SỐ 193
PHẬT BỔN HẠNH KINH
(PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN)

Hán dịch: Đời Tống, Sa-môn Thích Bảo Vân ở Kinh châu.
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 1

Phẩm 1: NHÂN DUYÊN

Nay giảng pháp thô thiển
Tâm Từ chuyên nghe nhận
Yếu nghĩa các kinh Phật
Ngôn từ của Thánh sư
Sách vở về truyện Phật
Rất lợi ích cho đời
Người nghe mừng khôn xiết
Thấm nhuần đến mọi người.
Tất cả các Đức Phật
Trí Tiên thánh minh vương
Từ tâm xưng danh hiệu
Được phước không thể lường.
Nên nay giảng an lành
Ưu khổ dứt mất hẳn
Nơi chốn nào Phật đến
Thảy đều được yên ổn
Nhiếp căn chuyên giữ tâm
Mỗi người lắng lòng nghe.
Nếu có người vâng làm
Trừ sạch các nhơ bẩn
Dùng nước pháp thanh tịnh
Siêng rửa sạch tâm mình
Vào ao sâu diệt độ
Thọ sắc rất sáng trong.
Năm dục như ngựa rong
Đắm mê theo cuộc đời
Quanh quẩn không ra được
Bị năm dục lừa dối
Rong ruổi nơi tối tăm
Riêng xoay lăn năm đường
Dùng cái giàn trí tuệ
Khéo chế ngự tâm ngu
Phải dùng roi vô thường
Đánh ngựa dục chạy rong
Bẻ gãy ý tham lam
Khiến tâm bỏ nịnh hót.
Dòng sông sâu sáu dục
Đường ác rất mau chóng
Phải dùng sức trí tuệ
Đắp đê cho dày chắc.
Ưa sinh tử khổ đau
Chưa từng được nghỉ ngơi
Do tâm không nhàm đủ
Say mê nơi năm dục
Có tám thứ thuốc thang
Hòa hợp rất thần hiệu
Chịu uống vị cam lộ
Say mê liền tỉnh ngộ.
Chúng sinh trong ba cõi
Thấy ngược, tay chỉ dẫn
Điên đảo trong năm đường
Giống như người đánh cầu
Vừa thoát khỏi mé khổ
Trở lại đọa sinh tử
Nay nghe Thánh minh dạy
Nên dứt tâm mê lầm.
Ánh sáng của từ bi
Soi sáng khắp thế gian
Ngu thấy nóng thì cháy
Tâm si tự mê hoặc.
Sinh tử như đầm rộng
Hươu con lạc trong đó
Nên uống dòng sữa pháp
Dứt đói khát lâu ngày.
Chúng sinh từ xưa nay
Bị già chết lôi kéo
Không thích thấy thuốc hay
Còn mắng nhiếc thầy giỏi
Hợp ba mươi bảy vị
Các thứ thuốc thần hiệu
Phải dùng phương tiện cầu
Siêng uống để trừ bệnh.
Trong đêm dài mệt nhọc
Chúng sinh ngủ rất ngon
Phải đánh trống cam lộ
Thức dậy chớ ngủ nữa.
Mặt trời Phật xuất hiện
Pháp soi sáng mạnh mẽ
Phải dùng mắt trí tuệ
Siêng năng quán sát khắp.
Tâm chúng sinh như nước
Bị khuấy đục không trong
Dùng pháp lắng khiến trong
Giống như nước mùa thu.
Chúng sinh khéo điều tâm
Định ý, không lao chao
Mau chóng được trở về
Được vào biển Nê-hoàn.
Các hình thể biến hóa
Nơi sinh tử lâu xa
Trời, người, ba đường ác:
Địa ngục, quỷ, súc sinh.
Nay nên bỏ luống dối
Hình người gỗ dối lừa
Nhập diệt thành Lưu ly
Hợp thành một màu sắc.
Có vua tên A-dục
Cõi nước hưởng Vô ưu
Làm kẻ địch sợ hãi
Người theo thì kính yêu
Dựng khắp trên đất này
Tám mươi bốn ngàn tháp
Trời, Rồng, Quỷ, Thần vui
Tiếng vang khắp thiên hạ.
Thời Kim cang lực sĩ
Nghe tiếng vang động này
Phật pháp càng hưng thịnh
Nhân đó nghĩ nhớ Phật
Buồn cúi đầu chống má
Nhớ thuở Phật ở đời.
Các vị trời thưa hỏi
Rằng: “Thưa Ngài buồn chi?”
Nhìn thật lâu mọi người
Sau đó mới than dài
Nhớ thương, giọng buồn bã
Cất tiếng đáp lời rằng:
“Phật là Thầy của trời
Đem lành dạy trời, người
Nghĩ nhớ Phật, Thánh Tôn
Cho nên tâm sầu muộn.”
Các trời và người này
Sinh sau không thấy Phật
Sau khi Phật diệt độ
Mới sinh lên cõi trời
Mới nghe danh hiệu Phật
Khắp người đều nổi ốc
Nên đem tâm Từ kính
Mà hỏi thần Kim Cang:
“Thưa Ngài, Phật là ai?
Có đức thiện diệu gì?
Có sức trí tuệ gì?
Có pháp cấm, luật gì?
Hình mạo Ngài ra sao?
Tự nghiêm sức thế nào?
Cúi xin Ngài chiếu cố
Giảng nói chúng tôi nghe!”
Do lời sáng suốt ấy
Khuyến khích thần Kim Cang
Nói ra như hoa nở
Mỉm cười vui vẻ nói:
“Pháp sâu nhiệm đã hỏi
Khó có thể nói vội
Các Thánh chưa thể nói
Riêng ta đâu bày được.
Nếu như dùng tay chỉ
Thì cả thế giới Phật
Bốn biển, các ao, vực
Hút một lần cạn hết.
Nếu có thể nuốt chửng
Núi Thiết vi, Kim cang;
Dùng tơ rễ ngó sen
Buộc treo núi Tu-di;
Nếu như muốn gói gọn
Hết cả cõi hư không;
Nếu lại muốn tính biết
Số chúng sinh mười phương;
Những việc này còn dễ
Nếu học thì làm được
Muốn khen công đức Phật
Thì không thể hết được.
Xin nương oai thần Phật
Khiến tâm không sai lầm
Có đôi điều tuyên bố
Khen đức lành của Phật.
Nay những lời ta nói
Như tiếng hót Anh vũ
Để vui lòng các vị
Nên chuyên tâm lắng nghe”.


Phẩm 2: KHEN NGỢI NHƯ LAI

Nay muốn bay lên không
Xét Phật không pháp ngoài
Vừa muốn dùng lời khen
Thì tâm chìm trong nghi
Cánh lòng ta vừa chắp
Sức yếu không thể mạnh.
Tuệ không vô của Phật
Bao trùm cả hư không
Giả như có lực sĩ
Dùng sức bắn hư không
Tên đi qua nhiều kiếp
Cũng không đến mé không.
Biết bao Hiền thánh đối
Tuệ đại không của Phật
Dùng vô lượng biện tài
Khen chẳng hết Phật đức.
Đã vượt bờ biển khổ
Khô cạn sông ái dục
Lấp vực sinh già chết
Khai mở biển đại pháp
Trời, người và ngoại đạo
Không thể thấu nguồn ý
Cho nên biển tuệ Phật
Sâu xa không đáy, bờ.
Tu-di, vua các núi
Nơi các trời cư trú
Phật đức vượt Tu-di
Không thể thấy được đỉnh.
Ma vương dâng ba nàng
Định làm loạn đạo tâm
Mê hoặc Ngài không được
Phật từ giữ gìn được
Mười tám ức Ma vương
Biến hình muốn đánh Ngài
Phật liền đưa cánh tay
Như trời chiếu mây đỏ
Dùng tay tướng trăm phước
Chống đất thắng Ma vương.
Chẳng dám chống Phật đức
Như tối sợ ánh dương
Các trời không hủy được
Cờ “Cống cao” Ma vương
Chỉ Phật bẻ gãy được
Phật dựng cờ “Đại pháp”
Các vua trần lao khác
Sức mạnh ngậm hờn suông.
Ngu si và tử ma
Sai con cháu ra quân
Ái sinh ra năm cái
Trước che lấp thế gian
Còn ôm lại lòng hại
Biết bao loại biến hình
Tức giận, ganh, bỏn sẻn,
Phiền não, mạn, cống cao
Thấy ngược, tham mong cầu
Vua trần lao tà si
Tệ hại phá hoại mạnh
Vây quanh đòi chiến đấu
Kết bày trận trần lao
Thảy đều hiện vũ lực
Đều phóng nỏ mạnh mẽ
Hại trung phàm, kẻ ngu.
Tên kia như rắn độc
Lại có như lửa hừng
Từ sau Phật Ca-diếp
Không còn ai cự đương.
Phật đức ngăn tên ấy
Lửa càng cháy dữ dội
Ngồi trên xe giới đức
Mặc giáp nhẫn nhục chắc
Ngồi trên ngựa tinh tấn
Vào phá trận trần lao
Dùng mũi bén chánh kiến
Dùng nghĩ đúng làm tên
Dùng nói đúng làm cánh
Hạnh đúng làm lưỡi tên
Dùng đường chánh làm cung
Rút tên trong ống ý
Giương cung lành rất nhanh
Tên Phật là tứ đẳng
Một phát diệt trần lao
Rung động cõi tam thiên
Lửa tuệ đốt dục trần.
Giống như quân bị đốt
Thí, giới, nhẫn, tấn, định
Tuệ, tín và vững chắc
Giữ chí không lay động
Như các sông về biển.
Đời trong, không trung sáng
Mười phương đều được an.
Tâm nhất định vững bền
Suy nghĩ đời sinh diệt
Để được tâm kim cang
Phá vỡ núi trần lao
Dùng mắt Phật quán thấy
Cõi ba ngàn như gương.
Ngoại đạo, các Thần tiên
Tu lâu không thấy giác
Nhất thiết trí không thầy
Gọi là Thầy các thầy
Cường tuệ Kim cang cứng
Phá vỡ vỏ si dày,
Ra khỏi ngục ngu tối
Vượt hư không vô vi
Trên trời ăn cam lộ
Mà vẫn ăn lúa ngựa
Không đắm mê vị trời
Không nhàm chán lúa ngựa.
Điều-đạt giận lăn đá
La-vân đứng trước Ngài
Đều nhìn bằng mắt Từ
Thấy độc như chiên-đàn.
Bị ngoại đạo phỉ báng
Được trời, người ngợi khen
Cả hai lòng chẳng động
Như miệng thổi Tu-di.
Danh khắp cõi ba ngàn
Phật là thầy thế gian
Luôn đứng mũi chịu sào
Thản nhiên không buồn, vui
Gặp thành, bại, lợi, hại
Hoặc chê, khen, khổ, vui
Tám pháp không nhiễm được
Như hoa sen trong bùn.
Vui trên trời, dưới thế
Thấy đều là không thật
Nhìn đời như trò huyễn
Có tướng nhưng rỗng không.
Chúng sinh ba đường ác
Mở cánh cửa khó mở
Ba đường ác không còn
Dẫn người, trời vô vi,
Trải qua vượt ba đời
Trói Tu-la kiêu mạn
Khuyến dẫn các gốc thiện
Mưa Tam bảo xuống đời.
Thuở xưa, vua Chuyển luân
Tự tại khắp bốn phương
Đối mình không tự theo
Khỏi chết, đến vô vi
Phật tu các thứ nghiệp
Ngự trị thành pháp không
Cứu thoát giặc trần lao
Đem đến thành vô vi.
Vầng dương chiếu ngày, không chiếu đêm
Không chiếu cõi trời, ba đường ác
Ánh Phật ngày đêm chiếu tam thiên
Và soi tâm tất cả chúng sinh.
Ánh mầu của Phật thường chiếu sáng
Ngàn muôn vô số khó ví dụ
Trăng sáng ngày rằm viên mãn lắm
Chỉ soi đêm tối còn ngày không.
Thiên đế tâm buồn khổ
Thọ mạng hết, lâm chung
Trở lại hết phước trời
Đến chỗ Phật thấy đế.
Trời, trăng mắt cõi thế
A-tu-luân vây quanh
Phật từ cứu thế gian
Khiến không gặp tai ách
Khói lo tưởng như lửa
Dục lạc như uống thuốc
Yêu đắm dụ như lửa
Phật dùng nước pháp diệt.
Ôm giận rất tàn hại
Uống rượu tâm cuồng loạn
Voi điên Ương-quật-ma
Phật dùng từ hàng phục.
Vô lượng sinh tử ràng buộc chắc
Bọn giặc ngu si che tầm nhìn
Phật dùng thuốc trí tuệ lời nói
Quyết trừ giặc Uất-tỳ-ca-diếp.
Trần cấu ba người này rất dày
Dù Thanh văn như cát sông Hằng
Cũng không làm động mảy lông họ
Chỉ Phật độ khiến thấy đạo sáng.
Dáng vẻ rất kiêu mạn
Mặc lễ phục quý sang
Bình-sa rất kiêu ngạo
Thấy Phật cúi đầu lễ.
Đầu như đội lửa cháy
Nanh dài, mắt đỏ rực
Nổi giận ném lửa đốt
Phật hàng quỷ A-lạp.
Rồng đầu đàn nổi giận
Mưa hại nước Ma-kiệt
Phật động đất lở núi
Ra oai diệt rồng dữ.
Phật như voi đầu đàn
Vào ao sen sinh tử
Dày xéo cỏ trần lao
Đứng vững trong Nê-hoàn.
Phật đưa qua sinh tử
Như trâu bơi qua sông
Chúng sinh qua đến nay
Như bầy trâu theo đường.
Phật như ao Bát giải
Sự sống: hoa Phù dung
Trời người như ong nhóm
Ngửi hương thì lìa khổ.
Các trời nghe nước biển
Đáy có thuốc không chết
Đem rồng chúa ở biển
Quấn quanh núi Tu-di,
Các trời A-tu-luân
Khuấy biển đến ngàn năm
Lập biết bao phương tiện
Hết sức rất khổ nhọc
Đem muôn món thuốc hay
Làm thuốc đọng lên trên
Gọi là thuốc không chết
Tiếp đựng trong bình vàng.
Nhưng uống chẳng sống mãi
Không khỏi già, bệnh, chết
Ý lầm giữ thuốc thần
Xoay chuyển, không bờ bến.
Phật dùng bảy giác ý
Sức tuệ khuấy biển lớn
Dùng diệt định bao vây
Dẫn bằng sức tinh tấn
Làm ra thuốc cam lộ
Mãi an, dứt già, bệnh
Diệt các khổ vui nhất
Uống vào lìa sinh tử.
Phật sáng như vầng dương chẳng loạn
Đầy như trăng tròn nhưng không lạnh
Vui hơn sáu trời mà tiêu dục
Bừng như lửa hừng không thiêu đốt.
Pháp rất nhiệm mầu, đức hạnh đủ
Các lành ẩn chứa, gọi phước nhóm
Gom nhóm điều lành của trời, người
Khen ngợi Phật đức không nhàm đủ.
Rực rỡ như trời, sáng như trăng
Vui mắt như hoa, tiếng sấm vang
Bước như voi chúa, nhẫn như đất
Hơn khắp thế gian chỉ có Phật.
Vô lượng lời khen mầu nhiệm đó
Của bao Thánh chúng, biết bao đời
Các Thánh cùng kiếp cũng không hết
Huống ta ngu cạn muốn rốt ráo
Như chẳng thuyền bè muốn vượt khơi.
Các trời đều chắp tay
Vui mừng thỉnh Kim Cang
Nguyện Phật xuống Đâu-thuật
Phật nhận lời giảng nói.


Phẩm 3: GIÁNG THAI

Khi ở cung Đâu-thuật
Dùng mắt trời nhìn khắp
Thấy chúng sinh khổ não
Nhớ lại lời thề xưa:
Vốn nguyện an chúng sinh
Nhiều kiếp khổ cầu Phật
Đời đời gặp gian nan
Không chán, gieo cội đức.
Thờ kính là bậc nhất
Từ phát tâm đến nay
Đem vàng bố thí khắp
Tay tuệ thí thành đức
Các thí từ lúc đầu
Người nghe liền nổi ốc
Thân, chân, tay, đầu, mắt
Vợ con rất thương yêu
Sửa soạn các voi, ngựa
Xe báu rèm chân châu…
Nếu nhóm họp ở đây
Đất cũng không chứa hết!
Tiếng khuyên thí như sấm
Như trời đổ mưa dầm
Nhiều kiếp dùng nước tuệ
Thấm nhuần các chúng sinh.
Thí ao bơ, sông sữa
Núi phước, tô như suối
Nào mật, đường ngọt khối
Bày đầy khắp trên đất
Không trái ý người xin,
Cho hết không từ ai
Nước rửa tay người nhận
Giống như nước bốn biển.
Thờ minh sư, cha mẹ
Tâm Từ đủ thức dâng
Bố thí không giới hạn
Thành thí độ vô cực.
Sinh đâu cũng giữ giới
Thà chết không phá giới
Cạo tóc làm Sa-môn
Tóc chất hơn núi cao.
Sinh lên trời ngũ dục
Gặp khi mạng lâm chung
Chẳng động, phá giới cấm
Đủ giới, độ vô cùng.
Sinh được đấng tự do
Chưa từng thí kẻ ác
Cắt đầu, mắt, tay, chân
Tâm định được nhẫn nhục.
Tâm ngộ phát cầu Phật
Tiến kịp chín kiếp qua
Nên trước Di-lăc thảy
Mạnh mẽ vượt lên trước.
Ham ưa pháp sâu mầu
Do thân thọ nghĩa tuệ
Vào lửa, gieo xuống núi
Kim đâm khắp cả thân
Mười tám pháp trí tuệ
Vâng làm không bỏ bê
Hiểu rõ tất cả nguồn
Trí độ không bờ bến,
Thí, giới, nhẫn, tấn, định
Trí tuệ, sông biển sâu
Từ bi thương chúng sinh
Thành vui mừng sáng lòa!
Chân lông nhiều ánh sáng
Sáng động Đâu-thuật cung
Các trời hoài nghi nhóm
Cung kính lễ Bồ-tát.
Tức thời các thứ tiếng trống vàng
Mặc tư phú và bảy giác trù
Ai muốn cùng ta hàng thế gian
Thì mới khách pháp hội cùng nhau
Cho nên mời thỉnh hội khách pháp.
Ánh từ Đâu-thuật chiếu bốn phương
Khắp các cồn bãi cõi Diêm-phù
Liền sắc quan hầu Khanh Nguyệt Mãnh
“Ngươi biết đại quốc vương thế gian
Nước nào thác sinh được
Không trái phép tắc xưa
Hạp gặp gỡ Bồ-tát.”
Vâng theo lời Phật dạy
Đáp rằng: “Xin Thánh, nghe
Có tôn vương giàu có
Có vua tên Thiện Cầu
Làm chủ thành Vương xá
Đứng đầu thành Ba-nại,
Vua tên là Thiện Mãnh
Vua nước Kiệt trăm tài
Sào, vua nước Uất thiền
Lưu Sinh vua Quang Diễm
Lại vua tên Dũng Võ
Con của vua Thiện Tý
Lại tên vua Bạch Tuyết
Tám vị vua này rất nổi tiếng
Chẳng hay có thể thác sinh không?”
Rằng: “Có vua nào nhơ không chánh?”
Lại quán tất cả người chân chánh
Nghĩ suy giây lát lại thưa: “Có!
Dòng vua Chuyển luân khi hưng thịnh
Vua cuối cùng tên là Sư Tử
Con tên Bạch Tịnh trong họ Thích.”
“Tốt thay! Vừa ý Ta
Nên thác sinh làm con.
Vua Bạch Tịnh trên hết
Hoàng hậu bậc anh thư
Ở trong các thành, ấp
Ca-tỳ-la vượt trên.
Nay Ta sinh xuống đó
Đem thiện cho thế gian
Dạy chúng sinh chánh pháp
Mở gông cùm dục tham
Phá tan ngục sinh tử.
Mở bày nẻo vô vi
Bày chúng sinh phương tiện
Khiến thoát ngục sinh tử
Các vị ai muốn vui
Lìa khổ, diệt độ an
Muốn tự mình thoát khổ
Hãy cùng Ta xuống trần.”
Tuyên nói xong pháp đó
Liền rời cung Đâu-thuật
Hiển hiện khắp nơi biết
Voi trắng như núi bạc
Bồ-tát cỡi voi chúa
Như nhật chiếu mây trắng
Các trời múa tấu nhạc
Mưa khắp hoa đủ màu
Hạt châu sáng mặt trời
Ánh sáng chiếu cung vua.
Khi giáng thần hạ sinh
Hiện điềm rất nhiệm mầu.
Bồ-tát giáng vào thai
Như nhạn ở vực sâu
Như mùa thu trăng tỏ
Như voi ở ao hoa
Vầng dương sáng rực rỡ
Trăng ví dường châu sáng.
Bồ-tát không thể dụ
Chỉ đầy đủ phước lành
Đã nhập thai hoàng hậu
Đất rung chuyển sáu lần
Giống như thuyền trên sông
Tiếng sấm nổ trên không
Biển, ao khẻ rung động
Các dòng nước lắng trong.
Các trời trên không trung
Hoa giăng như trướng phủ
Khen ngợi vui hớn hở
Thần đất cười hân hoan
Các hoa đều nở tươi
Đất đai không gồ ghề
Thần cây thấy các hoa
Nở rộ như mắt nhìn
Ma vương yêu tham dục
Nên héo sầu tái tê.
Hoàng hậu mơ màng chợt tỉnh mộng
Các căn vắng lặng vui hớn hở
Mắt nhìn bốn phía xem xét khắp
Mặt ngọc vui mừng như hoa sen
Tâu vua: “Xin hãy lắng lòng nghe
Điều thấy trong mộng rất tốt lành
Voi đầu đàn màu trắng sáu ngà
Bỗng nhiên lại đến trước mặt thiếp.”
Vua nghe mộng hoàng hậu
Vừa mừng lại vừa nghi
Liền mời Phạm chí đoán
Nói điềm mộng đã thấy.
Nghe rồi, thầy đoán mộng
Suy nghĩ bèn tâu rằng:
“Theo sách vở đoán mộng
Xin lắng nghe kỹ càng
Hoàng hậu mơ mặt trời vào bụng
Nhân đó thọ thai sinh bé trai
Như mặt trời chiếu khắp mặt đất
Người này đức hạnh, chủ mười phương
Mộng thấy trăng tròn và các sao
Chiếu bụng hoàng hậu mà mang thai
Sinh con Thánh đức xoay bánh vàng
Chánh pháp trị vì cả bốn phương.
Bà mơ thấy voi trắng
Đi vào hông bên phải
Bé trai không vết bẩn
Trời, người cúi đầu lễ
Tất cả thảy đều biết
Đã sinh ắt thành Phật.
Theo điển xưa, sấm Thánh
Hậu mơ thấy voi trắng
Sẽ sinh con Thánh quý
Dạo bước chốn thần tiên
Cứ theo quẻ mà đoán
Ắt làm Thầy trời người,
Chỉ có hai con đường
Tại gia làm Thánh vương
Xuất gia cạo râu tóc
Thành Phật, Thầy các Thánh.”
Mừng thầy đoán mộng kỹ
Theo ý ban cho vàng
Vương hậu nghe rất vui
Tâu với vua việc lành:
“Từ mộng ấy về sau
Vui như uống cam lộ
Trong tâm dứt điềm ác
Chỉ ưa các điềm lành
Không ưa áo quý báu
Chỉ thích mặc đơn sơ
Không ham quạt trân quý
Ưa sương sạch, gió lành,
Chán ngán cảnh năm dục
Ưa thọ pháp chánh chân
Sáu căn không còn đắm
Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Chẳng còn ưa cung thất
Ý muốn dạo xem vườn.”
Tâu vua như thế rồi
Nhà vua liền đáp rằng:
“Tùy ý thích của khanh.”
Nhà vua cùng theo ra
Cho đến các nhân dân.
Vườn cây hoa mát mẻ
Hậu thấy trong thân thể
Như ánh trăng trên nước
Ở thai không nhơ bẩn
Xe lưu ly hoa vàng
Mười tháng các căn đủ
Nhìn như hạt châu sáng
Bà biết lúc sinh đến
Vào hoa viên ngoạn du
Vườn hoa sạch tinh khôi
Các Thần tiên vân tập.


Phẩm 4: ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH

Bấy giờ sao Phí
Vừa cùng trăng hợp
Điềm lành ứng hiện
Từ hông phải sinh
Giống như mây tan
Ngàn trăng hiện rõ
Như tối lâu ngày
Đuốc sáng chiếu tỏ.
Phương Đông là đầu
Cây rừng là tóc
Hoa cỏ là lông
Hoa sen là mặt
Mắt là sen xanh
Cây đỏ là môi
Tu-di là vú
Bốn biển là bụng
Trung thổ là lưng
Phương Nam là gối
Tư là châu rủ
Thường là chuỗi thơm
Phương Tây là chân.
Các báu trang sức
Các vua Chuyển luân
Làm vua nhiều đời
Như số giọt nước.
Lòng bàn chân Phật
Bánh xe ngàn căm
Thường đi “ấn xa”.
Các Phật quá khứ
Đức nghĩa đã tu
Nuôi sống muôn vật
Giống như Mẹ hiền.
Khó động lập tức
Bỗng nhiên vang tiếng
Lòng mừng hớn hở
Vui vẻ ngắm nhìn,
Liền đó hông phải
Sáng rực chói ngời
Át mặt trời sáng
Như đom đóm thôi
Khiến nhật mất sáng
Không còn tinh quang.
Ánh như hoa kết
Hiện nhiều màu sắc
Che lấp bốn phương
Đầy khắp hư không
Thí như mây tan
Mặt trời chợt hiện.
Khi ấy các trời
Thấy ánh mặt trời
Đều lấy làm lạ
Bảo với nhau rằng:
“Mặt trời giáng hạ
Cây vàng hiện chăng?”
Có thần đáp rằng:
“Mặt trời Phật hiện.”
Vua mặt trời nghi:
“Ấy mặt trời gì?
E rằng đoạt ta
Cung điện mặt trời.”
Bỗng thấy ghen ghét
Ngàn ánh sáng kia.
Phật quang rạng đất
Trời chiếu hư không
Ánh sáng Thái tử
Vượt ngàn mặt trời
Mặt trời khuất sáng
Chẳng dám đương đầu.
Khắp cả đất trời
Như kiếp tận thiêu
Đất trời mờ tối
Như mới sáng sớm.
Các thần đều vui
Thần đất cổ vũ.
Ánh sáng mưa rơi
Thuốc lành cam lộ
No đủ tất cả
Dứt hết lo buồn,
Biển động như cười
Cây cối xào xạc
Sen xanh dưới ao
Như mở mắt nhìn
Các cây rải hoa
Để kính Thái tử.
Các chim liệng hót
Như tiếng tụng êm
Các trời ưa lành
Như hoa gặp trời
Đều soi mười phương
Ánh như sắc vàng.
Thần kỳ vui mừng
Hoa nở trái thời
Vàng bạc, chiên-đàn
Vụn như bụi trần
Ý trời tạo hoa
Tạnh không mây mưa
Ánh sáng soi chiếu
Cùng khắp mười phương.
Châu sáng, bốc lửa
Rồi chợt biến mất.
Mặt trời không chiếu
Những nơi đen tối
Nhưng bỗng sáng lòa
Tận ba đường ác.
Trí thánh sáng suốt
Tướng sáng dạy đời
Phạm thiên, thần thảy
Trong hoa lá sinh
Lòng Từ khiêm kính
Vừa tung rải hoa
Tay mầu hoa sen
Hai tay tiếp nâng
Hết lòng yêu kính
Mắt lành nhìn chăm,
Dùng âm thanh Phạm
Khen ngợi công đức
Đều tự nghiêng mình
Trán lễ chân Phật
Cúi đầu cung kính.
Trời đỉnh Tu-di
Hiệu gọi Bá từ
Tay cầm kim cang
Dùng ngàn mắt lành
Nhìn chăm không chán,
Hoa trời lọng trắng
Đủ thứ hoa báu
Sáng như mặt trăng
Che trên Thái tử
Khen công đức Ngài:
“Khổ nhọc nhiều kiếp
Dùng đại phương tiện
Đề cầu Phật đạo
Nguyện rủ lòng Từ
Chúng sinh đáng thương
Xin vì cuộc đời
Làm thầy không thỉnh.”
Bảy sao Bắc đẩu
Cũng được khen ngợi
Hiện bảy Giác ý
Tiêu bảy nhọc bẩn
Nên đi bảy bước
Như sư tử dậy
Dấu chân in rõ
Như bảy vì sao
Bước đi khoáng đạt
Không tâm nghi mạn
Thần đất cúi xuống
Tiếp đỡ bước chân.
Dùng mặt trời sáng
Chiếu khắp bốn phương
Hiện pháp bốn Đế
Như sư tử rống:
“Ta đến kiếp này
Thọ thân sau cùng
Không còn phải ở
Ngục tù bào thai.
Nay sẽ thành Phật
Đạo rất khó được
Dẫn dắt tất cả
Uống mật cam lộ.”
Cỏ mềm tốt đẹp
Các hoa nhiều mầu
Như trời nối kết
Trùm khắp mặt đất
Thí như Thiên vương
Ở ao trong mát
Như hoa cây vàng
Nhìn rất mầu nhiệm.
Chúng sinh năm đường
Chịu nhiều khổ sở
Đều được ngừng nghỉ
Thân an vui sướng,
Các kết trói buộc
Giam giữ rất bền
Bấy giờ các kết
Đều được giải thoát.
Khi ấy, tiếng lớn
Nghe khắp cõi Phật
Các trời, quỷ, thần
Vui mừng hớn hở
Liền bay lên không
Đến xem báu thánh.
Các trời đầy dẫy
Lấp kín không gian;
Con của rồng chúa
Như núi Tu-di
Mắt như trời, trăng
Rời khỏi biển khơi
Đầu đội lọng mây
Vội vã đến nơi
Rưới mưa nước thơm
Tắm gội Thái tử.
Thiên tử An Tường
Được trời, người đời
Cung kính thờ phụng
Làm cho thỏa nguyện
Tự hóa thân mình
Hiện thành bốn đầu
Cỡi trâu cầm lọng
Kính hầu Bồ-tát.
Đồng nam Thiên tử
Đầu đội mũ lông
Uy lực vời vợi
Hiệu Khổng Tước Tràng
Đội mũ mặc giáp
Vũ khí cầm tay
Làm Đại quân sư
Đại chúng đi theo
Ủng hộ Bồ-tát
Trong một do-diên.
Vua trời Đại lực
Tên Tỳ-sa-môn
Trân bảo đầy dẫy
Đức trùm khắp nơi.
Trời hai mươi tám
Thần và tướng quân
Các quân theo đến
Khí giáp chỉnh tề
Cùng ức quỷ, thần
Đến hầu Bồ-tát.
Lại có vua trời
Tên Tôn Tự Tại
Cùng với vô số
Hàng ức các trời
Tay cầm cờ phướn
Cùng đến nhóm họp
Đem tâm cung kính
Lễ chân Bồ-tát.
Diêm vương ác hại
Không có ai hơn
Đuổi theo chúng sinh
Dùng một pháp môn
Vất bỏ kiến chấp
Núi Thái, gậy ngục
Với tâm thương yêu
Đến lễ Bồ-tát.
Vô số các trời
Rồng, quỷ, thần vương
Trên trời Tịnh cư
Các trời thanh tịnh
Cung kính chắp tay
Như búp hoa sen
Cúi dâng cung kính
Khen ngợi thân Ngài
Hoa trời sắc vàng
Đài minh châu sáng
Hoa phù dung xanh
Thân lưu ly xanh
Làm thành hoa ý
Biết bao sắc mầu,
Chiên-đàn thơm ngát
Tung rải như mưa.
Thiên nữ trên không
Đến cùng họ hàng
Trổi kỹ nhạc trời
Ca ngợi công đức:
Xưa kia tu hành
Hằng ức gốc lành
Quả báo thành thục
Thấm nhuần chúng sinh.
Vui mừng trổi nhạc
Chư Thiên rải hoa
Thân phát ánh sáng
Rỡ rỡ ràng ràng
Các trời khen ngợi
Chúng sinh vui mừng.
Nhờ ân đức Phật
Trang nghiêm thế giới
Chim vàng, các rồng
Đều hòa hợp nhau,
Trời, A-tu-luân
Xóa bỏ oán hờn
Theo trăng Bạch Tịnh
Phát sáng trong lành
Khắp vì cõi thế
Diệt lửa ghét yêu.


Phẩm 5: PHẠM CHÍ XEM TƯỚNG

Ngay lúc bấy giờ
Các điều lành nhóm
Tai ương tiêu tan
Vui sướng vô cùng.
Vua nhân vui ấy
Ân xá, chúng dân
Vui mừng đến nhóm
Như các dòng trôi.
Như trời Đế Thích
Sinh con Cù-di,
Như trời An Tường
Sinh con đồng nam,
Như Tỳ-sa-môn
Sinh con Bảo bình
Bồ-tát xuất thế
Vua cũng vui mừng.
Thân Ngài mềm mại
Như trời mới sinh
Nhũ mẫu nuôi dưỡng
Như trẻ sơ sinh.
Mời các cựu đức
Người biết làm mẹ
Vây quanh ủng hộ
Chăm nom chẳng rời.
Quang minh chiếu sáng
Như Bậc Trung Tôn
Các mẹ vội vàng
Đến đền thờ trời
Muốn Ngài bái yết.
Hình tượng các trời
Tượng trời đứng lên
Co duỗi cao thấp;
Tượng trời bằng bùn
Bằng vàng, bằng đá
Chắp tay cúi đầu
Kính lễ Bồ-tát.
Các mẹ sợ hãi
Lòng đầy kinh ngạc
Vì điềm lành này
Hiệu Thiên Trung Thiên,
Chưa thấu sự thật
Thần đức Thái tử
Vì nỗi sợ này
Vội về cung tâu.
Vua Bạch Tịnh nghe
Kinh hoàng, sợ hãi
Liền mời Phạm chí.
Người giỏi xem tướng
Vâng lệnh đến nơi
Vua liền hỏi rằng:
“Thưa các minh sư,
Xem tướng con ta
Sợ rằng con này
Xúc phạm tượng trời
Xin dứt giùm tôi
Những nỗi ngờ vực.”
Phạm chí vui mừng
Thưa với vua rằng:
“Nay phải vui mừng
Không nên lo lắng
Vương tộc lại thịnh
Từ nay trở đi
Vua Thánh chuyển luân
Khắp đến bốn phương.
Theo quẻ xét xem:
Sinh từ hông phải
Chắc chắn tôn quý
Trí Thánh thông đạt
Đứng trên các vua
Như núi Tu-di
Đứng đầu các núi
Không có ai bằng,
Trong các thứ báu
Như ý đứng đầu
Trong các dòng trôi
Biển cả trên hết,
Trong các ánh sáng
Trời, trăng sáng nhất,
Nay Thái tử đây
Đứng trên các Thánh.
Xét các sách xưa:
Có vua Uy Nghi
Từ cánh tay sinh
Vua Luật bàn tay
Vua Tình Tư Lực
Sinh từ nách cha,
Còn vua Vãng Cổ
Sinh từ vế cha.
Vua Chi-đà-kiệt
Sinh từ đinh đầu,
Những vì vua này
Đều là Chuyển luân.
Nay xem điềm sáng
Tương ứng vua Thánh
Hóa độ trời, người
Dùng sức tuệ Thánh
Danh hiệu Phổ Văn
Trùm khắp mười phương,
Như vua Đại Thánh
Hiệu Chi-đà-kiệt
Kim luân, voi trắng
Ngọc nữ, ngựa tía
Tôi Thánh minh châu
Chúa binh bảy báu
Dạo cõi trời, người
Bốn thứ binh theo
Sẽ vì người, trời
Mở đường vô vi.
Sẽ có ngàn con
Tài lực mạnh mẽ
Sẽ dùng chánh pháp
Trị đời thái bình
Bỏ nhà xuất gia
Tiến cầu đạo thuật
Chắc chắn thành Phật,
Dùng tuệ hơn đời
Đè nén thế tục
Làm thầy các Thánh
Theo quẻ đoán ra
Chỉ hai đường ấy!”
Vua hiện dáng vui
Bảo Phạm chí rằng:
“Tổ tông đến nay
Vua Thánh đã dứt
Vua cha cũng không
Ngôi vua Chuyển luân
Con sẽ nhờ đâu
Tự làm vua Thánh!”
Tuy vua như thế
Phạm chí ngạc nhiên
Đều cùng cất tiếng
Giơ tay khen ngợi
Giống như rồng lớn
Tiếng sấm vang động
Ở trên điện vua
Mừng rỡ khen ngợi:
“Xin vua chớ ngờ
Không phải như vậy.
Cha con đức khác
Hạnh trước không đồng
Chỉ tại đời trước
Tu lập đức hạnh.
Sách quẻ mời xem
Vua nên đối chiếu
Thánh tiên thuở xưa
Hiền tài minh đạt
So sánh bốn câu
Như về phương thuốc
Đến Y-lâu-tha
Không thể đạt được
Con là Tiên hiền
Thông đạt hơn cha.
Thánh vương đời xưa
Sau không ai nối
Đến đời cháu xa
Mới có kẻ nối;
Cận Thánh cũng thế
Ngăn bờ sông biển
Người trước không thể
Như con người ấy
Di thuật như vậy.
Còn nhiều vô số
Tiên nhân thuở trước
Không thể đạt được
Cháu con về sau
Tài vượt hơn trước.
Việc do đức xưa
Chẳng phải do người.
Đời trước đã tu
Hợp với đức nay
Tuy thời nay trái
Người đức ở yên.
Xem xét quẻ này
Phù hợp điềm ứng
Chắc chắn ở đời
Làm vua Chuyển luân.”
Vua bảo các ông
Đại Phạm chí rằng:
“Nay vì Thái tử
Theo đức đăt tên!”
Phạm chí im lặng
Lòng nghĩ giây lát
Tuân lời từ tốn
Bạch với vua rằng:
“Xét nay vận thời
Lặng trong, hòa thuận
Chim lành liệng hót
Điềm ứng phát thanh,
Đất rung rộn ràng
Thời tiết điều hòa
Gió mưa đúng lúc
Đời được thái bình,
Lửa hiện sáng ngời
Trong suốt không khói.
Các trời trên không
Hiện thân chắp tay
Mưa các thứ hoa
Nhạc trời cùng tấu,
Vua giáo hóa khắp
Quốc phong thuần thục
Cõi nước của vua
Điềm lành đều đến
Đặt tên Thái tử
Hiệu là Cát Tài.
Lòng vua mừng rỡ
Ban thưởng Phạm chí
Bò sữa sừng vàng
Mấy trăm ngàn con.
Vua lại vui mừng
Xoa đầu Thái tử
Lấy chuỗi diệu bảo
Choàng quanh cổ con
Tâm Từ chắp tay
Khen đức con rằng:
“Trước làm vua Thánh
Sau mới xuất gia”.


Phẩm 6: A-DI PHÁ VỠ NGỜ VỰC

Núi cao, ao hoa trái
Vui sướng như cảnh trời
Ít núi nào bằng được
Nên gọi núi A-di.
Ở lâu nơi núi ấy
Già nua tóc kết kén
Hình thể phơi dưới nắng
Sống lâu hơn trăm tuổi,
Thân thể như mây đen
Tóc như màu bạc trắng
Mắt sáng ngời thấu lý
Hình như núi nhiều màu
Trí tuệ như Phạm thiên
Sáng như mặt trời, trăng
Bốn lửa, nhật thứ năm
Tự phơi tên A-di.
Chợt nghe tiếng vang vọng
Chim thú hót như nói
Ông hiểu tiếng chim thú
Hoài nghi ra khỏi động
Thấy chư Thiên đang bay
Vui mừng giữa không trung
Ngẩng đầu hỏi chư Thiên:
“Vì sao các vị vui?”
Vị trời tên Pháp Lạc
Đáp lời A-di rằng:
“Thầy chưa nghe hay sao?
Đời có điềm tốt lành
Vua Bạch Tịnh sinh con
Sẽ độ khắp chúng sinh
Chắc chắn thành Phật đạo
Làm Thầy của trời, người.”
Nghe danh hiệu của Phật
Hớn hở thân nổi ốc
Liền bay lên hư không
Xem đồng tử họ Thích,
Nhân đã thấy điềm ứng
Thần thông xét kỹ càng
Trong khoảng thời gian ngắn
Đã đến cửa cung vua.
Là bậc Thánh thông tuệ
Thông đạt, giới cấm cũ.
Vua đem lòng yêu kính
Mau chóng mời vào cung
Nhường ngồi chỗ Thượng tọa
Khiêm cung an ủi rằng:
“Rủ lòng thương đoái tưởng
Cúi mình vào nước hèn.”
A-di biết ý vua
Yêu kính, lễ nghĩa mình
Nhìn vua bằng mắt Từ
Khiêm cung kính trình tâu:
“Vua phải nên như vậy
Mến khách bằng thượng lễ.
Đại vương dùng pháp trị
Ban ân xuống quốc dân
Từ các vua đời trước
Bố thí nhiều các thứ
Của báu thật vô hạn
Giới, trí tuệ dồi dào.
Sở dĩ tôi đến đây
Có tâm vui mừng nghe
Nghe trời trên không nói:
“Vua sinh con thành Phật”
Tôi được nghe, vui mừng
Biết tốt lành nên đến
Cờ pháp rất đáng yêu
Xem giống dòng Thích-ca”.
Vua nghe nói lời ấy
Kinh ngạc lẫn vui mừng
Vội truyền đưa Thái tử
Đến để gặp A-di.
Ngài trên tay nhũ mẫu
Ánh quang minh sáng ngời.
Nhìn đức tướng Thái tử
Như con thiên hậu bồng
A-di không kềm được
Bèn đến trước Thái tử
Hai tay bồng trìu mến
Như mây che mặt trời.
A-di bồng trên tay
Bồ-tát thêm ngời sáng
Như trong khoảng núi tối
Lò nấu vàng đang sôi,
Mắt lành nhìn hồi lâu
Trong mắt lệ ứa trào
Thân Thái tử rực sáng
Như mây đen mưa rào.
Vua thấy A-di khóc
Trong tâm rất lo sợ
Sợ con không tốt lành
Nghi ngờ bảo A-di
Rằng: “Xin Ngài chỉ rõ
Hơi thở tôi sắp dứt
Nay thấy Ngài buồn khóc
Làm kinh hãi lòng tôi.
Được, không là mạng ta
Một sớm bỗng nhiên mất
Trước làm ta mừng rỡ
Sau sao để âu lo?
Cuối đời được con ấy
Như khát lâu được nước
Xin đừng làm ta oán
Đừng khiến ta đương đầu
Ta mới sinh ý nghĩ:
Được con, dù không còn
Còn con ta tại thế
Thì ta chẳng lo buồn.
Con ta dòng cây quý
Giáng sinh nơi cung báu
Lòng thành mách ta biết
Đem tình thương con mình”.
Mặt đầy như trăng tròn
A-di nhìn Ngài kỹ
Mi mắt ánh xanh biếc
Lưỡi như cánh hoa sen
Tóc tơ màu xanh biếc
Che vầng trán rộng cao
Hai má như sư tử
Cằm đầy đặn làm sao!
Tay dài, vai sư tử
Bàn tay bánh ngàn căm,
Lần lượt xem xong tướng
Từ đỉnh đầu đến chân
Thầy hết lòng yêu kính
Cúi đầu lễ Thái tử
Lệ tuôn như mưa rơi
Lòng thảm não tâu vua:
“Thái tử có đầy đủ
Ba mươi hai tướng tốt
Chắc chắn sẽ thành Phật
Đem lành cho nhân thế!”
Các trời nghe lời này
Từ không tung rải hoa
Đồng thanh khen “Hay lắm!”
Vua bảo A-di rằng:
“Thầy trước dựa quẻ đoán
Là thành vua Chuyển luân
Nay Thánh sư xem tướng
Lại nói sẽ thành Phật”.
Lời vua như đổ dầu
Lửa càng thêm cháy mạnh
Miệng A-di nói mau
Nói ra lời quyết định
Rằng: “Tôi xem tướng Ngài
Dáng đẹp, ý diệt dục
Hiện thân độ chúng sinh.
Với dung mạo của Phật
Nếu như không trung mưa
Lớn như núi Kim cang
Không động sợi lông Ngài
Huống gì gian nan khác.
Các lực sĩ thế gian
Các quỷ thần tệ hại
Và vua A-tu-la
Cả quan, quân thuộc hạ
Đều cầm chày Kim cang
Lớn như núi Tu-di
Đến muốn đánh Thái tử
Chày đập tan núi hết
Thái tử không lay chuyển
Phải hiểu biết như thế.
Tôi không lo việc này
Còn vui mừng là khác
Tôi thương mình, lệ rơi
Gặp Phật mà luống qua,
Tuyên ban tuệ sáng ngời
Thông ngàn lời nghĩa sáng
Phật nhân đó hiển bày
Riêng tôi không cảm được.
Đứng trong vô vi không
Diệt độ như trăng trong
Đời nhờ mát trừ nóng
Riêng tôi sẽ cháy lòng.
Phật thường cầm chày tuệ
Kim cang đập trần lao
Sẽ có thuốc cam lộ
Riêng tôi chẳng được nếm.
Phật như ngựa biển chúa
Cứu người dạt biển khơi
Riêng tôi lùi lại sau
Quỷ dâm nuốt trôi mất.
Tất cả nước trí tuệ
Các trùng ý lành đủ
Dòng sông trí tuệ trôi
Tất cả uống hết khát,
Các lành là gốc rễ
Cành nhẫn, lá ý dừng
Hoa chính là giác ý
Thành quả ngọt Nê-hoàn,
Thiền giải thoát chúng sinh
Hương giới ngát cõi đời
Cây Phật sẽ lớn lên
Tôi bạc phước không thấy.
Cửa ngu si rất chắc
Ải ái ân vững bền
Dùng chìa khóa pháp mở
Cửa nhà tù tử sinh,
Cả thế gian bốc cháy
Do lửa dâm, nộ, si
Dùng nước pháp dập tắt
Như mây, mưa, lửa đồng,
Đem tiếng còi tâm Bi
Mười phương động vang rền
Sẽ thí sửa pháp lành
Trời, người uống không chán.
Lưới giăng khắp cõi thế
Căn bệnh nặng trần lao
Dùng thuốc pháp tối thắng
Để trị bệnh chúng sinh.
Vực biển lớn của Phật
Bãi báu của các Phật
Độ người buôn sinh tử
Đem báu cho họ đầy.
Hạt cải sánh Tu-di
Vũng chân trâu so biển
Lửa đóm tranh mặt trời
Vua Chuyển luân so Phật,
Thông đạt hơn Phạm thiên
Giác tuệ vượt Đế Thích
Tướng tịnh hơn Phạm chí.
Truyện vua xưa sách đời
Tiên Thánh đại sư xưa
Học sâu, chán cúng tế
Nếu nghe Phật giáo hóa
Vội bỏ chỗ tu trì
Bình tắm, gậy, bện tóc
Bỏ các oai nghi xưa
Tâm cống cao liền xả
Ngán ngẫm lễ đã tu.
Ôi! Ngục tù già suy
Khiến ta không kịp người
Ta đã được năm thông
Nay không thể gặp hầu
Giờ ta muốn đốt sáng
Định tuệ soi thế gian
Nay ta sắp rũ diệt
Thì sao mà chẳng buồn!”
Liền gọi đệ tử đến:
“Ngươi chớ lầm như ta!”
Đem trao Thái tử lại
A-di từ giã về.


Phẩm 7: NHẬP DỰ LUẬN

Khi ấy Thích vương
Đức ngày một tăng
Báu đầy đất nước
Vang danh trí tuệ
Vàng báu chứa nhóm
Các thứ Anh lạc
Các lành trở về
Như vực biển thu,
Voi ngựa xe cộ
Như xa giá trời
Hiền thiện thuần tốt
Tự nhiên đến nơi,
Mía ngọt, đường phèn
Bơ, sữa, nước uống,
Lương thực, ngũ cốc
Khí lực thêm lên.
Tai ương trừ hết
Kẻ thù khuất phục
Thân thuộc thêm kính
Đói, dịch tan biến
Gió mát điều hòa
Mưa thuận thấm nhuần
Không trung quang đãng
Tốt đẹp đầy dẫy
Khắp toàn đất nước
Ích lợi tốt tươi
Các lành nhóm họp
Không lành tan biến
Nhờ đức Thái tử
Hòa hợp tạo thành.
Do hòa hợp đó
Vang danh khắp nơi
Các căn đầy đủ
Tướng tốt dễ nhìn
Như trăng mới mọc
Mười lăm ngày qua.
Các vua, trưởng giả
Đều đến cống dâng
Nai vàng, giá ngự
Xe dê, chiên-đàn
Ngà voi, vàng bạc
Các báu hợp thành
Đủ trân báu quý,
Ngựa giỏi, voi tài
Đồng tử kéo chơi
Vui vẻ cười đùa
Nhạn bằng bạc trắng
Mỏ bằng san hô
Theo tuổi ngài lớn
Cống nạp cho vua
Bộ cờ vàng báu
Để dâng Thái tử.
Ngài tuổi còn nhỏ
Xử sự hơn người
Nhẫn nhục hơn đất
Nặng vượt Tu-di
Sâu xa như biển
Ý trùm hư không.
Qua thời thơ ấu
Sang tuổi tráng niên
Theo đời học tập
Mọi ngành kỹ thuật.
Thái tử học giỏi
Không phải nhọc nhằn
Năm lên mười sáu
Thể hình mạnh khỏe
Văn võ đầy đủ
Nghề vượt vương tôn.
Vua thấy Thái tử
Đức ngày khá lạ
Mạnh trong anh em
Như sư tử hùng,
Vua chợt nhớ lại
Lời của A-di
Làm sao đừng khiến
Bỏ đức lớn này
Vào núi chịu khổ
Tinh tấn học đạo.
Tâm liền nghi hoặc
Vời các quan bàn
Tìm cách khiến con
Không vào núi tu.
Các quan vâng sắc
Như tôi thiên đế
Vâng lệnh vua triệu
Nghĩ kế trình bày
Suy nghĩ giây lát
Cung kính tâu rằng:
“Vâng chiếu chỉ vua
Thái tử khó lưu!
Biển có thể vượt
Nhật có thể tối
Trăng có thể mát
Nguyện Ngài khó sai!
Xin thưa đại vương
Nên nghĩ tìm cách
Nếu như tìm cách
Việc khắc phục ngay.
Giả như không được
Không ân hận gì
Việc rời phương tiện
Thì khó làm nên.
Nghe lời người xưa
Nuốt khí nuôi thân
Thân khổ nhọc mãi
Còn da bọc xương,
Nặng như núi Thái
Bị gió dục thổi
Ái, nhuế chao đảo
Như gió thổi cây
Làm đẹp nhà cửa
Sắc, thanh, hương, vị…
Hoa hương trang sức
Dáng như Tiên nữ
Niềm vui bậc nhất
Mê say nữ lạc.
Năm dục còn làm
Mê hoặc Tiên sĩ
Ôi! Sắc, thanh, hương
Vị, xúc êm ái
Tâm đã vui mừng
Năm tình tham đắm
Dục là ngục tù
Lưới lớn bền chắc
Ràng buộc con vua
Mới không lo lắng!”
Vua tin điều này
Liền vời gái đẹp
Từ mười lăm tuổi
Dung mạo đẹp đẽ
Sáu mươi bốn điều
Tư thái đầy đủ
Đem số cô gái
Sung cung Thái tử.
Ngài tịnh tu lâu
Cầm giáo hổ thẹn
Giữa các thể nữ
Như trăng giữa sao
Thu hết ánh sáng
Chẳng ưa năm dục
Miệng không hề nói
Lời không thuận lúc
Mắt không thích thấy sắc
Như người đói vẫn vui.
Các kỹ nữ xấu hổ
Như tối tránh sáng ngời.
Vua cha nghe như vậy
Chẳng ngủ yên trên giường
Lại ra lệnh trong nước
Những người tướng đẹp sang
Ai có con gái đẹp
Phải nhóm họp về cung
Nếu ai trái kỳ hạn
Thì trách phạt thật nặng.
Lập xong nghiêm hạn đó
Lấy ra nhiều Anh lạc
Cho họ lấy tùy ý,
Vào cung làm thể nữ
Đủ các thứ trang sức
Để dạo xem ao vườn
Vô số cô gái đến
Đều được ban Anh lạc.
Đức Ngài như mặt trời
Mắt không hề nhìn đến
Tự giữ ý so lường
Không bao giờ nhiễm ô.
Thích nữ dòng Chấp trượng
Dung mạo như Thiên nữ
Tâm nhẫn nhục như đất
Mặt sáng như trăng tròn
Con cháu vua thánh xưa
Tương ứng ngọc nữ báu,
Đức rộng trùm thiên hạ
Dứt lo như nhạc trời
Mang nặng có trí tuệ
Tướng đẹp dung mạo ngời
Danh xưng là bậc nhất
Cho nên hiệu Hàng Xưng.
Mắt như cánh sen biếc
Tay cầm hoa Ba-đàm
Hai tay bưng hoa đẹp
Vui mừng đến chỗ mẹ
Chỉ mẹ thấy trang sức
Ý muốn vào cung xem
Muốn được gặp Thái tử
Tâm tự nhiên luyến mến.
Mẹ liền bảo cô gái:
Rằng: “Thà chịu vua trách
Không bao giờ cho đi!”
Quyết xin mẹ cho đi
Thưa với cha mẹ rồi
Liền được phép ra đi.
Dáng khiêm cung yêu kính
Giã từ cha mẹ rồi
Cùng người hầu sang đó
Như sông Hằng ra khơi
Đã vào trong cung vua
Từ xa thấy Thái tử
Năm trăm đời quá khứ
Từng làm vợ Thái tử
Nơi nàng đã sinh ra
Bậc nhất trong người nữ
Đời trước duyên đã định
Nên nhìn chăm Thái tử
Dáng vui mừng hiện rõ
Như hoa sen trên nước
Bước đi nhẹ, khoan thai
Vắng lặng không tiếng động
Giống như các dòng chảy
Vào biển thì lặng im.
Trong chúng có cô gái
Làm hai bài tụng khen
Âm vận rất hòa hợp
Hợp lúc, thuận cảnh tình
Rằng: “Cô gái đẹp đến
Tay cầm hoa sen xanh
Nhớ hạnh lành đời trước
Nhờ hình tướng nhớ lại
Quá khứ dâng danh hoa
Cúng dường Phật Định Quang
Cầm hoa đẹp khác thường
Giống như trời Đao-lợi.”
Bồ-tát bỗng nghe được
Danh hiệu Phật Định Quang
Trong tâm liền kinh động
Đưa mắt nhìn khắp cùng
Rồi liền lên tiếng bảo:
“Đưa hoa trong tay đây!”
Được lời, nàng hớn hở
Như uống thuốc cam lộ.
Theo lời liền dâng hoa
Lên cúng dường Bồ-tát
Hầu bên trái Bồ-tát
Như sao sáng bên trăng.
Thái tử thấy chuỗi ngọc
Không hợp trang phục nàng
Liền cởi chuỗi ngọc sáng
Đeo vào cổ mỹ nhân.
Bấy giờ chuỗi ngọc sáng
Trang sức dáng mỹ nhân
Đẹp đẽ không gì sánh
Châu sáng thêm sáng ngần
Giống như trời Đế Thích
Ở nơi điện tía xanh
Cũng như ngày mười lăm
Các sao vây quanh trăng.
Cả cung đều vui mừng
Đều cùng nhau cất tiếng
Bảo rằng: “Thật được phi!
Ai cũng đều vui mừng!”
Tiếng xưng tụng như vậy
Giây lát đến tai vua
Vua nghe rất vui mừng
Ban thêm vật trân báu.
Vua liền ra lệnh
Cha mẹ nàng vào
Ban cho trân báu
Không thể tính kể,
Vời Phạm chí giỏi
Chọn tháng ngày lành
Sửa đường rải hương
Hoa đèn kết quanh
Dùng dầu thần chú
Lửa thần dồi dào
Rửa tay Thái tử.
Cha mẹ trao nàng
Làm phi Thái tử
Nữ nhân bậc nhất
Ở bên Thái tử
Như trời, trăng sao.