PHẬT THUYẾT PHÁP TẬP KINH

Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 1

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Bà-già-bà an tọa trên đài Diệu bảo nơi lầu gác thù thắng, thuộc pháp giới sai biệt trong hư không giới. Những nơi đó đều thanh tịnh, đẹp đẽ. Do phước trí trang nghiêm như ý của Phật hóa hiện, vượt ngoài sự tính toán, suy lường, ví dụ của pháp hữu vi trong ba cõi, do phước báo của chư Phật, Như Lai hóa hiện, cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo những vị chứng đắc Ala-hán, đạt bốn Vô ngại giải thoát; các Đại Bồ-tát, những người thanh tịnh, đạt cảnh giới của Tam-muội Thường vô thường, quán hành xứ của trí Nhất thiết trí, đạt pháp giới giải thoát vô trung, vô biên, đầy đủ các hạnh nguyện, sức tự tại của Bồ-tát, trang nghiêm bằng mười công đức cùng tận, đủ tất cả Tam-muội, Đà-la-ni của Bồtát, bốn Trí vô ngại và tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, Khẩn-na-la, A-tu-la, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già oai đức rộng lớn, các vị Thiên chủ Thích Đề-hoàn nhân, Phạm thiên, Tứ thiên vương cùng trăm ngàn quyến thuộc.

Khi ấy, Phật thuyết kinh Nhập Nhất Thiết Tu Hành Thứ Đệ Pháp Môn (Thâm Nhập Thứ Tự Của Pháp Môn Tu Hành). Đó là người thấy các bậc Hiền thánh phát lòng tin, đạt lòng tin thì thành tựu ý nguyện. Người đạt pháp thiện như ý thì thành tựu tâm bất đoạn. Người đạt tâm bất đoạn thì thành tựu tâm nghĩa. Người đạt tâm nghĩa thì thành tựu tâm tăng thượng. Người Bố thí ba-la-mật thì được giàu có. Người tu Giới ba-la-mật thì thành tựu quả báo nơi cõi trời, người. Người tu Nhẫn nhục ba-la-mật thì được mọi sự thanh tịnh. Người tu Tinh tấn ba-la-mật thì được tất cả pháp Phật. Người tu Thiền ba-la-mật thì điều phục được tâm. Người tu Trí ba-la-mật thì vượt khỏi thế gian. Người tu Phương tiện ba-la-mật thì được phương tiện vô ngại. Người tu Nguyện ba-la-mật thì được mọi sự như ý. Người tu Lực ba-la-mật thì không gì có thể hủy hoại. Người tu Trí ba-la-mật thì làm nơi nương tựa cho thế gian. Người xuất gia là mong thành tựu Thánh đạo. Mặc áo hoại sắc là xa lìa mọi việc thế gian. Khất thực là để trừ bỏ tâm kiêu mạn. Sống nơi vắng lặng thì được vô úy. Nhập định thì thành tựu vô lượng thần thông. Nghe pháp thực hành thì được bốn Vô ngại. Tu niệm phương tiện thì thành tựu Đà-la-ni. Tu ý phương tiện thì được pháp trí sai biệt. Tu hành kiên cố thì ở trong đại chúng không lo sợ. Tu thích giảng thuyết phương tiện thì nói năng không nhầm. Tu ấm phương tiện thì được trí sai biệt. Tu giới phương tiện thì được trí sai biệt vi tế. Tu nhập phương tiện thì trong ngoài tâm không mê hoặc. Tu đế phương tiện thì không dối gạt chúng sinh. Tu niệm xứ phương tiện thì thuận theo mọi ý Phật. Tu chỉ phương tiện thì được tâm tịch tĩnh. Tu quán phương tiện thì điều phục được tâm. Tu tâm không cao ngạo thì thành tựu hoàn toàn Nhất thiết trí. Tu tâm không kiêu mạn thì đạt được kính tín. Tu không đối chúng sinh thì được mọi người tin. Tu trí kiên cố thì đủ các hạnh trời, người. Thực hành pháp thì đầy đủ các pháp của Thiện tri thức. Tự suy xét thì tự nhiên giác ngộ, hàng phục tâm thì được thật nghĩa của Pháp vương. Không tiếc thân mạng để tu tập thì được thân Phật. Tâm luôn kính Tam bảo thì được trí lực vô ngại. Thực hành phương tiện thiện xảo thì được trí lực, nghiệp báo. Không hủy phạm trí người thì được trí lực hiểu các căn lợi, độn. Tu trí hiểu rõ nhân duyên vi tế thì được trí lực hiểu các loại. Dựa theo Tam bảo giáo hóa chúng sinh thì được trí lực tín dục, dù ở đâu cũng không mất uy nghi. Bình đẳng thuyết pháp cho chúng sinh thì được trí lực truyền đạo khắp mọi nơi. Giáo hóa chúng sinh tu thiền thì được trí lực Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, biết rõ nhơ, sạch. Thực hành chánh đạo và giảng thuyết cho chúng sinh tà kiến thì được trí lực Thiên nhãn. Làm cho chúng sinh được chánh niệm thì được trí lực túc mạng. Chúng sinh được pháp bạch tịnh thì được trí lực lậu tận. Nghe hiểu giáo pháp, chỉ dạy chúng sinh thì ở trong chúng có oai đức không lo sợ.

Lúc Phật thuyết giảng kinh Nhập Nhất Thiết Tu Hành Thứ Đệ Pháp Môn này, trong đại chúng có hai vị Bồ-tát tên Vô Sở Phát và Phấn Tấn Tuệ cùng quyến thuộc ngồi trên lầu báu khác. Hai vị tự nghĩ: “Chúng ta nên thuyết pháp rộng lớn cho các Đại Bồ-tát.” Sau đó Bồ-tát Phấn Tấn Tuệ hỏi Đại Bồ-tát Vô Sở Phát:

–Thiện nam! Làm sao các Đại Bồ-tát biết được sự ra đời, thân chân thật, nhân duyên thành tựu quả Phật, sự thường trụ đích thực, sự nhập Niết-bàn, các hạnh của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri? Làm sao các Đại Bồ-tát biết được pháp thí dụ tương ưng, có bao nhiêu Đức Phật, chư Phật. Như Lai dựa nơi ngôn từ để thuyết pháp, nghĩa không, sự rỗng lặng của đối pháp, giảng thuyết tánh không, thật nghĩa của Pháp sư, ví dụ tương ưng của Pháp sư, pháp bất cộng trú, sự ứng hóa, quả báo thắng diệu do căn lành? Thiện nam! Làm sao các Đại Bồ-tát biết do căn lành vô lậu đạt được quả báo thù thắng?

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Sở Phát đáp lời Bồ-tát Phấn Tấn Tuệ rằng:

–Thiện nam! Ông thật khéo nêu hỏi những pháp thâm diệu này. Thiện nam! Đây pháp môn tập hợp các pháp rất quảng đại thù thắng. Thiện nam! Ông hãy lắng nghe! Tôi sẽ nương nơi thần lực của Phật mà thuyết giảng. Thế nào là pháp môn tập hợp các pháp quảng đại?

Thiện nam! Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được sự ra đời của Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Mười pháp ấy là gì?

Đó là:

  1. Do xa lìa tâm phân biệt nên sinh ra.
  2. Chuyển hết thảy thân của tâm, ý, ý thức nên được tịch tĩnh.
  3. Vì tất cả sự sinh diệt mà thị hiện sinh diệt.
  4. Theo hạnh quá khứ mà thực hành quả báo.
  5. Đạt chỗ vô chướng ngại nơi các tập nghiệp trong pháp giới mà tạo nghiệp.
  6. Nhờ đặt mười đại nguyện lên trên nên đầy đủ sự trang nghiêm trong trăm vạn a-tăng-kỳ kiếp.
  7. Được sự gia hộ của chư Phật, Như Lai nên nói là chư Phật gia hộ.
  8. Vì giáo hóa tất cả chúng sinh có căn lành nên tạo các nghiệp.
  9. Do sức Từ bi mà tạo phương tiện giáo hóa chúng sinh, luôn hộ trì, cổ động tâm tánh chúng sinh có căn lành nên được tâm sâu xa.
  10. Tùy tâm hạnh sai khác của chúng sinh nên hiện các loại thân.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được sự hiện sinh của Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được thân chân thật của Như Lai. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Lấy chân thật làm thể vì nó thanh tịnh, không nhơ.
  2. Lấy pháp giới làm thể vì không sai biệt.
  3. Lấy thật tế làm thể vì nó là cùng khắp.
  4. Lấy Không, Vô tướng, Vô nguyện làm thể vì chân thật, tịch tĩnh.
  5. Lấy huyễn hóa, sóng nắng, tiếng vang, trăng trong nước, thành ảo, vòng lửa quay làm thể vì theo nhân duyên huyễn hóa mà có.
  6. Lấy bất sinh diệt làm thể vì không có vật thật.
  7. Lấy tự tánh của các pháp làm thể vì tự tánh trong suốt.
  8. Quá khứ không đến vì không gián đoạn.
  9. Vị lai không đi vì không hình dáng.
  10. Hiện tại không dừng vì quá khứ, vị lai không có.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết thân chân thật của chư Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được nhân duyên vị tha mà thành đạo của Như Lai. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Do chủng tử không phóng dật nên thành tựu quả nơi pháp thiện.
  2. Do có trí tuệ phương tiện nên không lỗi lầm.
  3. Nhờ đầy đủ Giới ba-la-mật nên đi đứng tự tại.
  4. Vì mạng căn bằng tâm Bồ-đề nên không chết.
  5. Dùng chỉ, quán làm tay nên tạo nghiệp tốt đẹp.
  6. Tin nghiệp quả làm mắt nên được trí tuệ hiện tiền.
  7. Do tu hành thành tựu tất cả Ba-la-mật nên ở nơi vô thượng.
  8. Nhờ hành bốn Nhiếp pháp nên tu tập kiên cố.
  9. Nhờ tu không tuệ nên không phân biệt.
  10. Do tu hành không mỏi mệt, không lo sợ nên không bỏ chúng sinh mà làm tất cả sự việc.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được nhân duyên vị tha mà thành đạo của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được sự thường trụ chân thật của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Vì không còn lỗi sân hận nên không nắm giữ ngã, ngã sở.
  2. Thường là chỗ dựa cho chúng sinh làm pháp lành nên giống như lương y.
  3. Do đầy đủ nguyện thiện của quá khứ nên đạt sự không lui sụt.
  4. Do Từ bi với chúng sinh nên khéo tạo nghiệp.
  5. Vì lòng vị tha nên đem lại lợi ích cho chúng sinh.
  6. Quên lợi ích của mình nên chịu khổ thay cho chúng sinh.
  7. Không có tâm phân biệt nên xem tướng Niết-bàn, thế gian giống nhau.
  8. Làm việc không mệt mỏi nên thành tựu mọi sự.
  9. Không còn tâm mong cầu nên không có thân xương thịt.
  10. Không có tướng chướng ngại nên thị hiện Niết-bàn khắp mọi nơi.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được sự thường trụ chân thật của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được sự nhập diệt của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Mười pháp ấy là gì?

Đó là:

  1. Xa lìa hết phiền não chướng, sở tri chướng.
  2. Biết được ngã không, pháp không, tất cả đều vô ngã.
  3. Được Pháp thân do chuyển ý sinh.
  4. Đối với tất cả chúng sinh làm mọi Phật sự tự nhiên không dừng dứt, đầy đủ trí tuệ.
  5. Được tất cả Pháp thân không sai biệt của chư Phật.
  6. Không còn hai tâm thế gian, Niết-bàn.
  7. Làm thanh tịnh các pháp căn bản.
  8. Được trí bất sinh diệt do tu các pháp.
  9. Được trí thật tế bình đẳng do các pháp chân thật.
  10. Được trí bình đẳng về tánh của các pháp và tánh Niếtbàn.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được sự nhập diệt của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được chứng đắc Đại Niết-bàn của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Tất cả phiền não đều do nhân mong cầu mà có. Chư Phật không mong cầu nên xa lìa phiền não, do xa lìa phiền não nên chứng đắc Niết-bàn.
  2. Vì không mong cầu nên nói Như Lai không giữ một pháp nào, không nắm giữ là không đi, không ở, vì không nắm giữ nên chứng đắc Niết-bàn.
  3. Vì sao Như Lai không đi và không trụ? Vì bỏ hai pháp đó nên Pháp thân không hoại diệt, vì không sinh diệt nên chứng đắc Niết-bàn.
  4. Vì sao Như Lai không sinh diệt? Vì không thể nêu bày về chư Phật, Như Lai, vì không nêu bày được nên nói Như Lai chứng đắc Niết-bàn.
  5. Không có ngã, chúng sinh, tất cả chỉ là pháp sinh diệt, không có pháp để nương tựa nên chứng đắc Niết-bàn.
  6. Tất cả các phiền não, tùy phiền não đều là khách trần, pháp tánh thì tịch tĩnh không đến đi, vì vậy pháp tánh chẳng phải khách, chẳng phải chủ, pháp tánh bình đẳng nên Như Lai chứng đắc Niếtbàn.
  7. Lấy chân như làm thật thể, nếu không phải giúp chân như thì đều là hư vọng, thật thể là chân như, chân như là Như Lai nên Như Lai mới gọi là chứng đắc Niết-bàn.
  8. Thật tế thì không hý luận, các pháp khác đều là hý luận, chư Phật Như Lai đạt được thật tế rốt ráo nên Như Lai mới gọi là chứng đắc Niết-bàn.
  9. Không sinh là thật, pháp sinh diệt khác là lời điên đảo hư vọng, dối gạt. Đức Phật không nói lời giả dối, từ bỏ hư vọng, lấy chân thật làm thể nên Như Lai mới gọi là chứng đắc Niết-bàn.
  10. Không có pháp thật nào có thể làm hay không làm, Như Lai là Pháp thân chân thật, thân là vô vi nên Như Lai mới gọi là chứng đắc Niết-bàn.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được sự chứng đắc Đại Bát-niết-bàn của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được sự nhập diệt của chư Phật, Như Lai. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Bố thí và quả báo của bố thí không có ngã, ngã sở; Như Lai khéo biết bố thí và quả báo của bố thí nên xa lìa tâm phân biệt, điên đảo, do đó Như Lai mới gọi là chứng đắc Niết-bàn.
  2. Trì giới và quả báo của trì giới không có ngã, ngã sở; Như Lai khéo biết trì giới và quả báo của trì giới nên xa lìa tâm phân biệt điên đảo, do đó Như Lai mới gọi là chứng đắc Niết-bàn.
  3. Nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục không có ngã, ngã sở; Như Lai khéo biết nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục nên xa lìa tâm phân biệt điên đảo, do đó Như Lai mới gọi là chứng đắc Niếtbàn.
  4. Tinh tấn và quả báo của tinh tấn không có ngã, ngã sở; Như Lai khéo biết tinh tấn và quả báo của tinh tấn, nên xa lìa tâm phân biệt điên đảo, do đó Như Lai mới gọi là chứng đắc Niết-bàn.
  5. Thiền định và quả báo của thiền định không có ngã, ngã sở; Như Lai khéo biết thiền định và quả báo của thiền định nên xa lìa tâm phân biệt điên đảo, do đó Như Lai mới gọi là chứng đắc Niếtbàn.
  6. Trí tuệ và quả báo của trí tuệ không có ngã, ngã sở; Như Lai khéo biết trí tuệ và quả báo của trí tuệ nên xa lìa tâm phân biệt điên đảo, do đó Như Lai mới gọi là chứng đắc Niết-bàn.
  7. Tất cả chúng sinh không phải là chúng sinh, tất cả các pháp đều không có ngã; Như Lai xa lìa tất cả các tướng điên đảo và xa lìa tất cả pháp tướng điên đảo, nên Như Lai mới gọi là chứng đắc Niếtbàn.
  8. Có ngã tướng thì có mong cầu, có mong cầu thì có phiền não nhiễm ô, bỏ ngã tướng thì không mong cầu, không mong cầu thì không phiền não nhiễm ô, vì xa lìa phiền não nhiễm ô, nên Như Lai mới gọi là chứng đắc Niết-bàn.
  9. Pháp hữu vi thì suy lường được, pháp vô vi thì không thể suy lường; Như Lai đã xa lìa pháp hữu vi, vô vi, chỉ có Pháp thân vô vi không thể hạn lượng, nên Như Lai mới gọi là chứng đắc Niếtbàn.
  10. Nếu rời bỏ sự rỗng lặng thì Như Lai không thấy chúng sinh và pháp. Sự rỗng lặng tức là pháp, pháp tức là Pháp thân, Pháp thân tức là Như Lai, nên Như Lai mới gọi là chứng đắc Niếtbàn.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được sự Đại Bát-niết-bàn của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được các hạnh của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Giữ gìn pháp là giữ gìn pháp thiện thanh tịnh.
  2. Giữ gìn chúng sinh là giữ gìn đầy đủ ý nguyện.
  3. Không có hai tướng tự lợi, lợi tha, vì cùng hành sự.
  4. Như ngọc ma-ni không có phân biệt. Vì không phân biệt pháp giới thanh tịnh nên được an ổn.
  5. Chấm dứt mọi sự ràng buộc đau khổ nên được nơi không sợ hãi.
  6. Vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não, oan gia nên ở trong đại chúng luôn có oai đức, không hề sợ sệt.
  7. Không nghi ngờ chánh pháp nên hàng phục được chướng ma.
  8. Đạt tâm bình đẳng với chúng sinh nên hiện vô số trăm ngàn vạn ức hóa thân.
  9. Được đầy đủ thần thông thanh tịnh nên khéo léo thị hiện các hình sắc.
  10. Không gì ngăn ngại là vì được hoàn toàn thanh tịnh như hư không.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được hạnh của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được các hạnh của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

1. Như Lai không nghĩ: Các pháp thế gian có nhiều tội lỗi, Niết-bàn tịch tĩnh thì vô lượng công đức. Như Lai đạt tâm bình đẳng về thế gian và Niết-bàn, không trụ ở thế gian và Niết-bàn vì luôn làm lợi ích cho chúng sinh.

2. Thiện nam! Như Lai không nghĩ: Ta có thể giáo hóa chúng sinh với trí tuệ điên đảo, đầy dẫy phiền não, tùy phiền não nhiễm ô. Như Lai nương hạng nguyện từ quá khứ, tùy theo căn tánh, tín tâm của chúng sinh, không phân biệt các hành nên tự nhiên thành tựu.

Thiện nam! Như Lai không nghĩ: Ta đã giảng thuyết về Tu-đala như thế, Kỳ-dạ như thế, Hòa-già-la-na như thế, Già-đà như thế, Ưu-đà-na như thế, Ni-đà-na như thế, Y-đế-việt-đa-già như thế, Xà- đà-già như thế, Tỳ-phật-lược như thế.

3. Thiện nam! Như Lai không nghĩ: Ta đã thuyết giảng A-phùđà-đạt-ma, Như Lai không phân biệt, chúng sinh tùy theo pháp được nghe nên thành tựu.

4. Thiện nam! Như Lai không nghĩ: Ta vào thành ấp, xóm làng, đất nước lớn nhỏ khất thực, ta đến những nơi của dòng họ Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, quốc vương, vương tử, đại thần, muôn dân, Như Lai lấy trí tuệ làm gốc nên ba nghiệp về thân, khẩu, ý tự nhiên thành tựu.

5. Thiện nam! Như Lai không có đói khát, đại tiểu tiện, thân không bệnh khổ, ốm đau, nhưng vì chúng sinh nên thị hiện khất thực, chúng sinh lại cho rằng Như Lai ăn, kỳ thật Như Lai không ăn, thị hiện việc giáo hóa chúng sinh nhưng không phân biệt, nên tự nhiên thành tựu.

6. Thiện nam! Như Lai không nghĩ: Chúng sinh này có căn tánh thượng, trung, hạ, ta tùy thuận những chúng sinh ấy mà thuyết pháp có thượng, trung, hạ, vì không có tâm phân biệt, nên thuyết pháp tự nhiên thành tựu, không thêm bớt, tùy sự lãnh thọ của chúng sinh.

7. Thiện nam! Như Lai không nghĩ: Ta sẽ không giáo hóa các chúng sinh không cúng dường cung kính, hủy nhục ta; ta sẽ giáo hóa chúng sinh cúng dường cung kính, tán thán, cung phụng ta, vì Tammuội thanh tịnh và lòng Từ bi che chở chúng sinh nên tự nhiên trụ trong pháp bình đẳng.

8. Thiện nam! Như Lai không có tâm cao thấp, kiêu mạn, ái, tham, hận, tùy tham, chấp trước, chướng ngại, tán loạn, phiền não, sân, si, tùy sân, tùy si. Như Lai tự tịch tĩnh, tịch tĩnh nơi cảnh giới, trụ trong cảnh giới, trụ trong cảnh giới được khen là tịch tĩnh.

9. Thiện nam! Không có một pháp nào mà Như Lai không biết, không hiểu, không giác ngộ, biết hết tất cả các cảnh giới hiện tiền. Như Lai thấy mọi việc đó, thấy chúng sinh tạo nghiệp nên tự nhiên thành tựu.

10. Thiện nam! Thấy chúng sinh tu hành thành tựu, Như Lai không vui và cũng chẳng buồn khi thấy chúng sinh không tu hành. Như Lai biết chúng sinh tu hành chân chánh không làm chướng ngại tâm đại Bi hiện tiền, chúng sinh tu hành tà hạnh cũng không làm chướng ngại tâm đại Bi hiện tiền.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được các hạnh của Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được ví dụ tương ưng của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Mười pháp ấy là gì?

1. Thiện nam! Ví như mặt trời mọc thì đối với chúng sinh bậc thượng, trung, hạ, tin không tin, cung kính, không cung kính, nó đều mọc lên và chiếu sáng một cách bình đẳng. Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cũng vậy, đối với chúng sinh bậc thượng, trung, hạ, tin không tin, cung kính, không cung kính, Ngài vẫn bình đẳng xuất hiện, dùng ánh sáng trí tuệ bình đẳng chiếu soi.

2. Thiện nam! Ví như hư không, không chướng ngại nơi chúng sinh, hư không chỉ chướng ngại do mây khói sương mù. Chư Phật Như Lai cũng vậy, không chướng ngại nơi chúng sinh, chúng sinh do bị khách trần phiền não, mây mù ngã kiến che lấp nên không thấy Như Lai, không được hưởng công đức của Như Lai.

3. Thiện nam! Ví như cây tuy có tánh nóng nhưng vì không có nhân duyên nên không thể hiện tác dụng. Chư Phật Như Lai cũng vậy, tuy có vô số thần lực tự tại, nhưng vì chúng sinh không có các duyên tinh tấn, tín… nên chư Phật không xuất hiện ở đời, không làm việc Phật.

4. Thiện nam! Ví như đem các thuốc màu đựng trong một bình để nhuộm các loại áo thì tùy màu nhuộm mà có những cái áo khác màu, nhưng những màu sắc ấy không có tâm phân biệt si khác. Chư Phật Như Lai cũng vậy, trang nghiêm bằng các công đức lành, tùy theo lòng tin… của chúng sinh mà huân tập khác nhau, thấy chư Phật Như Lai thọ hưởng công đức khác nhau, nhưng chư Phật Như Lai không có ý tưởng sai khác.

5. Thiện nam! Ví như nước sông tràn đầy, dù người khen hay chê nó vẫn chảy xuôi dòng, không bao giời chảy ngược dòng. Chư Phật Như Lai cũng vậy, dù người khen hay Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hành pháp trí tuệ, không bao giờ có tâm kiêu mạn.

6. Thiện nam! Ví như cây mía, dù có người có chặt hay không thì vị ngọt của nó không mất. Chư Phật Như Lai cũng vậy, dù người gần gũi cung kính, cúng dường hay không, thì hoàn toàn không mất vị giải thoát.

7. Thiện nam! Ví như tánh của đất là yên định, không phân biệt chúng sinh, nếu người muốn có trái cây ăn thì trồng trọt, tùy thời chăm sóc, nhổ cỏ, đến lúc nào đó sẽ được trái cây ăn, nếu không trồng trọt nhổ cỏ thì không bao giờ có trái. Chư Phật Như Lai cũng vậy, thường trụ tịch tĩnh như đất, không phân biệt chúng sinh, nếu chúng sinh nào mong cầu công đức của Phật thì phát lòng tin, cung kính cúng dường, sẽ thành tựu công đức nếu không phát lòng tin, cung kính cúng dường thì không được trái công đức.

8. Thiện nam! Ví như người có chê hương chiên-đàn, long não… sao lại thoa thân thì hương chiên-đàn, long não hoàn toàn không vì thế mà mất mùi thơm. Chư Phật Như Lai cũng vậy, dù người mạ nhục chê trách, rồi lại gần gũi cung kính cúng dường, tu hành đúng pháp thì Như Lai luôn ban bố đầy đủ công đức cho chúng sinh.

9. Thiện nam! Ví như cây cầu, con đường dù là chúng sinh bậc thượng, trung, hạ qua lại thì nó vẫn bình đẳng ở yên, đều đem đến sự an lạc, đi lại không chướng ngại. Chư Phật Như Lai cũng vậy, dù là chúng sinh bậc thượng, trung, hạ tu hành thì Ngài vẫn an trụ bình đẳng không cao thấp, đều đem đến sự an lạc tu hành không chướng ngại.

10. Thiện nam! Ví như trên núi tuyết có cây thuốc hay tên Thiện kiến, ai thấy được cây này sẽ trừ hết mọi bệnh khổ. Chư Phật Như Lai cũng vậy, chúng sinh được gặp Phật sẽ trừ hết mọi bệnh khổ phiền não.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được ví dụ tương ưng của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được chư Phật. Mười pháp ấy là gì? Đó là: Tập Phật, quả báo Phật, Tam-muội Phật, nguyện Phật, tâm Phật, sự chân thật nơi Phật, sự tương đồng của Phật, sự hóa hiện của Phật, cúng dường Phật, hình tượng của Phật.

Thiện nam! Thế nào là tập khí của Phật? Tập khí của Phật là quả báo được thành tựu, từ các Ba-la-mật, nương nơi các Ba-la-mật mà sinh. Đó gọi là Tập khí của Phật.

Thiện nam! Thế nào là quả báo của Phật? Quả báo của Phật là từ tập khí mà sinh ra quả báo Phật, từ quả báo thành tựu Báo thân của Phật, y theo chúng sinh mà trụ, nương vào pháp lực mà trì. Đó gọi là quả báo Phật.

Thiện nam! Thế nào là Tam-muội Phật? Tam-muội Phật là tùy theo Như Lai nhập Tam-muội gì thì nhờ sức của Tam-muội đó mà không có tâm khác, hóa hiện trăm ngàn vạn Phật, nhờ sức giữ gìn của Tam-muội mà thị hiện mọi việc. Đó gọi là Tam-muội Phật.

Thiện nam! Thế nào là nguyện Phật? Nguyện Phật là các vị Bồ-tát phát nguyện như vầy thị hiện đủ loại sắc thân, dùng đủ nhân duyên, giáo pháp để độ chúng sinh, có bao nhiêu loại chúng sinh thì thị hiện bấy nhiêu hình sắc, tướng mạo, oai nghi, qua lại. Nếu chúng sinh thích thân Phật thì thị hiện thân Phật để hóa độ. Đó gọi là nguyện Phật.

Thiện nam! Thế nào là tâm Phật? Tâm Phật là các vị Bồ-tát được tâm tự tại, từ tâm tự tại thành tựu các pháp. Với chúng sinh thích thân Phật, Bồ-tát hóa hiện thân Phật, để mà giáo hóa, tức nơi tâm tự tại, chính là thành tựu thân Phật. Đó gọi là tâm Phật. Lại nữa, này thiện nam! Còn ý nghĩa khác nữa: Chúng sinh nào tự tâm thanh tịnh, thấy, biết, tin Phật, đó gọi là tâm Phật.

Thiện nam! Thế nào là sự chân thật nơi Phật? Sự chân thật nơi Phật là trừ bỏ vô số phiền não nhiễm ô, không còn trần cấu, luôn được thanh tịnh, thành tựu rốt ráo ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại trượng phu, biểu hiện sắc thân vi diệu của Phật. Đó gọi là sự chân thật của Phật.

Thiện nam! Thế nào là sự tương đồng của Phật? Sự tương đồng của Phật là cùng nghiệp lực, thọ dụng, ăn uống, đi đứng, tới lui, oai nghi, tiến dừng như chúng sinh. Đó gọi là sự tương đồng của Phật.

Thiện nam! Thế nào là sự hóa hiện nơi Phật? Sự hóa hiện nơi Phật là chư Phật, Như Lai và các Bồ-tát thị hiện mọi sắc thân Tammuội, thành tựu tự tại đại Từ bi, hóa hiện sắc thân Phật để độ chúng sinh. Đó gọi là sự hóa hiện nơi Phật.

Thiện nam! Thế nào là cúng dường Phật? Cúng dường Phật là người tôn trọng, cúng dường cung phụng Thầy, Hòa thượng như Phật, Thế Tôn, học pháp nơi Thầy, Hòa thượng để thành tựu đầy đủ pháp Phật. Đó gọi là cúng dường Phật.

Thiện nam! Thế nào là hình tượng Phật? Hình tượng Phật là có người nhờ kẻ khác tạo tượng Phật, hoặc tự mình tạo rồi cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán, lễ lạy, gần gũi thì nhờ đó thành tựu đầy đủ pháp Phật. Đó gọi là hình tượng Phật.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được mười thứ của Phật.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được chư Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri chỉ nương vào ngôn từ để thuyết pháp. Mười pháp ấy là gì? Đó là nói về ấm chỉ là ngôn từ, nói về giới, về nhập, về chúng sinh, về nghiệp, về sinh, về già, về chết, về sự chết rồi lại sinh ra. Nói về Niết-bàn là do xa lánh những việc ấy mà được cũng chỉ là ngôn từ.

Thiện nam! Vì sao nói ấm chỉ là ngôn từ? Thiện nam! Trong Đệ nhất nghĩa không có sắc ấm. Nếu trong Đệ nhất nghĩa có sắc ấm thì khi bỏ sắc ấm ấy sẽ là đoạn diệt, bỏ pháp ấy sẽ là giải thoát. Như vậy thì trong Đệ nhất nghĩa có nơi để sắc ấm và giải thoát đi lại, nhưng thật nghĩa không như thế. Cho nên nói sắc ấm chỉ là ngôn từ. Thiện nam! Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Thiện nam! Trong Đệ nhất nghĩa không có thức ấm. Nếu trong Đệ nhất nghĩa có thức ấm thì khi bỏ thức ấm sẽ là đoạn diệt, bỏ pháp ấy sẽ là giải thoát. Như vậy thì trong Đệ nhất nghĩa có nơi để thức ấm và giải thoát đi lại, nhưng thật nghĩa không như vậy. Cho nên nói thức ấm là ngôn từ.

Thiện nam! Nghĩa của giới, nhập cũng thế.

Thiện nam! Vì sao nói chúng sinh chỉ là ngôn từ? Thiện nam! Vì chỉ là hữu vi, không có chúng sinh. Nếu chúng sinh thật không có đoạn diệt với ấm, nếu đoạn diệt với ấm thì như hư không. Nếu không như vậy thì giống năm ấm, đều là hữu vi, nhưng thật ra thì nghĩa không như vậy. Thiện nam! Vì sao nói nghiệp chỉ là ngôn từ? Vì người tạo nghiệp không phải là có, không phải là không. Nếu sự tạo nghiệp là có thì người tạo nghiệp là không, người tạo nghiệp cũng vậy, như hư không. Lại như ấm, đều là hữu vi. Vì vậy không có người tạo nghiệp và nghiệp được tạo. Như hư không làm sao có người tạo? Vì thế không có người tạo ngiệp. Không có người tạo nghiệp thì làm gì có nghiệp, cho nên nói là ngôn từ.

Thiện nam! Vì sao nói sinh chỉ là ngôn từ? Thiện nam! Vì trong Đệ nhất nghĩa không có sinh. Nếu trong Đệ nhất nghĩa có sinh thì sinh là thường còn, nếu thế thì sinh không phải là sinh. Lại nữa, nếu sinh có khả năng sinh thì sinh có khả năng não hại rốt cuộc là ai? Cho nên nói sinh chỉ là ngôn từ.

Thiện nam! Vì sao nói già chỉ là ngôn từ? Thiện nam! Vì trong Đệ nhất nghĩa không có già. Nếu trong Đệ nhất nghĩa không có già thì già không phải một người có. Lại nữa, nếu có già thì lúc trẻ đã có già. Nếu lúc trẻ có già thì không phải lớn mới già. Vì trẻ không già nên lúc trẻ không có già, nếu không có già thì lấy gì gọi là già? Như vậy thì lớn không có già, nếu nói lớn có già thì lúc trẻ đã có già, cho nên nói già chỉ là ngôn từ.

Thiện nam! Vì sao nói chết chỉ là ngôn từ? Thiện nam! Vì trong Đệ nhất nghĩa không có chết. Nếu trong Đệ nhất nghĩa có chết thì phải là pháp chết, nếu có thì chỉ một người có, còn người khác không chết, nhưng ai cũng chết, vì vậy trong Đệ nhất nghĩa không có pháp chết. Lại nữa, chết từ đâu đến và đi về đâu? Nhưng thể tánh của pháp chết là không vắng lặng, cho nên nói chết chỉ là ngôn từ.

Thiện nam! Vì sao nói chết rồi lại sinh ra chỉ là ngôn từ? Thiện nam! Vì trong Đệ nhất nghĩa, chết thì không sinh. Nếu trong Đệ nhất nghĩa chết rồi lại sinh ra thì chết chính là sinh, sinh chính là chết. Nếu vậy, chết sống chỉ là một. Lại nữa, nếu thế thì phải có hai thân: Chủ thể thác sinh, đã thọ sinh. Nếu có thọ sinh thì có năm ấm thọ sinh. Vì sao? Vì không có năm ấm thì không có thức sinh, vì thức tâm nương các pháp thọ, tưởng, hành sinh ra và tồn tại. Nếu không có chỗ nương thì thức tâm không tồn tại một giây nào, nhưng nó lại tồn tại trên đời rồi thọ sinh, ví như hạt giống sinh ra mầm, cho nên nói chết rồi lại sinh ra chỉ là ngôn từ.

Thiện nam! Vì sao nói Niết-bàn có được do trừ bỏ mọi việc trên, chỉ là ngôn từ? Thiện nam! Vì trong Đệ nhất nghĩa không có Niết-bàn. Niết-bàn là nhận biết sự vắng lặng của thế gian, mà chẳng phải chính thế gian gọi là Niết-bàn, cũng chẳng phải lìa thế gian mà có Niết-bàn. Thế gian là mộng huyễn, không phải có, không phải không, cũng không phải vừa có vừa không. Nhưng có pháp không phải có không phải không, cũng vừa có vừa không, đó là sinh, là diệt, dập tắt mọi tướng của thế gian gọi là Niết-bàn. Như vậy, tưởng giống như dợn nắng, thọ giống như bọt nước. Như dợn nắng và bọt nước kia sinh diệt không thật, thế gian, Niết-bàn cũng vậy. Vì vậy nói thế gian, Niết-bàn chỉ là ngôn từ. Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri chỉ nương vào ngôn từ mà thuyết pháp.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì khéo biết về nghĩa không. Mười pháp ấy là gì? Đó là biết vô ngã, không chúng sinh, không mạng căn, không tuổi thọ, không tạo tác, không sinh diệt, không làm, không dạy dỗ, không tăng thượng… là không (rỗng lặng).

Thiện nam! Vì sao Bồ-tát biết vô ngã là không? Thiện nam! Không tức là không phải là có, không phải là không. Nếu sự không ấy là có thì không chính là hữu vi. Nếu thật có thì là thường còn. Nếu không ấy không phải là không thì không chính là không phải không. Vì vậy, không ấy không phải là có, không phải là không, như thế gọi là biết vô ngã là không.

Thiện nam! Vì sao biết không chúng sinh là không? Thiện nam! Chúng sinh không phải là không, không phải là không không. Nếu chúng sinh là không thì nghiệp sát sinh không có tội. Nếu chúng sinh là không không thì là thường còn. Vì vậy, Như Lai nói chúng sinh không phải là thường, không phải là vô thường, không phải hữu vi cũng không phải vô vi, như thế gọi là biết chúng sinh là không.

Thiện nam! Vì sao biết không mạng căn là không? Thiện nam! Không là không sống không chết. Vì sao? Vì mắt là không, không có ngã, ngã sở. Vì sao mắt là không, không có ngã, ngã sở? Vì pháp ấy không sinh diệt. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân đều là không, không có ngã, ngã sở. Vì sao tai, mũi… là không, không có ngã, ngã sở? Vì pháp ấy không sinh diệt, như thế gọi là biết chúng sinh là không.

Thiện nam! Vì sao biết không tuổi thọ là không? Thiện nam! Không thì không đếm vào tuổi thọ, mà ấm, giới, nhập đều là không, từ ấm, giới, nhập mà giả gọi là tuổi thọ. Vì giả danh nên tướng có, không ấy không thể nói được, như thế gọi là biết không tuổi thọ không.

Thiện nam! Vì sao Bồ-tát biết không tạo tác là không? Thiện nam! Nếu lìa sự không thì không có một pháp nào gọi là tạo tác và cũng không bao giờ có sự trống không lại có tạo tác, như thế gọi là biết không tạo tác là không.

Thiện nam! Vì sao biết không sinh là không? Thiện nam! Vì pháp không là không sinh, nếu pháp không ấy có sinh thì không phải là không. Như vậy, không ấy chính là không không. Nếu đã có không thì không có pháp không. Lại nữa, nếu sự không ấy vừa sinh thì đã không phải là không, như thế gọi là biết không sinh là không.

Thiện nam! Vì sao biết không diệt là không? Thiện nam! Nếu pháp có sinh thì có diệt, pháp không ấy đã không có sinh làm sao có diệt, như thế gọi là biết không diệt là không?

Thiện nam! Vì sao biết không tạo tác là không? Thiện nam! Không tức không phải là người khác làm ra, cũng không phải mình làm ra. Ấm, giới, nhập đều là không, từ ấm, giới, nhập nên có pháp không, như thế gọi là biết không tạo tác là không.

Thiện nam! Vì sao biết không dạy dỗ là không? Thiện nam! Vì trong không không có người dạy dỗ, làm những việc như vậy, như thế gọi là biết không dạy dỗ là không.

Thiện nam! Vì sao biết không tăng thượng là không? Thiện nam! Vì trong không không có cảnh giới, xa lìa cảnh giới, không có tâm, ý, ý thức, như thế gọi là biết không tăng thượng là không.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành. khéo biết nghĩa không.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì có thể biết tánh không nơi đối pháp. Mười pháp ấy là gì? Đó là các pháp vô minh, ái, nghiệp, thức, thủ, kiến, nghi, tà thủ, mạn, trạo.

Thiện nam! Vô minh có hai công năng: phiền não chướng và sở tri chướng; có bốn nhân: tham cõi Dục, tham cõi Sắc, tham cõi Vô sắc, tham vô hữu.

Thiện nam! Ái có hai nhân: chi hữu căn bản, tư sinh căn bản; có bốn sự tham cầu: dục, sắc, vô sắc, vô hữu.

Thiện nam! Nghiệp có một nhân pháp khởi là tâm; có ba tướng: thân, khẩu, ý nghiệp; có ba quả báo: hắc, bạch, vừa hắc vừa bạch.

Thiện nam! Thức là gì? Là sáu thức: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức lại có ba loại: niệm điên đảo, niệm không điên đảo, vô niệm.

Thiện nam! Thế nào là niệm điên đảo? Niệm về cõi Dục, Sắc, Vô sắc. Thế nào là niệm không điên đảo? Niệm về Niết-bàn của Tiểu thừa. Thế nào là vô niệm? Lìa hai niệm kia là vô niệm. Thế nào là lìa hai niệm kia? Niệm về pháp vô thượng của chư Phật.

Thiện nam! Thủ có bốn nhân: dục, kiến, giới, ngã. Thế nào là kiến thủ? Kiến thủ có hai: tà trí, kiến trí. Tà trí là trí hiểu biết sai lầm. Kiến trí là A-la-hán vọng kiến về Niết-bàn, vọng cầu Niết-bàn. Như vậy, kiến trí là điều mà chư Phật chê trách.

Thiện nam! Thế nào là nghi? Nghi có hai: tạo chướng ngại Đại thừa và chướng ngại nơi chánh vị. Thế nào là nghi làm chướng ngại Đại thừa? Tâm của hàng Thanh văn yếu kém, kinh sợ, mong sớm chứng Niết-bàn theo Tiểu thừa. Vì sao? Vì họ nghĩ: “Con đường giác ngộ dài xa, có vô số hạnh khó đạt nên cầu Thanh văn thừa sớm trừ khổ não.” Do vậy, làm thoái chuyển pháp Đại thừa. Thế nào là nghi làm chướng ngại chánh vị? Vì nghi nên không chứng được chánh vị, không được quả vị trí Đại thừa của Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là tà thủ? Nghĩa là tu ác hạnh bố thí… để cầu quả báo, nghĩ rằng: “Ta tu các hạnh bố thí, trì giới để được quả báo an vui, thù thắng nơi cõi trời, người.” Mọi sự mong cầu tà vậy đó đều là Tà thủ.

Thiện nam! Thế nào là mạn? Có tâm cao thấp là mạn, người kia thua ta, ta hơn người kia. Tất cả tâm cao thấp, hơn thua đều là mạn.

Thiện nam! Thế nào là trạo? Trạo có hai: sinh ra phiền não, loạn động. Sinh ra phiền não là phân biệt vọng tưởng, cho rằng sắc là thanh tịnh, vì vậy thân, khẩu, ý nghiệp điều điên đảo, nên bị các bậc Thánh chê trách. Thế nào là loạn động? Tâm không an trụ trong pháp Xuất thế gian. Như thế gọi là trạo.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết tánh không của đối pháp.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết giảng thuyết về tánh không. Mười pháp ấy là gì? Đó là không phá hoại; không nhiễu động; không yêu ghét; không tu hành, chẳng phải không tu hành; không tranh chấp; không thêm bớt; nghe nói tự tánh của các pháp hữu vi là vắng lặng thì nhẫn nhục được; nghe hàng phàm phu không sinh một pháp, chư Phật không diệt một pháp thì không kinh sợ; nghe tánh thế gian, Niết-bàn là bình đẳng thì không nghi ngờ; nghe Diệu thân thường lạc và Pháp thân vô tận của chư Phật thì chánh tín hội nhập sâu xa.

Thiện nam! Vì sao không phá hoại thì có thể giảng nói được tánh không? Thiện nam! Người giảng nói được tánh không là vì pháp của thế gian không thể phá hoại được. Vì sao? Vì tâm không nương tựa trong tám pháp của thế gian: Không lệ thuộc nơi các việc được, mất (lợi, suy); không vui buồn trước lời khen tiếng chê; không mừng vui hay buồn rầu trước sự ca ngợi, trách cứ; tâm không cao thấp, không yêu, ghét đối với sự vui, khổ. Các pháp thế gian ấy không thể phá hoại được, như thế gọi là không phá hoại được nên có khả năng giảng nói tánh không.

Thiện nam! Vì sao biết người bị nhiễu động thì nói được tánh không? Thiện nam! Người thuyết giảng tánh không thì không chấp giữ và xả bỏ pháp nào, là thấy, biết pháp đó là không. Người không chấp giữ và xả bỏ pháp là người tâm không nhiễu động nên nói được tánh không. Người nói được tánh không thì không có pháp nào để yêu ghét. Không yêu ghét pháp nào thì thấy biết pháp đó là không. Nếu yêu ghét pháp nào thì Bồ-tát đó không phải là người thấy biết pháp không.

Thiện nam! Vì sao không tu hành chẳng phải là không tu hành thì nói được tánh không? Thiện nam! Người nói tánh không thì không có pháp nào là không tu hành, chẳng phải là không tu hành, vì thấy, biết pháp không, tức không phải là không tu hành pháp Trợ Bồ-đề.

Thiện nam! Vì sao người không tranh chấp thì nói được tánh không. Thiện nam! Người nói tánh không mà tranh chấp với chúng sinh thì không phải là người thấy biết pháp không. Vì thế, đối với sự tranh chấp do Bồ-tát thấy biết tánh không nên không tranh chấp.

Thiện nam! Vì sao Bồ-tát biết pháp không thêm bớt thì nói được tánh không? Thiện nam! Người nói tánh không thấy biết không có pháp nào là tăng, giảm. Nếu còn thấy pháp tăng giảm thì Bồ-tát đó không thấy biết tánh không. Đã thấy biết tánh không thì không thấy pháp có tăng giảm.

Thiện nam! Vì sao nghe tự tánh của pháp hữu vi là vắng lặng mà tâm an ổn nhẫn chịu thì nói được tánh không? Thiện nam! Người nói tánh không thì không thấy pháp nào là sinh diệt.

Thiện nam! Vì sao nghe phàm phu không sinh một pháp, chư Phật không diệt một pháp mà không kinh sợ thì nói được tánh không?

Thiện nam! Người nói tánh không thì không có tâm niệm đây là phàm phu, đây là chư Phật, biết tướng của phàm phu và chư Phật là bình đẳng. Nếu thấy pháp thế gian thấp kém, pháp Phật thù thắng thì Bồ-tát đó không thấy biết tánh không. Nếu nghe phàm phu không sinh một pháp thì chính phàm phu là không, nếu nghe chư Phật không diệt một pháp thì chính chư Phật là không.

Thiện nam! Vì sao nghe tánh thế gian, Niết-bàn bình đẳng mà không nghi ngờ nói được tánh không? Thiện nam! Nếu thấy ngoài tánh thế gian có tánh Niết-bàn thì Bồ-tát đó không thấy tánh không. Biết tánh chân như của thế gian và Niết-bàn chỉ là một tướng, tức là tánh vô vi và biết tướng của nó bình đẳng, không cao thấp, nên không nghi ngờ, lo sợ.

Thiện nam! Vì sao nghe nói Diệu thân thường lạc và Pháp thân vô tận của chư Phật mà chánh tín, hội nhập sâu xa thì nói được tánh không?

Thiện nam! Nếu nghĩ thân chư Phật, Như Lai diệt mất thì Bồtát đó không thấy, biết tánh không. Vì sao? Vì thân chư Phật, Như Lai là thân Chân như rỗng lặng, chẳng phải thân đầy khách trần phiền não và tùy phiền não. Như vậy gọi là nghe nói về thân thường diệu của Như Lai và Pháp thân vô tận để có thể nói về không.

Này thiện nam! Đây gọi là Bồ-tát biết và nghe nói về Diệu

thân thường lạc, Pháp thân vô tận của chư Phật, Như Lai để chánh tín, thể nhập, có thể nói về không.

Thiện nam! Đây gọi là Đại Bồ-tát thể nhập mười tám pháp hành để biết rõ và có khả năng giảng nói về không.

 

PHẬT THUYẾT PHÁP TẬP KINH

QUYỂN 2

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được thật nghĩa của Pháp sư. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Thành tựu đa văn, Tổng trì, Biển văn tuệ, Tụ tạp tạng văn tuệ mà không được cao ngạo.
  2. Đầy đủ bốn vô ngại: Nghĩa, pháp, từ, nhạo thuyết mà luôn siêng năng.
  3. Biết thế, thời, thuyết pháp, chúng sinh mà luôn tôn kính sự tu hành của bậc Trưởng đức.
  4. Biết luận, nghĩa, giáo hóa chúng sinh mà luôn học hỏi.
  5. Thành tựu các hạnh thiểu dục, tri túc mà luôn cúng dường phụng sự các bậc Tôn túc.
  6. Thành tựu diệu tịnh, tịch tĩnh, tâm nhu hòa không khiếp sợ mà luôn sống với hạnh tàm, quý.
  7. Thành tựu đầy đủ công đức sâu xa mà tùy thuận chúng sinh, thị hiện những sự cấu uế, không giải thoát của thế gian.
  8. Thành tựu tự tánh, trực tâm, tâm nhu hòa, tâm an lạc mà thị hiện làm những việc giống như phá giới.
  9. Thành tựu Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ mà không tham đắm.
  10. Phân biệt các cảnh giới, cắt đứt sự ràng buộc của phiền não tham sân mà luôn siêng năng đoạn trừ phiền não cho chúng sinh. Thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì có thể biết được thật nghĩa của Pháp sư.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được thật nghĩa của Pháp sư. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Đại Bồ-tát chấm dứt mọi sự tham cầu, nhưng luôn siêng năng tạo công đức của Đại Bồ-tát.
  2. Hiểu rõ sự vắng lặng của các pháp nên không chứng Bồ-đề, nhưng luôn siêng năng tu bố thí.
  3. Hiện biết các pháp vô cùng tận nhưng luôn sống nhẫn nhục, an lạc.
  4. Thường sống trong cảnh giới thiền định sâu xa, nhưng vẫn tạo điều lành với chúng sinh.
  5. Đầy đủ diệu tịnh tịch tĩnh nhưng vẫn thị hiện tâm tán loạn, điên đảo để giáo hóa chúng sinh.
  6. Thành tựu Đà-la-ni và bốn Vô ngại nhưng luôn siêng năng học hỏi, hiểu biết.
  7. Thành tựu tạng pháp bí mật nhưng vẫn siêng năng trải qua trăm ngàn do-tuần để học một bài kệ.
  8. Biết các pháp không do người khác đem đến nhưng siêng năng gần gũi, cung kính sư trưởng.
  9. Biết các pháp không sinh diệt, nhưng luôn siêng năng hộ trì chánh pháp.
  10. Không thấy có chúng sinh và danh tự chúng sinh nhưng luôn siêng năng giáo hóa chúng sinh, đạt Đại Bồ-đề.

Thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì có thể biết được thật nghĩa của Pháp sư.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được thật nghĩa của Pháp sư. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Vì thành tựu Nhiếp thọ ngữ nên thực hành bố thí, ái ngữ, lợi ích, đồng sự.
  2. Vì thành tựu Nhu nhuyến ngữ nên phát tâm đại Bi.
  3. Vì thành tựu Tùy thuận ngữ nên tùy thuận tịch tĩnh, lìa phiền não, giải thoát.
  4. Vì thành tựu Tùy thuận ngữ nên tùy thuận Chỉ, Quán và chân như.
  5. Vì thành tựu Thiện xảo ngữ nên đầy đủ lời nói rõ ràng, không bị chê trách, không ai xâm đọat.
  6. Vì thành tựu Tự nghĩa ngữ nên bỏ lời ác, đủ lời thật nghĩa.
  7. Vì bỏ lời dua nịnh nên phá trừ vô minh, lừa dối chúng sinh.
  8. Vì không có lời nghi ngờ nên hiện thấy tướng các pháp.
  9. Vì trừ bỏ lời nói phiền não kết sử, nên đoạn trừ nhân của phiền não và tùy thuận phiền não.
  10. Không còn lời nói căn bản phiền não vì không còn ở nơi trần cấu phát khởi.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì có thể biết được thật nghĩa của Pháp sư.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được thật nghĩa của pháp sư. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Đại Bồ-tát thuyết giảng giáo pháp đều y theo diệu pháp, không vì sự cung kính cúng dường mà thuyết pháp.
  2. Nương nơi tất cả chư Phật, không nương theo tự tâm mà thuyết pháp.
  3. Nương nơi gốc đại Từ bi, không nương gốc phiền não, tùy phiền não mà thuyết pháp.
  4. Vì đoạn trừ phàm phu tùy thuận kết sử, không vì người đoạn tuyệt sự tùy thuận Phật, Pháp, Tăng như pháp tu hành mà thuyết pháp.
  5. Vì lòng đại Từ bi tạo lợi ích cho chúng sinh, không vì an lạc tự lợi mà thuyết pháp.
  6. Phàm người thuyết pháp nương vào pháp thâm diệu để thuyết giảng, do vì đã rốt ráo các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện.
  7. Người thuyết giảng y theo người thù thắng mà thuyết vì có thể tùy thuận chuyển bánh xe pháp lớn.
  8. Người thuyết pháp do có khả năng hàng phục ma ngũ ấm, ma chết, ma phiền não, Thiên ma nên thuyết pháp để hàng phục tất cả ma oán.
  9. Người thuyết pháp tùy thuận đạo tràng mà thuyết, vì đó là nơi thế gian đáng cúng dường.
  10. Người thuyết pháp tùy thuận tất cả trí hiểu biết mà thuyết là vì đã đạt được mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì có thể biết được thật nghĩa của Pháp sư.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được thật nghĩa của Pháp sư. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Thích nghiệp sát sinh phạm hạnh không thích nghiệp sát sinh thế gian.
  2. Thích pháp các bậc Thánh thực hành nhưng lại làm việc đáng trách để giáo hóa chúng sinh.
  3. Thích thức ăn chánh pháp không tham thức ăn thế gian.
  4. Thích nơi vắng lặng không tham đắm nơi thành ấp, xóm làng.
  5. Thích sự giác ngộ của chư Phật, không mong cầu sự giác ngộ của Thanh văn, Bích-chi-phật.
  6. Thích đọan trừ sở tri chướng, không thích đoạn trừ phiền não chướng.
  7. Thích thành tựu sắc thân với ba mươi hai tốt tướng, tám mươi vẻ đẹp, không thích chỉ chứng pháp thân.
  8. Thích thành tựu mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, không thích chỉ chứng pháp tứ đế.
  9. Thích tùy thuận thiện căn của chúng sinh, không thích tu tập thiện căn chính mình.
  10. Thích đoạn trừ phiền não và chủng tử phiền não, không thích chỉ đoạn trừ pháp thiền não chướng.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì có thể biết được thật nghĩa của Pháp sư.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được thí dụ tương đương của Pháp sư. Mười pháp ấy là gì?

1. Thiện nam! Ví như tánh của đất bình đẳng có thể nâng đỡ hết thảy chúng sinh nhưng không mong đền đáp, Bồ-tát pháp sư cũng vậy, tâm tánh bình đẳng, che chở chúng sinh mà không mong đền đáp.

2. Thiện nam! Ví như tánh của nước có thể làm tươi nhuận mọi vật, nhưng không mong đền đáp, Bồ-tát Pháp sư cũng vậy, đem công đức mình tạo lợi ích cho chúng sinh để họ được an ổn mà không mong đền đáp.

3. Thiện nam! Ví như tánh của lửa có thể làm chín mọi vật, nhưng không mong cầu, Bồ-tát Pháp sư cũng vậy, dùng công đức, trí tuệ của mình tạo sự thành tựu đầy đủ về quả báo của thiện căn cho chúng sinh mà không mong đền đáp.

4. Thiện nam! Ví như tánh của gió có thể nuôi lớn mọi cỏ cây, nhưng không phân biệt, không mong cầu, Bồ-tát Pháp sư cũng vậy, có khả năng làm tăng trưởng Sinh thân, Pháp thân của chúng sinh mà không mong đền đáp.

5. Thiện nam! Ví như hư không rộng lớn vô cùng, thể của nó không chướng ngại, dung nạp mọi thứ nhưng không phân biệt không tham vướng, Bồ-tát Pháp sư cũng vậy, thành tựu vô số công đức, thể tánh không chướng ngại, tạo lợi ích cho chúng sinh nhưng không phân biệt, không tham chấp.

6. Thiện nam! Ví như trăng sáng trong hư không thanh tịnh tròn đầy, ai thấy cũng thích, chiếu soi mọi hình tượng trong thế gian nhưng không bị nhơ uế, Bồ-tát Pháp sư cũng vậy, xuất hiện ở đời, đầy đủ công đức, chúng sinh ở bất cứ nơi nào thấy được đều yêu thích, cứu độ chúng sinh nhưng không bị thế gian làm ô nhiễm.

7. Thiện nam! Ví như mặt trời mọc rọi khắp nơi, không còn tăm tối, không bị chướng ngại, chúng sinh làm việc đều được thành tựu, nhưng tánh không phân biệt, không mong báo ân, Bồ-tát Pháp sư cũng vậy, xuất hiện ở đời, phá trừ vô minh tăm tối của chúng sinh, dùng trí tuệ sáng soi làm căn lành của chúng sinh tăng trưởng, nhưng không phân biệt, không mong đền đáp.

8. Thiện nam! Ví như chiếc thuyền bền chắc không hư hoại, đưa chúng sinh qua biển nhưng không đòi hỏi đền đáp, Bồ-tát pháp sư cũng vậy, lấy trí tuệ làm sự bền chắc, lấy các Ba-la-mật làm sự vững chãi, lấy đại Từ bi làm dây khéo léo, đưa chúng sinh qua biển sinh tử mà không đòi hỏi đền đáp.

9. Thiện nam! Ví như chiếc cầu bắc ngang qua ghềnh thác, sông suối nguy hiểm đáng sợ, đem đến sự an lạc bình đẳng cho chúng sinh đi qua mà không có ý tưởng phân biệt, Bồ-tát Pháp sư cũng vậy, lá chiếc cầu trong dòng thác phiền não nguy hiểm đáng sợ, đem đến sự an lạc bình đẳng cho chúng sinh, mà không có tâm phân biệt độ thoát.

10. Thiện nam! Ví như đốt đèn sáng trong nhà tối, đối với chúng sinh thượng, trung, hạ ánh đèn vẫn bình đẳng chiếu soi mà không có ý tưởng về ngã, ngã sở, Bồ-tát Pháp sư cũng vậy, đốt đèn sáng trí tuệ trong nhà vô minh tăm tối, bình đẳng chiếu soi cho chúng sinh thượng trung, hạ mà không có tâm về ngã, ngã sở.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì có thể biết được thí dụ tương ưng của Pháp sư.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được pháp không nên chung sống. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Không ở chung với chúng sinh yếu kém, tâm thấp hèn hẹp hòi.
  2. Không ở chung với chúng sinh không có tâm rộng lớn, hạnh rộng lớn, biếng nhác.
  3. Không ở chung với chúng sinh có tâm kiêu mạn, tăng thượng mạn, ngã mạn giống như cờ phướn cao.
  4. Không ở chung với chúng sinh keo kiệt, phá giới, sân hận, biếng nhác, loạn tâm, ngu si.
  5. Không ở chung với chúng sinh luôn tham dục, sân hận, não hại, giác quán.
  6. Không ở chung với chúng sinh phân biệt đủ thứ.
  7. Không ở chung với chúng sinh bị triền cái, chướng ngại phiền não sai sử.
  8. Không ở chung với hàng Thanh văn, Bích-chi-phật và tâm niệm thế gian.
  9. Không sống với tâm niệm mong cầu cung kính khen ngợi, lễ bái.
  10. Không sống với tâm ngã, ngã sở.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được pháp không nên chung sống.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát không sống với mười tâm xả bỏ. Những gì là mười? Đó là:

  1. Không sống với tâm không giữ gìn diệu pháp.
  2. Không sống với tâm không nghe diệu pháp.
  3. Không sống với tâm không giáo hóa chúng sinh.
  4. Không sống với tâm không bố thí pháp cho chúng sinh.
  5. Không sống với tâm không tôn trọng cung kính cúng dường.
  6. Không sống với tâm không hàng phục ma chướng.
  7. Không sống với tâm không dẹp trừ ngoại đạo.
  8. Không sống với tâm không hộ trì diệu pháp.
  9. Không sống với tâm không tu các Ba-la-mật.
  10. Không sống với tâm không hồi hướng về ba tụ.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát đối với mười loại tâm xả bỏ đều không chung sống.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được các sự việc nên hóa hiện. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Sự hóa hiện ra Chuyển luân vương.
  2. Sự hóa hiện ra Đế Thích.
  3. Sự hóa hiện ra Phạm Vương.
  4. Sự hóa hiện ra Thanh văn.
  5. Sự hóa hiện ra Bích-chi-phật.
  6. Sự hóa hiện ra Bồ-tát.
  7. Sự hóa hiện ra Phật.
  8. Sự hóa hiện ra đất nước Phật.
  9. Sự hóa hiện ra Đạo tràng.
  10. Sự hóa hiện ra Đại chúng.

Thiện nam! những sự ứng hóa này đều do Bồ-tát tùy thuận lòng mong muốn của chúng sinh.

Thiện nam! Nếu chúng sinh có tâm tôn kính Chuyển luân vương, giữ giới, tu hành mười nghiệp lành, có oai nghi thì Bồ-tát thị hiện những sự trang nghiêm của Chuyển luân vương để tạo lợi ích cho họ. Thiện nam! Bánh xe báu ngàn căm trang nghiêm của Chuyển luân vương đều làm bằng vàng Diêm-phù-đàn, vượt hơn trời, người, phi nhân do công đức nơi ý nguyện sinh ra, ai thấy cũng thích, những Luân vương phàm không có được như vậy. Voi báu thì thân hình sáng đẹp, đầy đủ sáu ngà và các tướng, ai thấy cũng thích, đi trong hư không nhanh lẹ như voi Yên-la-bà-na, chim cánh vàng… do phước lực của căn lành thù thắng hóa sinh, những Luân vương phàm không có được. Ngựa báu thì sắc xanh biếc, tánh thuần thục hiền lành giống như ngựa chúa Bà-la-ha, đi trong hư không nhanh lẹ như gió, xứng ý nhà vua giống như ngọc Như ý, những Luân vương phàm không có. Ma-ni báu thì tự nhiên đầy đủ góc cạnh, không phải do thợ làm ra, sắc sáng rực che lấp ánh sáng mặt trời, mặt trăng, sao, lửa, muốn gì được nấy, những Luân vương phàm không có. Ngọc nữ thì da dẻ mịn màng, hình tướng xinh đẹp, không quá đen trắng, cao thấp mập ốm, oai nghi, cử chỉ đều rất ưa nhìn, lại thông đạt hết kỹ thuật thế gian và luận điểm của năm minh, giọng nói hòa nhã êm dịu, thành tựu biện tài, lời lẽ khéo léo, đầy đủ mọi việc thù thắng như ngọc Như ý, tâm luôn an lạc, thực hành pháp thiện, những Luân vương phàm không có. Chủ tàng báu thì thân cao lớn, tánh khí vững chải ví như lực sĩ Kim cang, vua Tỳ-sa-môn, khôi ngôi tuấn tú, nói năng lưu loát, ai thấy được nghe đều vui thích, thành tựu mắt thịt đầy đủ từ bi, muốn gì được nấy như ngọc Như ý, Chủ tàng báu này do thiện căn của Luân vương hóa sinh, những Luân vương phàm không có. Chủ binh báu thì do tất cả công đức của thiện căn hóa sinh, giống như ngọc ma-ni ảnh tượng trong gương, hoàn tất mọi mong muốn của vua, thấy hình tướng là biết được mọi việc, những vật cần dùng đều thù thắng không thể chê trách, đi trong hư không tự tại vô ngại, luôn dẫn đường theo ý vua, nơi nào đi qua đều được chinh phục, những Luân vương phàm không có. Bảy sự quý báu của Chuyển luân vương đó đều do thần lực tự tại của Bồ-tát tạo ra để làm an lạc cho chúng sinh. Vật báu và sự tạo nghiệp của vua đều thù thắng không thể chê trách, dùng những tâm chân thật nhu hòa, tùy thuận chánh pháp chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh thực hành mười nghiệp lành, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt.

Thiện nam! Nếu chúng sinh tôn kính Đao-lợi vương thì Bồ-tát hóa thân làm Đế Thích có một trăm mắt ở cõi trời Tam thập tam, nói: Mọi pháp đều vô thường, các người nên bỏ phóng dật.

Thiện nam! Nếu chúng sinh tôn trọng Đại phạm vương, thì Bồtát hóa thân làm Phạm vương, oai nghi thù thắng, giảng thuyết bốn Thiền định cho đại chúng.

Thiện nam! Chúng sinh nào nên dùng thân Thanh văn để hóa độ, không dùng thân Bích-chi-phật và thân Phật thì Bồ-tát hóa thân Thanh văn, nói pháp chấm dứt các khổ, được vui vô vi cho chúng sinh ấy.

Thiện nam! Chúng sinh nào nên dùng thân Bích-chi-phật để hóa độ, không dùng thân Thanh văn, thân Phật thì Bồ-tát hóa thân Bích-chi-phật giảng thuyết pháp của Bích-chi-phật, nói rõ các pháp đều vô thường, thích chỗ vắng lặng, nói giải thoát, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, bốn Như ý túc, Bích-chi-phật là ruộng phước lớn, giảng pháp vô vi, giáo hóa chúng sinh làm cho chúng sinh có chánh tín.

Thiện nam! Chúng sinh nào nên dùng thân Bồ-tát để hóa độ thì Bồ-tát dùng thân vi diệu thanh tịnh, thuyết giảng sáu pháp Ba-lamật, bốn pháp tịch tĩnh, đại Từ, đại Bi, các sức nhẫn nhục tự tại.

Thiện nam! Chúng sinh nào đầy đủ căn lành nên dùng thân Phật để độ thoát thì Bồ-tát hóa thân Phật thuyết giảng mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, thị hiện thần thông thù thắng của chư Phật.

Thiện nam! Chúng sinh nào nên dùng cõi thanh tịnh trang nghiêm thù thắng của chư Phật để độ thoát thì Bồ-tát biến ra tam thiên đại thiên thế giới bằng phẳng như bàn tay không cao thấp, đất mềm mại như cỏ Ca-lân-đà, ai tiếp xúc cũng đều vui vẻ và màu sắc như lưu ly, thoảng hương Ưu-la-ca chiên-đàn, không có các đường ác, không có người nữ, kẻ huỳnh môn, hoặc tạo ra núi bằng bảy báu xinh đẹp, đủ các loại hoa trái thơm lạ, không có những núi tối tăm, hầm hố, gò đống, sạn sỏi, cỏ cây nhơ uế, gai góc, hiện ra những thắng sự để giáo hóa chúng sinh.

Thiện nam! Chúng sinh nào nên dùng đạo tràng thù thắng trang nghiêm để hóa độ thì Bồ-tát thị hiện cây đạo tràng trang nghiêm cao to hai mươi do-tuần, rễ cây chắc chắn không lay động được, thân cây bằng vàng Diêm-phù-đàn, nhánh lá bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, mã não và hiện ra vô số người nữ.

Thiện nam! Chúng sinh nào nên dùng đại chúng thù thắng để độ thoát thì Bồ-tát hóa hiện chư Thiên oai đức lớn, trời, rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-đà, Thích Đề-hoàn nhân, Phạm thiên vương, Tứ thiên vương hoặc Thanh văn đạt bốn Vô ngại giải thoát, hoặc Bồ-tát trụ Địa thứ mười đạt Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành có thể biết được các sự việc nên hóa hiện.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được quả báo thù thắng của các căn lành. Mười pháp ấy là gì? Đó là:

1. Thiện nam! Ví như do có mặt trăng trong hư không mà thấy các hình tượng mặt trăng trong nước, nhưng mặt trăng trong hư không không xuống nước. Cũng vậy, do nhân duyên lành mà có quả thù thắng, thành tựu mọi ý thích. Như mặt trăng trong hư không không xuống nước, nhân duyên lành cũng không đi đến quả báo nhưng vẫn do đó mà quả báo thù diệu, sai khác.

2. Thiện nam! Ví như do nghiệp nhân nhìn vào vòng tròn trên lông chim công thì thấy các màu sắc. Cũng vậy, Đại Bồ-tát do nghiệp, nhân lành mà có vô số quả báo sai khác. Như nghiệp nhân không đi vào cái vòng tròn trên lông nhưng vẫn do lực của nó nên nhìn thì thấy các màu sắc. Cũng vậy, nghiệp, nhân lành không đi đến quả báo, nhưng vẫn do đó mà quả báo thù thắng, sai khác.

3. Thiện nam! Ví như nhờ thiện căn thù thắng mà trong hư không mưa hoa đủ sắc hương vị, tướng hoa, hư không khác với thiện căn, cũng vậy nghiệp nhân lành không đi đến quả báo, nhưng vẫn do đó mà có vô số quả báo thù thắng, sai khác.

4. Thiện nam! Ví như do nghiệp lành thù thắng nên trong hư không có tiếng nhạc hay, vui vẻ nhưng hạnh lành ấy không đi vào tiếng nhạc, vì tướng hạnh lành khác với tiếng nhạc. Tướng tuy khác nhưng do nghiệp lành mà trong hư không có tiếng nhạc. Cũng vậy, do nghiệp nhân lành mà có quả báo thù thắng dù nghiệp nhân lành không đi đến quả báo vẫn do nghiệp nhân lành mà có vô số quả báo sai khác.

5. Thiện nam! Ví như do bốn đại tăng thượng duyên mà trong hư không có cầu vòng đủ màu dù bốn đại không đi đến cầu vồng nhưng do lực của nó mà cầu vồng đủ màu sắc khác nhau. Do địa đại có màu vàng, do thủy đại có màu xanh, do hỏa đại có màu đỏ và các màu đẹp, do phong đại có tướng tròn của cầu vồng. Cũng vậy do nghiệp nhân lành tăng thượng mà có vô số quả báo.

6. Thiện nam! Ví như Luân vương, nhờ thọ trì mười nghiệp lành mà có bảy báu, lúa gạo tự nhiên không cần trồng trọt, dù mười nghiệp lành không đi đến lúa gạo và bảy báu, nhưng vẫn do đó mà có quả báo Luân vương thù thắng. Như vậy, do lực của thiện căn, thiện tâm hành động mà có quả báo Luân vương thù thắng, nhưng vì nghiệp nhân không đi đến quả báo nên nói nhân quả khác nhau.

7. Thiện nam! Ví như nhờ nghiệp nhân thù thắng mà chư Thiên tự nhiên có hoa Mạn-đà-la, cung điện đẹp, các thức ngon, dù thiện căn không đi đến quả báo nhưng vẫn do đó mà có quả báo chư Thiên thù thắng.

8. Thiện nam! Ví như do lực thần thông như ý thù thắng nên vách đá không chướng ngại được, dù thần thông đi đến sự không chướng ngại, nhưng vẫn do đó mà có sự không chướng ngại. Cũng vậy, do thiện căn không phóng dật mà có quả báo thù thắng.

9. Thiện nam! Ví như do gió có lửa hừng, nếu không có gió thì chẳng có lửa hừng, lửa đã có thì nhờ sức lửa mà nấu chín, soi sáng, nhưng tánh lửa không do gió đưa đến, vì ánh sáng, sức nóng của lửa không có trong gió. Cũng vậy, mọi quả báo đều từ nhân duyên sinh.

10. Thiện nam nên biết, ví như Tỳ-kheo thực hành chánh pháp được công đức vô lạu, tùy ý tự tại, ở trong hư không, đất, nước, gió, lửa, xanh, vàng, đỏ, trắng, không chướng ngại, dù tâm không chướng ngại đó không đi vào hư không, nhưng vẫn thành tựu mọi sự không chướng ngại, vì thế từ tâm mà được mọi sự không chướng ngại. Cũng vậy, do nghiệp nhân nơi căn lành vô lậu mà có quả báo thù thắng.

Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì có thể biết được quả báo thù thắng của căn lành.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát thâm nhập mười pháp hành thì biết được quả báo thù thắng của thiện căn vô lậu. Mười pháp ấy là gì? Đó là: sáu Thông, ba Minh, tám Giải thoát, tám Thắng xứ, mười Nhất thiết nhập, mười Tự tại, mười Đế, chín Thứ đệ định Tam-mabạt-đề, mười Lực, mười trí.

Thiện nam! Sáu thông là gì? Đó là Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm trí, Túc mạng trí, Như ý trí, Lậu tận trí.

Thiện nam! Đại Bồ-tát có Thiên nhãn thông thì thấy rõ đầy đủ mọi công đức lành, không chướng ngại, không đắm chấp, không dừng yên, không hành động, không sai lầm, không chê trách, không ở chung với Thanh văn, Bích-chi-phật, rời bỏ tất cả phiền não và chủng tử phiền não, không thấy sai, nhớ sai. Đại Bồ-tát có Thiên nhãn thì thấy chúng sinh đều do nghiệp nhân mà có sống chết, đẹp xấu, thô tế, biết như thật về nhân quả. Đại Bồ-tát có Thiên nhãn thì sẽ được Phật trí, thành tựu Phật trí.

Thiện nam! Đại Bồ-tát có Thiên nhĩ thông thì không gì chướng ngại được, đầy đủ mọi công đức lành hơn phàm phu, Thích Đề-hoàn nhân, Tứ thiên vương, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-đà, Thanh văn, Bích-chi-phật. Nhờ Thiên nhĩ thanh tịnh, thù thắng, không chướng ngại này mà nghe mọi thứ tiếng của Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-đà, cho đến tiếng muỗi, ruồi, nhặng, kiến, tiếng Thánh nhân, phi Thánh nhân, không thích tiếng Thánh nhân, không ghét tiếng phi Thánh nhân, nghe tiếng phàm phu không cho là thấp kém, nghe tiếng Thanh văn, Bích-chi-phật không cho là hơn, không vui khi nghe tiếng Thánh nhân, không buồn khi nghe tiếng phi Thánh nhân, nghe mọi thứ tiếng mà không có ý hay dở xem như tiếng vang trong hư không, không có ngã, ngã sở, vắng yên lặng rỗng lặng, không có tai và tiếng tham đắm. Thiện nam! Đại Bồ-tát có Tha tâm trí thì biết như thật về tâm mình, nhờ vậy mà biết như thật về tâm chúng sinh tham, không tham hay Đại Bồtát biết như thật về tâm tham nhưng không giận, tâm không tham cũng chẳng vui, chỉ phát tâm Bi với chúng sinh có tâm tham, phát tâm Từ với chúng sinh không tham. Cũng vậy, Đại Bồ-tát biết như thật về tâm sân hay không sân; tâm si hay không si; tâm ái hay không ái; tâm thủ hay không thủ; tâm nhiễm ô hay không nhiễm ô; tâm suy xét hay không suy xét; tâm Tam-muội hay không Tammuội; tâm như thật biết giải thoát hay không giải thoát. Như vậy, Đại Bồ-tát biết như thật về tâm chúng sinh, đối với chúng sinh chưa giải thoát thì không sinh tâm giận, cũng không vui đối với chúng sinh giải thoát, chỉ phát khởi tâm Bi đối với chúng sinh chưa giải thoát, phát khởi tâm Từ đối với chúng sinh giải thoát. Biết như thật tất cả các pháp đều từ nơi tâm, không tham chấp tâm này, tâm kia. Đại Bồ-tát có Tha tâm trí biết như thật về tâm chúng sinh. Các chúng sinh nếu không được Bồ-tát cho niệm lực thì không thể biết tâm Bồ-tát, cho đến dùng Thiên nhãn cũng không biết được, tất cả các Thanh văn, Bích-chi-phật cũng không biết được, huống gì là những kẻ phàm phu vô trí làm sao biết được. Đó gọi là Tha tâm trí của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Đại Bồ-tát có Túc mạng trí thì đầy đủ mọi căn lành, có thể biết được thân mạng trong vô số kiếp ở quá khứ của mình và chúng sinh, biết được một đời, hai đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn vạn đời cho đến vô số a-tăng-kỳ đời, vô số trăm ngàn ức na-do-tha đời, biết rõ sự thành hoại của một kiếp, vô số a-tăng-kỳ kiếp, vô số trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, biết rõ sự thành hoại của đại kiếp, biết rõ trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, trăm ngàn vạn kiếp, vô số trăm ngàn vạn kiếp của đại kiếp. Ngoài chư Phật và Bồ-tát trụ địa ra, Đại Bồ-tát có túc mạng trí biết rõ sự mê hoặc của tất cả thế gian trời, người, Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát biết mình sống ở nơi đó có họ tên, hình sắc, sự ăn uống, mạng sống, sự dừng ở, cao thấp, mập ốm, đẹp xấu, khổ vui như vậy. Sau khi chết lại sinh đến nơi kia, có họ tên, hình sắc, sự ăn uống, mạng sống, sự dừng ở, cao thấp, mập ốm, đẹp xấu, khổ vui như vậy và cũng biết rõ như vậy về thân của chúng sinh như ruồi, muỗi, nhặng, kiến… Đại Bồ-tát có Túc mạng trí thì không chướng ngại, đình tre, không tham chấp, luôn tương ưng với đại Từ bi, sâu xa không thể suy xet được, xa rời kết sử phiền não và chủng tử phiền não, trang nghiêm bằng công đức trí tuệ thanh tịnh.

Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát có Như ý thông trí? Là Đại Bồ-tát có mọi trí tuệ phước đức không chướng ngại, tự nhiên không phân biệt, trải qua vô số a-tăng-kỳ trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp tu tập Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Do sức trí tuệ nơi tự thân tăng thượng và duyên tăng thượng của Như Lai tịnh thiên mà Bồ-tát thành tựu như ý nguyện, tự nhiên không chướng ngại, vượt tất cả thế gian để tạo lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát này muốn dừng ở đâu thì ở đó, muốn thị hiện cảnh giới gì thì thị hiện cảnh giới đó. Với trí tuệ tự tại như ý Bồ-tát thị hiện khắp mọi nơi không chướng ngại. Đối với chúng sinh đáng dùng thân chúng sinh để độ thoát thì Bồ-tát thị hiện thân hình chúng sinh, hiện ra tất cả các thân hình tùy theo căn cơ của chúng sinh, làm mọi việc nói năng có oai nghi, Bồ-tát muốn biến sắc thân chúng sinh thành sắc tượng Phật thì hiện ngay. Bồ-tát lại muốn biến sắc tượng Phật thành thân chúng sinh thì hiện ngay. Bồ-tát muốn cho kiếp thành thành kiếp hoại thì thị hiện cho chúng sinh thấy hay ngược lại biến kiếp hoại trở thành kiếp thành. Như thế tất cả sự thành hay hoại đều thị hiện ra. Bồ-tát lại muốn làm cho một kiếp trở thành một phần của ngày thì thị hiện cho chúng sinh thấy. Bồ-tát muốn cho một phần của ngày thành một kiếp thị hiện cho chúng sinh thấy như thế. Đó là Đại Bồ-tát hóa hiện Như ý thông. Đại Bồ-tát đạt hiện tiền Như ý thông là Đại Bồ-tát có công đức trí tuệ không thể nghĩ bàn tự nhiên vô tâm mà thành, thành tựu mọi việc hiện tiền không bị hư hoại. Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát đạt Như ý thông tự nhiên? Chúng sinh nào có tín tâm như vậy, thích thấy các hình sắc oai nghi thì Bồ-tát không suy xét, không phân biệt mà tự nhiên hiện. Có bao nhiêu thế giới chúng sinh thích thấy Phật ra đời để độ thoát thì Bồ-tát thị hiện Đức Phật ra đời ở những nơi đó, từ cõi trời Đâu-suất hiện xuống, vào thai, ra thai, xuất gia tu khổ hạnh, đến đạo tràng, chiến thắng ma, thành Chánh giác, chuyển bánh xe pháp, thị hiện Niết-bàn để giáo hóa chúng sinh. Thiện nam! Đại Bồtát có Như ý thần thông trí thì có vô lượng cảnh giới thần thông như ý như thế.

Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát có Lậu tận trí thông? Bồ-tát xa lìa bốn lậu: đó là dục lậu, hữu lậu, khiến lậu, vô minh lậu. Đại Bồtát xa lìa các lậu như thế không còn thọ sinh. Tuy không thọ sinh nhưng Bồ-tát tùy thuận thị hiện những nơi sinh để giáo hóa chúng sinh, đó là Bồ-tát an nhiên hành đạo Bồ-tát không dừng nghỉ.

Thiện nam! Ba Minh của Bồ-tát là gì? Đó là Thiên nhãn trí minh, Túc mạng trí minh, Lậu tận trí minh.

Thiện nam! Thế nào là trí có Thiên nhãn trí, Thiên nhãn minh? Thế nào là Thiên? Là Thiên nhãn trí của Thanh tịnh thiên và Thắng diệu thượng thiên, Bồ-tát đạt được Thiên nhãn trí đó. Thanh tịnh thiên là Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, chư Phật. Thắng diệu thượng thiên là chư Phật, Như Lai, trên các hàng Thanh văn, Bíchchi-phật. Đại Bồ-tát được Thiên nhãn của chư Phật, Như Lai là Minh thứ nhất.

Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát có Túc mạng trí minh? Chư Phật Như Lai thấy, hiểu hết các cảnh giới quá khứ, hiện tại, vị lai, Bồ-tát đạt được lãnh vực đó là Bồ-tát có Túc mạng trí minh. Minh này khác với Thanh văn, Bích-chi-phật, đó là Minh thứ hai.

Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát có Lậu tận trí minh? Bồ-tát

từ bỏ bốn lậu: dục, hữu, kiến, vô minh và chủng tử phiền não. Khi Bồ-tát chứng được kiến đạo thì đã đoạn trừ được phiền não và chủng tử phiền não đó, không phải chỉ đoạn trừ pháp phiền não chướng, lại khác với Thanh văn, Bích-chi-phật. Đã đạt lậu tận thì không còn chướng ngại trong việc thọ sinh và giáo hóa chúng sinh.

Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát có tám Giải thoát?

Đó là:

  1. Có sắc thấy sắc là giải thoát thứ nhất.
  2. Bên trong có sắc tướng thấy sắc bên ngoài là giải thoát thư hai.
  3. Tin vào sự thanh tịnh là giải thoát thứ ba.
  4. Vượt qua các sắc tướng, chấm dứt các tướng đối đãi, không nghĩ đến các tướng khác, biết hư không vô biên, thể nhập Hư không vô biên là giải thoát thứ tư.
  5. Bồ-tát vượt qua các tướng hư không vô biên, biết thức vô biên, thể nhập Thức vô biên là giải thoát thứ năm.
  6. Bồ-tát vượt qua các tướng thức vô biên, biết vô sở hữu, thể nhập Vô sở hữu xứ là giải thoát thứ sáu.
  7. Đại Bồ-tát vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, biết sự an ổn của phi hữu tưởng phi vô tưởng, thể nhập Phi hữu tưởng phi vô tưởng là giải thoát thứ bảy.
  8. Bồ-tát vượt qua Phi hữu tưởng phi vô tưởng, chấm dứt các thọ tưởng, thể nhập Diệt tận định là giải thoát thứ tám.

Thiện nam! Thế nào là có sắc thấy sắc? Những gì có sắc đều do nhân duyên sinh, biết chúng rỗng lặng, không có tuổi thọ, do đó thoát khỏi sự trói buộc, là giải thoát. Thế nào là bên trong có sắc tướng, thấy sắc bên ngoài? Thấy sự rỗng lặng không có tuổi thọ đều là nhân duyên sinh, do đó thoát khỏi sự trói buộc là giải thoát. Thế nào là tin vào sự thanh tịnh? Nếu phân biệt tướng tịnh, bất tịnh là tà kiến, vì tin vào sự thanh tịnh nên thoát khỏi sự trói buộc, là giải thoát. Vượt qua tất cả sắc tướng, chấm dứt mọi tướng đối đãi, không nghĩ đến tướng sai biệt, biết Hư không vô biên, thể nhập Hư không vô biên, biết vô số Hư không đều rỗng lặng thì thoát khỏi trói buộc, là giải thoát. Vượt qua Hư không vô biên biết thức vô biên, thể nhập thức vô biên, biết tất cả thức vô biên đó đều rỗng lặng thì thoát khỏi sự trói buộc, là giải thoát. Vượt qua Thức vô biên biết Vô sở hữu, thể nhập Vô sở hữu, sở hữu là phiền não tham, sân, si, thể nhập Vô sở hữu là diệt trừ phiền não ấy, do biết như vậy nên thoát khỏi sự trói buộc, là giải thoát. Vượt qua các Vô sở hữu, biết sự an ổn của Phi hữu tưởng phi vô tưởng, thể nhập Phi hữu tưởng phi vô tưởng. Phi hữu tưởng là tự tánh rỗng rộng, vắng lặng, phi vô tưởng là do nhân duyên mà có, nhờ biết như vậy nên thoát khỏi sự trói buộc, là giải thoát. Vượt qua Phi hữu tưởng phi vô tưởng, chấm dứt các thọ tưởng, thể nhập Diệt tận định. Bồ-tát thấy tưởng như dợn nắng, thọ như bọt nước, tưởng chính là thọ, thọ chính là tưởng, không hiểu biết, không thọ mạng, do biết như vậy nên thoát khỏi sự trói buộc, là giải thoát.

Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát có tám Thắng xứ?

Đó là:

  1. Có sắc thấy sắc tự tại thấy biết về sắc đó. Đó là Thắng xứ thứ nhất.
  2. Trong thân có sắc tướng, thấy sắc đẹp xấu bên ngoài, tự tại thấy biết sắc đó. Đó là Thắng xứ thứ hai.
  3. Trong thân có sắc tướng, thấy vô số sắc đẹp xấu bên ngoài, tự tại thấy biết về sắc đó. Đó là Thắng xứ thứ ba.
  4. Trong thân có sắc tướng, thấy một ít sắc đẹp bên ngoài, tự tại thấy biết sắc đó. Đó là Thắng xứ thứ tư.
  5. Trong thân có sắc tướng, thấy sắc bên ngoài có màu xanh ánh sáng xanh, ví như thấy màu xanh ánh sáng xanh của hoa Ưu-maca. Cũng vậy, do bên trong có sắc tướng, Bồ-tát thấy sắc bên ngoài có màu xanh ánh sáng xanh, tự tại thấy biết sắc đó. Đó là Thắng xứ thứ năm.
  6. Bên trong có sắc tướng, thấy sắc bên ngoài có màu vàng, ánh sáng vàng, ví như thấy màu vàng ánh sáng vàng của hoa Da-nica-la. Cũng vậy, do bên trong có sắc tướng, Bồ-tát thấy sắc bên ngoài có màu vàng ánh sáng vàng, tự tại thấy biết sắc ấy. Đó là Thắng xứ thứ sáu.
  7. Bên trong có sắc tướng, thấy sắc bên ngoài có màu đỏ ánh sáng đỏ, ví như thấy màu đỏ ánh sáng đỏ của hoa Bát-đầu-thi-bà. Cũng vậy, do bên trong có sắc tướng, Bồ-tát thấy sắc bên ngoài có màu đỏ ánh sáng đỏ, tự tại thấy biết sắc đó. Đó là Thắng xứ thứ bảy.
  8. Bên trong có sắc tuớng, thấy sắc bên ngoài có màu trắng ánh sáng trắng, ví như thấy màu trắng ánh sáng trắng của hoa Ưu-satư-đa-la. Cũng vậy, do bên trong có sắc tướng, Bồ-tát thấy sắc bên ngoài có màu trắng ánh sáng trắng, tự tại thấy biết sắc đó. Đó là Thắng xứ thứ tám.

 

PHẬT THUYẾT PHÁP TẬP KINH

QUYỂN 3

Thiện nam! Mười Nhất thiết nhập (tất cả nhập) của Đại Bồ-tát là gì? Đó là đất, nước, gió, lửa, hư không, xanh, vàng, đỏ, trắng và thức. Nếu Bồ-tát muốn đem tất cả các cảnh giới nhập thành một cảnh giới thì tất cả các các cảnh giới nhập thành một cảnh giới, đó là nhập đất, nước, gió, lửa, hư không. Nếu đem tất cả nhập thành một nhập thì liền nhập thành môt nhập xanh, vàng, đỏ, trắng, thức. Nếu đem tất cả đất, nước, gió, lửa, hư không, xanh, vàng, đỏ, trắng và thức, nhập thành một nhập thì liền nhập thành môt, cho nên gọi tất cả nhập thành một nhập, một nhập thành tất cả nhập.

Thiện nam! Mười sự tự tại của Đại Bồ-tát là gì? Đó là mạng, tâm, vật, nghiệp, sinh, như ý, tín, nguyện, trí, pháp tự tại. Được cam lồ bậc thượng là Mạng tự tại. Biết tất cả đều từ một tâm là Tâm tự tại. Trong tay có các thứ châu báu và xem hư không là kho tàng là Vật tự tại. Trừ hết phiền não, chủng tử phiền não, vô minh kết sử gọi là Nghiệp tự tại. Tùy ý lưu luyến trong thiền định, Tam-muội giải thoát, Tam-ma-bạt-đề gọi là Sinh tự tại. Tự nhiên thực hành mọi hạnh là Như ý tự tại. Đạt quán tự tại trong tất cả nhập là Tín tự tại. Vừa có ý nghĩa là thành tựu mọi việc là Nguyện tự tại. Các nghiệp thân, khẩu, ý đều sống trong trí tuệ gọi là Trí tự tại. Đạt thực tế, pháp giới chân như bình đẳng, trí tuệ vô cấu là Pháp tự tại.

Lại nữa, thiện nam! Do đạt Mạng tự tại nên đối trị được sự lo sợ thần chết của thế gian. Do đạt Tâm tự tại nên đối trị được sự lo sợ về phiền não của thế gian. Do đạt Vật tự tại nên đối trị được sự lo sợ nghèo khổ của thế gian. Do đạt Nghiệp tự tại nên đối trị được sự lo sợ việc ác của thế gian. Do đạt Sinh tự tại nên đối trị được sự lo sợ về đường ác của thế gian. Do đạt Như ý tự tại nên đối trị được sự lo sợ về tín cầu của thế gian. Do đạt Tín tự tại, nên đối trị được sự lo sợ tội hủy báng của thế gian. Do đạt Nguyện tự tại, nên đối trị được sự lo sợ về sự trói buộc tâm niệm của thế gian. Do đạt Trí tự tại, nên đối trị được sự lo sợ về chống trái, nghi ngờ đâu đâu của thế gian. Do đạt Pháp tự tại nên đối trị được sự lo sợ về đại chúng của thế gian.

Lại nữa, thiện nam! Trừ bỏ tội sát sinh, không có tâm giận dữ, não hại chúng sinh là nhân của Mạng tự tại. Với chúng sinh thọ lạc không chướng ngại đại Từ, với chúng sinh chịu khổ, không chướng ngại đại Bi, đó là nhân của Tâm tự tại. Tâm bình đẳng không nắm giữ các việc, hồi hướng đến đại Bồ-đề là nhân của Vật tự tại. Thâm nhập các nghiệp tạo tác, nghĩa là thanh tịnh nghiệp thân, khẩu, ý là nhân của Nghiệp tự tại. Dùng tâm Bồ-đề làm gốc để giữ gìn tất cả căn lành và mười nghiệp đạo là nhân của Sinh tự tại. Đem những sự cúng dường, cung kính lễ bái, ca ngợi, voi ngựa xe cộ cho chúng sinh là nhân của Như ý tự tại. Giáo hóa chúng sinh sống trong Tam bảo là nhân của Tín tự tại. Làm thanh tịnh nghiệp thân, khẩu, ý của chúng sinh là nhân của Nguyện tự tại. Bỏ tâm tham ăn uống, cung kính cúng dường, đem Pháp thực cho chúng sinh là nhân của Trí tự tại. Bình đẳng giáo hóa chúng sinh, nói cho chúng sinh biết pháp giới bình đẳng, nói cho tất cả chúng sinh biết chư Phật, Như Lai là Pháp thân chứ không phải thân do ăn uống là nhân của Pháp tự tại gọi là Bồ-tát được mười tự tại.

Thiện nam! Mười đế của Đại Bồ-tát là gì? Đó là Thế đế, Đệ nhất nghĩa đế, Tướng đế, Sai biệt đế, Quán đế, Sự đế, Sinh đế, Tận vô sinh trí đế, Nhập đạo trí đế, Tập Như Lai trí đế.

Thiện nam! Thế đế là những danh số hữu hạn, nhỏ hẹp, không rộng lớn được nói cho chúng sinh.

Đệ nhất nghĩa đế là pháp Không thâm diệu tương ưng với pháp, không hạn lượng, không đoạn tuyệt, không do nhân duyên sinh, tướng bình đẳng không cao thấp, không loạn không tịnh, là tướng chân như của các pháp.

Tướng đế nghĩa là sự giày vò não hại là tướng Khổ, sinh là tướng Tập, tịnh là tướng Diệt, sự chuyên chở là tướng Đạo. Lại nữa, thiện nam! Biết tự tánh của các pháp không có tướng ngã, chứng đạo, chứng đạt là Tướng đế. Nhứt thế biết tự tánh của các pháp là tướng thanh tịnh, xa lìa, rỗng lặng, không sinh diệt, chứng đạo, chứng đạt là Tướng đế.

Sai biệt đế đó là các pháp đều cùng một tướng, do nhân duyên mà nói sai khác. Một tướng chính là tướng rỗng lặng. Rỗng lặng do những cái khác mà nói sai biệt. Lại nữa, các pháp là vô tướng, vô nguyện, vô hình, không sinh diệt, mọi sự sai khác đó đều là không, cho nên không có tướng trái nhau.

Quán đế là gì? Quán là quán triệt, suy xét, giác ngộ, chứng đạt về những sự thấy biết, trí hiểu biết không trái cảnh hiểu biết.

Sự đế là sự trí. Sự là ấm, giới, nhập, biết ấm, giới, nhập đều do duyên sinh, không có sự, không thọ mạng, nhờ biết vậy mà đạt đạo.

Thế nào là Sinh đế? Nương vào trí, hạnh, đạo để đoạn trừ phiền não, đạt mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, chứng tất cả pháp, được pháp tự tại, thù thắng của Như Lai.

Tận sinh trí đế là chấm dứt các pháp hữu vi. Các pháp hữu vi đó chấm dứt nhưng không có sự chấm dứt, vì chấm dứt là không có chấm dứt. Nếu chấm dứt có chấm dứt thì có sự chấm dứt của chấm dứt. Vì vậy, chấm dứt nhưng không có sự chấm dứt, chấm dứt không có sinh diệt.

Thế nào là Nhập đạo trí đế? Đó là những trí gì, đạo gì, tu tập công đức gì, tu tập trí gì? Biết các pháp không sinh diệt, tự mình thâm nhập pháp đó, làm cho người khác thâm nhập.

Thế nào là Tập Như Lai trí đế? Chính là địa ở giữa địa Pháp vân và địa Như Lai. Tập Như Lai trí đế là đạt đạo tự nhiên, chứng Như Lai trí.

Thiện nam! Chín Định thứ đệ nhập Tam-ma-bạt-đề của Đại Bồ-tát là gì? Đó là Bồ-tát lìa các dục và các pháp ác, có giác có quán ly sinh hỷ lạc thể nhập Sơ thiền. Thiện nam! Lìa các dục, là người nhập Sơ thiền thì trừ bỏ các pháp ái nhiễm. Lìa các pháp ác là do tham sân si mà có sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói ác, nói thêu dệt, tham, sân, tà kiến. Đó là các pháp ác, trừ bỏ các pháp đó là nhập Sơ hiền. Hữu giác là giác ngộ chung. Thế nào là giác? Nương vào cảnh giới nào để tùy thuận Sơ thiền? Giác ấy có nhiều tên khác nhau: Trí giác, Tư duy quán, Tập định. Thế nào là quán? Là tùy thuận giác hạnh của Sơ thiền, tư duy quán sát đó thành vị Sơ thiền, tư duy quán sát, thọ tri giác dục định. Từ hạnh chán lìa có giác quán đó thành vị Sơ thiền, từ hạnh chán lìa có hỷ lạc đó thành vị Sơ thiền, đó là có thể nhập Sơ thiền có hỷ lạc hạnh: Thọ trì hộ niệm cái biết về hỷ lạc… Đại Bồ-tát trụ trong Sơ thiền thì đạt pháp Nhẫn vô sinh, vì dục tâm tăng thượng nên nhập thiền để cầu pháp Nhẫn vô sinh. Đại Bồ-tát đó dần được pháp Nhẫn vô sinh, vì tâm không bền chắc của Sơ thiền nên Bồ-tát bỏ Sơ thiền cầu Nhị thiền.

Bồ-tát bỏ tâm có giác quán của Sơ thiền, diệt trừ, lìa bỏ tâm ấy nên được thanh tịnh, tâm tịch tĩnh đó là nhập Nhị thiền, thành tựu hạnh tư duy của Nhị thiền. Bồ-tát bỏ giác quán, bên trong thanh tịnh, chú tâm một chỗ không còn giác quán, định sinh hỷ lạc, thể nhập Nhị thiền. Bên trong thanh tịnh nghĩa là đối trị chướng ngại ở pháp Nhị thiền, Bồ-tát đạt tịch tĩnh vô cấu nên gọi là bên trong thanh tịnh. Tâm chuyên một chỗ là diệt trừ giác quán của Sơ thiền, hoàn toàn tịch tĩnh giống như biển lớn. Thiện nam! Ví như tất cả các dòng sông chảy về biển đều có một vị mặn. Cũng vậy, Đại Bồ-tát nhập Nhị thiền, diệt trừ giác quán của Sơ thiền, chỉ có một vị tịch tĩnh không giác quán, đó là đạt Tam-muội không giác quán. Từ Tam-muội đó Bồ-tát phát sinh hỷ, tức là tâm vui trong Phật, Pháp, Tăng, từ tâm vui đó các công đức làm tự nhiên đầy đủ. Pháp Nhẫn vô sinh nơi Bồ-tát đó càng thêm sáng tỏ, thù thắng, nhu hòa, đạt tâm thượng dục. Vì tâm thượng dục, Bồ-tát đạt pháp Nhẫn vô sinh không trụ, không thích cảnh Nhị thiền nên cầu vào Tam thiền thù thắng.

Bồ-tát có tâm ấy, biết rằng tâm hỷ chướng ngại Tam thiền và pháp Nhẫn vô sinh nên Bồ-tát bỏ hỷ, thực hành xả về niệm tuệ, an lạc tuệ, thân thọ lạc, lạc này các bậc Thánh cũng bỏ, ly hỷ lạc thể nhập Tam thiền. Bồ-tát đạt lạc Tam-muội, bỏ tâm hỷ kia, nghĩ: Đây không có hỷ lạc vì lạc vô thường, là pháp tận diệt, không phải thường còn, không phải lạc chân thật, cứu cánh. Do biết vậy, Bồ-tát dần được pháp Nhẫn vô sinh, tăng tâm thượng dục. Từ đó, Bồ-tát xa lìa khổ vui. Bồ-tát xa lìa khổ vui thì trước phải diệt được ưu và hỷ, không khổ vui, xả niệm thanh tịnh, thể nhập Tứ thiền.

Bồ-tát đạt Tứ thiền Tam-ma-bạt-đề, tâm nhu hòa tự tại, tịch tĩnh, sáng suốt, chánh trực, đem tất cả lạc này cho chúng sinh. Khi Bồ-tát làm cho chúng sinh được an lạc hiện tiền, thì đạt pháp Nhẫn vô sinh quang minh hiện tiền. Do đó, làm cho các hành nhanh chóng, khi Bồ-tát không vui trong niềm vui thù thắng của Tứ thiền, trừ bỏ vui ấy, xả niệm thanh tịnh, chỉ thấy hư không hiện tiền.

Bồ-tát vượt qua các sắc tướng, trừ diệt tướng hữu đối, không nghĩ đến các tướng, biết Hư không vô biên, thể nhập Hư không vô biên. Bồ-tát quán sát sắc có hai: Một là tứ đại; hai là dựa nơi tứ đại. Tứ đại là đất nước gió lửa, dựa vào tứ đại là sắc, hương, vị, xúc. Như vậy rộng thì có tám loại sắc. Do diệt trừ các sắc tướng nên nói vượt qua các sắc tướng. Pháp sinh ra các sắc tướng đó chắc chắn có tướng chướng ngại. Vì vậy, vượt qua các sắc tướng, chấm dứt các tướng có đối ngại, không nghĩ, không tạo các tướng khác. Vì vượt qua các dị tướng, không nghĩ đến đó, chỉ thấy tướng hư không, nên Bồ-tát biết hư không không hạn lượng, nhập hạnh Hư không vô biên. Bồ-tát nhập Tam-muội hư không vô biên rồi suy nghĩ: Pháp không có biên vực đó thì không có bờ trước, giữa, sau. Cứ vậy, Bồ-tát quán xét các pháp không có bờ trước, giữa, sau. Bồ-tát nhập Tam-muội này sẽ phát tâm đại Từ với chúng sinh, đại Trí bình đẳng hiện tiền về các pháp. Lúc này, Bồ-tát đạt được thắng tấn quang minh hiện tiền trong pháp Nhẫn vô sinh.

Bồ-tát vượt qua tướng Hư không vô biên, hiện biết tướng Thức vô biên, thể nhập Thức vô biên. Bồ-tát nghĩ: Tướng hư không vô biên này chỉ là phân biệt tưởng tượng của thức. Do đó biết các pháp đều là tướng của thức. Thức này không hạn lượng, không biên vực. Nhập Tam-muội này, Bồ-tát đạt pháp Nhẫn vô sinh chẳng phải thành tựu rốt ráo pháp Nhẫn vô sinh.

Bồ-tát vượt qua tướng Thức vô biên hiện tiền biết Vô sở hữu xứ, thể nhập Vô sở hữu, Vô thiểu xứ. Vô sở hữu là không có sở hữu. Thế nào là sở hữu? Chính là phân biệt các loại tham, sân, si hư dối, tất cả pháp hữu vi đều sinh từ tâm phân biệt, hư dối. Vì không có tâm phân biệt đó nên nói là vô sở hữu. Vô thiểu: Những tướng vi tế nhỏ nhặt trong các pháp trên là tướng thiểu, vì không có tướng thiểu đó nên gọi là vô thiểu. Vượt qua các tướng thô tế đó gọi là Vô sở hữu vô thiểu. Bồ-tát nhập Tam-muội này, đạt quang minh hiện tiền thù thắng trong pháp Nhẫn vô sinh. Do đạt được pháp đó nên Bồ-tát không thích Tam-muội Vô sở hữu vô thiểu. Bồ-tát cầu Tam-muội tăng thượng nên có tâm thắng dục, do đó Bồ-tát nghĩ:

Hành tướng Vô sở hữu vô thiểu này cũng là tướng vi tế, do phân biệt hư vọng, nên tiếp tục quán sát phi tướng phi phi tướng. Những pháp nào là phi tướng phi phi tướng? Phi tướng là không, phi phi tướng là do nhân duyên sinh. Lúc ấy Bồ-tát đạt Tam-muội phi tướng phi phi tướng hiện tiền. Bồ-tát vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ thiểu tướng thể nhập Tam-muội Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở đây, Bồ-tát nghĩ: Phi tưởng phi phi tưởng xứ chẳng có gì vui, Bồ-tát bỏ pháp này, ngay khi đó các pháp không sinh diệt hiện tiền, thấy tự tánh tịch diệt của tất cả các pháp, nên Bồ-tát không tiến hành, không dừng trụ. Khi đó Bồ-tát đạt thắng thượng thanh tịnh pháp Nhẫn vô sinh. Từ đây trở về sau, Bồ-tát đạt Bồ-tát đạo tự nhiên không dừng nghỉ.

Thiện nam! Mười Lực của Đại Bồ-tát là gì? Đó là Tín lực, Nội lực, Tu hành lực, Nhẫn nhục lực, Trí lực, Ly lực, Văn tuệ lực, Nhạo thuyết lực, Công đức lực, Như thật tu hành lực.

Thiện nam! Thế nào là Tín lực? Đại Bồ-tát tin những pháp gì thì tùy tâm thành tựu năng lực tin tưởng quyết định trong pháp đó. Bồ-tát sống trong Tín lực thì tất cả trời, người, ma trong đời không thể làm nhiễu động được. Đó gọi là Tín lực của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Nội lực của Đại Bồ-tát? Khi Bồ-tát có tâm tham thì tu quán bất tịnh diệt trừ tâm tham. Khi khởi tâm sân thì tu hạnh đại Từ để diệt tâm sân. Khi khởi tâm si thì tu hạnh nhân duyên để diệt tâm si. Nếu bị người đánh đập, trói buộc, chửi mắng, Bồ-tát nghĩ: Tiếng nói như âm vang, sự chửi mắng như giấc mộng. Lúc đó, Bồ-tát đạt trí bình đẳng, tin biết trói buộc, đánh đập, chỉ là nghiệp của mình. Thấy như vậy thì các phiền não đó ngừng ngay. Bồ-tát biết trong thân này có những gì? Có những sự giày vò não hại, chúng như ánh trăng trong nước, lúc ấy Bồ-tát đạt trí bình đẳng, nhờ biết vậy nên chúng bị tiêu diệt ngay. Nói tóm lại, Bồ-tát biết được các phiền não đều là cửa thanh tịnh. Đó gọi là Nội lực của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Tu hành lực của Đại Bồ-tát? Đó là năng lực tin tưởng mà hành theo và năng lực trực nhận đạo pháp để đối trị pháp chướng ngại, nhưng pháp chướng ngại đó không thể làm chướng ngại được. Bồ-tát ở trong địa vị Tín hành và Kiến đạo thì Trời, Người, Ma, Phạm không thể nhiễu động được. Đó gọi là Tu hành lực của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Nhẫn nhục lực của Đại Bồ-tát? Bị người mắng chửi, mà Bồ-tát không báo oán là vì đạt Trí lực như hưởng bình đẳng (Trí lực bình đẳng xem đó như tiếng vang). Bị người đánh mà không báo oán là vì đạt Cảnh tượng bình đẳng trí lực (Trí lực bình đẳng xem đó như ảnh trong gương). Bị người não hại mà không báo oán là vì đạt Như huyễn bình đẳng trí lực (Trí lực bình đẳng xem đó như huyễn mộng). Bị người chọc giận mà không báo oán là vì đạt được Nội thanh tịnh bình đẳng trí lực (Trí lực bình đẳng do thanh tịnh bên trong). Không bị tám pháp thế gian làm ô nhiễm vì đạt được Thế pháp thanh tịnh bình đẳng trí lực. Các phiền não không thể nhiễm ô, không thắng được là vì đạt Tập nhân duyên bình đẳng trí lực (Trí lực bình đẳng xem đó do nhân duyên sinh). Nói tóm lại, Bồ-tát thấy các món phiền não nhiễm ô đều là pháp môn thanh tịnh. Đó gọi là Nhẫn nhục lực của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Trí lực của Đại Bồ-tát? Bồ-tát biết ấm, giới, nhập là không, không sinh diệt, dùng trí đó để tu tập đại Bồ-đề. Bồ-tát trụ trong trí này thì không bị ma, ngoại đạo, tà kiến, hiện hình dáng Phật làm loạn động, nhiễu hại, cũng chẳng làm cho Bồ-tát nghi ngờ. Đó gọi là Trí lực của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Ly lực của Đại Bồ-tát? Đó là Bồ-tát ở nơi nào đấy, chúng sinh đến, dùng lời ác mắng chửi, hủy báng, còn hủy mạ Phật, Pháp, Tăng bảo, hoặc bắt Bồ-tát hoặc cắt, hoặc xẻ, lúc ấy, Bồ-tát không hề sinh tâm não hại và sân hận đối với chúng sinh, cũng không sinh phiền não, kết sử và tập khí phiền não. Nếu có chúng sinh đến bảo Bồ-tát làm ác thì Bồ-tát giáo hóa chúng theo mình, đạt tâm kiên cố trong Tam bảo. Đó gọi là Ly lực của Đại Bồtát.

Thiện nam! Thế nào là Văn tuệ lực của Đại Bồ-tát? Là Bồ-tát có đa văn, gồm đủ văn trì, văn tuệ hải tạng, văn tuệ tu tập. Với sự thành tựu Văn tuệ lực như vậy, nếu chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đến chỗ Bồ-tát hỏi những nghi ngờ khác nhau thì lúc đó tâm Bồ-tát không động, dùng một thứ tiếng để trả lời, chấm dứt tất cả sự nghi ngờ. Cùng lúc, Bồ-tát đã đáp được sự nghi ngờ trong trăm ngàn vạn kiếp. Đó gọi là Văn tuệ lực của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Nhạo thuyết lực của Đại Bồ-tát? Bồ-tát thuyết pháp cho trăm ngàn na-do-tha đại chúng, nhưng không suy xét, không phân biệt chúng sinh nào thích nghe pháp gì thì Bồ-tát tùy thuận để thuyết. Bồ-tát thuyết pháp không mất nghĩa văn tự, không nói trùng lập, không nói nhanh, chậm, không nói lời ác, nhiều ít. Đó gọi là Nhạo thuyết lực của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Công đức lực của Đại Bồ-tát? Khi Bồtát ở nơi gốc cây, trong thất hoặc chỗ trống bị các loại ma và quyến thuộc của ma đến phá hoại, nhiễu động, nhưng chúng không thể phá hoại được hạnh Bồ-tát, chúng kinh sợ rồi giải tán, hoặc bị diệt trừ mà không ai cứu được. Tất cả những khí cụ như đao, kiếm, mâu thuẫn, câu, móc, búa, bánh xe, lưới, dây cung, tên, giáo kích… nhiều như mưa của chúng ma đều do Công đức lực của Bồ-tát mà biến thành các loại hoa Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Lô-giá, Ma-ha lôgiá, Đà-la, Ma-ha đà-la, Chiên-đàn, Tu-ma-na, Ưu-ba-la, Bát-đầuma, cúng dường Bồ-tát. Những tiếng la ó thô bạo của chúng ma ai nghe cũng kinh sợ, nhưng nhờ năng lực công đức của Bồ-tát mà biến thành những tiếng khen ngợi hay tuyệt. Nhờ năng lực công đức của Bồ-tát mà sáu cảnh trần của ma bị tiêu diệt lập tức, tùy tâm của Bồtát mà trong hư không hiện ra cảnh giới đẹp. Nhờ công đức tăng thượng của Bồ-tát mà hư không biến thành kho tàng, trong tay có đủ các loại châu báu cho tất cả chúng sinh tiêu dùng. Tất cả đều nhờ năng lực công đức mà thành tựu. Thiện nam! Dù trải qua một kiếp cũng không thể nói hết công đức của Bồ-tát. Đó gọi là Công đức lực của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Như thật tu hành lực của Đại Bồ-tát? Thiện nam! Đại Bồ-tát có mười lực Như thật tu hành. Những gì là mười?

  1. Lực tu hành bố thí.
  2. Lực tu hành trì giới.
  3. Lực tu hành nhẫn nhục.
  4. Lực tu hành tinh tấn.
  5. Lực tu hành thiền định.
  6. Lực tu hành trí tuệ.
  7. Lực tu hành phương tiện.
  8. Lực tu hành nguyện.
  9. Lực tu hành lực.
  10. Lực tu hành trí.

Đó là mười lực Như thật tu hành phải có trong tướng Ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Thiện nam! Vô số lực Như thật tu hành khác đều thuộc về mười lực Như thật tu hành này.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành bố thí của Đại Bồ-tát? Bồtát ban bố không tham tiếc một vật gì, chỉ trừ việc não hại chúng sinh, Bồ-tát bố thí theo sở nguyện của chúng sinh. Tâm bố thí đó ngoài chư Phật và Bồ-tát đạt Nhẫn vị ra không chúng sinh nào tin được, huống gì là hiểu biết! Đó gọi là Lực tu hành bố thí của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành trì giới của Đại Bồ-tát? Thiện nam! Lực tu hành trì giới của Bồ-tát có mười loại. Những gì là mười?

  1. Tu hành trì giới Thanh văn.
  2. Tu hành trì giới Bích-chi-phật.
  3. Tu hành trì giới Bồ-tát.
  4. Tu hành trì giới nhiếp thọ tất cả pháp lành.
  5. Tu hành trì giới luôn tìm cầu Thiện tri thức.
  6. Tu hành trì giới hộ trì giữ gìn diệu pháp.
  7. Tu hành trì giới luôn làm lợi ích cho chúng sinh.
  8. Tu hành trì giới hồi hướng lên Đại Bồ-đề.
  9. Tu hành trì giới thường tịch tĩnh nhập Tam-muội.
  10. Tu hành trì giới đoạn trừ phiền não và tập khí phiền não.

Thiện nam! Bồ-tát phân biệt hoàn toàn sự giữ giới vi tế, vì thế không phải là người đạt Nhất thiết chủng trí thì không thể biết được sự giữ giới của Bồ-tát. Đó gọi là Lực tu hành trì giới của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành nhẫn nhục của Đại Bồ-tát? Đại Bồ-tát có ba nhẫn: Nhẫn chịu các khổ; bị kẻ ác hại mà không báo oán; biết các pháp không sinh. Thiện nam! Nhẫn chịu các khổ vì biết đó là nghiệp của mình tạo; nhẫn nhục không báo oán vì xem chúng sinh như con một; nhẫn nhục về các pháp vì đạt trí vô sinh về các pháp. Thiện nam! Đó gọi là Lực tu hành nhẫn nhục của Đại Bồtát.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành tinh tấn của Đại Bồ-tát? Thiện nam! Bồ-tát ở bất cứ nơi đâu, tu hành pháp gì đều thành tựu năng lực tu hành pháp lành. Trong mỗi pháp kia sinh tâm như thế này: Ta thành tựu pháp thiện này là để làm cho tất cả chúng sinh đều được như ta. Đó gọi là Lực tu hành tinh tấn của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành thiền định của Đại Bồ-tát? Bồ-tát không thấy một pháp nào là không tịch tĩnh, biết tự tánh các pháp là vắng lặng, diệt trừ mọi hiểu biết, bỏ tâm, ý, ý thức, không sinh diệt, không loạn động, Bồ-tát không thấy tâm mình định, tâm chúng sinh loạn, không thấy ngoài thân mình và người lại có Tammuội, nhưng luôn siêng năng tu tập các công đức không dừng nghỉ. Đó gọi là Lực tu hành thiền định của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành Bát-nhã của Đại Bồ-tát? Bồ-tát không thấy một pháp nào là không duyên sinh, không thấy pháp nào ngoài không, vô tướng, vô tác, giải thoát, không thấy có pháp nào ngoài sự rỗng lặng giải thoát, nhưng siêng năng tu tập pháp trợ Bồ-đề và giáo hóa chúng sinh không ngừng. Đó gọi là Lực tu hành Bát-nhã của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành phương tiện của Đại Bồtát? Bồ-tát không thấy tự thân nhưng luôn hộ trì một hạnh của mình, không thấy chúng sinh nhưng luôn giáo hóa chúng sinh, không thấy phiền não nhưng luôn hộ trì các tình căn. Bồ-tát thấy các sắc không ngoài Phật sắc, nhưng lại mong được thấy sắc Như Lai. Nghe các tiếng không ngoài tiếng pháp, nhưng luôn mong được nghe pháp không nhàm chán. Không thấy thế gian nhưng thường nhàm chán thế gian. Không thấy Niết-bàn nhưng vì đạt Niết-bàn mà xả bỏ mọi việc trong ngoài, không thấy Phật-Bồ-đề nhưng vì đắc quả Phật Bồ-đề mà phát trăm ngàn vạn nguyện, luôn tu tập. Đó gọi là Lực tu hành phương tiện của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành về nguyện của Đại Bồ-tát? Đại Bồ-tát không thấy một pháp nào tăng giảm, nhưng lại tùy hỷ với chúng sinh tạo căn lành, hồi hướng đến Vô thượng Bồ-đề, lại hồi hướng căn lành của mình cùng chúng sinh đến đạo Vô thượng Bồ-đề, nhờ căn lành này được thành tựu đạo Vô thượng Bồ-đề, được các cõi Phật, đại chúng như vậy, như vậy. Bồ-tát thành tựu đại nguyện đó không thể hủy hoại được. Bồ-tát tu trì tịnh giới không thể hủy phạm, không thất thoát, không ô nhiễm, được người trí khen ngợi. Nhờ sống trong giới tịnh nên Bồ-tát thành tựu mọi đại nguyện. Đó gọi là Lực tu hành về nguyện của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành về lực của Đại Bồ-tát? Nếu có chúng sinh hiện thân Phật, đến chỗ Bồ-tát, muốn lay chuyển tâm Bồ-đề của Bồ-tát, nói: “Ở đâu mà có pháp Bồ-đề này?” Nói đủ các lời lẽ phá hoại, nhưng Bồ-tát không hề lay chuyển, không thể bị phá hoại, luôn nghĩ đến Bồ-đề đạo tràng, hàng phục ma, chuyển bánh xe pháp, đại Từ bi, không ác ý với chúng sinh phá hoại, tà giáo, lại dùng lòng Từ bi để giáo hóa chúng sinh sống trong pháp lành, nhưng Bồ-tát không mất lực tịnh tín, tinh tấn, chánh niệm, Tam-muội, trí tuệ. Nhờ lực không thoái chuyển đó, Bồ-tát làm cho vô số a-tăng-kỳ chúng sinh thâm nhập, đạt được quả Phật Bồ-đề. Đó gọi là Lực tu hành về lực của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Lực tu hành về trí của Đại Bồ-tát? Bồtát biết như thật về các pháp không có chúng sinh, không sinh, già, bệnh, chết, thấy pháp đó không có ngã, ngã sở. Nhờ trí lực biết như thật về các pháp, Bồ-tát làm cho vô số a-tăng-kỳ chúng sinh hội nhập trí đó, các ngoại đạo, ma chướng trong thế gian không thể lay chuyển tâm chân như Bồ-tát, huống gì đưa về pháp thế gian. Đó gọi là Lực tu hành về trí của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Mười trí của Đại Bồ-tát là gì? Đó là Khổ trí; Tập trí; Diệt trí; Đạo trí; trí trong các pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo; Ấm trí, Giới trí, Nhập trí, Quá khứ vị lai trí, Đạo quả trí.

Thiện nam! Thế nào là Khổ trí? Là trí về Khổ, Tập, Diệt, Đạo trong khổ, là trí Không, Vô tướng, Vô nguyện, nhân duyên sinh trong khổ. Lại nữa, thiện nam! Đó là biết trí vô minh, ái, thủ.

Thiện nam! Thế nào là Tập trí? Là tập trí trong trí biết pháp nào do huân tập thì tập ấy là khổ. Lại nữa, thiện nam! Biết ái là tập trí.

Thiện nam! Thế nào là Diệt trí? Là trí biết quá khứ không từ đâu đến, vị lai không sinh, hiện tại không dừng. Lại nữa, thiện nam!

Đó là trí biết pháp quá khứ, vị lai, hiện tại không diệt.

Thiện nam! Thế nào là Đạo trí? Là trí cầu đạo, biết đạo trong trí Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Thiện nam! Thế nào là trí trong pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo? Bồ-tát nghĩ: Khổ, Tập, Diệt, Đạo chỉ là pháp, trí ấy chính là trí trong pháp khổ tập diệt đạo.

Thiện nam! Thế nào là Ấm trí? Là trí hiểu biết sự huyễn mộng trong năm ấm, trí năm ấm hợp nhất, trí tu tập hòa hợp. Lại nữa, biết sắc như chùm bọt, thọ như bong bóng nước, tưởng như dợn nắng, hành như cây chuối, thức như mộng huyễn.

Thiện nam! Thế nào là Giới trí? Đó là pháp giới của địa giới, nhưng pháp giới không phải là tướng cứng, pháp giới của thủy giới, nhưng pháp giới không phải là tướng ướt, pháp giới của hỏa giới, nhưng pháp giới không phải là tướng nóng, pháp giới của phong giới nhưng pháp giới không phải là tướng động. Biết rõ như vậy gọi là Biết giới. Lại nữa, thiện nam! Trí hiểu biết vi tế là Tánh trí, biết nguồn gốc của pháp là Giới trí. Thiện nam! Giới có hai: hữu vi, vô vi, Trí trong hữu vi, vô vi là Giới trí. Lại nữa, thiện nam! Pháp giới của nhãn, sắc, nhãn thức giới nhưng pháp giới không phải là tướng thấy, cũng không phải là tướng có thể thấy, biết. Cũng vậy, pháp giới của nhĩ, thanh, nhĩ thức giới nhưng pháp giới không phải là tướng nghe, cũng không phải là tướng có thể nghe biết. Pháp giới của tỷ, hương, tỷ thức giới, nhưng pháp giới không phải là tướng ngửi, cũng không phải là tướng có thể ngửi biết. Pháp giới của thiệt, vị, thiệt thức giới, nhưng pháp giới không phải là tướng nếm, cũng không phải là tướng có thể nếm biết. Pháp giới của thân, xúc, thân thức giới, nhưng pháp giới không phải là tướng tụ tập, hòa hợp, không phải là tướng tiếp xúc, tướng dợn nắng. Pháp giới của ý, pháp, ý thức giới, nhưng pháp giới không phải là tướng sinh, trụ, diệt.

Thiện nam! Thế nào là Nhập trí của Đại Bồ-tát? Là Quảng trí, Thâm trí, Phổ trí, Phược trí, Thích trí, Bổ trí, Cuồng trí, Vô thường trí, Chướng ngại trí (trí rộng, trí sâu, trí hiện khắp, trí trói buộc, trí thăm dò, trí sợ, trí cuồng, trí vô thường, trí chướng ngại) trong Nhập. Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát biết Nhập như sự hợp tan, trống không. Song sự hợp tan rỗng lặng đó không biết là hợp tan, rỗng lặng. Cũng vậy, nhập không tự biết là rỗng lặng như sự hợp tan, rỗng lặng. Bồ-tát biết như vậy là Nhập trí. Thiện nam! Bồ-tát biết mười hai nhập: nhãn, sắc, thanh, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc, ý, pháp không có ngã, ngã sở là nhập trí.

Thiện nam! Thế nào là quá khứ vị lai Trí? Tức là Bồ-tát biết quá khứ vị lai. Biết vị lai không có người tạo tác, quá khứ không diệt mất. Thiện nam! Thế nào là trí trong đạo quả? Trí trong sáu pháp Ba-la-mật là đạo trí, trí trong mười địa và địa Như Lai là quả trí. Bồtát an trụ trong đạo trí và quả trí.

Lúc giảng nói pháp môn Pháp tập này thì có bảy vạn sáu ngàn Đại Bồ-tát đã tu tập các nghiệp trong quá khứ chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh.

Khi ấy, Bồ-tát Phần Tấn Tuệ nói với Bồ-tát Vô Sở Phát:

–Thiện nam! Xin hãy nói về Pháp tập tương ưng Ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì đó là Pháp tập tối thắng được nói đến. Thế nào là Pháp tập ba-la-mật?

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Sở Phát nói với Bồ-tát Phấn Tấn Tuệ:

–Này thiện nam! Các Ba-la-mật đó là: Đàn ba-la-mật, Thi-la ba-la-mật, Sằn-đề ba-la-mật, Tỳ-ly-da ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, Phương tiện ba-la-mật, Nguyện ba-la-mật, Lực ba-la-mật, Trí ba-la-mật.

Thế nào là Pháp tập ba-la-mật? Đó là không thấy bố thí là Đàn ba-la-mật, nhưng luôn cho các vật trong ngoài thân. Không thấy giữ giới là Thi-la ba-la-mật, nhưng luôn tu tập giữ gìn các tịnh giới, hạnh Đầu-đà công đức… Không thấy nhẫn nhục là Sằn-đề ba-la-mật, nhưng luôn tu hạnh nhẫn nhục an lạc. Không thấy tinh tấn là Tỳ-lyda ba-la-mật, nhưng luôn tu tập không ngừng các căn lành. Không thấy thiền định là Thiền ba-la-mật, nhưng luôn tôn trọng tâm tịch tĩnh. Không thấy tuệ là Bát-nhã ba-la-mật nhưng luôn tu tập pháp văn tuệ. Không thấy phương tiện là Phương tiện ba-la-mật, nhưng luôn cùng làm việc với ngoại đạo và chúng sinh để phát khởi căn lành. Không thấy nguyện là Nguyện ba-la-mật, nhưng luôn mong cầu căn lành cùng chúng sinh hồi hướng đạo Vô thượng Bồ-đề. Không thấy lực là Lực ba-la-mật, nhưng luôn mong cầu thân Na-ladiên, lực sĩ Kim cang để giáo hóa, hàng phục tâm kiêu mạn của chúng sinh. Không thấy trí là Trí ba-la-mật, nhưng luôn tu hành các công nghệ, kỹ thuật năm minh v.v…

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát không cầu các quả báo, nhưng luôn có tâm bố thí, bố thí mọi vật trong mọi lúc. Không phân biệt trì giới nhưng thà chịu mất mạng chứ không hủy tịnh giới. Không bị các pháp nhiễu động, nhưng luôn bỏ tâm giận dữ não hại. Không mong cầu các pháp, nhưng luôn nghĩ đến các căn lành. Không phân biệt tâm tịch tĩnh, nhưng thường tu hành thiền định, Tam-muội thần thông. Đối với các pháp không còn tâm nghi ngờ, nhưng luôn tu tập Văn, Tư, Tu tuệ. Không mong cầu các pháp, nhưng tâm luôn nghĩ đến pháp lành. Thường trụ trong tịch tĩnh, nhưng luôn tu tập các nguyện. Đoạn trừ tâm kiêu mạn, cao ngạo, nhưng luôn tu hành, thành tựu thân Kim cang vững chắc. Biết rõ các kinh luận, nhưng luôn tôn trọng, tìm cầu Thiện tri thức. Thiện nam! Đó gọi là Pháp tập tương ứng các Ba-la-mật của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát luôn thích Đàn ba-la-mật, nhưng tùy thuận chúng sinh thị hiện keo kiệt. Thích tu trì tịnh giới, nhưng thị hiện tùy thuận chúng sinh phá giới. Thích nhẫn nhục, nhưng thị hiện tùy thuận chúng sinh không thể nhẫn nhục, điên đảo. Thích hạnh tinh tấn, nhưng thị hiện tùy thuận chúng sinh biếng nhác, điên đảo. Thích thiền định Tam-muội, nhưng thị hiện tùy thuận chúng sinh với nhiều chuyện tán loạn, điên đảo. Thích Bát-nhã diệu tuệ, nhưng thị hiện tùy thuận chúng sinh tin nơi bất thiện, ngu si mê mờ. Thích phương tiện thiện xảo, nhưng thị hiện không thích làm việc. Thích thiện căn đại nguyện, nhưng thị hiện tùy thuận chúng sinh với các hạnh nhàm chán thế gian v.v… Thích có oai lực, nhưng thị hiện tùy thuận chúng sinh không oai lực. Thích thù thắng, nhưng thị hiện tùy thuận chúng sinh vô trí. Thiện nam! Đó gọi là Pháp tập tương ứng các Ba-la-mật của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát tu hành Đàn ba-la-mật thì trong tay được ngọc như ý, lấy hư không làm kho tàng. Tu hành Thi-la bala-mật thì vượt qua các đường ác, đạt tự tại trong sinh tử, tâm nhu hòa và tùy thuận tự tại. Tu hành Sằn-đề ba-la-mật thì được sắc thân trang nghiêm của Phật, thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp ai thấy cũng thích. Tu hành Tỳ-ly-da ba-la-mật thì được bốn Vô úy, bốn Vô ngại. Tu hành Thiền ba-la-mật thì được tự tại trong các thứ tiếng và các sự tạo nghiệp. Tu hành Bát-nhã ba-la-mật thì được sự không chướng ngại trong các pháp, tức là các pháp bình đẳng trong sự giác ngộ. Tu hành Phương tiện ba-la-mật thì được tự tại trong việc tạo nghiệp, tức là ba nghiệp thân khẩu ý được tự tại. Tu hành Nguyện ba-la-mật thì được đời sống tự tại trong việc thọ sinh và tùy thuận làm việc. Tu hành Lực ba-la-mật thì không bị phiền não ma chướng, ngoại đạo nhiễu động, được thân to lớn tối thắng trong thế gian. Tu hành Trí ba-la-mật thì vượt qua ma ngũ ấm, ma chết, ma phiền não, Thiên ma. Thiện nam! Đó gọi là Pháp tập tương ứng các Ba-la-mật của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, thiện nam! Đại Bồ-tát khen ngợi bố thí nhưng không xem bố thí đó là thanh tịnh. Khen ngợi Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát-nhã, Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí, nhưng không xem những pháp đó là thanh tịnh. Vì sao? Vì tuy tu các pháp như vậy, nhưng lại xả bỏ được, các pháp đó đều do tâm phân biệt mà có, vì vậy xả bỏ hết tâm phân biệt và pháp bị tâm phân biệt, không cho đó là thanh tịnh, không trụ trong tâm phân biệt và pháp bị tâm phân biệt. Song Bồ-tát lại nghĩ: “Biết được không phân biệt, không cảnh giới hý luận thì chứng được tâm Vô thượng Bồ-đề.” Bồ-tát Phấn Tấn Tuệ hỏi:

–Thiện nam! Do pháp gì mà nói về Bồ-đề?

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Thiện nam! Do pháp không phân biệt, không hý luận mà nói về Bồ-đề. Thiện nam! Thấy có ngã là hý luận, không phải Bồ-đề. Bỏ ngã kiến, không còn hý luận là Bồ-đề, tham chấp ngã sở là hý luận, không phải Bồ-đề. Bỏ ngã sở, không còn hý luận là Bồ-đề. Tùy thuận già, bệnh, chết là hý luận, không phải Bồ-đề. Không tùy thuận già, bệnh, chết, tịch tĩnh, không còn hý luận là Bồ-đề. Những hý luận keo kiệt, ganh ghét, pháp giới, sân hận, biếng nhác, tán loạn, ngu si không trí, không phải là Bồ-đề. Những pháp không hý luận: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ là Bồ-đề. Tà kiến, giác quán ác, nguyện ác là hý luận, không phải Bồđề. Những pháp không hý luận: Không, Vô tướng, Vô nguyện là Bồđề. Lại nữa, thiện nam! Cũng còn nói: Tất cả pháp là Bồ-đề, tất cả pháp không phải là Bồ-đề.

Hỏi:

–Do nghĩa gì mà tất cả pháp là Bồ-đề, tất cả pháp không phải là Bồ-đề?

Đáp:

–Đối với các pháp, nếu chấp có ngã sở thì không phải là Bồđề, hiểu biết tất cả pháp bình đẳng, chân như, là Bồ-đề. Lại nữa, thiện nam! Bồ-đề là tịch tĩnh, tịch tĩnh nghĩa là: Chân như của các pháp.

Hỏi:

–Thiện nam! Dựa vào pháp nào mà nói là chân như.

Đáp:

–Chân như là không, không là không sinh, không diệt.

Hỏi:

–Nếu thế thì các pháp là không, nên các pháp không sinh diệt?

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Thiện nam! Như lời ông nói, các pháp là không sinh diệt.

Hỏi:

–Nếu thế, vì sao Như Lai nói: “Các pháp hữu vi đều là sinh diệt.” Câu đó có nghĩa gì?

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Thiện nam! Vì phàm ngu si tham đắm pháp sinh diệt, chư Phật, Như Lai dùng lòng Từ bi bảo hộ kẻ kinh sợ, tùy thuận Thế đế, nên nói các pháp sinh diệt, nhưng các pháp thì không sinh diệt. Vì vậy, thiện nam! Đại Bồ-tát nên biết về Phật, Pháp, chúng sinh, tự thân, Pháp thân.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Sở Phát muốn nhắc lại ý nghĩa ở trên nên nói kệ:

Phật và Phật ra đời
Thế pháp của chư Phật
Bồ-tát không phóng dật
Nên biết như pháp đó.
Đủ các thiện, vô lậu
Phật Bậc Trí tối cao
Tùy tâm thành chúng sinh
Tu thiện, tạo nhân duyên.
Có khả năng biết được
Tất cả các pháp đó
Người này tu các hạnh
Nếu biết được chư Phật
Bồ-đề không người cho
Cũng không có người nhận
Biết đúng pháp tự thân
Là bậc giác, giác ngộ.
Nếu biết được thân mình
Là tướng không chân thật
Là biết đúng như Phật
Và biết pháp Bồ-đề.
Chỉ là tướng hư vọng
Phân biệt cho chúng sinh
Bồ-tát biết như thật
Là các tướng mộng huyễn.
Hiểu sai hay biết đúng
Không ai tỏ hạnh này
Ai điều phục ngựa căn
Nương vào định để biết.
Người ấy không oán thân
Làm và không có làm
Cũng không pháp bỏ giữ
Đó là chân pháp tập.
Vì hiểu sai các pháp
Nên nói về pháp ác
Pháp tham và lìa tham
Thấy thanh tịnh, bình đẳng.
Hiểu sân, si cũng vậy
Đó là chân Pháp tập
Vì lợi ích chúng sinh
Phát tâm Từ bi lớn.
Mà không thấy chúng sinh
Nếu tách rời chân không
Bết các pháp như vậy
Bình đẳng, không nhơ uế.
Được đảo báu, chốn giác
Sáng suốt thành Chánh giác
Như thầy huyễn thế gian
Phát tâm độ người huyễn.
Huyễn không đắm chấp huyễn
Vì chưa bao giờ có
Biết ba cõi như huyễn
Phát tâm Bồ-đề lớn.
Để độ thoát chúng sinh
Biết đúng về chúng sinh
Thân mình như hư không
Tự tánh chúng sinh không.
Ở đâu cũng thấy pháp
Kham sống với thù thắng
Không thực hành các pháp
Cũng chẳng bỏ pháp ấy.
Vì không hành, không bỏ
Được ở nơi tịnh hạnh
Nếu sống đúng như thật
Tâm pháp giới bình đẳng.
Được chư Phật nghĩ nhớ
Sẽ thành Bậc Đại Giác
Thân mình cũng như Phật
Và được Phật thọ ký.
Thấy pháp đó bình đẳng
Được chư Phật nghĩ tới
Được nơi không chướng ngại
Chứng diệt vào thế gian.
Mọi chốn không lỗi lầm
Lấy đại Bi làm thân
Bồ-tát nào có trí
Mong muốn đạt Pháp tập
Tu tập pháp hành này
Sẽ đạt được Pháp tập.

Lúc Bồ-tát Vô Sở Phát nói kệ này, có sáu vạn hai ngàn Bồ-tát đạt pháp Nhẫn vô sinh, tám ngàn Thiên tử xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh. Bồ-tát Vô Sở Phát lại nói với Bồ-tát Phấn Tấn Tuệ:

–Thiện nam! Bồ-tát nên tu hành Pháp tập về Thật đế. Vì sao? Vì các Bồ-tát lấy trí Thật đế làm Pháp tập. Thiện nam! Thế nào là Thật đế? Thiện nam! Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đến lúc chết vẫn không bỏ tâm ấy và không bỏ chúng sinh, đó là Thật đế của Đại Bồ-tát. Nếu Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà đến lúc nào đó bỏ tâm ấy và bỏ chúng sinh, thì Bồ-tát đáng bị chê trách, là người nói dối nhất.

Hỏi:

–Thế nào là Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lại không bỏ tâm ấy và không bỏ chúng sinh?

Đáp:

–Bồ-tát biết về Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế là Bồ-tát không bỏ tâm Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-tát biết Thật đế, nên tâm Bồđề không thoái chuyển.

Hỏi:

–Thế nào là Khổ? Làm sao biết Khổ?

Đáp:

–Thân ngũ ấm bị ái bắt, ái dằn vặt là khổ. Bồ-tát biết Khổ đó là không, không thọ mạng, không ngã, ngã sở, chỉ do nhân duyên hòa hợp sinh ra, đó là biết Khổ. Bồ-tát thấy Khổ là do Tập, giả dối, không bền chắc, không thọ mạng, đó là biết Tập. Bồ-tát biết Khổ đó không đến từ quá khứ, không đi về vị lai, không dừng ở hiện tại, vô thỉ vô chung, tự thể xưa nay vắng yên, rỗng lặng, đó là biết Diệt.

Hỏi:

–Diệt pháp là gì?

Đáp:

–Thiện nam! Diệt thì không thể nói được.

Hỏi:

–Nếu Diệt đã không thể nói được thì cớ sao gọi là Diệt?

Đáp:

–Thiện nam! Diệt chính là pháp của khách trần: phiền não, chướng ngại, không thật, giả dối phân biệt. Bồ-tát không phân biệt các pháp không thật đó thì gọi là Diệt. Diệt, nhưng pháp hư vọng xưa nay vốn không có pháp để diệt, vì thế Như Lai nói: “Các pháp xưa nay vốn vắng lặng.” Hỏi:

–Thiện nam! Cớ sao Như Lai nói Bồ-tát không chứng diệt, nếu Bồ-tát chứng diệt là Bồ-tát rơi vào quả vị của Thanh văn, Bích-chiphật?

Đáp:

–Thiện nam! Chứng tức là thấy trong thực tại, những pháp diệt thì không thể thấy trong thực tại. Vì thế, Như Lai nói pháp Diệt thì không thể thấy được, nếu không thấy được thì không chứng được, do đó Như Lai nói Bồ-tát không thể thấy và chứng diệt. Vì ý nghĩa ấy Như Lai nói: “Bồ-tát không chứng diệt, Thanh văn nắm bắt pháp tướng nên chứng diệt.”

Niệm những gì, quán những gì, hành những gì thì thấy biết, quyết định như vậy, đó là biết Đạo. Thiện nam! nếu cho khổ là ngã thì ngã đó có tướng, đó là biết Tập. Bồ-tát thấy Tập nhưng không thấy pháp nào có khả năng Tập, đó là biết Diệt. Quán sát, tìm tòi như vậy là biết Đạo.

Lại nữa, thiện nam! Tâm đắm vướng nơi bất cứ pháp nào đều gọi là Khổ. Vì sao? Thiện nam! Như Lai thường nói tâm tham đắm là Khổ, tâm đắm chấp đó không thật, do tâm đắm chấp có Tập, đó là Tập, nếu không có khổ bị đắm chấp là Diệt, không đắm chấp nơi trí nào là biết Đạo. Thiện nam! Nay tôi dựa vào trí Thật đế để nói về các Bồ-tát, dù trong một kiếp hay vô số kiếp cũng không thể nói hết.

Lúc nói về trí Thật đế, có sáu vạn Bồ-tát nương nơi Thật đế tu tập trí, đạt địa vị không thoái chuyển, trong hư không có vô số Thiên nữ nghe pháp, xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh.

 

PHẬT THUYẾT PHÁP TẬP KINH

QUYỂN 4

Bấy giờ, Bồ-tát Phấn Tấn Tuệ hỏi Bồ-tát Vô Sở Phát:

–Thiện nam! Thế nào là Trí nơi tâm niệm xứ của Đại Bồ-tát?

Gì là niệm? Thế nào là Tâm niệm xứ?

Đại Bồ-tát Vô Sở Phát đáp lời Bồ-tát Phấn Tấn Tuệ:

–Thiện nam! Đại Bồ-tát lấy trí vô sinh trong các pháp làm trí Tâm niệm xứ, vì trí Tâm niệm xứ trí vô sinh làm tối thắng. Các Bồtát đạt Trí vô sinh, nhờ nghiệp nơi Trí vô sinh nên gọi là Nhất thiết xứ bất loạn, Nhất thiết xứ trực, Nhất thiết xứ bất động. Ví như nước biển không thể lường được, Thanh văn, Bích-chi-phật cũng không thể biết được, do tâm niệm gì mà nghe nhớ đúng giáo pháp của Như Lai thuyết giảng? Tâm niệm của Bồ-tát chỉ Như Lai biết được. Tâm niệm xứ của Bồ-tát có mười: Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ, Pháp niệm xứ, Niệm Phật niệm xứ, Niệm Pháp niệm xứ, Niệm Tăng niệm xứ, Niệm giới niệm xứ, Niệm xả niệm xứ, Niệm Thiên niệm xứ.

Thiện nam! Thế nào là Thân niệm xứ của Bồ-tát?

Bồ-tát suy niệm như vầy: Thân này không từ đau đến, không đi về đâu, không dừng ở hiện tại, vị lai, chỉ do tâm phân biệt hư vọng sinh ra, không người tạo, không thọ mạng, không có trước giữa sau, không dừng yên, không nguồn gốc, không giáo hóa, không thâu giữ, chỉ căn cứ trên ngôn ngữ khach trần mà nói, hoặc trên thân thể, hình trạng, tính chất, các nhập, hoặc quán sát thân này không bền chắc, chỉ do tinh cha huyết mẹ bất tinh hòa hợp sinh ra. Thân thể là sự nhơ uế, tham, sân, si, lo sợ, là giặc loạn, bị hư hại không dừng, lấy vô số trăm ngàn bệnh làm nhà.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát nghĩ: Thân này từ đầu đến chân do các thành phần tụ tập: chân, ngón chân, gót chân, mắt cá, cẳng chân, đùi vế, đầu gối, xương bánh chè, eo, xương sống, ngực, hông, bụng, gân, tay, ngón tay, khuỷu tay, vai, cánh tay, má, cổ, đầu, mắt, tai; nghiệp là người tạo tác, vô số trăm ngàn vạn ức phiền não, tùy phiền não hư vọng phân biệt làm nhà. Thân này có nhiều thứ bất tịnh: tóc, lông, răng, móng, máu, thịt, da, xương, gan, mật, ruột, dạ dày, bao tử, lá lách, nước mũi, dãi, nước mắt, đại tiểu tiện nhơ uế đáng nhờm. Như vậy, trong vô số vật bất tịnh đó, cái gì là thân? Đại Bồ-tát quán sát thân, suy xét thân này là không thật, giống như hư không, đó là Niệm xứ như hư không của Bồ-tát. Cứ thế suy xét thấy các pháp đều như hư không. Bồ-tát biết thân này như vậy nên không động tâm, không trụ tâm trong các pháp, đó là trụ Niệm xứ của Bồ-tát. Do trụ niệm, Bồ-tát biết thân Bồ-đề cũng như vậy, nó không thể nắm bắt được, nên sinh tâm nhàm chán. Vì sao? Vì tất cả đều là tà niệm chẳng phải chánh niệm, nhàm chán tất cả các pháp. Đó gọi là Thân niệm xứ của Đại Bồ-tát

Lại nữa, thiện nam! Thế nào là Thọ niệm xứ của Bồ-tát?

Bồ-tát khởi tâm như vầy: Thọ là cảm giác, cảm giác đó có ba: điên đảo, không điên đảo, không phải cả hai. Thọ điên đảo là tâm tán loạn của phàm phu, xem vô thường là thường, khổ là vui, vô ngã là ngã, bất tịnh là tịnh. Thọ không điên đảo là biết thọ vô thường là vô thường, thọ khổ là khổ, thọ vô ngã là vô ngã, thọ bất tịnh là bất tịnh. Đó là sự hiểu biết về thọ của Thanh văn, Bích-chi-phật, nên gọi là thọ không điên đảo. Bỏ hai thọ trên, là biết thọ vô thường không phải là thường, không phải là vô thường. Biết thọ khổ không phải là khổ, không phải là không khổ. Biết thọ vô ngã không phải là ngã không phải là vô ngã. Biết thọ bất tịnh không phải tịnh không phải bất tịnh đó gọi là Thọ niệm xứ của Bồ-tát. Bồ-tát biết thọ như vậy nhưng không thấy có chủ thể thọ, đối tượng được thọ. Bồ-tát xét: Như Lai thường nói tất cả pháp hữu vi là thọ. Nếu xem tất cả pháp là thọ thì trong đó pháp nào là thọ. Không xem đối tượng được thọ là chủ thể thọ vì đối tượng được thọ không phải là chủ thể thọ, không phải pháp vô vi là chủ thể thọ của pháp hữu vi, ngoài pháp vô vi, hữu vi không có người thọ, Bồ-tát cảm thọ không thấy chủ thể thọ, đối tượng được thọ, giáo hóa người cảm thọ, Bồ-tát thấy chủ thể, đối tượng thọ của Bồ-đề cũng vậy. Đó gọi là Thọ niệm xứ của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, thiện nam! Thế nào là là Tâm niệm xứ của Bồ-tát?

Thiện nam! Bồ-tát suy xét thọ ấy chỉ do tâm, nhưng tâm vô hình không dừng trụ, không nắm bắt được. Những pháp nào vô hình không thể nắm bắt được thì pháp nơi đối tượng được thọ đó ra sao? Không phải tâm, không phải sự thấy biết của tâm. Lại xét tâm do duyên gì sinh? Thấy các tâm đều do cái khác mà có, Bồ-tát không thấy ngoài tâm mà có Bồ-đề, biết tâm pháp này chính là Bồ-đề, lúc đó, Bồ-tát đạt tâm tự tại trong Đại thừa, tâm bình đẳng với chúng sinh. Lúc ấy, Bồ-tát trụ trong Đại thừa, không nương nhờ lực khác. Đó gọi là Tâm niệm xứ của Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Pháp niệm xứ của Bồ-tát? Thiện nam! Bồ-tát sinh chánh niệm với pháp gì? Pháp thiện, bất thiện, đáng chê, không đáng chê, hữu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế gian, Thanh văn, Bích-chi-phật, phàm phu, chẳng phải phàm phu, Bồ-tát sinh chánh niệm đối với những pháp đó, khéo léo biết được nghiệp thiện nhu hòa, khéo tu tập và tu tập rốt ráo, tu tập tự lực, tự tại, biết pháp bình đẳng, không sinh diệt, không thấy pháp nào ngoài Không, Vô tướng, Vô nguyện. Bồ-tát suy nghĩ các pháp không có thọ mạng vì tự tánh tịch tĩnh, các pháp không có ngã vì tự tánh không hai, không chướng ngại vì tự tánh như hư không, không phân biệt vì không còn tâm, ý, thức, các pháp vắng lặng vì tự tánh không phiền não, không ngôn ngữ vì tự tánh không thể nói được, không chấm dứt vì tánh vô vi thanh tịnh, không thể đếm vì vượt ngoài số lượng, ngay thật vì vượt qua sự hý luận, không có nguồn gốc vì không có nhân, không lỗi lầm vì nguồn gốc thanh tịnh, không đến vì không có hình tướng, không đi vì không dừng, sáng suốt vì tự tánh vốn rỗng lặng, không vì do duyên sinh, không tranh cãi vì không phân biệt, nương vào trí lực vì tùy ý niệm mà biết, là Bồ-đề vì là cảnh giới của trí, chỉ là danh tự vì không có vật chân thật, lìa sự thấy vì không thể thấy được, không trói buộc vì không hình tướng, không đi vì thể của nó là chân như, có một lãnh vực vì trong pháp giới chân thật nó không sai khác, không sai khác vì thật đế bình đẳng. Bồ-tát quán xét các pháp như vậy, tu hành tất cả pháp, không thấy sự sai khác của chúng sinh, pháp, diệu pháp, không thấy trói mở, thế gian Niết-bàn, không xả bỏ, không nắm giữ, không hành, không trụ, không thâu nhận, không rời bỏ, trụ trong vắng lặng, bất động. Chư Phật, Như Lai thấy được sự vắng lặng giải thoát đó, Bồ-tát ở trong cõi Phật được Phật truyền trao quả Vô thượng Bồ-đề. Đó là Pháp niệm xứ của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, thiện nam! Thế nào là Bồ-tát niệm Phật? Bồ-tát tu hành niệm Phật, nghĩ đến tất cả chúng sinh, vì chúng sinh mà thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát an trụ nơi Niệm xứ như vậy. Niệm chư Phật, Như Lai có mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, Bồ-tát nghĩ mình phải thành tựu các pháp của Phật. Lại nghĩ: Chư Phật Như Lai có những niệm như thế không thể nghĩ bàn, rộng lớn, thanh tịnh không nhơ, sáng suốt, đoạn trừ hết phiền não kết sử và phiền não tập khí, xem trí tuệ là hàng đầu, trí tuệ là sự tăng thượng vì vô vi của chư Phật tăng thượng cho đến tất cả pháp được chứng đắc tăng thượng, xa lìa tất cả phiền não trí chướng; tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không thể suy lường được, dùng không phân biệt làm thể, dùng tự nhiên không chướng ngại làm vô hành vô ngại, vô trụ, soi tâm chúng sinh như hư không, không phân biệt. Chư Phật Như Lai có niệm như thế. Bồ-tát niệm như thế là niệm kho tàng tài bảo của chư Phật Như Lai. Niệm tất cả các pháp như thế gọi là niệm Phật. Thiện nam! Chư Phật không niệm cũng không phải là không niệm, đối với tất cả nơi chốn không phân biệt. Chư Phật Như Lai đều có niệm như thế. Bồ-tát nghĩ đến niệm kia cho nên gọi là niệm Phật. Với chư Phật, với tất cả chúng sinh, với tất cả các pháp không có tướng sai khác. Niệm như thế gọi là niệm Phật. Chư Phật không phân biệt cũng không phải không phân biệt, không thủ cũng không phải không thủ, không đi cũng không phải không đi, không sinh không diệt. Niệm như thế nên gọi là niệm Phật.

Lại nữa, thiện nam! Chư Phật, Như Lai trang nghiêm bằng công đức trí tuệ, thực hành bằng tâm đại Từ bi, cứu thoát bằng việc độ chúng sinh, là thầy thuốc giỏi chặt bỏ dây phiền não trói buộc, bình đẳng với chúng sinh, thường ở trong cảnh giới Tam-muội tịch tĩnh, không trụ Niết-bàn ngoài thế gian, qua khỏi bờ phiền não chướng sở tri chướng, nương sống trên chúng sinh, diệt các Sinh thân đắc Pháp thân, trụ trong cảnh giới pháp, ở đâu tâm cũng không chướng ngại, luôn tạo lợi ích cho chúng sinh, thân khẩu không lỗi lầm, không thọ ký giả dối, làm mọi việc không thể chê trách, thân, khẩu, ý nghiệp xa lìa phiền não tham, sân, si, hàng phục với ma chướng, ngoại đạo, không tranh tụng với thế gian, sâu xa như biển lớn thế gian, nặng như núi Tu-di, vững chắc như đất, mềm mại như nước, sáng tỏ như lửa, không vướng mắc như gió, không nhơ uế như hư không, đi nhanh như ý niệm, đi lại tự do như ngọc ma-ni, đạt Nhất thiết chủng trí bình đẳng không hai, không đắm chấp nơi chúng sinh, siêng năng độ thoát chúng sinh, đủ vô số sắc thân, âm thanh công đức, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, được Pháp thân rốt ráo không thể suy xét, vượt qua cảnh giới tâm ý thức, dùng tâm minh hành đoạn trừ pháp ác trong ba đường, do đại Bi tăng thượng nên đem công đức cho chúng sinh, như cha mẹ của chúng sinh, bình đẳng trước oán thân, không yêu ghét hương thơm của chúng sinh, ở đâu cũng có ánh sáng lớn không thể hạn lượng được, đạt giải thoát rốt ráo, có tâm rộng lớn, đem báo chánh pháp cho chúng sinh, thành tựu minh hành lớn, là Pháp sư thuyết giảng đại pháp, là đấng Trượng phu thành tựu tướng trượng phu, không ai có thể khuất phục được, soi sáng thế gian, đủ phương tiện đi trong cảnh giới lành, khéo léo giải thoát rốt ráo, thân lớn lao, xem chúng sinh là quyến thuộc, chúng sinh vây quanh thân, học hỏi cúng dường thân cận nhưng không chướng ngại, quên niềm vui chính mình, thích đoạn trừ khổ cho chúng sinh, thích chánh pháp, xem pháp là của báu, là thức ăn, y phục, là cội gốc, là sự tự tại, làm bậc đại pháp sư, thí chủ của pháp nhưng không thấy pháp, không phóng dật, thích vắng lặng, là cây cầu của chúng sinh đi qua như đi trên đường lớn không chướng ngại, như ánh sáng mặt trời xua tan bóng tối, như Đại Phạm vương đại trí Kim cang, là mũi tên pháp lớn, sắc thân thanh tịnh ai thấy cũng thích. Chư Phật Như Lai có những công đức vô lượng như vậy. Niệm những công đức đó xong, Bồ-tát tu hành để thành tựu những công đức ấy, do thành tựu những công đức ấy nên được chánh niệm. Đó gọi là niệm Phật của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là niệm Pháp của Đại Bồ-tát?

Thiện nam! Bồ-tát nghĩ: Tất cả công đức, tướng tốt, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, diệu lạc thế gian, xuất thế gian, của chư Phật đều do pháp sinh ra, do pháp có được, thành tựu và tăng trưởng. Vì thế, để cầu quả Phật Bồ-đề ta phải tôn trọng pháp, nương vào cảnh giới pháp để tu tập rốt ráo bền chắc. Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát lại nghĩ: Các pháp trụ trong bình đẳng, đối với chúng sinh không thấy có sự cao thấp, sai khác, ta cũng phải như pháp, tâm không phân biệt, bình đẳng không sai khác. Khi đối diện cảnh tượng của pháp không tạo nghiệp, vì pháp không bạn bè, ta cũng như pháp, tâm bình đẳng. Khi đối diện với thời gian pháp không tạo nghiệp, vì pháp không có thời gian đến, nhưng bên trong tự giải thoát, ta cũng như vậy, tâm bình đẳng. Đối với chúng sinh cao thấp, pháp không có việc tạo nghiệp, không tạo nghiệp vì pháp không cao thấp, ta cũng như vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Pháp không có việc làm lợi ích cho chúng sinh thanh tịnh, không làm lợi ích cho chúng sinh không thanh tịnh, vì pháp không có tâm cao thấp, ta cũng như vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Pháp không có việc làm lợi ích cho Thánh nhân, không làm lợi ích cho Phi thánh nhân, vì pháp không có tâm phân biệt ruộng phước hay không ruộng phước, ta cũng như vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Không phải ban ngày pháp làm lợi ích, ban đêm không làm lợi ích, không phải ban ngày không làm lợi ích, ban đêm làm lợi ích, vì pháp luôn làm lợi ích, ta cũng vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Pháp không giáo hóa chúng sinh phi thời, ta cũng vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Pháp không làm lợi ích cho chúng sinh không sân, không tổn hại chúng sinh có sân, vì pháp không đắm chấp, ta cũng như vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Pháp không thêm bớt, pháp rộng lớn vô số a-tăng-kỳ như hư không không cùng tận, không tăng thêm, ta cũng vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Chúng sinh không hộ pháp, pháp không hộ chúng sinh, ta cũng vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Pháp làm chỗ nương tựa cho chúng sinh, ta cũng vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Pháp không có tâm sân hận, não hại, vì không có tướng não hại, ta cũng vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Pháp không trụ trong kết sử phiền não vì đã xa lìa, ta cũng vậy, tâm bình đẳng không sai khác. Pháp không sợ thế gian, cầu Niết-bàn vì pháp không phân biệt, ta cũng vậy, tâm bình đẳng không phân biệt. Bồ-tát chánh niệm về pháp như vậy. Này thiện nam! Đó gọi là niệm Pháp của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là niệm Tăng của Đại Bồ-tát?

Thiện nam! Bồ-tát suy nghĩ: Tăng là người nói lời như pháp,

hành pháp, suy nghĩ pháp, ruộng phước của pháp, giữ gìn pháp, nương tựa pháp, cúng dường pháp, làm đúng pháp, sống đúng cảnh giới pháp, tu hành thành tựu pháp, thật pháp, trực pháp, thật thanh tịnh pháp, cứu độ chúng sinh, đại Từ bi, cảnh giới thường tịch tĩnh, luôn quy y pháp, tự tịnh hành pháp. Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát suy nghĩ: Đức Như Lai nói: Tăng không phải chỉ có một hạng, mà có nhiều hạng: Thế đế, Đệ nhất nghĩa đế, Tàm quý, Không tàm quý, Thánh nhân, Điều phục, Bất thoái chuyển. Lại nữa, thiện nam! Đối với Thế đế tăng thì Bồ-tát tu hành bằng cách bảo hộ, với Đệ nhất nghĩa đế tăng thì cúng dường, với Tàm quý tăng thì làm cho họ giải thoát, với Không tàm quý tăng thì chê trách, với Thánh nhân tăng thì cúng dường, cung kính, gần gũi, với Điều phục tăng thì tu hành như Phật, với Bất thoái chuyển tăng thì thuyết pháp.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát lại nghĩ: Tăng là người không đoạn trừ hạt giống Phật vì là đệ tử Phật, là người đem đến quả báo vui vì là ruộng phước, là người trừ bỏ phiền não vì không lo sợ, là người không chấp trước vì đã giải thoát, là người tịch tĩnh vì đã điều phục tâm, người không tạp nhiễm vì không còn phiền não, người trừ bỏ pháp ác vì có hổ thẹn, người nói tùy thuận vì hóa độ được, người tự biết mình vì không kiêu mạn, người tịch tĩnh vì không tâm cao ngạo, người tri túc thì không tâm điên đảo, người đoạn trừ phân biệt vì không bệnh, đến chỗ vi diệu vì không còn lo sợ, biết như thật vì không phóng dật, giải thoát vì đã đến bờ bên kia, không ác vì sống hạnh thanh tịnh, an lạc vì rốt ráo là đạt đến đạo tràng, biết ba học vì tu hạnh đệ tử, thực hành bốn Niệm xứ vì tu hành vượt các vọng niệm, tu bốn Chánh cần vì siêng năng tu tập, tu bốn Như ý túc vì không mỏi mệt, tu năm Căn vì không phá hoại, tu năm Lực vì chế phục các phiền não trói buộc, tu bảy Giác chi vì không chướng ngại, tu tám Chánh đạo vì hiểu đúng, tu Thật đế vì đạt được chỗ quy về, tu Thiền định vì tâm định, tu tập nhân duyên vì chuyển được bánh xe pháp, đại Từ bi vì đạt quả vị không thoái chuyển, đủ các công đức vì trong một đời đạt được đại Bồ-đề. Thiện nam! Niệm Tăng như vậy rồi, Bồ-tát lại nghĩ: Tăng có vô lượng công đức như thế, ta mong muốn đạt được và làm cho chúng sinh thành tựu rốt ráo. Này thiện nam! Đó gọi là niệm Tăng của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát niệm Giới?

Thiện nam! Bồ-tát nghĩ: Tất cả những quả báo thù thắng của thế gian, xuất thế gian đều do trì giới mà có. Vì sao? Vì nhờ nguồn lực của giới tịnh. Thiện nam! Ví như đất là gốc của cỏ cây, cũng vậy, giới là cội rễ của hết thảy quả báo thù thắng ở thế gian. Đại Bồ-tát sống trong giới sẽ là ruộng phước cho trời, người, vì đem lại đầy đủ công đức cho người bố thí. Thiện nam! Bồ-tát trụ trong giới thì hoan hỷ, vì hoan hỷ nên không buồn lo, vì không buồn lo nên tâm thư thái, vì thư thái nên thân tâm vui vẻ, vì vui vẻ được tâm vui và đạt Tammuội, vì đạt Tam-muội nên biết như thật, Bồ-tát từ bi với chúng sinh. Bồ-tát nghĩ: Ta nên làm cho chúng sinh thành tựu Tam-muội, với trí như thật, Bồ-tát huân tập bằng tâm đại Từ bi, nương đại Từ bi tu tập giới định tuệ, tăng thượng viên mãn, đạt quả Vô thượng Bồ-đề. Vì vậy, ta nên tu trì giới vi diệu, không lay động, không phóng dật, ta nghĩ đến chúng sinh mà giữ giới. Vì sao? Vì Bồ-tát không nghĩ đến chúng sinh mà giữ giới thì không phải là giới Bồ-tát, Bồ-tát vì sự an ổn vui vẻ của chúng sinh mà giữ giới tịnh. Lại nữa, thiện nam! Bồtát nghĩ: Bồ-tát xuất gia giữ giới tịnh thì lánh xa mọi việc thế gian, mặc áo hoại sắc thì bỏ hết mọi việc yêu quý, giữ giới tịnh để thân khẩu ý thanh tịnh, thích giữ giới thì đầy đủ sáu thông, sống yên trong giới tịnh thì đầy đủ pháp Bồ-đề phần, nghe diệu pháp thì đầy đủ bốn trí vô ngại, học hỏi nhiều, tu trí tuệ thì không có tâm cao ngạo, gần gũi bạn tốt thì đầy đủ công đức, tu Trí ba-la-mật thì đủ Nhất thiết trí, nghe pháp nói đúng pháp thì làm bậc Đại pháp sư, nghe pháp suy xét thì đạt Đà-la-ni, niệm tâm Bồ-đề thì vượt qua các pháp ác, đầy đủ giới, không có tâm tổn hại thì không mất tâm Bồ-đề, không mất tâm Bồ-đề thì không mất tâm Tam bảo. Bồ-tát lại nghĩ những ai tu trì giới cấm đáng được bảo hộ thì bảo hộ. Đó gọi là Đại Bồ-tát niệm Giới.

Thiện nam! Thế nào là niệm Xứ của Đại Bồ-tát?

Thiện nam! Bồ-tát nghĩ: Tất cả những pháp đáng xả bỏ đều thuộc hai loại xả: pháp, tài. Thiện nam! Bồ-tát bố thí vật thì đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, thí pháp thì đầy đủ mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, đoạn trừ phiền não và tập khí phiền não. Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát thí vật thì đoạn tâm keo kiệt, thí pháp thì vượt qua quả vị Thanh văn, Bích-chi-phật, thí vật thì làm thanh tịnh thân, thí pháp thì làm thanh tịnh Pháp thân. Thí vật thì cho được thân cha mẹ sinh ra, ai có lực thí này? Ngoài Bồ-tát Sơ địa ra, không ai có được. Thí pháp thì thành tựu ý thông lực, ai có lực này? Ngoài chư Phật, Như Lai và Bồ-tát trụ địa ra không ai có được. Thí vật thì giáo hóa được chúng sinh, thí pháp thì làm chúng sinh giải thoát. Thí vật thì được các công đức, thí pháp thì đến được bờ bên kia. Thí vật thì chỉ là bố thí một nửa, thí pháp thì bố thí tất cả, thí vật thì đoạn trừ phiền não chướng, thí pháp thì đoạn sở tri chướng. Lại nữa, xả chính là bỏ hư vọng phân biệt. Vì sao? Vì Bồ-tát xả hư vọng phân biệt nên được thanh tịnh.

Bồ-tát hỏi:

–Hư vọng là pháp gì?

Đáp:

–Thiện nam! Hư vọng là pháp hý luận không thật.

Hỏi:

–Thế nào là pháp hý luận không thật?

Đáp:

–Người nào suy nghĩ: Ta tham, sân, si, nhiễm, tịnh, bất tịnh, sống trong thế gian, nhập Niết-bàn, đó là pháp hý luận, không thật, do hư vọng phân biệt. Vì sao? Vì tất cả chỉ là nhân duyên, không có ngã, ngã sở, chúng sinh, thọ mạng, người tạo tác, người dạy dỗ. Tự tánh của nhân duyên là không, vắng lặng, vượt tâm, ý, thức. Nhân duyên đó không thể suy nghĩ phân biệt, không thể làm nhiễm ô, thanh tịnh, không sống trong thế gian, không nhập Niết-bàn. Bồ-tát biết pháp hư vọng không được nghĩ là có thật, bỏ hết tâm đó nên gọi là xả. Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát có ba loại xả: Xả, Đại xả, Tăng thượng xả. Thế nào là Bồ-tát xả? Những thứ thức ăn, gạo lúa, kho lẩm, y phục, ngựa xe, đèn, hương hoa, hương xoa, hương bột, cờ phướ lọng báu, anh lạc, mũ, vàng bạc, châu báu không phải là những vật não hại chúng sinh, chỉ trừ việc hại chúng sinh ra, không có vật gì là không xả. Thế nào là Đại xả của Bồ-tát? Thiện nam! Khi thành tựu pháp xả rồi, Bồ-tát còn cho cả những vật yêu quý như vợ con, trai gái, nô bộc lớn nhỏ, sứ thần quan lại, nhà cửa ruộng vườn, đất nước, ngôi vua. Thế nào là Tăng thượng xả của Đại Bồ-tát? Thiện nam! Vì Bồ-tát thành tựu xả và Đại xả nên thành tựu Tăng thượng xả, tức là cho cả tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, tủy, não, máu, thịt, gân, cốt, môi, lưỡi, răng, tóc, da, móng. Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát Niệm xả, Đại xả, Tăng thượng xả như thế và quyết phải thành tựu rốt ráo, bấy giờ mới được gọi là Bồ-tát niệm Xả. Này thiện nam! Đó gọi là niệm Xả của Đại Bồ-tát.

Thiện nam! Thế nào là niệm Thiên của Đại Bồ-tát?

Thiện nam! Bồ-tát niệm thanh tịnh thiên, tức là niệm Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, chư Phật, Như Lai. Thế nào là niệm? Tức là niệm sự tu hành công đức, sự bất sinh, cảnh giới thọ hưởng hành khởi đầu sự thành tựu của những bậc đó. Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát niệm chư Thiên. Thế nào là niệm chư Thiên? Là nghĩ đến sự tu hành nghiệp thiện được quả báo thù thắng. Tu nghiệp thiện gì? Tu mười việc lành, xa lánh việc ác, nhờ nhân lành này mà được quả báo thù thắng, các căn thanh tịnh, an lạc, xinh đẹp. Bồ-tát phát tâm đại Bi, tùy hỷ với quả báo thù thắng ấy, cùng chúng sinh hồi hướng quả báo thù thắng đó lên đạo Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát lại nghĩ: Ta làm cho chúng sinh được an lạc thù diệu, lại vì thành tựu căn lành ấy nên luôn siêng năng, phát tâm đại Bi với chúng sinh ở đường ác. Bồ-tát nghĩ: Ta nên dạy chúng sinh tu hành nghiệp thiện, sinh lên cõi trời, rồi ở đó đạt quả Vô thượng Bồ-đề. Nghĩ thế, Bồ-tát dạy chúng sinh tu hành nghiệp thiện sinh lên cõi trời, không mất quả báo thù diệu của cõi trời, từ an lạc đó mà hướng diệu lạc vô thượng, đó là an lạc tịch tĩnh vi diệu của Như Lai. Đó gọi là Bồ-tát niệm Thiên.

Này thiện nam! Đó gọi là mười loại niệm xứ của Đại Bồ-tát.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Vô Sở Phát muốn lặp lại ý nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Không thấy pháp là khổ
Vì khổ đó là không
Nếu không bỏ pháp Khổ
Chẳng đạt được pháp Không.
Ai muốn thấy pháp không
Hãy xem thật nghĩa khổ
Vì khổ là nghĩa không
Không là pháp Vô vi.
Khổ không có người làm
Khổ không phải pháp làm
Ngoài khổ ai tạo tác?
Cũng chẳng có trước sau.
Không có Tập chân thật
Nếu thật có Tập khổ
Thì Tập đó ở đâu?
Vì khổ không người làm.
Khổ không từ đâu đến
Cũng chẳng đi về đâu
Hòa hợp với pháp gì?
Ngoài khổ chỗ nào có?
Ái chính là pháp Tập
Nếu từ Tập có khổ
Ái thật chẳng có ái
Ngoài ái, Tập là gì?
Khổ không từ đâu đến
Làm sao có vị lai?
Diệt chính là pháp định
Vượt ngoài pháp đến đi.
Tự tánh pháp vắng lặng
Nguồn gốc sáng thanh tịnh
Các pháp đều thanh tịnh
Vì vượt ngoài trước sau.
Nếu trước có pháp sinh
Sau ắt sẽ diệt mất
Ngoài diệt cái gì sinh
Không sinh chẳng có diệt.
Như vậy người tu trí
Gọi là đạo vô lậu
Đạo ví như chiếc bè
Nên phải bỏ bè đi.
Nếu tích tụ pháp xả
Pháp đó có gì vui
Bỏ đạo ở nơi tịnh
Là người được giải thoát.
Người được tướng giải thoát
Không tranh với các pháp
Không ở trong các pháp
Đã chứng đạo chân như.
Tóc, lông và răng, móng
Mỡ, da, máu, thịt, xương
Đàm dãi, đại tiểu tiện
Gan, mật và não, màng.
Tim, phổi, ruột già non
Nhóm họp gọi là thân
Nhà hư vọng phân biệt
Người trí quán sát vậy.
Không có người tạo tác
Và chẳng có người thọ
Như làng xóm trống vắng
Như là thân hư vọng.
Nếu xem thọ là thọ
Ai là người năng thọ
Năng thọ ngoài sở thọ
Sai khác không có được.
Người trí nghĩ như vậy
Là người quán sát thọ
Tướng đó như Bồ-tát
Tịch diệt, sáng thanh tịnh.
Trong thân không thấy tâm
Trong tâm không thấy tâm
Người này thoát phiền não
Tuy thoát nhưng không vui.
Xem pháp đều do tâm
Xa lìa sự phân biệt
Không bỏ hạnh Chân như
Vì đạt nơi không ngại.
Các pháp không tự sinh
Không do cái khác sinh
Vượt hết các tướng, số
Bình đẳng như hư không.
Người trí biết như thật
Pháp ấy không tướng đi
Và không có tướng trụ
Vì trụ trong bình đẳng.
Nếu suy nghĩ như vậy
Đối pháp không lay động
Người này được giải thoát
Ruộng phước như chư Phật.
Biết các pháp là thật
Không hề có nhơ uế
Tu tập pháp thanh bạch
An ổn các chúng sinh.
Niệm diệu sắc tịch tĩnh
Và nghĩ đến công đức
Bồ-tát đủ các pháp
Sẽ được đạo Vô thượng.
Bồ-tát này cúng dường
Các Đức Phật ba đời
Sống trong pháp không động
Vì luôn ở cảnh định.
Khéo mặt giáp kiên cố
Nghĩ cảnh giới diệu pháp
Đạt Vô thượng Bồ-đề
Hạnh kiên cố Bồ-tát.
Ta cũng được như pháp
Ai nghĩ được như vậy
Nên biết niệm pháp này
Nghĩa là các Bồ-tát.
Không còn ngã, ngã sở
Ta cũng đạt như pháp
Ai niệm được như vậy
Là tu niệm diệu pháp.
Chư Tăng đệ tử Phật
Là ruộng phước vô thượng
Sẽ được được Bồ-đề
Thường niệm về chư Tăng.
Như biển không lường được
Ta niệm về chư Tăng
Hồi hướng công đức ấy
Mong tất cả thành Phật.
Giữ giới không thoái chuyển
Ta niệm giới hạnh ấy
Mong muốn cùng chúng sinh
Hồi hướng các công đức.
Lên đạo Vô thượng này
Để an lạc rốt ráo
Đó chính là niệm giới
Đem vui đến chúng sinh.
Thí tài vật và pháp
Lại bỏ các phiền não
Vì chúng sinh hồi hướng
Phước lên đạo Vô thượng.
Là thành tựu niệm xả
Không trụ trong Nhị thừa
Lìa tướng, tự nhiên hành
Như mặt trời sáng soi.
Tất cả các phàm, Thánh
Đều là nhờ nghiệp thiện
Đem những nhân quả ấy
Thương yêu cho chúng sinh.
Các diệu hạnh như vậy
Để được lạc tăng thượng
Sẽ ở trong cõi trời
Thành Vô thượng Chánh giác.

Bấy giờ, hai Đại Bồ-tát Vô Sở Phát, Phấn Tấn Tuệ và quyến thuộc đều đến chỗ Phật. Đến nơi, họ cúi đầu lạy sát chân Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, vâng lời Phật ngồi qua một bên. Hai vị Bồ-tát bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các Đức Phật, Như Lai đều biết rõ các pháp không chướng ngại, lúc hai con ở đài Diệu bảo trong lầu gác đẹp nói Pháp tập, có tùy thuận Phật ý không?

Phật bảo:

–Thiện nam! Đúng như lời hai ông nói, chư Phật Như Lai biết rõ các pháp không chướng ngại. Thiện nam! Pháp tập mà hai ông giảng thuyết rất thuận ý ta. Thiện nam! Các Bồ-tát thuyết pháp được đều do thần lực của Như Lai. Hay thay! Hay thay! Thiện nam! Các ông vui thích giảng thuyết Pháp tập. Các Bồ-tát nào muốn thuyết Pháp tập nên thuyết giảng như các ông. Các ông giảng thuyết Pháp tập là đã làm việc làm của Như Lai. Thiện nam! Ta rất vui với việc các ông giảng thuyết Pháp tập.

Lúc ấy, Tuệ mạng Xá-lợi-phất hỏi Đại Bồ-tát Vô Sở Phát:

–Thiện nam! Vì sao Bồ-tát có tên Vô Sở Phát?

Bồ-tát Vô Sở Phát đáp:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Bồ-tát nào đình chỉ thân, khẩu, ý nghiệp, không tham đắm việc làm, không mong cầu pháp nào, không lìa phiền não, không mong cầu đắc pháp, thấy các pháp quá khứ, vị lai đều là chân như bình đẳng, không thấy pháp có thượng, trung, hạ, vì thế gọi là Vô Sở Phát. Lại nữa, Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả pháp đều là Vô Sở Phát, vì nó vốn không. Xá-lợi-phất! Nếu pháp có sự bắt đầu thì có nơi phát sinh. Các pháp vốn không có sự bắt đầu thì cớ sao lại nói có nơi phát sinh!

Tuệ mạng Xá-lợi-phất hỏi:

–Pháp nếu như vậy thì làm sao nói là Pháp tập?

Bồ-tát Vô Sở Phát đáp:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Tôi là Vô Sở Phát nhưng lại thuyết giảng Pháp tập. Xá-lợi-phất! Tôn giả nghĩ sao? Lời hỏi có chỗ phát khởi để hỏi hay không? Nếu nói có thì do đâu mà có? Song không ngoài pháp mà có chỗ phát khởi và sự hỏi. Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu không thì đã hòa nhập với Pháp tập mà tôi giảng thuyết.

Tuệ mạng Xá-lợi-phất! Tôi có hỏi, Bồ-tát cũng có nói cớ sao nói là Vô Sở Phát?

Bồ-tát Vô Sở Phát đáp:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Lời Tôn giả hỏi và lời tôi nói đều là giả nói, nên biết các Bồ-tát an trụ trong pháp giới chân như mà thuyết giảng. Đại đức Xá-lợi-phất! Người huyễn thì không có tâm, không có tâm sở, chúng sinh cũng đều như vậy. Nếu là như vậy thì làm sao có sự phát khởi! Đại đức Xá-lợi-phất! Do huyễn sư mà có huyễn nên Bồ-tát dựa nơi pháp giới của chân như mà thuyết giảng.

Tuệ mạng Xá-lợi-phất hỏi:

–Thiện nam! Ví như huyễn sư làm việc huyễn không phải thật, không phải không thật. Nếu vậy thì Bồ-tát cũng không phải thật, không phải không thật.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Chư Phật, Như Lai đều biết các pháp đều là tướng huyễn, nên nói các pháp là hư vọng, huyễn giả.

Xá-lợi-phất nói:

–Đúng vậy, thiện nam! Chư Phật, Như Lai biết các pháp như huyễn.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Nên biết, như huyễn là không phải thật, không phải không thật, các pháp đều vậy tức không phải thật, không phải không thật.

Xá-lợi-phất! Nếu các pháp là thật, là không thật thì không được nói các pháp đều như tướng huyễn.

Tuệ mạng Xá-lợi-phất hỏi:

–Thiện nam! Vì sao Đại sĩ hành hạnh Bồ-tát?

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Tôi hành hạnh Bồ-tát không phải vì thật nghĩa, không phải vì không thật nghĩa. Vì sao? Nếu Bồ-tát vì thật nghĩa hành sự thì Bồ-tát ấy thấy có đối tượng để hành sự. Nếu hành sự có đối tướng thì không tùy thuận chư Phật Như Lai. Vì sao? Vì như vậy thì ngay pháp Nhẫn vô sinh còn không tùy thuận được, huống gì là nhập pháp Nhẫn vô sinh. Nếu lìa pháp Nhẫn vô sinh thì không tùy thuận chư Phật Như Lai. Người không vì thật nghĩa để hành sự là hành tà đạo, hành tà đạo là không thật nghĩa.

Tuệ mạng Xá-lợi-phất hỏi:

–Nếu không vì thật nghĩa và không vì không thật nghĩa thì Bồtát hành sự ở đâu?

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Nơi nào tất cả phàm phu hành sự thì Bồtát hành sự ở đó.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Phàm phu hành sự ở đâu?

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Nơi nào chư Như Lai hành sự thì phàm phu hành sự ở đó. Nhưng phàm phu không biết hành sự của chư Phật, tôi cũng hành sự ở đó.

Tuệ mạng Xá-lợi-phất hỏi:

–Nếu phàm phu không biết cảnh giới của chư Phật hành sự, thì cớ sao lại nói phàm phu hành sự ở đâu, chư Phật Như Lai hành sự ở đó?

Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi:

–Tuệ mạng Xá-lợi-phất! Tôn giả nay có thể nhận biết cảnh giới của Phật chăng? đáp:

–Tôi chỉ dựa trên văn tự ấy thì làm sao biết được cảnh giới của Phật! Thiện nam! Nhưng các Thanh văn, nghe lời nói của Như Lai mà phân biệt biết được. Thiện nam! Cảnh giới của chư Phật là vô lượng vô biên, nhưng không ngoài cảnh giới của phàm phu mà có cảnh giới chư Phật.

Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu cảnh giới phàm phu không ngoài cảnh giới của Phật mà có thì vì sao lúc nãy Tôn giả nói phàm phu không biết cảnh giới Phật?

Tuệ mạng Xá-lợi-phất nói:

–Thiện nam! Chư Phật Như Lai vượt khỏi thế gian, phàm phu sống trong thế gian, vì vậy phàm phu không biết cảnh giới của Phật.

Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi:

–Đại đức Xá-lợi-phất! Tôn giả nghĩ sao? Chư Phật Như Lai có chỗ chứng đắc, chỗ an trụ, chỗ tạo lợi ích không?

Xá-lợi-phất đáp:

–Thiện nam! Chư Phật, Như Lai không pháp nào là không biết,

biết rõ các pháp, lại ở trong pháp hữu vi làm lợi ích cho chúng sinh.

Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi:

–Nếu Tôn giả biết như thế thì sao lại nói chư Phật, Như Lai vượt khỏi thế gian? Đây là lời nói mà Tôn giả Xá-lợi-phất không xét kỹ. Xá-lợi-phất! Nếu Như Lai vượt khỏi thế gian thì Như Lai không có đối tượng được chứng đắc, an trụ và chỗ tạo lợi ích. Xá-lợi-phất!

Lời nói của ông đã không hợp.

Khi ấy, Tuệ mạng Xá-lợi-phất nói với Bồ-tát Vô Sở Phát:

–Thiện nam! Không phải chỉ hôm nay tôi mới nêu bày không hợp, mà trong đời quá khứ tôi đã từng thoái thất căn lành và tâm của trí Nhất thiết trí. Thiện nam! Tôi rất vui với biện tài giảng thuyết của ông, nguyện cho chúng sinh đều được biện tài này.

Lúc giảng nói pháp tập này, có tám vạn Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh, sáu vạn Thiên tử xa lìa trần cấu được Pháp nhãn thanh tịnh, năm ngàn Tỳ-kheo chuyển Tâm Thanh văn phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, được Phật thọ ký thành tựu quả vị Chánh giác Vô thượng ở các cõi Phật.

Khi ấy, Đại Bồ-tát Vô Sở Phát bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Làm sao Đại Bồ-tát biết được pháp là có thể chọn lấy?

Đức Phật bảo:

–Thiện nam! Bồ-tát biết rõ các pháp thì Bồ-tát biết được pháp nào có thể chọn lấy.

Bồ-tát Vô Sở Phát thưa:

–Bạch Thế Tôn! Làm sao biết rõ các pháp?

Đức Phật bảo:

–Thấy các pháp như mộng huyễn, thành Càn-thát-bà, dợn nắng, vòng lửa, trăng dưới nước, ảnh trong gương.

Bồ-tát Vô Sở Phát thưa:

–Bạch Thế Tôn! Làm sao để thấy các pháp như mộng huyễn, thành Càn-thát-bà, dợn nắng, vòng lửa, trăng dưới nước, ảnh trong gương?

Đức Phật bảo:

–Thiện nam! Các pháp là mắt-sắc, tai-tiếng, mũi-lưỡi, hươngvị, lưỡi-vị, thân-xúc, ý-pháp. Thiện nam! Xem các pháp như mộng huyễn, thành Càn-thát-bà, dợn nắng, vòng lửa, trăng dưới nước, ảnh trong gương. Chủ thể chọn lấy (năng thủ) là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đối tượng có thể chọn lấy (khả thủ) là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đại Bồ-tát thấy biết và giảng pháp năng thủ, khả thủ nên gọi là Nhất thiết trí. Người đạt Nhất thiết trí thì đoạn trừ mọi kết sử phiền não. Người lìa kết sử phiền não thì không còn ngã, ngã sở, như hư không không phân biệt, bình đẳng với chúng sinh. Nhờ có tâm bình đẳng nên ở đâu đều được tịch tĩnh. Do được tâm tịch tĩnh nên gọi là người tự nhiên hành pháp kiên cố, là người đứng đầu trong chúng sinh, người không bị chướng ngại trong các pháp, người có đại Từ bi, không thể lay động, đạt quả Phật Vô thượng.

Bồ-tát Vô Sở Phát thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát muốn được pháp như chư Phật, Như Lai thì tu hành như thế nào?

Đức Phật bảo:

–Bồ-tát muốn được pháp như chư Phật, Như Lai thì nên phát tâm bình đẳng như mặt đất vì nhẫn chịu được việc ác và lời nói ác của chúng sinh. Lại phát tâm bình đẳng như nước vì rửa sạch trần cấu, phiền não hư vọng phân biệt của mình và chúng sinh. Phát tâm bình đẳng như lửa vì dùng lửa trí tuệ đốt của phiền não của mình và của chúng sinh. Phát tâm bình đẳng như gió vì không còn tham đắm. Phát tâm bình đẳng như hư không vì không còn chướng ngại.

Thiện nam! Bồ-tát như sư tử chúa không kinh sợ, như voi quý điều phục tâm, gánh vác những việc năng nhọc của chúng sinh, như mưa lớn vì mưa những trận mưa tốt, như mặt trời dùng ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả chúng sinh, như trăng sáng vì chúng sinh ở bất cứ nơi nào cũng thấy được điều yêu thích, như chủ buôn lớn vì dắt chúng sinh đến đảo Nhất thiết trí, như thầy thuốc giỏi vì chữa trị bệnh phiền não của chúng sinh, như sự nhổ mũi nhọn vì nhổ những nghi hoặc về các pháp của chúng sinh, như người hướng dẫn con thuyền vì biết rõ Nhất thiết trí, biết các phương hướng, như thuyền vì đưa hết chúng sinh qua biển lớn thế gian, như sông suối ao hồ vì tưới mát cho chúng sinh, như đường chính vì biết chúng sinh đi lại bình đẳng, như đảo báu vì đầy đủ pháp Bồ-đề phần, như ngọc Như ý vì đáp ứng mọi sự cần thiết, đem lợi ích theo sự mong muốn của chúng sinh, như ngựa hay vì chở được chúng sinh mỏi mệt, như biển lớn vì trí tuệ của Bồ-tát sâu xa khó lường, như núi Tu-di vì không bị lay động trong quả Phật Bồ-đề, như các cây báu vì đầy đủ sự trang nghiêm thù thắng, như vàng Diêm-phù-đàn vì khó có được, như vua Đế Thích vì được lực tự tại tăng thượng trong các pháp, như Đại Phạm vương vì đầy đủ oai nghi tịch tĩnh, như Hộ thế tứ Thiên vương vì hộ trì pháp thắng diệu, như Chuyển luân vương vì tu hành mười nghiệp thiện, như đại thần vì giữ gìn pháp bí mật của chư Phật Như Lai. Bồ-tát nên phát tâm xuất gia vì khéo trụ trong pháp Sa-môn, trụ trong pháp Sa-môn vì làm thanh tịnh thân, khẩu, ý nghiệp, ở nơi vắng lặng vì thành tựu thiền định Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, thông minh, giải thoát, trụ trong thiền định vì đạt chân như rỗng lặng sâu xa, trụ trong vắng lặng vì giáo hóa Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, thành tựu pháp chú thuật vi diệu của Thánh nhân, an trụ minh trí vì đầy đủ ba minh, trụ trong sự vắng lặng thù thắng vì thành tựu sáu pháp thần thông tự tại, trụ đa văn tuệ vì biết được các pháp sai khác nơi ấm, giới, nhập, ở chỗ thầy vì biết rõ tất cả các luận, trụ quả vị Pháp sư vì thuyết giảng giáo hóa không vì ăn uống cúng dường, trụ trong pháp Tỳ-ni vì xa lìa phiền não tham, sân, si, trụ trong Luận tạng vì làm thanh tịnh mọi nơi chốn, trụ tâm nhu hòa vì trừ bỏ mọi vọng cầu, không trụ trong tâm trạo cử vì đoạn trừ phiền não tham, không trụ trong tâm cao ngạo vì đạo trừ phiền não sân, không trụ trong lời nói ác vì từ bỏ tâm si, không nói tạp loạn vì thành tựu sự giữ gìn lời nói, trụ nơi Đại sư vì tu hành pháp Đại thừa, gánh vác trách nhiệm nặng nề vì thành tựu tâm đại Bồ-đề, ví như biển lớn vì đầy đủ Nhất thiết trí, công đức, như nô bộc vì thay thế mọi việc khổ nhọc cho chúng sinh.

Lại nữa, thiện nam! Đối với chúng sinh xấu ác, Bồ-tát nhu hòa, với chúng sinh kiêu mạn, Bồ-tát cung kính, với chúng sinh dua nịnh Bồ-tát ngay thật, với chúng sinh sống nơi náo nhiệt, Bồ-tát không có tâm sống nơi náo nhiệt, với chúng sinh không tu hành, Bồ-tát có tâm cứu độ, với chúng sinh không hổ thẹn, Bồ-tát có tâm hổ thẹn, với chúng sinh bàn luận tà vạy, Bồ-tát không kiếp sợ, sống trong đại chúng mà không kinh hãi, không nhiễm pháp thế gian, ma chướng không phá hoại được, ngoại đạo, tà luận không chinh phục được, kính trọng nơi đáng trọng, luôn cúng dường sư trưởng, quý trọng người đa văn, tán thán người đạt thiền định, khâm phục người trí tuệ, kính trọng Pháp sư như Phật, nương tựa các Bồ-tát, hiểu rốt ráo các Đức Như Lai, bền chắc với người tu hành như thật, không sợ phiền não, không chứng Niết-bàn, phát tâm đại Bi sống trong thế gian, vì độ chúng sinh nên không thuyết pháp bằng tâm ô nhiễm, luôn lánh xa sự cung kính cúng dường, trừ bỏ tâm điên đảo vì biết như thật về vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, đầy đủ tâm giải thoát, xa lánh cảnh giới, sống như thật vì sinh trong nhà Thánh nhân, thành tựu trí tuệ như thật vì luôn có tâm xuất gia, thành tựu Thánh hạnh vì biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo, thành tựu tướng Đại nhân vì đầy đủ sự giữ giới, đa văn, không phóng dật, thành tựu tâm bình đẳng với chúng sinh vì biết rõ thế gian vô ngã, thành tựu pháp không điên đảo vì in sâu Thánh ấn, thành tựu đạo tràng vì in sâu ấn không thoái. Các Bồ-tát luôn thành tựu tâm thanh tịnh, hạnh nghi trang nghiêm, không thích nói về kỹ thuật thế gian, không gần gũi bạn xấu, không thích sự cung kính cúng dường, không nói lời tạp loạn của thế gian, không nói việc của quốc gia, vua chúa, giặc cướp, phụ nữ, việc tốt, việc chinh chiến, không thích kết bè đảng tranh tụng, không thích nơi hiểm nạn, xóm làng, thành ấp biên địa, không thích gần những người đàn hát.

Lại nữa, thiện nam! Bồ-tát không thích ở chung với người bỏn sẻn, ganh ghét, kẻ tà kiến, phá giới tạo nhiều việc ác, phóng dật, khinh chánh pháp, kẻ nhiều giận hờn, điên loạn, kẻ ngu si, câm điếc. Đại Bồ-tát luôn thích những hạnh vi diệu, bố thí tài, pháp, vô úy, đoạn trừ phiền não tham, sân, si, bỏ nơi ồn ào, thích nơi vắng lặng, thích sống một mình ở những núi cao, hang sâu, đồng cỏ, rừng cây, dòng suối, đầu đêm cuối đêm không ngủ nghỉ, siêng năng tu hành, phát vô số trăm ngàn vạn ức pháp môn văn, tư, tu tuệ thiền định, Tam-muội, Đà-la-ni, hiện thấy vô số trăm ngàn vạn ức Phật, đạt vô số trăm ngàn vạn ức Đà-la-ni, giáo hóa vô số chúng sinh. Bồ-tát thành tựu những tâm đó thì đạt diệu pháp của Như Lai.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Sở Phát bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người tu hành như thật pháp Đại thừa này chính là người tu hành đúng pháp thuyết giảng theo thừa đã gắn bó, người không phóng dật là người như thật tu hành. Lại nữa, người tu hành như thật là người phát nguyện Bồ-đề, người không phóng dật là người đầy đủ nguyện Bồ-đề, người tu hành như thật là người tu bố thí, người không phóng dật là người không mong cầu báo ứng, người tu hành như thật là người thọ trì tịnh giới, người không phóng dật là người thành tựu giới không thoái, người tu hành là người mới tu hạnh nhẫn nhục, người không phóng dật là người đạt pháp Nhẫn vô sinh, người tu hành là người mong cầu các căn lành không mệt mỏi, người không phóng dật là người xả bỏ hết mọi việc đã làm, người tu hành là người bắt đầu tu thiền định, người không phóng dật là người không trụ trong thiền định, người tu hành đầy đủ trí tuệ, người không phóng dật không hý luận các pháp, người tu hành giữ gìn diệu pháp, người không phóng dật không thấy các pháp, người tu hành làm cho chúng sinh đạt đại Bồ-đề, người không phóng dật không thấy chúng sinh, người tu hành thì chứa nhóm các căn lành, người không phóng dật thì hồi hướng lên đại Bồ-đề, người tu hành xem Bồ-đề là pháp thật, người không phóng dật biết như thật các pháp đều là tướng Bồ-đề, người tu hành đạt pháp Nhẫn vô sinh, người không phóng dật thì nguyện giữ hữu sinh, người tu hành đến đạo tràng thị hiện các việc thù thắng trang nghiêm, người không phóng dật đúng cả atăng-kỳ kiếp, người tu hành biết như thật về Bồ-đề, người không phóng dật tu tập tất cả các nghiệp trong quá khứ, người tu hành đạt đại Niết-bàn, người không phóng dật biết rõ tánh của pháp là vắng lặng.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát mà tu hành như thật và không phóng dật thì không xem việc đạt Bồ-đề là khó. Bạch Thế Tôn! Vì lý do đó, Đại Bồ-tát nên tu tập như thật và không phóng dật. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Lúc này, Tuệ mạng Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Theo sự hiểu biết của con về pháp Phật đã giảng thì các Đại Bồ-tát phải tu hành Pháp tập mà chư Phật và Bồtát đã giảng, là Bồ-tát có Pháp tập vi diệu. Vì sao? Vì người không tin pháp thì không có Pháp tập, người không siêng năng thực hành thì cũng không có Pháp tập. Người tán thán biết đúng như thật về Pháp tập là người có Pháp tập vi diệu. Bạch Thế Tôn! Người không tự khen mình cũng không chê người khác là người có Pháp tập vi diệu. Người phát tâm Từ với bậc Thánh, phát tâm thâu nhận với hàng phi Thánh không thấy mình hơn người thua, phát tâm bình đẳng với các pháp bình đẳng, bất bình đẳng, phát tâm bình đẳng không phân biệt với sự bình đẳng, không bình đẳng là người có Pháp tập vi diệu. Người chỉ nghe một câu mà hiểu trăm ngàn câu là người có Pháp tập vi diệu. Người nghe pháp không động tịnh, không trói mở, không hành trụ, không tăng giảm, không yêu ghét, không trụ thế gian, không nhập Niết-bàn, người có khả năng thâm nhập Pháp tập đó là người có Pháp tập vi diệu. Bạch Thế Tôn! Pháp tập mà con thuyết giảng có tùy thuận Pháp tập mà Như Lai thuyết giảng không?

Đức Phật bảo:

–Đúng vậy, Xá-lợi-phất! Lời ông nói là tùy thuận ý Phật.

 

PHẬT THUYẾT PHÁP TẬP KINH

QUYỂN 5

Bấy giờ, Tuệ mạng Đại Mục-kiền-liên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát nghĩ: “Ta nói được Pháp tập” thì Bồ-tát đó không thể nói được. Vì sao? Vì có ngã kiến nên nghĩ ta thuyết pháp, người khác nghe pháp. Người xa lìa tướng ngã thì không thấy mình thuyết pháp, người khác nghe pháp. Không thấy hai tướng đó cũng không phải không thấy hai tướng đó. Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp hữu vi đều không thật có mà sinh tâm phân biệt pháp gì? Nếu cho là thật có thì pháp đó hư vọng không thật. Các Bồ-tát không phân biệt pháp đó thật có. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát biết tất cả pháp hư vọng, không thật, ví như lời nói của người huyễn. Bạch Thế Tôn! Hư vọng là thật không nhưng lại giống như có. Pháp đó thuộc trong sự rỗng lặng, không trái nhân duyên, thuộc không sinh diệt, người này không trái với pháp không và nhân duyên, tùy thuận không sinh diệt, bỏ mọi thứ phân biệt, đoạn trừ ngã, ngã kiến, tà kiến. Các Đại Bồtát biết pháp hư vọng nhưng tùy thuận thế gian nói là có. Người nói pháp đó là hư vọng để cho người khác biết chính là người nói Pháp tập. Nói Pháp tập là nói những pháp gì? Nói tất cả pháp đều là một tướng, Pháp tập đó là Pháp tập vi diệu.

Bạch Thế Tôn! Pháp tập con nêu giảng có tùy thuận Pháp tập của Phật giảng thuyết không?

Đức Phật bảo:

–Đúng vậy, Mục-kiền-liên! Lời ông giảng thuyết tùy thuận ý ta.

Lúc này, Tuệ mạng Phú-lâu-na Di-đa-la-ni tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu người vì cầu phước mà thuyết Pháp tập thì thật đáng chê trách. Vì sao? Vì là chấp ngã. Người chấp tướng ngã, ngã sở, tạo tội, phước, hành bất động bằng tà kiến thì không thể tự lợi, lợi tha.

Bạch Thế Tôn! Người không biết Pháp tập là người không tạo

tội, phước, hành bất động. Người biết Pháp tập là người không tập cũng không phải không tập năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, không thủ cũng không phải không thủ pháp chúng sinh; không thủ thật hư, không thủ cũng không rời cảnh giới tham, sân, si, không thủ thế gian, Niết-bàn, tranh tụng, im lặng, không, tà kiến, vô tướng, giác quán, không thủ cũng không phải không thủ vô nguyện, không thủ pháp Phật, pháp phàm phu, pháp phi pháp, Thánh tăng, ngoại đạo tăng.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát biết tất cả pháp không mong cầu nơi rốt ráo. Vì sao? Vì Bồ-tát biết các pháp đều là rốt ráo. Bồ-tát không cầu giải thoát vì bản tánh các pháp là vắng lặng, giải thoát, không yêu thích một pháp. Vì Bồ-tát biết các pháp Phật không phải tự pháp, tha pháp. Không nắm giữ hay xả bỏ một pháp nào, nếu có nắm giữ và xả bỏ thì đáng chê trách; không hành, không trụ vì nếu có hành trụ thì đáng chê trách; không vui buồn vì nếu có vui buồn thì đáng chê trách. Bạch Thế Tôn! Đó chính là Pháp tập.

Thế Tôn! Pháp tập con giảng thuyết có tùy thuận pháp tập Phật giảng thuyết không?

Đức Phật bảo:

–Này Phú-lâu-na! Lời ông giảng tùy thuận ý ta.

Khi đó, Tuệ mạng Ca-chiên-diên bạch Phật:

–Thế Tôn, người nào thuyết pháp dựa trên hai tướng pháp phi pháp thì chính là người trụ trong vô minh. Vì sao? Vì người nào biết như thật về phi pháp thì đó là pháp chân thật.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát biết như thật về phi pháp thì đó là chân như. Bạch Thế Tôn! Pháp chân thật không từ đâu đến, không đi về đâu, pháp không nương người, không gần xa người nơi chốn. Bạch Thế Tôn! Pháp không nghĩ: Với chúng sinh thượng căn ta thực hành, với chúng sinh hạ, trung căn ta không thực hành; với chúng sinh hạ, trung căn ta thực hành, với chúng sinh thượng, căn ta không thực hành.

Bạch Thế Tôn! Pháp không phải do tướng cũng không phải không do tướng mà có tên. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Thánh nhân thấy cái gì có tướng đều là trói buộc, cái gì không có tướng cũng đều là trói buộc.

Bạch Thế Tôn! Pháp không phải xa lìa cũng không phải tu hành. Bạch Thế Tôn! Người biết rõ pháp thì không cần tu hành.

Bạch Thế Tôn! Pháp không cho người cũng không tự giữ mà tùy theo lòng mong muốn nên có lợi ích khác nhau, vì không có người tạo tác.

Bạch Thế Tôn! Với chư Phật, pháp không có ý tưởng là người, thân cũng không có tâm oán ghét phàm phu, vì không có ý tưởng phân biệt.

Bạch Thế Tôn! Pháp không gần Phật mà xa phàm phu, nhưng tùy theo sự thực hành mà đạt pháp khác nhau.

Bạch Thế Tôn! Pháp đó chính là Pháp tập.

Bạch Thế Tôn! Pháp tập con giảng thuyết có tùy thuận Pháp tập mà Phật giảng thuyết không?

Đức Phật bảo:

–Này Ma-ha Ca-chiên-diên! Lời ông giảng thuận ý ta.

Tuệ mạng Đại Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người vì mong cầu sự vắng lặng mà thuyết Pháp tập thì không có Pháp tập.

Bạch Thế Tôn! Vì các pháp không ngoài sự vắng lặng, vì pháp không có hai. Pháp có hai là không biết hai vì vượt ngoài sự hiểu biết của tâm ý thức. Một pháp không mong cầu hai vì xả bỏ pháp mong cầu. Một pháp cũng không có hai vì không có tạo tác.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vắng lặng là pháp không hai, pháp không hai không ngoài các pháp. Bạch Thế Tôn! Các pháp không có hai tướng vì tự tánh là không, vô tướng, vô nguyện, vô hành, không sinh diệt, không có tướng thanh tịnh, bất tịnh; tham keo, bố thí; phá giới, giữ giới; sân hận, nhẫn nhục; biếng nhác, siêng năng; tán loạn, thiền định; ngu si, trí tuệ để đạt. Không thấy đắc các pháp là đạt được pháp chân thật, nếu thấy có đắc thì không đạt được, nếu có cảnh giới thực hành thì không đạt được. Tâm hành theo cảnh giới, hành hai pháp, thấy có pháp sở hữu, nương tựa pháp, cầu chứng pháp, lìa phiền não, cầu rốt ráo, thấy Phật, Pháp, Tăng, thế gian, Niết-bàn thì không thể đạt cảnh giới như vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Người cầu pháp thì không mong cầu gì ở các pháp.

Bạch Thế Tôn! Người không mong cầu gì ở pháp chính là người cầu pháp chân thật.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát có chánh kiến thì không thấy pháp, phi pháp. Lại xét các pháp xa lìa tâm ngã sở, không đắm chấp, xa lìa hư vọng, không thật, xa lìa tất cả sự mong cầu hý luận là pháp chân thật. Bồ-tát thuyết giảng như thế là Pháp tập chân thật.

Bạch Thế Tôn! Pháp tập vi diệu mà con giảng thuyết có tùy thuận Pháp tập Phật giảng thuyết không?

Đức Phật bảo:

–Này Ca-diếp! Lời ông giảng tùy thuận ý ta.

Tuệ mạng Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Pháp là vô tranh. Người không tranh cãi là người có pháp.

Bạch Thế Tôn! Mắt và sắc không cạnh tranh, tai-tiếng, mũihương, lưỡi-vị, thân-xúc, ý-pháp cũng không cạnh tranh, đó là pháp. Vì sao? Vì nó không hòa hợp và không đến nhau. Pháp không hòa hợp không đến nhau là pháp không cạnh tranh.

Bạch Thế Tôn! Pháp không có hai nên pháp không cạnh tranh.

Bạch Thế Tôn! Các pháp không hai, không biết nhau, không biết, không phân biệt, vượt ngoài sự phân biệt, không sinh diệt, thêm bớt, yêu ghét, không trụ thế gian, Niết-bàn. Pháp chân thật thì không thể nói người được pháp, pháp bị người được.

Bạch Thế Tôn! Các pháp không yêu ghét, nhiễm tịnh.

Bạch Thế Tôn! Nếu nói tôi hiểu biết, giảng thuyết thì đều là hư vọng phân biệt pháp mười hai nhập.

Bạch Thế Tôn! Các nhập đó không có tâm phân biệt. Người nào biết pháp đó chính là người không cạnh tranh với vật, không cạnh tranh với vật là người tùy thuận pháp Sa-môn. Người tùy thuận hạnh Sa-môn là người không đến đi, hành trụ, tiến dừng, thấy các pháp là pháp hành, giải thoát hành, pháp giới, rốt ráo nhưng không thấy người đạt rốt ráo. Pháp được thấy chỉ là danh tự, hư dối, giả huyễn. Người thấy hư giả không thật là người thấy pháp.

Bạch Thế Tôn! Thấy pháp là thấy Phật, thấy phi pháp là thấy Phật, thấy Phật là thấy chúng sinh, thấy không có chúng sinh là thấy nhân duyên, thấy không có nhân duyên là thấy sự rỗng lặng, thấy không phải rỗng lặng là không thấy. Bạch Thế Tôn! Đó là thấy đúng các pháp. Người như vậy là người tùy thuận ý Phật, Pháp, Tăng.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát đạt các pháp Nhẫn vô tranh như vậy còn không tranh tụng với ma, huống gì là tranh tụng với người đồng hạnh, không hề có việc tranh tụng. Vì sao? Vì Bồ-tát thấy tất cả ngôn ngữ đều có thể thành tựu hạnh của mình nên không tranh tụng, thế nên Bồ-tát được pháp vô tranh rốt ráo và vì đạt pháp vô tranh rốt ráo nên Bồ-tát được gọi là người đạt tất cả pháp rốt ráo, đạt sự bình đẳng trong các pháp, như thấy thân mình bình đẳng, các pháp cũng bình đẳng, trụ trong nhẫn bình đẳng, vì thế gọi là đạt rốt ráo. Các pháp bình đẳng không đến đi nên gọi là đạt rốt ráo.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát đạt rốt ráo các pháp thì pháp giảng thuyết đều là Pháp tập, đem đến niềm vui an ổn cho chúng sinh.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Pháp tập con giảng thuyết có tùy thuận với Pháp tập Phật giảng thuyết không?

Đức Phật bảo:

–Này Tu-bồ-đề! Lời ông giảng tùy thuận ý ta. Tu-bồ-đề! Lúc ông giảng thuyết pháp tập này, có năm ngàn Thiên tử xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh trong các pháp, năm ngàn Thiên tử phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh giác.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát nào nghe pháp tập vi diệu của ông thì Bồ-tát ấy biết mình sẽ đến biển pháp lớn, biết thân này không có lỗi, rỗng lặng, sẽ đạt diệu lạc. Tu-bồ-đề! Đó là Pháp tập tối thượng của chư Phật Như Lai.

Tuệ mạng A-na-luật bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Văn tự của các pháp là Pháp tập. Vì sao? Vì tánh của văn tự không có tướng chấm dứt, không có tướng chấm dứt chính là văn tự.

Bạch Thế Tôn! Ngôn ngữ con nói đều chỉ là văn tự.

Bạch Thế Tôn! Văn tự không xuất phát từ mình, cũng không xuất phát từ người khác, văn tự không nghĩ mình phát ra tiếng.

Bạch Thế Tôn! Văn tự không thêm bớt.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát biết tánh của văn tự bình đẳng với các pháp.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát biết rốt ráo âm thanh của các pháp nên Bồ-tát không bị âm thanh làm chướng ngại. Tất cả âm thanh nghe được đều là âm thanh của Phật, là âm thanh của Không, Vô tướng, Vô nguyện, pháp giới, thật tế, không có một pháp nào làm chướng ngại Nhất thiết trí của Bồ-tát. Bồ-tát không thấy pháp nào ngoài Bồ-đề của Phật, thấy pháp không chướng ngại, không trái với Bồđề của Phật, không tiến không thoái. Bồ-tát không thấy pháp nhưng luôn tạo lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát ấy đạt nhẫn rốt ráo trong các pháp, do đó thành tựu Nhạo thuyết biện tài sâu xa. Nghĩa là biện tài của Bồ-tát, hàng Thanh văn, Bích-chi-phật không thể lường được. Bồ-tát đạt Biện tài nhạo thuyết an ổn là tùy theo biện tài làm cho chúng sinh được vui an ổn. Đạt Biện tài giảng thuyết ứng hợp là tùy theo sở thích nghe pháp và căn tánh của chúng sinh mà nói rộng hẹp. Đạt Biện tài nhanh chóng là tùy lời lẽ biện tài mà giáo hóa chúng sinh nhanh chóng. Đạt Biện tài thông lợi là thuyết pháp cho chúng sinh có căn trí lanh lợi, khiến họ chứng được lợi giải thoát. Đạt Biện tài cộng thượng nhạo thuyết là thuyết giảng giáo pháp hợp với chư Phật. Đạt Biện tài tăng trưởng là biện tài chỉ nói một câu, một chữ mà tăng lên cả trăm ngàn vạn ức. Đạt Biện tài khinh nhạo thuyết là biết tướng mạo mà thuyết pháp. Đạt Biện tài ái lạc là biện tài làm cho người nghe pháp không chán. Đạt Biện tài điều thuận là biện tài không trái ý Phật. Đạt Biện tài nhu nhuyến là biện tài không kiêu mạn, tâm không phóng dật. Đạt Biện tài tịch tĩnh là biện tài làm cho mình và người đều tịch tĩnh. Đạt Biện tài tùy thuận âm thanh là biện tài giáo hóa chúng sinh nhập Thanh văn thừa. Đạt Biện tài viễn ly là biện tài giáo hóa chúng sinh đạt Bích-chi-phật thừa. Đạt Biện tài tối thắng là biện tài giáo hóa chúng sinh đạt Đại thừa. Đạt Biện tài bất cộng là biện tài giảng thuyết về mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng. Đạt Biện tài tịch diệt là biện tài giảng các pháp Bồ-đề phần. Đạt Biện tài vô cơ hiềm là biện tài làm cho chúng sinh vui vẻ tin tưởng. Đạt Biện tài chư lực là biện tài điều phục tất cả ma chướng, ngoại đạo, tà luận. Đạt Biện tài thiện thuyết là biện tài thuyết pháp cho bốn chúng nhưng không lo sợ. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Bạch Thế Tôn! Pháp tập con giảng thuyết có tùy thuận Pháp tập Phật giảng thuyết không?

Đức Phật bảo:

–A-na-luật! Lời ông thuyết giảng tùy thuận ý ta.

Tuệ mạng La-hầu-la bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát muốn thuyết Pháp tập nên tìm cầu, thọ trì pháp. Vì sao? Vì nhờ thọ trì mà được pháp nên phải tìm cầu, chỉ có tâm tinh chuyên cầu pháp là tối thắng. Vì sao? Vì tôn trọng pháp nên được pháp, không vì tôn trọng thức ăn mà được lợi chánh pháp, biết bỏ thân này sẽ có quả về sau, không phải chỉ quán sát mà được quả báo, thích chỗ thanh tịnh không ồn ào, gần người an ổn không gần kẻ phá giới, gần người cung kính, không gần kẻ kiêu mạn, gần người an vui không gần kẻ hung dữ, gần người có tâm nhu hòa không gần kẻ ương ngạnh, gần người tâm tịch tĩnh không gần kẻ đắm chấp, gần người bày tỏ tội lỗi, không gần kẻ che giấu tội lỗi, gần người thích bố thí, không gần kẻ keo kiệt, gần người giữ giới không gần kẻ phá giới, gần người nhẫn nhục không gần kẻ sân hận, gần người tinh tấn không gần kẻ biếng nhác, gần người thiền định không gần kẻ tán loạn, gần người trí tuệ không gần kẻ ngu si, gần người hiểu nhiều không gần kẻ thiếu trí, gần người chánh niệm không gần kẻ tà niệm, gần người tạo nghiệp lành không gần kẻ ác, gần người thích Phật pháp không gần kẻ thích pháp thế gian, gần người thích sự rỗng lặng không gần kẻ tà kiến thoái đọa, gần người giữ giới không gần kẻ tự tôn.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Người nào giữ giới người đó sẽ có pháp. Đó là giữ giới gì? Bạch Thế Tôn! Tất cả các giới đều thuộc ba loại giới: Tăng thượng Giới, Định, Tuệ.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát học ba loại giới này là đã học các pháp Đại thừa.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Tăng thượng giới của Bồ-tát.

Thế Tôn, Bồ-tát giữ Ba-la-đề-mộc-xoa nhưng không cho giới đó là thanh tịnh, chỉ vì tu tập theo giới Bồ-tát, thành tựu oai nghi nhưng không cho oai nghi, là thanh tịnh vì trụ trong oai nghi của Bồtát. Cho dù là tội nhỏ cũng luôn lo sợ vì nương trí của Bồ-tát. Thế nào là trí tuệ của Bồ-tát? Là Bồ-tát biết như thật về các pháp, vì không sợ phiền não, nghiệp chướng. Thế nào là cảnh giới của Bồtát? Cảnh giới phân biệt rỗng lặng, không phải thật. Biết giới bình đẳng mà học giới; biết sự rỗng lặng bình đẳng mà học giới nên nói biết sự rỗng lặng bình đẳng mà học giới. Biết sự bình đẳng của vô tướng, vô nguyện, vô hành, không sinh diệt mà học giới, nên nói biết sự bình đẳng mà học giới.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ-tát nghĩ: “Ta hãy làm cho chúng sinh giữ Ba-la-đề-mộc-xoa”, đó là Giới học tăng thượng của Bồtát.

Thế Tôn! Thế nào là Định học tăng thượng của Bồ-tát? Đó là tu tập bốn Thiền, bốn Không, Tam-ma-bạt-đề. Bồ-tát nghĩ: Ta hãy dùng Định học tăng thượng để thành tựu cho chúng sinh.

Thế nào là Tuệ học tăng thượng của Bồ-tát? Bồ-tát học mười tám pháp không. Bồ-tát nghĩ: “Ta hãy làm cho chúng sinh biết rõ mười tám pháp không này.”

Bạch Thế Tôn! Ba pháp học này sẽ bao gồm tất cả học khác.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ-tát nào bảo hộ chúng sinh chính là giữ gìn giới tịnh. Nếu giữ giới mà không đắm chấp vào giới thì Bồtát đó sẽ làm vừa lòng chúng sinh.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát xuất gia giữ giới không tham đắm vật gì. Bồ-tát giữ giới tịch tĩnh, không ưa thích ngôn ngữ, Bồ-tát an nhiên giữ giới, không ưa thích âm thanh. Bồ-tát thiền định giữ giới không ưa thích cảnh giới. Bồ-tát giải thoát giữ giới không ưa thích nơi thọ sinh. Bồ-tát nghe pháp giữ giới không ưa thích những học thuyết thế gian. Bồ-tát thuyết pháp giữ giới thì dù trải qua trăm ngàn vạn ức do-tuần để thuyết pháp cũng không mỏi mệt. Bồ-tát hộ trì chánh pháp giữ giới thì tu tập pháp gì để vì sự an lạc của chúng sinh, không vì tự thân. Bồ-tát thâm tâm giữ giới muốn cho chúng sinh đạt Bồ-đề trước, không mong chỉ mình chứng đạt. Bồ-tát tăng thượng thâm tâm giữ giới thích làm việc lợi người, không thích lợi mình. Bồ-tát tu hành giữ giới trải qua vô số kiếp tu hành thành tựu các pháp Bồ-đề mà không mỏi mệt. Bồ-tát tu bố thí thì đem cả đầu mắt tủy não để tạo lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát giữ giới thì không bỏ chúng sinh phá giới. Bồ-tát nhẫn nhục thì không sợ các ma chướng nhiễu loạn. Bồ-tát siêng năng thì vì chúng sinh tu tập Bồđề không mệt mỏi. Bồ-tát tu thiền định thì không nhiễm đắm âm thanh và mọi việc. Bồ-tát tu trí tuệ thấy tánh của các pháp bình đẳng như tướng Bồ-đề. Bồ-tát tu hạnh không thì không làm việc thế gian. Bồ-tát tu đại Bi thì không nhập Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn! Giữ giới như vậy là Pháp tập.

Bạch Thế Tôn! Pháp tập con giảng thuyết có tùy thuận Pháp tập Phật giảng thuyết không?

Đức Phật bảo:

–La-hầu-la! Lời ông giảng tùy thuận ý ta.

Tuệ mạng Ưu-ba-ly bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tự xa lìa phiền não và làm cho chúng sinh xa lìa phiền não. Với mọi thứ: Đối chúng sinh giới, pháp giới, tham sân si giới. Bồ-tát nghĩ: “Cho dù chúng sinh và pháp giới, tham, sân, si giới chấm dứt thì ta vẫn giáo hóa chúng sinh không mỏi mệt.” Bồ-tát nghĩ: “Bản tánh của các pháp vắng lặng mà chúng sinh không hay biết. Vì sao? Vì các pháp là Không nên không hoạt động, nghĩa là tà kiến và tranh tụng đều không hoạt động. Các pháp diệt trong Vô tướng, nơi ấy tất cả các tâm giác quán, suy xét, không hoạt động. Các pháp diệt nơi Vô nguyện nên không còn mong cầu. Các pháp diệt trong vô ngã nên không tham đắm. Các pháp diệt trong không chúng sinh, nên không có bất cứ loài nào. Các pháp diệt trong không thọ mạng, nên không còn sinh tử. Các pháp diệt trong Thật đế, nên không còn hư vọng. Các pháp diệt trong nhân duyên tập, nên không cò thọ mạng. Các pháp diệt trong bốn Niệm xứ, nên không còn niệm khác. Các pháp diệt trong bốn Chánh cần, nên không còn nắm giữ hay xả bỏ. Các pháp diệt trong bốn Như ý túc, nên không còn đến đi. Các pháp diệt trong năm Căn, nên không còn cao thấp. Các pháp diệt trong năm Lực, nên không còn điều phục. Các pháp diệt trong bảy Giác phần, nên không còn sự u tối. Các pháp diệt trong tám Thánh đạo nên không còn nghiệp ác, suy nghĩ sai. Các pháp diệt trong mười Lực, nên không còn chủng tử. Các pháp diệt trong bốn Vô sở úy, nên không còn công dụng. Các pháp diệt trong trí tuệ, nên không còn vô minh. Các pháp không tạo tác, nên không còn các hành. Các pháp diệt trong vô niệm, nên không còn trí thức. Các pháp diệt trong giác, nên không còn danh sắc. Các pháp diệt trong vô y, nên không còn sáu nhập. Các pháp diệt trong bất tận, nên không còn xúc. Các pháp diệt trong bất tri, nên không còn thọ. Các pháp diệt trong vô ngã, nên không còn ái. Các pháp diệt trong vô sở thủ, nên không còn thủ. Các pháp diệt trong vô thân, nên không còn hữu. Các pháp diệt trong bất diệt, nên không còn sinh. Các pháp diệt trong kiên cố, nên không còn già. Các pháp diệt trong bất tận, nên không còn chết.” Bạch Thế Tôn! Đó là trí vô chướng ngại của Bồ-tát. Bồtát trụ trong trí này thì ma chướng không hàng phục được, ngoại đạo luận sư không phá hoại được, phiền não không ô nhiễm được. Các Đức Phật thường khen ngợi, chư Thiên cung kính, nương tựa.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát đạt đến trí rốt ráo là đạt tạng pháp lớn không nghèo thiếu, giữ gìn tạng bí mật của chư Phật Như Lai. Là người đáng tin cậy của chư Phật Như Lai, việc làm đã xong, đạt lợi mình, như biển lớn không thể lường được, như núi Tu-di không lay động được. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập thù thắng vi diệu.

Bạch Thế Tôn! Pháp tập con thuyết giảng có tùy thuận Pháp tập Phật thuyết giảng không?

Đức Phật bảo:

–Ưu-ba-ly! Lời ông giảng thuận ý ta. Ưu-ba-ly! Các Bồ-tát tu tập theo pháp tập này sẽ đạt Vô thượng Chánh đẳng giác.

Tuệ mạng A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát thọ trì diệu pháp là pháp thù thắng trong các nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tu hành, thọ trì diệu pháp là tùy thuận Bồ-đề và chư Phật Như Lai. Vì sao? Vì Phật Như Lai luôn tôn trọng pháp.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hộ trì diệu pháp? Bồ-tát giảng được Khế kinh sâu xa của chư Phật Như Lai, thường đọc tụng, suy nghĩ, tu tập.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ-tát giữ gìn, tu tập là người hộ trì diệu pháp.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát giữ gìn tu tập?

Bạch Thế Tôn! Các nghiệp thân, khẩu, ý của Bồ-tát đều vì tạo lợi ích cho chúng sinh, với đức đại Bi tăng thượng, gia hộ cho chúng sinh được vui an ổn. Bồ-tát hộ pháp suy xét kỹ: Làm việc gì để đem lại an ổn cho chúng sinh? Ta nên làm những việc như vầy, đó là thành tựu pháp quán năm ấm, tuy quán như vậy nhưng không mong tu hành bằng cách xả ly năm ấm. Quán cảnh giới như rắn độc, không mong tu hành bằng cách xả ly mười tám giới. Quán nhập như xóm làng trống vắng, không mong cầu xả ly mười hai nhập. Quán sắc như bọt nước để tu các hạnh mà tâm không xả ly việc thành tựu sắc thân trang nghiêm của chư Phật, Như Lai. Quán thọ như bong bóng nước để tu các hạnh mà tâm không xả ly việc thành tựu an lạc vi diệu nơi thiền định, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề của chư Phật, Như Lai. Quán tưởng như dợn nắng để tu các hành mà tâm không xả việc thành tựu trí tuệ của Như Lai. Quán hành như cây chuối để tu các hạnh mà tâm không xả ly việc thành tựu diệu pháp của chư Phật, Như Lai. Quán thức như ảo thuật để tu các hạnh mà tâm không xả ly việc thành tựu trí tuệ để làm thanh tịnh thân, khẩu, ý nghiệp. Bố thí không mong quả báo. Giữ giới để cứu chúng sinh phá giới. Nhẫn nhục để điều phục chúng sinh. Tinh tấn để thành tựu các pháp lành. Thiền định để thân tâm được nhu hòa. Tu trí để soi rõ tướng các pháp. Tu bốn Niệm xứ thì thâm tâm không nhơ. Tu bốn Chánh cần để đạt trí vô chướng ngại. Tu năm Căn thành tựu hạnh tiến triển. Tu năm Lực thì không thoái chuyển Bồ-đề. Tu bảy Giác phần thì không còn lưới nghi. Tu tám Chánh đạo thì không lầm lỗi. Tu bốn Phạm hạnh thì đạt như ý tự tại.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ-tát biết rõ về không sẽ thọ trì được diệu pháp. Không chính là không hý luận.

Bạch Thế Tôn! Người hý luận thì không thọ trì được diệu pháp.

Bạch Thế Tôn! Người biết không, vô tướng là người thọ trì diệu pháp. Người chấp tướng sẽ không thọ trì được diệu pháp.

Bạch Thế Tôn! Vì các pháp là Không, Vô tướng nên Vô nguyện. Vô nguyện là thọ trì diệu pháp. Y chỉ vào nguyện thì không thọ trì được diệu pháp.

Bạch Thế Tôn! Người thấy có các pháp, chấp ngã, ngã sở, kiêu mạn, ganh ghét, keo kiệt, tham dục, não hại, sân hận thì không thọ trì được diệu pháp. Bồ-tát thọ trì diệu pháp thì không có tướng phân biệt giữa chúng sinh và pháp. Bạch Thế Tôn! Đó là Bồ-tát thọ trì diệu pháp.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thấy các pháp không sinh diệt, chúng sinh không đến đi, thân thể không sạch dơ, không thích pháp Phật, không ghét pháp ngoại đạo, thọ trì tám vạn bốn ngàn Pháp tạng mà không có tâm tưởng về pháp, không sống trong phiền não tùy phiền não và các pháp bất thiện, nhưng không có tâm tưởng về phi pháp. Đạt tâm giải thoát nhưng không nghĩ mình giải thoát. Tạo nghiệp đệ tử của chư Phật nhưng không thấy thân, khẩu, ý tu hành. Đạt tự tại trong các pháp nhưng không nghĩ pháp, phi pháp, không nắm giữ hay xả bỏ các pháp, không vì đạt và chứng các pháp, tâm không đắm chấp nơi vật, tâm không dựa trên phi phàm phu, học nhân La-hán, nhưng đoạn kết sử tham, sân, si, đạt thọ ký trong Bồ-đề nhưng không cầu Bồ-đề của Phật, đến đâu Bồ-tát cũng thấy là đạo tràng, điều phục ma chướng nhưng không thấy có ma và quyến thuộc của ma, thành tựu Bồ-đề của Phật, nhưng không chứng pháp mà trước kia không có, chuyển bánh xe pháp lớn nhưng không có ý về chúng sinh thành hoại, điều phục ma chướng, ngoại đạo, nhưng không tranh chấp, thọ sinh mà không phải mới sinh hay đã sinh, chết nhưng không chấm dứt, vượt khỏi ba cõi, nhưng không có nơi đi, lìa các ngôn ngữ, âm thanh nhưng không thấy có ngôn ngữ, không yêu ghét các pháp, đó là Bồ-tát thọ trì diệu pháp. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập thắng diệu.

Bạch Thế Tôn! Pháp tập con giảng thuyết có tùy thuận Pháp tập Phật giảng thuyết không?

Đức Phật bảo:

–A-nan! Lời ông giảng tùy thuận ý ta.

Lúc Tôn giả A-nan nói Pháp tập này, có tám vạn Thiên tử phát tâm Vô thượng Chánh giác, ba vạn hai ngàn Bồ-tát đạt pháp Nhẫn vô sinh, năm trăm Tỳ-kheo từ bỏ lậu hoặc, đạt tâm giải thoát.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ví như bóc vỏ trấu để lấy gạo; Bồ-tát cũng thế, bỏ phi pháp giữ chánh pháp, bỏ keo kiệt tham lam, giữ hạnh bố thí, bỏ phá giới, giữ gìn giới, bỏ sân hận, giữ nhẫn nhục, bỏ biếng nhác, luôn siêng năng, bỏ tán loạn, tu thiền định, bỏ ngu si, tu trí tuệ. Đó là Pháp tập thắng diệu.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Có mong cầu là phi pháp. Không mong

cầu thì không chấp thủ. Không chấp thủ thì không bảo hộ. Không bảo hộ thì không nhiễm ô. Không nhiễm ô nên không tranh tụng. Không tranh tụng thì không tham tiếc. Không tham tiếc thì không tổn não. Không tổn não thì không thực hành. Không thực hành nên không thoái chuyển. Bồ-tát không thoái chuyển sẽ được chư Phật, Như Lai thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập thắng diệu.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ-tát nghĩ: “Ta không thoái chuyển tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, thì không được chư Phật, Như Lai thọ ký. Vì sao? Vì tất cả phiền não đều bắt nguồn từ sự mong cầu. Bạch Thế Tôn! Trừ bỏ sự mong cầu là lìa phiền não, nên được chư Phật, Như Lai thọ ký.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ-tát nghĩ: Thọ ký là lời nói hư dối của Thế Tôn. Vì sao? Vì người được thọ ký là không, người thọ ký cũng không. Nếu cả hai đều không thì thọ ký ở đâu? Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Vì lòng đại bi, tùy thuận thế gian nên nói như vậy. Bồ-tát biết các pháp như vậy là được thọ ký.

Bạch Thế Tôn! Ví như huyễn sư thọ ký hư huyễn, nhưng sự huyễn hóa ấy thì không có tâm: Ta thọ ký cho ta thành Chánh giác.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát cũng như sự huyễn hóa kia, không có tâm phân biệt. Bồ-tát nghĩ: “Bồ-đề không phải là tướng chứng và bỏ được, không phải tướng sinh diệt, không phải do tâm thân chứng, không ở trong, ngoài, giữa, Bồ-đề không nghĩ ta là Bồ-đề, Bồ-tát chứng được ta.” Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ-tát ở địa Hoan hỷ không hổ thẹn, không buồn lo. Ở địa Ly cấu thì không tăng giảm. Ở địa Minh thì không tối sáng. Ở địa Diễm thì không nắm giữ hay xả bỏ. Ở địa Nan thắng thì không hơn thua. Ở địa Hiện tiền thì không tự mình giác cũng không do người khác giác. Ở địa Viễn hành thì không đi dừng. Ở địa Bất động thì không lay động phân biệt. Ở địa Thiện tuệ thì không thành, không mong thành. Ở địa Pháp vân thì không tự giác, giác tha. Ở Phật địa thì làm tất cả nhưng không làm gì, vì thế Như Lai tự nhiên không hý luận. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập thắng diệu của Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát cứ thế đạt đến trí tùy thuận, đạt sự Thuyết pháp tự tại vì không đắm chấp nơi ngôn ngữ; đạt Thanh tịnh tự tại vì không nhiễm vướng bất cứ nơi nào; đạt Nhạo thuyết tự tại vì luôn dựa trên văn tự của một pháp mà giảng thuyết đến trăm ngàn vạn kiếp vẫn không hết; đạt Trí tự tại vì từ văn tự của một pháp mà giảng thuyết trăm ngàn vạn pháp môn; đạt Sinh tự tại vì đem lại lợi ích cho chúng sinh ở khắp mọi nơi nên thọ sinh ở đó; đạt Tam-muội tự tại vì bất cứ lúc nào muốn nhập Tam-muội thì nhập; đạt Trụ trì tự tại vì luôn gia hộ khắp nơi, nghĩa là thuyết giảng diệu pháp của chư Phật cho nai, cừu, chim thú, cỏ cây, vách đá; đạt Quyến thuộc tự tại vì có vô số bà con luôn thường còn; đạt Kiến tự tại vì thấy sắc đẹp; đạt Văn tự tại vì nghe tiếng hay; đạt Tỷ tự tại vì ngửi tất cả hương chỉ là hương diệu pháp; đạt Thiệt tự tại vì ăn pháp vị, không ăn các thức ăn; đạt Thân tự tại vì thành tựu Pháp thân, chẳng phải thân ăn uống. Đạt Tâm tự tại vì biết tâm hành mọi loài, ngay cả ruồi, muỗi, nhặng, kiến. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập thắng diệu.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiến Giả Ái Lạc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thực hành như vậy, vì chúng sinh thấy được đều vui vẻ. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ-tát chỉ có một việc là giáo hóa chúng sinh, ngoài ra không làm gì. Bạch Thế Tôn! Đó là pháp tập thắng diệu căn bản của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Vì vậy Bồ-tát nên thích pháp. Bạch Thế Tôn! Thế nào là thích pháp?

Bồ-tát có bốn pháp ưa thích: Bố thí mà không cầu quả báo. Bình đẳng với chúng sinh bằng Ái ngữ. Phòng hộ các hạnh của chúng sinh bằng Lợi hành. Yêu thương chúng sinh như thân mình bằng Đồng sự.

Lại có bốn pháp đa văn vì không có tâm kiêu mạn. Thuyết pháp lìa tướng vì bỏ tâm mong cầu cúng dường. Tôn trọng người đáng kính vì cầu trí tuệ. Tu hành tinh tấn vì giáo hóa chúng sinh.

Lại có bốn pháp: Thành tựu giới tịnh vì bố thí bằng pháp. Thành tựu biết đủ vì sống nơi tịch tĩnh. Sống nơi vắng lặng nên đạt thiền định. Sống trong thành ấp, xóm làng vì không phá bỏ các oai nghi.

Lại có bốn pháp: Thật ngữ vì thích giảng nói. Pháp ngữ vì nói

về pháp không. Nhẫn nhục ngữ vì tâm bình đẳng. Tịch tĩnh ngữ vì hộ trì các căn.

Lại có bốn pháp: Biết trước ý hỏi vì có thiện ngữ. Tâm ý đầy đủ vì dù được ít nhưng vẫn biết đầy đủ. Thành tựu không dua nịnh vì việc làm hợp với lời nói. Đi trong chỗ đông đúc không dối trá vì không dối gạt chúng sinh.

Lại có bốn pháp: Không có tâm ác vì bên trong tịch tĩnh. Tâm không si vì bên ngoài không điên đảo. Không có tâm bỏn sẻn vì quán sát mọi pháp là vô thường. Không có tâm kiêu mạn vì biết như thật về các pháp.

Lại có bốn pháp: Đạt tâm sâu xa vì biết trước ý hỏi. Xa lìa ái nhiễm vì đạt ái ngữ. Xả bỏ các tâm nhưng không bỏ tâm Bồ-đề. Hiểu sâu Đệ nhất nghĩa nhưng tùy thuận Thế đế. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bồ-tát đạt đệ nhất không, được đại thông minh, được đại tự tại, khéo biết thuyết giảng pháp tập, thích pháp sâu xa, tùy thuận chúng sinh, rốt ráo đạt được pháp không thể nghĩ bàn, được pháp nhu hòa, đại thông, đại pháp sư, đại pháp vương, việc làm lớn, chỗ nương tựa của chúng sinh, đạt đại thông phấn tấn, vì giáo hóa chúng sinh không thoái chuyển nên sinh mà không sinh, chết mà không chết, mọi việc đã làm xong, nên thành tựu Bồ-đề, đạt tâm giải thoát rồi siêng năng, nhập Niết-bàn nhưng đầy đủ hạnh cầu, tu hành Nhất thiết trí nên còn học hỏi người khác.

Bạch Thế Tôn! Nước biển có thể lường biết được, nhưng không thể lường biết được biển trí Đại thừa của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Hư không trong sạch có thể làm nhơ được nhưng tâm của Đại Bồ-tát thì không làm cho ô nhiễm được.

Bạch Thế Tôn! Gió tuy không hình tướng nhưng có thể nắm bắt được, tâm của Đại Bồ-tát không bị cảnh giới của sáu trần làm đắm nhiễm.

Bạch Thế Tôn! Ánh nắng mùa xuân có thể sờ nắm được, nhưng Bồ-tát không có tâm chấp ngã, ngã sở.

Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thiện Mục bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tu các pháp chỉ lấy tâm Bồ-đề làm gốc.

Vì sao? Bạch Thế Tôn! Các pháp đều là hư vọng, chỉ do tâm phân biệt, thể tánh không có vật, như ảo ảnh, không có cội gốc, theo sự mong muốn mà thành, không có người tạo tác, người thọ nhận, tánh nó không dừng trụ.

Bạch Thế Tôn! Các pháp không có đầu cuối, vì không có cả hai: Các pháp không có ngã, ngã sở vì không có chủ tể. Các pháp bình đẳng như pháp giới vì không phải là khách. Các pháp không phải là chủ vì không còn tham. Các pháp không có sự phân biệt vì không có tâm lấy bỏ. Các pháp không đến đi vì chỉ là cảnh giới của trí, không có sự hiểu biết, không có chủ tể.

Bạch Thế Tôn! Phàm phu chấp ngã trong pháp vô ngã. Chấp có chúng sinh trong pháp không chúng sinh. Bồ-tát nghĩ: Ta dùng diệu pháp này làm cho chúng sinh giác ngộ. Bạch Thế Tôn! Đó là tâm Bồ-đề. Phát tâm làm cho chúng sinh an ổn, thọ lạc, vô thượng, pháp giới, quang minh, chúng sinh được giữ vững, an trụ, đó là tâm Bồ-đề.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Tu Bố thí ba-la-mật là tâm tịch tĩnh, Giới ba-la-mật là tâm bất khuyết. Nhẫn nhục ba-la-mật là tâm không tổn hại. Tinh tấn ba-la-mật là tâm không thoái chuyển. Thiền ba-lamật là tâm không loạn. Trí ba-la-mật là tâm không phân biệt hư vọng. Đại Từ là tâm nhu hòa. Đại Bi là tâm không thoái chuyển. Đại Hỷ là tâm không nhàm chán. Đại Xả là tâm không nhơ. Đại thí là tâm không keo kiệt. Ái hạnh là tâm không bị trói buộc. Lợi ích là tâm bình đẳng. Đồng sự là tâm tối thượng. Không tuệ là tâm không phân biệt. Trí vô tướng là tâm vô niệm. Vô nguyện là tâm không trụ. Hạnh Bồ-đề là tâm nơi ba mươi bảy phần Bồ-đề. Hạnh tiến thủ là tâm niệm Phật. Hạnh không phá hoại là tâm niệm Pháp. Tâm pháp giới là tâm niệm Tăng. Tâm vô lượng là tâm niệm Giới. Tâm không thủ là tâm niệm Xả. Tâm niệm thiên là niệm các căn lành vì được trang nghiêm bằng các căn lành. Lấy sự thọ sinh thù thắng mà phát tâm Bồ-đề vì để tu tập các căn.

Bạch Thế Tôn! Về sự phát tâm Bồ-đề, dù trải qua một kiếp hay vô số kiếp con cũng không thể nói hết. Cứ thế các Đại Bồ-tát tu tập vô số nhân duyên mà phát tâm Bồ-đề.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát muốn cầu các pháp lành thì nên cầu trong sự phát tâm Bồ-đề. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Bồ-tát Thiện Sinh bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Từ cội gốc tinh tấn nên các pháp lành được sinh ra.

Bạch Thế Tôn! Những gì là cội gốc của các pháp?

Bạch Thế Tôn, Không, Vô tướng, Vô nguyện là cội gốc của các pháp, vì ở đó không có sự thấy biết, không có phiền não của ba cõi. Vô hành là nguồn gốc của các pháp vì ở đó không có người tạo tác. Vô ngã là cội gốc của các pháp vì ở đó không có ngã. Lìa chúng sinh là cội gốc của các pháp vì ở đó không thấy có chúng sinh. Vô mạng là cội gốc của các pháp vì ở đó không thấy thọ mạng. Các pháp không sinh vì không thấy vô thường. Các pháp không diệt vì không thấy đoạn. Các pháp không vật vì không thấy có. Các pháp bình đẳng như Niết-bàn vì ở đó không thấy sự hy hữu. Các pháp như Bồ-đề vì ở đó không thấy có Phật. Các pháp không tạo tác vì ở đó không thấy Pháp. Các pháp không hòa hợp vì ở đó không thấy Tăng.

Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Khi ấy, Bồ-tát Đạo Đại Sư bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát muốn cho chúng sinh đạt đại Bồđề trước nên không vì mình mà chứng đại Bồ-đề. Đại Bồ-tát tạo nghiệp vì chúng sinh không vì mình, nhưng không thấy chúng sinh, không bỏ tâm đại Từ bi, đó là Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát có tâm đại Từ bi?

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không thấy chúng sinh, nhưng luôn tu các căn lành rồi hồi hướng lên đại Bồ-đề, đó là đại từ; Bồ-tát không bỏ việc làm của chúng sinh, đó là đại Bi. Bồ-tát thấy pháp thế gian là Niết-bàn, nhưng luôn siêng năng tu tập đạo là đại Từ; không bỏ chúng sinh là đại Bi. Tự thân phát tâm Bồ-đề là đại từ; giáo hóa chúng sinh là đại Bi. Bỏ các vật trong ngoài là đại Từ; bỏ các căn lành trong ngoài vì chúng sinh đạt Bồ-đề của Phật, hồi hướng lên đạo Vô thượng là đại Bi. Giữ gìn giới tịnh không hủy phạm là đại Từ; tự giữ giới tịnh, tăng trưởng giới tịnh của chúng sinh là đại Bi. Tự tu hành an ổn, nhẫn nhục, đạt an lạc là đại Từ; đem niềm vui an ổn cho chúng sinh là đại Bi. Tự tu các hạnh tinh tấn để đạt đạo của chư Phật, là đại Từ; làm cho chúng sinh đạt hạnh đại tinh tấn là đại Bi. Tự tu tịch tĩnh là đại từ; làm cho chúng sinh đạt hạnh tịch tĩnh là đại Bi. Tự tu trí tuệ là đại từ; tăng trưởng trí tuệ chúng sinh bằng trí tuệ của mình là đại Bi. Không tu hành không phải không tu hành là đại từ; không tạo tác, không phải không tạo tác là đại Bi. Sinh nhưng không đi là đại từ; đi nhưng không động là đại Bi. Nói nhưng không nói là đại Từ; tham đắm nhưng không bị trói buộc là đại Bi. Trói nhưng không thủ đắc là đại Từ; nhập Niết-bàn nhưng không diệt là đại Bi. Tự thân xuất xá-lợi nhưng không có xương thịt, gân, máu là đại từ; tu quán thân xương không thêm bớt là đại bi. Bố thí nhưng không xả vật là đại từ; hộ các căn nhưng không thành tựu là đại Bi; tăng trưởng nhưng không tự cao là đại Bi. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập thắng diệu.

Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Tràng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát dùng tâm định tịch tĩnh tạo nghiệp tối thượng. Vì sao? Vì Bồ-tát trụ trong tâm tịch tĩnh thì các pháp vi diệu của chư Phật tự nhiên hiển hiện.

Bạch Thế Tôn! Vì Bồ-tát tôn trọng tâm tịch tĩnh và niềm vui an ổn nên đạt Bồ-đề và các môn Đà-la-ni.

Bạch Thế Tôn! Những gì là Đà-la-ni của Bồ-tát? Bất cứ ở đâu, nghe pháp không quên, thọ trì, hiểu rõ và làm cho chúng sinh hiểu rõ. Nhờ không tăng trưởng, không phân biệt Đà-la-ni nào nên thọ trì tám vạn bốn ngàn pháp môn mà không quên sót. Nhờ Đà-la-ni nên biết tâm, tâm sở của chúng sinh vì biết tâm của chúng sinh nên thuyết pháp hợp cơ. Nhờ Đà-la-ni nên nghe hiểu lời nói của chúng sinh, nhờ nghe tiếng phàm phu đạt đại Bi, nghe tiếng Thánh nhân đạt đại Từ. Nhờ Đà-la-ni nên nghe nhớ một câu pháp mà thuyết giảng trong vô số kiếp, Bồ-tát đó có biện tài nhạo thuyết không dừng, không cùng tận giới mốc. Nhờ Đà-la-ni nên biết như thật về ngôn ngữ, biết tất cả ngôn ngữ đều là Phật ngữ. Nhờ Đà-la-ni nên ở trụ xứ của Bồ-tát, Phật trong mười phương thuyết pháp, ai nghe được cũng đều thọ trì. Bồ-tát nghe pháp ở vị Phật này rồi ở chỗ Phật khác thuyết giảng nhưng không chướng ngại. Bạch Thế Tôn! Đó là Bồ-tát thọ trì Đà-la-ni.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát đạt Đà-la-ni, nhờ Đà-la-ni nên thuyết

pháp dù chỉ một pháp, một chữ, một câu hay thuyết cả pháp giới mà Bồ-tát đó vẫn không có tâm kiêu mạn, không sống phóng dật, đạt Đà-la-ni tăng thượng. Nhờ Đà-la-ni nên nói được các pháp hiện thấy và các tập Đà-la-ni hiện có được trong thế gian. Nhờ Đà-la-ni nên đoạn trừ nghi hoặc và phiền não của chúng sinh, đạt tập Đà-la-ni tăng thượng. Nhờ Đà-la-ni nên tăng trưởng bạch pháp, chấm dứt các phiền não, đạt Đà-la-ni hành. Nhờ Đà-la-ni nên biết được pháp, ánh sáng pháp, Bồ-tát biết đúng về các pháp nhưng không phân biệt, tu hành các pháp nhưng thân tâm thật không tu hành, nói pháp nhưng thật không nói một chữ, xả các pháp nhưng không mất, tăng trưởng pháp nhưng không có vật nào để tăng, tổn giảm các pháp nhưng không có pháp nào để giảm, nói pháp nhưng thật không có ngôn ngữ, làm cho nhập Niết-bàn nhưng ở thế gian không lay động, đạt địa Thánh nhân nhưng không rời địa phàm phu, điều phục ma nhưng không phải thân, khẩu, ý tạo nghiệp. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu của các Bồ-tát.

Bấy giờ, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tướng của các pháp là giải thoát.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không phân biệt đây là trói, mở. Vì sao? Vì giải thoát không phải là cái khác, cái khác không phải là giải thoát, giải thoát không thêm một pháp, cũng chẳng giảm một pháp. Giải thoát không từ đâu đến, sự trói buộc cũng không đi về đâu.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát giải thoát không nghĩ ta đã giải thoát, tâm của vị ấy chỉ biết là giải thoát, các pháp khác cũng vậy.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát nghĩ: “Thế gian là pháp cấu nhiễm, Niết-bàn là pháp thanh tịnh”, thì Bồ-tát đó không đạt giải thoát. Vì sao? Vì thấy có ta, nên nghĩ như vậy.

Bạch Thế Tôn! Nếu người nào nghĩ rằng: “Ta chán ghét ấm giới nhập, cầu nhập Niết-bàn”, thì người ấy không đạt giải thoát. Vì sao? Vì thấy có ta, nên nghĩ như vậy.

Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo đạt tâm giải thoát suy xét: Các pháp như tướng giải thoát, chỉ vì phàm phu không hay biết nên nghĩ như vậy, con dùng pháp này làm cho họ biết được.

Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo đạt tâm giải thoát nghĩ rằng mình đạt

giải thoát, phàm phu thường tìm cầu giải thoát trong các pháp giải thoát, Tỳ-kheo phát tâm đại bi với chúng. Vì sao? Vì người cầu giải thoát là người chưa đạt giải thoát. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo muốn đạt giải thoát nên quán sát rõ về chủ thể trói buộc, đối tượng bị trói buộc, không phân biệt giải thoát. Nếu không phân biệt sẽ đạt giải thoát. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập thắng diệu của Bồtát.

 

PHẬT THUYẾT PHÁP TẬP KINH

QUYỂN 6

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Hải Tuệ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không nên sợ phiền não. Vì sao? Vì có phiền não tùy theo. Ở đâu có phiền não ở đó có Bồ-đề, đoạn trừ phiền não thì không có Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Không và phiền não là một, không sai khác.

Bạch Thế Tôn! Bồ-đề, phiền não, chúng sinh cũng là một, không sai khác, chỉ do phàm phu có tâm điên đảo phân biệt ta là nhiễm, tịnh.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tu hành chân chánh không đạo phiền não, không chấp giữ pháp tịnh. Bồ-tát quán các phiền não, đạt Tammuội và các Đà-la-ni. Vì vậy Thế Tôn! Bồ-tát phải biết thể tánh của Phật pháp có từ phiền não. Có phiền não theo đuổi là vì chúng sinh có đủ tâm tán loạn, điên đảo, chúng sinh ấy sẽ đọa đường ác, chịu các khổ não. Bồ-tát quán đúng như vậy thì đạt Bồ-đề của Phật. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát nên tu tập tùy thuận dòng nghịch, không tùy thuận dòng thuận.

Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát được giải thoát ở trong Niết-bàn không phải ở trong thế gian. Vì Bồ-tát sợ Niết-bàn không sợ thế gian. Vì quán sát thế gian nên đạt đại Bi, chứng được Bồ-đề. Nếu phân biệt Niết-bàn, lo sợ thế gian và vì chán ghét thế gian nên Bồtát thoái thất quả vị Vô thượng Bồ-đề của Phật.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát đối với chúng sinh ở thế gian thành tựu đại từ bi, chẳng phải ở Niết-bàn. Thế Tôn nói: “Niết-bàn là tâm tịch diệt, hư dối phân biệt không thật.” Vì vậy, Bồ-tát nguyện thấy Niếtbàn nên quán trong tâm hư vọng phân biệt là tịch diệt, ở đó Bồ-tát đại Niết-bàn. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Bấy giờ, Bồ-tát Quan Thế Âm bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không cần tu tập nhiều pháp.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát trì rõ một pháp thì nắm bắt được các pháp Phật khác.

Bạch Thế Tôn! Một pháp ấy là gì? Đó là đại Bi, hiểu rõ các pháp Phật như xem vật trong tay.

Bạch Thế Tôn! Ví như xe báu của Chuyển luân vương đi đến đâu thì bốn binh đều theo đến đó.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát cũng thế nương tâm đại Bi, đi đến nơi nào thì pháp Phật tự nhiên đến đó.

Bạch Thế Tôn! Ví như mặt trời mọc chiếu soi mọi vật, giúp chúng sinh làm việc dễ dàng. Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát cũng thế, tùy tâm đại Từ bi chiếu soi thế gian thì chúng sinh dễ dành tu các pháp Bồ-đề phần.

Bạch Thế Tôn! Ví như ý là gốc của các căn, tùy ý nắm giữ cảnh giới, Đại Bồ-tát cũng vậy, nương nơi đại Bi mà lãnh thọ các pháp Bồ-đề phần, tùy từng phần và khả năng mà tự nhiên tu hành.

Bạch Thế Tôn! Ví như do mạng căn mà có các căn khác, Đại Bồ-tát cũng vậy, từ đại Bi mà có các pháp Bồ-đề phần khác. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trực tâm, Thâm tâm, là tâm căn bản của các pháp.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không có Trực tâm, Thâm tâm thì xa rời pháp vi diệu của Phật.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thành tựu Trực tâm, Thâm tâm nếu không gặp Phật thuyết pháp thì tự nhiên trong hư không, rừng cây, vách đá phát ra tiếng pháp.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát có Trực tâm, Thâm tâm thì ý tự nhiên nghe pháp, tùy thuận diệu pháp của chư Phật. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nên tu Trực tâm, Thâm tâm.

Bạch Thế Tôn! Ví như người có chân thì đi lại được, cũng thế Đại Bồ-tát có Trực tâm, Thâm tâm thì tự nhiên tu hành pháp vi diệu của Phật.

Bạch Thế Tôn! Ví như người có đủ các phần thì có thọ mạng, cũng thế Đại Bồ-tát có Trực tâm, Thâm tâm sẽ có Bồ-đề của chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Ví người có mạng sống thì làm các việc, cũng thế, Đại Bồ-tát có Trực tâm, Thâm tâm sẽ thành tựu các pháp Phật.

Bạch Thế Tôn! Ví như có cái bị động thì có cái chủ động, nếu không có bị động thì không có chủ động, cũng thế, Đại Bồ-tát có Trực tâm, Thâm tâm sẽ soi rõ các pháp vi diệu của chư Phật, nếu không có Trực tâm, Thâm tâm thì không thể thực hiện công việc khó khăn ấy.

Bạch Thế Tôn! Ví như có mây sẽ có mưa, cũng thế, Đại Bồ-tát có Trực tâm, Thâm tâm sẽ được trận mưa pháp của chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Ví như rễ cây mục nát thì không sinh cành lá hoa trái, Đại Bồ-tát cũng thế, nếu không có Trực tâm, Thâm tâm thì không sinh trưởng pháp thiện của chư Phật. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát muốn đạt Bồ-đề của Phật thì nên khéo giữ gìn, bảo hộ, làm thanh tịnh Trực tâm, Thâm tâm. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Bấy giờ, Bồ-tát Thiện Hộ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không cần giữ gìn các pháp.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát chỉ khéo bảo hộ tâm mình thì sẽ thành tựu diệu pháp của chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát thủ hộ các pháp thì sẽ không đạt pháp Nhẫn vô sinh. Nếu Bồ-tát không thủ hộ các pháp mà nhập thiền định thì không có lỗi lầm và không trái với chư Phật Bồ-tát, tự tâm biết pháp Phật nhưng không hộ tâm, thấy tâm do nhân duyên sinh, cũng thế, thấy các pháp đều do duyên sinh. Thấy tâm như huyễn, cũng thế, thấy các pháp như huyễn. Tâm không phải ở trong, ngoài, giữa, hai bên, cũng thế, thấy các pháp như tâm, không có sắc tướng, không thể biểu hiện và thấy được, không có hình chất dối ngại không thể nắm bắt, không soi rọi dừng trụ. Thấy tướng của các pháp như vậy thì Bồ-tát sẽ đạt tâm bình đẳng, vì tâm bình đẳng nên không nắm giữ các pháp. Bồ-tát không trụ, hành, giữ, bỏ và không mong cầu, vì không cầu nên không nắm giữ. Vì không nắm giữ nên không đắm vướng, vì không đắm vướng nên không nhiễm ô, nghĩa là Bồ-tát không nhiễm các pháp. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Bấy giờ, Bồ-tát Hư Không bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không nói như thế này: Dùng những lời nói nào có thể khiến người ta sinh tâm sân hận.

Bồ-tát không nói như thế này: Dùng nhưng lời nói nào có thể khiến người ta sinh tâm phiền muộn.

Bồ-tát không nói như thế này: Dùng những lời nói nào có thể khiến người ta không hiểu biết.

Bồ-tát không nói như thế này: Dùng những lời nói nào thật vô nghĩa giả dối.

Bồ-tát không nói như thế này: Dùng những lời nói nào có thể khiến trí tuệ sáng suốt không sinh.

Bồ-tát không nói như thế này: Dùng những lời nói nào có thể khiến tâm họ không vui vẻ, không đầy đủ và không vui tai.

Bồ-tát không nói như thế này: Dùng những lời nói nào có thể khiến phá hoại hai nơi.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không nói như thế này: Dùng những lời nói nào để làm cho họ không thể hiểu pháp không. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì trong các lời nói, lời nói đó bền chắc nhất. Dùng những lời nói nào có thể khiến người ta biết được pháp không?

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát biết được nghĩa không của các pháp là không có tâm, ngã, không có hai tướng, bỏ hai tướng nhưng luôn làm việc với chúng sinh, đó là đại bi vô chướng ngại của Đại Bồ-tát. Bồ-tát hành đại bi vô chướng ngại sẽ học được những gì của Phật học và do đó biết được các pháp như hư không, nhờ biết pháp như hư không nên đạt hư không tạng. Bồ-tát muốn bố thí thì bố thí tất cả, nhưng không có tâm phân biệt bố thí và tham tiếc; giữ giới, phá giới; nhẫn nhục, sân hận; siêng năng, biếng nhác; tán loạn, thiền định; ngu si, trí tuệ; Bồ-tát không còn cầu pháp của chư Phật, không bỏ pháp ác của phàm phu.

Bạch Thế Tôn! Ví như các dòng sông đều chảy về biển, đều có một vị mặn, cũng thế Bồ-tát vào biển lớn Đệ nhất nghĩa thì thấy các pháp đều là một vị giải thoát chân thật.

Bạch Thế Tôn! Ví như ánh sáng của mặt trời bình đẳng chiếu soi chúng sinh, cũng thế, ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát bình đẳng chiếu soi các pháp.

Bạch Thế Tôn! Các pháp không trái với không, Bồ-tát biết như vậy là thấy được Bồ-đề chân thật trong các pháp. Bồ-tát thấy Bồ-đề chân thật trong các pháp là biết các lời nói đều là lời Phật, Bồ-tát thuyết pháp mà không đắm vướng, Bồ-tát đạt Biện tài nhạo thuyết không chướng ngại. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người đời điên đảo chấp giữ, nếu nói rằng: “Tên của Bồ-tát là y cứ từ Ba-la-mật” thì không đúng. Vì sao? Vì từ Bồ-tát mà có Ba-la-mật. Nếu từ Ba-la-mật mà có tên Bồ-tát thì từ chúng sinh cũng có tên Bồ-tát. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ-tát sinh khởi Ba-la-mật, biết Ba-la-mật, thuyết giảng cho chúng sinh nên Như Lai thường nói Bồ-tát chưa từng sinh pháp nhưng lại sinh, chưa từng thành pháp nhưng lại thành, chưa từng thuyết pháp nhưng lại thuyết.

Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật không bảo hộ được Bồ-tát, nhưng Bồ-tát bảo hộ được Ba-la-mật, vì vậy nên nói Bồ-tát bảo hộ được các pháp.

Bạch Thế Tôn! Các Ba-la-mật không giữ gìn được Bồ-tát nhưng Bồ-tát giữ gìn được Ba-la-mật, vì thế nói Bồ-tát thọ trì các pháp.

Bạch Thế Tôn! Các pháp không bệnh, vì tự thể không nhỏ, không hai, vì vượt ngoài thân chấp ngã của chúng sinh, không có tâm vì xa lìa sự nắm giữ hay xả bỏ, không có ý thức vì có từ vô thỉ, không có tướng đến vì không gián đoạn, không đi vì bất động, không chết vì không thọ mạng, không sống vì xưa nay không ăn, không có vật vì không hòa hợp, không giảm vì pháp giới không sai khác, không chia chẻ được vì không có hình tướng, như Kim cang vì thật tế bình đẳng.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát biết như vậy là biết được thật thể của các pháp, nếu vậy thì Bồ-tát biết được Không. Biết được Không thì Bồ-tát không tranh luận, vì không tranh luận nên trụ trong pháp Samôn, trụ trong pháp Sa-môn là không trụ, không trụ nên không có lậu hoặc trong cảnh giới, do đó không có bệnh và được gọi là Như Lai. Bồ-tát đã được gọi là Như Lai thì không nói hai lời, do đó không bỏ thế gian, không thủ Niết-bàn, chỉ vì chúng sinh nên thuyết pháp để xa lìa hư vọng phân biệt. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập thắng diệu. Tập không điên đảo là tập Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô hành, không sinh diệt, pháp Nhẫn vô sinh, Đại thừa, chuyển đại pháp luân, đại Ba-la-mật, các đại địa, các pháp không điên đảo.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát dựa trên Đại pháp tập để tu hành, hoặc làm Chuyển luân vương của đất nước, thọ trì mười pháp lành, làm cho chúng sinh sống trong mười pháp lành, hoặc làm người tài giỏi nhất, giáo hóa chúng sinh đạt sự thù thắng của nẻo xuất thế, hoặc là đại trưởng giả khiến cho chúng sinh chán việc ác thế gian, hoặc làm Đế Thích khiến cho chư Thiên không sống phóng dật, hoặc làm Phạm vương, khiến chúng sinh trụ trong thiền định, bốn Vô lượng, hoặc làm Tứ thiên vương khiến cho chúng sinh không nhiễm các pháp, hoặc làm Sa-môn, giáo hóa chúng sinh không nghe pháp ác, hoặc làm Bà-la-môn giáo hóa chúng sinh biết nơi vắng lặng, tự tịch tĩnh làm cho bà con cũng sống tịch tĩnh, tự nhu hòa làm cho bà con cũng sống nhu hòa, sống ở đâu cũng đầy đủ tự tại, làm đại Pháp sư vì đoạn trừ nghi hoặc của chúng sinh, ở đâu cũng không sợ vì chấm dứt phiền não. Bạch Thế Tôn! Đó là Pháp tập vi diệu.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Này Văn-thù-sư-lợi! Chúng sinh nghe Pháp tập vi diệu của ông, các Thanh văn, các Bồ-tát mà tin hiểu được thí chúng sinh ấy đã trồng căn lành rất sâu, không phải cúng dường một vị Phật, không phải trồng căn lành ở một vị Phật, hai vị Phật. Vì sao? Này Văn-thùsư-lợi! Bồ-đề sâu xa của chư Phật Như Lai là sự sáng suốt, biết được cảnh giới sâu xa của các pháp.

Văn-thù-sư-lợi! Đó là pháp môn vi diệu, chúng sinh ít căn lành không nghe được, giả sử được nghe cũng không tin tưởng. Bồ-tát nào tự chứng được thì tin được, lại được bạn lành bảo hộ nên tin tưởng và thọ trì được, đạt pháp Nhẫn vô sinh.

Văn-thù-sư-lợi! Ngoài pháp này ra thì không ai thành Phật được.

Văn-thù-sư-lợi! Hằng sa như Phật thời quá khứ thành tựu Bồđề là do hành trì pháp này và đạt Vô thượng Chánh đẳng giác.

Văn-thù-sư-lợi! Người nào bỏ pháp hành này mà mong được Bồ-đề thì như người buộc hư không, không thể được, bỏ pháp hành này thì ngay tùy thuận pháp nhẫn còn không được huống gì là đạt pháp Nhẫn vô sinh, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng giác.

Văn-thù-sư-lợi! Các hàng Thanh văn đạt giải thoát trọn vẹn, tám Giải thoát, bốn Vô ngại thì cũng không bỏ được pháp hành này mà được.

Văn-thù-sư-lợi! Thà nghe pháp môn sâu xa này rồi hủy báng bị đọa vào đường ác, còn hơn nghe pháp môn thiển cận rồi tin thọ, sinh vào đường lành. Vì sao? Vì người hủy báng pháp môn này bị đọa trong địa ngục, nhưng nhờ nghe pháp ấy mà được giải thoát ngay trong hiện tại, không nghe pháp môn thiển cận khác để sinh vào đường lành.

Văn-thù-sư-lợi! Có bốn pháp khiến Đại Bồ-tát nghe pháp môn này tin được. Những gì là bốn?

  1. Đời trước từng nghe pháp môn này.
  2. Nghe rồi tùy hỷ nên có căn lành lớn.
  3. Có căn lành lớn nên trang nghiêm bạn lành.
  4. Khéo bảo hộ, thành tựu, thọ trì hạnh văn tuệ.

Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát lại có bốn pháp, nên nghe pháp môn này có thể sinh tâm tin hiểu. Những gì là bốn?

  1. Suy xét chánh niệm.
  2. Sợ nghiệp bất thiện.
  3. Thường phát nguyện đại Bồ-đề.
  4. Tự tánh chất trực, nhu hòa an ổn, thích tu hạnh thù thắng.

Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát thành tựu bốn pháp nên khi nghe pháp môn này không hủy báng. Những gì là bốn?

  1. Thành tựu rốt ráo Bồ-đề nguyện.
  2. Đạt pháp Nhẫn vô sinh.
  3. Thành tựu chánh kiến.
  4. Đạt tâm không thoái nơi Vô thượng Chánh đẳng giác.

Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát có bốn pháp khiến nghe pháp môn này tin thọ được. Những gì là bốn?

  1. Thành tựu văn tuệ.
  2. Thành tựu Bát-nhã.
  3. Thành tựu pháp Không.
  4. Dùng thiền định để đạt Đà-la-ni.

Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát lại có bốn pháp khiến nghe pháp môn này có thể biết rõ. Những gì là bốn?

  1. Thành tựu công đức trang nghiêm.
  2. Thành tựu văn tuệ trang nghiêm.
  3. Thành tựu trí trang nghiêm.
  4. Thành tựu thiền định tâm nhu nhuyến trang nghiêm.

Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát lại có bốn pháp khiến khi nghe pháp môn này được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng giác. Những gì là bốn?

  1. Bồ-tát thấy các sắc là sắc Phật.
  2. Nghe các pháp là pháp Phật.
  3. Trừ bỏ mọi sự mong cầu cho đến không cầu Bồ-đề, Phật.
  4. Không thoái tâm đại Bi.

Vì thế, Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát nên thường tụng đọc kinh này.

Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát nguyện sớm đạt Bồ-đề, sớm được thọ ký, đoạn trừ nghiệp chướng, phiền não, đoạn trí chướng, được cúng dường cho Vô thượng chư Phật Như Lai, được hộ trì diệu pháp, thì nên đọc tụng kinh này.

Văn-thù-sư-lợi! Người nào nghe pháp môn này mà tin nhận được, không hủy báng thì ta sẽ thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng giác.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Vô Sở Phát bèn cởi xâu chuỗi anh lạc giá trị tám ngàn vạn a-tăng-kỳ báu dâng cúng Như Lai và nói như thế này:

–Bạch Thế Tôn! Nhờ công đức này, chúng sinh sẽ thành tựu quả vị như chư Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Khi ấy, chuỗi anh lạc biến thành màn báu trang nghiêm đẹp đẽ che rợp khắn nơi trong hư không, đẹp hơn tướng trang nghiêm của trời, người mà các Thanh văn, Bồ-tát, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, Tứ thiên vương chưa từng thấy. Tấm màn đó bay theo sự đi dừng của Như Lai.

Lúc thị hiện việc vi diệu đó, có vô số trời, người đều phát tâm thán phục, cúi đầu chắp tay khen ngợi và chiêm ngưỡng Như Lai, Đại Bồ-tát Vô Sở Phát vui vẻ, trịch áo vai phải, lạy sát chân Phật, chắp tay hướng về Phật, nói kệ khen ngợi:

Như Lai là người đủ công đức
Cứu độ chúng sinh cõi trời, người
Phật ở thế gian không ai thắng
Tịch tĩnh, bình đẳng cũng không hơn.
Tâm ý rộng lớn, không dua nịnh
Nhiếp tâm cứu đời bằng bi lực
Tâm như hư không, nào ô nhiễm
An lạc chúng sinh nên thuyết pháp.
Thế Tôn không có oán hay thân
Cũng chẳng buồn đau, chẳng sướng vui
Như thầy thuốc giỏi cứu chúng sinh
Sống bằng Bi lực không phân biệt.
Tu-la, Trời, Người, Rồng, Dạ-xoa
Quy y với Phật được tịch tĩnh
Phật Đấng Tối Thượng trong ba cõi
Vì vậy hôm nay con kính lễ.
Vượt qua hữu vi không lầm lẫn
Đầy đủ công đức, nơi tịch tĩnh
Bỏ cả hai đường không phân biệt
Sống đời thanh tịnh ở thế gian.
Cảnh giới tịch tĩnh không thể lường
Chỉ đủ mười Lực biết Như Lai
Hư không, trái đất chẳng lường được
Nên con cúi đầu chắp tay lễ.
Chẳng còn chìm nổi trong sóng nước
Là người vô thượng, chẳng trôi, dừng
Giải thoát bờ kia chỉ Phật đến
Con xin quy mạng biển trí lớn.
Như sen trong bùn không cấu nhiễm
Phật ở thế gian nhưng chẳng nhơ
Không ai có thể sánh đồng Phật
Vì thế con nay xin quy mạng.
Như Lai biết rõ tất cả pháp
Do có mười Lực vượt hết thảy
Là Đấng mạnh nhanh không ai sánh
Phật là người dũng đi một mình.
Thọ trì diệu pháp của chư Phật
Xa lìa tất cả những sợ lo
Vô Thượng Y Sư, Bậc Ứng Cúng
Con xin quy y Đấng Đại Bi.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Vô Sở Phát bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chỉ Thế Tôn hiểu tâm con, con không thể đem thân cúng dường Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Con xin dâng anh lạc cúng dường và tán thán Như Lai, nguyện nhờ căn lành này, chúng sinh sẽ đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề của Phật. Bạch Thế Tôn! Đó là ý nguyện của con.

Đức Phật vui vẻ mỉm cười. Chư Phật Như Lai khi vui vẻ mỉm cười thì không hư dối. Bấy giờ, từ khuôn mặt của Như Lai phóng vô số ánh sáng đủ màu: Xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tím, pha lê, vàng bạc, chiếu soi vô số thế giới, diệt trừ khổ não chúng sinh ở đường ác, sinh lên cõi trời, người, được vui an lạc. Sau đó, Phật thâu thần, ánh sáng xoay quanh Phật trăm ngàn vạn vòng rồi lên đỉnh đầu và mất. Thấy ánh sáng đó, đại chúng đều vui vẻ, an lạc, chắp tay hướng về Phật, ngồi qua một bên, nghĩ: “Vì sao Như Lai vui vẻ mỉm cười?”

Lúc này, Tôn giả A-nan liền rời chỗ ngồi, trịch áo bên vai phải, chắp tay hướng về Phật, dùng kệ hỏi nguyên nhân Phật mỉm cười:

Đấng Vô Thượng tối tôn
Chư Thiên và loài người
Đang chiêm ngưỡng Như Lai
Nghi ngờ việc mỉm cười.
Đại Sư lìa phiền não
Biết pháp và người giả
Vui vẻ ắt có nhân
Mong Phật giảng thuyết cho.
Từ mặt phóng hào quang
Thanh tịnh lại vui tươi
Trời người và đường ác
Nhờ ánh sáng được vui.
Ánh sáng của Thế Tôn
Từ gương mặt phóng ra
Ánh sánh này là gì?
Mong Đại Bi giảng thuyết.
Phóng ánh sáng lớn ấy
Tươi đẹp và sáng suốt
Hiển hiện rất thù thắng
Che lấp các ánh sáng.
Không còn chút tối tăm
Nên thế gian vui vẻ
Phật sắp làm việc gì?
Người nào có công đức.
Mong nói việc người làm
Dứt trừ nghi của con
Người xa lìa phiền não
Cười phải có nguyên nhân.
Ánh sáng chiếu từ mặt
Soi khắp mười phương cõi
Sau đó lại quay về
Nhập trên đỉnh Như Lai.
Ánh sáng hiện ý Phật
Biểu lộ tâm Thánh xuất
Như chớp điện hư không
Chiếu soi nhưng không dừng.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Này A-nan! Đó là việc Đại Bồ-tát Vô Sở Phát trải qua mười hai kiếp sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Đức Phật ấy hiệu là Đại Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp tên là Chư thiên tán thán, cõi nước tên Đại hoan hỷ.

Này A-nan! Đại Quang Minh Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến

Tri trụ một đại kiếp, chúng sinh ở đó sống mười hai tiểu kiếp.

Này A-nan! Chúng sinh ở cõi Phật đó thọ lạc như nơi cõi trời Tha hóa tự tại.

Bấy giờ, Tuệ mạng Tu-bồ-đề thưa Bồ-tát Vô Sở Phát:

–Thưa Đại sĩ! Chúc mừng Đại sĩ được lợi lớn, hôm nay Như Lai thọ ký cho Đại sĩ sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng giác.

Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi:

–Đại đức Tu-bồ-đề, ông thấy pháp gì gọi là thành Phật?

Tôn giả Tu-bồ-đề nói:

–Thưa Thiện nam! Tôi không thấy có pháp nào thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng giác.

Hỏi:

–Nếu Đại đức Tu-bồ-đề không thấy có pháp nào thành Phật thì cớ sao nói dối tôi được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác?

Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:

–Thưa Thiện nam! Như Lai thọ ký cho Nhân giả sẽ thành Phật, nên tôi nói như vậy.

Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi:

–Đại đức Tu-bồ-đề! Chư Phật Như Lai biết đúng như thật về các pháp nên nói sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng giác. Vì sao Như Lai biết như thật về các pháp?

Tu-bồ-đề! Bồ-tát nào cầu Bồ-đề thì chư Phật không thọ ký, Bồ-tát nào không cầu Bồ-đề thì chư Phật Như Lai sẽ thọ ký. Chư Phật biết như thật về các pháp là không có tướng thọ ký nhưng vì nhằm trồng căn lành cho chúng sinh nên thọ ký thành Phật.

Tu-bồ-đề! Ông thấy pháp gì mà nói rằng: Đại sĩ sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng giác?

Tu-bồ-đề đáp:

–Thưa Thiện nam! Chư Phật Như Lai theo văn tự của thế tục mà thọ ký Thanh văn chúng tôi theo chư Phật Thế Tôn mà nói như vậy.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đại đức Tu-bồ-đề! Văn tự là dựa theo thế tục mà gọi, đối với Thánh nhân thì không phải là văn tự. Vì sao? Vì những gì Thánh nhân nói đều là chân thật, ngôn ngữ của thế tục là hư vọng, vì vậy Tu-bồ-đề không nên dùng lời nói giả tạm của thế tục mà nói về Thánh pháp.

Đại đức Tu-bồ-đề! Các Bồ-tát cứu hộ chúng sinh, nếu chúng

nghe Đệ nhất nghĩa sâu xa thì lo sợ, không tin, cho nên Thánh nhân dùng tâm đại Bi, bỏ pháp chân thật mà nói lời hư vọng của thế gian, chỉ vì bảo hộ cho hàng phàm phu, hoàn toàn không vì Thánh nhân mà nói như vậy, nếu vì Thánh nhân thì nói pháp chân thật.

Đại đức Tu-bồ-đề! Thật pháp của Thánh nhân là pháp Bồ-đề, bản tánh luôn vắng lặng, là chân thật, bản tánh của tướng Bồ-đề là thanh tịnh, tướng các pháp cũng vậy nên gọi là thật pháp của Thánh nhân.

Tu-bồ-đề nói:

–Thiện nam! Có bốn Chân đế gọi là Thật đế. Những gì là bốn?

Đó là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.

Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi:

–Đại đức Tu-bồ-đề! Đại đức có nói khổ là pháp hữu vi chăng?

Tu-bồ-đề nói:

–Đúng vậy, thưa Thiện nam! Tôi thường nói khổ là pháp hữu vi.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đại đức Tu-bồ-đề, Như Lai thường nói tất cả pháp hữu vi đều là hư vọng.

Tu-bồ-đề nói:

–Đúng vậy, thiện nam! Như Lai thường nói các pháp hữu vi đều là hư vọng.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Nếu thế, sao Đại đức lại nói khổ là Thật đế? Đại đức Tu-bồđề! Nếu nói khổ là pháp hữu vi thì nó là hư vọng.

Tu-bồ-đề thưa:

–Thưa Thiện nam! Khổ là pháp hữu vi, hư vọng, không thật, tôi nói biết khổ là Thật đế.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Tu-bồ-đề! Nếu khổ là pháp hữu vi, hư vọng, không thật thì Trí biết khổ ấy cũng là hư vọng, không thật.

Tu-bồ-đề đáp:

–Thưa Thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy. Trí biết khổ cũng là hư vọng.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đại đức Tu-bồ-đề! Nếu thế thì sao nói biết khổ là trí Thánh đế?

Tu-bồ-đề nói:

–Thưa Thiện nam! Diệt đế là pháp vô vi thì cớ sao lại không phải Thánh đế?

Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi:

–Đại đức Tu-bồ-đề! Diệt pháp gì là Diệt đế, hay tự diệt là diệt, còn có diệt nào khác sao?

Tu-bồ-đề đáp:

–Thưa Thiện nam! Nói về hữu vi thì diệt hết các khổ là Diệt đế.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Tu-bồ-đề! Đại đức không nói khổ là hư vọng không thật sao?

Tu-bồ-đề đáp:

–Đúng vậy, thưa Thiện nam! Tôi vừa nói khổ là pháp hữu vi, hư vọng, không thật.

Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi:

–Đại đức Tu-bồ-đề! Nếu là pháp hư vọng, không thật, thì pháp ấy không diệt, nếu vậy thì cớ sao Đại đức nói diệt hết các khổ là Diệt đế?

Lúc đó, Tuệ mạng Tu-bồ-đề thưa Bồ-tát Vô Sở Phát:

–Thưa Thiện nam! Tôi rất vui với biện tài giảng thuyết của Đại sĩ. Thưa Thiện nam! Nguyện cho chúng sinh đều được biện tài này.

Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Thưa Thiện nam! Thế nào là trí chứng Thật đế của Đại Bồtát?

Bồ-tát Vô Sở Phát đáp:

–Tu-bồ-đề! Các pháp và Thật đế không trái nhau, cho nên chứng đạt các pháp gọi là chứng Thật đế. Tu-bồ-đề! Các pháp do duyên sinh, biết đúng như thật về các pháp do duyên sinh gọi là chứng Thật đế. Các pháp là không, biết như thật về không là Thật đế, chứng đạt không là chứng Thật đế. Các pháp không sinh, chứng đạt các pháp không sinh là chứng Thật đế. Chứng đạt Thật đế về pháp nào thì ở trong pháp ấy không thủ, xả. Tu-bồ-đề! Đó là trí chứng Thật đế của Đại Bồ-tát.

Tu-bồ-đề! Thật đế chính là giảng thuyết pháp không phân biệt. Vì sao? Tu-bồ-đề! Những gì có phân biệt đều là pháp tà.

Tu-bồ-đề! Vừa rồi ông nói tôi sẽ được lợi lớn, được thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng giác sẽ thành Phật.

Tu-bồ-đề! Người tự cho mình sắp được thiện lợi, thì chư Phật sẽ không thọ ký. Người nào không cho mình chắc chắn được thiện lợi, thì chư Phật sẽ thọ ký. Người nào không vui khi được lợi dưỡng, không buồn khi mất lợi dưỡng, người ấy sẽ được thọ ký. Người nào không bỏ thế gian mà được Niết-bàn thì được thọ ký. Người không bỏ pháp phàm phu mà chứng Thánh đạo sẽ được thọ ký. Người không mừng khi nghe thọ ký sẽ được thọ ký.

Tu-bồ-đề nói:

–Thưa Thiện nam! Những gì Đại sĩ nhận biết thật là sâu xa.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Tu-bồ-đề! Người không thấy có đến đi thì nhận biết được sâu xa.

Tu-bồ-đề nói:

–Pháp sâu xa này thật khó biết được.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Tu-bồ-đề! Người nào muốn thấy pháp sâu xa này thì không thể thấy được.

Tu-bồ-đề nói:

–Sự hiểu biết đó thật là khó biết được.

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Tu-bồ-đề! Không tu hành cũng khó biết được.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Thưa Thiện nam! Chúng sinh nào có thể tin được pháp sâu xa?

Bồ-tát Vô Sở Phát đáp:

–Tu-bồ-đề! Người nào đã từng cúng dường vô số Phật ở đời quá khứ thì tin được. Tu-bồ-đề! Người nào không trồng căn lành, không tu hành, cúng dường chư Phật thì không bao giờ được nghe pháp môn này.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Thưa Thiện nam! Thế nào là cúng dường chư Phật?

Bồ-tát Vô Sở Phát đáp:

–Người tu hành như thật là người cúng dường chư Phật.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Thưa Thiện nam! Thế nào là tu hành như thật?

Bồ-tát Vô Sở Phát đáp:

–Người phát tâm tu hành vì chúng sinh.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Thế nào là phát tâm tu hành vì chúng sinh?

Bồ-tát Vô Sở Phát đáp:

–Là không bỏ tâm đại Từ bi.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Thế nào là đại Từ của Bồ-tát?

Bồ-tát Vô Sở Phát nói:

–Đem thân mạng và căn lành cho chúng sinh mà không cầu báo ân.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Thế nào là đại Bi của Bồ-tát?

Bồ-tát Vô Sở Phát đáp:

–Trước dạy chúng sinh đạo Vô thượng Bồ-đề, sau mới tự chứng đạt.

Lúc giảng nói pháp môn sâu xa này, có bảy vạn sáu ngàn chúng sinh phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hai trăm Tỳ-kheo dứt bỏ lậu hoặc, đạt tâm giải thoát.

Bấy giờ, trong chúng hội, có một Thiên tử tên Thiện Tư Duy, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát trụ trong hành xứ căn bản của Phật-Bồ-đề?

Phật bảo:

Này Thiên tử! Bồ-tát thành tựu Trực tâm, Thâm tâm, phát tâm vô thượng, đó là trụ xứ căn bản của Bồ-tát.

Thiên tử Thiện Tư Duy hỏi:

–Các Bồ-tát phát tâm lấy pháp gì làm cảnh giới?

Phật nói:

–Bồ-tát tu về những lãnh vực Bố thí mà không mong cầu báo ân; Trì giới mà không phân biệt giữ giới; Nhẫn nhục mà không thấy pháp chấm dứt; Tinh tấn mà không phát khởi tu hành; Thiền định nhưng thấy rõ các pháp môn; tu Trí tuệ nhưng không thấy, không hý luận; luôn tu văn tuệ nhưng không thấy ngôn ngữ; tu Chỉ nhưng thấy pháp xưa nay vốn thanh tịnh vắng lặng; tu Quán nhưng biết các pháp không thể thấy; tu bốn Niệm xứ nhưng không niệm, không tư duy; tu bốn Chánh cần nhưng không có gì để làm; tu năm Căn nhưng vượt qua các pháp môn khác; tu năm Lực nhưng không phá hoại; tu bảy Giác phần mà Bồ-đề Phật luôn hiện tiền; tu tám Chánh đạo để cứu chúng sinh hành tà đạo; giáo hóa chúng sinh nhưng không thấy có chúng sinh được độ thoát; đoạn trừ phiền não nhưng thấy rõ bản tánh các pháp là không phiền não; tu các Ba-la-mật nhưng không đắm chấp bờ này bờ kia; tu Hạnh thế gian nhưng Niết-bàn hiện tiền; tu hạnh Niết-bàn nhưng không hành các hạnh; tu Sinh nhưng không sinh diệt; tu Ấm nhưng không phiền não; tu Giới nhưng không sai khác; tu Nhập nhưng Thánh nhập luôn hiện tiền; nghe pháp nhưng luôn thiền định vắng lặng; thuyết pháp nhưng không có ngôn thuyết; tu thành tựu sắc tướng nhưng Pháp thân hiện hữu; Chuyển pháp luân nhưng không chuyển thuyết; tu hạnh Thanh văn nhưng pháp Phật luôn hiện bày; tu hạnh Bích-chi-phật nhưng hành thắng hạnh của Bồtát. Này Thiên tử! Đó là cảnh giới của Đại Bồ-tát.

Thiên tử Thiện Tư Duy bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là hạnh của Bồ-tát?

Phật nói:

–Này Thiên tử! Đem niềm vui của mình cho chúng sinh, ở trong thế gian nhưng giữ giới, học nhiều, tâm không phóng dật, ở trong Niết-bàn nhưng không bỏ đại Bi, Niết-bàn hiện tiền nhưng không mong chứng đạt, để hóa độ chúng sinh nên tùy thuận hạnh thế gian, cứu độ chúng sinh nên luôn có tâm bình đẳng, làm cho chúng sinh đạt tâm thanh tịnh, không có tâm sai biệt đối với chúng sinh, cho hết những gì mình có, thuyết pháp cho người mà không cầu ăn uống, chứa vật thanh tịnh nhưng luôn biết đủ, thích vắng lặng, chánh niệm tư duy, nhưng luôn siêng năng thuyết pháp cho đại chúng, vào thành ấp xóm làng bằng tâm đại Bi, không mong khen ngợi, cung kính, cúng dường, bỏ những lời xen tạp của thế gian, giảng thuyết không trái pháp luật, nói rộng hay hẹp đều bằng lời hòa ái nhu hòa, luôn lễ cúng Tam bảo, học hỏi, tâm luôn thích Đệ nhất nghĩa đế, không tham đắm các pháp, không nhiễm vướng nơi vật, luôn gần Thánh nhân, bỏ phi pháp, quý pháp như thân, trọng Phật như mạng, xem sự tu hành như thân đầu của mình, luôn biết đủ với những y phục, cơm cháo, thuốc men, tài vật, kính trọng bậc Sư trưởng như Phật, dù mất mạng cũng không bỏ tâm Bồ-đề, đầu đêm cuối đêm siêng năng tu hành, luôn sống trong thiền định, Tam-muội, suy xét quan sát đúng các pháp đã nghe, dùng tuệ vi diệu cầu giải thoát, tu hành thanh tịnh, tâm không nhơ uế, bỏ những vật sở hữu, quán sát nội thân không theo ngoại thân, bỏ sân hận, tham lam, keo kiệt, diệt ngu si, tăng trưởng trí tuệ, luôn giữ giới, tâm thường ôn hòa dịu dàng dù bất cứ nơi nào, luôn lấy trí tuệ làm việc cốt yếu tâm không điên đảo, trong sạch, sáng suốt, tu tập các Ba-la-mật, luôn siêng năng cầu căn lành, nghe pháp không quên, thuyết pháp cho người như pháp mình nghe, bỏ tâm mong cầu cúng dường ăn uống, luôn hộ trì các căn, tâm định tĩnh, tâm tùy thuận Niết-bàn nhưng không bỏ thế gian, những sự được mất, lợi tổn, khen chê, khổ vui, không lay động được tâm, luôn nghĩ: Bố thí được giàu có, giữ giới sinh trong cõi người, trời, nhẫn nhục được xinh đẹp, siêng năng bỏ phiền não, thiền định Tam-muội được tâm nhu hòa, tu trí biết được pháp thế xuất thế gian, tu bốn Nhiếp nháp thì không lầm lỗi, tu bốn Tâm vô lượng thì không cao ngạo, tu hành xả đích thực diệt tuệ được tịch tĩnh nhu thuận, tu thiền đạt tâm tự tại, tu Tam-muội được Thâm tâm, biết đúng như thật về các pháp, tu định thì trừ bỏ kiến chấp, tu vô tướng nên không phân biệt, tu vô nguyện thì không đắm chấp, tu các Ba-la-mật đạt tâm Đại thừa rốt ráo, tu phương tiện Ba-la-mật thì đạt xứ của trí Nhất thiết trí, tu các hạnh của Bồ-tát thập địa, gần gũi bạn lành được các công đức, kính thuận Hòa thượng, A-xà-lê thì được tùy thuận chư Phật, biết rõ về thân tâm mình thì đạt Nhất thiết chủng trí, không cao ngạo thì đạt oai lực lớn, cung kính lễ bái chúng sinh thì được nhục kế chúng sinh không thể thấy được, bố thí thì được thân đủ các tướng đẹp, tùy thuận chúng sinh nên được tám mươi vẻ đẹp, thuyết pháp Đại thừa thì được địa tự tại, dạy chúng sinh phát tâm Bồ-đề thì đạt địa không thoái, nói rõ các pháp không, đoạn phiền não và tập khí phiền não, bố thí pháp thì được bốn vô ngại, niệm chúng sinh thì đạt Đà-la-ni, làm cho chúng sinh biết pháp thì đạt bốn vô ngại, nhờ thuyết pháp cho chúng sinh nên được sự ghi nhớ không nhầm, khởi tâm nhẫn nhục với chúng sinh yếu kém thì được thân Na-la-diên, khởi tâm nhẫn nhục với chúng sinh phá giới thì được chúng sinh thích nhìn và cung kính, diệt tâm sân hận của chúng sinh thì được tâm định, siêng năng tu tập thì mau chứng pháp, đem Tam-muội cho chúng sinh thì được tướng âm mã tàng, ban cho oai nghi thì được mọi sự trang nghiêm, làm cho chúng sinh gần bạn tốt thì được Bồ-đề Phật, Thanh văn, Bích-chi-phật luôn hiện tiền, bỏ tâm dục thì được người đời tin, bỏ tâm sân thì được mọi người yêu thích, bỏ tâm ganh ghét thì được lợi dưỡng, tiếng thơm, làm chỗ nương dựa của chúng sinh thì được mọi người quy y, bỏ những sự lợi dưỡng, cung kính, khen ngợi, thì được pháp hỷ thực và tiếng tốt, học hỏi thì được lời nói thanh tịnh, lời nói hòa ái thì được tiếng Phạm âm, lời nói êm dịu thì được tiếng Ca-lăng-tần-già, bỏ sân hận thì được thân xinh đẹp ở đời, không dối chúng sinh thì được người đời tin tưởng, không nói lỗi của người thì không vào thai, bỏ sát sinh thì được sống lâu, bỏ trộm cướp thì được kho tàng báu bằng hư không, bỏ ân ái thì được báu như ý trong tay, hồi hướng Bồ-đề thì được tài vật không hết, bỏ tà dâm thì được thân đại trượng phu, bỏ vọng ngữ thì được thân kín đáo, bỏ lưỡng thiệt thì không mất tâm Bồ-đề, bỏ lời ác thì được người đời khen ngợi, bỏ lời thêu dệt nên được bà con trường tồn, bỏ tâm tham nên được kho tàng vô giá, bỏ tâm sân thì làm cầu lành cho chúng sinh, bỏ tà kiến thì được chánh kiến giáo hóa chúng sinh, trụ trong Đại thừa thì được mười Lực của Phật, bố thí không cầu báo đáp thì được mười tám pháp Bất cộng, bỏ đắm chấp thì được bốn Vô úy.

Này Thiên tử! Ta đã nói rõ về vô số cảnh giới và sự tu hành của Bồ-tát, nhưng dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp cũng không thể nói hết.

Thiên tử! Bồ-tát thành tựu các cảnh giới tu hành như thế thì dễ dàng đạt đến Bồ-đề.

Thiên tử Thiện Tư Duy thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là sự an ổn của Bồ-tát?

Phật bảo:

–Này Thiên tử! Bồ-tát luôn ở trong Tam-muội, nhưng không dựa vào Tam-muội để thọ sinh, đạt Tam-muội rồi thì tùy nơi tạo lợi ích cho chúng sinh mà thọ sinh.

Thiên tử Tư Duy thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là sự tịch tĩnh của Bồ-tát?

Phật nói:

–Bạch Thiên tử! Bồ-tát thấy thật tế, pháp giới, chân như, ở trong chúng nhưng luôn tịch tĩnh, Bồ-tát không khởi hai tâm.

Thiên tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát thường ở trong định?

Phật nói:

–Này Thiên tử! Bồ-tát không mong cầu mọi việc, không thấy một pháp nào có thể nắm bắt, xả bỏ. Bồ-tát thấy pháp thì biết được sự vắng yên rỗng lặng, không chân thật.

Thiên tử Thiện Tư Duy thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát đi đến mọi nơi?

Phật bảo:

–Bạch Thiên tử! Bồ-tát thấy thân mình và chúng sinh đều là không bình đẳng, vắng lặng.

Thiên tử Thiện Tư Duy thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát điều phục?

Phật bảo:

–Này Thiên tử! Bồ-tát không bị sự phân biệt làm lay động là điều phục.

Thiên tử thưa:

–Thế nào là Bồ-tát đạt sự tịch diệt?

Phật bảo:

–Bồ-tát không thấy có nhiễm, tịnh là diệt.

Thiên tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Theo sự hiểu biết của con về lời Phật dạy thì mỗi người tự nương nơi tâm mình mà đạt Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát cũng vậy, lìa phiền não để giữ pháp Phật.

Bạch Thế Tôn! Pháp Phật không từ đâu đến, cũng không đi về đâu.

Bạch Thế Tôn! Trí thanh tịnh trong các pháp là Bồ-đề. Bồ-tát tùy thuận nhẫn nhục là Bồ-đề, biết như vậy là Nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nhập pháp giới bình đẳng là thành tựu Bố thí ba-la-mật. Biết sự đạt pháp giới bình đẳng là thành tựu Giới ba-lamật. Biết pháp giới là nhẫn bình đẳng tức thành tựu Nhẫn nhục bala-mật. Tu hành văn, tự, tu tuệ trong pháp môn này là thành tựu Tinh tấn ba-la-mật. Suy xét về pháp giới bình đẳng này là thành tựu Thiền ba-la-mật. Hiểu rõ pháp giới bình đẳng là thành tựu Trí ba-lamật.

Bạch Thế Tôn! Người tin pháp môn này là thấy pháp, chứng pháp, chế ngự ma. Bạch Thế Tôn! Người giảng pháp môn này là người tùy thuận chuyển bánh xe pháp của Như Lai. Bạch Thế Tôn!

Người đạt pháp môn này là đạt được pháp tối thượng.

Đức Phật khen ngợi những lời nói của Thiên tử Thiện Tư Duy:

–Hay thay! Hay thay! Này Thiên tử! Đúng thế, đúng thế, đúng như lời Thiên tử đã nói.

Này Thiên tử! Tạng pháp Vô thượng Chánh đẳng giác của chư Phật đều nằm trong pháp môn này.

Thiên tử! Những thật nghĩa của chư Phật đều nằm trong pháp môn ấy.

Thiên tử! Người nghe được pháp môn này là người sắp được thiện lợi.

Thiên tử, người giữ gìn pháp môn này là người đạt Tạng pháp lớn. Người lãnh thọ pháp môn này là người đáng tin tưởng, người thọ trì Tạng bí mật của Như Lai. Người nghe pháp này mà tin được là người báo ân Như Lai. Người tin pháp môn này là người không bị mười phương giới làm chướng ngại.

Đức Phật hỏi đại chúng:

–Ai có thể hộ trì pháp môn này ở đời vị lai?

Bồ-tát Vô Sở Phát đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Phật, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con sẽ hộ trì pháp môn này ở đời vị lai.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nào còn có chỗ phát khởi thì không thể hộ trì pháp môn này, vì vậy con không phát khởi, không thọ trì, tâm bình đẳng với chúng sinh, nên hộ trì được pháp môn pháp Nhẫn vô sinh sâu xa, con bỏ tâm ăn uống, không mong cầu cúng dường, cung kính, khen ngợi. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Nếu dựa vào sự cúng dường, cung kính, thì không thể hộ trì pháp môn này.

Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, người nghe pháp môn này mà thọ trì được hoặc chép đọc, hoặc chép rồi thọ trì cả quyển thì đó là do uy lực của Vô Sở Phát.

Đức Phật khen ngợi Bồ-tát Vô Sở Phát:

–Hay thay, hay thay! Thiện nam! Người có tâm như vậy là người hộ trì được diệu pháp.

Bồ-tát Quan Thế Âm thưa:

–Bạch Thế Tôn! Người không đoạn trừ đại Bi là người hộ trì được diệu pháp, nên con nương theo tâm đại Bi mà hộ trì pháp môn này.

Bồ-tát Di-lặc thưa:

–Bạch Thế Tôn! Người có tâm đại Từ là người hộ trì được diệu pháp. Vì sao? Vì người sân hận thì không thể thọ trì được diệu pháp, vì vậy con nương nơi tâm từ mà lưu truyền pháp môn này.

Bồ-tát Kiến Giả Ái Lạc thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nào được chúng sinh thích nhìn thì thọ trì được diệu pháp.

Bạch Thế Tôn! Vì vậy, con không bị chúng sinh sân hận nên hộ trì được pháp môn này.

Bồ-tát Đạo Sư thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát phát tâm trừ tất cả khổ đau cho chúng sinh, nếu chúng sinh nhóm hợp muốn tụ tập Bồ-đề Phật, muốn độ chúng sinh, thì Bồ-tát đó hộ trì được pháp môn này. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Con vì chúng sinh thành tựu Bồ-đề Phật. Bạch Thế Tôn! Con trước độ chúng sinh sau mới tự độ, nhưng không thấy chủ thể độ cùng đối tượng được độ và cũng không có thấy pháp độ chúng sinh. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Con đã phát tâm rốt ráo như vậy, nên hộ trì được pháp môn này.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Người đời điên đảo, người nghĩ ta hộ trì pháp môn này chính là người điên đảo. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ-tát điều phục tịch tĩnh nơi tự thân đó là điều phục Pháp thân chân thật, là hộ trì diệu pháp này. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Con tự điều phục tịch tĩnh và tự thân là Pháp thân nên hộ trì được diệu pháp này.

Đức Phật khen ngợi các Bồ-tát hộ trì diệu pháp:

–Hay thay, hay thay, thiện nam! Các vị thật là những Bồ-tát đem lại an lạc cho chúng sinh, hộ trì diệu pháp, Bồ-tát hộ pháp thì phải như vậy. Vì sao? Vì nghiệp tối thắng của các Bồ-tát là hộ trì diệu pháp.

Thiện nam! Các pháp tương ứng với pháp môn pháp tập, Bồ-tát thọ trì, đọc tụng, tu hành thì được ánh sáng hiển hiện của chư Phật, thân của chư Phật là không sinh diệt, được ánh sáng lớn của pháp, biết các pháp là không tạo tác, không phải là hữu vi, được ánh sáng hiện tiền ở trong Tăng. Tăng chúng đệ tử của Như Lai không có ngã, ngã sở, được ánh sáng trong sự tu tập trì giới của Bồ-tát. Trong các pháp tu học của Bồ-tát đều lấy đại Bi làm gốc, được ánh sáng nhạo thuyết, thể của mọi lời nói là vô sinh.

Thiện nam! Pháp môn này được lưu hành rộng ở cảnh giới của Long vương Bà-già-la, Đế Thích, Long vương A-na-bà-đạt-đa, sau đó mới lưu hành trong cõi Diêm-phù-đề. Tuy lưu hành ở cõi Diêmphù-đề nhưng thường lưu hành trong pháp Phật hộ trì cho chúng sinh có Trực tâm, tâm không dua nịnh, người có thể tin sâu pháp này và trong tâm tỏ ngộ của chúng sinh.

Lúc Như Lai giảng nói pháp này, Bồ-tát Vô Sở Phát, Bồ-tát Phấn Tấn Tuệ cùng các Đại Bồ-tát, Thanh văn, tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, Nhân phi nhân, hết thảy đại chúng đều vui mừng, phụng hành.