KINH PHẬT TẠNG

Hán dịch: Đời Dao Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 1: THẬT TƯỚNG CỦA CÁC PHÁP

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ngụ trong núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương xá cùng với chúng đại Tỳ-kheo tăng hội đủ, chư vị đều là các bậc được mọi người biết đến và vô lượng vô số chúng sinh Đại Bồtát.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất từ nơi Tam-muội đứng dậy, đi đến chỗ Đức Thế Tôn, trịch áo bày vai bên phải, cúi đầu làm lễ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Đức Như Lai đã giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, làm cho chúng sinh tin hiểu.

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Ông thấy được lợi ích gì mà tán thán nói: Thật là hy hữu! Như Lai đã giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, làm cho chúng sinh tin hiểu.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con ở chỗ vắng lặng đều suy nghĩ: “Đức Thế Tôn giảng nói các pháp không có danh tướng mà dùng danh tướng để giảng nói, nói pháp không có ngôn ngữ mà dùng ngôn ngữ để giảng nói, suy nghĩ việc này nên sinh tâm hy hữu.

Phật bảo:

–Này Xá-lợi-phất! Đúng vậy! Đúng vậy! Việc này rất là hy hữu, hiếm có đệ nhất. Nghĩa là chư Phật thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Xá-lợi-phất! Ví như người thợ vẽ kỹ xảo, vẽ giữa hư không hiện ra vô số sắc tướng, ý ông thế nào? Vị họa sĩ này là hiếm có không?

–Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có.

–Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề, nên giảng tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, khiến cho chúng sinh tin hiểu đích thật là hiếm có. Vì sao? Vì các pháp không có danh và tướng, không có nhớ nghĩ, không có thủ đắc, cũng không có tu tập, không thể nghĩ bàn, chẳng phải duyên dựa, không có hý luận, vì không phải chỗ hý luận có thể dừng nghỉ, không nhận biết, không quan sát, không có đối tượng được thâu tóm, không ở nơi tâm, chẳng chứng đắc và đối tượng được chứng đắc, không đây, không kia, không có phân biệt, không động, không định, xưa nay tự nó là không, không thể nhớ nghĩ, không thể phát sinh, tất cả mọi người ở thế gian không thể tin hiểu, vì pháp không có danh, tướng như vậy mà dùng danh, tướng để giảng nói. Thế nên, này Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, khiến cho mọi người tin hiểu đích thật là hiếm có.

Này Xá-lợi-phất! Ví như có người nhai nuốt núi Tu-di làm cho tiêu tan hết, bay lên hư không chẳng hề bị ngăn ngạn. Ý ông thế nào? Thật là hiếm có chăng?

–Bạch Thế Tôn! Rất là hiếm có.

–Này Xá-lợi-phất! Chư Phật đã thuyết giảng tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, làm cho chúng sinh tin hiểu đích thật là rất hiếm có.

Này Xá-lợi-phất! Ví như thành lửa ngang dọc, cao thấp đều một do-tuần, bốn cửa phát ra ngọn lửa, người gánh vác cỏ khổ đi vào trong đó, gió mạnh thổi ngọn lửa khiến thiêu đốt thân và cỏ, nhưng người này đã làm cho ngọn lửa không thể đốt cháy cỏ khô và thân mình, ngay trong lúc đó được thoát ra khỏi đều như cũ không khác. Ý ông thế nào? Thật là hiếm có chăng?

–Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có.

–Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã thuyết giảng tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, khiến cho mọi người tin hiểu đích thật là hiếm có.

Này Xá-lợi-phất! Ví như có người lấy đá làm gỗ, từ bờ biển bên này bơi sang bờ biển bên kia. Ý ông thế nào? Thật là hiếm có chăng?

–Bạch Thế Tôn! Rất là hiếm có.

–Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, khiến cho chúng sinh tin hiểu đích thật là hy hữu.

Này Xá-lợi-phất! Ví như có người vác cõng bốn cõi thiên hạ và các núi Tu-di, sông ngòi, cây cỏ lấy chân của con muỗi làm bậc thang để đi đến cõi Phạm thiên. Ý ông thế nào? Thật là hy hữu chăng?

–Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu.

–Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, làm cho chúng sinh tin hiểu, thật sự rất là hiếm có.

Này Xá-lợi-phất! Ví như dùng sợi tơ của ngó sen treo núi Tu-di lên giữa hư không! Ý ông thế nào? Là hiếm có chăng?

–Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có.

–Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, khiến cho chúng sinh tin hiểu đích thật là rất hy hữu.

Này Xá-lợi-phất! Ví như vào thời kiếp tận, lúc lửa lớn thiêu đốt, có người nhổ một miếng nước bọt có thể dập tắt lửa dữ ấy, lại dùng một hơi thổi để hoàn thành thế giới và cung điện của chư Thiên như cũ, theo ý ông thế nào? Rất là hiếm có chăng?

–Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có.

–Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, làm cho chúng sinh càng tin hiểu, thật rất là hy hữu.

Này Xá-lợi-phất! Như sông Hằng rộng lớn là vô lượng chăng?

–Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.

–Này Xá-lợi-phất! Như mưa lớn tuôn xuống khắp bốn cõi thiên hạ, lượng nước mưa như nước nơi sông Hằng, có người dùng bàn tay chận nước mưa lại khiến không còn chỗ chảy xuống. Ý ông thế nào? Là hy hữu chăng?

–Bạch Thế Tôn! Rất là hy hữu.

–Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, khiến cho chúng sinh tin hiểu lại càng hiếm có hơn.

Này Xá-lợi-phất! Núi chúa Tu-di là cao lớn chăng?

–Bạch Thế Tôn! Rất là cao lớn!

–Này Xá-lợi-phất! Như khắp bốn cõi thiên hạ có trận mưa đá lớn đều to như núi Tu-di, có người đưa bàn tay để đỡ lấy những tảng đá ấy, không có rơi lọt, dù nhỏ như một hạt cải. Ý ông thế nào? Rất là hiếm có chăng?

–Bạch Thế Tôn! Rất là hiếm có.

–Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, khiến các chúng sinh tin hiểu, chắc thật là hiếm có hơn.

Này Xá-lợi-phất! Ví như có người đem tất cả chúng sinh đặt trên bàn tay trái, tay phải thì nâng cao tam thiên đại thiên thế giới gồm cả núi, sông, cỏ cây thảy đều khiến cho tất cả chúng sinh ấy cùng nhau vui mừng, tâm luôn ưa thích. Ý ông thế nào? Thật là hy hữu chăng?

–Bạch Thế Tôn! Rất là hy hữu!

–Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi, khiến cho chúng sinh tin hiểu lại càng hiếm có hơn.

Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã giảng nói các pháp là không có

tánh, là không, đều không thực có, tất cả thế gian rất khó tin hiểu. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì pháp ấy là không có tướng, xa lìa các tướng, không có niệm, xa lìa các niệm, không nhận lấy, không xả bỏ, không hý luận, không não hại, không phải bờ bên này, không phải bờ bên kia, không phải đất liền, chẳng phải ngu si, chẳng phải sáng suốt, dùng vô lượng trí tuệ mới có thể biết được, chẳng phải dùng tư duy hạn hẹp để có thể biết được. Vì đây là pháp không hành, không tướng, không não hại, không có ý niệm vượt qua các niệm, không có tâm vượt hơn các tâm, không hướng theo, không chối bỏ, không trói buộc, không giải thoát, không vọng, không phải pháp vọng, không ngu si, không có pháp ngu si, không có lưới nghi ngờ, không có danh tự, không có lời nói, không có thuyết giảng, không phải không có thuyết giảng, không phải tận cùng, không phải không tận cùng, không có hành, không có tướng hành hóa, không có giác ngộ, không có kết quả của giác ngộ, không có xa lìa, vượt hơn những sự xa lìa, không có tư duy, không có kẻ thân người sơ, không lấy không bỏ, không thủ đắc, không thể nắm bắt, trừ các vướng mắc, trừ bỏ tham lam, giận dữ, si mê, chẳng phải chân thật, chẳng phải hư vọng, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải minh, chẳng phải vô minh, chẳng phải tối tăm, chẳng phải chiếu sáng, không ở trong tâm, không có tánh, tánh vốn là không, có thể hàng phục các ma, chế ngự phiền não, chế ngự năm ấm, chế ngự mười hai nhập, chế ngự mười tám giới, chế ngự về sự giảng nói có năm ấm, giảng nói có mười hai nhập, giảng nói có mười tám giới, chế ngự về sự giảng nói có chúng sinh, giảng nói có người, có tuổi thọ, có mạng sống, thuyết giảng về sự có, giảng giải về sự không, hàng phục tất cả những thứ tà hạnh.

Này Xá-lợi-phất! Ta đã giảng nói Thánh pháp này có thể hàng phục tất cả chúng sinh tham chấp, cho đến nói có các pháp, không tin thích các pháp như thật tướng, trái với pháp của Phật. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Nếu có chúng sinh nói có ngã, có nhân, có chúng sinh, có đoạn diệt, có thường, nói có, nói không, giảng nói các pháp nói về giả danh, nói về biên vực, đều là trái với Phật, là cùng tranh luận với Phật.

Này Xá-lợi-phất! Cho đến đối với pháp dù chỉ một ít tính toán thủ đắc, đều là tranh luận với Phật, người tranh luận với Phật đều đi theo đường tà, chẳng phải là đệ tử của Như Lai. Nếu không phải là đệ tử của Như Lai thì là không thuận hợp với Niết-bàn, là tranh luận với Phật, tranh luận với Pháp, tranh luận với Tăng.

Này Xá-lợi-phất! Những người có kiến chấp như vậy, ta không chấp nhận vào hàng xuất gia thọ giới.

Này Xá-lợi-phất! Những người với kiến chấp như thế ta không thọ nhận lấy một giọt nước uống dùng để nuôi dưỡng thân mình.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người trừ bỏ các việc tham chấp bất thiện như thế, thì ở trong giáo pháp của ta xuất gia cầu đạo, không nhớ nghĩ đến Niết-bàn, không lấy Niết-bàn để làm mục đích để nhớ nghĩ, không tham đắm Niết-bàn, đối với pháp không rốt ráo, không hề kinh hãi, không sợ sệt, người này hãy còn đoạn trừ các pháp, cho nên siêng năng tu hành tinh tấn, huống chi là không tham chấp các việc bất thiện như thế, đó là tham chấp về ngã, về chúng sinh, về người, về pháp. Người ấy vì đoạn trừ mọi sự tham chấp nên chỉ siêng năng tu tập pháp Tam-muội vô tướng, đối với Tam-muội vô tướng cũng không nắm giữ tướng, người ấy thông đạt tướng của tất cả các pháp đều là một tướng, đó là vô tướng.

Này Xá-lợi-phất! Tên gọi ấy ở trong giáo pháp của bậc Thánh gọi là Pháp nhãn nhu thuận, đạt được Pháp nhãn nhu thuận rồi mới gọi là đệ tử của Như Lai, có thể nhận lấy sự cúng dường, chẳng uổng với sự thọ nhận này. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Pháp tướng mà ta đã giảng nói là chân thật, không thể hội nhập, không thể thọ lấy, không thể xả bỏ, không thể tham chấp, không thể giảng nói, chấm dứt con đường ngôn ngữ, không vui, không mừng, đoạn trừ tâm tham vui, chẳng phải là các duyên tụ hợp, xa lìa các nhân duyên, không có đường đi để đoạn trừ đường đi, đến không còn đường đi, dứt trừ các ngôn ngữ, luận bàn, âm thanh, không hình, không sắc, không lấy, không chấp giữ, không sử dụng, không thật, không hư, không tối, không sáng, không hoại, không tranh, không hợp, không tan, không chuyển động, không nhớ nghĩ, không có phân biệt, không thể hiện bày, không dơ, không sạch, không danh, không tướng, không có tâm và các pháp của tâm, không có tâm về sự giải thoát. Trong giáo pháp của ta, không có nam, không có nữ, không có Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già, không thường, không đoạn, không ngã, không có chúng sinh, không có nhân, không đến, không đi, không ra, không vào, không có giới luật, không phạm giới, không sạch, không dơ, không có Tam-muội, không định, không định căn, không có thiền, không có thiền căn, không thấy, không biết, không tham chấp, không tranh luận, không có đạo, không có đạo quả, không có trí tuệ, không có tuệ căn, không có sáng và tối, không giải thoát, không trói buộc, không quả không có đắc quả, không có năng lực, không phải là không có năng lực, không có chỗ sợ, không phải là không có chỗ sợ, không có niệm, không có niệm căn, không ngồi, không đi, không có oai nghi, không đây, không kia, không nhớ tưởng, phân biệt, không có Bồ-đề, không có Bồ-đề phần, không có trí, không phải là không có trí, không có đất, nước, gió, lửa, không tội, không phước, không có pháp, không phải là phi pháp, không khổ, không vui, dứt hẳn các gốc rễ của hý luận, xa lìa tất cả khiến không còn các tướng.

Này Xá-lợi-phất! Nói tóm lại, giáo pháp của ta đã nêu bày đều phá trừ tất cả các vọng niệm, tất cả các kiến chấp, tất cả các kết sử, các tăng thượng mạn, không nhớ nghĩ đến tất cả các nơi đã nhớ nghĩ, đoạn trừ tất cả các thứ ngôn ngữ. Ta ở trong pháp này là không thường, không vô thường, không khổ, không vui, không dơ, không sạch, không thường, không đoạn, không ngã, không nhân, không chúng sinh, không tuổi thọ, không mạng sống, không sinh, không diệt. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Như Lai đối với giáo pháp này đều không có chỗ thủ đắc, có chỗ diệt, cho nên gọi là Niết-bàn, cũng không thấy có người đạt được Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Đức Phật không nhớ nghĩ về Niết-bàn, cũng không lấy Niết-bàn làm sự nhớ nghĩ, cũng không tham chấp về Niếtbàn, cho nên phải biết đây là pháp đặc biệt hiếm có bậc nhất. Vì thế nên Đức Như Lai giảng nói tất cả các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi làm cho mọi người tin hiểu càng hiếm có hơn.

 

Phẩm 2: NIỆM PHẬT

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tri thức ác, thế nào gọi là tri thức thiện ở trong giáo pháp này?

Phật bảo:

–Này Xá-lợi-phất! Nếu có Tỳ-kheo chỉ dạy các Tỳ-kheo khác: “Này các Tỳ-kheo! Các ông nên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Này Tỳ-kheo! Ông nên quan sát nơi thân, nhận lấy thân tướng này, đó là sự bất tịnh. Nên quán tất cả các pháp hữu vi thảy đều vô thường. Quán tất cả các pháp đều không, không có ngã. Này Tỳ-kheo! Ông phải dùng tướng của đối tượng được duyên để buộc tâm trong duyên, chuyên niệm vào tướng không, nên thích pháp thiện, phải giữ lấy tướng của pháp bất thiện, giữ lấy tướng của pháp bất thiện rồi thì đoạn trừ, nên quán niệm để tu tập. Đó là quán tướng bất tịnh để đoạn trừ tham dục, quán tướng của tâm Từ để đoạn trừ giận dữ, quán pháp do nhân duyên sinh để đoạn trừ ngu si. Thường nhớ nghĩ về giới tịnh để nhận lấy tướng không hết sức sâu xa, siêng năng tu hành tinh tấn để đạt được thiền thứ tư. Chuyên tâm cầu đạo, quán pháp bất tịnh đều là não hại, quán pháp thiện là an ổn bậc nhất, nhất tâm tu đạo, phân biệt xét kỹ, quan sát về pháp thiện và pháp bất thiện, nhận lấy tướng này, nên nhất tâm tư duy, quán xét về Niết-bàn an ổn, vắng lặng, chỉ ưa thích về Niết-bàn là hoàn toàn thanh tịnh.” Dạy người như vậy gọi là tà giáo, nghĩa là chánh giáo ấy mà là tà giáo.

Này Xá-lợi-phất! Người dạy như vậy gọi là tri thức ác, người ấy chính là phỉ báng Như Lai, trợ giúp cho ngoại đạo, cũng vì người khác mà giảng nói pháp của tà đạo.

Này Xá-lợi-phất! Người ác như thế, ta không hề thọ nhận một giọt nước uống để nuôi sống thân mình. Ta thuyết giảng về sự giáo hóa, không giảng nói về sự thọ nhận.

Này Xá-lợi-phất! Ở trong giáo pháp của ta, phần nhiều có sự giảng dạy tăng thượng mạn như thế.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người thọ giáo, thọ giới năm năm, không thể bỏ chỗ dạy dỗ như thế, dù ở trong giáo pháp ấy dốc tâm tinh tấn, tự nắm bắt được, đều là không thật có, Tỳ-kheo không đến thưa hỏi, ta nói người này tuy có thọ giáo thọ giới năm năm vẫn gọi là tà kiến, xen tạp pháp ngoại đạo thuận theo lời chỉ giáo của ma.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Tỳ-kheo nào thọ nhận lời dạy ấy rồi, lãnh hội pháp không, không thủ đắc, tự mình hiểu biết, ta tuyên bố người thọ nhận như vậy đều là tà kiến. Đối với pháp không, không thủ đắc, không nghi ngờ, không hối hận, thông đạt sâu xa, không nương theo tất cả hai kiến, là ngã và nhân.

Này Xá-lợi-phất! Ta nói người này là phạm hạnh thanh tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Tỳ-kheo nào đã thành tựu pháp nhẫn không thủ đắc như thế, dù hiện chưa được Niết-bàn vô dư, nhưng ta thọ ký cho người này. Khi Đức Phật Di-lặc ra đời sẽ ở hội thứ nhất, khi ấy, đức Di-lặc khen ngợi ba lần: “Người ấy có thể ở trong giáo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành tựu pháp nhẫn không thủ đắc.”

Này Xá-lợi-phất! Nếu người tại gia hay xuất gia thành tựu được pháp nhẫn ấy, thì ta sẽ thọ ký cho người đó, chắc chắn đạt đến Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có người thọ nhận lời dạy như thế rồi, lắng nghe pháp không, không thủ đắc tức thì kinh sợ, người ấy thật đáng thương xót, vì không có người cứu giúp, không có chỗ nương tựa, người này đi thẳng đến cõi địa ngục. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Ở trong giáo pháp của Phật, người nào kinh hãi, nghi ngờ, sợ sệt thì người ấy đã tạo đầy đủ nẻo ác. Vì sao? Ta thường tự nói, người còn thủ đắc là thuộc về đường ác. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Giáo pháp mà chư Phật đã chứng đắc là không có sai biệt, về đúng cùng chẳng đúng. Nếu có sai biệt là có thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Người nào thà tạo lấy năm thứ tội nghịch cực ác, chứ không tạo tác theo kiến chấp về ngã, về nhân, về chúng sinh, về tuổi thọ, về mạng sống, kiến chấp về năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, tham chấp về trì giới, kiến chấp có trì giới, tham chấp về Tam-muội, kiến chấp có Tam-muội, nương tựa vào tưởng về Phật mà đạt được tưởng về pháp, đoạn trừ sự việc của Tăng để tạo thành thân kiến. Vì sao? Vì ở trong giáo pháp của Phật, tạo thành thân kiến không phải thuộc về Tăng chúng.

Này Xá-lợi-phất! Chúng đệ tử của Phật tâm không phân biệt. Chúng đệ tử của Phật là người hiền thiện, là người không phá giới, là người không phá kiến, là người không phá oai nghi.

Này Xá-lợi-phất! Những gì là ác, bất thiện?

Ở trong giáo pháp của Phật, không thuộc về chúng Tăng thì gọi là ác, bất thiện. Nghĩa là tâm, các pháp của tâm cùng với các duyên hòa hợp, là những việc không chân thật đều do phân biệt, do phân biệt cho nên chấp có thủ đắc. Người ấy cho đến chỗ nói năng về tâm và sự nối tiếp của tâm dẫn đến pháp thiện và bất thiện, thì ở trong giáo pháp của Phật gọi là ác, bất thiện. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Ở trong chỗ vui hiện có tức có cái khổ, giáo pháp của Như Lai là diệt trừ hết sự khổ vui ấy.

Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã chứng đắc, trong đó là vô dục, cũng không phải là vô dục, không khổ không vui, không tư không tưởng, không tu, thậm chí cũng không có tưởng về không. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Nếu chấp tưởng về không tức là tưởng về ngã, tưởng về chúng sinh, tưởng về thường, tưởng về đoạn. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Thuận theo chỗ có tưởng thì sinh ra các tưởng đều rơi vào nẻo tà.

Này Xá-lợi-phất! Không sinh, không niệm gọi là không, không niệm cũng không, đó gọi là không.

Này Xá-lợi-phất! Trong “không” là không thiện, không ác, thậm chí cũng không có tưởng về không, cho nên gọi là không.

Này Xá-lợi-phất! Các pháp hữu vi có thể nhận biết, có thể thấu tỏ, còn không thì không thể nhận biết, cũng không thể hiểu rõ, chẳng thể lường xét, cho nên gọi là không.

Này Xá-lợi-phất! Tướng không chẳng phải do suy niệm mà đạt được. Vì sao? Vì không có tưởng về không, cho nên gọi là không.

Này Xá-lợi-phất! Làm thế nào để giảng nói về nẻo hành hóa nơi không?

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Không nhớ nghĩ về tất cả các tưởng, thậm chí tưởng không cũng không nhớ nghĩ, đó gọi là hành không.

Này Xá-lợi-phất! Tên gọi của tưởng cho đến tâm có chỗ niệm, tức gọi là tưởng, không có chỗ niệm mới gọi là vô tưởng, xa lìa các tưởng nên gọi là vô tưởng, tùy thuộc vào chỗ chấp giữ tưởng đều là tà kiến, vì ở trong Thánh pháp chấp cho đạt được tịch diệt đều rơi vào tà kiến huống chi là giảng nói, huống hồ là người giảng nói. Như vậy pháp không lấy gì để giảng nói?

Này Xá-lợi-phất! Chư Phật vì sao nói các thứ ngôn ngữ đều gọi là tà? Không thể thông đạt tất cả các pháp, đó là đều do chỗ che lấp của ngôn thuyết, vì thế, Đức Như Lai biết rõ các ngôn ngữ đều là tà kiến, thậm chí rất ít ngôn ngữ đạt được chỗ chân thật ấy.

Này Xá-lợi-phất! Chư Phật đã chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề đều là vô tưởng, vô niệm. Vì sao? Vì đối với các pháp, Như Lai không thủ đắc về thể tánh, cũng không thủ đắc về niệm.

Này Xá-lợi-phất! Vì sao Như Lai giảng nói có chỗ niệm? Này Xá-lợi-phất! Trong kinh nói: “Nếu người nào đạt được bốn Niệm xứ, thì người ấy có thể đạt được thể tánh của các pháp, có thể đạt được tự thân, đạt được ngã, được nhân.” Thật ra thì không có điều ấy. Hiện rõ tướng riêng của pháp là không, cho nên giảng nói về bốn Niệm xứ. Tánh của bốn Niệm xứ là không tánh, không xứ, không có nhớ nghĩ, không có thuyết giảng, không có tham chấp. Tánh của niệm hãy còn là không huống hồ là niệm xứ. Cho nên Như Lai giảng nói gọi là niệm xứ.

Này Xá-lợi-phất! Nếu các pháp có thể tánh quyết định, như chia sợi tóc ra thành trăm phần chỉ lấy một, thì chư Phật vẫn chẳng xuất hiện ở đời, hoàn toàn cũng không giảng nói về tánh không của các pháp.

Này Xá-lợi-phất! Chỗ không đích thật của các pháp là không tánh, nhất tướng, đó gọi là vô tướng. Như Lai đều thấy biết, do đó, Như Lai giảng nói có niệm xứ.

Này Xá-lợi-phất! Niệm xứ gọi là không xứ, không phải là không xứ. Vô niệm là không có nghiệp về niệm, vô tưởng là không có phân biệt, vô ý là không có nghiệp về ý, vô tư là không có nghiệp về tư duy, vô pháp là không có tưởng về pháp đều không hợp, không tan, cho nên Hiền thánh gọi là không có phân biệt, đó chính là niệm xứ. Vì vậy, Như Lai giảng nói có niệm xứ là tùy thuận theo niệm nên không thực có. Gọi là niệm xứ là tùy thuận niệm Phật nên gọi là niệm xứ.

Này Xá-lợi-phất! Thế nào là niệm Phật?

Này Xá-lợi-phất! Nhận thấy đều không thực có, gọi là niệm Phật.

Này Xá-lợi-phất! Chư Phật vô lượng không thể nghĩ bàn, không thể lường tính, do ý nghĩa này, nhận biết không thật có gọi là niệm Phật, chân thật gọi là không phân biệt, vì chư Phật là không phân biệt, cho nên nói: niệm không phân biệt tức là niệm Phật.

Lại nữa, nhận biết thật tướng của các pháp gọi là thấy Phật.

Thế nào gọi là thật tướng của các pháp?

Nghĩa là các pháp hoàn toàn đều là không, không thật có, do chỗ hoàn toàn là không ấy nên pháp niệm Phật là không thật có.

Lại nữa, ở trong giáo pháp như thế, thậm chí một niệm nhỏ hãy còn không thể thủ đắc để gọi là niệm Phật.

Này Xá-lợi-phất! Pháp niệm Phật ấy là đoạn dứt con đường ngôn ngữ, vượt khỏi các niệm, không thể thủ đắc về niệm, nên gọi là niệm Phật.

Này Xá-lợi-phất! Tất cả các niệm đều là tướng tịch diệt, thuận theo pháp này thì đấy là cách tu tập niệm Phật, không thể dùng sắc để niệm Phật. Vì sao? Vì niệm về sắc, là chấp giữ về tướng, tham vị là thức, không hình, không sắc, không duyên, không tánh, đó gọi là niệm Phật. Vì thế nên biết, không có phân biệt, không nhận lấy, không xả bỏ, đó là niệm Phật chân thật.

 

Phẩm 3: NIỆM PHÁP

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người giảng nói pháp như thế nào gọi là tri thức ác?

Bạch Thế Tôn! Người giảng nói pháp như thế nào gọi là tri thức thiện?

Đức Phật bảo:

–Này Xá-lợi-phất! Nếu có Tỳ-kheo dạy cho Tỳ-kheo khác: Này Tỳ-kheo! Ông nay nên biết, việc niệm Phật là niệm không, nếu là nơi chốn của đối tượng được duyên thì không nên niệm, chỗ niệm của ông là không niệm, cũng lại là không, là vô tánh không, có thể đoạn dứt tưởng về sắc, có thể đoạn trừ tưởng chấp giữ. Bấy giờ, người ấy vô tưởng không còn được, huống chi là được niệm. Lúc đó, người ấy đều không thật có tịch diệt, vô tánh, không tập hợp các tưởng để diệt trừ tất cả pháp, tức gọi là tu tập niệm Phật. Niệm Phật gọi là phá bỏ tất cả giác quán pháp thiện và bất thiện, không giác, không quán, vắng lặng an nhiên vô tưởng, gọi là niệm Phật. Vì sao? Vì không nên dùng giác quán nhớ nghĩ về chư Phật, không giác không quán gọi là niệm Phật thanh tịnh. Ở trong niệm này, cho đến không đạt tới nghiệp nơi tâm niệm của tâm ý vi tế, huống chi là nghiệp của thân, miệng. Lại nữa, người niệm Phật xa lìa các tưởng, các tưởng ở trong tâm, không có phân biệt, không có danh tự, không có ngăn ngại, không tham dục, không thủ đắc, không dấy khởi giác quán. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Nếu tùy thuộc vào niệm để dấy khởi tất cả các tưởng đều là tà kiến.

Này Xá-lợi-phất! Tùy thuộc vào là đều không thật có, không giác, không quán, không sinh, không diệt, thông đạt được điều ấy gọi là niệm Phật. Ở trong niệm như thế là không tham đắm, không chấp trước, không thuận, không nghịch, không danh, không tưởng.

Này Xá-lợi-phất! Không có tưởng, không có nói năng mới gọi là niệm Phật. Ngay trong lúc ấy, không còn một niệm nhỏ vi tế nào, huống gì là nghiệp thô, lớn của thân, miệng, ý. Không có chốn nơi nghiệp của thân, miệng, ý nên không nắm bắt, không xả bỏ, không tranh, không tụng, không nhớ nghĩ, không phân biệt, tịch tĩnh vô tánh diệt trừ các giác quán, đó gọi là niệm Phật.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào thành tựu được niệm như thế, nhằm lay chuyển được bốn cõi thiên hạ tùy ý giáo hóa, cũng có thể hàng phục được trăm ngàn ức ma, huống chi là sự che lấp do vô minh theo duyên khởi giả dối không có tướng quyết định. Thế nên pháp này vô tưởng, không hý luận, không sinh, không diệt, không thể nêu bày, không thể phân biệt, không tối, không sáng, hoặc ma hoặc quyến thuộc của ma cũng không thể nào lường xét được, chỉ vì thế tục nên dùng ngôn ngữ giảng nói có chỗ giáo hóa. Giảng như vầy: Khi ông niệm Phật, chớ có chấp vào một tưởng nhỏ nào, chớ sinh hý luận, đừng có phân biệt. Vì sao? Vì pháp này đều là không, không có thể tánh, không thể niệm vào một tướng, gọi là vô tướng, cho nên gọi là niệm Phật chân thật, nghĩa là không sinh, không diệt, vô tướng, vô vi. Vì sao? Vì Như Lai không gọi là sắc, không gọi là tưởng, không gọi là niệm, không gọi là phân biệt, không chống đối, không thuận theo, không lấy, không bỏ, chẳng thiền định, chẳng trí tuệ, chẳng phải minh, chẳng phải vô minh. Như Lai là không thể nêu bày, là không thể nghĩ bàn, là vô tướng, nay ông chớ nên ưa chấp tướng, chớ nên ưa hý luận, vì Phật đối với các pháp là không chấp, không vướng, không thấy có pháp có thể chấp, có thể vướng, người này đối với Phật hãy còn không thể thủ đắc, huống hồ là đối với niệm.

Này Xá-lợi-phất! Người nào giảng dạy như vậy thì gọi là tri thức thiện, nhưng trong Đệ nhất nghĩa không có sự quyết định là tri thức thiện là tri thức ác.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu có Tỳ-kheo chỉ dạy cho Tỳkheo khác: “Này Tỳ-kheo! Ông nên phân biệt quan sát các pháp, cũng lại chớ niệm về tướng của pháp như vậy. Tỳ-kheo ấy tu tập tâm không còn bị ràng buộc, vướng mắc, tức có thể thấu đạt được các pháp chỉ là một tướng, gọi là vô tướng, người ấy hãy còn không sinh khởi tưởng về pháp huống chi là tưởng về ta, người.”

Này Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Người niệm về tưởng của pháp, người ấy có thể diệt được tất cả các pháp không?

–Bạch Thế Tôn! Không.

–Này Xá-lợi-phất! Như cây không có gốc thì có thể sinh cành, lá, hoa, quả không?

–Bạch Thế Tôn! Không.

–Đúng vậy! Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào không đạt được chỗ căn bản của các pháp, thì người ấy có thể phát sinh tưởng về các pháp không?

–Bạch Thế Tôn! Không.

–Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào không đạt được, không niệm tưởng về pháp, thì người ấy có thể diệt trừ tất cả pháp không?

–Bạch Thế Tôn! Không. Người ấy không thủ đắc nơi pháp, không thủ đắc tướng của pháp, không thủ đắc nơi diệt, cũng không phân biệt, không sinh, không diệt, bấy giờ người ấy là không sinh, không diệt, không gọi là thủ đắc về Niết-bàn, lại cũng không gọi là không thủ đắc về Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Người chỉ dạy như thế gọi là tri thức thiện, nhưng trong đệ nhất nghĩa, không có tri thức thiện không có tri thức ác.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào thành tựu tướng như vậy thì rất là hiếm có trong thế gian, vì đã đạt được sự thấy biết chân thật, không điên đảo, đó là chánh kiến.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Người đạt chánh kiến gọi là chánh tác, chánh hành, chánh đạo, chánh giải, không có điên đảo thấy biết đúng như thật, cho nên Như Lai gọi là chánh kiến.

Này Xá-lợi-phất! Nếu chúng sinh nào không còn điên đảo, quán xét như thật tức có chánh kiến. Nếu phát sinh tưởng ngã, tưởng nhân, tưởng chúng sinh, nên biết người này gọi là tà hành.

Này Xá-lợi-phất! Đức Phật và các đệ tử không nói có ngã, không nói có nhân, không nói có chúng sinh, không nói có thọ mạng, không nói có thường, có đoạn, cho nên Đức Phật và các đệ tử gọi là chánh kiến. Vì sao? Vì quán xét đúng đắn, không có điên đảo.

Này Xá-lợi-phất! Tất cả các phàm phu đối với sự việc này không thể hội nhập được. Vì sao? Vì tất cả hàng phàm phu đều không có chánh kiến, chỉ có tùy thuận theo chánh kiến, đạt được pháp Nhẫn nhu thuận, không thể hiểu biết các pháp đúng như thật.

Này Xá-lợi-phất! Đó là chỗ chánh kiến khác với tà kiến. Vì thấy biết các pháp đúng như thật, gọi là chánh kiến, nhận biết các lợi lạc ở đời nhân đấy làm tăng thêm tài sản phúc lợi, gọi là chánh kiến của thế gian, thảy đều là luống dối, không tránh khỏi sinh tử.

Này Xá-lợi-phất! Phật đã thuyết giảng về chánh kiến của thế gian, là giảng nói về các pháp biếng trễ, thấp kém. Bậc Hiền thánh không tạo tác về niệm này: “Đây là chánh kiến, đây là tà kiến.” Vì sao? Vì tất cả các kiến giải đều do duyên khởi hư vọng.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có suy nghĩ cho rằng: “Đây là chánh kiến”, thì người này tức là tà kiến.

Này Xá-lợi-phất! Ở trong giáo pháp của Phật, đã dứt sạch tất cả nguồn gốc của các kiến và đoạn trừ tất cả các con đường ngôn ngữ, như nơi hư không đưa tay lên không bị ngăn ngại, giáo pháp của Sa-môn cũng lại như vậy.

 

Phẩm 4: NIỆM TĂNG

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Thánh chúng?

Phật bảo:

–Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào có thể tin hiểu, thông đạt tất cả các pháp là không sinh, không diệt, không khởi, không tướng, thành tựu được nhẫn như thế hãy còn không thủ đắc về ngã, huống chi là thủ đắc về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán, huống nữa là thủ đắc về pháp, thủ đắc về nam nữ, thủ đắc về đạo, huống hồ là thủ đắc về các việc như vậy, đó gọi là Thánh chúng, Thánh chúng ấy cũng không thủ đắc. Lại nữa, này Xá-lợiphất! Chúng sinh ít có thể tin hiểu các pháp là không sinh, không diệt, không tướng. Nếu có thể tin hiểu các pháp là không sinh, không diệt, không tướng, tâm không còn điên đảo cùng hiểu rõ đều do pháp hòa hợp, không còn thọ đời sau nữa, nhận biết các pháp thế gian đều từ duyên khởi hư vọng, thì người ấy không còn trụ vào thân này nữa, do nhân duyên đó nên gọi là Thánh chúng. Người này đối với ngôn ngữ cũng không thủ đắc, gọi là các danh, tướng, nhưng tập hợp những việc không tướng, không hý luận, đó gọi là Tăng bảo, được thọ nhận sự cúng dường. Vì đạt được ý nghĩa chân thật, không điên đảo, người ấy cho sự việc niệm Tăng kia là phương tiện nên cũng là không.

Này Xá-lợi-phất! Người chỉ dạy như vậy gọi là tri thức thiện.

Này Xá-lợi-phất! Đoạn dứt tất cả con đường ngôn ngữ gọi là Thánh chúng. Vì sao? Vì ở trong giáo pháp của Phật đều là nhân nơi ngôn ngữ để nêu bày về nghĩa chân thật, ngôn ngữ như thế là cũng không thể thủ đắc. Vì thế nên biết đoạn dứt các ngôn ngữ gọi là Thánh chúng.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có người nói, ở trong giáo pháp ấy, không có lời nói, không có quyết định, làm sao gọi là Tăng?

Này Xá-lợi-phất! Ta ở trong trường hợp ấy nên đáp như vầy: “Chúng Tăng gọi là thực hành những việc như thật, việc này quyết định cũng không thể thủ đắc, đều cùng một sự tu học, một sự nhẫn nhục, một pháp vị. Việc này cũng dùng ngôn ngữ của thế tục để giảng nói, chẳng phải là Đệ nhất nghĩa. Trong Đệ nhất nghĩa không có quyết định thật gọi là Tăng, là pháp thường không hư hoại. Nếu Thánh nhân nói có pháp này, tức là nhiễm ô. Vì sao? Vì nếu người nào có sự phân biệt đây là nam, đây là nữ, là Trời, là Rồng, là Dạxoa, là Càn-thát-bà, là Cưu-bàn-trà, là pháp, là phi pháp; phân biệt những việc như vậy rồi, nắm bắt vô số những sự việc như thế rồi, nói như vầy: là ngồi, là nằm, là đi, là đứng. Vì Thánh nhân đã đạt được thật tướng của các pháp, không phân biệt là nam, là nữ, là trời, là rồng… cho đến là pháp, là phi pháp. Vì không phân biệt nên không thủ đắc nơi vô số các pháp. Người không thủ đắc nơi vô số các pháp, có thể giảng nói là ngồi, là nằm, là đi, là đứng chăng?

–Bạch Thế Tôn! Không.

–Này Xá-lợi-phất! Nếu có người nói đây là nam, là nữ, là trời, là rồng… cho đến là pháp, là phi pháp, thì chỗ người ấy đã giảng nói chẳng phải là hư vọng chăng?

–Bạch Thế Tôn! Là hư vọng.

–Này Xá-lợi-phất! Nếu không nhập vào chỗ hư vọng ấy, thì gọi là Thánh chúng. Vì không còn điên đảo nên gọi là Thánh chúng.

Này Xá-lợi-phất! Chỗ có bất thiện, chỗ có thể nhận biết, chỗ có thể thủ đắc, như vậy tất cả các pháp bất thiện đều dùng danh, tướng làm căn bản. Nhưng ở trong pháp của Hiền thánh đã đoạn dứt các danh, tướng, lại không niệm về danh, tướng, cũng không thủ đắc về danh, tướng. Vậy sao có thể gọi là Thánh là Chúng?

Đoạn dứt các danh, tướng gọi là Thánh chúng. Nếu có nơi chốn của pháp thì nên dứt nên đoạn, vì trong giáo pháp của Hiền thánh không có danh, không có tướng, không có ngôn ngữ, đoạn trừ các ngôn ngữ, không có tụ hợp, tan rã. Nếu nói không có tăng, tức là phá Thánh chúng, cũng là không thủ đắc, gọi là tưởng hư vọng của danh, tướng. Vì chấp các thứ là kiến, do tà kiến nên thọ nhận thân đời sau. Tham chấp các kiến nên sinh ra năm ấm.

Này Xá-lợi-phất! Năm ấm đều là tham chấp hư vọng, đó gọi là đường ác, gọi là tà kiến. Các bậc Hiền thánh không có việc này, nhưng nhận biết do duyên hư vọng nên dấy khởi về ba cõi, do nhận biết việc ấy nên gọi là Thánh chúng.

Này Xá-lợi-phất! Phàm chỗ thấy biết ở trong Thánh chúng đều không thể thủ đắc. Đó là thấy ngã, thấy nhân, thấy chúng sinh, thấy thọ mạng, thấy nam, thấy nữ, thấy trời, thấy địa ngục, thấy súc sinh, thấy ngạ quỷ, thấy năm ấm, sáu nhập, mười tám giới, kiến chấp về tiếng ốc, kiến chấp về tiếng trống, kiến chấp về tiếng đất, kiến chấp về tiếng lửa, kiến chấp về tiếng gió, kiến chấp về tiếng nước, kiến chấp về tiếng trì giới, kiến chấp về tiếng phá giới, kiến chấp về tiếng chánh đạo, kiến chấp về tiếng tà đạo, kiến chấp về tiếng dơ, kiến chấp về tiếng sạch, kiến chấp về tiếng Tam-muội, thiền định, kiến chấp về tiếng tám Thánh đạo, kiến chấp về nơi quả Tu-đàhoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, kiến chấp về tiếng giải thoát, kiến chấp về tiếng đắc quả, kiến chấp về tiếng Phật, kiến chấp về tiếng Pháp, kiến chấp về tiếng Tăng, kiến chấp về tiếng diệt độ, kiến chấp về tiếng Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là kiến chấp về các âm thanh hư vọng. Chúng Hiền thánh đối với đệ nhất nghĩa không có thủ đắc về các kiến chấp ấy, thông đạt vô số âm thanh là một tướng, gọi là vô tướng, không chống trái, không tranh chấp, thành tựu pháp nhẫn không điên đảo, gọi là Thánh chúng.

Này Xá-lợi-phất! Pháp nhẫn này không điên đảo gọi là vô tướng. Vô tướng nên không lấy, không bỏ, không nghịch, không thuận, không sinh, không diệt, chính nó tự nhiên trở về nơi vắng lặng, không tu, không hoại, không khởi, không đắc, không phân biệt kia, đây nên tâm luôn xả, lìa. Vì sao? Vì ở trong pháp nhẫn không có bờ bên này, không có bờ bên kia, không có phân biệt, chẳng phải là không có phân biệt. Thấu tỏ về vô tướng, thành tựu nhẫn ấy, gọi là Thánh chúng. Phá hòa hợp nên gọi là Thánh chúng.

Này Xá-lợi-phất! Nơi kinh khác ta đã giảng nói: người nào thấy pháp tức là thấy Như Lai, nhưng Như Lai chẳng phải là pháp, cũng chẳng phải là phi pháp. Vì sao? Vì Điều-đạt là kẻ ngu si và các ngoại đạo đều dùng sắc thân để thấy Phật.

Này Xá-lợi-phất! Không nên dùng sắc thân để thấy Như Lai, cũng không nên dùng âm thanh để thấy Như Lai.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào dùng sắc thân để thấy Phật thì cách xa Phật. Vì sao? Vì đối với Phật không cho là thấy hình sắc để gọi là thấy Phật.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào có thể thấy các pháp là vô tướng, không danh tự, không xúc chạm, không nhớ nghĩ, không suy niệm, không sinh, không diệt, không hý luận, không gắn niệm nơi tất cả các pháp, không niệm về Niết-bàn, không dùng Niết-bàn để suy niệm, không tham chấp về Niết-bàn, tin hiểu các pháp đều là một tướng, đó là vô tướng.

Này Xá-lợi-phất! Đấy gọi là thấy biết chân chánh. Đức Phật gọi tất cả các pháp đều không mong cầu, không hý luận, không sinh, đối với sự việc này cũng không nhớ nghĩ, không phân biệt, đó gọi là thấy Phật. Nếu có người ở trong pháp này, không có tưởng nhớ nghĩ, phân biệt, không lấy, không bỏ, không tham chấp, không chống trái, không tưởng, không có nghiệp về tưởng, không tham chấp nơi ngôn ngữ, biết rõ các pháp đều là giả danh, không thật có, đoạn dứt con đường ngôn ngữ, không có sai biệt, cũng không hý luận, đó gọi là vô sinh, vô tưởng. Hành giả ở trong thế gian gọi là Thánh chúng.

Này Xá-lợi-phất! Thấy những pháp gì gọi là thấy Phật? Đó là vô tưởng, không phân biệt, không hý luận, không thọ nhận tất cả các pháp. Hoặc dùng cửa không, hoặc cửa vắng lặng, hoặc cửa xa lìa, không niệm về chỗ thấy biết, không thủ đắc về sự thấy biết, thì việc ấy cũng không thủ đắc. Gọi là danh tự thì nơi chốn ấy cũng không thủ đắc, đó là Niết-bàn. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Ta hãy còn không nghĩ về Niết-bàn, làm sao nói là các ông nên nghĩ về Niết-bàn, nên đạt được Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào thủ đắc về Niết-bàn, thì người ấy không phải là người xuất gia theo Phật, mà là người xuất gia theo lục sư ngoại đạo, nên biết người này là giặc của chánh pháp, đã lẻn vào trong pháp của ta. Nên biết kẻ ấy đã làm nhiễm ô giáo pháp của ta. Nên biết người ấy là giặc lớn, giống như nơi thành ấp lớn có giặc cướp lớn. Vì sao? Vì người ngu như thế hãy còn không đạt được Niết-bàn, huống chi là người mà ta đã nêu.

Này Xá-lợi-phất! Người ngu này ta đã dùng tay ngăn lại, vì chẳng phải là đệ tử của ta, không được nhập vào trong số tăng chúng, ta không phải là thầy của kẻ ấy.

Này Xá-lợi-phất! Nếu nhận biết rõ các pháp là không sinh, không diệt, không niệm, không tưởng, người đạt được pháp nhẫn ấy hãy còn không đạt được Niết-bàn, huống gì là người mà ta đã nêu.

Này Xá-lợi-phất! Phật đã giảng nói như thế, gọi là thấy pháp. Có thể thấy rõ sự việc này gọi là thấy Phật.

Này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là Như Lai?

Tất cả các pháp là như, không biến đổi, không hoại diệt, đó gọi là Như Lai. Nếu người nào đối với pháp ấy không còn nghi ngờ, gọi là Thánh chúng.

Này Xá-lợi-phất! Trong đời quá khứ có một người ngu không

biết rõ về khỉ vượn, đi vào rừng lớn, thấy có một đám khỉ vượn tụ tập tại một nơi cây cối rừng rậm. Người ấy từng nghe có cõi trời Đao-lợi, liền cho đó là chư Thiên ở cõi trời Đao-lợi, nên bỏ đi ra khỏi rừng cây, trở về làng xóm cũ, đến nơi có nhiều người bảo họ:

–Các ông đã từng thấy cõi trời Đao-lợi chưa?

Mọi người trả lời:

–Chưa từng thấy.

Người này liền nói:

–Tôi đã từng thấy, các ông muốn thấy không?

Mọi người đều nói là muốn thấy, người ấy bèn dẫn mọi người đi vào khu rừng kia, chỉ chỗ bầy khỉ vượn đang tụ tập, nói:

–Các người xem đấy là chư Thiên ở cõi trời Đao-lợi.

Mọi người nói:

–Chẳng phải là cõi trời Đao-lợi, đây là chỗ vui đùa của đám vượn khỉ trong rừng, vì ông ngu si điên đảo nên không biết về khỉ vượn, lại cũng không biết về chư Thiên nơi cõi trời Đao-lợi.

Này Xá-lợi-phất! Người ấy không dẫn đại chúng đi vào rừng kia. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Ở đời vị lai, nếu có Tỳ-kheo đến nhà cư sĩ nói như vầy:

–Ông muốn thấy Phật, gặp Thánh chúng, nghe pháp của Phật không? Trong nhà cư sĩ có người tin pháp của Phật, nên đều nói muốn thấy, nghe, lãnh thọ giáo pháp của Phật.

Này Xá-lợi-phất! Trong nhà cư sĩ ấy có người tham chấp ưa thích ngôn từ đi vào chùa tháp, có các Tỳ-kheo ưa việc thuyết giảng có thể thông tỏ các kinh, nương vào ngôn ngữ, ưa thích trau chuốt văn từ, các Sa-môn này tùy thuận để giảng nói cho họ, gọi đó là chân đạo, nhưng chỉ làm đầy số lượng Tăng chúng. Như người thả bò, chỉ ưa thích đọc sách không hội nhập vào nẻo chân như, chỉ dốc làm vui theo ý của người khác, quý nơi danh lợi, tinh xảo về việc đời giảng nói pháp bất tịnh, chỉ có thể khéo léo về ngôn từ, thực hành đạo thế gian, không có oai đức, phá bỏ nhân của Niếtbàn, bỏ sự tĩnh lặng của bậc Thánh, không ưa thích thiền định, ngày đêm luôn ưa thích đàm luận, tranh cãi, nằm đắp chăn mền dày hãy còn không nhất niệm thuận theo thiền định, huống hồ là có thể thành tựu quả vị Sa-môn. Người này ngủ nghỉ thường tương ưng với tâm thế tục, đầu đêm, cuối đêm, không tu theo pháp thuận nhẫn, ưa thích pháp thấp kém. Người ấy cũng được nhiều sự cúng dường về y phục, thức ăn uống. Vì sao? Người ấy thường bị ma xấu ác thâu tóm, ưa thích lời nông cạn, không siêng năng tu học đệ nhất nghĩa, không thể đọc tụng, thọ trì kinh thâm diệu bậc nhất, nghe thì sợ hãi, xả bỏ phần tinh thuần mà lấy cặn bã. Hoặc có các phàm phu được nhiều lợi dưỡng, sinh tâm tham chấp, suy nghĩ: “Chúng ta cũng nên học theo chỗ bàn luận ấy.”

Này Xá-lợi-phất! Người ấy đã lìa bỏ pháp báu vô thượng, rơi vào tà kiến. Sa-môn Chiên-đà-la này có các cư sĩ tại gia đi đến chỗ của các Sa-môn ấy, người ác như vậy mà giảng nói giáo pháp, vì lợi dưỡng nên khen ngợi Phật, Pháp, Tăng, chỉ để cầu mạng sống nên làm kẻ hầu hạ cho tiền của, tham chuộng về ăn uống, y phục mà khen ngợi chỗ ưa thích của mình, cho rằng nếu thực hành bố thí thì được sinh lên cõi trời, ở trong giáo pháp của Phật thì bố thí này là pháp thấp nhất. Ở đây, Sa-môn khen ngợi là pháp tối thắng và nói: Do nhân duyên là bố thí lớn nên được sinh lên cõi trời. Không biết về ngôn ngữ, không hiểu về nghĩa lý, chỉ biết ban đầu nhập vào pháp nhỏ, cạn cợt, tham chấp về ngã, nhân, xả bỏ Đệ nhất nghĩa.

Này Xá-lợi-phất! Giảng nói pháp như vậy, nếu có người sinh niềm tin xuất gia, với các người ác mà cùng nhau hòa hợp, không siêng năng cầu Đệ nhất nghĩa sâu xa, do có chỗ thủ đắc nên nói có ngã, có nhân, có chúng sinh, có tuổi thọ, có mạng sống là đã nhớ tưởng phân biệt, là pháp không thật có. Trong A-tỳ-đàm, Tu-đố-lộ tự nêu bày, nghị luận, hoặc nói đoạn, thường, hoặc nói tạo tác, hoặc nói không tạo tác.

Này Xá-lợi-phất! Bấy giờ giáo pháp của ta phần nhiều là pháp của ngoại đạo, khiến các chúng sinh hủy hoại tâm chánh kiến. Như thế, này Xá-lợi-phất! Pháp thanh tịnh của ta do nhân duyên ấy mà dần dần diệt hết.

Này Xá-lợi-phất! Ta ở lâu trong sinh tử, nhận chịu các khổ não để thành tựu đạo quả Bồ-đề, những người ác ấy bấy giờ lại hủy hoại.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có Tỳ-kheo không thể xả bỏ, thấy có thủ đắc, thấy có ngã, có nhân, không hiểu Như Lai tùy theo căn cơ để giáo hóa mà nói quyết định có ngã, có nhân, có pháp. Người như vậy thì ta không hề thọ nhận một chút nước uống, hoặc có khi người ấy nghe được pháp không, tâm tin tưởng thanh tịnh, không kinh hãi nghi ngờ, bèn trở lại dẫn dắt mọi người hội nhập vào nghĩa thật tướng, liền được xuất gia, thọ giới cụ túc. Vì sao? Này Xá-lợiphất! Nếu người nào không xả bỏ kiến chấp như thế thì gọi là ngoại đạo.

Này Xá-lợi-phất! Ta dùng nhân duyên của thế tục, giả nói có ngã, chẳng phải là Đệ nhất nghĩa. Nếu có người nói: “Như Lai cũng dùng nhân duyên của thế gian giảng nói có ngã”, người đó hoặc có thể thông đạt các pháp là không sinh, không diệt, vô tướng, tức không trái với lời giảng nói của ta, chính là đệ tử của ta.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có người nói: Vì sao Như Lai thuận theo nhân duyên của thế gian ở nơi pháp vô ngã mà nói có ngã. Như Lai chẳng nên vì thế gian mà nói lời không chân thật. Lại nữa, trong các kinh phần nhiều nói có ngã, chỗ nêu giảng của Đức Phật không nên hư dối.

Này Xá-lợi-phất! Nên đáp lại người kia: Phật thuyết giảng các pháp đều là không, không chủ tể, không tánh, chỉ là hư vọng, không phải là Đệ nhất nghĩa, vì Như Lai không dùng Đệ nhất nghĩa nên giảng nói có ngã, có nhân. Còn chỗ thuyết giảng của Thánh nhân thì không có tham chấp, người không có trí tuệ bình đẳng với Phật nên cũng không có lỗi lầm.

Này Xá-lợi-phất! Trí tuệ của Như Lai là không thể nghĩ bàn, dùng trí tuệ này để biết rõ về tâm của chúng sinh, hẳn sẽ có người ngang bằng với Phật. Đức Phật là vua pháp lớn của hàng trời, rồng, không nên nêu bày những vấn nạn về chỗ Phật giảng có ngã, nhân. Mọi người trong thế gian thường tranh luận với Như Lai, còn Như Lai thì luôn không tranh luận với thế gian.

Này Xá-lợi-phất! Thuyết giảng có ngã thì rất đáng thương xót,

vì trong đó không có pháp cũng không có ngã. Có nhiều chúng sinh không hiểu Như Lai đã tùy theo căn cơ mà giảng nói, nên trái nghịch với pháp bảo phần nhiều bị đọa vào đường ác.

Này Xá-lợi-phất! Ta biết rõ về tà kiến nhưng không thực hành tà kiến. Có thể nhận biết về tà kiến tức là chánh kiến.

Này Xá-lợi-phất! Tà kiến thì hoàn toàn không biến làm chánh kiến, vì kiến chấp không nhận biết về kiến chấp.

Này Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai đã chứng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với tất cả thế gian là chỗ rất khó tin được. Ta đối với chư Thiên và tất cả thế gian rất đáng tin chẳng phải là không đáng tin.

Này Xá-lợi-phất! Ta đã giảng nói các pháp là nhằm đi đến bờ bên kia, trong đó cũng không có đến bờ bên kia. Ta đã giảng nói các pháp với những nẻo hành cùng tận, trong đó cũng không có các nẻo hành cùng tận. Ta đã giảng nói các pháp là tịch diệt, trong đó cũng không có tịch diệt. Ta đã giảng nói các pháp là diệt độ, trong đó cũng không có pháp diệt độ. Ta đã giảng nói các pháp là giải thoát, trong đó cũng không có giải thoát. Ta đã giảng nói các pháp là các trí, trong đó cũng không có các trí. Ta đã giảng nói các pháp là tịnh, cấu, trong đó cũng không có tịnh, cấu.

Này Xá-lợi-phất! Như Lai giảng nói các pháp cho chư Thiên cũng không có chư Thiên, giảng nói pháp cho người cũng không có người, giảng nói pháp cho chúng sinh cũng không có chúng sinh.

Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã giảng nói minh cùng với giải thoát, trong đó cũng không có minh cùng với giải thoát. Ta giảng nói niệm Phật, nhưng Phật thì không thể niệm. Ta giảng nói nẻo hành nơi không, nhưng không thì chẳng thể hành, cũng không thể niệm.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là Như Lai đã giảng nói về câu chương nơi kinh pháp, trong đó không có sự giảng nói. Những người ác ấy đạt được câu chương này đem giảng dạy cho người khác, cũng lại xem ta là thầy, không có công đức nơi Thánh chúng của Như Lai mà tự cho là Tăng.

Này Xá-lợi-phất! Ví như đàn vượn khỉ không giống với chư Thiên cõi trời Đao-lợi, các người ác như thế cũng không giống với Thánh chúng của Như Lai.

Này Xá-lợi-phất! Những người xấu ác ấy chỉ dùng âm thanh, ngôn ngữ, tự xưng là Sa-môn, giống như người ngu thấy đàn vượn khỉ cho là chư Thiên cõi trời Đao-lợi.

Này Xá-lợi-phất! Trong những người xuất gia ưa thích nêu vấn nạn, gặp được thầy vì họ mà giảng nói về danh, sắc tịch diệt, đoạn dứt nẻo ngôn ngữ, không khởi, không mất, không sinh, không diệt, không tướng như thế mà không kinh sợ, nên biết người ấy đã từng cúng dường nơi vô lượng chư Phật, mới có thể nhận biết được giáo pháp của ta, đáng được gọi là Thánh chúng.

 

Phẩm 5: TỊNH GIỚI 

Phật bảo:

–Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới có mười điều khổ não, khó có thể chịu đựng được. Tỳ-kheo đã gồm đủ mười điều khổ não thì ở trong Phật pháp không thể thấm nhuần pháp vị, ghét người nói pháp, không thích gần gũi.

Những gì là mười?

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới thấy tăng hòa hợp không sinh tâm vui mừng. Vì sao? Vì hòa hợp bố tát chắc chắn sẽ đuổi ta ra khỏi đại chúng, Tỳ-kheo xấu ác biết mình có lỗi, luôn ôm lòng sầu khổ, đối với người giữ giới thì giận dữ không vui.

Này Xá-lợi-phất! Đấy gọi là điều khổ não thứ nhất của Tỳkheo phá giới, tất bị đọa vào đường ác.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới bị đại chúng ghét bỏ không muốn gần gũi, như con bò ác có sừng nhọn khiến mọi người đều tránh xa, Tỳ-kheo ác ấy biết mình có lỗi, thường ôm lòng sầu khổ.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là điều khổ não thứ hai của Tỳ-kheo phá giới, chắc chắn sẽ bị đọa vào đường ác.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới gặp chúng Tỳkheo, biết mình không đồng chỗ tâm xấu ác nên luôn lìa bỏ, ôm lòng hổ thẹn, không thể hòa nhập với chúng.

Này Xá-lợi-phất! Đây là điều sầu khổ thứ ba của Tỳ-kheo phá giới, nhất định sẽ bị đọa vào đường ác.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới tâm ác độc luôn phát khởi mạnh không thể giáo hóa, dẫn dắt hãy còn không thể đứng vào hàng giới pháp của ngoại đạo, huống hồ là đối với giới pháp thanh tịnh. Do nhân duyên phá giới ấy nên mọi người không gần gũi.

Này Xá-lợi-phất! Đây là điều khổ não thứ tư của Tỳ-kheo phá giới, chắc chắn sẽ bị đọa vào đường ác.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới lấy tài vật của người khác để nuôi dưỡng thân mình, ta nói người ấy chính là kẻ đang gánh nặng. Vì sao? Vì người đã hành hóa chứng đắc thì nên thọ nhận sự cúng dường, còn Tỳ-kheo phá giới thì không phải là người hành hóa, không phải là người chứng đắc. Thế nên, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới sẽ ở trong trăm ngàn vạn ức kiếp phải cắt thân xẻo thịt mình để đền trả cho thí chủ. Nếu thọ sinh làm thân súc sinh thì luôn bị chở nặng. Vì sao? Vì như chia một sợi tóc ra thành ngàn ức phần, Tỳ-kheo phá giới hãy còn không thể làm mất đi một phần của sự cúng dường, huống chi là có thể làm mất đi các sự cúng dường khác về y phục, thức ăn uống, đồ dùng, thuốc men.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới tham chấp pháp phục của bậc Thánh, hãy còn không nên vào chùa dù là một bước, huống hồ là được thọ nhận một chút nước uống, cho đến giường nằm nhỏ. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Người ác như vậy ở trong cõi trời, người chính là giặc lớn, tất cả thế gian đều nên xa lìa.

Này Xá-lợi-phất! Người hủy hoại ấy tức là oan gia, Như Lai đều chấp nhận cho tất cả thế gian cùng đi đến chỗ của Như Lai. Nhưng kẻ phá giới thì Như Lai ngăn lại, vì chẳng phải là đệ tử của Phật, huống hồ là trụ trong giáo pháp của Như Lai dù chỉ một ngày.

Này Xá-lợi-phất! Ví như người chết, rắn cết, chó chết, rất là hôi thối, chư Thiên thanh tịnh khi sắp sắp dạo chơi đều không muốn nhìn thấy những thây chết kia, nếu trông thấy thì tránh xa.

Như vậy, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới cũng như ba thây chết kia, bất tịnh, hôi thối, người trí xa lìa, không cùng đồng sự bố tát, tự tứ.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới ở trong giáo pháp của ta, chính là điều không an lành. Tỳ-kheo giữ giới thấy Tỳ-kheo phá giới kia tức liền xa lìa. Vì sao? Vì nếu Tỳ-kheo phá giới tiếp xúc và thọ nhận các vật thì đối với người giữ giới tức là sự xấu ác.

Này Xá-lợi-phất! Giả sử ba thây chết ô uế hôi thối đầy khắp nơi đại địa, Như Lai có thể ở nơi ấy thực hành bốn oai nghi, không thể cùng ở với Tỳ-kheo phá giới dù chỉ một khoảnh khắc. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Đó là sự thấp kém trong hàng Sa-môn, là sự hư hoại trong hàng Sa-môn, là chỗ cặn bã, là sự cấu uế, ngầu đục trong hàng Sa-môn, là sự nhiễm ô, tà vạy, thô bỉ, làm mất Thánh đạo trong hàng Sa-môn, những người như thế, ở trong giáo pháp của ta xuất gia cầu đạo là phạm tội nặng.

Này Xá-lợi-phất! Những người như vậy ở trong giáo pháp của Như Lai gọi là nghịch tặc, là giặc của chánh pháp, là kẻ khi dối hư trá, chỉ mong cầu cho đời sống tham chuộng về y phục, thức ăn, tức gọi là kẻ làm đầy tớ cho sự vui thích ở thế gian.

Này Xá-lợi-phất! Ví như kẻ huỳnh môn chẳng phải là nam, chẳng phải là nữ, Tỳ-kheo phá giới cũng lại như vậy, không gọi là tại gia, không gọi là xuất gia, sau khi mạng chung tất bị đọa vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Ví như loài dơi muốn bắt chim thì vào hang làm chuột, muốn bắt chuột thì bay lên hư không làm chim, kỳ thật không có công dụng của loài chim, chuột, thân tướng hôi thối chỉ thích chỗ tối tăm.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới cũng lại như vậy, đã không nhập vào hàng Tăng chúng để bố tát, tự tứ, lại cũng không nhập vào hạng phục dịch nơi cửa quan, vua, không gọi là cư sĩ, không gọi là xuất gia, như thiêu đốt thây chết cây củi còn sót lại chẳng dùng được gì, Tỳ-kheo như thế không có phẩm chất về giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, chỉ có đầy đủ phần phá bỏ giới tịnh, không thể làm phát ra âm thanh vi diệu, lớn lao, là âm thanh của giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, chỉ phát ra âm thanh hủy hoại giới pháp hết sức xấu xa đồng với kẻ xấu ác phát ra tiếng ác. Chỉ bàn tán về y phục, thức ăn uống, giường nằm, thọ nhận sự bố thí về cây trái, hoa quả, bị người giàu sang sai khiến. Lại bàn luận những việc tốt xấu, an ổn, nguy hại của đất nước, những sự việc cười đùa nơi đám đông với những ngôn ngữ bất thiện, ngày đêm luôn tìm cầu việc nhiễm ô ở đời. Tỳ-kheo như vậy là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp đều không thanh tịnh, sẽ bị đọa vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới ấy thích ở chốn tối tăm, giống như loài dơi kia nghe giảng nói về kinh điển thì lấy làm lo buồn. Vì sao? Vì kinh đã nêu giảng đúng sự thật, còn người ở thế gian không thích nói thật, chỉ thích thuận theo ý muốn. Tỳ-kheo như thế đối với việc giảng nói giáo pháp tâm không thanh tịnh, càng nặng tội thêm, mau ra vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Đấy là điều sầu khổ thứ năm của Tỳ-kheo phá giới, chắc chắn sẽ bị đọa vào cõi ác nhất.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới không biết xấu hổ, các căn tán loạn, hoàn toàn không thanh tịnh, oai nghi của thân, khẩu, ý nghiệp đều là bất tịnh, y phục được mặc nơi thân đều không đúng như pháp, vui thích nói dối, không thể giữ lời, tâm luôn giong ruổi đắm nhiễm theo nơi cấu uế.

Này Xá-lợi-phất! Như vật để nặn ra gạch ngói còn mới, lại đựng đầy các vật bất tịnh dơ dáy, sau bỏ các vật bất tịnh ấy đi rồi chứa hương chiên-đàn, lại bỏ hương chiên-đàn. Như vậy, vật để nặn gạch ngói đó có những mùi gì?

–Bạch Thế Tôn, Vật để nặn gạch ngói mới làm đó, trước đã đựng đầy các vật dơ dáy nên mùi hôi thối đã bám chặt, do vậy chỉ có mùi hôi chứ không có mùi chiên-đàn.

Này Xá-lợi-phất! Người dùng các căn thanh tịnh như Tín căn…

xuất gia học đạo, gặp tri thức xấu ác, bị lôi cuốn theo sự bày vẽ của kẻ ấy.

Này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là tri thức ác? Người tri thức xấu ác luôn ưa thích đùa giỡn, hấp tấp, không thận trọng, không biết hổ thẹn, lời nói lộn xộn, không thâu giữ các căn, tâm không chuyên chú si mê như loài vật. Thân cận với người tri thức ác như thế sẽ mất hẳn các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, thậm chí làm mất cả sự an lạc của hàng trời, người, huống hồ là có thể đạt được đạo quả Niết-bàn. Chỉ có thể tạo tác theo nghiệp, tội phá pháp cùng với kẻ phá pháp là đồng sự. Kẻ ấy hoàn toàn không thanh tịnh về thân, khẩu, ý nghiệp; không thanh tịnh về trì giới, sau khi thân hoại mạng chung, tất bị đọa vào đường ác.

Thế nào gọi là đường ác?

Đường ác đó là các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la. Lại có đường ác như cõi loài trùng A-do-lặc, Bà-già-la-mục-khư, Phù-di-tu-già-ca, Tu-chỉ-mục-ca. Người ấy phần nhiều sinh vào trong các loài trùng ấy.

Này Xá-lợi-phất! Người ấy theo tri thức ác nên nếu sinh trong cõi người thì cha mẹ sống thì lìa nhau, chết thì mất thân mất mạng, bà con thì suy kém, đất nước thì đói khổ, sinh trong tám thứ nạn, lìa bỏ tám nơi chốn an vui, nhiều tham dục, giận dữ, si mê, thường ưa thích đùa cợt không tự trọng, không hổ thẹn, lời nói lẫn lộn, sai lạc, không thâu giữ tâm, si mê như súc vật, bị tham dục, giận dữ, ngu si hủy hoại, cùng với người tri thức ác sinh vào chỗ không có Phật, nếu gặp Phật ở đời thì mắt không thích thấy, không thích nghe giáo pháp, không hòa hợp với chúng Tăng của Phật, luôn dấy khởi nghiệp ác. Người ác ấy ưa thích pháp thấp kém, ở trong chánh kiến sinh khởi tưởng về tà kiến, ở trong tà kiến dấy khởi tưởng chánh kiến, đó gọi là mong muốn thấp kém, nhẫn thấp kém, trí tuệ thấp kém.

Này Xá-lợi-phất! Người có trí tuệ thấp kém, hoàn toàn không thể vì chán lìa sinh tử mà khởi tâm cầu nẻo tịch diệt Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Gặp kẻ tri thức ác bị các thứ khổ não lo buồn hiện rõ hình tướng như vậy, người ấy nếu được nghe các kinh pháp sâu xa thì kinh hãi, sợ sệt, nghi ngờ như rơi vào hầm sâu, tức đó là tội nặng bị rơi xuống hầm sâu, vực thẳm. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Như trong kinh nói: Tỳ-kheo phá giới là phạm tội rất nặng. Do nhân duyên gì gọi là phá giới?

Phá: Là chỗ đã thọ giới mà khó có thể dùng lời để giáo hóa, hầu hết đều chống trái với nẻo hành vô thường, luôn hành theo tham chấp, xen tạp lẫn lộn, làm theo tham, sân, si, ưa thích các lời tạp loạn, đó gọi là phá giới. Lại còn ưa thích tạo nhiều sự việc, ưa tranh cãi, thích ngủ nghỉ, lời nói không thuận hợp, không có thứ tự, nói không thanh tịnh, tham chấp về ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, cho nên gọi là Tỳ-kheo tệ ác, không biết hạn chế, điều độ, không biết pháp của Sa-môn, không biết pháp của Bà-la-môn, thích làm theo y thuật, buôn bán để cầu lợi, ưa làm sứ giả của vua gây nhiễm ô các nhà, thích được các cư sĩ cung cấp, sai khiến, làm việc để nhận sự cúng dường các thứ cây trái, hoa quả. Thích làm kẻ tại gia nêu giảng pháp của ngoại đạo, tâm luôn xa lìa pháp xuất thế gian, chưa đủ hai mươi tuổi đã thọ giới Cụ túc, thọ giới mà các căn không đầy đủ, thân tướng thiếu sót, không thích hợp với giáo pháp. Thọ sinh vào chỗ có gạo lúa, tiền vải, vàng bạc, không thuận theo lời dạy, chống đối lại thầy, không tự biết thân mình, không biết về thân của người khác, không thể phân biệt sang hèn, ưa thích nói dối, tham chấp giới thủ, làm việc lẫn lộn, tâm không chuyên nhất, mặt mày giận dữ, tham tiếc, không tin, không biết ân nghĩa, phần nhiều ôm lòng tham dục, ham ngủ nghỉ, đùa cợt nghi ngờ, sân giận, che giấu tội ác, ưa thích tự chuyên giữ, ganh ghét, dua nịnh, không biết hổ thẹn, tự đại, buông lung, cao ngạo, ngã mạn, đại mạn, tà mạn, lừa dối, khen thân mình đẹp đẽ, hay dùng các phương tiện để mở bày cửa lợi dưỡng, lấn hiếp kẻ tại gia, giả hiện sự thân tình gắn bó, nhờ thế lực nên có được của cải khoe khoang với mọi người, phá hủy phẩm chất của giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, đối với Phật, Pháp, Tăng tâm không quyết tin tưởng, không tin về nghiệp báo, chỉ chú trọng nơi lợi ích hiện tại, cho là không có đời sau, luôn nghi ngờ về điều này, tâm tánh nông cạn, luôn luôn sợ hãi.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là Tỳ-kheo xấu ác thậm tệ, người ngu si như thế ở trong giáo pháp của Phật chính là phân thối ô uế, bất tịnh. Người ấy tạo đủ các nghiệp về thân, khẩu, ý không thanh tịnh, nên sau khi mạng chung bị đọa vào đường ác, rơi vào địa ngục lớn. Tỳ-kheo như vậy, chư Phật Như Lai và chúng đệ tử thường luôn xa lìa. Những người khác ưa thích đạo pháp, cầu sự giải thoát cũng đều tránh xa.

Này Xá-lợi-phất! Ví như chiên-đàn đem để vào trong đồ bất tịnh thì cũng trở thành bất tịnh, chẳng dùng lại được. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Người tại gia hay xuất gia nếu gần gũi với kẻ ấy, tập làm theo các hành phá giới, chẳng bao lâu sẽ đồng với kẻ ác, hủy hoại thân sắc, phá mất oai nghi, sau khi mạng chung tất sinh vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Người ác như thế, chư Phật Như Lai, chúng đệ tử cùng những người khác cầu đạo giải thoát thảy đều xa lìa.

Này Xá-lợi-phất! Ví như chiên-đàn để trong đồ bất tịnh thì không còn dùng trở lại được nữa. Như thế, này Xá-lợi-phất! Nếu hàng tại gia hay xuất gia dù dùng chiên-đàn kia để xoa nơi thân vẫn chỉ là uế tạp, bất tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo xấu ác ấy cũng lại như vậy, tuy ngồi trong chúng, tham chấp pháp phục của bậc Thánh thì vẫn hiện ra tướng Tỳ-kheo ác. Tỳ-kheo phạm hạnh thấy Tỳ-kheo bất tịnh ấy thì tránh xa, không gần gũi. Thấy người khác tránh xa thì tâm của kẻ ác kia liền tức giận, do nhân duyên này nên sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Đấy là điều khổ não thứ sáu của Tỳ-kheo phá giới, tất sẽ bị đọa vào cõi ác.

 

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới nghe Phật thuyết giảng các kinh như thế, tâm không thanh tịnh để hoan hỷ, tin tưởng vui thích. Tự có lỗi nên nghi ngờ kinh này, vì chúng ta mà giảng nói không phải vì những người khác. Vì sao? Vì Tỳ-kheo chúng ta có những sự việc ấy.

Này Xá-lợi-phất! Pháp thượng diệu không thể so sánh như vậy, Tỳ-kheo phá giới lại sinh giận dữ, đối với người giảng nói Pháp tâm phần nhiều không tin, được nghe Đức Phật giảng dạy như thế thì chống đối không lãnh thọ, lại nói như vầy: Đây chẳng phải là Phật nói để giáo hóa mà là người khác nói. Vì sao? Vì Tỳ-kheo phá giới không ưa thích tu đạo, do Tỳ-kheo tu đạo không trái lời Phật dạy. Đây đều là pháp ác ngu si, phá giới, vì tâm không tin nên làm trái với lời Phật giảng dạy. Tỳ-kheo như thế tự biết có lỗi, nhưng sinh giận dữ, kiêu mạn bướng bỉnh, tâm tà mạn xấu ác phỉ báng Phật, Pháp, Tăng.

Này Xá-lợi-phất! Do Tỳ-kheo ấy nghe các kinh điển chống trái không tin, nên tâm không thấu tỏ về nẻo Bồ-đề vô thượng, chỉ dạy cho mọi người chẳng phải là lời Phật giảng nói.

Này Xá-lợi-phất! Phật nói người ấy là hủy báng chánh pháp, do hủy báng giáo pháp cho nên không phải là Sa-môn, chẳng phải là con cái của dòng họ Thích, nên trừ bỏ các Tỳ-kheo ấy. Nếu trăm ngàn vạn ức chư Phật xuất hiện phá diệt mọi hoặc, nghiệp hiện có của chúng sinh, cũng không thể làm cho kẻ xấu ác kia giác ngộ đạt được đạo quả. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Kẻ ác như vậy ở trong giáo pháp tự làm chướng ngại cho đạo, lại không sống với đạo,

không có tín tâm, chỉ ưa thích y phục, các thức ăn uống, ham thích lợi dưỡng ở đời, ta nói người này nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Như Lai nay sẽ giảng rõ cho ông biết, người nào chống trái pháp báu như thế, thì đối với nơi chốn thọ sinh tốt đẹp vĩnh viễn không hề có, chỉ sinh vào chốn xấu ác luôn bị mù lòa không có mắt.

Này Xá-lợi-phất! Các Tỳ-kheo xấu ác, kiêu mạn đầy dẫy ấy không thể khẳng định là đã phá diệt pháp của Như Lai, còn những người khác thì do không thể tự nuôi sống, vì lợi dưỡng nên theo phá diệt giáo pháp của ta.

Này Xá-lợi-phất! Pháp báu như vậy bấy giờ bị hoại diệt. Vì sao? Vì Pháp báu ấy luôn được tất cả chư Phật thảy đều cung kính, các Bích-chi-phật, A-la-hán cũng đều cung kính. Tỳ-kheo phá giới, người tăng thượng mạn nhất định không giảng nói về pháp này. Các Tỳ-kheo như thế lúc ấy khinh thường giáo pháp của ta, lại còn xa lìa, phần nhiều ôm lòng tham lam chuyên cầu sự sống, chuộng nơi tài sản lợi lộc bị ganh ghét trói buộc, luôn thích tranh cãi, cùng sinh hiềm khích không chịu kính thuận, không có oai nghi, tâm ý buông lung như đàn khỉ vượn, thay đổi hình tướng tạo các nghiệp ác, trái với pháp của Sa-môn, xa lìa Hiền thánh.

Này Xá-lợi-phất! Người ác như thế che đậy lỗi lầm, phần nhiều tham cầu tiền của để nuôi sống thân mình, ma ác biết được tâm ấy nên dùng làm phương tiện, khiến kẻ kia luôn tạo sự chống trái đều cùng hủy hoại chánh pháp, một vị Tăng bảo phân làm năm phần, đã có năm phần thì sinh tranh chấp, cùng nhau bàn nói về lầm lỗi, thị phi đủ loại.

Này Xá-lợi-phất! Như Tỳ-kheo hiện nay, cùng nhau giáo hóa, cùng nhau cung kính, đồng tâm cùng hành thuận theo lời dạy của Phật. Bấy giờ, các Tỳ-kheo không cùng giáo hóa, không cùng cung kính, thấy kẻ tạo ác thì lo sợ bỏ đi không thể dùng giáo pháp để chỉ dạy hướng dẫn. Hoặc lúc tuy có người học rộng hiểu sâu, lại ôm lòng kiêu mạn, khinh chê người khác, do đó đều dùng chỗ hiểu biết của mình để tự lập tự chuyển, gặp nhau còn không vui huống hồ là có thể thọ nhận lời dạy của Phật.

Này Xá-lợi-phất! Như Lai ở đời thì Tam bảo là cùng một vị. Sau khi ta diệt độ thì chia làm năm phần.

Này Xá-lợi-phất! Ngày nay ma ác vẫn còn ẩn thân, trợ giúp Điều-đạt phá hoại Pháp, Tăng của ta. Vì Như Lai là Bậc Đại Trí còn ở đời nên ma ác không thể tạo thành được việc ác lớn. Vào đời vị lai, ma ác sẽ biến thân làm hình tướng Sa-môn, nhập vào trong Tăng chúng, giảng nói vô số việc tà, khiến nhiều chúng sinh bị lôi cuốn vào nẻo tà kiến, vì họ mà giảng nói các pháp tà, đó là Di-lâu-đà-laca-lâu với các sự việc như: Tranh chấp dữ dội, năm bộ phận chia xẻ nhau, cho là niệm niệm diệt, cho là tất cả đều có, cho là có ngã, có chỗ thủ đắc. Lúc ấy ma ác giảng nói các sự việc tham chấp tà vạy như thế. Các sự việc như vậy, chẳng phải là chỗ nêu giảng của Phật và chúng đệ tử. Khi ấy, người ác kia bị ma ác mê hoặc đều chấp vào chỗ kiến giải, cho mình là đúng, kẻ kia là sai.

Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã dự kiến trong đời vị lai có những sự việc phá hoại chánh pháp như vậy nên giảng nói kinh sâu xa này, nhằm để đoạn trừ các sự chấp trước của ma ác.

Này Xá-lợi-phất! Vào lúc ấy, trong cõi Diêm-phù-đề, phần nhiều là người tăng thượng mạn, làm được chút ít thiện tự tiện cho là đắc đạo, sau khi mạng chung bị đọa vào cõi ác. Vì sao? Vì người ấy ở trong sinh tử tự cho mình đắc đạo, lại cũng khen ngợi nói người khác là đắc đạo, mạo nhận là Thánh nhân để được sự cúng dường. Người này đối với chư Thiên, người nơi thế gian chính là giặc ác lớn. Người ngu như vậy nghe nói về Đệ nhất nghĩa thì nghi ngờ, sợ hãi, như rơi vào hầm sâu.

Này Xá-lợi-phất! Có các Tỳ-kheo ưa thích sự việc ấy, cùng nhau tụ tập phá hoại giáo pháp giác ngộ vô thượng của Phật. Lúc này, người tăng thượng mạn chấp trước càng nhiều, ma ác lại làm mê hoặc tâm của người tại gia và xuất gia, khiến họ hành theo phi pháp. Người giảng nói chánh pháp ít được giúp đỡ, hỗ trợ, nên liền bị tan hoại, khó được tồn tại.

Này Xá-lợi-phất! Bấy giờ trong thế gian các Tỳ-kheo trẻ tuổi hầu hết đều là hàng lợi căn. Vì sao? Vì những người xuất gia do phiền não còn sót lại đã sinh trở lại trong cõi người, liền được xuất gia, các Tỳ-kheo ấy ưa thích nêu vấn nạn tìm cầu Phật pháp theo thật nghĩa đệ nhất.

Này Xá-lợi-phất! Khi ấy những kẻ tăng thượng mạn bị ma mê hoặc, chỉ cầu cho mạng sống, thật là hàng phàm phu tự xưng là A-lahán. Ở nơi chỗ các Tỳ-kheo trẻ tuổi kia cùng nói: Làm tốt nơi thân, khẩu, ý đấy là thật nghĩa đệ nhất của Phật pháp. Khéo giữ gìn giới tịnh, đọc tụng kinh pháp, siêng năng tu tập, hiểu biết sâu rộng, đó gọi là nhân duyên của thuận nhẫn, tức là tâm thanh tịnh tin Phật. Lại có thật nghĩa đệ nhất ông nên buộc tâm nơi duyên, chuyên niệm về Niết-bàn để diệt trừ ba thứ khổ, có thể nhàm chán xa lìa năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới. Các ông nên ở nơi vắng lặng, quán xét các pháp ấm, giới, nhập thảy đều là vô thường, tự quán về thân nơi vô số thứ bất tịnh. Các ông có thể quán xét như thế, thì sẽ đạt được quả Tu-đà-hoàn. Lại có thể đối với pháp năm ấm này quán xét sâu xa đều là vô thường, khổ, không, vô ngã, không có bền chắc, tức đạt được quả Tư-đà-hàm. Lại quán xét sâu xa dần dần đạt được quả A-na-hàm, đến quả A-la-hán, đó là thật nghĩa đệ nhất.

Các Tỳ-kheo trẻ tuổi lại hỏi:

–Ở trong giáo pháp của Phật, đạt được quả vị A-la-hán là Đệ nhất nghĩa chăng?

Chúng tôi cũng biết việc ấy đạt được quả vị A-la-hán là Đệ nhất nghĩa. Nay, năm ấm này là do nhớ nghĩ phát sinh hay không phải do nhớ nghĩ phát sinh?

Đáp:

–Năm ấm này là do nhớ nghĩ phát sinh, không có nhớ nghĩ thì không thể phát sinh.

Hỏi:

–Nhớ nghĩ và năm ấm khác nhau như thế nào?

Đáp:

–Như năm ấm, nhớ nghĩ cũng như vậy.

Hỏi:

–Nếu như năm ấm, nhớ nghĩ cũng vậy, thì ai là nhớ nghĩ năm ấm?

Đáp:

–Nếu không nhớ nghĩ năm ấm, thì không có Niết-bàn, tức thật có nhớ nghĩ năm ấm. Cho nên có tu tập tám Chánh đạo mới hội nhập vào Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Trong đời vị lai có nhiều Tỳ-kheo thành tựu được pháp nhẫn ấy.

Này Xá-lợi-phất! Bấy giờ, trong pháp hội có nhiều thiên chúng muốn nghe giảng nói về pháp thật nghĩa đệ nhất của Phật. Người tăng thượng mạn nghe nói như thế sinh tâm nghi ngờ, như rơi vào vực sâu, đều kinh ngạc nói với nhau: “Hôm nay giáo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sắp diệt tận mau chóng.”

Này Xá-lợi-phất! Trong ấy có các Tỳ-kheo thành tựu căn lành nói với các Tỳ-kheo ngu si, người tăng thượng mạn hoàn toàn già nua kia: Nếu chấp có tướng của năm ấm, tướng của mười hai nhập, mười tám giới thì không chấp nhận lời nói này, nên không vui, không thích, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi.

Này Xá-lợi-phất! Lúc ấy, chư Thiên tâm rất vui mừng cả bốn phương cùng nói lớn: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vẫn còn có các đệ tử giỏi, những vị này đầy đủ căn lành, không thích nghe giảng nói về pháp bất tịnh, đó là kiến chấp về ngã, về nhân. Chư Thiên nghe điều ấy thảy đều vô cùng vui mừng, khen ngợi tán thán các người lợi căn, ưa thích nêu vấn nạn, nhất định sẽ thành tựu pháp Nhẫn vô sinh. Các người ấy tập hợp lại một chỗ, cùng làm bạn bè, số người đã ít, uy lực cũng yếu.

Này Xá-lợi-phất! Lúc này, các đệ tử chân thật của ta, ở trong dòng họ của cha hãy còn không có lời nói yêu mến, huống hồ là được cúng dường để an trụ trong chùa tháp.

Này Xá-lợi-phất! Ông nên quán xét kỹ. Lúc ấy Như Lai liền bị xem nhẹ. Sau khi ta diệt độ, các đệ tử của ta thành tựu mọi sự tịch diệt thuận hợp, không còn thủ đắc nơi nhẫn, lúc ấy họ cũng bị xem thường. Vì thế cho nên ta ở trong vô số kiếp diệt trừ các oán địch, giáo hóa tất cả các hàng Thiên vương, Nhân vương, khiến tâm họ thanh tịnh. Sở dĩ như thế là nhằm khiến các đệ tử của ta được an ổn bên người cha.

Này Xá-lợi-phất! Nay Như Lai lấy tất cả thế gian, trời, người ra làm chứng. Như Lai đúng như pháp đã chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển bánh xe pháp vô thượng, các hàng Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên ma, Phạm thiên không thể chuyển được.

Này Xá-lợi-phất! Hiện việc như thế, sau khi Như Lai diệt độ, đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng của ta, các đệ tử muốn lưu truyền rộng rãi, các người ác kia không thể làm cho sáng tỏ, lại cũng không ban bố pháp không sợ hãi.

Này Xá-lợi-phất! Ví như đem bình đựng mật để ngã tư đường, mà nói: Nếu người nào có thể ăn chừng một tí chút thì thường không già chết. Bấy giờ, chư Thiên và người đời cầm đao, gậy để giữ gìn bình mật ấy. Khi giữ gìn mọi người nói với nhau: Nếu có người nào ăn một tí chút mật chúng ta sẽ giết họ.

Này Xá-lợi-phất! Trong số đó có người trộm nghĩ: “Mật nơi bình này ăn chừng một tí chút thì không già chết. Nay ta vì sao sợ chết mà không dám ăn, nếu được ăn rồi thì không sợ các người giữ gìn, cũng có thể luôn được không già, bệnh, chết.” Tâm quyết như vậy rồi thì không còn tiếc mạng sống, bèn đi thẳng đến chỗ để bình mật. Những người giữ gìn đều cầm con đao, gậy tranh nhau muốn giết.

Này Xá-lợi-phất! Người này, nếu có thể chưa bị đao gậy đánh chém mà đã ăn được một chút mật thì tránh khỏi suy yếu lại không còn già chết. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Có nhiều kẻ ác, ma ác và quân binh của ma muốn tiêu diệt giáo pháp của ta. Sau khi Như Lai diệt độ, nếu người nào có thể tùy thuận theo pháp không, thông đạt không còn nghi ngờ, tức đối với pháp tâm không thủ đắc, thành tựu thượng nhẫn, bấy giờ tuy bị kẻ ác xem thường, dốc sức phá hoại đạo pháp, người ấy nếu có thể không tiếc thân mạng, siêng năng tu tập tinh tấn, thông đạt các pháp là không sinh, không tạo tác thì sẽ được thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết.

Này Xá-lợi-phất! Như bình mật là dụ cho pháp Đệ nhất nghĩa của Phật. Chư Thiên, người đời giữ gìn bình mật là dụ cho người ác ưa thích làm việc của ma tự đánh mất lợi lớn, cũng ngăn chận người khác thực hành thật tướng, khiến họ mất hết lợi lớn.

Này Xá-lợi-phất! Người tăng thượng mạn đều là bè đảng với ma, trợ giúp việc ma, đều cùng chê bai nghi ngờ pháp không sinh diệt.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Người giảng nói pháp bất tịnh nêu kiến chấp về ngã, nhân, chúng sinh, kiến chấp về năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, chưa chứng đắc cho là đã chứng đắc, tâm chấp về sự đạt đạo, thủ đắc về Niết-bàn, đều còn chê bai về chánh pháp như thế. Vì sao? Vì những người này tham chấp nơi không, cũng chính là các ma, bị ma mê hoặc, dùng chánh pháp của Phật mà làm các việc ma.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người tại gia hay xuất gia, nghe pháp không ngã, không nhân, không chúng sinh, rốt ráo không, mà kinh hãi, nghi ngờ, sợ sệt, nên biết người này đã bị ma dẫn dắt sai khiến. Như Tỳ-kheo chỉ có hình tướng này chính là kẻ trộm phá chánh pháp, hủy hoại oai nghi.

Này Xá-lợi-phất! Người này tức đã theo kiến chấp về ngã, về chúng sinh, về có, về không, về thường, về đoạn đều là ma chẳng phải là đệ tử của Phật. Vì sao? Vì trong kinh Như Lai đã giảng nói: Tất cả thế gian đều là không, không có ngã và ngã sở, không có nhân, không có chúng sinh, không thường, không đoạn, không pháp nào là không bị hủy hoại. Người ác như thế cũng đều đọc tụng kinh ấy, giảng nói cho người khác, nhưng tâm tham chấp về ngã, về nhân. Người ngu như vậy gọi là tạo nhân đau khổ. Gọi là phản phúc bất thường, đều nhằm gây tranh chấp, nhiễu loạn, phá hoại Tăng chúng, gây nhiễm ô cho đạo pháp, là chỗ đục, cặn trong hàng Sa-môn, là sự xấu xa ô uế, gọi là chỉ có ngôn từ, gọi là Sa-môn dối trá, là sự bần cùng trong hàng Sa-môn, là kẻ phải gánh vác nặng nhọc, là kẻ khi dối chư Phật, là kẻ phạm tội ngũ nghịch.

Này Xá-lợi-phất! Người ấy gọi là loại giặc đại ác nghịch, gọi là tri thức ác, gọi là kẻ phá giới, là tà kiến, là ngoại đạo, là kẻ hành không thật, là bạn ác, gọi là loài quỷ sát hại, gọi là kẻ bệnh hoạn, thối tha, gọi là lửa dữ thiêu đốt, gọi là kẻ dua nịnh, gọi là kẻ rơi vào chỗ tối tăm, là kẻ đi vào rừng rậm, là kẻ bị cuốn theo dòng sinh tử, gọi là cùng tạo ra người ác, gọi là địa ngục, gọi là súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la, gọi là kẻ không đi vào đạo, gọi là kẻ lừa dối, là kẻ tự khen mình, là kẻ làm nghề xem tướng, là tiếng kêu to chát chúa, là kẻ nhân nơi lợi cầu lợi, gọi là kẻ làm nhơ xấu nhà người khác, là kẻ luôn đùa giỡn, là kẻ tâm tán loạn, là kẻ bị tham lam giết hại, gọi là kẻ sân hận giết hại, gọi là kẻ bị ngu si giết hại, là kẻ diện mạo tốt mà dối gạt, là sự suy não, là kẻ không giải thoát, là kẻ bị phiền não trói buộc, gọi là kẻ chẳng phải Sa-môn, chỉ là Sa-môn hình tướng, là hạng Sa-môn Chiên-đà-la, Sa-môn thối tha, Sa-môn cặn bã, gọi là kẻ khó đầy đủ, là kẻ khó nuôi dưỡng, là kẻ phá hoại oai nghi, là kẻ không biết hổ thẹn, là kẻ bị chặt đứt đầu, là người hủy hoại thân thể, là kẻ buộc ca-sa vào cổ, là kẻ tự vào chốn tối tăm, là kẻ nhiều tham dục, là kẻ nhiều giận dữ, là kẻ nhiều ngu si, là kẻ bị năm thứ phiền não trói buộc, che lấp; là kẻ bị chìm ngập, là kẻ hư giả, là kẻ rỗng không, là kẻ si ám.

Này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là rỗng không? Thoái thất đối với chư Phật, đối với tướng của bậc Hiền thánh, nên gọi là rỗng không. Dứt mất tất cả công đức của bậc Sa-môn và pháp của Samôn, nên gọi là rỗng không. Thế nào gọi là hư giả? Ở ngoài giáo pháp của bậc Thánh gọi là hư giả. Xa lìa các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, gọi là hư giả.

Này Xá-lợi-phất! Người ác như vậy có thể khiến cho ma vui mừng. Tham chấp sâu dày nơi pháp hư vọng nên đối với hàng phàm phu đã có đầy đủ tướng của kẻ tội ác. Không giống với người đạt được pháp nhẫn, đạt được các pháp của bậc Sa-môn và công đức của Sa-môn, nên trăm ngàn ức phần vẫn không đạt được một phần.

Này Xá-lợi-phất! Do đó, gọi là kẻ rỗng không, là kẻ hư giả. Song vì tham chấp sâu dày về lợi dưỡng của thế gian, chẳng phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, không đáng được cúng dường mà thọ nhận sự cúng dường, đó chính là giặc cướp, dựng cờ cùng giặc cướp, đó là kẻ giặc giết hại mọi người, kẻ ấy nơi thức ăn nuôi sống mình đều là những thứ không thanh tịnh, chỉ có người hướng đến đạo quả chứng đắc đạo quả mới có thể thọ nhận hết sự cúng dường, không phải như kẻ ấy. Cho nên gọi kẻ xấu ác kia là kẻ ăn đồ bất tịnh.

Này Xá-lợi-phất! do đó, gọi là kẻ rỗng không, là kẻ hư giả, ý ông thế nào? Nếu kẻ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, tham lam, giận dữ, tà kiến, kẻ ấy luôn sát sinh mà chẳng thường cướp đoạt mạng sống chăng?

–Bạch Thế Tôn! Không. Người tại gia sát sinh không đoạt mạng sống, thời gian sát sinh thì ít thời gian không sát sinh thì nhiều.

–Này Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Nếu người trộm cắp, thời gian trộm cắp là nhiều hay thời gian không trộm cắp nhiều?

–Bạch Thế Tôn! Thời gian không trộm cắp nhiều.

–Này Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Nếu người tà dâm, thì thời gian tà dâm nhiều hay thời gian không tà dâm nhiều?

–Bạch Thế Tôn! Thời gian không tà dâm nhiều.

–Thời gian nói hai lưỡi, nói lời thêu dệt, nói lời thô ác, tham lam… giận dữ là nhiều hay thời gian không giận dữ nhiều?

–Bạch Thế Tôn! Thời gian không giận dữ nhiều.

–Này Xá-lợi-phất! Trong mười đạo bất thiện ấy, tội gì là nặng?

–Bạch Thế Tôn! Trong mười điều bất thiện, tà kiến là tội nặng. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Tà kiến là tâm luôn cấu uế, luôn chấp trước, tâm không thanh tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Nay Như Lai nói với ông: Nếu có người trong một ngày giết hại trăm ngàn vạn ức chúng sinh, một ngày trộm cắp trăm ngàn thứ vật báu như vàng bạc; người tà dâm ngày đêm không dừng, người nói dối luôn lừa gạt mọi người, người nghiệp miệng không thanh tịnh, không nói một lời chân thật; người nói hai lưỡi luôn phá sự hòa hợp, cùng giúp người gây chia rẽ; người ác khẩu miệng thường ác, nghịch, thậm chí không nói một lời nào nhu hòa; người nói lời thêu dệt không có cội gốc nơi sự việc của người đời, dùng vô lượng lời nói tạp loạn khác; người tham lam đối với vật của người khác sinh tâm phi pháp; người giận dữ không có duyên cớ mà cứ dấy khởi đủ thứ sân hận; người tà kiến thì ưa thích làm trái đạo.

Này Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Nếu người nào đã tạo đủ các pháp bất thiện như vậy là tội nặng không?

–Bạch Thế Tôn! Rất nặng.

–Này Xá-lợi-phất! Ta nói cho ông rõ. Nếu người trong một trăm năm tạo đủ mười tội bất thiện như thế, còn Tỳ-kheo phá giới chỉ trong một ngày một đêm thọ nhận cúng dường của người khác, thì tội này nặng hơn trường hợp trước. Vì sao? Vì người sát sinh kia nhiều người đã biết, nhiều người đã rõ điều xấu ác của người ấy, ai cũng nhận biết người ấy đã giết hại cướp đoạt mạng sống. Còn tội của người uế trược là làm cấu nhiễm, là người không thiện, không có đức, mọi người xa lìa.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Người sát sinh cướp đoạt nhiều mạng sống của người khác, hoặc sinh tâm nhàm chán, tự biết là sai trái phải chịu tội báo. Còn mọi người đều biết kẻ xấu ác kia không có giới đức, uế trược đối với người ấy không thể cầu mong công đức, thậm chí tách sợi lông ra thành trăm phần cũng không được một phần, huống chi gọi là ruộng phước để cúng dường. Lại nữa, này Xálợi-phất! Người tạo tội sát sinh ấy đối với gia đình vợ con của họ cũng như mọi người đều biết, nên không cùng cung kính, hãy còn không mời ngồi huống hồ là cúng dường. Người sát sinh ấy lấy tài sản để tự nuôi sống và nuôi dưỡng vợ con, hoặc có lúc cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, nhờ nghiệp báo này mà gặp được Thánh hiền, gặp các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni giảng nói đạo pháp, chỉ dạy việc xa lìa sự giết hại, xả bỏ nghiệp giết hại, nên ở trong Phật pháp được xuất gia, không bị chướng ngại. Được xuất gia rồi, gần gũi Thiện tri thức, đạt được quả vị Sa-môn, người này ở đời hiện tại thọ nhận tội báo nhẹ không làm chướng ngại Thánh đạo, tránh khỏi rơi vào ba đường ác.

Này Xá-lợi-phất! Ở trong Phật pháp có các Tỳ-kheo, chẳng phải là Sa-môn mà nói là Sa-môn, chẳng phải là phạm hạnh tự nói là phạm hạnh, đoạn dứt các căn lành, làm cản trở sự tu tập đạt tới Niết-bàn, mê hoặc làm mất Thánh đạo, phá bỏ nhân duyên của đạo, phá bỏ các pháp lành, thực hành việc của ngoại đạo, đi vào đường ác với nhiều giặc ác, tuy có thọ mạng nhưng cả đời luống uổng như người chết, hình sắc tiều tụy, khốn khổ, mất hết oai nghi, ở trong pháp Phật gọi là cấu nhiễm, gọi là giặc của chánh pháp, gọi là kẻ chống đối, gọi là kẻ bị ma sai khiến, giống như đi bên hố xí, cũng như thây chó chết, chỉ như hình tướng Sa-môn đồng mặc pháp phục Sa-môn, nhưng không hành theo pháp của Sa-môn.

Này Xá-lợi-phất! Ví như chồn hoang ở nơi đám sư tử, cũng như hạng huỳnh môn ở trong chúng Chuyển luân thánh vương, cũng như đám khỉ vượn ở chỗ chư Thiên, cũng lại như con lừa ở trong đám voi chúa, cũng như người mù ở nơi chúng đạt được Thiên nhãn, cũng như con dơi ở trong đám Kim sí điểu.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới ở trong đại chúng của ta, khiến trăm ngàn vạn ức các chúng chư Thiên, thấy Tỳ-kheo ấy có mặt nơi đại chúng thảy đều rất buồn khổ, nói như vầy: “Người ác như thế sao có thể tham dự bố tát, đó là bè đảng với ma, muốn lãnh hội đạo Phật vô thượng nên hướng về hàng tại gia để nghe giảng nói.” Lại còn các hàng rồng, quỷ thần… tin ưa Phật pháp cũng lớn tiếng quát mắng Tỳ-kheo xấu ác ấy, làm sao lại ở chỗ này để ẩn giấu thân hình, giống như con ngựa xấu ở trong đám ngựa đã được điều phục tốt. Người ngu si như vậy tự cho là không ai thấy biết về mình làm ác, tự ẩn giấu ở đây là lừa dối cả hàng trời, người, cũng là giặc trong tất cả hàng trời, người, đại chúng cùng thấy rồi càng chê trách.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo tạo tội ác như vậy, nên bị chư Thiên nhận biết là giặc ác, hàng cư sĩ cũng vậy, thế mà thọ nhận sự cúng dường, ngưỡng mộ, lễ bái, chắp tay cung kính. Người ngu si đó giống như thây chết. Y phục đang mặc đều là trộm cắp mà có. Đồ ăn trong bát đều là trộm lấy, không ai gần gũi, thậm chí một ít nước uống cũng đều là trộm cắp mà được.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới đi đến phương nào, hoặc đến phương Đông, phương Tây, Nam, Bắc đều là trộm đất mà đi. Vì sao? Vì người ấy với các pháp hành oai nghi hiếm có đều là trộm cắp, đều là giả làm kẻ trộm. Mọi sự đi, đứng, nằm, ngồi, tới lui, nhìn ngắm, co duỗi, cúi ngửa, mặc y, cầm bát đều là như thế. Nay chỉ lược nói về thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Nếu có chỗ tạo tác hành động đều là giặc trộm cắp, giá có cạo tóc cho người ấy cũng là cạo tóc cho giặc. Tỳ-kheo phá giới với mọi thứ tạo tác đều là giặc tạo ra.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo xấu ác thậm tệ ấy, cho đến các việc như đại tiểu tiện, rửa tay… đều là pháp của giặc. Vì sao? Này Xá-lợiphất! Trong cõi Diêm-phù-đề đều có các quốc vương, các đại thần, vô số dân chúng hiện có và những quyến thuộc phi nhân, thì Tỳkheo ác này ở đấy chính là giặc cướp.

Này Xá-lợi-phất! Nếu các vua, đại thần đối với giặc ác đã không trông mong nơi công đức, không nói là bằng mình, không nói là hơn mình, thì Tỳ-kheo phá giới kia mặc pháp phục của bậc Thánh, đối với người ấy làm sao mong cầu có được công đức! Cho nên, nếu chấp thuận được ở lại cõi nước nhưng nếu biết là kẻ xấu ác thì thậm chí nhổ nước bọt trên đất cũng không cho. Vì thế, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo xấu ác mọi tạo tác nơi thân đều là việc làm của giặc, gọi là giặc thường xuyên, giặc lớn, dựng cờ theo giặc làm hại tất cả mọi người trong thế gian. Vì sao? Vì không có việc ác nào mà kẻ ấy không làm. Cho nên, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo tệ ác ấy đối với tất cả chư Thiên, người nơi thế gian, gọi là giặc lớn.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào đã bị tất cả hàng trời, người nơi thế gian gọi là giặc lớn, thì người ấy có thể thọ nhận tất cả những thức ăn uống chăng?

–Bạch Thế Tôn! Không thể.

–Này Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Người ấy chẳng phải là người đại ác chăng?

–Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.

–Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới, đối với tất cả chư Thiên và mọi người ở thế gian là kẻ có tội ác lớn, do ý nghĩa đó nên ta nói kệ:

Thà ngậm đá lửa

Nuốt, uống bể đồng Chẳng dùng không giới Ăn của tín thí.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới ấy, không có hình sắc, không có đức, không có chí nguyện, thân tâm nóng độc, luôn thấy mộng ác, không ưa thích ở một mình. Hoặc có lúc ở một mình, hoặc có khi đi một mình, thân thì run rẩy, sợ hãi, thấy người giữ giới thanh tịnh thì vội ẩn giấu lẩn tránh, tâm tánh tự hổ thẹn, không thích muốn gặp ai, khi thọ nhận sự cúng dường thì nghi ngờ, sợ hãi, ý thường dong ruổi, tán loạn, luôn có nhiều nhớ nghĩ, tham đắm của cải, lợi dưỡng, ưa thích đồ ăn ngon. Tỳ-kheo như vậy, sau khi mạng chung chắc chắn bị đọa vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là Tỳ-kheo phá giới bị sự khổ não thứ bảy, tất bị đọa vào cõi ác.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới ưa ở chỗ ồn ào, nhiều lời, luôn tán loạn, ý ưa thích ganh ghét, cùng làm bạn với kẻ phá giới, thường thích bàn luận về việc phá giới xấu ác. Do vì ưa thích nên không biết hổ thẹn, chống đối kinh điển thâm diệu, tâm nghi ngờ không tin. Hoặc có nghe giảng nói các kinh như vậy thì nghi ngờ chống đối, tranh cãi không thích nghe để lãnh hội, nhìn ngó khắp nơi, tâm không chuyên nhất, lấy tay bưng miệng ngước nhìn hư không, từ chỗ ngồi đứng dậy hủy báng giáo pháp của Phật, ôm tâm sân giận, chê mắng người thuyết giảng giáo pháp. Do các nhân duyên xấu ác tội lỗi như vậy, nên sau khi mạng chung nhất định bị đọa vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là Tỳ-kheo phá giới phải bị sự sầu não khổ sở thứ tám chắc chắn rơi vào cõi ác.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới chỉ thích tôn trọng các Hòa thượng, A-xà-lê, tán thán công đức của chư vị ấy là để cầu danh lợi nên xưng là người trì giới. Do để nuôi sống bản thân làm việc nương cậy nhờ vả, tùy tiện khéo léo luồn cúi không biết xấu hổ, giống như loài quạ đen. Tạo nhân duyên của hàng Tăng sĩ là để có được nhiều y phục, ăn uống đầy đủ, thân lực được khỏe mạnh, không biết hổ thẹn, nói năng không có thứ lớp, tay chân thô tháo, diện mạo ngơ ngác, ưa thích nhìn người nữ, không gần người nam. Người ác như vậy luôn bị mọi người khinh rẻ, các chúng trời, rồng, quỷ thần đều không xưng tán, cho đến chư Phật cũng không khen ngợi. Kẻ ấy tâm tánh nóng nảy, luôn ưa giận dữ, chúng Tăng đều từ bỏ không gì trợ giúp để có uy lực.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới như vậy, phần nhiều ở trong chúng Tăng tìm kiếm để có oai lực, chưa hỏi mà đáp, luôn xét nét lỗi lầm nơi người khác, thấy người tịnh giới cho là khi dối. Đối với người dốc cầu đạo pháp thì không đồng với pháp được ưa thích ấy. Đối với kẻ hay tranh cãi riêng khác thì vui vẻ tán trợ.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là sự khổ não thứ chín của Tỳ-kheo phá giới, chắc chắn bị đọa vào cõi ác.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới ưa thích việc của người khác, nắm giữ lý của mình, có chỗ tranh chấp thì lấy làm vui mừng. Y phục mặc để trang nghiêm nơi thân, học theo oai nghi của người khác để cầu có được đồ nằm tốt, có được lợi dưỡng an thân, thích được người khen ngợi, tiếc giữ của Đàn-việt lại keo kiệt nơi chỗ ở, sợ Tỳ-kheo tốt đến thấy lỗi của mình, ghét người trì giới, gần gũi kẻ phá giới, thường khen ngợi Bố thí, không khen ngợi Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Không khen ngợi hạnh tịch diệt xa lìa, ở chỗ vắng vẻ, luôn thích bàn luận về lỗi của người trì giới, cũng không khen ngợi người tu hạnh Đầu-đà, hoặc chỉ nói về việc kia, hoặc miệng nói lời thô ác càng tăng, hoặc nghĩ nhớ lời nói hư vọng, dựa cậy vào dòng họ nên hay thăm hỏi thân tộc, nhờ được ít nhân duyên nên ham thuyết pháp, luôn đem tâm dua nịnh nên ôm lòng nghi ngờ sợ sệt, chỗ oán ghét càng nhiều lâu ngày thành giặc cướp. Đối với người giữ giới thì ưa nêu vấn nạn, chê bai. Đối với người nói thật về sự khổ đau thì không muốn gần gũi. Ý không thích nghe những người khác đọc tụng, thọ trì các kinh như vậy. Đối với những người nghe giảng nói kinh này, tâm hoan hỷ thì cũng không thích thấy. Lại không thích nghe việc khen ngợi pháp trì giới. Giảng nói kinh này cũng không đến nghe lãnh hội. Dù có đến nghe nhưng chẳng bao lâu liền trở về. Phần nhiều cùng với hàng tại gia kết làm tri thức. Luôn thích bàn nói về Tỳ-kheo giữ giới, chỉ được tự ý coi thường, càng làm các việc thô bạo, xấu ác.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là điều khổ não thứ mười của Tỳkheo phá giới, chắc chắn bị đọa vào đường ác.

Này Xá-lợi-phất! Sau khi Như Lai diệt độ, những người như thế đầy dẫy trong cõi Diêm-phù-đề, chuyên cầu lợi dưỡng để tự nuôi sống.

 

Phẩm 6: PHÁP THANH TỊNH

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Xưa Đức Phật Ca-diếp sắp thọ ký cho ta nói: Phật Thích-ca Mâu-ni thọ nhận nhiều sự cúng dường, nên giáo pháp sẽ mau bị diệt tận.

Này Xá-lợi-phất! Pháp của ta thật sự là do nhiều sự cúng dường nên về sau sẽ mau bị diệt tận.

Này Xá-lợi-phất! Ví như người nghèo gặp được kho báu lớn nên tâm rất vui mừng. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Trong đời vị lai, có nhiều Tỳ-kheo gần gũi với hàng tại gia thọ nhận sự cúng dường của họ, dần dần quen theo, ỷ lại vào những sự việc đó, tâm càng hoan hỷ lấy làm vui thích, giống như người nghèo được kho báu lớn. Người ngu si như vậy chuộng theo lợi dưỡng ở đời vui thích việc thế gian, làm kẻ hầu hạ. Nếu thấy Tỳ-kheo được nhiều người cúng dường, tâm liền cho là đạt được A-la-hán, gặp người tri thức ít ham muốn thì cho là người ác, Tỳ-kheo như vậy vì lợi dưỡng cho nên xả bỏ Phật đạo vô thượng, tùy theo chỗ ưa thích tức tạo thành các việc như thế.

Này Xá-lợi-phất! Hôm nay Như Lai vì những người ngu si ấy mà giảng nói những kinh như vậy. Vì sao? Vì Tỳ-kheo phá giới nghe giảng nói kinh này liền sinh tâm hối cãi, nên trở lại giữ giới, không làm giặc lớn thọ nhận sự cúng dường của người khác.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có Tỳ-kheo được nghe kinh này, tâm không thanh tịnh, không ưa thích, thì đó gọi là Tỳ-kheo xấu ác thậm tệ. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo giữ giới thanh tịnh không có pháp nào là không ưa thích. Nếu nói Bố thí, hoặc nói Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, hoặc nói kẻ có tâm chán sợ kinh pháp như thế, thảy đều ưa thích.

Này Xá-lợi-phất! Có ba hạng người nghe giảng nói kinh này thì tâm lo sầu. Những gì là ba?

  1. Tỳ-kheo phá giới.
  2. Người tăng thượng mạn.
  3. Kẻ giảng nói pháp không thanh tịnh.

Lại có ba hạng người nghe giảng nói kinh như thế thì sinh tâm sầu não. Những gì là ba?

  1. Kẻ có kiến chấp về người.
  2. Kẻ kiến chấp về thọ mạng.
  3. Kẻ có kiến chấp về ngã.

Này Xá-lợi-phất! Hôm nay Như Lai nói rõ cho ông hiểu, như Thiện tri thức khéo léo, đem tâm thương xót vì người cầu lợi dưỡng, cầu an lạc, cầu yên ổn, các ông nhất tâm lắng nghe thọ nhận lời giảng dạy của Như Lai. Luôn cầu điều lợi về nẻo thiện, tâm chớ có buông lung.

Này Xá-lợi-phất! Người thuyết pháp không thanh tịnh có năm lỗi lầm. Những gì là năm?

  1. Tự nói mình hiểu biết hết Phật pháp.
  2. Khi giảng nói kinh Phật, giữa chừng nói ra những lời chống trái, sai lạc.
  3. Ở trong các pháp tâm nghi ngờ, không tin.
  4. Tự lấy chỗ nhận biết của mình chẳng phải là pháp của kinh khác.
  5. Vì lợi dưỡng nên giảng nói pháp cho mọi người.

Này Xá-lợi-phất! Người giảng nói như vậy Như Lai nói người này sẽ bị đọa vào địa ngục, không đạt đến Niết-bàn.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo giảng nói pháp ở chỗ đại chúng, đối với người tin thích pháp thì trải tòa cao, xả bỏ chánh pháp của Phật giảng nói pháp của ngoại đạo, trau chuốt lời văn: Xưa ta chịu khổ dốc sức cầu pháp báu ấy mà người ác này đã gạt bỏ không thuyết giảng, chỉ dùng những nghĩa câu mâu thuẫn trong kinh, cùng nêu bày phải trái, không thuận theo chánh pháp. Ở trong pháp của bậc Thánh tâm cao ngạo, tự đại, tùy ý giảng nói vì cầu lợi dưỡng.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Tỳ-kheo giảng nói pháp, xen tạp ý nghĩa của ngoại đạo, lại có Tỳ-kheo thiện siêng năng cầu đạo pháp thì vị ấy nên từ chỗ ngồi bỏ đi. Vì sao?

Này Xá-lợi-phất! Có hàng tại gia tin pháp trải tòa ngồi cao để nêu giảng, không nên giảng nói về nghĩa, lời của ngoại đạo. Nếu không bỏ đi thì chẳng phải là Tỳ-kheo thiện, cũng không được gọi là tùy thuận lời dạy của Phật.

Này Xá-lợi-phất! Giảng nói pháp rất khó. Người giảng nói như vậy, Như Lai bảo người này chính là ngoại đạo, đệ tử của Ni-kiền tử, chẳng phải là đệ tử của Phật. Người nói pháp ấy, sau khi mạng chung, sẽ sinh vào đạo của Ni-kiền tử. Thế nào gọi là đạo của Nikiền tử? Tà kiến là đạo của Ni-kiền tử.

Những gì là tà kiến? Đó là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Thân chưa chứng đắc pháp mà ngồi tòa cao, tự thân không biết mà dạy người khác, tất bị đọa vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên như vậy, Như Lai đều biết, các đệ tử của ta kia dùng vô số pháp môn, vô số nhân duyên, vô số kiến giải để diệt phá chánh pháp của ta.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có chúng sinh nghe kinh giảng nói về Đệ nhất nghĩa không ấy là pháp không thật có, tâm sinh hoan hỷ, nên biết người này là đệ tử chân thật của Như Lai.

Này Xá-lợi-phất! Đời quá khứ có năm trăm người mù đi trên con đường dài đến một thành lớn, bị đói khát cơ cực, bèn sai một người mù ở bên ngoài giữ đồ vật, những người còn lại thì đi vào trong thành xin những thức ăn uống. Thời gian chưa lâu có một người dối trá đến chỗ người mù giữ đồ vật và nói:

–Ồ vì sao người đứng một mình vậy?

Đáp:

–Tôi có nhiều người bạn nhưng đã đi vào thành xin ăn.

Người dối gạt nói:

–Người biết không? Chỗ kia có cuộc bố thí lớn nào y phục, thức ăn uống, chuỗi ngọc, hoa thơm, cùng nhiều thứ khác nữa tùy ý mà thọ nhận. Nếu ông cần tôi sẽ dẫn ông đến đó.

Đáp:

–Rất cần.

Người dối gạt bèn dắt người mù vừa rời khỏi chỗ cũ liền cướp đoạt hết các đồ vật. Những người mù vào thành xin ăn được rồi trở lại chỗ cũ. Người dối gạt lại hỏi với những người mù:

–Các ông đã gặp được hội bố thí lớn chăng?

Đáp:

–Không gặp.

Người dối gạt nói:

–Các ông đã được các đồ vật ấy nên để ở đây, tôi dẫn các ông đến hội thí lớn.

Những người mù nghe lời, nên cùng nhau để hết đồ vật lại một chỗ, đi theo người ấy. Người dối gạt dẫn hết năm trăm người mù đi vào chỗ có hầm sâu nói với ho:

–Đất bằng tốt này có hội thí lớn, các ông nên quay mặt đi về phía Đông để thọ nhận những vật bố thí.

Tức thì đám người mù ấy nghe theo, bị rơi xuống hầm mà chết.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo đời vị lai thích đọc tụng kinh điển của ngoại đạo, nên khi thuyết pháp thường trau chuốt lời văn khiến cho mọi người vui thích. Lúc ấy, các ma ác chuyên mê hoặc mọi người, làm chướng ngại pháp lành. Nếu có người tham chấp vào âm thanh, lời nói khéo léo hay ho, trau chuốt câu chữ, hoặc lại có người thích đọc tụng kinh điển của ngoại đạo, ma đều làm cho họ mê hoặc, khiến tâm như được an ổn. Hoặc có Tỳ-kheo tu tập pháp của chư Phật thì khiến vị ấy nghi ngờ, cũng khiến cho nhiều người không cúng dường. Hoặc có Tỳ-kheo, hoặc hai vị, ba vị đã đọc tụng kinh Phật, ma lại sai khiến cầu kinh pháp của ngoại đạo, trước tự xem mình khen câu lời hay. Những người như vậy bị ma mê hoặc, ngăn che mắt tuệ, tham đắm sâu về lợi dưỡng, đọc sách ngoại đạo, giống như đám người mù bị người dối trá lừa gạt, đều khiến rơi xuống hầm sâu mà chết.

Này Xá-lợi-phất! Các người mù kia tức là các Tỳ-kheo ấy. Xả

bỏ Phật đạo vô thượng, cầu kinh sách của ngoại đạo. Người dối gạt kia là ma ác, hầm sâu là tà đạo.

Này Xá-lợi-phất! Như đám người mù xả bỏ vật đã có được, muốn đến hội bố thí lớn mà bị rơi vào hầm sâu. Các đệ tử của ta cũng lại như thế, bỏ cơm áo tầm thường chạy theo hội bố thí lớn là mong cầu sự cúng dường nhiều, tốt, vì tham lợi ở đời nên mất trí tuệ lớn, bị rơi vào hầm sâu là địa ngục A-tỳ.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Người không thanh tịnh giảng nói chánh pháp, không biết nghĩa lý, phương tiện của Như Lai, tự mình không hiểu biết đầy đủ mà chỉ dạy người khác, người ấy ở đời hiện tại mắc phải năm lỗi lầm, người khác không biết chỉ có các vị Tỳkheo đạt được Thiên nhãn và chư Thiên nhận biết. Những gì là năm?

  1. Khi thuyết pháp mang tâm sợ hãi, sợ người nêu vấn nạn với mình.
  2. Bên trong lo sợ mà bên ngoài thì giảng nói cho người khác.
  3. Vì là phàm phu nên không có trí tuệ chân thật.
  4. Thuyết giảng chỉ dùng lời lẽ mà không thanh tịnh.
  5. Giảng nêu không có thứ tự, chỉ là sao chép lộn xộn.

Cho nên ở nơi chúng hội tâm chỉ toàn là lo sợ. Phàm phu như vậy nên không có trí tuệ, tâm không quyết định, chỉ do kiêu mạn nhờ được chút ít nhân duyên mà cầu danh tiếng, tâm không tin tưởng mà lại giảng nói pháp cho người khác. Người ấy nơi đêm dài sinh tử đã tự thọ nhận mũi tên độc của tham dục, giận dữ, ngu si. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Người ấy không thể biết chắc chắn về các pháp mà giảng nói cho người khác, tâm không ưa thích, hoặc nếu có ưa thích thì cũng mau chóng mất đi.

Này Xá-lợi-phất! Ta biết rõ người giảng nói pháp không thanh tịnh có lỗi ấy nên không đạt được chánh đạo. Tất cả Tỳ-kheo không thể biết việc này, chư Thiên cũng không biết, chỉ có Như Lai mới biết được. Lại có người thuyết giảng pháp không thanh tịnh, như Tỳ-kheo không biết Như Lai tùy căn cơ thích hợp mà giảng nói, nên giảng nói cho người khác, ở trong các kinh nêu giảng là không có ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ mạng.

Nhưng người ấy tự dùng ngôn từ bàn luận để nói là có ngã, có nhân, có chúng sinh, có thọ mạng, tức là phỉ báng Phật, phỉ báng Pháp, phỉ báng Tăng, phỉ báng Tam bảo. Tội này chư Thiên và người đời không thể biết được, chỉ có Như Lai mới biết.

Này Xá-lợi-phất! Người ấy cũng gọi là giảng nói pháp bất tịnh. Ta biết rõ về tội lỗi ấy, các bậc đạt thần thông và chư Thiên cũng không thể nhận biết được, chỉ có Như Lai mới có thể biết rõ.

Này Xá-lợi-phất! Hôm nay Như Lai sẽ vì Tôn giả nêu ví dụ để giảng nói rõ.

Người nào không biết rõ nghĩa tướng của Phật đạo mà giảng nói giáo pháp bất tịnh cho người khác, thì người ấy rõ ràng là tạo tác đủ việc bất thiện.

Này Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Chúng sinh trong cõi Diêmphù-đề đích thị là nhiều chăng?

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

–Này Xá-lợi-phất! Nếu có người ác nào cướp đoạt hết mạng sống của mọi người ở cõi đó, thì người ấy đắc tội đích thực là nặng chăng?

–Bạch Thế Tôn! Rất nặng.

–Người ngu như vậy không hiểu biết về Phật đạo, mà lại giảng nói pháp bất tịnh cho người khác thì tội nặng hơn trường hợp trên. Vì sao? Vì người ấy là bất tịnh mà nêu giảng pháp là phá hoại đạo Phật vô thượng, cũng là hủy báng chư Phật ở quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Nếu có chư Phật thời quá khứ giảng nói tất cả các pháp đều rốt ráo là không, không có ngã, không có nhân, không có chúng sinh, không có tuổi thọ, không có mạng sống.

Này Xá-lợi-phất! Chư Phật đời vị lai thuyết giảng tất cả các pháp cũng rốt ráo là không, không có ngã, không có nhân, không có chúng sinh, không có tuổi thọ, không có mạng sống.

Này Xá-lợi-phất! Chư Phật hiện tại nơi hằng hà sa số thế giới trong mười phương giảng nói tất cả các pháp cũng rốt ráo là không, không có ngã, không có nhân, không có chúng sinh, không có tuổi thọ, không có mạng sống.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là giáo pháp vô thượng của chư Phật, nghĩa là tất cả các pháp không có thể tánh, cũng không thể thủ đắc nên là không, vì bản tánh vắng lặng, không sinh, không diệt, không có tánh tướng, vì tự tướng là không. Như Lai chỉ vì nhằm đoạn dứt các sự nhớ tưởng, phân biệt cho nên đã giảng nói những sự giác ngộ của chư Phật là không có phân biệt.

Này Xá-lợi-phất! Thế nào là phân biệt?

Gọi là phân biệt tức là các kiến chấp về ngã, nhân, chúng sinh, tuổi thọ, mạng sống, kiến chấp về thường, đoạn. Hàng phàm phu đã tạo nên các phân biệt như thế. Nếu người không có sự phân biệt như vậy, thì có thể hiểu rõ về tất cả pháp không là không có ngã, không có nhân, không có chúng sinh, không có tuổi thọ, không có mạng sống. Lúc suy nghĩ như vậy, tâm được hoan hỷ nên lãnh hội được Đệ nhất nghĩa không, không kinh hãi, không sợ sệt, thì người ấy biết được năm ấm là hư vọng, không chân thật, biết mười hai nhập, mười tám giới là hư vọng, không chân thật, người ấy cũng không phân biệt về Niết-bàn, không nghĩ nhớ về Niết-bàn, không nói là ta có thể nhớ nghĩ về Niết-bàn, nhờ đạt được pháp tịch tĩnh nên không phân biệt, chốn vắng lặng của pháp ấy cũng không phân biệt, cũng lại không thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là thuận nhẫn, người ấy ở trong pháp Thuận nhẫn đệ nhất nghĩa đó cũng không thủ đắc về tự tướng.

Này Xá-lợi-phất! Thế nào là tướng của thuận nhẫn?

Đó là vô tướng, là tướng của thuận nhẫn.

Này Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Nếu người đối với pháp thuận nhẫn này hãy còn không thủ đắc về tướng. Nếu người ấy lại thủ đắc về tướng của ngã, tướng của nhân, tướng của chúng sinh, tướng của tuổi thọ, tướng của mạng sống là điều không thể có. Nếu người thành tựu được trí tuệ như thế thì đáng được thọ nhận sự cúng dường, đó gọi là Phật tử, là người đã nhập vào định bất trụ.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là môn Đệ nhất nghĩa nơi pháp của chư Phật, tức là không có nhớ tưởng phân biệt, không đây không kia. Nhưng người ngu kia ở trong đại chúng đã giảng nói về tà kiến, tự đem sự nhớ tưởng, phân biệt để chỉ dạy người khác, đây là Phật pháp, đây là Thánh đạo. Người ngu như vậy phỉ báng chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Người ngu như thế gọi là tri thức ác, không phải là tri thức thiện.

Này Xá-lợi-phất! Oán thù tuy cướp đoạt mạng sống nhưng chỉ mất một thân, người ngu si như vậy giảng nói pháp bất tịnh là trong ngàn vạn ức kiếp đã tạo khổ não lớn cho các chúng sinh. Người ngu si ấy đã che lấp bản tâm Bồ-đề của Phật, tham chấp lại càng mạnh mẽ, nối tiếp không dứt. Do tham chấp cho nên mãi qua lại nơi năm đường, không có pháp thiện nên cứ mãi đi nơi đường sinh tử. Do đó, này Xá-lợi-phất! Người giảng nói pháp bất tịnh mắc tội rất nặng, lại cũng vì chúng sinh làm tri thức ác, vì phỉ báng chư Phật thời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Này Xá-lợi-phất! Bỏ qua chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề ấy, nếu có người cướp đoạt hết mạng sống của chúng sinh nơi tam thiên đại thiên thế giới, người giảng nói pháp bất tịnh thì tội còn nặng hơn trường hợp kia. Vì sao? Vì người ấy đã phá hoại đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật, là trợ giúp công việc của ma, cũng khiến cho chúng sinh nơi trăm ngàn vạn đời phải chịu các khổ não, chỉ có thể tự trói buộc, không thể khiến được giải thoát. Nên biết người ấy đối với các chúng sinh là tri thức ác, là kẻ nói dối, ở trong đại chúng hủy báng chư Phật. Do nhân duyên ấy nên bị đọa vào địa ngục lớn. Chỉ dạy cho nhiều chúng sinh làm theo tà kiến, do đó gọi là kẻ tà kiến xấu ác.

Này Xá-lợi-phất! Người thấy có ngã, có nhân, có chúng sinh, phần nhiều đều rơi vào nẻo tà kiến. Người theo kiến chấp đoạn diệt phần nhiều mau đạt được đạo. Vì sao? Vì dễ xả bỏ. Vì thế nên biết, người ấy thà tự cầm dao bén cắt lưỡi mình chứ không nên ở trong chúng giảng nói pháp bất tịnh.

 

Phẩm 7: THỜI XA XƯA

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Về thời quá khứ xa xưa, trải qua vô lượng, vô biên, vô số kiếp không thể nghĩ bàn, bấy giờ, có Đức Phật tên là Đại Trang Nghiêm, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Tuổi thọ của Đức Phật ấy là sáu mươi tám trăm vạn ức năm, có sáu mươi tám trăm vạn ức chúng đại đệ tử. Sau khi Đức Phật diệt độ, xá-lợi được lưu truyền khắp như sau khi ta diệt độ, đều không khác, chánh pháp trụ ở thế gian cũng là năm trăm năm giống như ta. Khi Đức Phật ấy diệt độ rồi, các đại đệ tử trong một ngày có đến một trăm Tỳ-kheo nhập Niết-bàn. Lại có hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm Tỳ-kheo nhập Niết-bàn. Trong một ngày, hoặc có mười vạn ức Tỳ-kheo nhập Niết-bàn, lần lượt như vậy. Đức Phật ấy đã có nhiều chúng tri thức, chúng đạt thần thông lớn, trong ba tháng đều nhập Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Chánh pháp của Đức Phật Đại Trang Nghiêm lưu truyền khắp, phần nhiều được hàng chư Thiên và loài người cung kính cúng dường.

Này Xá-lợi-phất! Đức Phật Đại Trang Nghiêm các bậc đại đệ tử sau khi diệt độ, dần dần có người nhận biết giáo pháp an ổn diệu lạc của bậc Sa-môn nên xuất gia học đạo mà không thấu rõ chỗ Đức Phật đã giảng nói các kinh thâm diệu về nghĩa “không” không gì sánh bằng. Do phần nhiều bị ma ác mê hoặc, khi giảng nói giáo pháp tâm dao động không quyết định, nên giảng nói chẳng thanh tịnh, nói có ngã, có nhân, có chúng sinh, có thọ mạng, không giảng nói tất cả các pháp là vắng lặng. Đức Phật đó diệt độ sau một trăm năm, các đệ tử phân chia thành năm nhóm:

  1. Phổ Sự.
  2. Khổ Ngạn.
  3. Tát-hòa-đa.
  4. Tương Khứ.
  5. Bạt-nan-đà.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo Phổ Sự, Tỳ-kheo Khổ Ngạn, Tỳkheo Tát-hòa-đa, Tỳ-kheo Tương Khứ, Tỳ-kheo Bạt-nan-đà này, là năm vị Tỳ-kheo làm thầy trong đại chúng. Tỳ-kheo Phổ Sự nhận biết Đức Phật đã giảng nói giáo pháp về nghĩa không chân thật, không có thủ đắc, còn bốn Tỳ-kheo kia thì rơi vào đường tà, phần nhiều nói có ngã, có nhân.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo Phổ Sự bị bốn bộ chúng kia khinh thường, cho là không có uy lực, phần nhiều đó là các kẻ thấp kém, xấu ác. Bốn Tỳ-kheo ác kia hầu hết giảng dạy cho mọi người theo đường tà kiến, ở trong pháp Phật không cùng cung kính, vì cùng chống đối nên muốn đoạn diệt pháp Phật.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có người nhận biết Tỳ-kheo Phổ Sự giảng nói về pháp không mà tin tưởng thọ nhận không chống đối, thì ta biết người ấy đời trước đã từng cúng dường năm ngàn Đức Phật, hiện có sáu mươi tám ức na-do-tha người đã nhập Niết-bàn. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Người ấy đã gieo trồng các căn lành nơi chư Phật đời quá khứ, tu tập không thủ đắc về pháp không nên nhập Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Bốn Tỳ-kheo Khổ Ngạn, Tỳ-kheo Nhất Thiết Hữu (Tát-hòa-đa), Tỳ-kheo Tương Khứ, Tỳ-kheo Bạt-nan-đà đều chấp là có thủ đắc, giảng nói pháp có ngã, có nhân, có chúng sinh, có thọ, có mạng, chúng càng thêm đông đảo. Bốn Tỳ-kheo xấu ác này phần nhiều khiến cho người tại gia và xuất gia trụ vào tà kiến, xả bỏ Đệ nhất nghĩa, không thấu đạt được pháp không rốt ráo, ham thích luận của ngoại đạo Ni-kiền Tử.

Này Xá-lợi-phất! Bốn Tỳ-kheo xấu ác ấy với số đệ tử tại gia và xuất gia hiện có luôn cùng theo đuổi cho đến khi pháp dứt.

Này Xá-lợi-phất! Trong số đệ tử đó có người nhận biết việc phi pháp nên thọ trì hành theo chánh pháp, tâm siêng năng tu tập vẫn còn không đạt được thuận nhẫn, huống hồ là đạt được quả Tu-đàhoàn. Người này hãy còn không thể tiêu hết các việc cúng dường, huống hồ là có thể phát sinh thuận nhẫn.

Này Xá-lợi-phất! Lúc ấy, hàng đệ tử tại gia và xuất gia kia phần nhiều bị đọa vào đường ác, không đến được nẻo lành, vì các Tỳ-kheo xấu ác ấy đã hủy diệt chánh pháp của Phật, cũng cùng làm cho nhiều người chịu sự khổ não lớn. Lại nữa, người xấu ác ấy, sau khi mạng chung sẽ bị đọa vào địa ngục A-tỳ, phải nằm ngửa chín trăm vạn ức năm, nằm sấp chín trăm vạn ức năm, nằm nghiêng bên trái chín trăm vạn ức năm, nằm nghiêng bên phải cũng chín trăm vạn ức năm. Nằm trên đất là sắt nóng, thiêu đốt, cháy nát vụn, trong đó chết đi sống lại nơi các địa ngục Chích, Đại Chích, Hoạt, Hắc thằng đều phải chịu các thứ khổ não như số năm nêu trên. Nơi địa ngục Hắc Thằng chết rồi sinh vào trong địa ngục lớn A-tỳ.

Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên ấy nếu người tại gia, xuất gia gần gũi với người đó, cùng các tri thức, các đàn việt, tất cả có sáu trăm bốn vạn ức người, cùng với bốn Tỳ-kheo là thầy đồng sinh đồng chết, ở trong địa ngục lớn chịu các thứ khổ thiêu đốt.

Này Xá-lợi-phất! Người ấy hiện có các nhà tri thức, các nhà đàn việt, các đệ tử cùng với thầy mình tùy thuận tạo tác gồm đủ số lượng đã nêu, đều sinh vào địa ngục.

Này Xá-lợi-phất! Các ông không thể biết rõ về số ấy là nhiều ít bao nhiêu, chỉ có Như Lai mới có thể biết những kẻ ấy. Cùng với những người ác kia bị đọa vào địa ngục lớn, đồng sinh đồng chết tất cả gồm có sáu trăm bốn vạn ức người, thứ lớp như vậy chịu khổ trong một kiếp, một kiếp lớn luôn bị thiêu đốt nơi địa ngục. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì phá hoại đạo quả Bồ-đề vô thượng của các Đức Như Lai. Tội ấy rất nặng, không phải nhẹ. Kiếp lớn nếu thiêu cháy rồi, thì bốn Tỳ-kheo ác kia cùng với sáu trăm bốn vạn ức người từ torng địa ngục lớn A-tỳ ấy, chuyển sinh vào địa ngục lớn ở phương khác. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì tội nặng gồm đủ như vậy thì quả báo không phải là ít. Ở nơi phương khác trong vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha năm thọ chịu khổ não lớn. Nơi thế giới được sinh trở lại, bốn Tỳ-kheo tội nhân ấy và sáu trăm bốn vạn ức người cùng với những kẻ khác tội chưa hết, ở cõi kia mạng chung thì sinh trở lại trong địa ngục lớn nơi cõi này.

Này Xá-lợi-phất! Bốn Tỳ-kheo tội nhân ấy cùng sáu trăm bốn vạn ức chúng sinh, rất lâu mới thoát khỏi khổ não ở địa ngục, được sinh vào cõi người, trong năm trăm đời, từ lúc sinh ra liền bị mù tối, sau đó gặp được Đức Phật Nhất Thiết Minh, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Này Xá-lợi-phất! Đức Phật Nhất Thiết Minh có một ức na-dotha đệ tử là hàng Thanh văn, dân chúng thân cao lớn ba trăm chín mươi sáu khuỷu tay, thân Đức Phật ấy tăng gấp bội lần luôn phát ra ánh sáng chiếu khắp mười vạn ức do-tuần.

Này Xá-lợi-phất! Người ấy ở trong giáo pháp của Đức Phật Nhất Thiết Minh xuất gia, nơi mười vạn ức năm, siêng năng tu hành tinh tấn, như cứu lửa cháy đầu, cũng không đạt được thuận nhẫn, huống hồ là đạt được đạo quả. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! do tội phát khởi phá hoại đạo quả Vô thượng Bồ-đề, là nhân duyên của nghiệp tạo tội ác nên phải chịu như vậy. Sau khi qua đời sinh trở lại vào địa ngục A-tỳ, do đời trước đã tạo nghiệp ác nặng.

Này Xá-lợi-phất! Những người ấy lần lượt luân hồi như thế, cho đến đời hiện nay là ta, ở trong khoảng thời gian ấy, đã gặp được chín mươi chín ức Đức Phật, ở chỗ chư Phật đều không đạt được thuận nhẫn. Vì sao? Vì Đức Phật giảng nói kinh sâu xa mà những người ấy không tin, lại phá bỏ, chê bai chống đối, các Tỳ-kheo giữ giới Thánh hiền do nhân duyên phát sinh tội lỗi xấu ác, hủy hoại đạo pháp, nên chịu như vậy.

Này Xá-lợi-phất! Ông nên quán xét, do phỉ báng Thánh nhân, không tin nơi lời dạy của bậc Thánh, nên phải thọ nhận vô lượng vô biên khổ não ấy, không được giải thoát.

Này Xá-lợi-phất! Những chúng sinh nào phát khởi tội phá hoại giáo pháp đã chống đối không tin, số ấy là vô lượng, ở nơi chín mươi chín ức trụ xứ của Phật với a-tăng-kỳ kiếp, thậm chí không có một người nào nhập Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Ai có thể hủy phá, không tin chống đối lời dạy của Phật? Chỉ có hàng phàm phu ngu si, những Tỳ-kheo xấu ác tăng thượng mạn, cùng những Tỳ-kheo giảng nói pháp bất tịnh. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Ba hạng người ấy không gọi là người tu hành, không gọi là người đắc đạo, vì những kẻ ấy không tin giáo pháp của Như Lai, lại chống đối, hủy báng.

Này Xá-lợi-phất! Ông cho đó là ai? Tỳ-kheo Khổ Ngạn giảng nói pháp bất tịnh tức nay là kẻ ngu si Đề-bà-đạt-đa. Ông gọi đó là ai? Tỳ-kheo Nhất Thiết Hữu (Tát-hòa-đa) giảng nói pháp bất tịnh tức nay là Tỳ-kheo Câu-la-ly.

Này Xá-lợi-phất! Ông cho đó là kẻ nào? Tỳ-kheo Tương Khứ giảng nói pháp bất tịnh nay tức là Tỳ-kheo Ca-tỳ-la. Ông gọi đó là ai? Tỳ-kheo Bạt-nan-đà giảng nói pháp bất tịnh nay tức là Sa-môn lõa hình Bà-lợi-ma-đà.

Này Xá-lợi-phất! Ông cho vị Tỳ-kheo thời ấy thuyết giảng pháp thanh tịnh như thật về đạo quả Bồ-đề của chư Phật, làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, nay tức là Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử đã thuyết giảng pháp thanh tịnh. Các vị theo học đã được gặp năm ngàn Đức Phật, có sáu mươi tám ức na-do-tha người đều đã diệt độ.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nói lời chân thật thì thế nào là đúng? Pháp sư tối thượng biết rõ về nghĩa lý của giáo pháp, là người giảng nói pháp thanh tịnh, thì phải nói là Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử.

Này Xá-lợi-phất! Phú-lâu-na do tâm định chắc chắn hiểu rõ nên chỗ thuyết giảng không khó khăn, không còn chỗ nghi ngờ để phát sinh bàn luận.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người giảng nói pháp thật, thì điều gì là thật? Tức là Pháp sư của tất cả nhân duyên, nên nói là Phú-lâu-na.

Này Xá-lợi-phất! Phú-lâu-na nhiều đời thọ sinh, luôn vì chúng sinh mà làm Phật sự, ở trong giáo pháp của chín mươi ức chư Phật, thường làm Pháp sư giảng nói pháp thanh tịnh đều ở chỗ của chư Phật trọn đời luôn tu tập phạm hạnh, giảng nói pháp thanh tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Phú-lâu-na đã ở trong giáo pháp của sáu Đức Phật làm Pháp sư, cũng ở trong giáo pháp của ta làm đại Pháp sư, thành tựu quả vị A-la-hán, tâm được giải thoát. Nếu người giảng nói chân thật, người nào đời đời cúng dường chư Phật, gieo trồng các căn lành, thì phải nói là Phú-lâu-na.

Này Xá-lợi-phất! Phú-lâu-na ở trong giáo pháp của chín mươi ức chư Phật, dốc tâm cầu học, luận giải rõ ràng, có trí tuệ sâu xa, cho nên Như Lai nói đó là vị Pháp sư bậc nhất trong số các Pháp sư.

Này Xá-lợi-phất! Nếu ta một ngày một đêm khen ngợi về công đức của Phú-lâu-na tất cũng không hết. Hoặc hơn một ngày một đêm cũng không thể nói hết được. Vì sao? Vì pháp thí của Phú-lâu-na không có nhân duyên của thế tục, cũng không tham cầu lợi dưỡng. Pháp sư Phú-lâu-na đạt được bốn trí vô ngại, chỉ trừ Như Lai, trong các thế gian về ngôn từ nghĩa lý không ai có thể hơn được.

Này Xá-lợi-phất! hôm nay Như Lai sẽ nói cho ông rõ. Nếu người nào muốn đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề, vì mọi người mà giảng nói giáo pháp, tức đạt được vô lượng vô biên phước đức, cũng có thể làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào phá hoại, chống đối, không tin pháp này, tức là phát khởi vô lượng nhân duyên của tội nặng. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Tạo ác có quả báo ác, làm thiện có quả báo thiện. Do điều ấy nên Như Lai hôm nay đem kinh này phó chúc cho ông, ông phải vì bốn chúng giảng nói rộng rãi, rõ ràng.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nghe kinh này tâm tin tưởng, vui mừng, thì được vô lượng vô biên phước đức. Nếu nghe mà không tin, tâm không vui thích, thì sẽ chịu vô lượng vô biên tội nặng.

Này Xá-lợi-phất! Nên biết người ấy là Tỳ-kheo phá giới, là kẻ tăng thượng mạn giảng nói pháp bất tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào chống đối giáo pháp như thế, thì đời đời thọ sinh luôn bị mù lòa.

Này Xá-lợi-phất! Hôm nay Như Lai nói rõ cho ông. Chỗ giảng nói của Như Lai hôm nay chẳng phải như người thợ gốm giỏi giang yêu mến che chở bao thứ gạch ngói. Hôm nay Như Lai vì bốn chúng phân biệt rõ ràng, giảng nói về pháp không rốt ráo của Đệ nhất nghĩa. Người có lòng tin vững chắc thì tồn tại. Kẻ không có lòng tin vững chắc thì phá bỏ. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Đức Phật đã đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề, không giảng nói pháp cho người tà kiến xấu ác, không giảng nói giáo pháp cho người chấp có ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng. Vì sao? Vì những kẻ tham chấp ấy đều gọi là tà kiến.

Này Xá-lợi-phất! Người chấp có ngã, có nhân như vậy, không thể đạt được thuận nhẫn, huống chi là đạt được đạo quả.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người theo kiến chấp về ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, kiến chấp về thường, đoạn, có thể đạt được thuận nhẫn, có thể đạt được đạo quả thì không hề có việc đó. Do vậy, này Xá-lợi-phất! Nếu người nào tạo nên các kiến chấp như vậy, thì ở trong giáo pháp của ta tức không thọ nhận được những sự cúng dường, chẳng phải là hành giả, cũng chẳng phải là người chứng đắc. Chỉ ở nơi giáo pháp của Như Lai tự cầu lấy mạng sống mà thôi.

Này Xá-lợi-phất! Ta nói hàng ngoại đạo muốn vào trong giáo pháp của Đức Phật, nên thử nghiệm qua bốn tháng. Vì sao? Vì những người ngoại đạo, phần nhiều đều theo kiến chấp có ngã, có nhân, có chúng sinh, có tuổi thọ, có mạng sống, có thường, có đoạn.

Này Xá-lợi-phất! Còn các đệ tử của ta thì không còn kiến chấp về những thứ ấy. Các đệ tử của ta chỉ giảng nói về pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, không thủ đắc nơi nhẫn, giảng nói thức là không có chỗ trụ.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào thành tựu được pháp nhẫn như vậy, Như Lai chấp nhận cho người ấy được xuất gia, thọ giới, được thọ mọi sự cúng dường về y phục, đồ ăn thức uống, đồ nằm, thuốc thang. Nếu người nào không đạt được pháp nhẫn ấy thì trước hết cần phải xét lại để chỉ dạy khiến cho an trụ vào pháp vô ngã.

Này Xá-lợi-phất! Nếu đối với pháp nhẫn ấy, tâm không hoan hỷ, thì nghe giảng nói về đệ nhất nghĩa không sẽ kinh sợ, nghi ngờ, chê trách. Nếu nghe nói về ngã kiến, tâm liền vui mừng, thì nên biết người ấy đã bị ma sai khiến, hoặc trước đã là ngoại đạo.

Này Xá-lợi-phất! Bậc trí tuệ đối với sự việc này không nên lo buồn, nhưng đối với người kia phải khởi tâm từ bi. Vì sao? Này Xálợi-phất! Nếu người nào tạo nên đầy đủ việc ác như thế, thì chỗ phải chịu quả báo ác không thể nói hết. Do đó, đối với người ấy phải sinh tâm làm lợi ích, chỉ dạy các pháp vô ngã, các pháp vắng lặng, các pháp không tạo tác, không có thọ nhận. Người ấy nếu ưa thích giáo pháp của Phật, nghe được các việc này tâm liền vui vẻ. Ngoài ra các Tỳ-kheo hành không, không thủ đắc, đều nên chỉ dạy, làm cho tâm họ đạt được lợi ích an ổn, vui vẻ, rồi vì họ giảng nói giáo pháp không, không thực có. Nếu họ nghe mà còn kinh sợ thì nên ở trong đại chúng thưa với các vị Hòa thượng A-xà-lê, như trong kinh nói về hành giả hành theo không. Lại có thể biết rõ tướng sai biệt của các pháp, dùng ta làm thầy. Không cùng với các kiến chấp về ngã, nhân, các thứ tà kiến điên đảo, tham chấp nơi người giữ giới làm thầy. Như Lai chấp nhận cho người có đầy đủ chánh kiến được cùng bố tát, không chấp nhận những người tà kiến phá giới, phá oai nghi cùng bố tát. Hàng đệ tử Trưởng lão nghe giảng nói về giáo pháp vắng lặng, không thật có, tâm không tin thích là ý tưởng ở nơi ngoại đạo, Phật không chấp nhận cùng với ngoại đạo bố tát. Người ấy nếu không xả bỏ các kiến chấp kia thì không nên cho nhập vào tăng chúng làm công việc của tăng, cũng không thọ nhận sự mong muốn chính đáng. Dẫn dắt như vậy mà vẫn không xả bỏ, thì nên biết người ấy không được ở với đạo, nên vĩnh viễn khai trừ, phải thưa với chư vị Hòa thượng A-xà-lê, không nên giữ lại.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Tăng chúng được như vậy thì đó là cúng dường Như Lai, cũng là khéo phá trừ tà kiến của ngoại đạo, tức gọi là thanh tịnh bố tát thuyết giới.

Này Xá-lợi-phất! Nay ta nói rõ cho ông biết, nếu người nào chấp nhận theo các kiến chấp về ngã, nhân, chúng sinh, kiến chấp về có, không, thì người này không gọi là người cúng dường Như Lai, không gọi là người theo ta xuất gia, thọ giới. Đó chính là xuất gia theo Lục sư, nhận Lục sư làm thầy.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào đối với pháp chân thật thanh tịnh ấy không thể đạt được thuận nhẫn mà thọ nhận sự cúng dường, thì người này với mọi chỗ đã có được đều là thọ nhận tà vạy.

Này Xá-lợi-phất! Người ấy tuy xuất gia ở trong giáo pháp của ta, giữ gìn giới thanh tịnh, nhưng đối với pháp Đệ nhất nghĩa không, không thủ đắc, tâm chẳng tin hiểu, lại kinh sợ, nghi ngờ, nên biết người ấy chỉ chú trọng về giữ giới, học rộng, thiền định.

Này Xá-lợi-phất! Người ấy không được gọi là người đã cung kính, cúng dường tôn trọng Như Lai. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Từ đời vô thỉ đến nay, không có chúng sinh là không đạt được bốn thiền. Nếu chỉ nhận biết về chỗ đạt được bốn thiền, cho là Sa-môn lợi căn, thì người ấy sao có thể được gọi là cúng dường Như Lai? Thế nên, này Xá-lợi-phất! Hôm nay Như Lai nói rõ cho ông, người ở đời vị lai, trong giáo pháp của ta, có vô số kẻ tham chấp, vô số kẻ tà kiến, hủy hoại giáo pháp của Như Lai.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào chỉ chuộng việc giữ giới, học rộng, thiền định, nên biết người ấy không thể thực hành thanh tịnh các pháp của Sa-môn. Ta tức không chấp nhận người này được gọi là Sa-môn tịnh hạnh.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào đối với tất cả pháp là vô ngã, thấy biết đúng như thật về vô ngã, các pháp xưa nay đều là không, không thật có, có thể nhận biết đúng như thật về không, không thật có, tức là đã không xem trì giới, học rộng, thiền định là trên hết. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Thật tướng của các pháp là không sinh, không diệt, trong đó, không có pháp nào được xem là trên hết.

Này Xá-lợi-phất! Trong các pháp như thật này, thì không có giữ giới, không có phá giới, huống chi là chấp trước mà cho là trên hết.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật. Nghĩa là tất cả pháp là vô tướng, tự tướng là không, không ngã, không nhân. Nếu đạt được nhẫn ấy thì đó là hành giả, là người chứng đắc, người ấy gọi là do tin hiểu mà xuất gia, nên thọ nhận sự cúng dường, bố tát thanh tịnh. Người ấy là hàng trời trong loài người.

Này Xá-lợi-phất! Chư Phật chứng đắc Vô thượng Bồ-đề chỉ là một nghĩa, đó là lìa bỏ. Thế nào là lìa bỏ? Là lìa bỏ các dục, các kiến chấp. Dục tức là vô minh, kiến chấp tức là nhớ nghĩ vọng tưởng. Vì sao? Vì nơi tất cả các pháp, nhớ nghĩ là gốc. Như vậy, mọi nhớ nghĩ hiện có tức là kiến chấp ấy, kiến chấp tức là tà.

Này Xá-lợi-phất! Kiến chấp trong pháp thiện ta cũng gọi là tà kiến. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì trong sự tịch diệt lìa dục thì không có pháp, không có phi pháp, không thiện, không ác, việc ấy đều là không, xa lìa tất cả nhớ nghĩ của mọi kết sử cho nên gọi là lìa bỏ.

Này Xá-lợi-phất! Trong đạo pháp vô thượng thì các dục vĩnh viễn dứt bặt.

Những gì là các dục? Đó là các niệm tà, bất thiện, hoặc ngã, hoặc ngã sở, tướng tạo tác, tướng của sự vật. Đấy gọi là trong đạo quả Vô thượng Bồ-đề các dục hoàn toàn dứt bặt.

 

Phẩm 8: KIẾN TỊNH

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Ta nhớ về đời quá khứ khi cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, gặp được ba mươi ức Đức Phật, đều hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Thời ấy ta đều làm Chuyển luân thánh vương, hết lòng cúng dường cho Phật và các đệ tử những thứ y phục, thức ăn uống, đồ nằm ngồi, thuốc thang, vì cầu đạo Chánh đẳng giác vô thượng, nhưng chư Phật ấy không thọ ký cho ta: “Ông ở vào đời sau sẽ thành Phật.” Vì sao? Vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời xa xưa gặp được tám ngàn vị Phật, đều hiệu là Định Quang. Lúc đó ta đều làm Chuyển luân thánh vương, hết lòng cúng dường cho chư Phật cùng các đệ tử y phục, thức ăn uống, đồ nằm ngồi, thuốc men để cầu đạo Chánh đẳng giác vô thượng, nhưng chư Phật ấy đều không thọ ký cho ta: “Ông ở đời sau sẽ thành Phật.” Vì sao? Vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở quá khứ, đã được gặp sáu vạn Đức Phật, đều hiệu là Quang Minh. Bấy giờ ta đều làm Chuyển luân thánh vương, trọn đời cúng dường cho chư Phật cùng các đệ tử y phục, thức ăn uống, đồ nằm ngồi, thuốc thang, vì cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, chư Phật ấy cũng không thọ ký cho ta: “Ông ở đời sau sẽ thành Phật.” Vì sao? Vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thời xa xưa đã gặp được ba ức Đức Phật, đều hiệu là Phất-sa. Lúc đó ta đều làm Chuyển luân thánh vương, cúng dường đầy đủ bốn sự, nhưng chư Phật ấy đều không thọ ký cho ta, vì ta còn có chỗ chấp giữ.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời quá khứ gặp được một vạn tám

ngàn Đức Phật, đều hiệu là Sơn Vương, kiếp tên Thượng Bát, ta đều ở chỗ các Đức Phật ấy cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, tu tập đạo quả Bồ-đề vô thượng, nhưng chư Phật đó đều không thọ ký cho ta, do vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở quá khứ đã gặp được năm trăm Đức Phật đều hiệu là Hoa Thượng. Lúc ấy ta đều làm Chuyển luân thánh vương, đều đem tất cả vật dụng để cúng dường chư Phật và các đệ tử, nhưng chư Phật đó đều không thọ ký cho ta, do vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời quá khứ đã gặp được năm trăm Đức Phật đều hiệu là Oai Đức, ta đều cúng dường đầy đủ, nhưng cũng không được thọ ký, vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở xa xưa, đã gặp được hai ngàn Đức Phật, đều hiệu là Kiều-trần-như. Bấy giờ ta đều làm Chuyển luân thánh vương, đều đem tất cả các vật dụng cần thiết cúng dường chư Phật, nhưng chư vị đều không thọ ký cho ta, vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời quá khứ đã gặp được chín ngàn Đức Phật, đều hiệu là Ca-diếp, ta đem bốn sự cúng dường cho chư Phật và các đệ tử, nhưng chư Phật đó đều không thọ ký cho ta, do vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời quá khứ, trong một vạn kiếp không có Đức Phật ra đời. Bấy giờ, nơi năm trăm kiếp đầu, có chín vạn Bích-chi-phật, ta đều hết lòng phụng trì, cúng dường tất cả y phục, thức ăn uống, thuốc thang, tôn trọng khen ngợi. Năm trăm kiếp tiếp theo, lại đem bốn sự cúng dường tám vạn bốn ngàn ức các Bíchchi-phật cùng tôn trọng, khen ngợi.

Này Xá-lợi-phất! Hơn một ngàn kiếp rồi, lại không có Bíchchi-phật, lúc ấy ta chết ở cõi Diêm-phù-đề, được sinh lên cõi Phạm thế làm Đại Phạm vương, lần lượt như vậy trong năm trăm kiếp, ta luôn sinh vào cõi Phạm thế làm Đại Phạm vương, không sinh vào cõi Diêm-phù-đề. Trải qua năm trăm kiếp này rồi, mới sinh xuống cõi Diêm-phù-đề cai trị giáo hóa cõi Diêm-phù-đề, khi mạng chung, được sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương, ở đó mạng chung được sinh lên cõi trời Đao-lợi làm Thích Đề-hoàn Nhân, thứ lớp như thế hết năm trăm kiếp, lại sinh lên cõi Phạm thế làm Đại Phạm vương.

Này Xá-lợi-phất! Ta ở trong chín ngàn kiếp chỉ sinh nơi cõi Diêm-phù-đề, trong chín ngàn kiếp chỉ sinh nơi cõi trời. Khi kiếp tận, thiêu đốt thì ta sinh lên cõi trời Quang âm. Thế giới ấy thành rồi thì sinh trở lại cõi Phạm thế, trong chín ngàn kiếp đều không sinh trong loài người.

Này Xá-lợi-phất! Trong chín ngàn kiếp này không có chư Phật và Bích-chi-phật, phần nhiều các chúng sinh bị đọa vào đường ác.

Này Xá-lợi-phất! Qua một vạn kiếp ấy rồi, có Đức Phật ra đời, hiệu là Phổ Thủ, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Bấy giờ, ta ở cõi Phạm thế mạng chung, sinh xuống cõi Diêm-phù-đề, làm Chuyển luân thánh vương, hiệu là Cộng Thiên, tuổi thọ của con người đến chín vạn năm, ta hết lòng đem tất cả các vật dụng tạo an lạc cúng dường Đức Phật ấy và chín mươi ức Tỳ-kheo, ở trong chín vạn năm vì cầu đạo Bồ-đề vô thượng, nhưng Đức Phật Phổ Thủ này cũng không thọ ký cho ta: “Ông vào đời sau sẽ làm Phật.” Vì sao? Vì lúc ấy ta không thể thông đạt được thật tướng của các pháp, lại tham đắm chấp ngã thấy có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ở trong kiếp này, có một trăm Đức Phật ra đời, danh hiệu đều khác nhau. Lúc đó ta đều làm Chuyển luân thánh vương, hết lòng cúng dường cho chư Phật và các đệ tử, vì cầu đạo Chánh đẳng giác vô thượng, nhưng chư Phật cũng không thọ ký cho ta: “Ông ở đời sau sẽ thành Phật”, vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở quá khứ, trong trăm a-tăngkỳ kiếp thứ bảy, gặp được một ngàn Đức Phật, đều hiệu là Diêmphù-đàn, ta đều trọn đời cúng dường bốn sự, nhưng ta cũng không được thọ ký, vì còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thời xa xưa, cũng trong trăm atăng-kỳ kiếp thứ bảy, đã gặp sáu trăm hai mươi vạn chư Phật, đều hiệu là Kiến Nhất Thiết Nghĩa. Lúc ấy ta đều làm Chuyển luân thánh vương, đem tất cả các vật dụng tạo an lạc hết lòng cúng dường cho chư Phật và các đệ tử, nhưng chư Phật đó cũng không thọ ký cho ta, vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở quá khứ, cũng ở trong trăm atăng-kỳ kiếp thứ bảy, đã gặp được tám mươi bốn Đức Phật, đều hiệu là Đế Tướng. Khi đó ta đều làm Chuyển luân thánh vương, đem tất cả vật dụng tạo an lạc hết lòng cúng dường chư Phật cùng các đệ tử, nhưng ta cũng không được thọ ký, vì còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thời xa xưa, cũng ở trong trăm atăng-kỳ kiếp thứ bảy, đã gặp được sáu mươi lăm Đức Phật, đều hiệu là Nhật Minh. Lúc ấy ta đều làm Chuyển luân thánh vương, đem tất cả vật dụng tạo an lạc dốc lòng cúng dường cho chư Phật cùng các đệ tử, nhưng chư Phật cũng không thọ ký cho ta, vì ta còn có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở quá khứ, cũng ở trong trăm atăng-kỳ kiếp thứ bảy, đã gặp sáu mươi hai Đức Phật, đều hiệu là Thiện Tịch. Lúc đó ta đều làm Chuyển luân thánh vương, đã đem tất cả vật cần dùng cúng dường trong cả đời, nhưng chư Phật này cũng không thọ ký cho ta, vì ta còn có chỗ thủ đắc. Lần lượt như vậy, cho đến khi gặp Đức Phật Định Quang mới đạt được pháp Nhẫn vô sinh, tức liền thọ ký cho ta: Ông ở đời sau, trải qua vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở xa xưa, có mười hai ức Chuyển luân thánh vương, đều có tên là Đảnh Sinh.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời quá khứ có ba mươi ức Chuyển luân thánh vương, đều tên là Ma-ha Na-ma-đà-na.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở quá khứ đã từng gặp bốn mươi ức Chuyển luân thánh vương, đều tên là Ma-ha Đề-bà.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở xa xưa có một ức Chuyển luân thánh vương, đều đồng hiệu là Ức Loa.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời quá khứ, có một vạn Chuyển luân thánh vương, đều có tên là Xưng Vĩ.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về thuở quá khứ, có một vạn Chuyển luân thánh vương đều tên là Chiếu Minh.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời trước, có hai vạn Chuyển luân thánh vương, tên hiệu đều khác nhau.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời quá khứ, có mười sáu ức Chuyển luân thánh vương, tên hiệu đều khác nhau.

Các vị vua như vậy, ta ở chỗ khác đã giảng nói cho Tôn giả Anan.

Này Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Ông cho các Thánh vương ấy há là người khác lạ chăng? Đó đều là thân ta.

Này Xá-lợi-phất! Ta nhớ về đời quá khứ có Đức Phật hiệu là Thiện Minh, lúc ấy Bồ-tát Di-lặc làm Chuyển luân thánh vương, tên là Chiếu Minh, mới phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thời đó tuổi thọ của chúng sinh là tám vạn bốn ngàn năm. Đức Phật Thiện Minh ấy thuyết giảng giáo pháp nơi ba hội. Hội thứ nhất có chín mươi sáu ức người đồng một lúc chứng đắc đạo quả. Hội thứ hai có chín mươi bốn ức người đồng một lúc chứng đắc đạo quả. Hội thứ ba có chín mươi hai ức người đồng một lúc chứng đắc đạo quả. Bấy giờ, vua thấy Đức Phật thuyết giảng giáo pháp nơi ba hội độ thoát vô lượng người, tâm hết sức vui mừng, liền suốt một vạn năm đem tất cả vật dụng cúng dường Đức Phật và các đệ tử, phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng: “Ở đời vị lai chúng sinh sẽ dễ hóa độ, tôi sẽ thành Phật thọ mạng có hạn lượng, số Tỳ-kheo Tăng vây quanh cũng như vậy.”

Này Xá-lợi-phất! Ta biết việc này còn vượt hơn vô lượng nữa.

Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát Di-lặc đã phát tâm bốn mươi kiếp rồi, ta mới phát tâm, gieo trồng căn lành nơi chỗ Đức Phật Vô Thắng. Ta ở trong một ngàn năm đem tất cả vật dụng cần thiết cúng dường Đức Phật ấy, dùng năm trăm xấp vải bông dâng cúng. Sau khi Đức Phật đó diệt độ, ta cho xây dựng tháp bảy báu, cao một do-tuần, ngang rộng nửa do-tuần, đều dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, xích trân châu làm thành, tâm luôn phát nguyện: “Chúng sinh đau khổ không có người cứu độ, gặp được pháp ác phần nhiều rơi vào cõi ác, lúc ấy ta sẽ thành tựu Phật đạo.”

Này Xá-lợi-phất! Ông hãy quan sát kỹ: Đạo quả Bồ-đề vô thượng là rất khó tu tập.

Này Xá-lợi-phất! Ta tu tập đạo quả căn bản, nhận chịu các khổ não trong vô số đời, nếu ta giảng nói ra chỉ khiến ông thêm sầu muộn. Ta đã thọ chịu các khổ não như thế, đều vì nhằm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng.

Này Xá-lợi-phất! Ông xem các Bồ-tát như Bồ-tát Tát-hòa-đàn, Bồ-tát Cầu Thiện Pháp, Bồ-tát Thường Bi, Bồ-tát Bất Phóng Dật, Bồ-tát Thường Tinh Tấn đã cúng dường bao nhiêu là Đức Phật, thọ nhận các khổ não, vẫn còn khó đạt được đạo quả Bồ-đề vô thượng, huống chi là các người ngu tối này mà không nhất niệm để cầu đạt Niết-bàn.

Này Xá-lợi-phất! Các hành giả như vậy vẫn còn là rất khó, huống chi là không hành trì tu tập. Cho nên, này Xá-lợi-phất! Nay ta sẽ giảng nói rõ cho ông biết. Người dùng pháp thấp kém thì không đạt được pháp cao thượng, người dùng pháp cao thượng mới đạt được pháp cao thượng.

Thế nào gọi là pháp thấp kém?

Đó là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp đều tạo ác. Pháp thấp kém gọi là tâm không thể siêng năng tu tập pháp lành. Pháp thấp kém gọi là biếng nhác, trễ nãi, phá hủy các giới pháp đã thọ.

Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là người thấp kém trong sự thấp kém. Lại nữa, người thấp kém trong sự thấp kém là ở trong giáo pháp của ta xuất gia sinh kiến chấp có thủ đắc, kiến chấp về ngã, nhân, chúng sinh. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Như Lai thấy biết rõ ràng về sự việc này, người có chỗ thủ đắc còn không đạt được thuận nhẫn, huống chi là đạt được đạo quả.

Này Xá-lợi-phất! Người nào còn có chỗ thủ đắc, thì trăm ngàn vạn ức chư Phật, dùng ba luân chỉ rõ cho người ấy, nếu như không thể xả bỏ kiến chấp đó, thì người này một miếng thức ăn uống cũng không tiêu nổi, huống chi là đạt được đạo quả.

Này Xá-lợi-phất! Người có kiến chấp về ngã, nhân đạt được Niết-bàn, thì tất cả phàm phu đều nên được giải thoát hết. Vì sao? Vì kiến chấp về ngã, nhân đều là tà kiến. Những người phàm phu phần nhiều đều tham đắm theo kiến chấp về ngã, ngã sở, kiến chấp về nhân, về chúng sinh, thế nên tất cả phàm phu sẽ chứng đắc Niếtbàn.

Này Xá-lợi-phất! Người nào tác niệm có ngã, có nhân, nếu người kia không xả bỏ kiến chấp ấy mà đạt được Niết-bàn thì tất cả phàm phu sẽ đạt được Thánh đạo. Vì sao? Vì tất cả phàm phu đều là chấp ngã, chấp nhân. Cho nên người có kiến chấp ngã, chấp nhân mà nhập vào Niết-bàn, thì tất cả phàm phu đều có thể nhập vào Thánh đạo, ở trong Thánh đạo không còn một chỗ ít nào.

Này Xá-lợi-phất! Người nào dấy khởi niệm có ngã kiến mà có được Niết-bàn, thì người ấy đạt được Thánh đạo đó không cần niệm nào khác. Vì sao? Vì tất cả phàm phu chấp ngã, chấp nhân sẽ không còn một ai. Người ngu si như thế mắc phải lỗi lầm này: Cho rằng các phàm phu đều nhập vào Thánh đạo. Thánh đạo không có trói buộc. Khi người này tu tập thì lại sát sinh, thọ nhận năm thứ dục lạc phát khởi năm thứ tội nghịch, vì vậy người ngu ở trong Thánh đạo mắc phải năm tội dại nghịch. Vì sao? Vì tất cả phàm phu đều nói có ngã, có chúng sinh. Nếu người nào nói như vậy, tức đã tạo đủ năm tội dại nghịch, không thể nhập vào Niết-bàn. Nếu người nói về ngã, nhân được nhập vào Niết-bàn, tức là nói dối, cũng là hủy báng Đức Phật, nên ở trong giáo pháp của ta lại không thể đạt được xuất gia thanh tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Nay ta nói rõ cho ông. Người có chỗ thủ đắc thì không có Niết-bàn. Người còn có chỗ thủ đắc, nếu có Niết-bàn thì chư Phật không xuất hiện ở đời, tất cả phàm phu đều nhập vào Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả phàm phu đều có kiến chấp về ngã, về nhân, đều có chỗ thủ đắc, đều là tà kiến.

Này Xá-lợi-phất! Ông hãy quan sát nơi ta, đã bao nhiêu thời gian gây tạo kiến chấp về chỗ có thủ đắc chẳng phải là hạnh Thánh hiền nên chư Phật đã không thọ ký cho ta: “Ông vào đời vị lai sẽ làm Phật.”

Này Xá-lợi-phất! Ta hành trì như vậy, vẫn còn không được

thọ ký, huống chi là người ngu si này, chỉ dựa vào giữ giới, nghe nhiều, thiền định… sinh ra kiến chấp về ngã, về nhân, về chúng sinh.

Này Xá-lợi-phất! Ta nói người này không phải là hành giả, không gọi là người chứng đắc. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì nơi đêm dài sinh tử đã chấp trước theo tà kiến như vậy, nên không được diệt độ. Người ngu si như thế không suy nghĩ: “Chúng ta vì sao không thử thực hành, tu tập về pháp không có ngã, nhân. Chúng ta nhân đấy có thể đoạn trừ các khổ đau tích tụ.”

Này Xá-lợi-phất! Ví như người mù bẩm sinh đi đường vì tránh chó dữ nên bị rơi vào hầm sâu lớn.

Này Xá-lợi-phất! Ta gọi người ngu si, tu tập theo kiến chấp về ngã, về nhân, kiến chấp về có chỗ thủ đắc, do các kiến chấp ấy mà muốn có được thanh tịnh, người ấy theo chỗ tham chấp, tức lấy sự việc này mà muốn đạt được Niết-bàn, ta nói người ấy sẽ rơi vào đường ác.

Này Xá-lợi-phất! Ví như người mù rơi vào hầm sâu lớn, sinh tâm an ổn. Người ngu si như vậy, theo kiến chấp về ngã, về nhân, kiến chấp về chỗ thủ đắc lại sinh tâm an ổn, người ấy trong đêm dài sinh tử tùy chỗ tham chấp, chính là khi dối, trở lại chấp trước vào việc này, ở trong giáo pháp của ta mà thọ nhận cúng dường, người ngu si như thế nơi đêm dài sinh tử càng suy kém rơi vào đường ác.

Này Xá-lợi-phất! Ví như vua thọ pháp Đại quán đảnh, tự xử trị đất nước, oai lực tự tại cho người ấy nên tước đoạt, người này phải đuổi đi. Nếu những dân chúng không thuận theo ý nhà vua, nói vua là quá ác, hủy hoại tâm người, không thể giữ gìn thành, tôi muốn làm phản. Vua biết người này là giặc lớn, ở trong đại chúng đánh trống phát ra âm thanh dữ, khổ công trị tội người kia đuổi ra khỏi nước, do người ấy không hết lòng trung, giữ gìn thành trì nên phải chịu khổ não đó.

Này Xá-lợi-phất! Đức Phật cũng vậy. Ở trong vô lượng kiếp tu tập sai quấy Bồ-đề vô thượng, làm Đại Pháp vương, đối với quốc pháp có oai lực lớn. Trong các đệ tử có người biết về diệu vị của giáo pháp, cho dù mất mạng cũng không hủy báng giáo pháp của ta. Chư Thiên và người đời không thể hủy hoại, đã thọ nhận giáo pháp tự mình không tạo ác nghịch cũng không chỉ dạy người khác. Ta ở trong chúng có oai lực lớn, tự tại tạo lập giáo pháp để giữ gìn thành pháp, không cho giặc ác hủy hoại xâm nhập, trộm lấy giáo pháp bí mật của Như Lai đã giảng nói, hướng đến giặc oán tà kiến giảng nói.

Này Xá-lợi-phất! Hiện tại Như Lai khéo giữ gìn thành pháp, bốn đệ tử lớn trí tuệ sâu xa, khiến thành pháp của ta không sợ bị phá hoại. Nếu cùng với thành pháp tạo nên chướng ngại, đó là giặc lớn hủy phá thành pháp, ăn trộm giáo pháp bí mật của ta hướng về ngoại đạo giảng nói. Người này thường đến chỗ của ta, ta cùng nêu bày, chỉ rõ nhưng không giảng nói pháp mật yếu. Người này vì cầu đạt chỗ giáo pháp được nêu bày nên xuất gia thọ giới, ta biết người này vào đời sau sẽ đắc đạo nên cho phép xuất gia bốn tháng thử nghiệm. Vì sao? Vì nhằm để giữ gìn thành pháp. Lại khiến ở đời vị lai, giặc cướp không còn dấy khởi. Như vậy là Như Lai khéo giữ gìn thành pháp, khiến không còn kẻ tùy tiện. Đó là thọ nhận giáo pháp của Phật, xả bỏ nguồn gốc tà ác. Các chúng Tỳ-kheo đều nên hoan hỷ chấp thuận khiến được xuất gia thọ giới rồi, thì hàng trời, người nơi thế gian không thể làm lay chuyển được.

Này Xá-lợi-phất! Những người thế nào là nên thử nghiệm? Đó là người ngoại đạo và người ưa thích pháp của ngoại đạo.

Này Xá-lợi-phất! Thế nào là ưa thích pháp ngoại đạo? Đó là người còn có thủ đắc, là người chấp về ngã, là người chấp về nhân, người chấp về chúng sinh, người tham đắm, người tà kiến, đối với pháp tự tướng không sinh tâm nghi ngờ, thọ hành theo vô số pháp tà vạy hư vọng, không thể hội nhập vào Đệ nhất nghĩa không, hành theo các đường tà, gọi là người ưa thích pháp của ngoại đạo.

Này Xá-lợi-phất! Không thể dùng vô số y màu sắc để thử nghiệm. Hoặc người cư sĩ, hoặc người mặc ca-sa có các thứ kiến chấp bất thiện về chỗ thủ đắc như thế đều gọi là ngoại đạo. Ở trong giáo pháp của ta, xuất gia thọ giới thì nên thử nghiệm những người ấy. Vì sao? Vì còn có chỗ thủ đắc. Ở trong giáo pháp của ta, tức là tà kiến, gọi là giặc lớn, là giặc trong hàng trời, người nơi tất cả thế gian. Đó gọi là oan gia của tất cả thế gian, là giặc lớn của chư Phật.

Này Xá-lợi-phất! Người tà kiến này, ta không thể thọ nhận cho xuất gia thọ giới.

Này Xá-lợi-phất! Tất cả pháp vô ngã, nếu người từ trong đó không thể phát sinh thuận nhẫn, nơi tất cả các pháp đều không, không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ mạng, mà không thể tin hiểu, thì ở nơi giáo pháp của ta thọ nhận cúng dường, đó gọi là bất tịnh. Người này tức không cúng dường Phật, không cúng dường Pháp, không cúng dường Tăng, gượng ép nhập vào giáo pháp của ta, hình thì Sa-môn, mà tâm là ngoại đạo, là người ăn trộm pháp.

Này Xá-lợi-phất! Ở đời vị lai sẽ có Tỳ-kheo không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, tức người này đã xem thường những gì Như Lai đã thuyết giảng, những gì Như Lai đã thực hành. Như Lai luôn đối với Đệ nhất nghĩa không, cung kính cúng dường, luôn ưa thích hạnh này. Các Tỳ-kheo ấy tức đã xem thường về pháp không rốt ráo nơi chân tế, Như Lai đã thực hành.

Này Xá-lợi-phất! Bấy giờ, nếu có Tỳ-kheo khổ hạnh, cũng đều bị xem thường. Hôm nay, đệ tử của ta có người hành không, ta khen ngợi việc tu tập ấy là tốt an ủi tâm ấy. Khi đó, người này khinh miệt về hành không chỉ cầu việc không bền chắc, do chấp có ngã và có các pháp. Những sự việc như vậy khiến tâm nhiều người vui mừng. Nếu giảng nói các pháp đều là không thì người này cũng khinh chê. Vì sao?

Này Xá-lợi-phất! Vì pháp là như thế. Căn lành của chúng sinh muốn đoạn dứt tướng gốc, thì hiện ra pháp vi diệu chân thật, ở nơi thế gian không còn người thọ nhận. Ví như người ngu cho hương chiên-đàn đồng với loại cây gỗ tạp nhạp.

Này Xá-lợi-phất! Đức Phật Ca-diếp giảng nói: “Trong đời vị lai, các chúng đệ tử của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, vì lợi dưỡng, nên giảng nói Đệ nhất nghĩa không cho các cư sĩ. Bấy giờ, phần nhiều người tại gia và xuất gia, ngu si nên không thọ nhận, chống đối không tin, trở lại phỉ báng nên mất hết lợi lớn. Do nhân duyên này nên bị đọa vào đường ác.”

Này Xá-lợi-phất! Khi ấy phần nhiều chống đối tranh cãi, bàn luận về ngã, luận về nhân, bàn về chúng sinh, luận về thọ mạng, bàn về sự sống, ít muốn pháp thiện, chỉ ưa lợi dưỡng, thật là ngu si, tự cho là có trí tuệ, cùng nhau chống đối, thường xuyên tranh cãi, ưa có việc đoạn dứt, sinh tâm oán ghét. Người ấy bỏ pháp Sa-môn chỉ cầu lợi dưỡng. Phần nhiều ưa thích mưu tính việc làm chẳng phải là một, luôn thích dò xét tìm tòi chỗ hơn kém của người khác, tự giấu lỗi mình, xưng nói về công đức. Như Tỳ-kheo hiện nay che giấu công đức, tự nêu ra lỗi xấu. Lúc ấy thì đều cùng nhau không thể giữ gìn giới trọng, vì không hiểu biết, phá hủy phép tắc, lại nói: Các pháp là không, tự tướng cũng không, thì có chốn nào để có thể tạo tác? Như Na-la diễn trò hóa hiện ra vô số sự việc, người không hiểu biết trông thấy liền cười to. Vì sao? Vì không hiểu về thuận ẩn giấu của pháp hý lộng, sinh tâm cho là hy hữu, kinh ngạc nên cười to.

Vì thế, này Xá-lợi-phất! Bấy giờ, Tỳ-kheo chân thật giảng nói pháp tịch tĩnh, kẻ cầu mạng sống cùng nhau đùa cợt. Vì sao? Vì người này không biết nghĩa lý nơi pháp Phật, nghe nói pháp không thì kinh nghi sợ hãi.

Này Xá-lợi-phất! Ông xem xét người này, ở chỗ an ổn sinh tâm suy não, ở chỗ suy não sinh tâm an ổn. Người này là điên đảo, hành trái với pháp lành, thuận theo pháp ác.

Này Xá-lợi-phất! Người si mê như vậy, phần nhiều đều mang tâm tham lam keo kiệt, sân giận, ngu tối, hành đủ ba căn bất thiện.

Này Xá-lợi-phất! Ta vì tạo lợi ích cho các Tỳ-kheo giữ giới, nên giảng nói hai trăm năm mươi giới kinh. Người ngu si như thế, chỉ do nhân duyên nhỏ ở thế gian, nên hướng đến người tại gia để giảng nói, thậm chí còn ghi chép để chỉ dẫn cho cư sĩ.

Này Xá-lợi-phất! Người ngu si như thế mới giảng nói: Các pháp đều không, tự tướng cũng không, vậy có chỗ nào để có thể tạo tác? Vì sao? Người ngu si như vậy hãy còn không thể trừ bỏ phiền não tham lam keo kiệt, huống gì có thể đoạn dứt vô minh.

Này Xá-lợi-phất! Lúc ấy, Tỳ-kheo giữ gìn giới luật không thể học tập hoàn hảo. Người giảng nói các pháp cũng không học tập hoàn hảo. Người đọc tụng kinh điển cũng không tu học hoàn hảo.

Này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là Tỳ-kheo thọ trì giới luật không thể tu học hoàn hảo? Trong kinh, Đức Như Lai giảng nói có ba học. Đó là học thiện giới (Giới), học thiện tâm (Định), học thiện tuệ (Tuệ). Người ấy đối với ba học này không thể tu học hoàn hảo, chỉ do nhân duyên nghe nhiều nên khinh mạn người khác, tức người này làm chướng ngại pháp lành. Người ngu như vậy, hãy còn không thể hỏi đáp đúng như pháp, huống hồ là đối với pháp không rốt ráo không thật có, có thể phát khởi tinh tấn.

Này Xá-lợi-phất! Bấy giờ, Tỳ-kheo phá giới thích làm công việc của cư sĩ, nên nêu giảng pháp thông dụng theo sứ mạng chữa trị các bệnh, để tự kiếm sống.

Này Xá-lợi-phất! Nay ông xem xét người xấu ác này, ở trong giáo pháp của ta xuất gia, thọ giới, thọ nhận sự cúng dường, mà lại cho ta là oán địch.

Này Xá-lợi-phất! Khi ấy, bốn Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Đại phạm Thiên vương, cho đến hàng trăm ngàn vạn ức chư Thiên, thấy giáo pháp của ta bị hủy hoại như vậy đều hết sức ưu sầu than thở khóc lóc.

Này Xá-lợi-phất! Thật sự là không nên nương tựa theo ta mà làm việc phục vụ cho cư sĩ. Vì sao? Vì đệ tử của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, cho đến chư Thiên, Rồng, Thần, hãy còn không nên làm công việc bị sai khiến. Chư Thiên, Rồng, Thần đối với các đệ tử của ta cùng làm công việc sai khiến. Người ngu như vậy đã gần gũi với hàng cư sĩ, nếu có thể tu tập thông đạt các pháp Đệ nhất nghĩa không là điều không hề có.

Này Xá-lợi-phất! Bấy giờ Tỳ-kheo phá giới giảng nói Phật pháp cho người tại gia cho đến chỉ để có được một ly rượu. Ý ông thế nào? Phần nhiều là tham dục, giận dữ, ngu si mà thích đọc kinh nhiều, tham lợi kinh doanh bèn ngoài mà hành trì không thanh tịnh. Người ấy có thể tin hiểu các pháp không, rốt ráo không có gì là có, có thể đạt được nay đủ quả Sa-môn chăng?

–Bạch Thế Tôn! Không.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Tỳ-kheo nào còn hứng thú khi đạt được các thứ y phục, đồ ăn uống, ngọa cụ, thuốc men mà giữ giới thanh tịnh, thì dù không thích các nơi ồn náo, tán loạn về lời nói, không tham nghĩa lý của ngoại đạo, ngày đêm siêng năng tinh tấn, như cứu lửa đang cháy đầu, nhất tâm chuyên cần thực hành tám con đường chân chánh, người này đối với pháp “không” không có chỗ thủ đắc hãy còn khó thông đạt được, huống hồ là kẻ ngu si kia, không có sự ham muốn sâu xa không có tin hiểu.

Này Xá-lợi-phất! Ông xem người ấy không biết nghĩa lý vô thượng của Như Lai nên phá hoại chánh pháp của ta, tự làm cho thân mình và thân người khác suy não lớn, như vậy là giặc lớn, là oan gia của thế gian, trong kinh này có nêu là nên mau xa lìa. Người ấy đối với Phật hãy còn không biết ân, tự nghĩ chúng ta đã là người xuất gia, đối với pháp này, chỗ không nên làm thì không nên làm theo.

Vì thế, này Xá-lợi-phất! Như Lai muốn khiến trong đời vị lai dứt trừ việc xấu ác đó mà giảng nói kinh như thế. Nếu Tỳ-kheo nào phá hủy giới đã thọ nhận, phá bỏ oai nghi và chánh kiến, nghe được kinh này thì sợ hãi chống trái với giới. Vì sao? Vì người phá giới, không thể trong một khoảng khắc như búng móng tay mà an trụ vào tướng Thánh nhân, mặc áo ca-sa. Nếu nghe kinh này tâm hoan hỷ, thì người đó gọi là cúng dường chư Phật, giữ gìn Phật đạo. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là cõi chân của Phật đạo. Nếu thiện nam, tín nữ nào muốn đạt được pháp Sa-môn, vì để được nghe kinh này nên phải vượt qua hơn trăm ngàn vạn ức do-tuần. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai lâu lắm mới xuất hiện ở đời, tuy đã ra đời nhưng phải đúng thời mới giảng nói.

 

Phẩm 9: LIỄU GIỚI

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Có ba hạng người nghe giảng nói kinh này tâm không vui mừng. Những gì là ba?

  1. Tỳ-kheo phá giới.
  2. Người tăng thượng mạn.
  3. Người giảng nói pháp bất tịnh và tham chấp ngã.

Người ấy xa lìa đối với kinh nói về sự tùy thuận nơi thật tướng sâu xa, hoàn toàn đầy đủ là một lũ người mù bẩm sinh. Cho nên, này Xá-lợi-phất! Ta đem kinh này lần nữa phó chúc cho ông. Vì sao? Vì kinh này sau khi Như Lai diệt độ, có thể khiến cho Tỳ-kheo giữ giới thanh tịnh sinh tâm vui mừng. Kinh thâm diệu như thế, người giữ giới thanh tịnh luôn thâu nhận giữ gìn. Kẻ phá hủy giới thì thường xa lìa. Vì sao? Vì người ngu si nghe giảng nói về chánh ngữ chân thật, thì cho là khổ đau.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới với chỗ hình thành tướng mạo, Như Lai đối với người ấy đã giảng nói rộng đủ.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới pháp, nên không thích giữ giới luật nghi, như người ngu si không thích trí tuệ, như người keo kiệt không muốn nghe nói về bố thí, người tăng thượng mạn không muốn nghe nói về pháp không có kiêu mạn, nếu nghe thì sợ hãi như rơi vào hầm sâu. Người thích lợi thế gian, tham chấp vị ngon, nghe chê trách đồ ăn thì tâm sầu não. Nếu người ưa thích đọc kinh sách của ngoại đạo, tức ở trong đó sinh tưởng cho là chắc thật. Người chấp trước nơi ngôn ngữ, ưa thích nói năng tán loạn. Người ưa thích nói lời trau chuốt văn từ mỹ lệ đối với Đệ nhất nghĩa của Phật thì tâm không thanh tịnh, lại đối với pháp này không kính, không tin.

Này Xá-lợi-phất! Ví như không phải người nam, không có công dụng của người nam, cho đến trong các người nam sinh tưởng không phải người nam, lại suy nghĩ: Những người này cũng như ta không khác. Người thích xem kinh sách của ngoại đạo như vậy, luôn ưa thích trau chuốt lời văn, từ ngữ, đối với Đệ nhất nghĩa của chư Phật tâm không cung kính.

Này Xá-lợi-phất! Trong đó, có người giảng nói kinh thanh tịnh, thì đối với người ấy, kẻ kia cũng không cung kính, lại khinh chê Tỳkheo giữ giới thanh tịnh. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Kinh sách của ngoại đạo nói không chân thật, nói pháp kiêu mạn, cao ngạo, tự đại. Vì sao? Vì không chán lìa sự việc ấy, không tạo sự vắng lặng, không giúp cho việc đắc đạo, không đạt tới Niết-bàn. Người ấy hủy hoại các căn lành như Tín v.v… đối với tất cả xứ không tin có công đức, giống như người không phải người nam, đối với mọi người đều cho là như mình.

Này Xá-lợi-phất! Như người mù bẩm sinh không thấy các màu sắc, là màu đen hay màu trắng. Người không thấy màu trắng, đen tức không thấy màu sắc tốt, không thấy màu sắc xấu, không thấy các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía xanh, trắng. Không thấy các màu sắc dài ngắn, thô tế, cạn sâu, không thấy mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Người mù như thế suy nghĩ: “Không có màu trắng đen.” Người không thấy màu trắng đen: không có màu sắc xấu tốt, không có màu xanh, vàng, đỏ, tía, dài ngắn, thô tế, sâu cạn, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, cho mọi người khác cũng đều như vậy. Tâm người mù điên đảo, đối với tất cả nơi chốn đều cho là tối đen.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới, người tăng thượng mạn, Tỳ-kheo bàn luận theo ngoại đạo, cũng lại như vậy. Đối với giáo pháp sâu xa của Phật tâm không tin, ưa, không thể thấu đạt, nghe nói các pháp là không, không thật có thì không tin hiểu, không ưa thích, nên không thể thông đạt.

Này Xá-lợi-phất! Những người như vậy thật đáng sợ, vì đã đi vào trong cõi tà, không đạt được chánh pháp. Nhờ chánh pháp này mới gọi là Sa-môn chân thật. Ông đã đắc pháp nhưng người ấy không tin, giống như người mù cho là không có các màu đen, trắng.

Này Xá-lợi-phất! Người ấy như vậy là nhập vào nẻo tà, tìm cầu kinh luận của ngoại đạo, ưa thích các chỗ ồn náo, tăng thêm phiền não, tánh ác, pháp ác. Người ấy không thể tin các pháp không, huống hồ là thông đạt.

Này Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Như loài chồn hoang làm sư tử là có thể đã gầm đang gầm và sẽ gầm tạo ra dáng đi của sư tử đang đi, sẽ đi và đã đi không?

–Bạch Thế Tôn! Không thể. Vì sao? Vì sắc lực, âm thanh của chồn hoang không bằng sư tử. Chồn hoang chỉ có thể tạo ra âm thanh của chồn hoang. Nếu muốn gầm lên thì chỉ có tiếng của chồn hoang phát ra, chẳng phải là tiếng của sư tử. Cũng vậy, này Xá-lợiphất! Tỳ-kheo phá giới, Tỳ-kheo tăng thượng mạn tự cho sự việc ấy là hơn hết.

Người thuyết pháp bất tịnh là thọ nhận luận thuyết của Nikiền tử, hoặc chấp một việc giữ chặt không bỏ, tham lợi dưỡng ở đời, ưa thích đọc kinh sách nhưng không thể thông đạt thật tướng của các pháp, nên nếu có thể tin thọ các pháp vô tướng là điều không hề có.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có Tỳ-kheo tuổi cao đức dày, là bậc uy đức trong số các Tỳ-kheo, có trí tuệ sâu xa, người ấy có thể tin về pháp không, tự tướng không thật có, pháp không có ngã, không có nhân. Vì sao? Vì người ấy không ưa thích các lời nói xen tạp, ồn náo, không thích lối đọc kinh sách phần chỉ là ngủ nghĩ, không vì hàng tại gia làm các việc kinh doanh, không bị sai khiến giữ chuyển văn thư, không làm y thuật, không đọc các phương thuốc, không mua rẻ bán đắt, không thích bàn luận theo ngôn ngữ của thế gian, chỉ thích giảng nói lời xuất thế gian, người ấy có thể tin hiểu tất cả pháp không, đối với tất cả các pháp không khởi, không hoại, người ấy có thể chứng được chân thật tế, tức có thể như tiếng gầm của sư tử đích thật, chẳng phải là tiếng gầm của dã can.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có Tỳ-kheo nào gắn bó với kinh sách, nghĩa lý của ngoại đạo, tức người ấy xả bỏ giáo pháp vi diệu của Phật, giảng nói pháp cho đại chúng bằng ngôn từ của ngoại đạo, chỉ tạo nên tiếng gầm của chồn hoang.

Này Xá-lợi-phất! Người xấu ác như vậy gọi là Sa-môn mục nát, hư hoại. Vì sao? Vì nghĩa lý của ngoại đạo chẳng phải là giáo pháp của Phật.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo chấp theo pháp của ngoại đạo, không nên xưng mình là đệ tử của Phật. Vì sao? Vì Sa-môn Thích tử không thể giảng nói theo lời của Ni-kiền tử, ở trong đại chúng chỉ giảng nói pháp Phật.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người chấp trước nơi ngôn ngữ bất tịnh, muốn làm tiếng gầm của sư tử, nhưng chỉ tạo ra tiếng kêu của loài chồn hoang, người ấy không thể hiểu về Đệ nhất nghĩa của pháp Phật.

Này Xá-lợi-phất! Ta nay sẽ nói rõ cho ông. Nếu người đầy đủ các hành trì giữ giới, thiền định, trí tuệ, không keo kiệt, không tham lam, không đắm nhiễm, sân si, không ôm lòng dua nịnh, nhàm chán tâm ác, nói lời chân thật, luôn thích ở một mình, không ham ngủ nghỉ, ưa thực hành theo nẻo Không, Vô tướng, Vô nguyện, không sinh, không diệt, sinh tâm lìa dục, cầu hiểu rõ về Đệ nhất nghĩa của pháp Phật, không thích lời thế gian, yêu mến lời xuất thế gian, hết lòng giữ gìn các giới, thảy đều xa lìa tất cả các việc ác và tri thức ác, trú vào pháp này thì có thể hiểu rõ pháp không, không thật có. Vì sao?

Này Xá-lợi-phất! Vì hạnh ấy gọi là hạnh của bậc Đại nhân, chẳng phải là hạnh tham ưa lợi dưỡng, chẳng phải là hạnh của người ngu si tầm thường, chẳng phải là hạnh của Sa-môn hư hoại, chẳng phải là hạnh của hàng Sa-môn cặn bã, chẳng phải là hạnh của hàng Sa-môn giả danh. Thật tướng của các pháp là tịch tĩnh rốt ráo, tức là Phật đạo. Người tham thích lợi dưỡng thế gian, giảng nói pháp bất tịnh đều không thể so sánh.

Này Xá-lợi-phất! Lãnh vực này gọi là lãnh vực của bậc Đại trí, chẳng phải là lãnh vực của kẻ tham ưa ngoại đạo, chẳng phải là lãnh vực của người giảng nói về chấp ngã, nhân.

Này Xá-lợi-phất! Nếu thật sự có ngã, có nhân để nói về ngã, nhân, tức nên có thật tướng. Nên hỏi như thật: Nếu có ngã thì đó màu gì? Màu xanh, vàng, đỏ, trắng, là ở trong thân hay ở ngoài thân? Là ở khắp thân như dầu ở nơi hạt mè?

Này Xá-lợi-phất! Trong hạt mè có dầu nên có thể dẫn ra, chỉ rõ. Nếu ngã ở bên trong nên nói có ngã, thì nên nêu bày chỉ rõ. Như từ trong hạt mè cho ra dầu, chỉ rõ là dầu. Trong Đệ nhất nghĩa cầu tìm ngã là không thể được. Do đó phải biết. Nếu người nào nói có ngã có nhân, thì người này hãy còn không có giới của Sa-môn, huống hồ là quả vị Sa-môn.

Này Xá-lợi-phất! Nên biết, người tham chấp theo tà kiến như thế, đó là chấp ngã, chấp chúng sinh, chấp thọ mạng, tức bị rơi từ đỉnh cao. Người ấy tham chấp theo tà kiến như thế, hãy còn không thể trừ bỏ tâm tham cầu lợi dưỡng, huống chi là trừ bỏ phiền não vi tế.

Này Xá-lợi-phất! Người thấu đạt về không, nếu bị lợi dưỡng của tham dục, giận dữ, si mê che lấp thì không hề có, cũng không bị rơi từ đỉnh cao.

Này Xá-lợi-phất! Tâm chấp có ngã tức người đó cho là có thọ mạng, do nhân duyên thọ mạng nên bị lợi dưỡng lôi kéo, ngăn che làm chướng ngại nơi đạo.

Này Xá-lợi-phất! Người chấp ngã, chấp nhân, tuy ở trong giáo pháp của ta xuất gia học đạo, người ngu si như vậy ở trong giáo pháp thanh tịnh tức chẳng phải là xuất gia. Vì sao? Vì xuất gia theo Nikiền tử, tâm đều chấp có ngã, có chỗ thủ đắc.

Này Xá-lợi-phất! Người có chỗ thủ đắc: Tức từ vô thỉ đến giờ luôn có kiến chấp ấy, nếu được xuất gia vẫn còn, không đoạn dứt, đó gọi là nhân nơi ngoại đạo mà xuất gia, không gọi là nhân nơi Thánh pháp mà xuất gia. Vì sao? Vì người xấu ác không thể tin thích nơi pháp lớn, đối với pháp lớn thanh tịnh không có tưởng chân thật.

Này Xá-lợi-phất! Như vậy do nhân duyên phá bỏ giáo pháp này là tội nặng nên tàn dư chưa dứt hết, thành thử không thể tin hiểu thật tướng của các pháp, phát khởi nghiệp bất thiện, hoặc phỉ báng tám Thánh đạo. Hoặc đối với Tỳ-kheo tịnh giới sinh tâm xấu ác, dối nói ra lỗi lầm. Hoặc nói lời phá giới, phá chánh kiến, phá thọ mạng, phá oai nghi. Hoặc không thấy lỗi lầm của người khác, vọng sinh phải quấy. Hoặc đem tâm bẩn đục, ganh ghét giận dữ nói xấu về tên tuổi của người khác. Hoặc không thể hiểu biết nghĩa lý trong kinh Phật, cho chẳng phải là pháp của Phật. Người ác như thế gây tạo đầy đủ nghiệp ác phá hoại giáo pháp, đối với Đệ nhất nghĩa của Phật, tâm không thấu tỏ, không hội nhập, không hoan hỷ, tội nặng như vậy do nhân duyên quả báo còn sót lại, tuy siêng năng tinh tấn hãy còn không thể thâu lấy tướng của đối tượng duyên, huống gì là giữ vững tâm để có thể đạt được đạo quả. Lại còn nương tựa sâu xa nơi kiến chấp ngã, nhân. Những kiến chấp như vậy, cho đến chư Phật cũng không thể nhổ bật từ gốc rễ, huống hồ là hàng Thanh văn.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người có những tham chấp xấu ác, tà kiến như vậy, đó là kiến chấp về ngã, về nhân, về chúng sinh, về tuổi thọ, về mạng sống, lại đối với Đệ nhất nghĩa không thì kinh sợ, nghi ngờ, nên biết người này đời trước gây tạo nhân duyên của tội phá pháp.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người tham chấp theo tà kiến xấu ác như thế, đó là tham chấp về ngã, tham chấp về nhân, tham chấp về thọ mạng, người ấy dù được trăm ngàn ức chư Phật dùng ba thứ Luân hiện bày, cũng không thể khiến giác ngộ, khiến đạt được đạo quả.

Này Xá-lợi-phất! Thà dùng dao bén cắt lưỡi, không nên không thấy sự việc của người khác mà nói dối về lỗi lầm của họ là phá giới, phá chánh kiến, phá thọ mạng, phá oai nghi.

Này Xá-lợi-phất! Ở đời vị lai sẽ có Tỳ-kheo khéo giữ gìn hai trăm năm mươi giới, người sinh tâm ngã mạn lại suy nghĩ: Ta là người giữ giới còn kẻ khác thì không như vậy, khinh chê người khác, tâm không cung kính, cho ta là nghe nhiều biết rộng, người khác thì không nghe nhiều biết rộng.

Này Xá-lợi-phất! Bấy giờ, có nhiều Tỳ-kheo, chỉ kính trọng giữ giới nhiều hơn thực hành hạnh A-lan-nhã, có thể khéo giữ gìn giới phẩm, thuận theo chỗ đã giảng nói để hành trì, tâm siêng năng đọc tụng kinh điển mong thông hiểu pháp Phật. Những người như vậy sinh kiêu mạn về nghe nhiều biết rộng, sinh kiêu mạn về hạnh A-lan-nhã mà thích sân hận, tâm luôn cấu uế, ôm lòng tham chấp sâu dày, tâm ý càng giận dữ, ngu độn không biết, do nhân duyên nhỏ mà phát sinh việc lớn. Người ấy do giận dữ che lấp tâm, giúp sinh ra lỗi lầm, gọi là phá giới, phá chánh kiến, phá thọ mạng, phá oai nghi.

Này Xá-lợi-phất! Trong số Tăng chúng như thế, có Tỳ-kheo tốt, tâm không bè phái thiên lệch, đứng giữa nhưng rồi cũng đồng với kẻ ác kia, cùng nhau bàn luận trách cứ tranh cãi không dừng khiến các việc ngồi thiền, tụng kinh không được an ổn. Tại gia, xuất gia cũng đều loạn động. Thế nên, này Xá-lợi-phất! Bấy giờ, có nhiều Tỳ-kheo, một hạ, hai hạ, ba hạ, cho đến chín hạ tỏ ra khinh mạn bậc thượng tọa không có cung kính. Người ấy xuất gia thọ giới phần nhiều không đúng như pháp. Theo học nơi các bậc Hòa thượng A-xà-lê cũng không cung kính.

Này Xá-lợi-phất! Khi ấy, Tỳ-kheo trẻ tuổi và người xuất gia trước không có chỗ nương tựa, cùng nhau khinh mạn Tỳ-kheo mười hạ nuôi dưỡng đồ chúng. Các đồ chúng ấy đều không cung kính, không giữ oai nghi phép tắc, cũng không hành như pháp.

Này Xá-lợi-phất! Lúc này, những kẻ xấu ác gồm đủ cả tham dục, sân hận, ngu si, cùng nhau khinh mạn, không biết cung kính, mâu thuẫn trái nghịch, giáo pháp của ta bị tiêu diệt.

Này Xá-lợi-phất! Khi đó những người ngu si này phần nhiều dấy khởi nghiệp tội phá pháp, khởi tội này rồi, sẽ bị đọa vào cõi ác.

Này Xá-lợi-phất! Nay ta nói rõ cho ông biết: Tỳ-kheo tự cầu lợi dưỡng, cầu điều thiện cho thân mình, lúc ấy không được nhập chúng, cho dù là một đêm, chỉ trừ A-la-hán đã dứt hết phiền não và Tỳ-kheo bệnh tật có duyên trong ấy. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Bấy giờ, những người tham dục, giận dữ, si mê, độc hại đang thịnh, không biết sợ hãi, luôn tạo mọi bức bách. Người cầu lợi lành phải tự ở chốn núi rừng thanh vắng, cho đến khi qua đời khác nào loài thú rừng chết.

Này Xá-lợi-phất! Hôm nay ta sẽ nói rõ cho ông. Giáo pháp chân thật này của ta không trụ lâu nơi thế gian. Vì sao? Vì phước đức, căn lành của chúng sinh đã hết, đời xấu ác ô trược đã đến gần. Tỳ-kheo cầu lợi cho mình, cầu thiện cho riêng mình nên sinh tâm nhàm chán như vầy: “Ta phải làm gì khi thấy giáo pháp bị phá, loạn? Rất khó thấy Sa-môn xuất hiện ở đời xấu ác này, nên ta phải dốc tâm tinh tấn tu tập sớm chứng đắc đạo quả.”

Này Xá-lợi-phất! Giáo pháp của ta không có điều khó, không nhớ nghĩ về cơm ăn, áo mặc, đồ nằm, thuốc thang, các ông chỉ nên siêng năng tu hành Phật đạo, chớ quý trọng của cải lợi dưỡng cúng dường của thế gian.

Này Xá-lợi-phất! Nay ông hãy lắng nghe! Ta sẽ giảng nói cho ông. Nếu có Tỳ-kheo nhất tâm hành đạo thì ngàn ức trời, thần đều cùng đồng tâm, đem các thứ vật dụng ưa thích theo ý muốn để cúng dường.

Này Xá-lợi-phất! Những người cúng dường Tỳ-kheo ngồi thiền, không bằng hàng trời, thần, cho nên, này Xá-lợi-phất! Ông chớ lo âu suy nghĩ mình không được cúng dường. Đức Phật giáo hóa chân thật nên tùy thuận hành trì, chớ đem Đệ nhất nghĩa không ra giảng nói với kẻ lỗi lầm xấu ác. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Hiểm nạn lớn là không chứng đắc gì cả. Hoặc có Tỳ-kheo nhân nơi giáo pháp của ta xuất gia thọ giới, ở trong pháp ấy siêng năng hành trì tinh tấn, tuy chư Thiên, thần và các chúng sinh không nhớ nghĩ, nhưng có thể nhất tâm siêng năng tu tập đạo quả hoàn toàn không nhớ nghĩ về chỗ cần thiết của cơm ăn áo mặc. Vì sao? Vì kho tàng phước đức của Như Lai là vô lượng khó hết.

Này Xá-lợi-phất! Sau khi Như Lai diệt độ, nơi trăm ngàn ức phần của tướng Bạch hào, đem một phần trong số đó cúng dường xálợi và các đệ tử.

Này Xá-lợi-phất! Giả sử tất cả người ở thế gian, đều cùng xuất gia, thực hành đúng theo pháp, thì đối với trăm ngàn ức phần của tướng Bạch hào không hết được một phần.

Này Xá-lợi-phất! Vô lượng công đức của Như Lai là như vậy. Nếu các Tỳ-kheo đã được thức ăn uống và các vật cần dùng thích hợp đầy đủ.

Này Xá-lợi-phất! Các Tỳ-kheo ấy phải nên suy nghĩ, không nên đối với các vật cần dùng như thế mà hành theo các pháp xấu ác của tà mạng.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Tỳ-kheo mặc nạp y nên nhặt lấy nạp y thô xấu, phải sinh tâm này: Nhờ y ấy ngăn chận được nóng lạnh và tu tập Thánh đạo. Hôm nay ta dùng y thô xấu này may vá thành y Tăng-già-lê để mặc, phải dốc hành trì tinh tấn, nếu mặc theo hàng phàm phu, cho dù một đêm cũng không nên mặc. Tỳ-kheo ấy đem giặt sạch sẽ rồi may y mặc. Nếu Tỳ-kheo này đối với nạp y ấy sinh tâm tham đắm thì liền bỏ. Ta không lấy mặc y này, huống gì là y khác. Vì sao?

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo ấy đối với y này sinh tâm chẳng phải là pháp của Tỳ-kheo. Tỳ-kheo ấy không nên tham đắm, huống gì là các vật khác.

Này Xá-lợi-phất! Khi ấy, Tỳ-kheo thà dùng dây sắt nóng đỏ tự trói thân mình chớ nên tham đắm mặc nạp y như thế. Vì sao? Vì đối với y ấy đã sinh tâm nhiễm ái.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo mặc nạp y nên suy nghĩ như vầy: Mặc nạp y như thế là để ngăn chận lạnh nóng, giúp đỡ cho sự tu tập đạo quả. Hôm nay ta không nên tham vướng đối với y khác, sẽ chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả Ala-hán.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo mặc nạp y như thế là chuyên cầu đắc đạo, ta tức đồng ý cho mặc.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo đi khất thực, phải đúng như các pháp, không nên phân biệt, luôn thâu giữ tâm mình không cho tán loạn mà đi vào làng xóm, dùng các thiền định để tự trang nghiêm. Khất thực xong, tâm không nhiễm ô. Đã được thức ăn rồi, thì ra khỏi xóm làng, đến chỗ bờ sông thanh tịnh nơi có thể tu đạo, để thức ăn qua một bên, rửa chân sạch sẽ ngồi xuống, bày thức ăn ra trước mặt nên sinh tưởng nhàm chán xa lìa, tưởng về sự bất tịnh, như phân nhơ thối rửa, như đồ nôn mửa, như ghẻ lở, tưởng như đồ chán ghét… Lại nữa, đối với trong thân phải sinh tưởng về thây chết, tưởng như màu xanh bầm, tưởng như máu mủ, nghĩ là đồ hư thối.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phải sinh tưởng như vậy, khiến không còn tham đắm, sau đó mới ăn. Ăn là để nuôi dưỡng thân này, trừ bệnh tật và đói khát, để được tu tập đạo quả. Lại suy nghĩ: “Ta ăn thức ăn ấy là phá trừ khổ não trước, không còn đau khổ sau, tâm được an vui điều phục thích hợp, không còn lo lắng, thân thể nhẹ nhàng, bước đi an ổn.” Lại nghĩ: “Ăn thức ăn này rồi, ta sẽ chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán và pháp Nhẫn vô sinh.”

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo ăn thức ăn như thế, ta chấp thuận sự việc khất thực ấy.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Tỳ-kheo khất thực, được thức ăn mà sinh tâm tham đắm mùi vị, cho là thức ăn ngon, lại suy nghĩ: “Ta ăn thức ăn này sẽ được sắc đẹp, khí lực đầy đủ, khỏe mạnh”, mà không suy nghĩ: “Ta ăn các thức ăn này là nhằm siêng năng tu hành Thánh đạo.” Tỳ-kheo như thế ta không chấp thuận cho nhận một chút thức ăn uống, huống gì là cả bữa ăn.

Này Xá-lợi-phất! Nếu trong bữa ăn không thấy lỗi lầm xấu ác, không thấy đạo xuất ly mà cứ ăn thì thà tự dùng tay cầm dao mổ bụng ăn thịt mình. Vì sao? Vì ta chấp thuận cho người tu hành chứng đắc, được sự cúng dường mà không chấp thuận những người khác.

Này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là người tu hành? Nếu có Tỳkheo quyết định phát tâm: Ta ở đời hiện tại, dốc đoạn trừ các kết sử, sẽ nhập vào Niết-bàn vô dư, tu tập Thánh đạo như cứu lửa cháy đầu. Lại dốc đoạn trừ các pháp ác bất thiện, đó gọi là người tu hành. Lại có thể nhất tâm tin hiểu pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, vì đoạn trừ các phiền não, nên chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, Ana-hàm, A-la-hán, đó gọi là người tu hành. Cầu các pháp thiện, luôn hành trì thưa hỏi, gọi là người tu hành. Lại có thể phát tâm độ thoát tất cả chúng sinh, gọi là người tu hành. Tâm siêng năng tu tập các pháp trợ đạo, lời nói và việc làm đều đúng như các pháp và luôn nhất tâm chuyên cầu Phật đạo.

Này Xá-lợi-phất! Ở trong pháp Phật đó gọi là người tu hành. Thế nào gọi là người chứng đắc? Nghĩa là chứng đắc quả Tu-đàhoàn, thoát khỏi ba đường ác, gọi là người chứng đắc. Đạt được quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, đoạn trừ các phiền não, chỗ cầu đạo đã dứt, việc làm đã xong, khéo học về ba học, gọi là người chứng đắc. Ta chấp thuận cho người này được thọ nhận sự cúng dường.

Này Xá-lợi-phất! Người giữ giới thanh tịnh nhằm giáo hóa cho Đàn-việt và tu tập học nhiều biết rộng, đọc tụng kinh điển. Đó là đọc tụng: Tu-đa-la, Kỳ-dạ, Thọ ký, Già-đà, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, các kinh như vậy: Kinh Bổn sinh, kinh Phương quảng, kinh Vị tằng hữu, kinh A-ba-đà-na, Luận nghị. Người ấy còn có thể giữ giới thanh tịnh, không có tỳ vết, không cấu uế, không đục dơ, tự tại, không đắm nhiễm được bậc trí khen, tự thân được đầy đủ, thuận theo thiền định, thường xuyên ưa thích ngồi thiền. Tỳ-kheo này ta cũng chấp thuận cho thọ nhận sự cúng dường.

Này Xá-lợi-phất! Người thân chứng đắc pháp không còn nghi ngờ hối tiếc, ta chấp thuận cho người ấy ngồi nơi tòa cao thuyết giảng giáo pháp. Tuy là phàm phu nhưng giữ giới thanh tịnh, tâm không tham vướng nơi kinh sách, nghĩa lý của ngoại đạo, nhất tâm chuyên cầu đạo quả vô thượng của Sa-môn, không tham đắm lợi dưỡng, giảng nói chắc thật, khéo léo, học nhiều biết rộng như biển cả, cho dù mất mạng cũng không nói dối, không thích tranh cãi, luôn tự lợi mình và làm lợi cho người khác, chỉ giảng nói về Đệ nhất nghĩa chân thật, thanh tịnh, lời nói và việc làm luôn như nhau.

Này Xá-lợi-phất! Người giảng nói như thế ta chấp thuận cho giảng nói giáo pháp. các pháp Như Lai đã giảng nói đều có thể khiến cho các pháp không hề chống trái nhau. Đó là giảng nói về giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo cầu lợi, xuất gia theo Phật mà phá bỏ giới phẩm, thì sao có thể giảng nói giáo pháp? Vì sao? Này Xálợi-phất! Trong kinh ta đã nói, nếu người tự mình không khéo tịch tĩnh, tự mình không thể giữ gìn mà có thể khiến cho người khác khéo tịch tĩnh, khéo giữ gìn, là điều không hề có. Như người tự chìm đắm trong chỗ bùn nhơ mà muốn giúp cho người khác ra khỏi nơi ấy là điều không thể có. Nếu người có thể tự mình khéo tạo sự tịch tĩnh, có thể tự mình giữ gìn, có thể ra khỏi chỗ bùn nhơ và giúp đỡ kẻ khác ra khỏi nơi ấy, là điều có thể đạt được. Vì thế, này Xá-lợi-phất! Hôm nay ta nói rõ cho ông. Nếu người nào phỉ báng Như Lai thì tội ấy rất nặng. Tỳ-kheo nói lời chân thật thì nên chấp thuận cho giảng nói giáo pháp. Tỳ-kheo giữ giới, chẳng phải là người nói dối, thì có thể bố thí pháp.

Này Xá-lợi-phất! Ngồi nơi tòa cao, giảng nói chánh pháp, quyết định đoạn dứt nghi ngờ, là việc tối thượng. Nếu giữ giới không thanh tịnh, chấp vướng nơi nghĩa lý của ngoại đạo, thì ta không chấp thuận. Người nói dối, người quý trọng thích việc thế gian, người cầu lợi dưỡng, người ưa tranh cãi, ta cũng không chấp thuận. Ta chỉ chấp thuận đối với người giữ giới thanh tịnh, người tâm ngay thẳng chân thật, người thông đạt thật tướng của các pháp được ngồi nơi tòa cao giảng nói giáo pháp.

Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới thà nên bỏ giới, chứ không mặc ca-sa, giả tướng Thánh nhân che giấu tội lỗi, ngầm làm các việc ác, thọ nhận của người tín thí.

Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên nhỏ mà về lâu về xa phải thọ nhận thân ở địa ngục.

 

Phẩm 10: CHÚC LỤY

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vào đời xấu ác như thế, các Tỳ-kheo đối với pháp thiện làm thế nào để tinh tấn?

Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Ông chớ nên như vậy. Vì sao? Vì Đức Phật đã giảng nói với vô lượng trí tuệ nơi kinh điển, lúc ấy Tỳ-kheo hãy còn không thể tin hiểu, huống hồ là có thể siêng năng tu hành. Này A-nan! Như Lai đối với các pháp hữu vi đều có trí tuệ để lãnh hội, tất cả hàng Bíchchi-phật và A-la-hán… đều không thể hiểu biết. Này A-nan! Các pháp Như Lai đã nhận biết, nếu vì ông mà giảng nói sẽ khiến ông trở nên mê muội, huống gì là người ấy lại có thể tin hiểu? Hôm nay Như Lai giảng nói kinh như thế, bấy giờ người ngu si hãy còn không tin, huống gì là có thể tin chỗ giảng nói về tội báo. Này A-nan! Các pháp là như vậy. Tự thân là ác nên cho các thứ khác cũng ác. Như nay, Tỳ-kheo biếng nhác bậc nhất thì khi đó Tỳ-kheo tinh tấn bậc nhất cũng không sánh bằng. Hoặc chỗ giữ giới, oai nghi, trí tuệ cũng không thể cùng so sánh. Như Lai nếu nói về chỗ tạo tác của người ấy với những lỗi lầm xấu ác nên phải thọ báo khi chuyển thân, thì người này không tin còn dấy khởi tội nặng. Nếu các ông nghe được cũng phải lo sợ, không thể lường tính về chỗ tội ác sẽ thọ báo. Này A-nan! Người thọ nhận giáo pháp thâm diệu của Như Lai là rất khó có. Ý ông thế nào? Ví như loài heo có ưa thích giường chiếu mền nệm đẹp không?

–Bạch Thế Tôn! Dạ không.

–Này A-nan! Ta đã chứng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác với giáo pháp vi diệu sâu xa này, người trí ưa thích, người ấy không thể tin hiểu thấu đạt. Được xuất gia, tự xưng mình là Sa-môn, không thể gắng sức thọ nhận sự giáo hóa như thật, ở trong giáo pháp này mà không thể tu tâm, không được pháp vị giác ngộ phủi tay mà đi rơi vào đường ác, giống như con heo lìa bỏ giường chăn nệm đẹp. Vì sao? Này A-nan! Vì pháp thanh tịnh thâm diệu nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng của ta chứng đắc ấy, chẳng phải là người khó hóa độ có thể tin hiểu. Người khó hàng phục, người không có trí tuệ, người khó đầy đủ, người khó nuôi dưỡng, người phá giới, người khó giảng nói, người trụ nơi tà pháp, người làm theo tà hành, người quý trọng của cải, lợi dưỡng, người cho cơm áo là trên hết, người phá oai nghi, người phá giới đức, người đọa đỉnh, người xấu ác, người biếng trễ, người ít ham muốn, người ít tinh tấn, người không biết xấu hổ, người chịu được xấu hổ, người vội vàng làm việc kinh doanh, hạng Chiên-đà-la trong Sa-môn, bạch y trong Sa-môn, Sa-môn hư hoại, người hành tà đạo trong Sa-môn, người không phải Sa-môn tự nói là Sa-môn, người bị ma ăn nuốt, người hợp với nghĩa lý của ngoại đạo, người hành không đúng như lời nói, người ưa thích chỗ ồn náo, người ưa nói lời tán loạn, người có đủ việc làm của ma, người bị ma não hại, người bị phiền não bùng cháy mạnh, người có kiến chấp ngã, có kiến chấp nhân, người có kiến chấp về chúng sinh, người kiến chấp điên đảo, đối với giáo pháp ấy của ta, nếu có thể tin hiểu thấu tỏ là điều không thể có. Vì sao? Này A-nan! Vì pháp thanh tịnh diệu lạc nơi đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ta đã chứng đắc ấy, cùng với những người xấu ác kia không thể xứng hợp.

Này A-nan! Ví như trăm ngàn ức tam thiên đại thiên thế giới với khoảng trung gian hết sức xa cách rộng lớn cách pháp Sa-môn, cũng lại như vậy, huống gì là đạt được thuận nhẫn, huống gì là đạt được Niết-bàn.

Này A-nan! Những sự việc như vậy nói không thể hết. Sa-môn đời vị lai xấu ác thấp kém, ôm lòng tham chấp sâu dày, ôm lòng sân giận sâu dày, ôm lòng không tin sâu dày, ba độc bùng cháy dữ dội, tâm hành thô ác, khó có thể chế ngự.

Này A-nan! Ví như ruộng lúa tốt đang chín vàng, lại dùng lửa tự đốt, bữa ăn là mỹ vị mà tự nói là độc hại, nhà cửa hiện có dùng toàn là lửa cháy mà tự cho là thanh tịnh, có nên như thế không?

–Bạch Thế Tôn! Không nên.

–Này A-nan! Người ấy ngu si ở đời vị lai cũng như vậy. Do nơi giáo pháp của ta mà được thọ nhận sự cúng dường, nhưng lại không tin hiểu công đức của Như Lai, lại không thể tin các kinh như vậy, không thể gắng nhẫn nói ra lỗi lầm thật sự, tự biết mình là mụt nhọt mà chống trái lời giảng nói của ta. Người ngu si như vậy nương dựa vào Phật để tự sinh sống, mà lại còn nghịch với giáo pháp ấy.

Này A-nan! Bấy giờ, trong cõi Diêm-phù-đề, người ngu si như vậy đầy khắp nơi đó. Này A-nan! Hãy tạm gác lại điều này. Đâu cần phải trách cứ những kẻ xấu ngu si ấy, những sinh những giả tạo tác việc ác.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì? Phụng hành như thế nào?

Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Kinh này gọi là Phật Tạng, cũng gọi là Phát Khởi Tinh Tấn, cũng gọi là Hàng Phục Kẻ Phá Giới, cũng gọi là Tuyển Chọn Các Pháp, nên theo đấy mà phụng trì. Này A-nan! Nếu người nào thọ trì đọc tụng kinh này, thì sẽ đạt được vô lượng vô biên công đức. Vì sao? Vì hạng Tỳ-kheo phá giới hãy còn không thể tin tưởng, đọc tụng, chỉ dạy cho mọi người, huống chi là đối với kinh ấy có được tâm hoan hỷ. Vì sao? Này A-nan! Ví như giặc ác đối với đại thần của vua thì không dám tự hiện bày việc trộm cắp vật dụng của người khác, không tự nói mình là giặc. Thế nên, này A-nan! Tỳ-kheo phá giới gây tạo các pháp chẳng phải là Sa-môn hãy còn không tự nói mình là kẻ xấu ác, huống hồ là có thể hướng đến người khác để nói mình đã có tội.

Này A-nan! Kinh này nếu Tỳ-kheo phá giới nghe được thì có thể tự hàng phục, tức có hổ thẹn. Tỳ-kheo giữ giới có được sự tăng trưởng nơi tự thân.

Khi giảng nói kinh này có vô số chư Thiên đối với các pháp đạt được Pháp nhãn thanh tịnh. Ma ác và các quyến thuộc của chúng đều sầu não lớn, như rơi vào mười sáu hầm lửa, kêu khóc lớn tiếng, nói: Sa-môn Cù-đàm đã biết ta, hiểu ta. Ta luôn ở trong đêm dài sinh tử mong cho sau khi Phật diệt độ, sẽ quấy phá Tỳkheo giữ giới, trợ giúp cho Tỳ-kheo phá giới, nhằm khiến các Tỳkheo xấu ác không hiểu biết về pháp Phật, chỉ biết đọc tụng. Ta muốn ở trong pháp Phật hủy hoại tâm an ổn, nói đây chẳng phải là Phật pháp, không có nghĩa lý sâu xa. Hôm nay Sa-môn Cù-đàm ở nơi đại chúng gồm cả chư Thiên và loài người, giữ gìn pháp này, ngăn chận việc làm của ta.

Ma nói như vậy rồi, ôm lòng sầu não, bỗng nhiên biến mất.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm rõ sự việc này nên nói kệ:

Ta giảng nói các pháp
Tùy thuận Đệ nhất nghĩa
Hữu vi không bền chắc
Như chỗ thấy trong mộng.
Nay ta nói pháp này
Quở trách việc vị lai
Thuận theo Đệ nhất nghĩa
Ngăn chận các người ác.
Bấy giờ trong đời ác
Tâm Tỳ-kheo nhiễu động
Tranh cãi sinh phải quấy
Không thể đạt Niết-bàn.
Sa-môn và bạch y
Giảng nêu không có khác
Bấy giờ pháp của ta
Cùng giống với pháp tục.
Vì người tại gia nói
Ông biết ta ít có
Ta đạt được pháp Phật
Chứng đắc quả thứ nhất.
Lại có Tỳ-kheo nói
Ta nếu là không sai
Người này đồng với ta
Ta thấy pháp chân thật.
Thấy pháp, không thấy pháp
Vì đến chỗ bạch y
Đều ở trong pháp mình
Mà sinh ra bàn luận.
Có nói tất cả có
Có nói tất cả không
Không trụ nơi chánh đạo
Tánh ác chê pháp ta.
Ông chớ gần người này
Nên đến gần gũi ta
Nói pháp thật cho ông
Như ta mau đắc đạo.
Các âm thanh như vậy
Lưu truyền khắp xa gần
Đồng tâm giúp bè đảng
Phá giáo pháp Như Lai.
Ví như các giặc ác
Làm bạn cùng kẻ ác
Phản nghịch phá cõi nước
Thành ấp và xóm làng.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo
Khó có thể giáo hóa
Độn căn tham chấp sâu
Trí kém nương ngã, nhân.
Không hiểu nơi Như Lai
Giảng nói pháp tùy tiện
Nói hữu lậu tăng thượng
Tự cho là đắc đạo.
Ở trong chúng hội lớn
Phần nhiều các Tỳ-kheo
Đều nói có trí tuệ
Không một người cầu trí.
Hoặc là trong hội lớn
Chỉ có một Tỳ-kheo
Có trí tuệ chân thật
Đều trách, nói vô trí.
Chư Thiên, thần đều thấy
Đạo Pháp vương tan hoại
Đều ôm lòng sầu não
Than khóc nói với nhau.
Trong có các thần cây
Từ cây rơi xuống đất
Đều nói Thích Sư Tử
Nay hoại pháp vi diệu.
Phật bảo, Pháp, Tăng bảo
Ở đời cũng chưa lâu
Vì sao nơi ngày nay
Thảy đều sẽ tan hoại.
Chúng ta không chịu nghe
Như Lai nói chánh pháp
Tối tăm không hiểu biết
Đạo vô thượng sắp diệt.
Bấy giờ các địa thần
Đều phát ra tiếng lớn
Đuốc pháp lớn Như Lai
Hôm nay sắp diệt tận.
Chư Thiên và các thần
Đời sau chớ hối hận
Nói không được thấy nghe
Phật đạo nay đã diệt.
Như Lai vô lượng kiếp
Lợi mình cũng lợi người
Thọ nhận các khổ não
Phát nguyện được thành Phật.
Thích Sư Tử, Đại Thánh
Giáo hóa các chúng sinh
Pháp vi diệu thanh tịnh
Nay sắp muốn diệt tận.
Những giặc ác ngu si
Ngày nay được năng lực
Không có tâm thương xót
Cùng chê bai, não hại.
Ma sứ và dân ma
Độn căn khó giáo hóa
Tâm dua nịnh, biếng nhác
Giận dữ hoại Phật pháp.
Ở trong rừng vắng vẻ
Ngồi thiền suốt ba tháng
Tự cho là La-hán
Không thiền sao đắc đạo.
Không được nói được đạo
Chết nói nhập Niết-bàn
Mọi người tin xây tháp
Mà tự vào địa ngục.
Người ngu si như vậy
Khinh thường và giận dữ
Ta ở vô lượng kiếp
Chỗ đạt nay hoại hết.
Bấy giờ thần hư không
Cùng thấy Thích Sư Tử
Chê bai pháp vi diệu
Phát ra tiếng khóc than.
Bốn Thiên vương nghe được
Đều ôm lòng sầu não
Lúc ấy, chư Thiên thần
Đều cùng nhau đi xuống.
Thành A-la-ca-bàn
Chúng thần Dạ-xoa đến
Đều lớn tiếng kêu khóc
Phát ra tiếng đáng sợ.
Có các thành bảy báu
Trang hoàng thật đẹp đẽ
Màu sắc đều như đất
Chư Thiên không thích ở.
Xót thương than khóc lớn
Nơi nơi đều vân tập
Cùng ôm lòng sầu khổ
Thấy nhau không thể nói.
Trằn trọc nằm nơi đất
Phát ra tiếng như vậy
Cùng đi Diêm-phù-đề
Thấy nên sợ hãi lớn.
Phật tử! Tự tranh chấp
Phá hoại pháp, phân tán
Đều từ trên trời xuống
Và đến chỗ ta sinh.
Các thành báu Thiên thần
Bảy ngày không ánh sáng
Đều cùng ngồi kêu khóc
Hết bảy ngày không dậy.
Thế nào đại tinh tấn?
Dũng mãnh, thế gian quý
Chúng ta thấy ở đây
Nay sẽ không còn thấy.
Đều đi đến Kỳ hoàn
Đối diện và than khóc
Phật nói bốn Đế này
Chúng tôi nghe nơi đây.
Thế gian sắp mịt mù
Cùng khinh mạn giận dữ
Chỉ khởi các nghiệp ác
Lại đọa vào đường dữ.
Cung điện chư Thiên đẹp
Đáng tiếc nay sắp không
Chúng ta, chư Thiên, thần
Không còn ai cứu độ.
Bấy giờ, Diêm-phù-đề
Hủy hoại không oai lực
Kinh hành nơi gốc cây
Núi sâu không người thiện.
Tất cả các thế gian
Thảy đều nhiễu động lớn
Chư Thiên và đại thần
Âm thanh rất đáng sợ.
Khi ấy trời Đao-lợi
Đưa tay khóc lớn tiếng
Đều ở trong cung điện
Phát ra tiếng khóc than.
Trong cung điện chư Thiên
Đều xưng nói với ta
Mãi mãi xa Đại Thánh
Vì ta nói các pháp.
Trời Đao-lợi sáu tháng
Không ăn món chư Thiên
Không nghe tiếng kỹ nhạc
Đau khổ như con mất.
Các chúng A-tu-la
Nghe có việc như vậy
Đều cùng nhau vân tập
Muốn đánh trời Đao-lợi.
Các vua cõi Diêm-phù
Đều cùng nhau chinh phạt
Chư Thiên, A-tu-la
Cũng đều cùng chiến đấu.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo
Và các Tỳ-kheo-ni
Phần nhiều đọa đường ác
Rất ít người tránh khỏi.
Các cư sĩ phá giới
Thuận theo Tỳ-kheo ác
Do vì nhân duyên này
Đều hướng tới cõi ác.
Những Ưu-bà-di xấu
Tùy thuận theo thầy ác
Cũng rơi vào đường dữ
Thế gian đều nhiễu loạn.
Vào thành ấp, xóm làng
Có đi đến núi rừng
Đông, Tây ôm sầu não
Vì tổn hại mạng sống.
Lúc ấy nhiều giặc ác
Có nhiều các đường hiểm
Gieo ngũ cốc không mọc
Nếu mọc bị sâu ăn.
Khi đó người thế gian
Đói khát nên chết nhiều
Chết đọa vào ngạ quỷ
Chịu lâu các khổ não.
Người đem vật cúng Phật
Tháp và Tăng bốn phương
Liền đều phân thức ăn
Ta, sau Tăng như vậy.
A-nan, các ông phải
Nỗ lực, siêng tinh tấn
Chớ thấy đời sau này
Những việc ác như thế.
Tất cả các phàm phu
Ngu si không trí tuệ
Phàm phu khởi các nghiệp
Mau đọa vào đường ác.
Các ông siêng đọc tụng
Đó là nhân trí tuệ
Nếu giữ gìn trí tuệ
Chóng đạt đến thắng xứ.
Ta học chánh kiến đời
Ông cũng học như ta
Đoạn trừ việc chướng ngại
Sớm đến chốn an lạc.
Siêng tu tám Thánh đạo
Sớm sẽ đạt Niết-bàn
Suy xét cầu tự lợi
Ta đã nói như thế.
Sau kiếp quá khứ này
Sáu mươi kiếp không Phật
Tiếng Phật còn không có
Huống có người đắc đạo.
Những chúng sinh ở đời
Bị đói khát hành hạ
Không có tâm hiếu từ
Mẹ lại ăn thịt con.
Những nhà sinh con trẻ
Luôn giữ sợ họ ăn
Ai nghe việc ác này
Lại khởi nghiệp sinh tử.
Các khổ, si làm gốc
Năm ấm, tham làm gốc
Nếu không ưa năm dục
Sẽ đoạn các tham chấp.
Khi thọ quả báo phước
Sinh tâm tham đắm sâu
Do nhân duyên tham đắm
Khởi ác, đọa đường dữ.
Pháp vô lậu vắng lặng
Thế gian không bền chắc
Nếu biết rõ như vậy
Các ông mau tu hành.
Không tâm sinh tưởng tâm
Mà tự lo sợ lớn
Ta vì làm không làm xong
Việc này là thế nào?
Các phàm phu như vậy
Tư duy mà tính lường
Ta phải làm thế nào
Luôn kêu khóc như thế.
Không ấm, sinh tướng ấm
Không ngã sinh tưởng ngã
Nghe pháp không tự tướng
Như vậy, cũng mê muội.
Không biết Phật như thật
Đã nói nghĩa các ấm
Nghe được là chắc thật
Sợ chốn, không sợ tưởng.
Ta nói khứ, lai, tại
Các ấm đều vắng lặng
Ba đời đều bình đẳng
Hoặc giống như hư không.
Chư Phật ở quá khứ
Cũng nói tự tướng không
Chư Phật đời vị lai
Cũng nói tự tướng lặng.
Ta ra đời hiện tại
Cũng nói tất cả pháp
Tự tánh, tự tướng không
Ba đời không sai khác.
Người đương lai không biết
Phật đã nói thật nghĩa
Tham chấp ngã chúng sinh
Sẽ đọa ba đường ác.
Đời vị lai như vậy
Đại ác rất đáng sợ
Các ông siêng tinh tấn
Chớ gặp đời ác này.

Khi Đức Phật giảng nói kinh này xong, Trưởng lão Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả hàng trời, người ở thế gian, đại chúng, nghe Phật giảng nói đều hết sức vui mừng, tin thọ lời Phật dạy.