SỐ 193
PHẬT BỔN HẠNH KINH
(PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN)

Hán dịch: Đời Tống, Sa-môn Thích Bảo Vân ở Kinh châu.
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 6

Phẩm 27: ĐIỀU-ĐẠT VÀO ĐỊA NGỤC

Phật, Bậc Thầy trời người
Thân tâm đều thanh tịnh
Thương người xuống sông tắm
Mặc áo tắm đứng trông.
Bấy giờ, Phật Thế Tôn
Bèn xuống dòng sông trong
Giống như vua mặt trời
Tắm ở ao Thiên hoa,
Cũng như cột kim cang
Dùng báu mầu trang hoàng,
Như Thiên sư điêu khắc
Các tướng đều sáng đủ
Thân hình Phật Thế Tôn
Cũng xinh đẹp như thế.
Do hạnh lành đời trước
Thợ giỏi đã tạo thành
Trăm tướng phước đức đủ
Thiện đời trước in rõ,
Hoặc như ngón tay đẹp
Hoặc như phát âm thanh
Để nói hạnh lành xưa.
Hình tướng Phật như thế
Trùng trên không, dưới nước…
Nhìn đều sinh ngạc nhiên
Đều tự bỏ hờn oán
Đối nhau bằng tâm Từ
Chẳng ăn thịt nhau nữa
Mắt đắm nhìn Thế Tôn
Ngắm ngài không thỏa mãn.
Thời, Phật bảo A-nan:
“Xem các loài vật ấy
Đều cùng nhìn tướng Phật
Tuy trùng thú không tuệ
Không phân biệt lành, dữ
Quán thân tướng Phật đẹp
Như nhìn ảnh trong gương
Đã gieo giống gốc lành”.
A-nan bạch Phật rằng:
“Thưa hãy xem Điều-đạt
Đốt cháy bản thân mình
Người họ Thích siêng tu
Học pháp nương hư không
Được vua A-xà-thế
Thờ làm thầy trên hết
Thọ ân sủng vô cùng
Cung kính như hiền tài
Không xét nhân do đâu
Muốn biến thành kẻ ác?”
Thời, Phật bảo A-nan:
“Bố thí khắp, học rộng
Tịnh hạnh, siêng tự giữ
Tâm luôn nghĩ việc ác
Chắc chắn không thể giữ.
Tâm ác, quen các ác
Quên mất hạnh lành ấy
Tự nhơ cội gốc lành
Người ngu được vinh lộc
Tự rất lấy làm mừng
Chỉ chuốc lấy tự sát
Như con la có mang
Do đó tự tiêu diệt,
Cội gốc các điều lành
Không còn mảy may thiện
Cứu ra bỏ không đành
Có thể giúp ra khỏi.
Lòng ta thương chúng sinh
Lòng Từ đối tất cả
Lên núi, vào hỏa ngục
Cứu những người khổ ách
Không tiếc thân mạng mình.
La-vân là con Ta
Điều-đạt lăn đá hại
Thương cả hai như nhau.
Không lâu ở Vương xá
Hạnh ác đã dẫy đầy
Điều-đạt bị bệnh nặng
Chữa trị bằng mọi cách
Rồi lại bảo đệ tử:
“Nay nên đem ta sang
Chỗ vua nước Ma-kiệt
Là bạn thân của ta.”
Bấy giờ, các đệ tử
Tìm cách cáng đưa ông
Kiệu ba bậc ấy gãy
Té rơi gối bị thương
Lại thay kiệu ngồi khác.
Kiệu đến cửa cung vua
Đi đường gặp nhiều thứ
Các điềm hiện chẳng lành;
Trâu đực rống lên đón
Vừa húc đất vừa đi
Chân sau hất tung đất
Bốc bụi bẩn lên người,
Đàn quạ gọi ở trên
Giống như tiếng nói người
Rằng: “Mưu đồ của ông
Chẳng làm người hài lòng”.
Đến cửa liền tâu vua
Vua ra lệnh cho quan:
“Người ác gần cửa tử
Lại đến mê hoặc nhau
Hắn dùng ác đốt ta
Trở lại tự thiêu đốt
Như mưa đá hại vật
Làm tiêu mất tất cả
Trở lại tội chúng sinh
Chúng ta không nên thấy.
Người thân không màng đến
Mọi người đã bỏ rơi
Chống báng Phật Thế Tôn
Vì tế trời Cát tường
Nếu vào ngục Vô trạch
Sợ liên lụy chúng ta.
Có người kính trọng ta
Các khanh tự yêu mạng
Thì mau phải ra khỏi
Ác lại gặp đây rồi.
Ta thường khen Phật đức
Theo cầu nguyện thầy trời
Thề rằng nơi sinh ra
Không ở chung bạn ác,
Quan hầu lệnh thị vệ
Mau đuổi những người tội.”
Tâm Điều-đạt dua nịnh
Khoe với các đệ tử:
“Như ta tự suy nghĩ
Chỉ Phật với ta thân
Có thể cứu nạn vậy
Ngoài ra không nhờ ai
Mau đem ta đến Phật.”
Lá rụng trở về cội
Như hạt rơi đất mọc
Đất nuôi dưỡng, cưu mang
Các đệ tử cho rằng
Thầy lầm lẫn vô cùng
Có ác ý đối Phật
Phạm các thứ tội lỗi.
Điều-đạt nghi sợ nói:
“Ta tuy trái phạm Phật
Không hề bỏ người ác
Vì người lành không nhờ.”
Bấy giờ đệ tử hắn
Thấy thầy như vậy thì
Vì sợ Điều-đạt nên
Vội lên kiệu ra đi.
Chấn động thành Vương xá
Mọi người tụ lại xem
Thời, đuổi theo Điều-đạt
Mới giải được hoài nghi
Thấy Điều-đạt gặp nạn
Nhan sắc rất tiều tụy
Thường làm ác bất kể
Nên nay gặp họa thôi.
Như tàu biển sắp lật
Vào miệng cá Ma-kiệt,
Giống như cờ lớn đổ
Sắp rơi trên mặt đất,
Thí như mổ dê nhà
Dụ phước trời đều ứng
Điều-đạt nguy như thế
Đi vào miệng cửa tử.
Như nhật trùm bóng núi
Mau dần che mặt đất
Điều-đạt hành ấm xấu
Theo đuổi phủ không khắp,
Các người xem trong thành
Thấy điềm ứng như thế
Mọi người chuyền nhau nói:
“Trên đất nặng oán thù
Thường làm ác với Phật
Mặt dày không thẹn ư?
Làm sao mà gặp Phật?
Trong có tráo trở đây
Chứa nhóm sự hao tổn
Vậy không nên nhìn coi.”
Có người rất kinh sợ
Hoặc có người xót thương
Có người rơi nước mắt
Có người đứng lặng nhìn
Có người khen ngợi Phật
Công đức tâm Từ bi
Nên mới dung thọ được
Kẻ độc ác như vầy.
Đệ tử hắn mệt nhọc
Dừng lại nghỉ, thở than
Sự mang nặng đất ấy
Làm sao kham nổi được.
Vừa dừng lại giây lát
Mọi người đã bao quanh
Màu vẻ chết đã ứng
Dần dần vì đó hiện
Phút chốc đất chấn động
Tiếng vang khắp cõi nước:
“Ta chẳng thắng người ác
Như giác ngộ cõi đời.”
Bấy giờ, trong hư không
Có tiếng sấm chấn động
Lại có biết bao thứ
Âm hưởng ác đáng sợ
Các trời bảo thần đất:
“Hạnh ác đã đến gần
Nên đất động lên tiếng
Bày duyên đối xấu ác
Không thắng ác hạnh kia.”
A-nan bạch Phật rằng:
“Điều-đạt đã đến rồi
Xin được gặp Thế Tôn!”
Thời, Phật dùng tiếng Phạm
Mà bảo A-nan là:
“Điều-đạt tội rất nặng
Không thể đến gặp Ta
Dù gió tỳ-lam thổi
Cũng không thể lay động
Dù cho rồng dắt dẫn
Rồng tuyệt nhiên không lay.”
Phật nói lời quyết định:
“Điều-đạt không gặp Ta”
Tức thời run xuất hạn
Nhan sắc liền biến xấu
Giống như chim cánh vàng
Muốn bắt rồng chúa ăn
Vì chết đã tìm bắt
Run rẩy không tự dừng
Gặp sứ Diêm vương triệu
Sợ hãi không biết gì,
Đất nứt như miệng cá
Trong đó lửa đỏ ngời
Há miệng rất đáng sợ
Như muốn nuốt Điều-đạt.
Lửa cháy bốc như lửa
Hừng hực liếm thiêu thân
Bị lửa nóng trói buộc
Lôi cuốn đến đường ác
Giơ cao cả hai tay
Lớn tiếng xưng danh Phật
Gọi rằng: “Trời trong trời
Chỗ chúng sinh cậy nương
Thường có tâm thương xót
Đối tất cả chúng sinh.
Con tuy ngu, nhiều lỗi
Nhân từ chẳng biến đổi
Như núi chúa Tu-di
Gió không thể thổi ngã
Lòng Từ ái vô lượng
Soi sáng đời xưng hô.
Nếu được Ngài soi chiếu
Mong đợi chút dừng nghỉ
Để ngộ cõi Tam thiên.
Lên tiếng Phạm âm vang
Duyên tiếng mầu sâu này
Được thoát khổ địa ngục
Nguyện được Phật Thế Tôn
Đất bụi bám chân Ngài
Đem đội trên đỉnh đầu
Hoặc sẽ được cứu giúp.
Thế Tôn không tự đến
Xin sai đệ tử khác
Ca-diếp, A-na-luật
Xá-lợi-phất, Mục-liên
Cầu được các vị ấy.
Còn hiền đệ A-nan
Tình cốt nhục dòng họ
Làm sao bỏ nhau được
Anh em cùng khổ não
Chúng Tăng cũng như vậy
Từ vua đến các quan
Người quen và họ hàng
Chỉ trừ có kẻ ác
Không bao giờ bỏ con
Không ai rời một chút
Như bóng mãi theo hình.”
Người đông đầy mặt đất
Các trời chật hư không
Đều đứng xem Điều-đạt
Lăn lóc trong khổ đau
Giống như hai lực sĩ
Cùng giao đấu với nhau
Lực sĩ đối duyên trước
Trong chúng bắt Điều-đạt
Trời, người đồng thanh kêu:
“Vinh Lộc nay ở đâu?
Báo lành dữ rõ ràng
Bị lửa kéo dắt đi.”
Bấy giờ vô số người
Bỗng sợ ác đối này
Phật còn không cứu được
Huống chi là người khác
Xưng Phật cúi mình lễ
Hết lòng tự quy y
Chưa kịp nói nửa lời
Liền bị lửa bủa vây
Lửa như dáng Anh lạc
Lan khắp cả thân thể
Bỗng nhiên liền biến mất
Như cá đói nuốt mồi
Chợt đến ngục Vô-trạch.
Bấy giờ quỷ ngục tốt
Đầu cháy rất đáng sợ
Sức mạnh, thân như núi
Tâm độc, rất tức giận
Vôi vã liền tìm đến
Lùng bắt mang đi mất,
Như chim vàng bắt rồng
Dùng dây sắt cháy nóng
Trói ngược cả hai tay
Lôi đi chửi thậm tệ
Đem đến tâu Diêm-la
Rằng: “Đây vật tệ ác
Hung bạo ở thế gian
Mang hờn ghen, nịnh hót
Nghịch chánh lý, ác hung
Nhớ ác, không phản tỉnh
Không từ, chuyên làm ác
Chủ tâm tìm hay dở
Không thẹn, kết oán thù
Độc chuyên quyền, cậy thế.
Thác loạn vượt chân lý
Chánh pháp nói phi pháp.
Phi pháp nói chánh pháp
Sông hay vắng lặng kia
Thể báu tuệ tràn đầy
Phật như núi Tu-di
Y lăn đá muốn giết.
Nước định ý thanh tịnh
Các biển, vực Thánh hiền
Vốn lặng trong lại sâu
Hắn quậy dơ bẩn lên.
Vô tội sinh oán sát
Tỳ-kheo-ni Liên Hoa
Nhổ hết cội gốc lành
Đều khiến không còn sót.
Tối như đồng sương phủ
Các lành ngày một tổn
Ví như trăng lặn mất
Tan chuyển vận tối tăm
Chứa tội đất đã nuốt
Nay đến miệng ác đối
Vua nên xử tội ấy
Tội nặng không thể tha”.
Vua nghe ngục tốt tâu
Phải dùng pháp xử đoán
Vua nổi giận nhiếc mắng
Cùng dạy bảo rõ ràng:
“Ôi! Người dòng giàu sang
Làm những việc thấp kém
Con cháu vua Cam Giá
Ngươi đã làm tan hoang.
Phải chăng ngươi điên dại
Gây ra tội lớn lao
Không uống pháp cam lộ
Tự nuốt độc hại kia
Làm việc hung ác ấy
Muốn cắn gậy ta ư?
Muốn nuốt chày Thiên đế
Hay muốn nắm hư không?
Ngươi bị dục trói buộc
Tính tháo lộng như gió
Đem dục làm việc ấy
Nên hết lòng làm ác.
Ngươi muốn dùng bàn tay
Mà che ánh dương Phật
Lại muốn dùng ngón tay
Nâng Tu-di của Phật
Ngươi muốn uống biển cả
Khiến cạn hết không còn
Việc đến tự cột chặt.”
Nói rồi sai ngục tốt
Bèn làm việc đáng làm
Quỷ tốt lớn tiếng thét
Người tội đều kinh hãi
Tự nói chuyền với nhau:
“Nay kẻ làm ác đến
Nhờ duyên vật ác này
Sẽ lợi ích chúng ta
Bao nhiêu thứ khổ đau
Đều đến trong hội này
Cùng trị vật ác độc,
Lột da, đâm mài giã
Thái thịt bỏ cối nghiền
Tiêu tan thân thể ấy.”
Quỷ tốt như nói trên
Độc trị khiến đầy đủ
Ép ngặt các khổ đau
Quỷ ngục dùng lửa đốt
Cây sắt banh miệng ra
Đồng sôi rót vào miệng
Phải nuốt hòn sắt nóng.
Các địa ngục Đô hợp
Ở trong đó khổ sở
Đi đến ngục Vô trạch
Gia hại Điều-đạt kia.
Ngục Vô trạch thiêu đốt
Cùng người tội phải chịu
Tội riêng của Điều-đạt
Tranh nhau mà hiện ra.
Núi Kim cang đảo lộn
Lửa trào càng nóng hơn
Rớt trên đầu Điều-đạt
Khiến thân nát như bụi,
Núi như biết giận dữ
Thường tự đứng, tự ngã
Âm thanh như xướng họa
Đập nát xương cốt kia.
Người tội nghe tiếng ấy
Đều sợ hãi kinh hoàng
Bốn phía chạy tứ tán
Không còn đất lánh thân
Che mặt mày, vỗ đất
La lớn, bảo nhau rằng:
“Làm ác sao quá đổi!
Khiến đều chịu khổ đau
Điều ác nay đã đến
Vác nặng rất ương đối
Do chúng sinh ác này
Làm chúng ta thêm đau.”
Điều-đạt đau đớn quá
Bảo các người tội rằng:
“Đau đớn ở cùng khắp
Đâu riêng một mình ta?”
Các quỷ coi giữ ngục
Đều mắng Điều-đạt là:
“Hãy nghe tội ác ngươi
Kẻ bạo ngược tàn độc
Thuốc của Nhất Thiết Trí
Tuệ pháp báu rất nhiều.
Mười tám hang núi Phật
Ao vực của từ bi
Núi Phật mầu như thế
Người dùng núi mà ném
Vì thế mắc tội lỗi
Các núi mưa trên ngươi.”
Tự nhiên núi Kim cang
Mưa trên đầu Điều-đạt
Núi cao, chày cháy bỏng
Rơi như mưa không dứt
Làm thân hắn nát vụn
Rồi sống lại như cũ
Bấy giờ lại kêu la
Kinh động trong địa ngục.
Voi đá có trăm chân
Như núi một do-diên
Đen như mây mù tối
Nhanh hơn gió kiếp tận
Kêu thét như sấm động
Điều-đạt thấy kinh hoàng
Gào thét lớn thất thanh
Liền nói lên lời này:
“Các ngươi sao ác quá
Dùng voi ép bức ta!
Đến muốn khủng bố chết
Nay đến dày xéo nhau”.
Quỷ địa ngục hỏi hắn:
“Biết đạp ngươi hay không?
Ngươi dùng voi khủng bố
Nên bị tội voi dày.”
Trong giây lát lại có
Quỷ ngục thân bằng sắt
Hình dáng lớn như núi
Mang chày sắt cháy hồng
Một do-tuần vuông vức
Đi đến chỗ Điều-đạt
Dỡ năm trăm chày sắt
Giáng xuống đầu Điều-đạt
Giã nát thân Điều-đạt
Giống như kiến con nhỏ.
Quỷ ngục, giận mắng rằng:
“Nói sao hết tội này
Ngươi phá người đắc đạo
Cô Liên Hoa là đầu
Đã phạm tội lỗi này
Nay chày giã đầu ngươi
Lại có xe sắt cháy
Trâu kéo thân than đỏ
Tay chân buộc xe sắt
Phân ra làm hai phần
Đánh xe đi hai ngã
Xé tan thân Điều-đạt
Mỗi xe chia thân ấy
Đau đớn không nói được.
Quỷ địa ngục lại mắng:
“Nay xe mới xé ngươi
Phân ra làm hai mảnh
Đúng ra xé thân ngươi
Tám mươi sáu ngàn muôn
Thánh chúng ngươi chê bai
Chia rẽ làm hai bộ
Nên nay xẻ thân ngươi.”
Tiếng Điều-đạt vọng đến
Ngục Hồng hoa xa xôi
Cù-hòa-ly nghe tiếng
Liền tìm đến mắng rằng:
“Thà gặp lửa dữ đốt
Kiếm bén độc bên trong
Hổ mang, trăn, ác độc
Đừng gặp bạn ác tà.
Tìm phương tiện cứu giúp
Có thể thoát tội này
Bạn ác không phương tiện
Nên địa ngục đành chịu
Bị quỷ giữ ngục kia
Không đợi đường giải thoát.
Có bốn thứ phương tiện
Thuật ấy lại không làm
Tổn hại danh xưng
Như ngày cạn nước
Tiêu các hạnh lành
Như lửa cháy đồng
Hại trí tuệ sáng
Như hoa gặp sương
Bẩn hoại mùi hương
Giới cấm tâm tịnh
Che lấp ánh sáng tâm
Như trăng lúc nguyệt thực.
Điều-đạt gốc là bạn
Đối ta bằng oán độc
Ngục tốt gia độc trị
Cất tiếng kêu đau đớn”
Điều-đạt nghe tiếng hỏi:
“Tiếng Cù-hòa-ly ư?”
Ngục tốt mắng ngược lại:
“Đó là lửa địa ngục
Đã vào trong tội lỗi
Lại phải hỏi làm gì?
Do ngươi người bạn ác
Cuồng đặt ngục Hồng hoa
Vì tà đạo, phản nghịch
Hầm gian nan phải sa.
Ngươi là lái tàu ác
Dắt vào dòng nước ngược
Trước, sau quanh quẩn mãi
Vĩnh viễn không lối ra”.
Điều-đạt đau đớn nói:
“Cù-hòa-ly đã đến
Còn các bạn thân khác
Đều đến địa ngục chăng?
Bạn ác sao quá vậy?
Dẫn ta vào đường ác
Đến ở trong địa ngục
Mà cũng dẫn ta theo.”
Mục-liên, đệ tử Phật
Thần thông được tự tại
Xót thương ba đường ác
Nhân đi gặp Điều-đạt
Thấy vua A-xà-thế
Vua cúi đầu cung kính
Lễ chân Mục-kiền-liên
Sau đó bèn hỏi rằng:
“Được đi xem đường ác
Nguyện xin thầy nói cho
Việc thấy Điều-đạt ác
Chịu thứ khổ đau nào?”
Mục-liên đáp vua rằng:
“Khổ đau Điều-đạt chịu
Nỗi đau khổ đầy đủ
Không thể nói hết đâu!
Có tám địa ngục lớn
Ngục có mười sáu thành
Trăm hai mươi tám ngục
Hợp chung các khổ ấy,
Chỉ riêng ngục A-tỳ
Dụ khổ các ngục này
Khổ không an giây lát
Nên gọi ngục Vô-trạch
Chịu khổ rất tệ ác
Thống khổ chồng chất lên
Lụi đền trả tội khác
Không bao giờ ngừng nghỉ.
Mười sáu ngục lửa cháy
Vây đốt thân người tội
Bị các tên đau khổ
Bắn trúng đích không chừa.
Lúc ấy, vua Diêm-ma
Trách Điều-đạt đủ điều
Ngục tốt lại mắng nhiếc
Thảy đều tâu với vua.”
Vua nghe lòng bỗng sợ
Toàn thân đều nổi ốc
Kinh sợ hướng Mục-liên
Chắp tay và cúi mình,
Lòng vua liền héo rũ
Như hoa gặp lửa hừng
Mặt nước mắt ràn rụa
Như hoa sen gặp mưa
Vừa bi thương vừa sợ
Hướng về Mục-kiền-liên
Tự trách mình từ trước
Làm nhiều việc bất thiện
Nếu lòng biết hổ thẹn
Tránh xa bạn ác rồi
Nay ăn năn ngàn muôn
Như roi thúc ngựa hay.
Ý giống như dầu mè
Gặp thơm thì bèn thơm
Gặp hôi thì chịu hôi
Tâm ông cũng như thế.
Mục-liên tâu vua rằng:
“Biết hối hận bậc nhất
Hối trách bệnh đã thấm
Thuốc hay Phật chữa khỏi.”
Vua nghe ngài dạy bảo
Rất sợ hãi địa ngục
Xin nương nhờ Đức Phật
Như bệnh theo thầy hay
Lệnh lập lầu quán báu
Trang hoàng bằng ngọc quý
Như điện Thiện pháp trời
Bốn bên có lan can
Bốn phía thềm thang báu
Bốn phía bốn ao tắm
Hoa bằng bốn chất báu
Các thứ đẹp nhiệm mầu.
Ở trên có cây báu
Các vua đều kỹ xảo
Cung Đế Thích, Đao-lợi
Như cây Trú độ trời
Lập tòa cao bên dưới
Như vua trời Đao-lợi
Ở dưới cây Trú độ
Tòa đại ngự Đế Thích
Vua thỉnh Phật vào cung
Phật ra như mặt trời
Phát ngàn ánh sáng mầu
Vua đích thân ra đón
Cờ, phướn, lọng bốn báu
Hoa hương các kỹ nhạc
Đủ thứ báu nhiệm mầu
Thành kính dâng lên Phật,
Tức thời đánh tất cả
Hai mươi ức cái trống
Các trời đều tung hoa
Như mưa che khắp đất.
Phật tức thời đi đến
Lên điện ngồi tòa cao
Giống như vua trời Phạm
Ngồi cung Phạm bậc nhất.
Vua vô vàn ý kính
Hình dung rất đẹp lành
Như mặt cung điện trời
Ở bên núi Tu-di
Tay cầm bình nước vàng
Rót rửa tay Như Lai
Tay ngó sen của Phật
Tướng bánh xe sáng ngời.
Vua tự dâng thức ăn
Món ăn ngon trăm vị
Rất thơm ngon, thanh tịnh
Như món ăn trời dâng.
Phật cùng các đệ tử
Sau khi thọ trai xong
Súc miệng, rửa bình bát
Thanh tịnh như ý Phật.
Lầu quán, điện cao vời
Chúng sinh nhiều vô số
Như các trời ngắm Phật.
Ở cung Trú độ thọ
Vua trời lòng sầu thảm
Cùng các trời đi đến
Tự quán sẽ bị đọa
Thọ thân trong thai lừa
Vua sầu thảm như vậy
Nhìn kỹ khổ địa ngục.
Đại Quốc vương Ma-kiệt
Cùng các vị thể nữ
Phục sức rất đẹp đẽ
Sáng chói như ánh chớp
Theo bên vua mà đến
Cung kính lễ Thế Tôn
Hoặc cầm các hoa báu
Hoặc cầm hoa vàng bạc
Lúa vàng hoặc lúa bạc
Đủ các thứ châu báu;
Lại có các thể nữ
Tay cầm đồ vàng bạc
Đều đựng đầy nước thơm
Và bình báu cát tường
Chứa nước thơm dang tiếng
Vẩy sạch đất bụi bặm
Biết bao hoa nhiều màu
Tung rải khắp mặt đất
Đem y phục nổi tiếng
Chuỗi ngọc báu đủ loại
Đều cởi ra dâng cúng
Chất gom đầy mặt đất.
Vua cùng với đại chúng
Gieo mình trước Như Lai:
“Phật từ giúp chúng sinh
Xin rủ thương loài ác.”
Phật thấy các trời người
Lòng đều sinh lo sợ
Đại chúng số ngàn ức
Đều mong muốn được độ
Tức thời nói họ nghe
Pháp yếu rất sâu nhiệm
Nước cam lộ bốn đế
Pháp quyết định giải thoát.
Có sáu ức chúng sinh
Hiểu đế thấy dấu đạo
Vô số chúng sinh khác
Đều phát tâm đại đạo.


Phẩm 28: HIỆN NHŨ BỘ LỰC

Phật nhập vào Vô dư
Diệt đau đớn của thân
Cùng đệ tử La-hán
Rời thành Duy-da-ly
Đi qua các làng xóm
Khoan thai theo thứ lớp
Giác ngộ các chúng sinh
Khiến trồng gốc đức lành
Vì vô số chúng sinh
Hiển bày hạnh lành xưa
Độ thoát vô lượng số
Khiến uống vị cam lộ.
Lần đến thành Thành hữu
Nơi Lực sĩ sinh ra
Cùng với các đệ tử
Dừng nghỉ tại xứ ấy.
Cách nơi ấy không xa
Thành Câu-di-na-kiệt
Trong cửa thành có núi
Năm trăm Lực sĩ nhóm
Cùng họp lại bàn luận:
“Núi này chướng ra thành
Nên cùng họp sức dời
Tỏ chúng ta mạnh hơn
Để tiếng tăm đời sau
Trùm khắp cả bốn phương
Sức tinh tấn đầy đủ
Không lúc nào đứt đoạn”.
Bàn rồi bèn ra thành
Đem voi, ngựa, trâu xanh
Mang dây thừng, cây gỗ
Cùng nhau đến dưới núi
Lập ra đủ mọi cách
Cột núi vào con vật
Tay thì nắm dây kéo
Dùng cây gỗ đẩy bồi
Cùng nhau lớn tiếng hô
Đồng thời xuất toàn lực
Tiếng lớn vang cả nước
Không thể lay động núi.
Phật dẫn các đệ tử
Thứ lớp đến chỗ này
Các Lực sĩ thấy Phật
Tỏa ánh sáng màu vàng
Như ngàn mặt trời mọc
Ba mươi hai tướng mầu,
Thấy Phật họ mừng rỡ
Bỏ núi, đến chỗ Phật
Cung kính làm lễ Phật
Đi quanh phải ba vòng
Phật nhân đó hỏi họ:
“Vì sao các tráng sĩ
Nhóm họp ở đây thế?”
Họ cùng bạch Phật rằng:
“Chúng con sống ở đây
Thuộc dòng họ Lực sĩ
Núi này cản cửa thành
Chúng con cùng họp bàn
Muốn dời ngọn núi ấy
Khiến đường vào thành phẳng.
Hầu để tiếng mai hậu
Hiển bày sức Lực sĩ
Nên dùng voi, gia súc
Và hết sức lực mình
Đã tận dụng phương tiện
Mà núi vẫn không lay”.
Phật cùng với đại chúng
Đi đến chân núi này
Thu gọn lại y phục
Dùng tay trái nhấc núi
Để vào bàn tay phải
Rồi ném lên hư không
Lên mãi tận trời Phạm.
Trong núi phát tiếng nói:
“Thế gian đều vô thường
Các pháp đều vô ngã
Chỉ vô vi diệt khổ.”
Núi từ trên hạ xuống
Trở về tay phải Phật
Phật dùng miệng thổi tan
Nát vụn ra thành bụi
Rồi lại gom nhóm lại
Trở lại ngọn núi cũ
Đem dời đến chỗ khác
Bấy giờ các Lực sĩ
Thấy Thế Tôn Đại sĩ
Lòng vô vàn mừng rỡ
Toàn thân đều nổi ốc
Lòng thêm cung kính Phật
Đến làm lễ chân Phật
Quỳ xuống, chắp tay bạch:
“Thưa Đấng Trời trong trời
Sức lực dùng vừa rồi
Là năng lực Nhũ bộ
Là năng lực thần thông
Hay định lực của đạo?”
Phật bảo các tráng sĩ:
“Lắng nghe lời Ta nói
Tay trái Ta nhấc núi
Đặt trong bàn tay phải
Ném lên hư không ấy
Là năng lực Nhũ bộ
Lên đến tận trời Phạm
Trong núi phát tiếng nói
Thế gian đều vô thường
Tất cả đều vô ngã
Riêng vô vi diệt khổ.”
Lại chắp tay bạch rằng:
“Xin Đấng Trời trong trời
Hoan hỷ giảng nói lại
Sức bú mớm cha mẹ
Thì có hạn lượng thôi.”
Phật bảo các Lực sĩ:
“Các ngươi có muốn nghe
Sức Nhũ bộ Phật chăng?”
Đáp rằng: “Dạ muốn nghe!
Sức Nhũ bộ Thế Tôn”.
Phật dạy: “Hãy nghe đây!
Sức mười con trâu thường
Bằng một con trâu xanh,
Sức mười con trâu xanh
Bằng một con trâu mao,
Sức mười con trâu mao
Bằng một con độc giác,
Sức mười con độc giác
Bằng một con voi thường,
Sức mười con voi thường
Bằng một voi sổ sinh,
Sức mười voi sổ sinh
Bằng một con tả tượng,
Sức mười con tả tượng
Bằng một con hương tượng,
Sức mười con hương tượng
Bằng một đại đức tượng,
Sức mười đại đức tượng
Bằng một voi ngà chày,
Sức mười voi ngà chày
Bằng sức một long tượng,
Như sức mười long tượng
Bằng lực sĩ vai rộng,
Mười lực sĩ vai rộng
Bằng sức một Thiên tiết,
Mười lực sĩ Thiên tiết
Bằng một trời Sĩ thừa,
Ba trăm hai mươi sĩ
Bằng một lóng tay Phật.
Sức bú mớm cha mẹ
Sức bú mớm của Phật
Trạng thái giống như vậy.
Các Đức Phật quá khứ
Và các Phật vị lai
Và hiện nay như Ta
Tất cả đều bình đẳng;
Bình đẳng âm thanh xưng
Bình đẳng lượng tướng tốt
Bình đẳng phước báo ứng
Bình đẳng giác trí tuệ
Bình đẳng giới định ý
Chỉ hai việc không bình
Hình tướng và tuổi thọ”.
Bấy giờ các Lực sĩ
Cúi đầu lễ chân Phật
Chắp tay bạch Phật rằng:
“Nay thấy sức bú mớm
Cha mẹ của Thế Tôn
Nguyện rủ lòng xót thương
Giảng nói chúng con nghe
Phước lực công đức Phật”.
Phật bảo các Lực sĩ:
“Người muốn nghe, lắng tai!”
“Thưa chúng con muốn nghe”
Phật bảo các Lực sĩ:
“Khắp cả Diêm-phù-đề
Sức phước đức chúng sinh
Sánh với một phía thành,
Sức Chuyển luân thánh vương
Sức phước đức gốc lành
Gấp thêm trăm và gấp ngàn
Không được so sánh nhau.
Vua Chuyển luân hai phương
Vua Chuyển luân ba phương
Vua Chuyển luân bốn phương,
Thiết luân một phương hiện
Đồng luân hai phương hiện
Ngân luân ba phương hiện
Kim luân bốn phương hiện
Bánh xe có ngàn căm
Bảy báu xen lẫn nhau
Chiếu sáng như mặt trời.
Sức phước đức hai phương
Ví như trước đã bồi
Vua phước lực ba phương
Cũng dụ kiến hiểu vậy
Phước lực vua bốn phương
Dụ để chúng sinh hiểu,
Sức phước đức chúng sinh
Trăm lần, ngàn muôn lần
Kể sức công đức ấy
Không bao giờ ví được.
Giả sử khiến bốn cõi
Tất cả loài chúng sinh
Đều là vua Chuyển luân
Hợp sức phước đức này
Tất cả sức công đức
Của bốn vị vua trời
Trăm ngàn, hàng ức muôn
Không bao giờ ví được.
Người khắp bốn vua trời
Đều làm bốn vua trời
So sánh sức phước đức
Của vua trời Đế Thích
Trăm ngàn, hàng ức muôn
Không thể ví dụ được.
Các vị trời Đao-lợi
Đức như trời Đế Thích
Không sánh vua trời Diệm
Tất cả sức công đức
Trăm ngàn muôn ức lần
Không thể ví dụ được.
Giả sử các trời Diệm
Phước như vua trời Diệm
Không sánh sức phước đức
Của vị vua trời Gia.
Nếu có sức phước đức
Khiến các trời Đâu-thuật
Đức như vua trời này
Không sánh sức công đức
Của vua trời Hóa lạc.
Đức của vua Hóa lạc
Không sánh sức phước đức
Vua trời Ứng hóa thanh.
Các trời Ứng hóa thanh
Phước lực như vua trời
Không sánh sức công đức
Của Phạm thiên bậc nhất.
Giả sử các trời Phạm
Như Phạm lực bậc nhất
Sức công đức không bằng
Với vị trời Đại Phạm.
Vô số không thể kể
Không bằng sức công đức
Của một vị Duyên giác
Trăm ngàn muôn vạn ức
Không thể nào ví dụ.
Tam thiên đại thiên giới
Tất cả loài chúng sinh
Đức lực như Duyên giác
Không bằng một Bồ-tát.
Tất cả sức phước đức
Loài chúng sinh mười phương
Đều khiến thành Bồ-tát
Sức phước đức đầy đủ
Không được sức công đức
Của một tướng Đức Phật
Trăm ngàn muôn ức ức
Không thể nào ví dụ.
Chư Phật ở quá khứ
Cùng chư Phật vị lai
Và Ta trong hiện tại
Đức lực đều bình đẳng
Âm bằng, xưng lượng bằng
Tướng bằng, phước đức bằng
Các pháp báo ứng bằng
Chỉ tuổi thọ không đồng.”
Bấy giờ các Lực sĩ
Cúi đầu lễ chân Phật
Quỳ thẳng, chắp tay bạch:
“Bạch Đấng Trời trong trời
Đã thấy sức bú mớm
Nghe đủ sức phước đức
Cúi xin được nghe lại
Sức trí tuệ của Phật.”
Phật bảo các Lực sĩ:
“Người thích nghe, lắng tâm
Nay Ta sẽ nói đủ
Sức trí tuệ của Phật.
Cõi Diêm-phù-đề này
Rộng bảy ngàn do-diên
Hình đất có ba góc:
Phương Tây Cù-da-ni
Rộng tám ngàn do-diên
Hình đất là vuông vức.
Phương Đông Phất-vu-đãi
Rộng chín ngàn do-diên
Hình đất như trăng khuyết.
Phương Bắc Uất-đơn-việt
Rộng một muôn do-tuần
Địa hình như trăng tròn.
Địa vực bốn phương ấy
Các cỏ cây, tre trúc
Đều dùng để làm bút,
Nước tất cả biển lớn
Sâu rộng dài ba trăm
Ba mươi sáu muôn dặm
Dùng nước hòa làm mực.
Núi Tu-di vào đất
Dưới đến mé kim cang
Cũng lại có ba trăm
Ba mươi sáu muôn dặm
Ngang mặt nước trở lên
Cũng lại có ba trăm.
Ba mươi sáu muôn dặm
Bốn phương bốn báu thành
Phương Bắc bằng vàng ròng
Phương Đông bằng bạc trắng
Phương Nam lưu ly xanh
Phương Tây bằng thủy tinh
Giống như núi Tu-di
Đều khiến thành lụa trắng
Viết hết bút cây cối
Cạn hết nước các biển
Ghi hết lụa trắng này
Không tả hết trí tuệ
Đệ tử Xá-lợi-phất
Nhật nguyệt sáng soi chiếu.
Ngàn cõi nước như thế
Ngàn mặt trời, mặt trăng
Bốn ngàn các địa vực
Ngàn Đông, Tây, Nam, Bắc
Ngàn núi chúa Tu-di
Và bốn ngàn vua trời
Ngàn Đế Thích Đao-lợi
Ngàn vua trời Đâu-thuật
Ngàn vua trời cõi Diệm
Ngàn vua trời Hóa lạc
Ngàn trời Hóa tự tại
Và ngàn các vua trời
Gọi là ngàn thế giới
Ngàn thế giới như vậy
Đó gọi là tiểu thiên,
Ngàn ngàn tiểu thiên giới
Gọi đệ nhị trung thiên,
Đệ nhị trung thiên ấy
Đủ số một ngàn ngàn
Thì đó gọi tên là
Cõi Tam thiên đại thiên.
Giả sử cõi Tam thiên
Đại thiên thế giới ấy
Tất cả loài chúng sinh
Tuệ như Xá-lợi-phất
Đem sánh trí tuệ Phật
Gấp trăm và gấp ngàn
Muôn muôn ức ức lần
Không thể tính, thí dụ
Sức tuệ Phật như thế.
Các Phật thời quá khứ
Và các Phật vị lai
Như Ta là hiện tại
Tất cả đều bình đẳng
Bằng âm, bằng danh xưng
Bằng đức, bằng tướng hảo
Bình đẳng các báo ứng.”
Bấy giờ các Lực sĩ
Cúi đầu lễ chân Phật
Chắp tay, bạch Phật rằng:
“Bạch Đấng Trời trong trời
Đã thấy sức bú mớm
Nghe sức tuệ công đức.
Cúi xin Ngài giải thích
Sức thần túc của Phật.”
Phật bảo các lực sĩ:
“Người thích nghe, lắng lòng.”
“Thưa vâng, xin muốn nghe.”
Phật bảo các tráng sĩ:
“Xưa lương thực thiếu thốn
Người dân đều nghèo đói
Các đệ tử khất thực
Không thể tự nuôi thân
Ngồi thiền ý không định
Không thể tu pháp lành,
Thời đệ tử Mục-liên
Bèn tìm đến chỗ Ta
Cúi đầu lễ chân Phật
Rồi lui sang một bên
Chắp tay bạch Phật rằng:
“Nhớ xưa nghe Phật dạy
Đất này đều ăn được
Vì chúng sinh bạc phước
Đất màu mỡ chìm xuống
Sỏi, đá, cát nổi lên
Như con nay biết rõ
Đất màu mỡ ở dưới
Chúng sinh đáng thương xót!
Nay muốn lấy đất này
Đảo trên đem xuống dưới
Đảo dưới đem lên trên.”
Ta liền quở Mục-liên:
“Chớ nhọc làm việc ấy
Chúng sinh này đời trước
Không tu các gốc lành
Không có công đức kia
Xứng ăn đất màu mỡ.”
Đệ tử Mục-kiền-liên
Dùng tay trái nâng lên
Đất Tam thiên thế giới
Đặt trong bàn tay phải
Mang để ở cõi khác
Tất cả loài chúng sinh
Không loài nào hay biết
Cũng không tâm sợ hãi.
Cõi Tam thiên đại thiên
Thế giới như thế ấy
Tam thiên thế giới này
Đầy các loại chúng sinh
Thần lực như Mục-liên
So thần lực Phật thân
Thì trăm ngàn muôn ức
Không thể ví dụ được.
Dù chúng sinh mười phương
Thần lực như Duyên giác
Thần lực các đệ tử
Và thần lực Phật thân
So sánh ý lực Phật
Trăm, ngàn muôn ức lần
Vô lượng không tính kể
Không thể ví dụ được.”
Bấy giờ, các Lực sĩ
Cúi đầu lễ chân Phật
Chắp tay bạch Phật rằng:
“Bạch Đấng Trời trong trời
Đã thấy sức bú mớm
Sức thần túc phước tuệ
Xin nói sức định ý
Giải thích cảnh giới ấy”
Phật bảo các Lực sĩ:
“Người thích nghe, lắng tâm.”
“Thưa, chúng con xin nghe!”
Phật bảo các Lực sĩ:
“Bốn phía núi Tu-di
Các rồng bay lên không
Đồng thời tuôn mưa lớn.
Khắp cùng bốn thiên hạ
Nước ở bốn phương ấy
Đều chảy vào biển cả
Phật đều phân biệt biết
Các giọt nước mưa này:
Trước rơi xuống nơi nào
Vùng nào, làng xóm nào
Nhà nào, vườn ruộng nào
Cây nào, cành nhánh nào
Hoa nào và trái nào?
Vì chảy vào biển cả
Của bốn phương vực này
Tất cả nước đã có
Sức định ý của Phật
Đều phân biệt biết được
Nguồn gốc các giọt nước
Từ nơi nó đã sa.
Đó là định ý Phật
Sức thần rất nhiệm mầu.
Các Phật đời quá khứ
Các Phật đời vị lai
Như nay Ta nói pháp
Tất cả đều bình đẳng
Bằng âm, bằng xưng lượng
Bằng đức, bằng tướng tốt
Bình đẳng pháp báo ứng
Chỉ hai việc không bằng
Hình thể và tuổi thọ.
Tại sao lại không bằng?
Lúc người đời sống lâu
Vì thân người cao lớn
Phật cũng tùy thế tục
Sống lâu, thân cao lớn.
Người đời mạt chết yểu
Thân hình xấu, nhỏ con
Nên các Phật ra đời
Có hai điều không bằng.”
Phật bảo các lực sĩ:
“Ta đã vì các ông
Giảng nói giải thích đủ
Sức bú mớm của Phật
Sức phước đức, trí tuệ
Sức thần thông định ý
Các năng lực đã nói
Vào chiều tối hôm nay
Bị sức mạnh vô thường
Sẽ kích phá hoại diệt.
Những người như vậy thảy
Thế gian là vô thường
Tất cả loại có hình
Đều là pháp chia lìa
Diệt vong và tan hoại
Có thành ắt có hoại
Có sinh phải có chết
Có nhóm phải có tan
Có đứng phải có rơi.”
Phật vì các Lực sĩ
Nhân đó nói yếu kệ:
“Hữu vi là vô thường
Sinh khởi là diệt tận
Các hưng suy tự nhiên
Siêng cầu an vắng lặng.
Hữu vi là vô thường
Sinh khởi là diệt tận
Phật là Bậc Tối Tôn
Tuổi thọ cũng chung tân.
Đời sống ngắn ngủi ấy
Như mộng bỗng trôi qua
Buông lung không siêng tu
Ngu này đáng thương xót.
Như nước trên núi cao
Chảy nhanh không trở lại.
Mạng người cũng như thế
Đã qua không trở lại.
Như cung bắn tên rồi
Đã đi không quy về
Mạng người cũng như thế
Đã đi không trở lại.
Nguồn gốc của các khổ
Phải siêng cầu diệt khổ
Biết tám đường Hiền thánh,
Uống cam lộ ngọt ngon.”
Lúc Phật nói kệ xong
Cõi Tam thiên đại thiên
Đất rung chuyển sáu cách
Vô số các vị trời
Bỗng rời cung điện mình
Đến đầy lấp không gian
Mưa các hương hoa trời
Bột vàng, bạc, chiên-đàn
Chư Thiên trổi kỹ nhạc.
Phạm thiên lễ chân Phật
Chắp tay ở trước Phật
Nhân đó nói kệ rằng:
“Các Phật khó gặp gỡ
Ý Chánh Giác khó có
Như hoa Ưu-đàm-bát
Phật lại còn khó hơn.
Thích Sư Tử trên người
Khỏe mạnh càng khó gặp
Cùng các chúng trời người
Nay chắp tay kính lễ.”
Trời Đế Thích khi ấy
Bước đến lễ chân Phật
Quỳ thẳng ở trước Phật
Nhân nói bài tụng này:
“Khiến con được mắt tịnh
Sáng soi đuốc pháp đây
Đóng kín cửa đường tà
Không sợ rơi đường ác,
Thầy Đại Bi cõi thế
Vì thương xót chúng sinh
Nên cùng các chúng trời
Ở trước chắp tay lễ.”
Thời, sáu muôn vị trời
Thấy đế được dấu đạo
Lễ Phật, nhiễu ba vòng
Rồi trở về cõi trời.
Lúc ấy người trong hội
Quy mạng Đấng Tam Tôn
Phật pháp các Hiền thánh
Từ đây đến cuối đời
Giữ giới, tu mười lành
Xuất gia, rời thế tục
Thọ giới làm Sa-môn
Thấy đế, chứng vắng lặng
Trở về đạo Bất hoàn
Hoặc thành Vô trước chân
Hoặc phát ý Duyên giác
Hoặc phát tâm Đại đạo
Vô hạn không thể lường.
Lại có loài chúng sinh
Chưa từng có gốc lành
Chỉ mới phát tâm đạo
Vô số các chúng sinh
Nhớ Phật, thầy trời người
Siêng nhiếp thân, miệng, ý
Nay sẽ về vô vi
Thấy rồi! Quá kinh sợ!
Tu hành lìa các khổ
Thân người rất khó được
Như cứu lửa trên đầu
Nhân đó làm điều lành
Siêng tu không biếng nhác
Lìa khỏi các khổ não
Được vô vi mát mẻ.