KINH QUAN SÁT CHƯ PHÁP HẠNH

Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Pháp sư Xà-na-khuất-đa, người xứ Thiên Trúc
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 2: SIÊNG NĂNG ĐỜI TRƯỚC

(Từ Quyển 2 – giữa Quyển 3)

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Hỷ Vương:

–Này Hỷ Vương! Lại nữa, Bồ-tát nên biết, các pháp chẳng nương tựa; nên biết các pháp chẳng phát xuất, chẳng diệt, chẳng tạo tác, chẳng sinh; xa lìa hư dối tự nó không, chẳng bền chắc, chẳng lấy, chẳng bỏ; nên biết các pháp vô thường, khổ, vô ngã, tịch tĩnh; nên biết các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, nên biết các pháp vô ngã, vô chúng sinh, vô mạng, vô phú-già-la (20).

Nên biết các pháp chẳng hòa hợp, chẳng thể tạo tác, không tự thể, không tướng, không có; nên biết các pháp lìa ô nhiễm chẳng vận hành, lìa hý luận chẳng vận hành, đến tối thắng chẳng có nhiều loại (30).

Không hý luận, lìa hý luận, chẳng thể nắm, chẳng giữ, không trú xứ, chẳng đến, chẳng đi, chẳng trụ, không văn tự, chẳng thể nói (40).

Các pháp chẳng thể nói, chẳng thể đem lại, không nghiệp, không báo; nên biết các pháp chẳng phân biệt, không đủ loại phân biệt, đoạn trừ hết phân biệt, các tưởng và niệm đều đã đoạn trừ, vượt trên đời sống cõi trời được qua năm đường, qua khỏi chúng sinh, thắng chúng ma, vượt qua ma phiền não, ra khỏi Ma-la tụ họp, đoạn dứt ma chết, đầy trí vô trước, nắm giữ sắc thù thắng ba đời, được các chúng sinh yêu thích, được sự cúng dường của người trí, có thể thấy được pháp thể ở các pháp, được Nhục nhãn thanh tịnh đến Thiên nhãn sáng, đến Trí nhãn vận hành chẳng động Pháp nhãn, đầy đủ Phật nhãn như trăng hiển chiếu, biết vận hành trong tâm của các chúng sinh, người chẳng siêng năng phải tạo sự xét biết, bỏ những điều đã chấp thủ (50).

Ở trong tam thiên đại thiên thế giới, vì những trời người tạo tác chi thể, thuận theo đế tướng, được địa hạnh thanh tịnh, thông suốt cõi vô ngã, biết đến cõi phát xuất, chỗ của các chúng sinh, phải gần gũi bậc tôn trọng, lìa tăng thượng mạn, có được sức nhẫn vượt qua năm chướng ngại, có thể biết bản tánh danh sắc, giác ngộ thuận theo ngôn từ mà các Đức Phật đã nói, biết rõ ba mươi hai tướng (60).

Với được, chẳng được, tâm có đối tượng thủ đắc đều đã vượt qua cái được của thế gian mà được pháp chẳng nhiễm ở đời, với các chúng sinh sẽ vì họ làm nhà, mở cửa Niết-bàn, khiến cho các chúng sinh vào được thành Vô úy, cho vị cam lộ, diễn nói giáo pháp, tỉnh ngủ phiền não, làm tan phiền não của chúng sinh, đoạn dứt sự chấp trước, các kiến chấp trói buộc… của họ; sáu căn chẳng nhiễm mà vì chúng sinh nói pháp, được pháp môn mười sáu chữ, phát xuất Đà-lani.

Những gì là mười sáu Đà-la-ni đó?

Đó là chữ A là nghĩa chẳng sinh, chữ Ba là nghĩa tối thắng, chữ Già là nghĩa bốn thật, chữ Na là nghĩa biết danh sắc sinh, chữ Đà là nghĩa điều phục, chữ Sa là nghĩa vượt qua chấp trước, chữ Ca là nghĩa chẳng mất nghiệp báo, chữ Ta là nghĩa các pháp bình đẳng, chữ Dà là nghĩa thậm thâm, chữ Tha là nghĩa thế lực, chữ Xà là nghĩa vượt qua sinh lão tử, chữ Xa là nghĩa đoạn sạch phiền não, chữ Tha (Sa) là nghĩa xuất phát cao, chữ Sá là nghĩa trụ, chữ Trà là nghĩa giáo hóa Di-lê-xa ở biên địa (bản chữ Phạm cũng thiếu một chữ).

Này thiện gia tử! Đây là mười sáu chữ đã phát ra Đà-la-ni. Gọi là được Đà-la-ni là nơi sinh ra trí khéo léo biết rõ các pháp vốn tự rỗng không, lựa chọn tâm các chúng sinh, thoát khỏi các phiền não, thông đạt pháp tướng và sự chấp thủ của phàm phu, vượt qua biển lưu chuyển, khéo giảng nói khiến họ hoan hỷ, lập hội pháp thí, khéo sinh ra trí văn tự âm thanh biết rõ được không, ưa giải thoát của Phật; bỏ ái, chẳng ái mà không nuối tiếc, với lập luận khác của các ngoại đạo thì đúng như pháp mà hàng phục; nói như tiếng gầm sư tử, đạt được Phật trí, hưng khởi Pháp thí, bỏ các phiền não, phá nghĩa oán ác, tin pháp luân của chư Phật chuyển, thông đạt được Như cho đến biết pháp, sân hận kiêu mạn đã lìa, bùn đục chẳng nhiễm, điều ngự chúng sinh, trừ khử nhơ bẩn, có thể dùng nước Bi gột rửa, chúng sinh, thống lãnh đồ chúng, thuận được thế lực, vượt qua già chết, nhớ ngàn số kiếp, được pháp tạng tổng trì, thông đạt cõi tịch tĩnh, được Không đẳng trí, thuận giác ngộ pháp tận, đáng được chúng sinh… khen ngợi, đầy vô chướng trí, không còn phiền não, huân tập thuận hạnh, tiêu diệt quân ma, bóng che tam thiên đại thiên thế giới, biết rõ đời trước, chứng Địa Niếtbàn, làm nơi nương tựa, che chở hết người tại gia; biết xứ và phi xứ, chẳng bỏ lời thệ nguyện trước; đối với các chúng sinh rải tâm Từ đầy khắp, biết rõ vô sinh, nghe, ý nhớ nghĩ đều chánh chân, được hương giới Chiên-đàn-na, dứt đường sinh tử, thuận được Niếtbàn, biết các pháp như chạm xúc chữ Na. Này Hỷ Vương! Đó là từ chữ Na trở lên là không chữ. Đó cũng không tên, cũng chẳng thể nói, cũng không có tiếng, chẳng thi hành thiết lập tên, chẳng biết tên gọi. Trong ngôn từ các tiếng đó chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại. Các Đức Phật đó chẳng đã nói, chẳng đang nói, chẳng sẽ nói, chẳng sinh, chẳng xuất. Các pháp tướng như vậy… Bồ-tát nên biết.

Này Hỷ Vương! Lại có mười sáu chữ nhập môn Đà-la-ni. Gọi là giác ngộ hành tướng của chữ là nói Pháp thắng nghĩa, qua khỏi bốn dòng (tứ lưu), nói không có pháp danh sắc, khéo léo bố thí, tự an trụ ở Nhẫn, chẳng nương sáu căn, hành theo sáu Độ, khiến diệt phiền não dục mà vì chúng sinh nói pháp, khéo biết các pháp sai biệt, không được nghi ngờ sâu, nói về xứ, phi xứ, biết vận hành của các chúng sinh, nhịn lời thô ác, xả bỏ da thịt tủy, biết hạnh niệm ý, an trụ pháp giới, biết rõ chữ Na nhập vào hết các pháp.

Này Hỷ Vương! Đây là mười sáu chữ nhập môn Đà-la-ni. Này Hỷ Vương! Nếu Đại Bồ-tát hiểu đúng mười sáu chữ nhập môn Đàla-ni này như chữ A là nghĩa vô sinh, chữ Ba là nghĩa tối thắng chữ Già là nghĩa vượt bốn dòng, chữ Na là nghĩa nói danh sắc, chữ Đà là nghĩa bố thí tự giữ hòa hợp, chữ Sa là nghĩa trí lục thông, chữ Ca là nghĩa chẳng thấy nghiệp báo, chữ Sa là nghĩa các pháp bình đẳng, chữ Dà là nghĩa thậm thâm, chữ Tha là nghĩa thị hiện thế lực, chữ Xà là nghĩa thị hiện sinh tử, chữ Xoa là nghĩa thị hiện sức nhẫn, chữ Xa là nghĩa vứt bỏ phiền não cực ác, chữ Ta-ma là nghĩa tự đại chứng giác, chữ Ta Tha là nghĩa nói xứ, phi xứ, chữ Đa là nghĩa nói tận biên tế… thì những Bồ-tát đó được Tam-muội này tên là Quyết định quan sát hạnh các pháp. Nhờ mười sáu chữ Đà-la-ni này, các Đại Bồ-tát chẳng bị sự quở trách của người trí, bỏ tham dục, sân hận, ngu si, diễn nói đạo đến bờ kia, được bốn Vô úy, thọ thân lực sĩ, cắt đứt cành dục, được sức mười Lực, gặp được diệu âm, diệt trừ phiền não, thọ ký cho Thanh văn, Độc giác, xa lìa ngoại đạo, được Như Lai địa, như lời nói mà làm liền đạt được, chúng sinh cao mạn sẽ khiến cho giải thoát, làm sự nghiệp của Phật, thuận được tụ trí, chúng sinh bị nghi thì đoạn sự nghi hoặc ấy, do sự có hòa thiện nên cùng ở yên vui, tràn đầy đại Bi, vượt cảnh giới ma, tràn đầy tiếng hay, trừ kiêu mạn phóng dật đạt được Nhẫn, giỏi Định sâu, khiến đi qua các cõi mà vì họ nói pháp, ở trong các pháp khiến cho được chỗ cạn vì trụ bờ kia khiến họ đến bờ, biết hạnh của các chúng sinh, biết hạnh phương tiện của các pháp, nhớ vô số kiếp giữ các pháp thể, diệt sạch các ác, thanh tịnh các điều nghi, được không đẳng trí, thuận đến chỗ diệt phiền não, chóng đi lên đạo tràng giác ngộ, trời rồng phải khen ngợi, thuận thông các trí, khéo diệt cháy nóng, nói tự thể của các chúng sinh, ăn món ăn cam lộ, đoạn các nghi hoặc, thụy miên, lìa bỏ sự theo chấp trước và tập khí vốn có, dùng đại Bi ấy che chở các chúng sinh, biết trước đời trước, thấy công đức ở Niết-bàn, thuận hiểu hạnh của phàm phu, được Đại trí bí mật, hủy hoại các niệm khác, kêu loa pháp, khiến trụ Phật trí, vượt chủng loại tướng, sinh ra thông hiểu, biết trú xứ của chúng sinh, có thể khiến cõi Phật hưng thịnh, không bừng cháy phiền não, lìa khỏi già bệnh, chóng có thể thuận hiểu mật ngữ phương tiện, đoạn trừ đường sinh tử, thuận đến Niết-bàn yên ổn, với ác ma chóng có thể hàng phục, thấy Phật Thế Tôn ở trong vô lượng thế giới, lìa tham dục rồi mà nghe pháp, cũng chẳng quên trí, đạt đến cõi Phật như đã mong, khéo biết tự tại, sinh ra các Tam-ma-địa.

Này Hỷ Vương! Đại Bồ-tát nếu được giảng nói Tam-muội Quyết định quan sát chư pháp hạnh này thì nên biết cũng được Nhất thiết trí. Vì sao? Nhưng lúc nào thì Bồ-tát đó muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Hoặc một đời, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc mười, hoặc hai mươi, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc trăm ngàn đời, hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp… cho đến muốn vào thời gian lâu thì Bồ-tát đó cũng lâu mới được giác ngộ. Dùng nguyện tự tại, ở trong lưu chuyển, đến tận bờ cõi kiếp sau cùng. Vì sao? Nhưng về sau, tự tại ở trong các pháp.

Khi Đức Phật nói pháp căn bản phẩm Đà-la-ni tự môn này, ba mươi hai ngàn Bồ-tát đạt được Nhẫn. Lúc đó, tam thiên đại thiên thế giới này chấn động sáu cách. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng:

Không lẫn, không đục, không uế tạp
Chẳng phải đường đi đến cam lồ
Ứng Thiên Địa Cúng, không ai sánh
Trì phương tiện này, hành mười Lực.
Tạo vui xa oán, diệt phiền não
Mặt như hoa nở, người trời vui
Bậc Ứng Thắng, đức độ cho đời
Trì phương tiện này hành mười Lực.
Trừ diệt chúng khác, khéo hạnh khác
Người trời quý trọng, ý khác tan
Phân biệt hạnh khác, ý khéo khôn
Trong đạo này hành hạnh mười Lực.
Có, chấp, bất Như đều bỏ hết
Xét hiểu người trời, ý quyết Như
Hạnh sáng như trăng trong không trung
Bậc hạnh Hữu nhãn, hạnh bậc Trí.
Người trời thương yêu người ý đó
Chẳng ưa cảnh giới, không lầm lẫn
Giảng nói trong chúng, hàng trăm hạnh
Hạnh bậc Trí này soi các hướng.
Được mười, hai mươi… lại có hai
Người, trời cúng dường, tướng vi diệu
Được, mất chẳng chấp, lìa cả hai
Do được hạnh này soi mọi hướng.
Thí chủ cam lồ khéo bố thí
Thường cùng trâu chúa, báu thù thắng
Sức lớn mười lực, hàng lực khác
Chẳng lâu được hạnh người trí ấy.
Được nhiều đức, niệm, ý thù thắng
Diệt trừ nhiều khổ được nhiều vui
Nhiều người tôn trọng, khéo phụng thờ
Học trí này, vui công đức Phật.
Như trâu chúa, chẳng lâu hàng phục
Diệt trăm phiền não, lìa thiêu đốt
Bay đường hư không, qua trăm cõi
Hành phương tiện này soi các hướng.
Niềm tin khéo thế gian tin tưởng
Ý tin, thẹn niệm không ai bằng
Trừ trăm đắm trước tạo hương đời
Trì phương tiện này, chứa trăm đức.
Phân biệt nhiều đức, trừ ba cấu
Đó có lời mỹ diệu thấm nhuần
Giỏi nói trăm phần trong trời đất
Trì đức này tài không ai bằng.
Độ người trời, trụ thành vô úy
Lời nói Như, rũ sạch phiền não
Thực hành theo Như, không phiền não
Trì phương tiện này, hạnh mười Lực.
Tài sản cam lồ được tiếng khen
Đức không ai sánh được hành
Như Ý Như, người trời, lời nói Như (?)
Người trí học đạo cam lộ ấy.
Không bụi trần, soi khắp mười phương
Thoát mạn, chúng sinh thẳng không cong
Đến thành vô úy, lìa kiêu mạn
Trì phương tiện này, hạnh mười Lực.
Giáo hóa người trời bằng ngôn thuyết
Chẳng vui thích dục, thích pháp chân
Nói làm, người làm, nói trăm hạnh
Học phương tiện này, bậc thiện ý.
Tịnh chúng sinh hạnh, ý bình đẳng
Nói thiện hợp, thiện mỹ, thiện hành
Trong các pháp khéo thường cùng vui
Hành phương tiện này ưa cam lộ.
Lực ác ma, chẳng lâu hàng phục
Trừ bỏ cấu uế, ba cấu tan
Hành ở Địa này thêm tài sản
Trì phương tiện ấy, hạnh mười Lực.
Ở cõi thù thắng vượt đường ác
Chúa thú voi ngựa, người buông lung
Khen đức, trì đức, đủ trăm đức
Chẳng lâu được hạnh người trí ấy.
Hành xử khéo léo, chẳng chấp có
Thị hiện thế lực quyết định hơn
Đến đất, trụ nước cấu bẩn tan
Như học hạnh này, hạnh mười lực.
Bỏ thành cùng đất đai thôn xóm
Bỏ ái, chẳng ái, cảnh chẳng yêu
Bỏ cây quý, bỏ người oán thù
Người trí học đây, lực quyết tiến.
Nhớ nghĩ nhiều trăm kiếp quá khứ
Nhớ chết và sinh trong các đời
Và nhớ pháp thuở trước đã nghe
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Đuốc pháp cháy rực, thường khiến
“Hữu” Bố thí pháp vui, pháp tài sản
Và luôn giữ gìn hạnh mười Lực
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Trụ Xa-ma-tha, ý Từ bi
Chỉ ý tịch tĩnh, căn tịch tĩnh
Tịnh giới, tiếng ái ngữ ngọt ngon
Trì Tam-ma-địa này phải có.
Như tê giác đi, không ngã sở
Được đến phương nhàn cùng đạo nhàn
Theo chỗ trụ, lìa tám chẳng nhàn
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Với niệm giác tri, hạnh tự tánh
Cũng sẽ biết pháp tận thiện xảo
Lực kham nhẫn tối thắng hiện lên
Trong này học hạnh nghĩa thù thắng.
Nên được các thế gian tán thán
Được hàng trăm trời sẽ ngợi khen
Chỗ làm, người làm đều lặng yên
Ở biển trí này trụ thân cận.
Dấu chân chim bay sẽ thuận theo
Dược tịch diệt với các não phiền
Phương tiện đó, các ma chẳng làm
Tịnh này khó thấy, siêng tương ứng.
Nói giác quyết định, hạnh Thiện Thệ
Tạo vô hữu, bứng hữu ái lên
Thường được người trong đời cung phụng
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Người đoạn đã hợp với tịnh ấy
Đoạn xong phiền não, chiếu ba cõi
Tạo nên bóng che khắp mọi nơi
Như trì Thắng Tam-ma-địa này
Nghĩ đến hạnh mình và người khác
Rồi vì họ nói thuận theo hành
Hạnh không kiêu mạn, hạnh thù thắng
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Có thí xả rồi, điều phục ý
Cõi Thiện Thệ đi đến mau chóng
Nói vô úy, ban cho vô úy
Được định tối thượng thù thắng này.
Ở trong các đời làm người thân
Lầm lẫn khỏi rồi lại hiểu thông
Họp chung nói bàn thật khéo léo
Như người tu hành Tam-muội ấy.
Thân bằng kim cương hợp nhất lại
Mau chóng phá tan các quân ma
Thuần pháp tịnh soi không bợn nhơ
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Thị xứ là chỗ đáng an trụ, phù hợp
Chỗ chẳng nên trụ như ý trên
Đối xứ, phi xứ có khéo léo
Như người giữ được định ý này.
Không chấp giảng nói công đức Phật
Phát sinh ra trăm ức hiểu biết
Kia chẳng chính ý không nghi ngờ
Thắng định ý này có thể giữ.
Chóng có thể tin cam lộ đó
Cũng thường tin cùng với người vui
Hộ đời khác khi được quả rồi
Thắng định ý này có thể giữ.
Tự biết rỗng không đối nhóm họp
Kia không lẫn lộn không mê lầm
Đến các hạnh lành trong ba cõi
Tam-muội này, nếu người gìn giữ.
Sẽ được xa lìa bệnh và già
Khéo thẳng ngay chẳng bị hàng phục
Tâm ấy trì giới luôn vui mừng
Như người gìn giữ định ý này.
Cắt đứt cây sinh là Thánh đạo
Mau chạm đến tịch tĩnh Niết-bàn
Đất Di-lê-xa chẳng nhiều thêm
Nếu người gìn giữ Tam-muội này.
Chẳng tự tán dương, lời xảo diệu
Trên mọi đức, công đức lừng vang
Vào chúng, đoan chánh hiện rõ ràng
Như sao Mão, trời, trăng trong sáng.
Chúng quyến thuộc, đủ nhà danh tánh
Người đó gần bà con Thiện Thệ
Tài biện luận đó như Thủy vương
Là Tam-muội này phải gìn giữ.
Pháp hạnh tự tánh tướng vô ngã
Ở trong các đời thuận giác xong
Mau làm chúa dũng kiện ba ngàn
Hạnh bình đẳng kinh này hiếm có.
Cho đến rừng trong ba ngàn cõi
Chủng tánh, ba loại hạnh chúng sinh
Với thù thắng đó được trí tuệ
Siêng năng tương ưng chạm cam lộ,
Dao độc và lửa chẳng xâm nhập
Chẳng sợ cùm trói, các phiền não
Dạ-xoa, La-sát chẳng thể hại
Nếu lòng tịnh tín tương ưng này.
Của không mất, của chẳng ly tán
Không nghiệp báo, không bệnh, không lo
Chẳng câm, chẳng chột cũng chẳng mù
Trì bốn câu này như vậy đó.
Trên Đức Phật, sáu mươi ba ức
Khắp nghĩ đến sự tương ứng này
Chỗ đó nếu cùng tạng Tổng trì
Tịch này khó thấy đã tương ứng.
Nếu muốn mau chạm đến Bồ-đề
Nếu muốn lấy đức yên ổn hơn
Nên khiến tu kinh thù thắng này
Thì các mong cầu đều đầy đủ.
Kia đã nghe niềm vui thiện hỷ
Nếu người ở trong cầu Bồ-đề
Siêng năng tương ứng bốn ngày qua
Người ấy sẽ được định thù thắng.
Tám mươi ức ở trên Đức Phật
Còn hơn sáu mươi na-do-đa
Đều nghĩ cùng với tương ứng này
Chuyên tu, tụng Tam-ma-địa này.
Nếu nghe thiện này, được lợi ích
Nghe rồi nếu có thể tin hiểu
Trong công đức Phật, không nghi ngờ
Như đến Bồ-đề, trì như vậy.
Do đã nghe nói thật hạnh này
Không được không đức chớ biếng lười
Các phước nhất định đến trong tay
Như trì kinh này hoặc ghi chép.
Ta nhớ trước đây vô số kiếp
Có Bậc Tối Thắng tên Biện Tràng
Ngài đã tuyên dương Tam-muội này,
Vương tử Nguyệt Diệu nghe điều đó
Liền bỏ ngôi vua mà xuất gia
Ông ấy nghe một đêm một ngày
Đến lúc chết, trong phần sau này
Lại được sinh đến những cõi khác.
Nghe được kinh đó nhiều như cát
Gặp rồi, lại gặp, rất thù thắng
Các chỗ nghe Tam-muội này xong
Thì trong ba kiếp, chứng Thắng Giác.
Gọi là bậc Bảo Viêm Tối Thắng
Được Phật Nhiên Đăng thọ ký cho
Lợi ích như vậy, nhờ kinh này
Nên đã nghe rồi chớ lười biếng.
Ta nay muốn bảo với đại chúng,
Những điều tốt đẹp của trời, người
Ta ở trong này mở kho báu
Tài sản mười Lực ông lấy đi!

Lại nữa, này Hỷ Vương! Đời quá khứ trước kia, kiếp số chẳng thể tính được lại vượt qua sự lâu xa chẳng thể tính được, vô lượng chẳng thể nghĩ, chẳng thể lường, vào thời đó, có Đức Phật tên là Biện Tài Anh Lạc Trang Nghiêm Vân Minh Xuất Hống Hiển Âm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, xuất thế Minh Hành Cụ Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Giáo Sư, Phật Bà-già-bà (Thế Tôn). Cõi nước của Đức Phật ấy tên là Vô Biên Bảo Công Đức Trang Nghiêm, thế giới tên là Vô Cấu, kiếp tên là Ái kiến.

Này Hỷ Vương! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Biện Tài Anh Lạc Trang Nghiêm Vân Minh Xuất Hống Hiển Âm đó có vô lượng Thanh văn, có bảy mươi hai ức Đại Bồ-tát, những vị ấy đều được Nhẫn, đạt đến địa Quán đảnh.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Ở trong chúng Bồ-tát đó, có vị Bồtát nói pháp tên là Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hý Minh Âm. Vị Bồ-tát đó có vô số hạnh biện tài tàm quý. Ở trong Đà-la-ni, Bồ-tát ấy dạo bước đến tận cùng, được trí ngũ thông. Vị Bồ-tát đó bạch Đức Phật kia, xin Đức Phật quan sát xong mà vì bốn bộ chúng nói rộng rãi Tam-muội Thuyết quyết định quan sát chư pháp hạnh này.

Này Hỷ Vương! Vào lúc đó, có vương tử tên là Phước Báo Thanh Tịnh Nhân Sơ Ái Minh Thanh Tự Tại, hình thể đẹp đẽ, đoan nghiêm của vương tử đó có thật đáng nhìn, sắc đẹp thanh tịnh tối thắng, thành tựu mỹ mãn, từ lâu đã phát khởi hạnh Vô thượng Chánh giác.

Này Hỷ Vương! Vương tử Phước Báo Thanh Tịnh Đa Nhân Sơ Ái Minh Thanh Tự Tại đã nghe Bồ-tát Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hý Minh Âm nói pháp tên là Tam-ma-địa Quyết định quan sát chư pháp hạnh. Nếu Bồ-tát vào trong thôn, thành, ấp, làng xóm, kinh đô của vua mà giảng nói thì vương tử đó luôn ở bên cạnh để nghe Tam-ma-địa này. Nghe rồi, vương tử đó rất vui mừng, yêu thích vừa lòng, lại sinh thiện ý đi đến chỗ vị Đại Bồ-tát nói pháp đó. Đến rồi, vương tử đảnh lễ dưới chân, tôn trọng, cung kính chắp tay mà trụ trong Tam-ma-địa này. Vương tử ấy lại vui mừng nhiều hơn nữa, muốn nghe Tam-ma-địa này, vị nói pháp đó lại biết vương tử kia có lòng tin thanh tịnh nhiều hơn, nên lúc đó lại nói rộng rãi Tam-ma-địa này.

Này Hỷ Vương! Như vậy, vị vương tử đó ở bên vị nói pháp kia nghe Tam-ma-địa này xong lại vô cùng hoan hỷ, yêu thích thỏa lòng, rồi lại sinh thiện ý, đem áo đang mặc dâng cúng, nói lời như vầy: “Ngài khiến cho chúng sinh được báu Tam-ma-địa này.” Nhờ căn lành bố thí cho vị nói pháp kia, nên ở trong pháp hiện tại, vương tử đó thờ những Đức Phật nhiều như số cát tám mươi sông Hằng, ở bên các Đức Phật Thế Tôn đó, được nghe Tam-ma-địa này, đều tạo sự cúng dường tối thắng đến chư Phật, ở trong giáo pháp của các Ngài, xuất gia giữ gìn chánh pháp, ở các chỗ chẳng nghe trăm ngàn ức kinh điển đều có thể giảng nói, sinh ra ý niệm luôn tròn đầy, thọ sinh biến hóa được trí ngũ thông, được Đà-la-ni, biện tài trôi chảy. Vương tử đó thuận theo thứ lớp hành các pháp trợ Bồ-đề. Mãn rồi, vương tử đó, ở trong cõi Phật Vô Biên Công Đức Bảo Trang Nghiêm, chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sống lâu không lường, chúng Thanh văn không lường, chúng Bồ-tát không lường, ánh sáng không lường, nguyện công đức trang nghiêm không lường.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Trong thời đó, vị nói pháp tên là Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hý Minh Âm, ông chớ nghĩ là ai khác, Vì sao? Này Hỷ Vương! Vì đó là Như Lai Đại Nhãn vậy. Vị ấy đã được Đức Như Lai Bất Động thọ ký Bồ-đề. Lại vương tử tên là Phước Báo Thanh tịnh Đa Nhân Sở Ái Minh Thanh Tự Tại kia chính là Đức Như Lai Vô Lượng Thọ ấy, tức là vương tử lúc đó vậy.

Này Hỷ Vương! Vương tử đó nghe Tam-ma-địa này xong thì nghiệp chướng của bảy mươi ngàn kiếp đều diệt hết, liền được pháp môn Phân biệt chư pháp cú phẩm xuất vô biên gọi là Đà-la-ni và chẳng xa lìa Tam-ma-địa cho đến đạo tràng Bồ-đề.

Này Hỷ Vương! Nhân duyên như vậy nên ông phải biết, Tamma-địa này ở chỗ các Đại Bồ-tát như vậy tạo nhiều thanh tịnh, chuyển các nghiệp chướng, trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh, chuyển công đức, mau tròn đầy vận chuyển Phật pháp.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Đời quá khứ xa xưa, kiếp số chẳng thể tính được lại vượt qua sự xa xưa chẳng thể tính, vô lượng chẳng thể nghĩ, chẳng thể lường, vào lúc đó, có Đức Phật hiệu là Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Xuất Thế Minh Hành Cụ Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Giáo Sư, Phật Bà-già-bà.

Này Hỷ Vương! Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng đó đã có một cõi Phật công đức trang nghiêm mà ta hôm nay chẳng thể ở trong một kiếp, giảng nói rộng hết được vô lượng công đức như vậy để trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh. Chúng Đại Bồ-tát, ở trong Phật pháp đều trụ vững chắc.

Này Hỷ Vương! Vào lúc đó, có con ông trưởng giả tên là Hiển Diệu Quảng Thân. Ông đó đi đến chỗ Đức Như Lai Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng. Đến rồi, ông đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn đó, rồi đem vô lượng chuỗi ngọc báu ma-ni có hàng trăm ngàn ngọc xen lẫn để cúng dường Đức Phật đó rồi đứng trước Đức Phật vì muốn được nghe pháp. Đức Như Lai đó biết ông ấy đã có lòng tin thanh tịnh nên giảng nói Tam-ma-địa này, lúc đầu, đoạn giữa và về sau.

Này Hỷ Vương! Như vậy, con ông trưởng giả đó ở bên Đức Phật kia nghe Tam-ma-địa này xong rất đỗi vui mừng, yêu thích, thỏa lòng rồi phát sinh thiện ý, được pháp lực lớn. Được pháp lực rồi mà chẳng dùng để cầu trong trời người, ông ấy xả bỏ bảy mươi ngàn phụ nữ, xả bỏ một dũ-xà-na (do-tuần) bốn kho tàng lớn đầy vô số báu, xả bỏ tám trăm vườn rừng, xả bỏ mọi đồ dùng của mình, ở trong giáo pháp của Đức Thế Tôn đó, cạo bỏ râu tóc, mặc áo casa, dùng niềm tin xuất gia, bỏ nhà mà tu hành.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Con ông trưởng giả đó, lúc còn ở nhà, đất chẳng trải vải thì chẳng bao giờ đạp chân xuống. Khi đã xuất gia rồi, trong mười ngàn năm, vẫn chẳng trải vải thì chân chẳng đạp đất, chẳng ngồi, chẳng nằm, chỉ trừ khi thọ dụng bữa ăn. Trong mười ngàn năm, ông ngủ nghỉ chẳng lâu, cho đến trong khoảnh khắc gảy móng tay cũng chẳng từng phân biệt dục, phân biệt sân, phân biệt hại. Trong mười ngàn năm, ông luôn nhất tâm đối với Biến trí tương ứng phát khởi tu hành tinh tấn, được Đà-la-ni Chư từ thanh nhiếp chư Phật ngữ danh, thành tựu Đà-la-ni Phổ âm nhập môn danh. Ông ấy mạnh mẽ tinh tấn đầy đủ như vậy nên mới có sáu mươi ức chư Thiên ở chỗ vị Bồ-tát đó siêng năng cung cấp, hợp với ý Bồtát, khiến cho thân tâm Bồ-tát ấy an vui, đủ khả năng tinh tấn. Con ông trưởng giả đó xuất gia rồi, tinh tấn mạnh mẽ như vậy, được nghe Tam-ma-địa này nên chín mươi chín ức trăm ngàn kiếp lưu chuyển đều quay lưng bỏ hết, hiện tại gặp được bảy mươi ngàn Đức Phật. Có những chỗ, lúc đi xuất gia rồi, ông ấy thọ trì, đọc tụng, tư duy Tamma-địa này, vì người khác giảng nói rộng rãi, lại phát khởi tu hành tinh tấn chẳng hành động buông lung, thành tựu được Tam-ma-địa này, ở trong tám kiếp chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt được tướng trang nghiêm công đức của cõi Phật như vậy như cõi Phật của Đức Thế Tôn Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng Như Lai đó. Ta nay thấy ông ấy ở trong địa phận phương Nam, qua khỏi đây bốn mươi bốn trăm ngàn cõi Phật, có thế giới tên là Đại trang nghiêm. Vị ấy ở trong cõi đó làm Phật hiệu là Thiện Ý Hỷ Lạc Như Lai, đang nói pháp cho vô lượng chúng Đại Bồ-tát tụ tập tính chẳng thể hết.

Này Hỷ Vương! Các vị Đại Bồ-tát đó nếu muốn mau chóng đối với các pháp thuận theo được tự tại thì phải nghe, phải trì, phải nói, phải nhớ nghĩ Tam-ma-địa này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại muốn khen ngợi công đức của Tamma-địa này nhiều hơn nữa nên liền nói kệ khen ngợi:

Ta nhớ đời trước vô biên kiếp
Giống như vô lượng cát sông Hằng
Có bậc Trí dẫn đường thế gian
Các phương nghe vang tiếng biện tài.
Có Tỳ-kheo trong pháp tối thắng
Bậc trí nhân trì pháp, nói pháp
Đức Phật giảng định tịch tĩnh này
Bên Phật, vương tử đã nghe nhận.
Liền đem áo mình mà cúng dường
Hồi hướng đạo Bồ-đề tối thắng
Lại gặp vô biên những Đạo sư
Được đạo, hiệu là Vô Lượng Mạng.
Trước kia có tuệ tạo tác nghiệp
Đều hết không còn, không nghiệp báo
Nghe Tam-muội vi diệu này xong
Người có biện tài đủ công đức.

Người nào lúc đời sau
Nếu có muốn cầu đạo
Phải nên nghe định này
Tự sẽ trừ các ác.
Lại Phật Vô Cấu Nguyệt
Nói Tam-ma-địa này
Con trưởng giả nghe rồi
Chọn lấy hạnh xuất gia.
Mười ngàn năm ông ấy
Tư duy Tam-muội này
Chân chẳng đạp không vải
Cũng chẳng vào ngủ nghỉ.
Đạt được Bồ-đề này
Chỉ có cùng nghe nhận
Chẳng ưa ở trong nhà
Cũng không muốn tài vật.
Ông đến các cõi Phật
Ở đó đều nghe xong
Các hạnh đã nhập môn
Chẳng lâu được giác ngộ.
Tâm trước, kia thỏa mãn
Cũng đầy xe ý kia
Mau chóng được Bồ-đề
Sao chẳng siêng năng tu.
Đời vị lai về sau
Nhiều người cầu Bồ-đề
Không tài sản, không vui
Hành xuất gia chẳng tham.
Giận mắng mà kêu trách
Hủy nhục nói lời ác
Mỗi mỗi đều nghe xong
Mà nói sẽ làm Phật.
Khổ hàng ngàn chẳng một
Nhịn chịu vì dục thôi
Vì dục làm tôi tớ
Mà nói sẽ làm Phật.
Trong mơ đã thấy Phật
Kia tạm được hồi sinh
Với người thường khi nhờn
Bồ-đề ta chẳng nghi.
Đã nghe xong kinh này
Tiếng nói, nghĩa chẳng thông
Mà chấp là trong lòng
Chẳng lâu sẽ làm Phật.
Những người nghe kinh Phật
Nếu đã nghe đây xong
Thì họ không chấp trước
Như gió thổi không trung.
Có người xuất gia rồi
Cầu Bồ-đề nhiều hơn
Vì tri thức nên sân
Mỗi mỗi mà sinh khởi.
Kia nghèo cùng phước thiếu
Nghe ít liền vui mừng
Người có tâm lừa dối
Ta tới bờ Bồ-đề.
Đã được cõi thấy sáng
Chúng sinh mà cúng dường
Do đây thiếu vui mừng
Biết sẽ đến Bồ-đề.
Bồ-đề đó xa lắm
Nếu dua nịnh ghét ghen
Ta đạt trí đôi lần
Thì càng xa Tối thắng.
Đã nghe kinh điển này
Biết sẽ được Bồ-đề
Thấy cõi Vô Lượng Thọ
Sẽ chẳng lâu làm Phật.
Bồ-đề đó xa lắc
Có thấy được chỗ nương
Mà lòng chẳng tương ưng
Thì ta chẳng thọ ký.
Con ông trưởng giả ấy
Của cải đã bỏ lìa
Về sau đã xuất gia
Làm người đi khất thực.
Như được Tam-muội này
Ở chỗ Phật Nhiên Đăng
Nếu nghe khéo tu hành
Chẳng lại sinh ái dục.
Kia cạo tóc xuất gia
Lợi tri thức buộc ràng
Trong biển chấp gánh gai
Mà xả bỏ trân bảo.
Trong nghe chẳng thanh tịnh
Không giới, chẳng xuất gia
Tu hành đạo Bồ-đề
Kia chớ nên buông thả.
Sau này nếu có chỗ
Nói pháp phải lắng nghe
Người kia vì tri thức
Lại làm chẳng khen nói.
Ở trước phải lễ bái
Và khen ngợi điều lành
Vậy tung áo cúng dường
Lại làm chẳng khen nói.
Khóc lóc rơi nước mắt
Cung phụng đối tự thân
Kia ở trong đại chúng
Mà nói ác hạnh ấy.
Chẳng kính A-xà-lê
Chẳng trong người thân cận
Vì thiếu mà phá nhau
Do nhà mà ganh ghét.
Chỉ tin phước người khác
Đức mình chẳng nghĩ suy
Độc ác sẽ sinh sôi
Biết người khác giàu cúng,
Hương hoa, bột thơm, cờ
Lọng, phướn cùng tràng hoa
Tấu nhạc… cúng dường ta
Rằng: Sẽ được Bồ-đề.
Đây, thật cúng dường ta
Nghe thắng định này rồi
Lợi, tri thức bỏ rơi
Tu hành thì tương ứng.
Sao cúng dường thân mạng
Các tụ ta bỏ xong
Nên cúng dường Pháp thân
Cũng như cúng thiện thật.
Mạng quý đã bỏ hết
Trú ngụ A-lan-nhã
Kinh này tụng niệm luôn
Đến hết đời sống này.
Này Hỷ Vương! Ta bảo
Tu theo điều đã nghe
Không cùng bè đảng đây
Dua nịnh làm phe đảng.
Ở trong ta chẳng khen
Trong chúng phải nói rằng:
Đây thật! Đây chẳng chân!
Ở trong chớ muốn tin,
Chẳng chấp các cảnh giới
Muốn chứng Phật Bồ-đề
Đạt được các hạnh kia
Thì Bồ-đề xa lắm.
Thần thông ta đã chứng
Sức đại thể thấy đây
Các loại cấm giới này
Ta đã tu hành được.
Thích giới mà phân biệt
Trong chúng tợ thú hoang
Lợi, tri thức bỏ xong
Ở riêng nơi thanh vắng.
Ta không có chỗ đó
Lời ta nói chắc thật
Đời mạt thế sau này
Phú chúc ông Kinh ấy.
Vô Lượng Thọ phóng quang
Và Bất Động Pháp Vương
Sáu mươi ba ức Phật
Chúng hội đã thấy hết.
Giáo sư phú chúc cho
Khiến hộ pháp về sau
Như kinh này, trí ấn
Về sau ta trì khắp.
Ba ngàn cõi chấn động
Chư Thiên khen: Lành thay!
Có nhiều hoa mưa xuống
Khi nghe phú chúc này.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hỷ Vương cùng ba mươi ngàn vị Bồ-tát nghe những sự phá diệt của chánh pháp sau năm mươi năm vào đời mạt thế như trên thì trào nước mắt, thân thể rúng động, nổi da gà, toát mồ hôi, liền đứng dậy, sửa áo bày một vai, gối phải quỳ xuống đất, hướng về Đức Phật chắp tay, cùng nghẹn ngào mà bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Về sau, năm mươi năm trong đời mạt thế, lúc chánh pháp tiêu mất, lúc trong đó tai nạn lớn đến, lúc mỗi mỗi đều tan nát, lúc người nói pháp bị bức bách, lúc biến trí diệt, lúc pháp thiện tan, lúc rỗng không, không mạng sống, lúc chánh pháp bị hủy diệt, lúc chánh pháp bị bài báng, lúc ngôn ngữ thiếu trí hiện lên, lúc tạp thoại cùng ở dẫy đầy, lúc dùng việc ác tìm sự sống, lúc mỗi mỗi hành động chẳng khen ngợi, lúc nghi thức trang nghiêm của ma tăng trưởng, lúc trong đó chuyển bức não lớn…

Bạch Thế Tôn! Lúc đó, chúng con sẽ bỏ thân mạng mình và bỏ những niềm vui tri thức, như loài tê giác ra đi, hoặc trong rừng, hoặc trong rừng nhỏ, lìa khỏi các ái chấp trước. Chúng con ở chỗ có những kinh như thế này, giữ lấy trí Như Lai, đạt đến trí đại pháp thể, lấy chủng tánh làm kho tàng, chẳng làm điên đảo hạnh đã ấn chứng, nhiếp lấy vô lượng căn lành và kinh Đà-la-ni đã được ấn khả, đả phá các luận ngoại đạo, giác ngộ Biến trí, giữ gìn chánh pháp, thị hiện những niềm vui của chúng sinh. Chúng con đều sẽ ghi chép, đọc tụng, thọ trì, giảng nói kinh này.

Bạch Thế Tôn! Chúng con chấp nhận chịu ở Nê-la-gia (địa ngục) vì kinh báu Tam-ma-địa này! Chúng con cũng lại chẳng bỏ Như Lai, Pháp, Tăng và chẳng bỏ Vô thượng Chánh giác.

Bấy giờ, các vị Đại Bồ-tát do Bồ-tát Hỷ Vương đứng đầu, đồng thanh một lòng ở trước Đức Phật và chư Thiên cùng thế gian, nói lên tiếng gầm sư tử Đại pháp Vô thượng xong, liền nói bài kệ khen ngợi:

Biết rõ tâm chúng con
Con muốn cầu Giác ngộ
Không có đèn sáng khác
Chỉ trừ Đấng Trượng phu.

Tâm chúng con tự nhiên biết rõ
Con muốn cầu trí Phật thù thắng
Con trong ba cõi không chứng khác
Người vượt mọi đức đến bờ kia.

Thân mạng đã bỏ đi
Không ai trên Lưỡng Túc
Thọ trì Tam-muội này
Về sau, lúc kinh sợ

Với thân chẳng tiếc, lìa mạng mình
Lợi lạc thân gần đều bỏ hết
Hành Tam-muội không phiền não này
Về sau khó bị gặp ác lớn.
Hoặc chẳng thể lường vô lượng kiếp
Trụ Nê-la-gia sợ ác khổ
Thọ trì Tam-muội không phiền não
Con sẽ chịu đựng trong mọi thời.
Khổ não như vậy không bờ bến
Ở địa ngục, khốn không ai cứu
Trì thọ Tam-muội thanh tịnh này
Khổ ác hại con đều cam chịu.

Con ở trong kham nhẫn
Chẳng động bền tinh tấn
Con mời các chúng sinh
Pháp thí chẳng xin vật.
Mình lợi, chúng sinh lợi
Đồ cúng, các của cải
Tiếng tốt và khen chê
Con đã nhẫn, xả bỏ,
Con thỉnh các sinh chúng
Thật pháp, chẳng cầu vật
Con nói pháp rộng rãi
Chúng sinh đủ no pháp.
Thanh tịnh đã có rồi
Sẽ làm hạnh Bồ-đề
Sẽ tạo nhiều nghĩa lợi
Vì xót thương chúng sinh.
Da, thịt và cả xương
Tủy, máu đều khô khan
Con sẽ chẳng lười biếng
Vì thấy chúng sinh khổ.
Da thịt và da mỏng
Và máu con khiến khô
Con nay bỏ thân này
Chẳng sinh tinh tấn nhỏ.
Thấy này chúng sinh khổ
Phải bệnh, trong lo sợ
Sẽ khiến qua biển khổ
Trên đất yên không sợ.
Con trụ A-lan-nhã
Các ái đã lìa bỏ
Tâm từ đã đầy khắp
Ban vui, khiến không nóng.
Rừng nhàn A-lan-nhã
Con ở nơi thanh vắng
Xa lìa lời nói tạp
Chẳng cùng với ái kia.
Con sẽ có tâm Từ
Ban vui cho chúng sinh
Và cam lộ thù thắng
Được thuốc hay, lành bệnh.
Nếu người chẳng học theo
Lìa lời nói chân thật
Con sẽ trụ tu hành
Theo lời nói trong Kinh.
Chúng con chẳng theo họ
Thuận học tập hạnh đó.
Nếu chẳng phải hạnh phàm
Chẳng thật lìa đạo chân.
Chúng con sẽ luôn trụ
Trong cảnh giới thật ngữ
Giảng nói như Kinh này
Con sẽ có ý kia.
Con sẽ chẳng buông lung
Như điều Đức Phật biết
Ban sức cho chúng sinh
Ở trong, con đi trước.

Con sẽ thường có chẳng buông lung
Như Thắng giả biết, Biến trí thấy
Trong các chúng sinh, con cho lực
Con sẽ đi trước trong trí Phật.

Con sẽ vào đám cháy
Nếu ăn thức ăn độc
Chẳng cúng dường tri thức
Chẳng nói Phật Bồ-đề.
Con vì pháp nên rơi trong lửa
Ăn thức ăn độc con vào khổ
Lợi, tri thức chẳng bị buộc ràng
Vô thượng Bồ-đề chẳng tuyên dương.

Nếu ma nhiều vô lượng
Làm chướng ngại bên con
Đã bỏ các chúng ma
Sẽ làm vua thế gian.

Các ma trăm ngàn chẳng thể lường
Ở trong, chúng làm con chướng ngại
Không não phiền, con đều lìa xong.
Thế gian sẽ sinh vua Vô thượng.

Lại nữa, trong khi Đại Bồ-tát Hỷ Vương dùng tiếng gầm sư tử để giảng nói thì tam thiên đại thiên thế giới này, chấn động sáu cách, ánh sáng lớn soi khắp thế gian, các chúng sinh đều dùng hoa tung lên trong hư không nhiều chẳng phải một lần. Chư Thiên có đến ức ức trăm ngàn người, phát ra tiếng khen ngợi, lại tấu lên vô lượng vô số ức ức trăm ngàn âm nhạc và nói lên lời như vầy: “Vị Đại Bồtát Hỷ Vương này, chẳng bao lâu nữa sẽ hướng về Bồ-đề đạo tràng, sẽ gầm lên lời nói sư tử của Như Lai như tiếng gầm của Như Lai trước chư Thiên và loài người”.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở chỗ của Đại Bồ-tát Hỷ Vương, ban lời khen ngợi:

–Rất hay! Rất hay! Này Hỷ Vương! Ông có khả năng giữ gìn chánh pháp, phát ra tiếng gầm đại sư tử vô thượng này! Như ông đã ở bên các Đức Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, cũng gầm tiếng sư tử như vậy. Này Hỷ Vương! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Chánh niệm suy nghĩ! Ta sẽ vì ông nói về sự sinh khởi phước của Đại Bồ-tát do giữ gìn chánh pháp. Này Hỷ Vương! Ta nay vì ông đưa ra thí dụ. Ở trong ví dụ này, sẽ có một bậc Trượng phu trí giả biết được ý nghĩa của điều nói ra.

Này Hỷ Vương! Như trong phần phương Đông kia có những cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, như vậy trong phần phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Trên, phương Dưới, như vậy trong mười phương và trong các phương phụ đều có những cõi Phật nhiều như cát sông Hằng. Các cõi đó đều làm một vòng tường thành vây quanh. Nhưng tường ấy được đo lường đến bờ mé trời Hữu đảnh, mọi người đều cho là lớn. Dọc ngang trên thành báu lớn ấy đầy dây leo chằng chịt, đầu nhọn buộc vào đứng vững, chẳng gạt mà khiến cho bằng phẳng. Có một vị trượng phu khác sinh ra để phân chia riêng biệt cây dây leo ấy. Nếu vị đó, tay phải nắm lấy những hạt cây dây leo, ném lên không. Những hạt đã ném ấy không rời ra mà chúng tụ lại thành một đám hạt dây leo lớn. Cho đến khi có một ngọn gió thổi đến, như vậy đám hạt dây leo lớn đó bị xao động tan rã, văng đến trong mỗi một cõi Phật khắp mười phương. Nhưng mỗi cõi Phật chỉ rơi xuống một hạt dây leo, nhất định không có hai. Đám hạt dây leo lớn nói trên rơi hết vào các cõi mà mỗi một cõi chỉ rơi xuống một hạt.

Này Hỷ Vương! Ý ông thế nào? Số cõi Phật đó có thể dùng phương tiện để biết được bờ cõi không?

Bồ-tát Hỷ Vương đáp:

–Bạch Thế Tôn! Chẳng thể được vậy! Thưa Đấng Tu-già-đa! Chẳng thể được vậy! Chỉ có Đức Như Lai mới đạt được sự hiểu biết như vậy!

Đức Phật bảo:

–Này Hỷ Vương! Nếu lại có vị Bồ-tát tin hiểu bố thí, ở các cõi Phật nhiều vô lượng vô số, lại chẳng thể tính được, đem bảy báu chất đầy trong đó rồi dùng để bố thí. Nếu có bất kỳ Bồ-tát nào tôn trọng chánh pháp, hộ trì chánh pháp, thậm chí chỉ trong một ngày đêm kham nhẫn vì khiến cho chánh pháp trụ thế lâu dài. Như vậy, phước của vị này phát sinh nhiều hơn phước vị ở trên kia. Vì sao? Này Hỷ Vương! Vì vị ấy ở chỗ một Đức Như Lai để hộ trì chánh pháp rồi, tức là đã ở chỗ những Đức Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai và hiện tại để được hộ trì chánh pháp.

Này Hỷ Vương! Khi xả bỏ các báu thì còn phiền não, còn chấp thủ. Này Hỷ Vương! Lại khi pháp thí thì vô lậu không chấp thủ, các khổ trở nên tiêu diệt.

Này Hỷ Vương! Do đó, nên các ông phải tin hiểu pháp thí, chớ tin vào của cải thế gian. Các ông nên dùng pháp cúng dường để cúng dường cho ta, chớ dùng của cải thế gian để cúng dường, dùng pháp cung kính để cung kính ta, chớ dùng tài vật để cung kính. Vì sao? Này Hỷ Vương! Vì Bồ-đề của các Đức Phật Thế Tôn từ pháp mà ra, chẳng do của cải mà ra.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hỷ Vương bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tôn trọng chánh pháp, chẳng tôn trọng tài vật. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nhất định do pháp nên Đại Bồ-tát chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chứ chẳng phải do tài vật. Lại nữa, tài vật khiến cho phiền não tăng thêm, pháp khiến cho phiền não chuyển biến, diệt tận.

Đức Phật khen Đại Bồ-tát Hỷ Vương:

–Rất hay! Rất hay! Này Hỷ Vương! Ông khéo nói lời nói này! Pháp khiến cho phiền não chuyển biến tận diệt! Lại nữa, này Hỷ Vương! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Chánh niệm suy nghĩ! Ta sẽ vì ông giảng nói! Như Đại Bồ-tát đời trước hộ trì chánh pháp, siêng năng tu tập, chẳng tiếc thân mạng, lìa bỏ các niềm vui và dùng tài lợi tri thức để cung kính, hộ trì chánh pháp.

Đại Bồ-tát Hỷ Vương bạch Phật:

–Như vậy, bạch Thế Tôn! Con rất ưa thích nghe!

Đức Phật nói:

–Này Hỷ Vương! Thuở xưa, ở đời quá khứ, kiếp số chẳng thể tính được, lại trải qua vô số vô lượng, chẳng thể lường, chẳng thể suy nghĩ được, vào thời gian đó, có Đức Phật hiệu là Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương Như Lai, Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Giáo Sư, Phật Bà-già-bà ra đời.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương có tuổi thọ không lường, cõi Phật vô biên công đức trang nghiêm và có bảy mươi ức trăm ngàn quyến thuộc Thanh văn vây quanh cùng với vô lượng chúng Bồ-tát. Tất cả đã phát ra vô biên hạnh, thuận vào pháp giới.

Này Hỷ Vương! Như vậy, Đức Như Lai Thế Tôn Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương ở quá khứ đã diệt rồi. Lâu sau, khi chánh pháp mất đi, có vị nói pháp tên là Vô Biên Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ. Vị ấy tu hành hết các hạnh, được trí năm thông, Tổng trì tự tại, biện tài trôi chảy, thuận vào pháp hạnh. Vị đó đi vào thôn, thành, phường ấp, kinh đô vua… vì chúng sinh nói pháp. Pháp vị ấy nói ra cũng là Tam-muội Quyết định quan sát chư pháp hạnh này, lấy đó làm phát khởi. Vị đó theo thứ lớp đã kiến lập được sáu mươi ức ức trăm ngàn chúng sinh ở đạo Vô thượng Chánh giác. Trong lúc đó, có nhiều Tỳ-kheo xem ra giống như người nhập đạo mặc Phú-già-la, nhưng những người đó chẳng tu Tam-ma-địa này, cũng chẳng thể nhẫn. Họ bị sự trói buộc của ganh ghét xan tham nên ở chỗ vị Tỳ-kheo nói pháp kia, bảo những người trong lãnh thổ cai trị của vua, những thôn, thành, phường ấp, kinh đô chẳng nên nghe biết, chẳng lệnh cho vào, chẳng cùng nói, chẳng gần gũi…

Này Hỷ Vương! Bấy giờ, người nói pháp kia bị đuổi ra khỏi thôn, nhưng lòng không khiếp sợ lẩn tránh, lòng không yếu hèn, lòng không sân động, lòng không vẩn đục, lòng không ô tạp… mà chỉ hộ trì chánh pháp như vậy, chẳng tiếc thân mạng, xả bỏ các tài lợi cung kính thôi. Có vị chúa rừng lớn tên là Nhị Sinh (Nhị sinh là chim vậy. Đầu tiên sinh trứng là một lần sinh, ra khỏi vỏ trứng là hai lần sinh. Phàm loài noãn sinh thì đều có hai lần sinh. Vì chim phần nhiều là noãn sinh nên riêng một mình được hiệu là Nhị sinh) lên tiếng, tung hoa mà đi đến chỗ người nói pháp đó. Đến rồi, vua Nhị Sinh vào ngồi chung với ba mươi ngàn ức Bồ-tát. Cùng đến với vua rừng có Tứ đại Thiên vương… cho đến trời Sắc cứu cánh. Vì nghe pháp nên họ đi đến chỗ ấy. Vị nói pháp đó, ở trong chúng đại thiên mà nói pháp. Bên vị nói pháp đó đầy ắp ba dũ-xà-na (dotuần) trăm ngàn trời người hiển hiện. Vị ấy ở trong chỗ vua rừng đó vì chúng Tứ đại Thiên vương mà nói pháp như vầy, như vầy… khiến cho trăm ngàn trời của chín mươi chín tầng trời chẳng thoái chuyển đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng trăm ngàn Thiên tử chứng được trí kiến đạo. Ở chỗ đó, Tứ đại Thiên vương, chúa của ba mươi ba tầng trời và Phạm thiên, chúa của cõi Ta-bà… siêng đến cung cấp hầu hạ tùy theo sự cần thiết của vị nói pháp đó. Cũng có ba mươi ngàn ức Bồ-tát cung cấp hầu hạ vị nói pháp đó.

Này Hỷ Vương! Vào lúc đó, có vị vua tên là Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm xuất hiện ở châu Diêm-phù. Là bậc Pháp vương dùng pháp, cai trị ở trong bốn châu, tự tại chuyển bánh bảy báu đầy đủ. Này Hỷ Vương! Lại nữa, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm đó đầy đủ một ngàn người con trai, nhưng tất cả đều hóa sinh trong tư thế kiết già, chẳng mất chánh niệm.

Tám mươi bốn ngàn phụ nữ trong cung đều có phạm hạnh. Lại nữa, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm đó thường thuận phạm hạnh, thường vào chánh định. Này Hỷ Vương! Bấy giờ, vị nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ biết tâm vị vua đó đã ở đời trước tương ứng thành tựu, quyết định phát tâm tu hành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong đêm tịch tĩnh, vị nói pháp ấy biến hóa thân mình làm voi Ma-na-bà vào trong vầng trăng, ở trên điện với các quần thần trong cung vây quanh. Rồi từ rừng chúa đó, ông bay lên trong hư không giống như chúa chim ưng mà không vướng mắc, đi đến chỗ vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm. Đến nơi, ông ra khỏi vầng trăng hóa làm hình sắc Phạm thiên, ở trước mặt vị vua đó, trên không trung. Phát ra ánh sáng soi cùng khắp cung điện xong, liền vì vị vua kia mà nói bài kệ tụng:

Chủ đất người chớ làm phi pháp
Vang danh khen ngợi ắt chẳng tăng
Dùng hạnh phi pháp chẳng an vui
Chúa loài người hiện tại không vui.
Chúa đất, trước cũng tu pháp hạnh
Nay được lợi tự tại bốn châu
Không đoạn chủng tánh, hộ pháp mầu
Với pháp hạnh, chúa người hộ trì.
Với mắt chánh pháp nên thuận theo
Chánh pháp hộ xong rất vui mừng
Có nhiều Tỳ-kheo, không trì giới
Bài báng Bồ-đề và Thiện Thệ.
Chúng tôi khởi tu Phật Bồ-đề
Như vậy chúng sinh có kiến chấp
Nếu khi thực hành những hạnh này
Như vậy chúng sinh rơi đường ác.
Châu Diêm-phù này có Tỳ-kheo
Hiệu Vô Biên Tụ Địa Chấn Thanh
Quan sát nghĩa, giảng nói chánh định
Phú-già-la, vô ngã, vô mạng.
Ngài nói Tam-ma-địa tịch tĩnh
Mà Tỳ-kheo bị đời đuổi đi
Trong rừng chúa, Chấn Thanh vi diệu
Tá túc trong đó khéo hộ pháp.
Do trụ rừng đó, khắp mừng vui
Trời Sắc cứu cánh đều đến nơi
Để nghe Ngài nói Tam-muội này
Nhiều ức cõi trời phát hạnh đạo.
Voi chúa, ông muốn đi đến đâu
Nghe biển công đức Tam-ma-địa?
Và vì chúng sinh làm nhiều lợi?
Nay nên đến người nói pháp kia.
Như Lai sinh ra rất khó gặp
Bạn nói chánh pháp lại khó gặp
Chúng sinh cầu pháp càng khó hơn
Gặp người hộ pháp rất khó khăn.
Châu Diêm-phù này, ông tự tại
Vì chánh pháp ông nên hộ trì
Người nói pháp, thường ban vô úy
Như vậy đến trong thành nói pháp.
Nếu lời tôi nói vua thực hiện
Vị lai chắc được nhiều lợi ích
Và vì chúng sinh làm lợi hơn
Thì sẽ đạt được Bồ-đề Phật.

Này Hỷ Vương! Như vậy, người nói pháp kia thức tỉnh vua đó xong, trở lại hư không vào với nguyệt luân, lại đi đến chỗ rừng chúa kia. Vị vua đó nghe sự thức tỉnh này rồi rất đỗi vui mừng, ưa thích, thỏa lòng thì thiện ý lại phát sinh. Qua đêm đó, nhà vua cùng với một ngàn người con và bốn binh chúng cùng rất nhiều dân chúng khác đi đến chỗ rừng chúa lớn Nhị Sinh Chấn Thanh Tán Hoa đó. Đến rồi, nhà vua hướng về chỗ vị nói pháp kia. Vào lúc đó, vị nói pháp đang vì chúng Đại thiên và Đại Bồ-tát giảng nói Tam-ma-địa này.

Bấy giờ, vị vua đó và các con cùng những người vây quanh đều thấy vị nói pháp đó và các vị Đại Bồ-tát liền được niềm vui mừng cùng lòng tin thanh tịnh. Những người đó đem lòng tin thanh tịnh đảnh lễ dưới chân vị nói pháp đó và đảnh lễ dưới chân các vị Đại Bồ-tát kia xong, ngồi về một bên. Những người theo nhà vua đã ngồi xong, vị nói pháp kia vì họ giảng nói Tam-ma-địa này. Những người kia nghe Tam-ma-địa này xong, được niềm tin thanh tịnh yêu thích mừng rỡ. Bấy giờ, vị vua đó đạt được Tam-ma-địa này, trong số rất nhiều người đó có tám mươi bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh giác, một ngàn người con đều cùng đạt được Bất đoạn biện tài.

Này Hỷ Vương! Như vậy, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm vui mừng hớn hở tràn đầy trong lòng, liền đứng dậy, đem hai chiếc áo vô giá dâng lên vị Tỳ-kheo nói pháp đó, các vật dụng của nhà vua đều đem ban cho và bố thí vô úy, tô tức…. cho đến cung cấp, hầu hạ trọn đời, tùy theo sự cần dùng của vị ấy mà dâng y phục, thực phẩm và nói như vầy: “Thưa Tỳ-kheo! Ngài nên đi vào thôn, thành, phường, ấp, vương tôi xin làm thị giả, khiến cho các chúng sinh sẽ được trí này.”

Này Hỷ Vương! Nhà vua kia nói lời như vậy rồi đảnh lễ dưới chân vị nói pháp đó và quyến thuộc xong, đi ra trở về cung điện. Này Hỷ Vương! Bấy giờ, Tỳ-kheo Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ từ trong rừng chúa đó đứng dậy đi ra, rồi vào trong thôn, thành, phường, ấp, kinh đô vì chúng sinh nói pháp. Nhà vua đó ở những chỗ có người đều ban sắc lệnh: “Không một người nào đối với vị Tỳ-kheo mà chẳng kính mến, chẳng vui lòng, chẳng kính trọng, chẳng thân thiện.” Một ngàn người con trai của vị vua đó theo sau vị nói pháp kia, tiếp nối nhau ủng hộ pháp lợi ích. ba mươi ngàn vương tử quyến thuộc khác cũng vì Đại Bồ-tát kia mà làm người hầu hạ sai bảo, tùy theo việc làm của vị ấy mà họ làm cho người được những hạnh vui.

Này Hỷ Vương! Vị nói pháp đó vì thành tựu chúng sinh nên tự thân trì kinh nửa kiếp, khiến cho vô lượng chúng sinh đều đã thành thục ở trong ba Thừa. Nhà vua đó và các con cùng mọi quyến thuộc, hoặc là tôi tớ của các vương tử kia hay người làm thị giả của Bồ-tát đó, ở trong số ấy đều đã phát tâm Bồ-đề. Do nghe Tam-mađịa này và hạnh căn lành đời trước nên họ đều cùng ở trong tám mươi kiếp, phụng sự sáu mươi tần-bà-la (mười triệu) các Đức Phật Thế Tôn ở các nơi họ đều được nghe Tam-ma-địa này đúng như điều họ mong ước mà hộ trì cõi Phật. Ở trong ấy, hoặc có người đạt đến Bồ-đề, hoặc có người hiện thực hành hạnh Bồ-tát vì thành thục chúng sinh.

Này Hỷ Vương! Vị nói pháp tên là Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ. Lúc đó ý ông nghi là ai khác chăng? Chớ thấy như vậy! Vì sao? Vì chính Đức Như Lai Vô Lượng Thọ là người nói pháp lúc đó. Lại nữa, này Hỷ Vương! Lúc đó có vị vua tên là Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm, ông cho là ai khác chăng? Chớ thấy như vậy! Vì sao? Vì chính là Đức Như Lai Bất Động. Này Hỷ Vương! Một ngàn người con của vị vua kia trong lúc đó, ông cho là ai khác chăng? Ông chớ thấy như vậy! Vì sao? Vì đó là những Đại Bồ-tát trong kiếp Hiền này, hay một ngàn vị Phật sẽ ra đời trong đại kiếp Hiền vậy.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Người nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ, lúc đó có ba mươi ngàn Bồ-tát bằng hữu theo sau nối nhau vây quanh. Ý ông nghi họ là ai khác chăng? Ông chớ thấy như vậy! Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát đó ở trong một kiếp, sẽ chứng giác đạo Vô thượng Chánh giác. Này Hỷ Vương! Như vậy hộ trì chánh pháp siêng năng tương ứng với Đại Bồ-tát, vì vô lượng vô số chúng sinh mà làm việc lợi ích và mau chóng được Tamma-địa này.

Này Hỷ Vương! Do đó hoặc ta hiện tiền, hoặc ta diệt độ thì nên thọ trì, đọc tụng, giảng nói, tư duy, vì người khác diễn nói rộng rãi Tam-muội này sẽ mau chóng phá được quân ma.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm cho ý nghĩa này rộng rãi hơn nữa nên liền nói bài kệ tụng:

Với các chúng sinh nếu ban vui
Ngàn ức năm, chẳng thể nghĩ bàn
Phước này chẳng thể ví dụ được
Nếu tâm này sinh nhân Bồ-đề.
Nếu chúng sinh khắp trong mười phương
Đều thành tựu Độc giác thù thắng
Cúng dường họ cả ngàn ức kiếp
Thường ban cho tâm tịnh an vui.
Nếu muốn đạt được Bồ-đề này
Rằng: “Ta sẽ được thành Nhị túc
Trì một kệ Tam-ma-địa này
So với người đó phước nhiều hơn.
Các chúng sinh gặp đời có Phật
Ngàn ức kiếp cúng dường Đức Phật
Họ cũng chẳng sánh được phước này
Nếu một lòng phát tâm Bồ-đề
Hoặc hộ trì đối với Phật pháp
Bốn câu kệ Tam-ma-địa này
Phước như vậy, phi tâm Bồ-đề
Như người hộ trì chánh pháp kia.
Chúng sinh trong thế giới Ta-bà
Hoặc dùng Bồ-đề hóa độ họ
Với người chẳng tin đạo, nghe xong
Thì chẳng sinh ra sợ phước này.
Nếu Bồ-tát bố thí tài sản
Trải qua hằng hà sa ức kiếp
Dùng trân bảo đầy ắp các cõi
Cũng chẳng nghe Tam-ma-địa này.
Như vậy, nếu người trí thọ trì
Bốn câu kệ tụng của định ấy
Thì phước đức tụ nhiều lắm vậy
Chẳng cần nhiều ức kiếp bố thí.
Nếu bậc Thắng giả hộ Bồ-đề
Được định Vô Trần chẳng thể nghĩ
Chẳng thể dùng lời mà nói đủ
Như người có phước trùm khắp kia.
Ở trong sinh tử thấy nhiều Phật
Ý niệm đó chưa từng quên mất
Ở trong đất nước hạnh ưa thích
Tam-muội này nên chép giữ gìn.
Niềm vui của thân như của tâm
Được sinh lên trời gặp bậc Thánh
Vị lai, khổ não chưa từng chịu
Vua Tam-ma-địa tùy hỷ theo.
Ngàn ức pháp môn để thể nhập
Bậc ánh sáng vô biên hứa khả
Ta trụ lực thù thắng nói ra
Cốt do được định Bồ-đề này.
Như được biện tài Tổng trì môn
Được Tam-ma-địa như Thần túc
Bậc trí chứng quả Thánh thanh tịnh
Nếu diễn nói Tam-ma-địa này.
Người trí ra đời trong các cõi
Sẽ được thấy chư Phật hiện tiền
Nghe được pháp Phật thọ trì hết
Tụng, tu tập, giáo hóa do định này.
Nếu được đoan chánh, căn đủ đầy
Ba mươi hai tướng cùng trăm phước
Chúng sinh thấy rồi rất mừng vui
Tụng, tu, giáo hóa do định này.
Người trí tiếng tốt lời ý hay
Có đủ sáu mươi phần âm thanh
Bao gồm tiếng Phật tịnh chúng sinh
Do nghe định này khen lành thay.
Họ sẽ được tuệ lại lanh lợi
Họ cũng được trí, không nhơ uế
Cũng biết rõ tâm các chúng sinh
Nếu trì Tam-muội thanh tịnh này.
Pháp môn hội nhập không một tiếng
Do ở trong ấy chẳng biện luận
Mà đối các tiếng được thiện xảo
Do tụng Tam-muội không phiền não.
Được tâm rộng lớn, chẳng thẹn thùng
Lại được hoan hỷ rất mừng vui
Hỷ lạc đó chưa từng giảm bớt
Do giảng rộng Tam-ma-địa này.
Việc ta thấy rõ như bàn tay
Các ông nên chính tâm dấy khởi
Các ông là con, thuận ta dạy
Phát tu định này sẽ được thành.
Đây có ông hứa, ta giảng nói
Các ông tâm tịnh làm tương ứng
Ta trụ đến nay nên siêng tu
Chớ để về sau phải buồn khổ.

Pages: 1 2 3