưng danh lễ bái Phật A-di-đà, cầu sinh Tịnh độ.
  2. Môn Tán thán: Khen ngợi Phật Di-đà, ánh sáng trí tuệ, tất cả công đức.
  3. Môn Tác nguyện: Nguyện sinh về nước kia, tu các pháp sở hành sở thành của Phật Di-đà.
  4. Môn Quán sát: Sở quán này có ba:
  • Quán công đức trang nghiêm ở cõi nước kia.
  • Quán công đức trang nghiêm của Phật Di-đà.
  • Quán công đức trang nghiêm của Bồ-tát ở cõi đó. Mỗi điều có rất nhiều nghĩa, không thể nêu ra hết.
  1. Môn Hồi hướng: Không bỏ chúng sinh khổ, lấy hồi hướng làm đầu, công đức làm ra đều hồi thí hết.

Theo “Quán kinh” này nói về nguyên nhân cũng có nhiều. Về nghĩa thô thì có bốn:

  1. Tu quán vãng sinh: Quán riêng mười sáu pháp, đầy đủ như trên có nói.
  2. Tu nghiệp vãng sinh: Tịnh nghiệp có ba, cũng như trên đã nói.
  3. Tu tâm vãng sinh: Như văn dưới có nói. Tâm có ba thứ:
  • Thành tâm: Thành nghĩa là chân thật. Hạnh khởi không luống dối, thật tâm cầu bỏ, nên gọi là thành tâm.
  • Thâm tâm: Tin ưa siêng năng cầu sinh về nước kia.
  • Tâm phát nguyện hồi hướng, thẳng đến chỗ mong cầu, gọi đó là nguyện cầu về đường lành, gọi là hồi hướng.

Nguyện có hai:

  • Nguyện sinh về nước kia.
  • Nguyện thấy Phật Di-đà. Sở hành, sở thành cũng đều như thế.

Đây là tu tâm vãng sinh thứ ba.

  1. Quy hướng vãng sinh: Như văn dưới nói tự mình tuy không hành, nhưng nhờ bạn lành nói cho nghe danh hiệu Phật pháp tăng, hoặc khen ngợi công đức của Phật Di-đà, hoặc khen ngợi Quán Âm, Thế Chí hoặc những việc tốt đẹp vui sướng ở cõi nước kia, nhất tâm quy hướng, cho nên được vãng sinh. Ở trong đó hoặc nhớ niệm, hoặc lễ lạy, khen ngợi, hoặc xưng danh hiệu, sẽ được vãng sinh, nên tin như thế.

Kế là nói về người, các kinh đều nói khác nhau, theo Đại kinh Vô Lượng Thọ thì y theo ba phẩm thô để phân biệt với nhân Thượng phẩm vãng sinh, lìa bỏ gia đình, dứt hết ái dục để làm Sa-môn, phát tâm Bồ-đề, một bề chuyên niệm Đức Phật, nguyện sinh về nước kia, liền được vãng sinh. Vãng sinh trung phẩm, không làm Sa-môn, cũng không thể tu các công đức lớn, phát tâm Bồ-đề, một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, ít tu phước lành, vâng giữ trai giới, tạo tượng xây tháp, tu các pháp cúng dường, nguyện sinh về nước kia, liền được vãng sinh. Sinh về hạ phẩm, không làm các công đức, phát tâm Bồ-đề, một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ dù chỉ mười niệm, nghe pháp mầu vui mừng tín ưa, không sinh nghi ngờ, cho đến phát tâm nguyện sinh về nước Cực lạc, liền được vãng sinh.

Theo “Quán Kinh” thì chín phẩm nói riêng, trước nói bậc thượng, đồng tu Đại thừa để làm nhân. Trong đó, phân biệt ra gồm: Bậc thượng thượng sinh, trước phát ba tâm:

  1. Tâm chí thành.
  2. Tâm sâu xa.
  3. Tâm phát nguyện hồi hướng.Kế là tu ba nghiệp:
  • Từ tâm bất sát, là nghiệp bậc thượng thứ nhất.
  • Đủ các giới: Là nghiệp thứ hai.
  • Đọc tụng kinh luật Đại thừa, tu hành sáu niệm là nghiệp thứ ba.

Sau cùng là hồi hướng nghiệp lành này, muốn sinh liền sinh.

Sinh về thượng phẩm trung sinh, trước cũng nên khởi ba thứ tâm, đồng với tâm thượng sơ, cho nên không nói, ở dưới cũng giống như thế.

Kế là tu ba nghiệp, từ tâm bất sát, giới đầy đủ như trước, cho nên không nói. Đối với pháp Đại thừa không thể thọ trì, đọc tụng tu hành, chỉ có thể hiểu rõ đệ nhất nghĩa đế, tin sâu nhân quả. Đây thuộc về tịnh nghiệp thứ ba ở trước.

Sau cùng hồi hướng điều lành này, nguyện sinh thì liền sinh.

Người sinh về thượng phẩm hạ sinh, trước tiên khởi ba thứ tâm, cũng giống như trước.

Kế là tu ba nghiệp, từ tâm bất sát, đầy đủ giới như trước. Đối với pháp Đại thừa không thể thọ trì, đọc tụng giải nghĩa, chỉ tin nhân quả mà làm nhân hạnh, lòng tin này là tịnh nghiệp thứ ba ở trước, sau cùng hồi hướng việc lành này, muốn sinh liền được sinh. Bậc thượng đều như thế.

Kế là nói về bậc trung. Đồng tu Tiểu thừa mà hành nhân, là sau cùng, phát tâm Bồ-đề, niệm Phật Di-đà, cho nên được vãng sinh. Trong đó chia ra gồm:

Bậc Trung phẩm thượng sinh, trong hạng người ba quả trước của Tiểu thừa, người tu đầy đủ các thánh đức, văn kinh không nói đến, chỉ nói người ấy, có đầy đủ các giới hạnh, đây vẫn thuộc về tịnh nghiệp thứ hai ở trước, sau hồi hướng việc lành này muốn sinh thì được sinh.

Sinh về Trung phẩm trung sinh, một ngày một đêm giữ tám trai giới. Thọ giới Sa-di và cụ túc. Đây cũng thuộc tịnh nghiệp thứ hai ở trước, hồi hướng việc lành này muốn sinh thì liền sinh.

Người sinh về Trung phẩm hạ sinh, nhờ tu hạnh hiếu dưỡng cha mẹ, làm việc nhân đức, tốt lành ở đời, đây là tịnh nghiệp thứ nhất ở trước. Lúc sắp qua đời gặp được bạn lành nói cho nghe các sự vui ở thế giới Cực lạc, đồng thời nói bốn mươi tám nguyện của tỳ-kheo Pháp Tạng cho nghe, dốc lòng tin ưa, muốn sinh thì liền sinh. Bậc Trung đều được như thế.

Kế là nói về bậc hạ. Người này ở đời quá khứ có tu tập Đại thừa cho nên trong Đại Kinh nói người này phát tâm Bồ-đề, nghe nói pháp mầu, tin ưa không nghi ngờ. Hiện tại gặp duyên xấu gây ra các tội nghiệp, cho nên trong kinh này, bày ra các bạn lành khai đạo quy hướng, cho nên được vãng sinh. Trong đó chia ra gồm:

Sinh về Hạ phẩm thượng sinh, hiện tại phạm tội nhẹ, nghe bạn lành nói tên kinh Đại thừa, dạy bảo xưng danh hiệu Phật Di-đà, được diệt tội cho nên vãng sinh. Người sinh về hạ phẩm trung sinh: Hiện phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch, v.v.… Được bạn lành dạy xưng danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, dốc lòng như thế khiến cho âm thanh niệm Phật không dứt, dù chỉ mười niệm, diệt tội được vãng sinh. Phân biệt nhân như thế. Đến dây đã xong môn thứ hai.

Kế là nói về việc cách thời thấy Phật khác nhau. Phật có đủ ba thân.

  1. Chân thân: Là pháp thân và báo thân.
  2. Ứng thân: Do tám tướng hiện thành.
  3. Hóa thân: Tùy cơ hiện khởi. Theo Đại Kinh thì các thượng phẩm thấy ứng thân của Phật đến đón rước, bậc trung phẩm thấy được hóa Phật, bậc hạ phẩm thì mộng thấy, không nói về ứng thân, hóa thân. Chân thân thường tịch, không có tướng đón rước, cho nên không nói.

Theo Quán Kinh này, ba hạng bậc Thượng, đều thấy được ứng thân, hóa thân Phật đến đón rước. Nhưng trong đó thấy rất nhiều hóa thân khác nhau. Bậc thượng thấy vô số hóa Phật, bậc trung thấy một ngàn, bậc hạ thấy năm trăm hóa Phật. ba hạng bậc trung có người thấy Phật, có người không thấy Phật, người ở hai bậc trung thượng và trung trung đều thấy Phật, bậc Trung hạ thì không thấy, vì tu hành thấp kém.

Hỏi: Đại Kinh nói: Ở bậc trung tất cả đều thấy Phật, vì sao kinh này lại nói có người thấy có người không thấy?

Giải thích rằng: Đại Kinh là nói chung các tướng, tùy theo số nhiều mà nói thấy, kinh này thì nói chi tiết ra, nên nói không thấy. Nói có người thấy, là nói thấy ứng thân Phật, chẳng phải thấy hóa thân.

Người ở ba bậc hạ, có người thấy có người không thấy. Bậc hạ thượng, hạ trung thấy Phật, bậc Hạ hạ thì không thấy, chỉ thấy hoa sen.

Hỏi: “Đại Kinh” nói bậc hạ không được thấy Phật, sao kinh này lại nói có thấy?

Giải thích rằng: Kinh này nói tu quán hạnh, do quán mà diệt tội, cho nên khiến bậc hạ chia ra có người thấy. Tuy sau có thấy Phật, chỉ thấy hóa thân kém hơn ở trước.

Hỏi: Trong Đại Kinh nói: Bậc Thượng thì thấy được ứng thân, bậc Trung chỉ thấy hóa thân, bậc hạ chỉ mộng thấy, không nói hóa thân, ứng thân, vì sao kinh này nói bậc thượng thấy cả ứng thân và hóa thân, bậc trung thấy ứng thân, bậc hạ thấy hóa thân?

Giải thích rằng: Kinh này nói tu quán hạnh, nhờ quán mà tâm được soi sáng, cho nên bậc thượng thấy cả ứng thân, hóa thân. Bậc Trung thấy ứng thân, bậc hạ thấy hóa thân. Trong Đại Kinh không nói Quán hạnh, vì sự khác nhau ấy. Môn thứ ba này đã xong.

Kế là nói vãng sinh về cõi kia thời gian có khác nhau. Ba bậc thượng khi sinh đều khác nhau.

Thượng phẩm thượng sinh: Khi sinh về hoa liền nở, không trải qua thời gian

Thượng phẩm trung sinh: Qua một đêm hoa mới nở. Thượng phẩm hạ sinh, hoa nở sau một ngày, một đêm. Người sinh về ba phẩm của bậc trung về thời cũng khác. Sinh về trung phẩm thượng sinh, khi đến hoa liền nở ra, đồng với thượng thượng phẩm. Vì sao? Vì đây là bậc Thánh trong Tiểu thừa được vãng sinh về, dư nghiệp tuy kém, mà tịnh tâm vô lậu, nên khi sinh về hoa liền nở.

Hàng trung phẩm trung sinh: Sau bảy ngày hoa nở, Trung phẩm hạ sinh trong văn không có nói, chỉ nói khi sinh về rồi, bảy ngày sau, gặp bậc Thánh nghe nói pháp.

Ba phẩm bậc hạ về thời cũng khác. Hạ phẩm thượng sinh, trải qua bốn mươi chín ngày hoa mới nở. Hạ phẩm trung sinh, tội báo sâu nặng, đến sáu kiếp hoa mới nở. Hạ phẩm hạ sinh, tội chướng rất nặng, trải qua mười hai đại kiếp hoa mới nở. Do các tội nặng đó nên phải trải qua thời gian tu tập rèn tâm, mới vào sâu Đại pháp, thời chia ra như thế. Môn thứ tư đã xong.

Kế là nói sau khi sinh về được các sự lợi ích khác nhau.

Ba phẩm bậc thượng được lợi ích đều khác. Bậc thượng phẩm thượng sinh, sinh về cõi kia liền đắc Vô sinh pháp nhẫn, không sinh vào Thất địa, ở trong đó cũng có nhiều lúc được, đây là nói về bực tối thắng.

Về thượng phẩm trung sinh, trải qua một tiểu kiếp, đắc Vô sinh nhẫn. Cũng có người vượt hơn, đây là nói về bậc tối thắng. Thượng phẩm hạ sinh, qua ba tiểu kiếp được trụ vào Sơ địa. Ba phẩm của bậc trung được lợi ích cũng khác. Bậc trung phẩm thượng sinh sinh về cõi kia liền chứng quả A-la-hán, đây cũng có nhiều lúc, đây là nói về bậc tối thắng. Bậc trung phẩm trung sinh, bảy ngày sau đắc quả Tu-đà-hoàn, trải qua nữa kiếp sau đắc quả La-hán, trung phẩm hạ sinh qua một tiểu kiếp mới đắc quả A-la-hán. Ba phẩm của bậc hạ được lợi ích cũng khác, hạ phẩm thượng sinh trải qua mười tiểu kiếp được đến Sơ địa. Vì đây trước là người ở đường lành. Hạ phẩm trung sinh, qua sáu đại kiếp, nghe pháp phát tâm. Hạ phẩm hạ sinh qua mười hai đại kiếp nghe pháp phát tâm, chủng tánh phát tâm vì bậc hạ này tập khí đời trước rất lớn, đồng phát đại tâm, được lợi ích như thế. Môn thứ năm đến đây đã xong.

Kế là môn thứ sáu, hội kinh luận mà giải thích.

Hỏi: Luận Vãng Sinh nói, người nhị thừa không được vãng sinh. Kinh này vì sao nói bậc trung tu học theo Tiểu thừa mà được sinh về?

Giải thích: Phật Di-đà khi còn là Bồ-tát chỉ tu Tiểu hạnh, không được vãng sinh là do lúc sắp qua đời không phát tâm Bồ-đề, gieo hạt giống Đai thừa thì mới được vãng sinh, nên trong Đại kinh nói người này phát tâm Bồ-đề. Trong luận Vãng Sinh là nói lúc sắp qua đời. Do đó mà cho rằng: Hạt giống Nhị thừa không được vãng sinh. Kinh này y theo lúc đầu mà nói bậc trung học Tiểu thừa được vãng sinh.

Hỏi rằng: Như thế thì phải nhờ sự phát tâm lúc sắp qua đời mới được vãng sinh, đến cõi kia chứng được đạo quả Đại thừa. Vì sao lại chỉ được quả Tiểu thừa?

Giải: Người này tuy nương vào sự phát tâm Bồ-đề lúc sắp qua đời nhưng trước thường học theo Tiểu thừa, cho nên khi sinh về nước kia nghe các pháp khổ, không, vô thường, hiểu rõ nguồn gốc, trước chứng tiểu quả, là do phát đại tâm lúc sắp qua đời. Đắc tiểu quà rồi, không còn trụ vào tiểu quả, sẽ trở về với Đại.

Hỏi rằng: Trong “Luận Vãng sinh” nói người nữ, và người căn thiếu thì không được vãng sinh. Kinh này nói Bà Vy-đề-hy và năm trăm thị nữ đều được vãng sinh, là nghĩa gì?

Giải thích rằng: Luận nói về người nữ và người thiếu căn không được vãng sinh về là nói ở cõi kia. Khi sinh về đó thì được quả báo thanh tịnh lìa dục, cho nên không có người nữ, thân báo đều tinh sạch, nên căn không thiếu. Nếu nói theo cõi này thì chỉ cho người có thiện tâm, tất cả không phân biệt.

Lại hỏi: Đại kính nói kẻ gây ra năm tội nghịch không được vãng sinh. Kinh này lại nói được, là vì sao?

Có hai nghĩa:

  1. Phân biệt theo người: Người gây ra năm tội nghịch, có thượng có hạ: Những điều lành đã có trước kia bị những việc làm ác che mất, gọi đó là hạ, ở trong đường lành, gặp duyên lại gây ra tội nghịch gọi đó là thượng. Người bậc thượng như vua thế gian,… gây ra việc nghịch thì phải có sự sám hối sâu nặng mới khiến cho tội tiêu diệt, mới được vãng sinh. Kinh này là nói đến điều đó, cho nên mới nói năm tội nghịch cũng có thể được vãng sinh.

Người bậc hạ gây ra tội nghịch, phần nhiều không sám hối thì không thể được vãng sinh

Trong Đại kinh cũng nói đến điều này. Cho nên nói không sinh.

  1. Phân biệt theo hạnh. Người gây ra tội nghịch thì hạnh có định tán: Quán Phật tam-muội thì gọi là định, tu các gốc lành thì gọi là Tán. Năng lực của tán thì mỏng, không thể dứt trừ hết năm tội nghịch, không được vãng sinh. Trong Đại Kinh cũng nói về điều này, nên nói là không sinh. Định thiện có năng lực mạnh, có công năng diệt hết năm tội nghịch, nên dễ được vãng sinh. Kinh này nói quán cho nên nói được vãng sinh, phân biệt như thế.

Kế là giải thích về văn kinh. Trước quán ba phẩm của bậc thượng, vãng sinh, trước là luận ba phẩm riêng, sau mới tổng kết. Đối với Thượng thượng thì đầu tiên nêu ra, kế là giải thích, sau cùng mới tổng kết. Trong giải thích có ba:

  1. Nói về nhân.
  2. Khi sinh về nước kia, người này trở xuống: Nhân thành thì được vãng sinh. Từ “Đến nước kia thấy Phật” v.v… trở xuống: Sinh về thì được lợi ích. Ở đây nói trong nhân, tâm ban đầu và hạnh ở sau. Ở trong tâm đầu tiên nói “Nếu nguyện sinh về nước kia… thì nên phát ba thứ tâm”. Đây là nêu chung.

Kế là phân biệt danh hiệu.

“Thế nào” là câu hỏi, dưới là trả lời.

Nói “Thành” là chỉ cho sự thật tâm. Khởi hạnh không dối gọi là thành tâm. Lại thật ý cầu vãng sinh cũng gọi là “Thành tâm”.

Nói “Thâm tâm” là dốc lòng tha thiết, khởi hạnh siêng năng, đó là thâm tâm. Cầu bỏ sự siêng năng đến cũng gọi là thâm tâm. Hồi hướng phát nguyện cầu bỏ tâm, dùng điều lành mà cầu, gọi là hồi hướng. Nghĩa là hồi điều lành của mình hướng đến đạo Bồ-đề. Lại hồi hướng điều lành của mình và hướng về Cõi cực lạc, gọi là hồi hướng, ý nghĩa hồi hướng có nói rộng như trong chương riêng, ở đây cũng nên nói đầy đủ. Thẳng đến nơi mong cầu, đó là nguyện. Nguyện cầu đạo Bồ-đề, lại nguyện sinh về cõi kia, đó là nguyện. Có đủ cả ba thì chắc chắc vãng sinh, trong phần tổng kết năng hành, đầu tiên gọi là “Lại” có ba loại sẽ được vãng sinh. Đây là tổng kết để nêu, kế là nêu tên. Trước hỏi sau nêu, đây là ba thứ tịnh nghiệp bậc thượng. Từ tâm bất sát là nghiệp bậc thượng đầu tiên. Trong nghiệp đầu tiên này nói sự cung cấp dưỡng nuôi cha mẹ, thờ phụng sư trưởng, tâm từ không sát sinh, tu hành mười điều lành. Nay nêu ra từ tâm, còn điều kia thì lược qua không nói.

Đầy đủ các giới hạnh, trong văn trước là nghiệp thứ hai. Đọc tụng Đại thừa cho đến phát nguyện, văn trước là nghiệp thứ ba. “Hồi hướng” xong rồi thì dùng chung cho ba nguyện trước.

“Nguyện sinh về cõi nước kia, từ một ngày cho đến bảy ngày” là nói phạm vi giới hạn tu hành liền được vãng sinh. Kết thúc nói về lợi ích của sự tu hành. Như trên là nói về nhân.

Thứ hai: Là nói “Nhân thành” trong vãng sinh, người này tinh tấn, thì được Phật Di-đà và các thánh chúng đến đón rước, hành giả thấy rồi lòng rất vui mừng. Đây là nói được vãng sinh về cõi kia.

Thứ ba: Sinh về Cực lạc thì được lợi ích. Việc này có chia làm ba:

Sinh về Cực lạc, thấy Phật nghe pháp, đắc Vô Sinh Nhẫn.

Làm các Phật sự, được Phật thọ ký.

Trở về cõi nước mình, đắc pháp môn tổng trì Đà-la-ni.

Trong pháp quán trên, trước nêu sau luận, cuối cùng tổng kết.

Trong phần giải thích cũng có ba:

  • Nói về nhân.
  • Nhân thành thì được vãng sinh.
  • Vãng sinh rồi thì được lợi ích. Trong nhân, đầu tiên nói là “Không cần phải thọ trì kính điển Phương đẳng”, để phân biệt ở đây khác với trước.

Khéo hiểu thành đẳng chính là nói về nhân.

“Đem nguyện này” v.v… trở xuống: Dùng đó mà cầu sinh. Trong thượng phẩm ở trước, có ba thứ: tâm, từ, cụ giới, ở đây cũng nên có, đồng như trước nên không nói. Trong phần vãng sinh thứ hai, thì đầu tiên đón rước hành giả này về Cực lạc: “Hành giả tự thấy ngồi trên đài vàng”

“Qua một đêm hoa liền nở”: Là nói về thời gian sinh ra.

Trong phần lợi ích thứ ba, văn cũng chia làm ba:

  • Vãng sinh về cõi kia được lợi ích.
  • Làm các Phật sự, tu học tam-muội.
  • Sinh về nước kia trải qua một tiểu kiếp đắc Vô Sinh nhẫn, hiện tiền được thọ ký. Trong phần lợi ích sinh về cõi kia là thân màu vàng ròng là chánh báo tốt đẹp.

Dưới chân có hoa sen là y báo tốt đẹp, Phật và Bồ-tát phát ra ánh sáng là bạn lành tốt đẹp. Do nhân trước tu tập nên được nghe pháp cao siêu. Liền bước xuống đài vàng, lễ Phật khen ngợi là khởi hạnh tốt đẹp.

Trải qua bảy ngày, đó là sở thành tốt đẹp.

Kế là nói việc trên dưới, cũng trước là nêu ra. Kế là trong phần giải thích có ba:

  • Nhân.
  • Sinh.
  • Nói về được lợi ích.

Trong nhân không có nói, khéo hiểu nghĩa thú. Chương này trước đã nêu ra. Cũng tín nhân,… là nói về nhân. Từ “Do đức này” v.v… trở xuống là dụng để cầu sinh.

Trong phần vãng sinh thứ hai: Đầu tiên là đón rước về nước kia. “Thấy việc này” v.v… trở xuống: Đây nói vãng sinh về nước kia, trải qua một ngày một đêm, hoa sen liền nở đây là nói việc vãng sinh lâu mau.

Trong sự lợi ích này có ba:

  • Sinh về cõi kia được lợi ích, thấy Phật nghe pháp.
  • Cúng dường Chư Phật khắp mười phương, theo Phật nghe pháp.
  • Ở trong nước kia trải qua ba tiểu kiếp được trăm pháp, minh môn, đến Hoan Hỷ địa. Đó gọi là Thượng sinh, thứ mười bốn là quán chung để kết thúc.

Kế là quán ba bậc vãng sinh trung phẩm, đầu tiên là nói về hai phẩm, sau là tổng kết.

Trong giải thích có ba:

  • Nói về nhân.
  • Nhân thành thì được vãng sinh.
  • Sinh rồi được lợi ích.

Trong nhân, đầu tiên nói về năm giới, tám giới, là giới của hàng tại gia. Tu hành các giới là giới của người xuất gia, đây là nói về tu trị.

Không gây ra năm tội nghịch, không các lỗi lầm, đó là nói hạnh lìa lỗi.

Đem điều lành này để cầu vãng sinh. Trong phần vãng sinh thứ hai, đầu tiên được đón rước về Cực lạc.

Từ “Hành giả thấy Phật” v.v… trở xuống là nói được vãng sinh về cõi kia.

“Hoa sen vừa nở” v.v… trở xuống là thời gian vãng sinh, đây là sự vãng sinh của bậc Thánh, cho nên hoa liền nở .

Trong phần lợi ích thứ ba, trước thì hoa nở nghe pháp, sau được đạo quả. Đắc La-hán, đây gọi là Vô sinh, cũng gọi là vô trước. Nhân vô trước mất thì quả vô sinh không còn.

Nói ba minh là: Túc mạng, thiên nhãn và lậu tận.

Sáu thông: Là thân thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông và lậu tận thông.

Tám giải thoát cũng gọi là tám bối xả. Danh tự là gì?

Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc một, tự thân gọi là nội, thân khác là ngoại. Đối với thân sắc của mình chưa diệt chưa hoại, gọi là nội hữu quán. Nội ngoại sắc đều bất tịnh, gọi là ngoại quán sắc.

Hỏi: Trong ngoài ở đây đều có, ví sao lại nói nội hữu?

Giải rằng: Nội sắc lúc đầu có mà sau không. Ở đây chỉ nói về điều sau, nên không có. Ba giải thoát trước chưa diệt được ngoại sắc, chẳng phải lúc đầu có riêng. Vì nghĩa đó, nên không gọi là ngoại hữu.

Hỏi: Môn này quán chung cả nội ngoại, đều là bất tịnh, vì sao mà nói quán ngoại?

Giải thích: Đây là ẩn hiển bày danh. Trước thì bên trong bày hữu mà ẩn kín quán xưng. Nay ngoài thì bày quán, ẩn đi hữu danh, luận giải thích như thế.

Trong không có sắc tướng, ngoại quán sắc có hai. Đối với tự thân của mình thực hành tướng chết, bị trùng ăn lửa cháy, phá tan hết các tướng, đó là nội vô (trong không). Quán sát ngoại sắc đều là bất tịnh. Cả hai thứ này đều là quán bất tịnh. Tướng tịnh giải thoát, đó là điều thứ ba. Đối với nội ngoại sắc, bỏ hết da thịt, chỉ quán xương cột. Ba sắc trước và bốn pháp: là Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ và phi tưởng giải thoát cộng lại thành bảy. Bậc Thánh được định bốn Không xứ, liền cho là bốn giải thoát. Thêm định diệt tận nữa là thứ tám, gọi là diệt tận định. Tám giải thoát này, có nói rộng như trong chương riêng, cũng nên luận đầy đủ. Kế là quán phẩm trung trung.

Đầu tiên là nêu, kế là giải thích. Trong giải thích có ba:

  • Nói về nhân.
  • “Huân giới hương” v.v… trở xuống: Là nhân thành tựu được vãng sinh.
  • “Hoa đã nở” v.v… trở xuống: là sinh về cõi kia được lợi ích.

Trong phần vãng sinh thứ hai, đầu tiên là đón rước về cõi kia “Hành giả tự thấy ngồi trên hoa sen” v.v… trở xuống: Đây là nói vãng sinh về cõi kia, bảy ngày sau hoa sen mới nở là nói sự vãng sinh lâu mau, trước đã nói bảy ngày sau hoa mới nở, sự lợi ích dễ hiểu là thế nào.

Kế là quán bậc trung hạ: Cũng trước là nêu ra, kế là giải thích, sau cùng là kết luận.

Trong phần giải thích có ba:

  • Nói về nhân.
  • Nhân thành thì được vãng sinh.
  • Sinh về cõi kia được lợi ích.

Trong nhân có hai:

  1. Hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ, làm điều lành ở đời.
  2. Khi sắp qua đời nghe bạn lành khen ngợi cõi Cực lạc và nghe được bốn mươi tám lời nguyện của ngài Pháp Tạng, mong muốn được sinh về.

Trong phần vãng sinh thứ hai: Người này hành trì yếu kém, không được Phật đến đón rước, chỉ vãng sinh thẳng. Trong phần lợi ích thứ ba, vì người này hành trì yếu kém nên không được thấy Phật, chỉ nghe pháp với Quán Âm, Thế Chí mà đắc quả La-hán. Cho nên gọi là bậc trung hạ.

Kế là quán ba phẩm bậc hạ. Đây ứng với các việc lành từ trước, phạm vi giới hạn khó biết được. Trong đây cũng có nói riêng về ba bậc ở đầu, sau cùng là tổng kết.

Trong phần biệt giải, đầu tiên quán hạ phẩm thượng sinh, cũng trước là nêu chung, kế là giải thích, sau cùng là kết luận, trong phần giải thích có bốn:

  • Nêu bày tội lỗi
  • “Khi sắp qua đời” v.v… trở xuống là nói về nhân lành. Do nghe kinh mà diệt tội, niệm Phật trừ được ác chướng, cho nên được vãng sinh.
  • “Bấy giờ, Đức Phật kia sai vị hóa Phật” v.v… trở xuống: Là nói về sự vãng sinh. Trong đây trước được hóa Phật đón rước. “Nói lời ấy rồi, hành giả liền thấy” v.v… trở xuống: Tùy hóa sinh về cõi kia, trải qua bốn mươi chín ngày, hoa sen mới nở” là nói thời gian vãng sinh, vì tội nhẹ cho nên bốn mươi chín ngày thì hoa nở.
  • “Khi hoa nở, Quán Âm đại bi phát ra ánh sáng” v.v… trở xuống: Là nói sinh về cõi kia được lợi ích.

Trong đây, đầu tiên là Quán Âm giảng nói kinh điển sâu xa, sau nói người ấy nghe pháp tin hiểu, phát tâm đắc đạo.

Kế là quán bậc hạ trung: Cũng trước là nêu chung, kế là giải thích, cuối cùng là kết luận.

Giải thích có bốn:

  • Nói tội của người đó.
  • “Người tội như thế vì nghiệp ác” v.v… trở xuống: Là nói nhân lành của người ấy. Nhờ nghe công đức của Phật và giới định,… mà diệt hết tội nghiệp.
  • Lửa địa ngục hóa thành gió v.v… trở xuống: Là nói sự vãng sinh.
  • Trong đây, trước hóa Phật đến đón rước. “Như một niệm trở xuống: là liền hóa vãng sinh”.

“Sáu kiếp hoa nở” là nói về sự vãng sinh lâu mau. Vì người này tội nặng cho nên sáu kiếp sau hoa mới nở.

Quán Âm, Thế Chí nói pháp cho họ nghe, sinh về cõi kia được lợi ích, nghe pháp phát tâm.

Kế là quán phẩm hạ hạ, cũng trước là nêu chung, kế là giải thích, sau cùng kết luận. Trong giải thích có bốn:

Nói lên tội của người ấy: Làm các nghiệp bất thiện, tổng kết nêu ra, gồm năm tội nghịch, …

Năm tội nghịch là: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hiệp tăng, làm thân Phật chảy máu.

Hỏi: Trong Đại kinh nói người phạm năm tội nghịch không được vãng sinh. Ở đây sao lại nói được vãng sinh?

Giải rằng: Vì tùy theo người cho nên nói khác nhau. Nếu đời trước không có đạo căn, nay gây ra năm tội nghịch thì theo lý không được vãng sinh. Nếu trước người ấy có phát tâm Bồ-đề, dù gặp duyên gây ra năm tội nghịch, bốn tội nặng, lại sinh tâm hối lỗi sửa đổi, như các vì vua ở đời, cũng được vãng sinh, cho đến những người tu thiện Đại thừa, có gây ra năm tội nghịch, bốn tội trọng, chê bai chánh đạo.

Danh nghĩa mười điều ác, đầy đủ như đã nêu trên. Nói người bất thiện phạm bốn tội nặng, là phần thứ nhất ở trước nêu tội nghiệp của người.

“Người tội phạm bốn tội như thế, vì gây ra nghiệp ác cho nên bị đọa”: Đây là nói nhân lành. Trong đây có hai:

  • Lại nêu những tội đã gây ra.
  • “Bạn lành bảo” v.v… trở xuống: thuận bày ra những điều được mất, trong đó có hai câu:
  1. Vì nghiệp ác nên đọa vào địa ngục.
  2. Khi sắp qua đời trở xuống được bạn lành dạy bảo, nhưng không chịu niệm Phật. Đây cũng có hai:

Bạn lành khuyến hóa, xưng niệm danh hiệu Phật, đầy đủ mười niệm.

Nhờ niệm Phật, mỗi niệm trừ được tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp.

Đây là đoạn hai, nói về nhân lành.

“Sau khi qua đời, thấy được hoa vàng” v.v… trở xuống là nương điều lành được vãng sinh. Trong đây, trước nói về hoa sen, kế là được vãng sinh, sau cùng nói sinh về nước kia, mười hai đại kiếp sau hoa mới nở. Vì người này phạm tội rất nặng, cho nên mười hai kiếp hoa mới nở.

“Quán Âm, Thế Chí vì lòng đại bi” v.v… trở xuống là nói sinh về cõi kia được lợi ích.

Trên đây đã nói rộng ba thứ tịnh nghiệp, mười sáu pháp quán.

Phần dưới nói về sự lợi ích, lợi ích này có ba thứ:

  1. Phu nhân Vi-đề và năm trăm thị nữ, thấy cõi An Lạc, Phật và chúng Bồ-tát, được Vô sinh nhẫn.
  2. Năm trăm thị nữ phát tâm Bồ-đề, nguyện sinh về Cực lạc. Phật bảo sẽ được vãng sinh.
  3. Các vị trời phát tâm.

Trên đây là phần chánh tông đã xong, dưới đây là phần lưu thông, có hai:

  1. Lưu thông ở cung vua.
  2. Từ “Chân bước” v.v… trở xuống: Lưu thông ở kỳ-đà.

Trong đây có bốn:

  • Nêu danh, dạy hành trì.
  • Từ “Thực hành” v.v… trở xuống là nói ngài Mục-liên nghe pháp vui mừng. Trong phần đầu, A-nan trước thưa hỏi phần phát khởi “Kinh này gọi tên là gì?” Là hỏi đặt tên kinh.
  • Vì nói nghĩa chẳng phải một, nên lấy nghĩa nào mà đặt tên kinh này?

“Pháp yếu này lấy gì để thọ trì” là hỏi về nghi thức thọ trì.

  • “Pháp này rất quan trọng, lấy gì để thọ trì”?

Phật đáp: Tên kinh là: “Quán Cực Lạc Vô Lượng Thọ Phật Quán Âm, Thế Chí” cũng gọi là “Tịnh Nghiệp Sinh Chư Phật Tiền”. Đây là đối với lời hỏi ban đầu “Ông nên thọ trì, đừng để quên mất ” là đối với lời hỏi ở sau.

Đừng để quên mất là nghĩa thọ trì. Từ phần thứ hai trở xuống là nói tu hành được lợi ích. Trong đây, đầu tiên là nói tu hành mười sáu tam-muội quán môn ở trước được lợi ích, hiện thân được thấy Phật Diđà và các Bồ-tát.

“Thiện nam, tín nữ chỉ nghe tên trở xuống là nói lợi ích của việc niệm Phật, Bồ-tát”.

“Chỉ nghe hai tên, trừ được vô lượng tội, huống chi nhớ niệm” là

nói Bồ-tát có lợi ích lớn, nêu kém còn như thế, huống chi là người vượt hơn.

“Như niệm Phật trở xuống là nói niệm Đức Phật kia được lợi ích lớn. Như người niệm Phật là hoa phân-đà-lợi trong loài người, nói thân người ấy tốt đẹp, là hoa đẹp nhất trong các hoa phân-đà-lợi, người này ví như hoa đó, gọi là phân-đà-lợi.

“Quán Âm, Thế chí” là bạn tốt, là nói bạn cao quý.

“Sẽ ngồi Đạo tràng ” là nói sự thành tựu thù thắng.

Tràng là dụ cho nơi chốn, nơi đắc đạo gọi là đạo tràng. Nơi Phật đắc đạo dưới cội Bồ-đề gọi là Đạo tràng. Chỗ này Phật đắc nên gọi là tọa. Nói theo sự thật thì nghĩa có rộng khắp và cục hạn, rộng rãi thì tất cả hạnh đức của Bồ-tát có thể sinh ra Quả Phật, đây gọi là Đạo tràng. Như trong Kinh Duy-ma có nói. Cục hạn thì tam-muội Kim cương cuối cùng, thân sinh ra đức của Phật, gọi là đạo tràng, nương vào đó mà đắc quả, theo nghĩa mà nói là tọa. Sinh vào nhà Chư Phật là sở nhập thù thắng, cũng gọi là chỗ sở y. Không nghĩ Phật pháp là chỗ Phật trụ, gọi là nhà Phật. Từ bậc Sơ địa trở lên, vào trong nhà Phật, nương vào đó mà hành trì, gọi là sinh vào nhà Phật .

Thứ ba: Là khuyến khích hành trì.

Thứ tư: Nghe xong vui mừng.

Trong phần thứ hai nói lưu thông ở Kỳ-xà.

Phật từ hư không trở xuống núi Kỳ-xà-quật. Vì để cho chúng sinh thêm sự cung kính, thuận theo đó mà nói, cho nên biến hóa ra.

A-nan thưa hỏi.

Trời rồng v.v… nghe xong vui mừng làm lễ lui ra.