SỐ 327
KINH PHÁT GIÁC TỊNH TÂM
Hán dịch:  Đời Tùy, Tam tạng Xà Na Quật Đa, người nước Kiền Đà La, Bắc Ấn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Một thời, Đức Thế Tôn du hóa nơi vườn Nai, chỗ các vị tiên cư trú, thuộc thành Ba-la-nại, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo gồm một ngàn vị, lại có chúng Bồ-tát năm trăm vị. Lúc này, trong chúng hội có nhiều vị các căn chưa thành thục, có vị ít thiện căn, nhiều nghiệp chướng.

Nơi chúng Bồ-tát, lại có các vị ưa thích việc đời, ưa đàm thoại, ưa ngủ nghỉ, ưa các việc lặt vặt, ưa lý luận, ưa nhiễm đắm nơi các thứ nghiệp văn từ tán loạn, không hợp với việc hành thiền, đối với các pháp thiện thì lười biếng, uể oải, phá bỏ hạnh tinh tấn, quên mất chánh niệm, thường hành hạnh tán loạn mà không hay biết.

Lúc này, có một vị Đại Bồ-tát đang an tọa trong chúng hội ấy tên là Di-lặc, biết các Bồ-tát ở nơi chúng kia có các hành như vậy rồi, liền suy nghĩ: “Các Bồ-tát này làm tổn giảm đạo phần, nay ta cần cảnh tỉnh các vị ấy, khiến họ nhớ lại đạo ý đã phát khởi”. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc nghĩ như thế rồi, vào buổi chiều, từ thiền định xuất, bèn đi đến chỗ các vị Bồ-tát. Sau khi đến, cùng các vị ấy an ủi, dẫn dụ làm cho vui vẻ, khiến họ mong muốn nghe pháp, nhân đó Bồ-tát Dilặc hỏi các vị Bồ-tát kia:

–Này các Trưởng lão! Trong phần Bồ-đề của các vị không bị tổn giảm chứ?

Các Bồ-tát kia thưa:

–Trưởng lão Di-lặc! Đạo phần của chúng tôi chỉ có tổn giảm chứ không có tăng trưởng. Vì sao? Vì chúng tôi có nhiều tâm nghi ngờ, là chúng tôi sẽ được thành Phật hay không được thành Phật? Chúng tôi sẽ rơi vào pháp đọa lạc hay không rơi vào pháp đọa lạc? Đối với các thiện căn có phát sinh hay không phát sinh? Sinh tâm ác như vậy rồi chúng tôi trụ vào tướng đó.

Bồ-tát Di-lặc bảo chúng Bồ-tát ấy:

–Các vị Trưởng lão! Nay chúng ta có thể cùng nhau đến chỗ Đức Phật–Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác. Đức Thế Tôn hiểu biết tất cả, giải thoát không ngại, đầy đủ tri kiến, khéo biết tâm hành của hết thảy chúng sinh, sẽ xét theo tâm hành của các vị mà giảng nói pháp.

Lúc đó, sáu mươi vị Bồ-tát trong chúng kia cùng Bồ-tát Di-lặc đi đến chỗ Đức Phật. Sau khi họ đến, năm vóc lễ sát chân Phật rồi, chưa kịp đứng dậy, đã khóc than thảm thiết, nước mắt như mưa. Bồ-tát Dilặc đảnh lễ nơi chân Phật rồi ngồi sang một bên.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo các Bồ-tát:

–Các thiện nam! Các ông nên đứng dậy, đừng khóc, đừng than, chớ sinh sầu não. Các ông ở đời quá khứ đã tạo nghiệp chướng này: Thuở ấy, các ông vui mừng hớn hở, chửi bới, mạ nhục, phá hoại người khác, không tin nghiệp báo, không thể phân biệt sự trói buộc của nghiệp chướng, không hợp với điều thiện.

Bấy giờ, sáu mươi vị Bồ-tát kia, bày vai bên phải, gối phải quỳ sát đất, hướng về Phật, chấp tay bạch:

–Hay thay, Thế Tôn! Xin Thế Tôn phân biệt giảng nói về nghiệp chướng của chúng con để chúng con tự tịnh hóa tâm mình, không còn tạo tác nữa.

Khi các Bồ-tát nói lời ấy xong, Đức Phật bảo các Bồ-tát ấy:

–Các thiện nam! Vào thời quá khứ, các ông xuất gia học đạo trong giáo pháp của Đức Như Lai Câu-lưu-tôn. Đã xuất gia rồi, ở trong giới cấm, đối với giới cấm thì phóng dật; ở trong đa văn, đối với đa văn cũng phóng dật; đối với công đức Đầu-đà thảy đều tổn giảm. Thời đó, có hai Tỳ-kheo pháp sư, chỉ vì lợi dưỡng, danh tiếng mà các ông đối với họ ganh ghét, thể hiện sự tham lam keo kiệt, đối với đàn việt thân hữu của hai pháp sư các ông lại phá hoại làm ly tán, nói hai lưỡi, hủy nhục, khiến sinh nghi ngờ, không sinh lòng tin, thiếu lòng tin, nói việc chẳng lành. Khi ấy, đối với những chúng sinh tâm sinh kính tín, tùy thuận hai vị pháp sư thì các ông làm cho họ đoạn các căn lành, tạo các chướng ngại. Các ông vì nghiệp chướng này, nên trong sáu mươi hai trăm ngàn năm bị đọa nơi đại địa ngục A-tỳ. Lại trong bốn vạn năm bị đọa nơi địa ngục Hoạt. Lại ở trong hai vạn năm bị đọa nơi địa ngục Hắc Thằng. Rồi trải qua tám trăm ngàn năm bị đọa vào địa ngục Nhiệt. Sau khi bỏ mạng ở nơi ấy, được trở lại làm thân người, lần lượt năm trăm đời, sống trong mù tối, ngu si, quên mất bản tâm, căn lành bế tắc, oai lực sút kém, mọi người xa lánh, thường bị khinh khi, ghét bỏ, chê bai, thường sinh nơi biên địa, nghèo hèn, dòng họ thấp kém, ít lợi dưỡng, ít danh tiếng, không được người khác cung kính, cúng dường, cũng không được tôn trọng, mọi người đều ghét, ai cũng ghê tởm. Từ nơi đó, các ông xả bỏ thân mạng, tiếp theo là năm trăm năm, trong thời kỳ chánh pháp diệt, trở lại sinh trong dòng họ thấp hèn, nơi đất nước ác, đầy con người ác, bần cùng hạ tiện, bị người chê bai, quên mất bản tâm, không thích căn lành, thường có chướng ngại. Tuy tạm gặp ánh sáng nhưng lại bị mù lòa. Các ông thọ sinh như thế qua năm trăm năm, tất cả ngiệp chướng mới diệt hết, về sau được sinh ở thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-di-đà. Bấy giờ các ông được Đức Như Lai ấy thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc nghe Đức Phật nêu rõ sự việc, sáu mươi vị Bồ-tát đều ứa nước mắt, sợ hãi rợn người, chắp tay hướng về Phật, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Từ nay chúng con đối với người hành Bồ-tát thừa, nếu sinh tâm sân hận lỗi lầm và lại tự tạo nghiệp chướng khác thì ngày nay ở trước Đức Thế Tôn chúng con đều xin sám hối. Bạch Thế Tôn! Chúng con nay ở trước Như Lai xin phát thệ nguyện chân thật.

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay về sau, nếu đối với người hành Bồ-tát thừa gây phạm tội lỗi mà phát hiện, nêu bày tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay về sau, nếu đối với nơi chốn người hành Bồ-tát thừa mà bỡn cợt, bêu xấu, khinh mạn, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay về sau, nếu đối với nơi chốn người hành Bồ-tát thừa mà sinh ngã mạn, nói việc xấu của họ, hoặc đúng hoặc sai, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay về sau, nếu thấy người hành Bồ-tát thừa, hoặc tại gia hoặc xuất gia, thọ hưởng quả báo về năm dục, giàu sang, vui sướng mà sinh tâm bất tín, chấp vào tội lỗi của họ, không sinh tâm cung kính, không xem như bậc thầy, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, nếu đối với người thân, hoặc kẻ ăn xin có nhân duyên với người hành Bồ-tát thừa mà chúng con tạo bức bách nơi thân tâm họ, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, nếu chúng con nói ra những lời không vui hoặc những lời mạ lị đối với người tu Bồ-tát thừa, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, ngày đêm sáu thời, chúng con không lễ bái tất cả người tu Bồ-tát thừa, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, vì để giữ gìn điều này, mà chúng con không xả bỏ thân mạng, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, nếu đối với hàng Thanh văn thừa, Phật-bích-chi thừa mà chúng con sinh ý niệm cho là hơn họ, tự đại chê họ, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, trong khi du hành, nếu chúng con không sinh tâm thấp kém như hạng Chiên-đà-la, như loài súc sinh, nếu không tu tập như vậy, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, nếu chúng con tự khen mình, chê bai người khác, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, nếu chúng con sợ hãi chỗ sân hận, tranh chấp, nếu không lìa xa chỗ ấy cách một trăm do-tuần, ví như gió thổi, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, đối với người trì giới, chúng con tưởng nhớ, tôn kính, hoặc người đa văn, hoặc người tu công đức Đầuđà, tu công đức tỉnh giác cùng các công đức khác, mà chúng con không khen ngợi, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, nếu chúng con không che giấu

công đức và bày cái xấu của mình, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi sáu mươi vị hành Bồ-tát thừa ấy:

–Lành thay! Lành thay! Này các thiện nam! Các ông đã khéo nêu bày những thệ nguyện này, có thể tự mình tỉnh thức nên khéo phát khởi những nguyện như thế. Các ông an trụ như thế sẽ dứt hết tất cả nghiệp chướng và đạt được thiện căn thanh tịnh.

Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:

–Này Di-lặc! Bồ-tát nào muốn làm thanh tịnh nghiệp chướng thì nên phát các nguyện này.

Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như có những thiện nam hộ trì nguyện này thì có thể làm viên mãn quả vị bất thoái chuyển chăng?

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Có những Bồ-tát hành trì nguyện này, và các thiện nam, thiện nữ ấy, thà bỏ thân mạng chứ không để khiếm khuyết, cũng không thoái chuyển, xả bỏ hạnh này.

Bồ-tát Di-lặc lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Những người hành Bồ tát thừa phải đủ bao nhiêu pháp, để năm trăm năm sau, khi chánh pháp diệt, không bị tổn hại mà được giải thoát?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Các vị phải đủ bốn pháp, thì năm trăm năm sau khi chánh pháp diệt, mới không bị tổn hại, được giải thoát.

Bốn pháp đó là gì?

Đó là không tìm lỗi của người. Đối với người thuộc hàng Bồ-tát thừa, về chỗ phạm tội cũng không phát giác. Đối với bạn bè, thí chủ của họ cũng không sinh tâm tham tiếc, xả bỏ lời nói ác. Này Bồ-tát Di-lặc! Đó là những người hành Bồ-tát thừa đầy đủ bốn pháp, năm trăm năm sau vào đời vị lai, sẽ không bị tổn hại mà được giải thoát. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa ấy, nên nói kệ:

Chớ thấy lỗi ở nơi kẻ khác
Cũng đừng nói kẻ ấy đúng sai
Sống thanh tịnh, không chấp nhà người
Nên từ bỏ những lời thô ác.

Lại có bốn pháp, mà năm trăm năm sau, khi chánh pháp diệt, hàng Tỳ-kheo bị hư hoại, những người hành Bồ-tát thừa không bị tổn hại mà được giải thoát. Bốn pháp đó là gì? Đó là không nên giao thiệp với nhiều người. Nên xa lìa đám đông. Thường tu nơi thanh vắng. Điều phục thân mình thích hợp với những điều ấy. Này Bồ-tát Di-lặc! Những người hành Bồ-tát thừa đạt đầy đủ bốn pháp ấy thì ở trong năm trăm năm sau, khi chánh pháp diệt, tự thân họ không bị tổn hại lại được an ổn giải thoát.

Khi đó, Đức Thế Tôn nói kệ:

Dứt bỏ ồn náo, sống xa lìa
Tỳ-kheo không pháp, chớ gần gũi
Nên tu thanh vắng, Phật khen ngợi
Không tham đắm lợi, đạt Niết-bàn.

Vì thế, này Di-lặc! Bồ-tát ở năm trăm năm sau, muốn mình không bị tổn hại, lại được giải thoát tất cả các nghiệp chướng, thoát khỏi những việc ấy thì chớ gần nơi ồn ào, nên tu tập nơi vườn rừng yên tĩnh, xa lìa, đừng giao du với nhiều người, thường cảnh tỉnh mình, chớ tìm lỗi người, ưa thích sự tĩnh lặng cùng tương ưng với Bát nhã Bala-mật, đối với các chúng sinh khởi tâm từ bi thuyết pháp cho họ, chẳng cần báo ân.

Đức Thế Tôn lại bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Này Di-lặc! Pháp thí mà chẳng cầu quả báo, chẳng tham đắm lợi dưỡng và danh tiếng, lại vì mọi người thuyết giảng chánh pháp thì có hai mươi công đức. Hai mươi công đức đó là gì? Đó là được nhớ nghĩ chân chánh, được cảnh giới thù thắng vi diệu, được ý tưởng đúng đắn, tốt đẹp, được ý chí mạnh mẽ, được nhiều trí tuệ, giác ngộ về Bát nhã Ba-la-mật xuất thế, đạt được thiểu dục, dập tắt sân hận, diệt ngu si, tất cả các ma ác không tìm được chỗ sơ hở, chư Phật hộ niệm, hàng phi nhân bảo vệ, chư Thiên giúp sức, tất cả oan gia không thể gây hại, thân thích không bị người phá hoại, lời nói ai cũng tin, được vô sở úy, đi đến đâu luôn vui vẻ, người trí thường khen ngợi, hành pháp thí thường được người nhớ đến.

Này Di-lặc! Đó là hai mươi công đức của người giảng nói pháp không cau quả báo, xả bỏ lợi dưỡng và danh tiếng, không mong cầu y phục, ăn uống, thường hành pháp thí lấy việc tạo lợi ích cho chúng sinh làm đầu.

Lại nữa, này Di-lặc! Bồ-tát khi bố thí pháp cho người không tham đắm lợi dưỡng và danh tiếng, lấy việc tạo lợi ích cho chúng sinh làm đầu thì có hai mươi công đức. Hai mươi công đức là những gì? Đó là chưa phát sinh biện tài thì khiến cho phát sinh, đã phát sinh thì không mất, được Đà-la-ni, sẽ được mật động, không dùng nhiều sức mà vẫn đem lại lợi lạc khắp muôn loài, dùng ít công sức mà làm được nhiều lợi ích, chúng sinh gần gũi, cung kính, tôn trọng, thường được cúng dường, sẽ được thân mật, khẩu mật, ý mật, vượt ngoài nẻo ác và các sự sợ hãi, khi mạng chung tâm được hân hoan, giảng nói như chánh pháp, có khả năng hàng phục luận cứ của người khác, đủ đại oai đức, Thánh nhân còn kính ngưỡng, huống hồ là người phàm, các căn thành tựu không thể so sánh, thâm tâm cụ túc, chứng đắc các pháp chỉ, quán, có thể làm qua việc khó làm, tinh tấn không giảm sút, giữ gìn chánh pháp, mau chóng vượt qua quả vị bất thoái chuyển, trong tất cả hạnh an trụ tùy ý.

Này Di-lặc! Đó là hai mươi công đức của Bồ-tát hành pháp thí không cầu quả báo, chẳng tham đắm lợi dưỡng, danh tiếng, y phục, thức ăn uống. Chỉ vì tạo lợi ích cho chúng sinh mà luôn hành pháp thí. Này Di-lặc! Ông hãy quan sát vào đời vị lai, năm trăm năm sau, có bao nhiêu người vô trí ở nơi hàng tu tập Bồ-tát thừa, khi hành pháp thí vui vẻ cầu quả báo, chẳng phải là không mong cầu? Họ sinh tâm đó mà nói pháp cho mọi người, vì để thêm nhiều người thân và sự cầu xin nên hành pháp thí. Lại khởi niệm như vầy: Làm sao khiến cho người xuất gia và tại gia sinh lòng tin thanh tịnh để cúng dường cho ta những thứ cần dùng như: y phục, thức ăn uống, ngọa cu, thuốc men. Vì nhân duyên này nên giảng nói pháp cho mọi người.

Này Di-lặc! Ví như các thây chết của rắn, chó, người, đều hôi hám, ô uế thối rữa, bất tịnh, mọi người luôn nhờm gớm, lánh xa. Cũng như vậy, này Di-lặc! Ơ đời mạt pháp, các Pháp sư chỉ cầu quả báo mà thuyết giảng pháp cho mọi người. Nếu không có tài lợi thì chán nản, đau khổ, uể oải bỏ đi. Họ nghĩ như vầy: “Chúng ta không được lợi dưỡng, thí pháp như thế chẳng có lợi lạc gì cả, đã không cho ta y phục, thức ăn uống, ngọa cụ thì chuyện gì ta phải chịu khổ”. Người ấy vì xem trọng việc cúng dường, phụng sự cho bản thân để nuôi người hầu cận và chúng đệ tử, mà không vì pháp, hoàn toàn chang làm việc lợi ích cho mọi người mà miệng lại dối trá, tỏ ra như là hướng dẫn chỉ dạy cho mọi người: “Ta có lòng từ bi đúng như pháp, giáo hóa các chúng, không vì tài lợi, chỉ vì lợi ích, nên đến thành ấp, thôn xóm, vương cung để giáo hóa tạo mọi thành thục cho chúng sinh. Tuy họ nói lời như thế, nhưng trong lòng chỉ vì các thứ y phục, ăn uống, ngọa cụ, thuốc men mà thôi”.

Này Di-lặc! Ta không cho rằng người cầu tài vật ấy là đã hành pháp thí thanh tịnh. Vì sao? Vì phàm đã mong cầu sự báo đáp thì hành pháp thí không bình đẳng.

Này Di-lặc! Ta không cho rằng người mong cầu sự báo đáp ấy giáo hóa tạo mọi thành thục cho chúng sinh. Vì sao? Vì người nào tự mình chưa thành thục mà có thể đem lại thành thục cho người khác thì điều đó không có.

Này Di-lặc! Ta không cho rằng người coi trọng việc thừa sự ái nhiễm, cung dưỡng thân, thâu nhận các đồ vật mà lại tạo lợi ích cho người khác. Vì sao? Vì người thừa sự chỉ làm cho thân mình vui sướng chứ không thể giáo hóa đại chúng kiến lập sự tu hành.

Này Di-lặc! Ta không cho rằng người dối trá xưng mình hành thiện có thể ở nơi thanh vắng tịch tĩnh.

Này Di-lặc! Ta không cho rằng người phước mỏng là người sống hạnh thiểu dục.

Này Di-lặc! Ta không cho rằng người chỉ tìm cầu thức ăn ngon là người sống hạnh khất thực.

Này Di-lặc! Ta không cho rằng người chỉ thiếu lợi dưỡng là người sống hạnh tri túc. Ta không cho rằng người tìm cầu y phục đẹp là trì giữ y phấn tảo. Ta không cho rằng người không biết đạo, tục mà ở một mình là không sống theo tạp hạnh. Ta không cho rằng người giỏi dua nịnh quanh co lại được gặp Phật ra đời. Ta không cho rằng người cầu tìm sở đoản của kẻ khác có thể ứng hợp với chánh pháp. Ta không cho rằng người nhiều sân hận là kẻ trì giới thanh tịnh. Ta không cho rằng người ngã mạn, cao ngạo là hàng đa văn. Ta không cho rằng người ưa thích bè đảng là bậc thầy giữ luật. Ta không cho rằng người có oai nghi không trong sạch là người khéo cung kính nói pháp. Ta không cho rằng người nói lời thêu dệt, đùa giơn là bậc thầy khéo giảng pháp. Ta không cho rằng người đắm trước gia nghiệp là bậc đạo sư phạm hạnh thanh tịnh. Ta không cho rằng người bố thí để cầu phước là người không mong báo đáp. Ta không cho rằng người cầu báo ân là khéo hành nhiếp sự. Ta không cho rằng kẻ cầu lợi dưỡng, danh tiếng là người có nội tâm thanh tịnh. Ta không cho rằng người bất tín, nhiều phân biệt là kẻ xuất gia. Ta không cho rằng người tin theo lời dạy của kẻ khác là người khéo trì giới. Ta không cho rằng người không tôn trọng là người dốc tâm nghe pháp. Ta không cho rằng người thường chấp vào kinh điển, chú thuật ở đời là người ưa thích chánh pháp. Ta không cho rằng người không tin nơi pháp mà được giải thoát. Ta không cho rằng người tham nhiễm chấp trước là người tu hành thanh tịnh. Ta không cho rằng người hành theo nhiễm chấp là người hành viên mãn Bồ-đề phần. Ta không cho rằng người trụ nẻo thủ đắc là chứng đạt trí. Ta không cho rằng người yếu hèn là người viên mãn hạnh nhẫn nhục. Ta không cho rằng người không bị ai xúc não là người mặc áo giáp nhẫn nhục. Ta không cho rằng người bản tánh ít phiền não là người có giới hạnh thanh tịnh. Ta không cho rằng người nói nhiều là người làm theo lời dạy. Ta không cho rằng người thích nói là người nhất tâm. Ta không cho rằng người ưa tạo dựng sự nghiệp thế gian là người hành pháp không tổn giảm. Ta không cho rằng người nội tâm thanh tịnh sẽ bị đọa vào nẻo ác. Ta không cho rằng người làm theo trí tuệ là làm bậy. Ta không cho rằng người hành hóa tương ưng với phương tiện là người dua nịnh, quanh co. Ta không cho rằng người không cầu danh lợi là người vọng ngữ. Ta không cho rằng người không hý luận là người phỉ báng pháp. Ta không cho rằng người thích hộ trì chánh pháp là người luyến tiếc thân mạng. Ta không cho rằng người có tánh sợ hãi là người phát khởi tinh tấn.

Này Di-lặc! Các loại tội lỗi dua nịnh, quanh co, điên đảo, tham lam như vậy, vào đời vị lai, năm trăm năm sau, hàng Bồ-tát thừa gặp phải các hạnh ác này phải nên khéo gìn giữ!

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chỉ có sáu mươi Bồ-tát này, ở đời vị lai, năm trăm năm sau, có các nghiệp chướng, hay còn có các Bồ-tát khác nữa?

Đức Phật bảo:

–Này Di-lặc! Năm trăm năm sau, cũng co các Bồ-tát khác bị nghiệp chướng trói buộc, trong đó có người đoạn hết nghiệp chướng, hoặc có người làm tăng trưởng nghiệp chướng.

Lại nữa, này Di-lặc! Vào thời ấy, trong số năm trăm Bồ-tát đó, có hai mươi Bồ-tát có ít nghiệp chướng, nghiệp chướng vi tế, ở đời vị lai năm trăm năm sau, họ sẽ sinh nơi thôn xóm, thành ấp, thuộc đất nước hiểm nạn, trong dòng họ đại phú hào, thông minh nhiều trí, khéo biết phương tiện, tâm ý nhu thuận, có ảnh hưởng tạo lợi ích rộng lớn, oai nghiêm dễ mến, biện tài khéo léo, che giữ đức độ của bản thân, an trụ nơi hạnh công đức Đầu-đà, đã ở trong vô số ức A-tăng-kỳ kiếp tu tập đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hộ trì chánh pháp, xả bỏ thân mạng, ở chỗ thanh vắng, xa lìa chốn ồn ào, không cầu danh lợi, thường ưa thích tinh tấn, nhập vào nẻo hành của chúng sinh, giỏi về ngôn luận, thông đạt sách thế gian, nghe ít hiểu nhiều, khéo biết pháp quán, có đủ mọi biện luận giỏi phân biệt, tùy theo câu hỏi mà đáp hợp với nghĩa lý, đạt được biện tài vô ngại, Đà-la-ni vô tận. Khi giảng pháp cho bốn bộ chúng, nhờ thần lực của Phật, sự hộ trì của Phật nên đối với những thể loại kinh mà Như Lai đã giảng nói: Tu-đala, Kỳdạ, Thọ-ký, Già-đà, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, A-ba-đà-na, Y-đếviệt-đà-già, Xà-đa-ca, Tỳ-phật-lược, A-phù-đà-đạt-ma, Ưu-ba-đề-xá, đều có thể tự giảng giải.

Này Di-lặc! Bấy giờ, hai mươi Bồ-tát khéo dùng phương tiện ở bên các bậc Hòa thượng, A-xà-lê lãnh thọ pháp bản này với vô lượng trăm ngàn câu kinh đều có thể trì tụng giải nêu. Nhờ trì tụng bản pháp này mà các thiện nam ấy đối với những biện tài tâm không nghi ngờ, thâu nhận, an trụ.

Lại nữa, này Di-lặc! Trong thời ấy cũng có các Bồ-tát không tạo được phương tiện, hoặc làm người thế tục, hoặc người xuất gia, đối với những người hộ trì chánh pháp, người chỉ dạy nẻo hành chánh pháp, người có hạnh chân thật, các Pháp sư đó giảng nói giáo pháp, họ đều không thọ trì mà còn khinh khi, cười nhạo: “Các ông tự đặt ra pháp này, những câu pháp ay chẳng phải là Như Lai nói, các ông tự ý nhóm hợp, tạo ra văn từ trau chuốt, gây thêm phiền phức. Chúng tôi đối với pháp này không sinh kính trọng, không sinh ý tưởng tin ưa, khó gặp”.

Lại nữa, này Di-lặc! Vào thời gian đó, có nhiều chúng sinh phỉ báng pháp ấy, phá hoại pháp ấy, không thọ trì pháp ấy, xem như trò đùa giỡn của chú bé láu lỉnh đối với bạn đồng hành. Cho rằng các Tỳkheo không nương vào khế kinh, không nương vào Tỳ-ni để giảng pháp. Lại nói với mọi người: “Các ngươi chớ sinh tâm kính tin cho là hy hữu, đây chẳng phải là chánh pháp!”.

Này Di-lặc! Những kẻ kia là người ngu si, không biết rằng tất cả lời nói thiện hiện có đều là do Như Lai nói ra. Những người ấy bị ma chế ngự nên phỉ báng pháp của các Pháp sư giảng thuyết, sẽ tạo nhân duyên của nghiệp hủy báng pháp. Vì tạo nhân duyên xấu như thế nên bị đọa vào đường ác. Cho nên này Di-lặc! Bồ-tát muon hộ trì chánh pháp phải tạo phương tiện, che giữ đức độ của mình, đối với hàng chúng sinh có hạnh cần phải hộ trì, chớ để họ sinh trưởng chướng ngại. Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Hy hữu thay, Thế Tôn Bà Già Bà! Hàng Bồ-tát trong thời kỳ ấy không có trí tuệ mà không cầu biện tài, đối với pháp của người khác không tin tưởng thì đối với ai để cầu sinh thiện căn và Đà-la-ni để tự bảo hộ? Nếu không như thế thì khi ở bên các Pháp sư hành trì chánh pháp, họ khởi hủy báng, phát sinh những cấu uế. Bạch Thế Tôn! Ví như có người khát muốn uống nước, đi đến suối, ao, hồ, giếng, chưa uống nước mà trước hết lại ném phân dơ vào. Ném phân dơ vào rồi mới nhằm uống nước, nghe mùi hôi hám, kinh tởm không uống, nhưng không cho là mình đã làm ô uế mà lại đổ lỗi cho nước tạo ra sự dơ bẩn ấy. Cũng như thế, bạch Thế Tôn! Hạng người ngu si ấy luôn cho là dốc tâm mong cầu pháp, muốn xét rõ pháp hạnh, nhưng trước hết đối với pháp và người thì tìm chỗ sơ hở, rồi trở lại nghe pháp, chê bai Pháp sư và lời giảng giải của Pháp sư, như người ngu kia chê suối, ao, hồ, giếng v.v… là dơ bẩn. Tỳ-kheo trì pháp nên biết như vầy: Nếu lại có người nào có thể giảng nói pháp như thế, thì nên biết đều là nhờ diệu lực nơi oai thần của Phật.

Như vậy, bạch Thế Tôn! Vào năm trăm năm sau, có Bồ-tát vô trí làm ố giáo pháp và Tỳ-kheo trì pháp, rồi ở bên vị ấy lại muốn uống pháp vị. Họ không tự biết đó là tội lỗi của mình mà còn khinh chê các Pháp sư, trước mặt mọi người nói lỗi Pháp sư, khởi sự ô nhiễm để tìm lỗi của người khác, phát sinh nhàm chán rồi muốn lìa bỏ.

Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Di-lặc:

–Lành thay! Lành thay! Này Di-lặc! Ông khéo nêu bày các sự

việc như vậy! Nếu người không hay tìm kiếm lỗi của người khác tức biết bản thân mình chưa lìa tất cả lỗi lầm.

Này Di-lặc! Có bốn nhân duyên về tất cả biện tài do chư Phật đã giảng nói, cần phải nhận biết như thế. Di-lặc! Lại có bốn nhân duyên nên biết về bốn biện tài, tức là tất cả những điều chư Phật Như Lai đã giảng nói. Người chê bai hết thảy chư Phật thì không chấp nhận được.

Này Di-lặc! Nên biết bốn nhân duyên về biện tài mà chư Phật đã nói.

Này Di-lặc! Biện tài ấy nghĩa lý trọn vẹn, chẳng phải là nghĩa lý không trọn vẹn; đầy đủ pháp, chẳng phải là không đầy đủ pháp; đoạn trừ hết phiền não, không tăng trưởng phiền não; nói công đức Niếtbàn, chỉ bày tội lỗi nơi sinh tử. Này Di-lặc! Đó là bốn biện tài mà chư Phật đã giảng nói, nên nhận biết như vậy.

Này Di-lặc! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng tương ưng hòa hợp với bốn biện tài này và có thể biện thuyết. Nếu thiện nam, thiện nữ nào gần gũi với người ấy thì nên tưởng như là Phật, như giáo sư, để nghe pháp nghĩa. Vì sao? Này Di-lặc! Vì người ấy có giảng nói điều gì thì đều là điều Như Lai đã giảng nói. Nên biết như vậy.

Này Di-lặc! Nếu có người phỉ báng bốn biện tài này cho là chẳng phải Phật giảng nói, không sinh tâm tôn trọng, cung kính, lại còn ganh ghét người giảng nói tức là họ phỉ báng biện tài của tất cả chư Phật, Như Lai đã nói. Phỉ báng pháp rồi, còn tạo thêm nghiệp phá diệt pháp, tạo nghiệp diệt pháp rồi thì bị đọa vào nẻo ác. Vì vậy, này Di-lặc! Thiện nam nào có tín tâm, muốn được xa lìa nghiệp chướng hoại diệt pháp thì không thể vì ghét người mà sinh ra ghét pháp; không thể vì không thích người mà đối với pháp kia không sinh tâm ưa thích, gần gũi.

Này Di-lặc! Thế nào là biện thuyết bị chư Phật chê trách không chấp nhận?

Này Di-lặc! Có loại biện thuyết không tạo lợi ích, không nương vào pháp chân thật, làm tăng trưởng phiền não, không dứt hết phiền não, tăng trưởng sinh tử, không khen ngợi công đức, lợi ích của Niếtbàn.

Này Di-lặc! Biện thuyết này bị tất cả chư Phật quở trách và tất cả chư Phật không chấp nhận.

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có biện thuyết làm tăng trưởng sinh tử, chẳng phải là biện tài của Phật, thì vì sao Thế Tôn nói các phiền não tạo lợi ích cho các Bồ-tát, lại còn khen ngợi việc lưu chuyển trong sinh tử để lam viên mãn Bồ-đề phần? Thưa Thế Tôn! Biện tài như vậy lẽ nào chẳng phải là Như Lai giảng nói?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Ý ông nghĩ sao? Vì phiền não này làm viên mãn Bồ-đề phần hay tạo lợi ích cho các Bồ-tát, nen mới nói ra? Lại nên khen ngợi sự lưu chuyển trong sinh tử, nhưng việc ấy là hợp với nghĩa hay không hợp với nghĩa, hợp với pháp hay không hợp với pháp?

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người nói xác đáng rằng đó là hợp nghĩa, hợp pháp thì lời nói ấy là lời nói chân chính.

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Vì ý nghĩa đó, ông nên biết, tất cả lời chư Phật giảng nói đều là biện tài của Phật. Nên biết như vậy. Nếu có chỗ giảng nói các phiền não làm viên mãn Bồ-đề phần là nói vì lợi ích cho các Bồ-tát. Khen ngợi sự lưu chuyển trong sinh tử là vì lợi ích cho các Bồ-tát. Vì sao? Này Di-lặc! Vì Bồ-tát nên biết như thật về các phiền não ấy. Bồ-tát này không phạm tội do phiền não ấy vì đối với nghĩa được tự tại, đối với pháp cũng tự tại. Đó là các Bồ-tát theo phương tiện thiện xảo, quả vị ấy chẳng phải quả vị của hàng Thanh văn, Phật-bích-chi.

Này Di-lặc! Nếu có phiền não mà không có lợi ích, không là nhân duyên làm viên mãn Bồ-đề phần, chẳng là nhân của thiện căn, thì đối với chúng Bồ-tát kia không cần tiếc thân mạng, cũng không thể thuận theo phiền não ấy. Vì sao? Này Bồ-tát Di-lặc! Vì Bồ-tát đạt được trí lực, có sự duyên dựa đặc biệt, thấy có phiền não liên kết với pháp hữu vi.

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu về ý nghĩa nơi lời Phật giảng nói là nếu có Bồ-tát không muốn tạo nghiệp chướng, muốn đoạn sạch nghiệp chướng, không khuyết, không tổn, muốn giải thoát thì vị ấy ở đời vị lai cần phải tin hạnh Bồ-tát, cần phải tư duy, chớ tìm lỗi người khác, thường cầu việc công đức, cầu điều chan chánh.

Đức Phật bảo:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Này Bồ-tát Di-lặc! Người ấy ở đời sau cần phải tư duy đối với hạnh Bồ-tát, nên biết tạo phương tiện. Vì sao? Vì có trí phương tiện mới hành hóa nẻo Bồ-tát, mà phương tiện thiện xảo khó có thể biết được.

Này Di-lặc! Ví như bậc Tu-đà-hoàn ở trong hàng phàm phu mà hiện bày quả vị Tu-đà-hoàn, thì có hoạn nạn đặc biệt khác với hàng phàm phu. Tội lỗi của tham dục, sân hận, si mê nơi các phàm phu làm họ bị đọa vào đường ác, còn tội lỗi của các bậc Thanh văn thì không làm vị ấy bị đọa vào đường ác. Như thế nên nhận biết.

Này Di-lặc! Cũng như vậy, vì bậc Bồ-tát trí hạnh chưa thể diệt hết tập khí nhiễm ô, nên có quả vị khác nhau và người mới hành đạo Bồ-tát có quả vị khác nhau. Vì sao? Vì tâm của vị ấy không trụ vào các kiết sử, còn các phàm phu thì nhiễm vướng các sử. Vì ngu si nên phàm phu không thể biết rõ con đường giải thoát.

Này Di-lặc! Bậc Bồ-tát trí hạnh tuy có trọng tội nhưng nhờ sức trí tuệ nên diệt hết như tro, cũng không do đó mà bị đọa nơi đường ác.

Này Di-lặc! Ví như đám lửa cháy dữ mà ném cây củi lớn vào, cứ thế ném nhiều củi vào trong đám lửa thì đám lửa ấy càng cháy to, không thể tắt. Cũng như vậy, này Di-lặc! Khi lửa trí của bậc Bồ-tát trí hạnh bùng cháy mà đem phiền não hữu vi ném vào trong lửa trí thì như thế lửa trí càng cháy mạnh không thể tắt được, đó là nhờ sức của trí tuệ. Do vậy, ông nên biết, các hạnh của các Bồ-tát trí hạnh ấy là khó nhận biết.

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người mới hành đạo Bồ-tát vì chưa đạt được trí lực, bỏ nhà xuất gia thì cần phải xa lìa những pháp gì? Và nên gần gũi những pháp gì? Nếu Bồ-tát gần gũi với pháp ấy thì trí lực chưa sinh khiến sinh, đã sinh thì khiến phát triển không giảm?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Người mới hành đạo Bồ-tát, bỏ nhà xuất gia, chưa đạt được trí lực. Tuy vị ấy từ bỏ của cải, làm việc cúng dường, nhưng cần phải quán họa hoạn của lợi dưỡng, danh tiếng; phải mau chóng bỏ lời bàn tán của thế gian, phải quán họa hoạn của lời bàn tán thế gian; nên bỏ việc thích nói nhiều, quán họa hoạn của việc nói nhiều; nên bỏ việc thích ngủ nghỉ, quán họa hoạn của việc ngủ nghỉ; nên bỏ việc ưa tạo tác các nghề nghiệp, quán họa hoạn các nghề nghiệp thế gian; nên bỏ việc ưa đùa giỡn, quán họa hoạn của việc ưa đùa giỡn. Sau khi Bồ-tát lìa bỏ lợi dưỡng, danh tiếng, cần phải tu hành thiểu dục, tri túc, phải gần gũi người biết thiểu dục tri tuc. Sau khi đã từ bỏ thuyết thoại thế gian cần phải gần người thích sống một mình; bỏ việc nói nhiều rồi, cần phải quán nghĩa chân thật; bỏ việc ngủ nghỉ rồi, đầu đêm cuối đêm phải thường tỉnh giác; bỏ việc tạo nghề nghiệp rồi, cần phải gần gũi pháp xuất thế gian; bỏ việc vui đùa rồi, cần phải tu tập ưa thích pháp từ bi không còn phân biệt về chúng sinh.

Này Di-lặc! Người mới hành đạo Bồ-tát, bỏ nhà xuất gia, chưa được trí lực, muốn đạt được thì cần phải xa lìa pháp ác như vậy và gần gũi các pháp như vậy.

Này Di-lặc! Người mới hành đạo Bồ-tát, bỏ nhà xuất gia, chưa đạt đến trí lực, khi chưa bỏ lợi dưỡng và danh tiếng, khi chưa gần gũi thiểu dục, tri túc, nếu chưa sinh trí lực có thể khiến cho sinh, đã sinh rồi có thể khiến cho phát triển thì không có điều đó. Chưa lìa lời bàn tán của thế gian, chưa gần gũi với người sống một mình, không rời bỏ sự ưa ngủ nghỉ, đầu đêm cuối đêm không gần sự tỉnh giác mà ưa tạo tác các sự nghiệp thì trong thời gian ấy không thể tu tập pháp xuất thế gian. Không bỏ sự vui đùa, không gần gũi với tâm từ bi không phân biệt về chúng sinh mà chưa sinh trí lực khiến cho sinh, đã sinh rồi khiến cho phát triển thì không có điều đó.

Này Di-lặc! Cho nên nếu có Bồ-tát muốn sinh trí lực thì nên lìa bỏ các pháp cần phải bỏ, nên tu tập các pháp cần tu tập. Vì sao? Này Di-lặc! Vì trí tuệ từ đó phát sinh, không có nhân ấy thì trí lực không thể phát sinh. Nhân mà không hòa hợp thì không thể dễ dàng sinh trí lực được.

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát phải quán họa hoạn của lợi dưỡng và danh tiếng như thế nào? Những gì là các họa hoạn của lợi dưỡng, danh tiếng mà khi Bồ-tát quán rồi thì ưa thích tri túc, không có hối tiếc?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Bồ-tát ở trong đó, nên quán về lợi dưỡng không khiến phát sinh sự ham muốn. Nên quán xét như vầy: Vì lợi dưỡng nên phát sinh ham muốn làm tổn hại đến hạnh của ta, tâm sinh các họa hoạn và sân hận. Cần phải quán lợi dưỡng làm phát sinh ngu si, ngã mạn. Nên quán lợi dưỡng làm phát sinh ganh ghét. Nên quán lợi dưỡng làm phát sinh các thứ huyễn quái, tạo thành vị ái dục. Nên quán lợi dưỡng làm phát sinh dua nịnh quanh co. Nên quán lợi dưỡng làm xa lìa bốn thánh chủng. Nên quán lợi dưỡng làm mất hết hổ thẹn mà tất cả chư Phật không chấp nhận. Nên quán lợi dưỡng làm phát sinh ngã mạn, cao ngạo, ở gần bậc tôn quý mà không sinh ái kính, bị tất cả mọi người lãng quên. Nên quán lợi dưỡng là trợ lực của các ma, chỉ là gốc gác của sự phóng dật. Nên quán lợi dưỡng bẻ gãy các căn lành giống như mưa đá. Nên quán lợi dưỡng gồm nhiều uế tạp. Nên quán lợi dưỡng làm mất bạn bè tri thức. Nên quán lợi dưỡng hay sinh thương ghét và sầu não. Nên quán lợi dưỡng làm mất chánh niệm, nhiều nhiễm ô. Nên quán lợi dưỡng làm cho suy yếu bạch pháp, khiếm khuyết các chánh cần. Nên quán lợi dưỡng là chướng ngại không gì bằng, khiến không chưng đắc được các thần thông. Nên quán lợi dưỡng phát sinh sự dối trá, nói toàn việc bất thiện. Nên quán lợi dưỡng có nhiều phân biệt suy lường tạo nghiệp. Nên quán lợi dưỡng làm xa lìa các niềm vui, đánh mất thiền định. Nên quán lợi dưỡng giống như dâm nữ làm xa lìa trí tuệ tịch tĩnh. Nên quán lợi dưỡng khiến bị đọa vào các cõi ác: đia ngục, ngạ quỷ, súc sinh v.v… như hành động của Đề-bà-đạt-đa, Ưu-đà-la-ca-văn. Này Di-lặc! Bồ-tát cần phải quán sát về lợi dưỡng như vậy. Đã quán xét về lợi dưỡng thì khi quán rồi sẽ bằng lòng với thiểu dục, không còn hối tiếc. Vì sao? Này Di-lặc! Bồ-tát thiểu dục sẽ không có các họa hoạn như vậy, sẽ là pháp khí của chư Phật, không tùy thuộc vào sự khinh mạn của người tại gia và xuất gia, thường không sợ hãi, được lòng tin thanh tịnh, đối với tất cả đường ác đều không lo sợ, không bị hàng phục, xa lìa hết thảy vị ái, các cảnh ma, sẽ được giải thoát, được tất cả chư Phật khen ngợi, được hàng trời, người mến mộ, không nhiễm chấp nơi các thiền định; gần gũi sẽ sinh hoan hỷ, lìa dua nịnh quanh co, sẽ không còn phóng dật; quán các họa hoạn của năm dục, y như lời nói ra không đổi khác, thường trụ nơi quán phạm hạnh của các dòng tộc chư Thánh. Này Di-lặc! Bồ-tát trí tuệ quán các công đức như vậy, cần phải xa lìa lợi dưỡng, danh tiếng, chánh tâm trụ vào tri túc, phải trừ hết mọi thứ tham dục.

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát quán họa hoạn nơi lời nói thế gian như thế nào? Và thế nào là các họa hoạn nơi lời nói của thế gian mà sau khi quán rồi, Bồ-tát ưa sống một mình, không hối tiếc?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Lời nói của thế gian có hai mươi họa hoạn cần phải quán sát. Khi Bồ-tát quán xét rồi thì thích sống một mình. Hai mươi họa hoạn đó là gì? Đó là không hộ trì hạnh của thân, không hộ trì hạnh của miệng, không hộ trì hạnh của ý, nên có nhiều hạnh nơi dục, nhiều sân hận, nhiều ngu si, đối với việc thế gian thì có nhiều lời bàn luận, nhưng đối với việc xuất thế gian thì tiếc lời, gần gũi pháp bất kính, xa lìa chánh pháp, ma được tùy tiện, sẽ hành buông lung, khiến theo sự phóng dật, có nhiều phân biệt, giảm quán về đa văn, không đạt được chỉ và quán, sẽ chóng trở thành phi phạm hạnh; lòng tin đối với Phật, Pháp, Tăng bị giảm sút. Này Di-lặc! Đó là hai mươi họa hoạn của lời nói thế gian. Bồ-tát nào, sau khi quán như vậy thì thích sống một mình mà không mệt mỏi.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa vừa nêu nên nói kệ:

Bỏ giới xa lìa chốn tịch tĩnh
Ưa thích nói việc của thế gian
Người ấy tạp nhiễm rồi phá giới
Lại có các họa hoạn như thế.
Vui đùa cười giỡn và phân biệt
Người nói chuyện thế gian như vậy
Thường có tạp hạnh không kiểm thúc
Phát ra lời gần gũi thế tục.
Thế gian ngu tối ưa pháp trí
Không trí bàn luận thêm tổn hại
Tăng trưởng phóng dật, nhiều phân biệt
Nếu nói lời gần gui thế tục.
Thì đa văn sẽ không tăng trưởng
Lời nói không hợp sinh vui thích
Thường tổn hại đến các thiền định
Ngồi một mình tâm nghĩ thế tục.
Nghĩ đến thế gian sao có định!
Không đắc định tịch, không chánh quán
Nên không có phạm hạnh thù thắng
Nếu nói lời gần gũi thế tục.
Gần bên Phật, tâm không kính trọng
Cũng không ngưỡng mộ bậc Thánh Tăng
Lìa bỏ pháp tối thượng tối thắng
Để thân cận lời nói thế tục.
Xưa Ta xả thân số muôn ngàn
Vì cầu duyên Bồ-đề vô thượng
Chưa từng nhàm chán nghe chánh pháp
Xả bỏ mọi thứ không màng đến.
Không thích nam nữ và thê thiếp
Ta xưa bỏ ngôi vị, của cải
Chỉ vì bài kệ có bốn câu
Bậc trí tại sao không nghe pháp.
Mọi thứ mọi nơi đều xả bỏ
Cũng không hòa hợp lời ô nhiễm
Đối với thắng pháp không ưa thích
Người ấy trăm kiếp khó thành tựu.
Muốn giải thoát, tu tập công đức
Chớ hỏi thế gian chỗ tạo tác
Không vì tự lợi không Niết-bàn
Nếu có người hỏi giúp cơm áo.
Đó là việc tốt đáng khen ngợi
Hoặc gặp Tỳ-kheo nói: mời đến
Thiết lập tòa ngồi, mời ông ngoi!
Mỗi mỗi nên nói về pháp sự.
Thân người khó được mà đã được
Ông làm thêm lớn pháp thiện chăng?
Đọc tụng và trong các thiền định
Tỳ-kheo cần phải hỏi như vầy:
–Sau khi Như Lai vào Niết-bàn
Giáo pháp ắt sẽ bị phá hoại
Có các Tỳ-kheo không oai nghi
Ưa ở trong chúng, bỏ thanh vắng.
Lợi dưỡng, tiền tài và y phục
Ngày đêm thường cùng nhau luận bàn
Ngủ mê bất động ở trong mộng
Thấy việc cày ruộng và cấy lúa.
Những thứ phàm phu biet mất rồi
Hướng sinh vào trong ba nẻo ác
Thường sinh hoan hỷ hết mực rồi
Nên ở rừng cây như tê giác.
Ở nơi thanh vắng cầu an vui
Lúc ấy chớ nhìn lỗi người khác
Ta là hơn hết, đứng đầu chúng
Chớ nên sinh tâm niệm như thế.
Đó là gốc kiêu mạn, phóng dật
Tỳ-kheo như thế chớ khinh chê
Lần lượt ở trong giáo pháp này
Đâu thể nhất thời liền giải thoat.
Tuy thấy Tỳ-kheo phá giới cấm
Chỉ cần tin chư Phật Pháp Tăng
Chớ tìm kiếm lỗi lầm của họ
Đây chính là tạo nhân giải thoát.
Khó thâu các dục và sân hận
Trong đó tự tại, chớ phóng dật
Huân tập các pháp chưa đến lúc
Chớ vì phá giới mà bỏ họ.
Dừng tâm siêng năng, không tinh tấn
Đây đúng là người không cầu tiến
Siêng tu không nhìn lỗi của người
Tư duy chánh đạo nên thoát khổ.
Cho nên Tỳ-kheo mong cầu đức
Cần phải xả bỏ lời phi pháp
Dốc sức hoan hỷ thích thú rồi
Ví như tê giác ở chỗ vắng.

********

Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Người thế gian tụ tập bàn luận mới có nhiều lỗi lầm cấu uế như thế, không có công đức hòa hợp. Lời bàn luận ấy của thế gian chỉ tăng thêm các phiền não, ở trong pháp thanh tịnh sẽ tạo nên sự hư dối.

Bạch Thế Tôn! Có bậc trí Bồ-tát nào cầu đạt các công đức, nghe lời nói họa hoạn của thế gian này rồi mà không thích sống một mình? Bạch Thế Tôn! Tại sao Bồ-tát thích nói nhiều lại quán xét các hoạn nạn? Bồ-tát khi quán xét ưa chọn nghĩa chân thật nên về sau không hối tiếc?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Tại vì trong đó Bồ-tát nên quán về hai mươi thứ họa hoạn của việc ưa nói nhiều. Hai mươi pháp đó là gì? Này Di-lặc! Người ưa nói nhiều sẽ không có tâm cung kính. Vì đa văn nên ngã mạn, phóng dật. Đối với ngôn ngữ tư duy họ nhiễm chấp, mất bản niệm, tự mình không có chánh niệm, việc làm mất oai nghi đúng đắn, không thể chế ngự thân tâm, đi đến đâu thân không oai nghiêm, mất đi pháp nhẫn, thân tâm ương ngạnh khó có thể điều phục, xa lìa chỉ quán, lời nói không biết thời, nói lời uế trược, tham việc ăn uống, không được Thánh trí, các hàng trời, rồng không kính trọng. Người ưa biện luận khinh chê kẻ khác, về sau thường hối hận, không trụ trong chánh hạnh nên dễ sơ suất, không thể đoạn trừ các thứ nghi ngờ, khi đi như Na Tra, chỉ chạy theo danh tiếng, thuận theo các thú vui của dục, tâm thức theo dòng phỉ báng chánh pháp do không quán đúng như thật, nên luôn phát sinh sự mong cầu, chỗ động thì không động, chốn không động thì động, đáng được cúng dường thì lại không được, do tâm không tự chế ngự nên bị người dắt dẫn, vì không thấu suốt pháp giới, bị các phiền não lôi kéo là do không điều phục các căn. Này Di-lặc! Bồ-tát ưa nói nhiều có hai mươi họa hoạn như vậy, vì chỉ biết tin vào âm thanh mà không quán xét về nghĩa đúng đắn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên nói kệ:

Đa văn như say, tâm không kính
Bám trụ vào ngôn ngữ rối loạn
Nên mất chánh niệm, không chánh trí
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Rất lơ là việc nội tư duy
Thân không an tịnh tâm cũng thế
Cử chỉ hành động thiếu oai nghi
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Quên mất ý tư duy chánh pháp
Chỉ có ương ngạnh, tâm không nhuần
Thiền định chỉ quán đều xa lìa
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Gần bậc tôn kính ý không kính
Thường ưa tranh chấp bằng lời nói
Trụ xứ không vững, ý điên đảo
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Các chúng chư Thiên không cung kính
Các rồng, Dạ-xoa không nghĩ đến
Về sau không được các biện tài
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Bị các bậc trí thường quở trách
Những việc ấy thân cần chứng biết
Sống như vậy rỗng không, không lợi
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Người ngu khi chết sinh hối hận
Ta bị lừa dối nay nói gì?
Nên phải chấp nhận chịu các khổ
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Vội vàng giống như gió thổi cỏ
Tâm có các nghi, không quyết đoán
Ý không kiên cố chẳng thể định
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Giống như Na Tra ở hý trường
Nói công đức mạnh mẽ của người
Khi ấy, họ cũng như Na Tra
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Tai họ nghe tiếng sinh tâm nhiễm
Họ thích âm thanh lìa chánh trí
Như có tư duy, chẳng chánh đạo
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Họ dua nịnh, quanh co, vô vọng
Luôn luôn phát sinh sự tranh biện
Đối với Thánh hạnh mãi lìa xa
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Hành động hữu vi, niệm yếu kem
Ai hỏi Thánh đức thường coi nhẹ
Giống như khỉ vượn, tâm động loạn
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Người ấy ngu si bị người sai
Do trí không có ý chánh định
Bị các phiền não luôn theo đuổi
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Mắt tai và mũi bị loạn động
Lưỡi thân và ý cũng điên đảo
Tất cả các căn đều rối bời
Ưa nói nhiều họa hoạn như vậy.
Vô trí tuy cầu nhiều ngôn ngữ
Ý cầu các pháp không biết chán
Họ không lãnh thọ pháp hỷ lạc
Đối với nhất niệm tâm không thích.
Thân vỏ cây mía không bền chắc
Nhưng trong ruột vị nó rất ngon
Không phải bỏ vỏ mà có vị
Vị ấy không rời thân cây mía.
Như vỏ, nói nhiều đã như vậy
Như nước mía, như tư duy nghĩa
Cho nên nói nhiều ưa xa lìa
Tư duy chánh nghĩa, chớ phóng dật.
Vị nghĩa vị pháp hơn mọi vị
Vị giải thoát cũng là vi diệu
Vị ấy tối thượng trong các vị
Sao bậc trí không sống một mình.
Nói nhiều như vậy đã biết rồi
Nghĩa công đức tối thắng như thế
Nếu có bậc trí muốn học đạo
Thì đối chân nghĩa phải tư duy.
Vậy nên xa lìa lời vô ích
Muốn cầu thắng nghĩa của chân như
Cần phải gần gũi pháp tối thắng
Nên trụ vào đó chứng thắng đạo.

Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Đúng là đã khéo giảng thuyết về tội lỗi của việc nói nhiều. Bạch Thế Tôn! Tư duy chánh nghĩa có công đức lớn. Bạch Thế Ton! Nếu muốn cầu nghĩa vững chắc, Bồ-tát muốn mang giáp, đeo binh khí thì đối với lời nói hư dối không nên huân tập. Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Bồ-tát thích quán xét các lỗi lầm của việc ngủ nghỉ? Khi Bồ-tát quán xét nên bỏ sự ngủ nghỉ thì phát sinh tinh tấn không mệt mỏi?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Này Di-lặc! Ở đây, Bồ-tát cần phải quán về hai mươi lỗi lầm của việc ngủ nghỉ. Hai mươi lỗi lầm là những gì? Này Di-lặc! Bồ-tát ưa việc ngủ nghỉ sẽ sinh biếng nhác, thân thể nặng nề, da dẻ bên ngoài nhơ nhớp, thịt da rít nhám, các đại cấu uế, oai đức mỏng dần, ăn uống không tiêu, thân thể sinh ghẻ chốc, nhiều lười trễ, thêm lớn ngu si, trí tuệ sút kém, hay mệt mỏi, sẽ hướng đến nẻo tối tăm, người không cung kính, bẩm chất ngu tối, nhiều phiền não, tâm theo các sử, ở trong pháp thiện không sinh ham thích khiến tất cả pháp thanh tịnh giảm sút, thường đi trong sự sợ hãi, thấy người tinh tấn thì hủy nhục họ, đến chỗ đông người bị người khinh rẻ. Này Di-lặc! Bồ-tát ưa ngủ nghỉ có hai mươi lỗi lầm như vậy. Khi Bồ-tát quán chiếu pháp ấy thì nên phát sinh tinh tấn.

Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa này nên nói kệ:

Thân thể trì trệ không tịch định
Lười biếng, thân hình không đoan nghiêm
Làn da nhơ uế chẳng thanh tịnh
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Nước miếng, nước mắt phong hoàng ấm
Có nhiều thứ ấy trong thân thể
Các giới rối loạn không quân bình
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Người ăn thức ăn không tiêu được
Thân tướng thô kệch, không sáng sủa
Âm thanh, lời nói bị tắc nghẽn
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Thân thể có nhiều các thứ ghẻ
Ngày đêm thuận theo việc ngủ nghỉ
Thân thể phát sinh nhiều thứ khổ
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Có nhiều biếng nhác, lìa tinh tấn
Niềm vui càng xa, không của cải
Thường ngủ mê man không chánh ý
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Thường làm thêm lớn lưới ngu si
Hiểu biết điên đảo rất khó sửa
Không có chánh niệm, đoạt mất ý
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Người có trí tuệ rất yếu kém
Không thiền định các pháp giảm sút
Xa lìa trí tuệ và chánh trụ
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Tự biết mình lười biếng không cần học
Thường bị phi nhân đoạt oai đức
Ở nơi thanh vắng thường sợ hãi
Nếu ưa tùy thuan việc ngủ nghỉ.
Luôn thường mông lung, mất chánh niệm
Không thể an trú lúc đọc tụng
Chánh pháp đã nói thường quên mất
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Người thường hỗ trợ các phiền não
Thường bị mê loạn tánh thô tháo
Về sau họ sinh tâm hối hận
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Có nhiều nghiệp thiện bị diệt mất
Khi nhớ xét lại sinh buồn hận
Tăng thêm các sử, đất phiền não
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Không muốn mong đạt các nghiệp thiện
Đối với pháp thiện tâm không cầu
Người luôn luôn làm việc phi pháp
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Tức là lìa xa đạo Bồ-đề
Tất cả công đức đều giảm sút
Bỏ mất chỗ sáng đến nơi tối
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Không có tâm vô úy sáng ngời
Người thường không sinh niệm hoan hỷ
Bám vào ngủ nghỉ, việc mông lung
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Người tự biết mình là biếng nhác
Ghét người an trú sức tinh tấn
Nói là tinh tấn chẳng phải thiện
Nếu ưa tùy thuận việc ngủ nghỉ.
Bậc trí nếu thấy lỗi như thế
Nếu sẽ vui mừng việc ngủ nghỉ
Chỉ có ngu si, nhiều ràng buộc
Không thích chánh pháp, diệt công đức.
Bậc trí ai chẳng ưa tinh tấn?
Hay diệt các khổ, hết tối tăm
Vị lai đường ác đều đoạn tận
Được cam lồ, gốc các niềm vui.
Thế gian có được bao tài nghệ
Và xuất thế gian các quyền uy
Phát sinh tinh tấn không ngại khó
Bậc trí vì sao không tinh tấn?
Muốn trụ vào Bồ-đề cao tột
Họ phải biết lỗi lầm ngủ nghỉ
Tinh tấn không lười, không phóng dật
Ta nhờ biết được pháp như vậy.
Nên không phóng dật và sợ hãi
Phát khởi tâm tinh tấn, thiền định
Bỏ các lỗi lầm lìa ngủ nghỉ
Giữ gìn Bồ-đề và hạt giống.

Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai đã vì các Bồ-tát mà chỉ bày rõ, nhưng dù đã nghe các lỗi lầm của việc ngủ nghỉ nhiều như vậy song Bồ-tát không thể đoạn trừ, cũng không thể sinh tâm nhàm chán. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nào muốn tu học về tín tâm, và muốn thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà còn sinh lười biếng? Vì cầu pháp thiện nên đối với công đức nhiều như vậy, tuy đã nghe rồi nhưng không thể phát khởi hạnh tinh tấn. Vì mong làm viên mãn Bồ-đề phần nên Như Lai đã khéo nói các lỗi lầm của việc ngủ nghỉ và mở bày các công đức của hạnh tinh tấn. Bạch Thế Tôn! Tại sao Bồ-tát phải quán các lỗi lầm của việc ưa tạo các nghiệp, và Bồ-tát sau khi quán xét sẽ vui sống thiểu dục, tri túc?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Bồ-tát ở đây ưa tạo nghiệp nên quán xét về hai mươi thứ tội lỗi. Hai mươi thứ lỗi lầm ấy là gì? Này Di-lặc! Đó là phàm Bồ-tát ưa tạo các nghiệp sẽ ưa thích pháp thế gian tức ở trong tất cả các nghiệp thấp kém nhất. Đó là khinh chê người siêng năng đọc tụng kinh điển, chế giễu người chuyên cần thiền định một mình, đến nỗi họ bị mắc quả báo lưu chuyển trong sinh tử không cùng, về sau lại tạo nghiệp không dứt. Họ có lòng tin đối với các bậc trưởng thượng, nhưng không thể vì các vị ấy mà tạo phước điền, thường có tham dục, ưa mến các vật, tâm vừa nghĩ tới việc ấy thì hết sức siêng năng, thường lo gia nghiệp, trái với pháp thiện của người, được ban cho giáo pháp mà không tùy thuận, có nhiều suy nghĩ, đắm trước các mùi vị, được việc tốt lành mà không ưa thích, thường tạo nghiệp ác gây hại lẫn nhau, hướng về các tri thức mới quen hay quen đã lâu thì thường nhớ đến việc ăn uống, thường ưa biết việc hay dở, phải trái của người khác, bàn luận thường ưa chống trái, các bậc phạm hạnh dạy bảo thì không lãnh thọ, thường nhìn lỗi người, không thấy lỗi mình nên bị coi rẻ. Người như vậy hợp vơi lời bàn luận chân chánh thường thì rất ít.

Này Di-lặc! Bồ-tát nào ưa tạo các nghiệp sẽ có hai mươi thứ lỗi lầm như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại ý nghĩa ấy nên nói kệ:

Luôn trụ trong các nghiệp thấp hèn
Họ lìa xa các nghiệp cao đẹp
Trong giáo pháp ấy không rộng lớn
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Các Tỳ-kheo ưa thích đọc tụng
Bị họ khinh chê, không ngưỡng mộ
Người tu thiền định lìa bỏ họ
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Với nghiệp sinh tử thường siêng năng
Xa chốn giải thoát trụ trói buộc
Thức ăn thọ nhận không thanh tịnh
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Luôn luôn hướng đến các nghiệp đó
Nhận được vật gì cũng vui mừng
Thường siêng mong muốn nhận các vật
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Mến chuộng bạn bè có cùng hạnh
Tạp hạnh gần nhau nhiễm lẫn nhau
Giống như chim bị nhốt trong lồng
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Luôn luôn lo lắng các gia nghiệp
Tâm ý ưu sầu chưa từng vui
Có nói điều gì người chẳng nghe
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Dạy cho đạo đức không tùy thuận
Dù thuận giáo pháp nhưng chẳng thọ
Tuy có giới hạnh, không trọn vẹn
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Thường luôn ưu sầu, tâm không an
Với nghiệp thế tục tâm cần mẫn
Trí tuệ tịch tĩnh họ chẳng màng
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Họ thường có rất nhiều sự nghiệp
Luôn bị buộc chặt đủ các vị
Ở nơi nào cũng không biết đủ
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Thường vui thích ở chốn đông người
Người trí không thích nói với họ
Thích nơi tạp nhạp giống như lừa
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Tâm thường sân hận, không thấm nhuần
Thêm lớn các nghiệp mãi không cùng
Họ bị ái nhiễm buộc chặt cứng
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Họ không nương tựa các Tôn giả
Nương người thế tục giúp lẫn nhau
Thấy người giữ giới thì phỉ báng
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Ngày đêm luôn nhớ đến các việc
Ăn uống, y phục và ngọa cụ
Chẳng muốn nghe nói về công đức
Tạo đầy cac nghiệp có lỗi ấy.
Thích hỏi tốt đẹp, nghiệp thế gian
Siêng năng nói nhiều, họ ưa thích
Siêng tu thắng đức, họ không kính
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Say mê kinh doanh cùng bè bạn
Dùng thế lực mình lấn áp người
Những nghiệp ác ấy họ đều làm
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Luôn luôn ưa thích xét lỗi người
Lỗi của chính mình không tự biết
Thấy người có đức thường trêu chọc
Tạo đầy các nghiệp co lỗi ấy.
Đến đâu cũng bị người khinh chê
Người đến thỉnh pháp: Xin giảng thuyết
Trí không hiểu thấu, không phương tiện
Tạo đầy các nghiệp có lỗi ấy.
Nên quán các lỗi như vậy rồi
Có các Bồ-tát thích nghiệp này
Cần phải tạo nghiệp tối thắng ấy
Tác các nghiệp đều chẳng mất.
Xả bỏ ngàn tiền lấy một tiền
Người có trí cần phải quở trách
Người như vậy bị người khác chê
Vì ưa tạo nghiệp thấp kém ấy.
Cho nên người trí có phương tiện
Đã vứt bỏ đi nghiệp thấp kém
Người trí biết rồi tạo thượng nghiệp
Nên được tất cả Phật khen ngợi.

Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát kia do trí tuệ thấp kém, tâm ý hẹp hòi, Đức Chánh Đẳng Giác đã nhọc công nhưng họ bỏ pháp tối thắng mà tạo các nghiệp nhỏ.

Đức Phật bảo:

–Này Di-lặc! Ta nay nói rõ cho ông, nêu bày cho ông. Vì các Bồ-tát kia không nương vào giáo pháp của Phật để xuất gia, nên không thể diệt độ, không thiền định, không đọc tụng kinh điển, không mong cầu đa văn.

Lại nữa, này Di-lặc! Các Đức Như Lai đã dạy: Diệt hết trí hành, tạo dựng trí trí, vì chuyên cần đầy đủ nên mới có thể biết rõ, không thể đem nghiệp của thế tục lường tính mà biết được. Đây chẳng phải người chuyên cần ưa nghe việc lưu chuyển trong sinh tử tức là việc lường tính tạo tác của thế gian, việc mua bán sắm của cải ở thế gian. Những việc đó Bồ-tát không được ham thích.

Này Di-lặc! Giả sử lường tính được sự chuyên cần của Bồ-tát, tạo dựng tháp bằng bảy báu đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới này cũng không thể làm cho Ta hân hoan, chẳng phải cúng dường Ta, chẳng phải thừa sự Như Lai.

Này Di-lặc! Nhưng nếu có Bồ-tát thọ trì, đọc tụng kinh điển, thậm chí chỉ một bài kệ bốn câu, cùng tương ưng với trí tuệ thì người đó làm cho Ta hân hoan, là đã cúng dường và thừa sự Như Lai. Vì sao? Này Di-lặc! Vì đó là sự Đa văn đối với việc giác ngộ của các Đức Như Lai không hề vướng mắc vào các sự vật.

Này Di-lặc! Nếu có Bồ-tát nào chuyên cần trong sự nghiệp đọc tụng của mình, mà có người làm não loạn, khiến công việc tu tập hành hóa có nhiều chướng ngại thì họ không được phước đức. Vì sao? Vì ba loại phước thù thắng đều do trí phát khởi. Vì thế, nên Bồ-tát luôn chuyên cần trong sự nghiệp, đối với các Bồ-tát tinh tấn thọ trì đọc tụng không nên làm chướng ngại. Di-lặc! Ví như người tạo dựng sự nghiệp đầy khắp trong cõi Diêm-phù-đề thì số ấy là vô lượng, đối với một Bồ-tát chuyên cần tụng niệm thì nên cung cấp, phụng sự. Ví như các Bồ-tát chuyên cần tụng niệm đầy khắp trong cõi Diêm-phù-đề thì cần phải cung cấp phụng sự cho một vị thiền định. Ta nói rằng những Bồ-tát ấy đã khéo cung cấp. Người ấy đã tạo được vô lượng phước. Vì sao? Vì đó là sự chứng trí tối cao, tương ưng với trí tuệ đệ nhất nghĩa, không có gì trên nữa, nó là tối thượng, tối thắng, tối tôn trong tất cả thế gian.

Này Di-lặc! Vì thế cho nên muốn được thiền định và tinh tấn thì cần phải tu tập trí nghiệp và dốc cầu sinh trụ xứ Bát nhã.

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã vì các Bồ-tát nói rõ về các họa hoạn của việc ưa lời nói thế gian, của việc ưa nói nhiều, ưa ngủ nghỉ và các họa hoạn của việc ưa tạo tác nhiều nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát phải nên quán xét về việc ưa hý luận như thế nào để sau khi như pháp quán hướng đến hạnh tịch tĩnh?

Đức Phật bảo Di-lặc:

–Lời của người hý luận lược nói có hai mươi điều lỗi lầm, cần phải quán sát. Nếu nói rộng ra thì có vô biên. Hai mươi điều đó là gì?

Này Di-lặc! Bồ-tát nhiều hý luận thấy trong giáo pháp nhiều hạnh không thích, đối với nhẫn nhục thì lại giảm sút, huân tập sân hận, thiện căn chưa sinh không làm phát sinh, thiện căn đã sinh làm cho giảm sút, có tranh chấp gây oán hờn, sẽ bị đoản mạng, không đoan nghiêm, nói năng không trôi chảy, nghe người khác dạy giáo pháp tâm không an trụ, kinh pháp sắp giảng thuyết thì không nhớ, các tri thức thiện đều lìa xa, mau chóng hòa hợp với tri thức ác, rơi vào đường khổ, trong mọi lúc đều nghe lời không vui, sinh ở nơi nào thường rơi vào lưới nghi, gần gũi tám nạn, trong pháp bạch tịnh mong cầu học hỏi có nhiều chướng ngại. Này Di-lặc! Ta vì các Bồ-tát nhiều hý luận mà lược nói hai mươi lỗi như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa này nên nói kệ:

Hiện pháp khổ sở, tâm không vui
Xa lìa nhẫn nhục, giúp sân hận
Oan gia của họ đều hoan hỷ
Người hành hý luận có họa ấy.
Làm cho ma ác thêm vui vẻ
Quyến thuộc nhà ma cũng vui theo
Được bao điều thiện đều xả bỏ
Người hành hý luận có họa ấy.
Mong muốn tạo dựng các hạnh lành
Họ vì phóng dật nên không trụ
Hướng đến nẻo ác vì phóng dật
Người hành hý luận có họa ấy.
Vì không tin nên tâm khó phục
Sinh nhà hạ tiện, thường bị khinh
Lưỡi của họ luôn bị nói lắp
Người hành hý luận có họa ấy.
Nói pháp cho người tâm không trụ
Cho nên pháp ấy bị quên mất
Các tri thức thiện đều bỏ họ
Người hành hý luận có họa ấy.
Thường hòa hợp với các nghiệp ác
Ở trong các thừa rất khó tịnh
Nghe nói pháp ý không vui vẻ
Người hành hý luận có họa ấy.
Đối với các thiện, nhiều chướng ngại
Ở trong các hạnh nhiều oán hờn
Khi họ siêng năng, nhiều chướng ngại
Người hành hý luận có họa ấy.
Các họa như vậy bậc trí biết
Tất cả hý luận nên xả bỏ
Người hành hý luận khó đắc đạo
Vì thế không nên trụ hý luan.
Hãy chạy tránh xa nhiều do-tuần
Chỗ có hý luận và tranh chấp
Ta nay không thể ở một mình
Chỗ có phiền não trong khoảnh khắc.
Ta muốn xuất gia cầu lợi đức
Chớ gây tranh chấp sinh tâm ác
Không có ruộng vườn và buon bán
Thì việc gì sinh tranh giành?
Không có nhà cửa các của cải
Vợ và con cái cùng nô tỳ
Không có nô bộc, được tự tại
Đã xuất gia rồi chớ tranh chấp.
Đã khoác trên mình chiếc ca-sa
Đã được ấn chứng là tịch tĩnh
Các ông đầy đủ công đức ấy
Xả việc hý luận sẽ sinh nhẫn.
Tâm như rắn độc, như La-sát
Sẽ sinh địa ngục, quỷ, súc sinh
Người hành hý luận dễ vào đó
Cho nên giải thoát, sinh tinh tấn.
Có các khổ não hại, trói buộc
Oán thù quở trách, trói đánh đập
Cùng nhau tụ tập rồi tranh luận
Ở thế gian này đều như vậy.
Nếu có hòa hợp, oán khó sinh
Người sống hòa hợp thêm danh tiếng
Người sống hòa hợp được yêu mến
Sao người có trí không hòa hợp?
Tìm lỗi lầm người không dễ được
Quyến thuộc không từng phá hoại nhau
Bạn bè của họ không ly tán
Lìa hý luận thuận theo lời dạy.
Trong thừa an lạc sẽ được tịnh
Được giải thoát hoàn toàn nghiệp chướng
Hàng phục ma và cả quân ma
Bị người phỉ báng nên sinh nhẫn.
Nếu hý luận thì nhiều họa hoạn
Người không hý luận đức khó lường
Ta đã chỉ dạy rõ như vậy
Muốn giác ngộ phải sinh tâm nhẫn.

Khi ấy Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Chỉ có Đức Như Lai mới nói ra các phiền não này. Bạch Thế Tôn! Có Bồ-tát nào nghe việc phát hiện nêu rõ các phiền não như vậy mà sinh sự nhàm chán chăng? Ở trong nẻo hành của phiền não có đoạn trừ chăng?

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Này Di-lặc! Ở đời vị lai năm trăm năm sau, có ít người tu tập Bồ-tát thừa, dứt sạch nẻo hành phiền não, nhiều người có tâm ương ngạnh, không kính trọng, ngã mạn, tự cao, tạo các sự phân biệt, không thể tu tập. Cho nên ma Ba-tuần hiện hình làm Tỳ-kheo, đi đến trước mặt họ phá hoại, nói như vầy: Các kinh này là văn của người khác, chẳng phải là lời của Như Lai giảng nói. Vì sao? Vì kinh này chỉ nói các công đức mà không nói về bỉ thử. Khi đồ chúng kia đã bị phá phách như thế nên đối với lời nói của Như Lai trong các kinh họ khởi nghi ngờ lại phát sinh sự tranh cãi, không chịu thọ trì, không giảng nói cho mọi người, cũng không tu tập. Nhưng họ là những người ngu si, không biết như vậy mà còn cho rằng: “Đây là quả báo của các nghiệp, chúng ta sẽ không thể chứng công đức như vậy”.

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai khen ngợi Đức Như Lai A-di-đà phát mười loại tâm, trong đó đều tùy theo tâm niệm của chúng sinh mà phát khởi, như có niệm muốn sinh về cõi kia thì được sinh về cõi kia.

Bạch The Tôn! Mười loại phát tâm sinh về cõi kia là gì?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Những người phát tâm chẳng phải là người thiếu trí, mà họ phát tâm là vì việc lớn. Nếu ai muốn được sinh về thế giới của Đức Phật A-di-đà thì vì tất cả chúng sinh mà phát tâm từ bi, không sinh sân hận, thì sẽ sinh về thế giới của Đức Phật A-di-đà Như Lai. Vì tất cả chúng sinh, sinh tâm từ bi nên sinh về cõi kia, lìa các sự sát hại, thọ trì chánh pháp. Do phát tâm này nên sinh về cõi ấy. Do phát tâm xả bỏ thân mạng, không chấp trước tất cả các pháp nên sinh về cõi kia. Phát tâm nhẫn nhục sâu xa, thực hành tín thanh tịnh, nhờ phát tâm này nên sinh về cõi ấy. Không nhiễm chấp nơi danh tiếng, lợi dưỡng, đạt được nhất thiết trí quý báu. Do phát tâm này nên sinh về cõi kia, được tất cả chúng sinh quý kính. Do phát tâm không quên mất nên sinh về cõi kia, không kinh, không sợ, không thích lời nói phàm tục. Do phát tâm này nên sinh về cõi kia, nhập vào Bồ-đề phần vun trồng các căn lành. Do phát tâm này nên sinh về cõi kia, nhưng không lìa niệm Phật. Do phát tâm này nên sinh về cõi kia, xa lìa các tướng.

Này Di-lặc! Đó là mười loại phát tâm. Nếu Bồ-tát nào phát một niệm đầy đủ các tâm ấy thì sẽ vãng sinh đến thế giới của Đức Phật Adi-đà. Nếu không được sinh thì không có điều ấy.

Bấy giờ, Trưởng lão A-nan bạch Phật:

–Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Như Lai giảng nói pháp căn bản này là để thức tỉnh các Bồ-tát.

Đức Thế Tôn khen ngợi Trưởng lão A-nan:

–Hay thay, hay thay! Này A-nan! Cho nên Bồ-tát hiểu biết về bản pháp này thì phải thọ trì như vậy.

Khi Đức Phật giảng nói kinh này xong, Bồ-tát Di-lặc và Trưởng lão A-nan đều vô cùng vui mừng, sáu mươi vị hành Bồ-tát và các thiện nam v.v… tất cả đều dứt hết nghiệp chướng, hoan hỷ phụng hành, đảnh lễ, lui ra.

 

KINH PHÁT GIÁC TỊNH TÂM

(Trọn bộ 2 Quyển)

HẾT