PHẬT NÓI KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT TÂM ĐỊA PHẨM LƯỢC SỚ

Hán dịch: Cưu Ma La Thập
Sớ giải: Hoằng Tán
Dịch giả: Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Trí Hải

 

MỤC LỤC

Lời nói đầu

Phần một: Giải Thích Đề Mục

  1. Giải thích đề kinh
  2. Giải thích tên người dịch

Phần hai: Giải thích Kinh văn

  1. Bài tựa riêng
  2. Ba Phật truyền giáo
  3. Phó chúc chung
  4. Phó chúc riêng
  5. Cúng dường Bổn Tôn
  6. Hai Phật thuyết pháp
  7. Phật trên ngàn hoa thuyết pháp
  8. Ngàn trăm ức Thích Ca nói pháp

III. Một Phật thuyết pháp

  1. Mười nơi thuyết pháp
  2. Nhân duyên khởi giáo
  3. Giáng sanh không phải một
  4. Nói giới cho phàm phu
  5. Trùng tụng
  6. Kết giới

 

Lời nói đầu

Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo Pháp dù Tiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất.  Vì thế, khi Đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn, A Nan hỏi: “Bạch Thế Tôn, khi Ngài còn tại thế, hàng Đệ tử chúng con nương theo Ngài là bậc Thầy chỉ giáo, sau khi Ngài nhập diệt rồi, chúng con biết nương vào ai làm Thầy?” Phật dạy: “Sau khi Ta nhập diệt, các ông lấy Giới Luật làm bậc Đại Sư.  Vì sao?  Vì nếu Ta còn trụ ở đời, có nói ra Pháp nào chăng nữa, cũng không ngoài Giới Luật như Ta đã nói.”

Thế nên, trong tất cả Kinh điển của Phật, nhất là Luật Tạng, Chư Phật, chư Tổ luôn có lời dạy cho hàng Đệ tử của Ngài trong hiện tại cũng như vị lai.  Hàng Đệ tử luôn phải trân quý cung hành Giới Luật.  Lời dạy đẵ khắc ghi đậm nét trong Tam tạng giáo điển là: “Giới Luật là thọ mạng của Phật Pháp, Giới Luật còn thì Phật Pháp còn.”  Thế đủ biết Giới Luật với hành giả quan trọng như thế nào!

Như trong Tạng Tỳ Ni, Phật còn dạy rõ: “Không một vị Phật nào vong giới thể, không một Bồ Tát nào không hành giới độ, không một Thanh Văn nào không hành giới hạnh mà thành tựu sở nguyện tu hành.” Trăm ngàn Thắng, Định, Vô Lậu, Diệu Huệ đều nhờ trì giới mà thành tựu.  Hành giả chúng ta khởi một niệm rong ruổi theo tiền trần, đó là cơ hội của ma chướng.  Ngược lại, nếu biết trân quý Giới Luật, cung hành nghiêm mật, đúng như Pháp chơn thật thanh tịnh tu hành dõng mãnh, kiên trì lập chí thệ nguyện y theo Giới Luật tấn tu, dù bỏ thân mạng cũng không vi phạm cấm giới của Phật thì quả vị Giác ngộ giải thoát chỉ còn tùy thuộc vào thệ thâm nguyện tấn tu dõng mãnh của hành giả chậm hay mau mà thôi.

Đệ tử có chút thiện duyên được đọc Phẩm Hạ Lược Sớ – Kinh Phạm Võng Bồ Tát do Ngài Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán ngữ, Ngài Hoằng Tán lược sớ giải.  Vì muốn giúp cho Tăng Ni và Phật tử tại gia mới thọ giới Bồ Tát có thêm tài liệu để tìm hiểu, phần nào trợ duyên cho việc hành trì tấn thú trên bước đường tu tập, lần lần trở về tự tánh bản nguyên thanh tịnh của chính mình, Đệ tử không ngại tài hèn sức mọn, hiểu biết cạn cợt, đã dịch Kinh Sớ này sang Việt ngữ.  Trong quá trình chuyển dịch, tất không tránh khỏi những khiếm khuyết , nhầm lẫn, ngưỡng mong chư Tôn Thiền Đức cao minh hoan hỷ niệm tình chỉ giáo.

Kính mong chư Tăng Ni Phật tử sơ cơ thọ Bồ Tát giới cùng tôi góp ý vào những phần khiếm khuyết để cho Phẩm Kinh Giới Phạm Võng Bồ Tát văn nghĩa được hoàn hảo hơn.

Nguyện đem công đức chuyển dịch Giới Kinh này hồi hướng cầu nguyện cho chúng sanh trong Pháp giới đều trọn thành Phật đạo.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Từ Nghiêm, trọng Hạ năm Mậu Thìn

  1. 2545 – DL. 2001.

Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Trí Hải

Cẩn soạn.

 

Phần một

GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC

1. GIẢI THÍCH ĐỀ KINH

Phật thuyết, tức là chính từ Kim khẩu của Đức Lô Xá Na cho đến Đức Thích Ca trước sau kế thừa nói ra.

Phạm Võng, tức là màng lưới báu ở cung trời Đại Phạm.  Khi Đức Thích Ca trụ nơi cung điện của Đại Phạm Thiên Vương Ma Hê Thủ La, Ngài đã thấy lưới Nhân đà la đang giăng nơi đây, nên lấy làm dụ mà tuyên thuyết.  Màng lưới này được kết thành bởi vô lượng trăm ngàn vạn ức hạt bảo châu ma ni, ánh sáng của mỗi hạt châu đều sai biệt nhưng soi chiếu nhiếp nhập lẫn nhau, vì thế một hạt châu đã hàm chứa màu sắc của vô lượng hạt châu khác, sắc màu ánh chiếu, lớp lớp vô tận mà chẳng ngăn ngại nhau.  Nhân đó Đức Phật nói vô lượng thế giới như mắt lưới, mỗi mỗi thế giới đều sai biệt, giáo môn Phật thuyết cũng như thế.  Từ nghĩa này mà dẫn dụ để chỉ rõ sự an lập của các thế giới trong 10 phương, mỗi mỗi đều bất đồng; Chư Phật trong 10 phương lập bày pháp môn cũng bất đồng; Lại Bồ Tát trong 10 phương nương vào giáo pháp mà tu chứng cũng có vô lượng sai biệt như thế.  Do đó, lấy Phạm Võng dụ làm tên Kinh.

Đại bản của Kinh này gồm 12 quyển, như 1 mắt của màng lưới kia; còn Phẩm Tâm Địa thì như 1 hạt châu trong đó vậy.

Kinh, tiếng Phạn là Sutra (Tu đa la), Trung Hoa dịch là Khế Kinh.  Khế nghĩa là trên hợp với yếu lý của chư Phật, dưới ứng hợp với căn cơ của chúng sanh.  Kinh hàm nghĩa xuyên suốt và nhiếp giữ, tức xuyên suốt nghĩa lý nên biết, nhiếp giữ chúng sanh được độ.

Chú giải Duy Ma Cật Kinh của Ngài Tăng Triệu ghi: “Kinh tức là Thường, cổ kim tuy khác, nhưng đạo giác ngộ chẳng thay đổi; các tà giáo chẳng thể phá hoại, các Thánh chẳng thể đổi thay, vì thế gọi là Thường.”

Xét các Kinh Luật, có bộ dùng nhân pháp làm tên, có bộ dùng pháp dụ làm tên; nay kinh này chỉ lấy dụ làm tên ; nếu luận chung cả tên phẩm thì lấy đủ nhân, pháp, dụ làm tên.  Trong đó, Phạm Võng là dụ, Bồ Tát là nhân (người), Tâm địa là Pháp.  Kinh là giáo năng thuyên, Phạm Võng là giáo sở thuyên, Phật là người năng thuyên.  Nếu luận về Tông thú, Thể dụng, Giáo tướng, Quyền thật, thì chánh giới bản nguyên Tâm địa là Tông, đạt đến Phật quả Xá na là Thú, thật tướng Tâm địa là Thể, dứt ác tu thiện là Dụng, Đại Thừa Tỳ Ni là Giáo tướng; lại thuộc Tỳ Ni Tạng (Tạng Luật) trong Tam Tạng; thuộc Bồ Tát Tạng trong Đại Tiểu Thừa Tạng; thuộc Quyền thật trong giáo Quyền thật.  Kinh Anh Lạc ghi: “Tất cả giới phàm phu đều lấy Tâm làm Thể; vì Tâm vô tận, nên Giới cũng vô tận.”  Do đó, Kinh nầy lấy Thật tướng Tâm địa làm Thể.  Tông tức là Sùng, nghĩa là điều mà kinh tôn sùng.  Thú tức là nơi hướng về rốt ráo của Tông.

Nhân-đà-la, Trung Hoa dịch là Thiên Đế, cũng gọi là Thiên xích châu.  Vì thế gọi chung là Đại Phạm Thiên Vương xích châu (võng tràng).

Tâm Địa phẩm hạ: (Phần hạ của phẩm Tâm Địa)

– Bồ Tát, gọi đủ là Bồ Đề Tát Đỏa.  Bồ Đề, Trung Hoa dịch là đạo; Tát Đỏa dịch là chúng sanh, tức dùng Phật đạo hóa độ chúng sanh. Bồ Đề còn dịch là Giác, Tát Đỏa dịch là hữu tình, là khiến cho loài hữu tình được giác ngộ.

Hàng Bồ Tát trên thì cầu Phật đạo, dưới thì hóa độ chúng sanh, kiến lập đại sự (việc lớn; khai thị ngộ nhập Phật tri kiến) nên gọi là bậc Đại sĩ; cũng gọi là Khai sĩ, vì hay khai hóa tất cả chúng sanh.

Người tu hành từ lúc sơ phát tâm cho đến Đẳng giác đều được gọi là Bồ Đề Tát Đỏa.

– Tâm địa, tức cội nguồn của tất cả phàm thánh .  Phàm phu vì mê tâm nầy, nên trôi lăn trong 3 cõi, 6 đường.  Bậc Thánh vì ngộ tâm nầy mà trở về nguồn chơn, cắt đứt dòng sanh tử.

Bồ Tát vì muốn trở về nguồn chơn, nên nương vào chánh giới tâm địa này làm nhân thù thắng, để chứng đắc cực quả Xá-na.

Địa (đất) là từ dụ lập tên, nghĩa là Bồ Tát tu tập lục độ vạn hạnh, giáo hóa, nâng đỡ tất cả chúng sanh, chẳng khởi tâm yêu ghét. Nhờ đó mà thắng nhân diệu quả được tăng trưởng.  Ví như đại địa chuyên chở, nâng đỡ tất cả vạn vật mà chẳng hiềm dơ sạch, nhờ đó mà vạn vật sanh trưởng.  Tâm Bồ Tát bình đẳng cũng như thế.

– Phẩm, tiếng Phạn là Bát lý vật đa, nghĩa là tụ (nhóm).  Tức ý nghĩa và chủng loại các pháp đồng tập hợp tại một nhóm.  Các phẩm khác của Kinh này phần lớn còn luận chung về thế gian, nhưng phẩm này thì chỉ chú trọng đến giáo tu, nói về Tâm địa.  Toàn phẩm phân làm hai phần thượng, hạ.  Phần thượng nói về việc Bồ Tát dùng sức Định huệ tu chứng giai vị Tam hiền, Thập thánh.  Phần hạ này chủ yếu chỉ dạy bậc Đại sĩ nương vào giới pháp bản nguyên Tâm địa, làm chánh nhân cho Định huệ.  Cho nên hàng Bồ Tát từ Tam hiền, Thập thánh cho đến Đẳng giác đều phải tụng trì.

2. GIẢI THÍCH TÊN NGƯỜI DỊCH

Diêu là họ, Tần là Quốc hiệu – chính là Quốc chủ hậu Tần, họ Diêu tên Hưng.  Tam Tạng Pháp Sư, là người khéo dịch văn kinh của ba Tạng: Kinh – Luật – Luận.  Cưu Ma La Thập, Trung Hoa dịch là Đồng Thọ, nghĩa là Pháp sư tuổi tuy còn trẻ mà trí tuệ biện bác vượt hơn bậc kỳ lão.  Cha Ngài người nước Thiên Trúc, do trí tuệ thông mẫn mà nổi tiếng ở đời.  Quốc chủ nước Quy Tư nghe danh, bèn đem con gái gả cho.

Khi Ngài còn ở trong thai mẹ, tự nhiên mẹ Ngài trí tuệ lần lần tăng trưởng.  Ngài xuất gia năm bảy tuổi, mỗi ngày tụng cả ngàn kệ, năm chín tuổi Ngài đã tranh luận nghĩa lý Kinh điển với ngoại đạo.  Tài biện bác của Ngài đã bẻ gãy được mũi nhọn tà kiến của ngoại đạo.  Các vua nước Thiên Trúc đều tôn xưng Ngài làm thầy.  Phù Kiên nghe danh Ngài đạo đức phi phàm, bèn sai tướng quân Lã Quang đem bảy vạn binh, chinh phạt nước Quy Tư để mời Ngài vào Trung Quốc.  Ngài mới đi được nửa đường nghe tin Phù Kiên đã băng hà, Diêu Hưng kế ngôi nhà Tần, niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ 3, ra sắc lệnh thỉnh Ngài về nước, mời vào Trường An.  Tần chủ Diêu Hưng hết lòng kính trọng, rước Ngài ở riêng tại lầu Tây Minh, nơi vườn Tiêu Diêu.  Nhà vua sắc lịnh thỉnh Ngài dịch Kinh Luận, tất cả hơn 50 bộ.  Bộ Phạm Võng này là bộ được dịch sau cùng.  Khi ấy, 800 vị Sa môn như : Thông Huệ, v.v…xin thọ giáo, Diêu Hưng cùng với 300 Sa môn như: Duệ Trí, v.v…phát đại tâm thọ giới Bồ Tát.  Đây là lần đầu tiên Phật giáo Trung Quốc có cơ duyên thọ Bồ Tát giới, Trời, người đều hân hoan.  Ngài Tuyên luật sư nói: “Thầy La Thập đã ở bậc Tam Hiền, từ thất Phật đến nay, thầy luôn là người dịch Kinh” (dịch tức là phiên dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Trung Quốc).

Phần hai
GIẢI THÍCH KINH VĂN

Xét trong các kinh đều có 3 phần: Biệt, tựa, Chánh tông và Lưu thông.  Phẩm Tâm địa này rút từ Kinh Phạm Võng.  Đại bổn Phạm Võng gồm có 62 phẩm, phẩm Tâm địa này chính là phẩm thứ 10 trong đó, nên không có tựa chung của toàn bộ kinh, không có Như Thị Ngã Văn như các kinh khác, chỉ có bài tựa riêng mà thôi.  Như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, v.v…, mỗi phẩm đều có 2 chữ Nhĩ Thời để trước.  Nay kinh này cũng vậy, phần Chánh tông và Lưu thông nói rõ sự lý, tánh tướng của một phẩm này, chứ không phải phần Chánh tông, Lưu thông của cả bộ kinh.  Hoa Nghiêm Sớ Sao ghi: “Thánh nhân lập giáo đều có thứ lớp, muốn diễn bày những lời nhiệm mầu, trước nêu rõ, rồi nhờ đó mà đạt lý, nhờ nghĩa lý rõ ràng nên kẻ đương cơ tiếp nhận được Pháp.” Bởi vậy đem phần Chánh tông trao cho họ, chẳng những đôn đốc họ ngay trong pháp hội mà còn khiến cho truyền mãi về sau, hằng thắp sáng ngọn đèn chánh pháp được sáng mãi không cùng, nên đặt đó là phần Lưu thông.  Chẳng những chỉ bộ kinh này, hợp xứng với đương hội, hợp xứng với các phẩm mà còn dung chứa tất cả.  Nay giải thích chỉ nêu đại khoa, không chia riêng từng khoa, e rằng người sơ cơ học hỏi cho là khó, lại càng thêm mù mờ.  Tất cả một mảy may đều là lý huyền diệu, giai vị Bồ Tát đủ chuyên chở nghĩa sớ và khai nghĩa ẩn mật.  Tự mình phải kiểm duyệt lấy.

(Giải thích: Kinh chia làm 3 phần: Phần tựa, Chánh tông và Lưu thông.  Thể lệ này bắt đầu từ Pháp sư Đạo Anthời nhà Tấn.  Về sau, các vị Bồ Tát chú sớ, phiên dịch từ Tây Vức (Ấn Độ) sang đều phân làm 3 phần, mới biết lệ thường xưa nay không thay đổi.)

  1. BÀI TỰA RIÊNG
  2. BA PHẬT TRUYỀN GIÁO
  3. Phó chúc chung

Ba Phật là:

– Phật Lô Xá Na.
– Phật trên ngàn hoa.
– Ngàn trăm ức Thích Ca.

Đức Phật Thích Ca được truyền từ ngàn Phật, ngàn Phật được truyền từ Xá Na Phật, Xá Na Phật được truyền từ Phật trước.  Song tất cả Chư Phật đều đủ ba thân, đó là Tỳ Lô Biến diệu, lấy chánh pháp làm thân.

– Xá-na hạnh viên mãn, lấy báo quả làm thân.
– Thích Ca hóa tích, lấy phó cảm (quần cơ) làm thân.
– Pháp thân vô tướng, chiếu sáng khắp hết mười phương.
– Xá Na muôn đức đủ 84,000 tướng hảo nghiêm thân.
– Kim thân của Thích Ca cao một trượng sáu, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.  Tiếng Phạn là Tỳ Lô Giá Na, Trung Hoa dịch là Biến Nhứt Thiết Xứ, vì quang minh biến khắp:

* Quang minh của thân chiếu khắp hết thảy hư không pháp giới.

* Quang minh của trí chiếu khắp lớp lớp pháp giới, cũng gọi là Đại nhựt.  Như mặt trời ở thế gian chỉ chiếu một bên, không soi khắp được, hoặc chỉ chiếu soi được ban ngày, ban đêm thì không, chiếu soi một thế giới còn các thế giới khác không chiếu soi được, thì không gọi là Đại nhựt.  Nay sắc thân pháp thân của Tỳ Lô Giá Na, chiếu khắp pháp giới và thế giới của mười phương, thảy đều chiếu khắp.

Trong kinh Tâm Địa Quán có bài kệ rằng:

Thể pháp thân biến khắp chúng sanh
Muôn đức tự nhiên tánh thường trụ
Không sanh, không diệt, không đến đi
Chẳng phải, chẳng khác, không đoạn thường
Pháp giới biến khắp như hư không
Tất cả Như Lai cùng tu chứng
Mọi công đức hữu vi, vô vi
Đều nương pháp thân thường thanh tịnh
Pháp thân bổn tánh như hư không
Xa lìa lục trần không đắm nhiễm
Pháp thân vô hình, lìa các tướng
Tướng năng, tướng sở thảy đều không
Như vậy pháp thân mầu Chư Phật
Vắng bặt tướng hý luận, ngôn từ
Xa lìa tất cả mọi phân biệt
Tâm hành xứ diệt thể đều như
Vì muốn tu chứng thân Như Lai
Bồ Tát khéo tu cả muôn hạnh.

(Dựa vào Báo thân, Hóa thân, nên Tâm Luận chép: “Thân trước và thân thứ hai là y chỉ thân.”)

Lúc bấy giờ Phật Lô Xá Na vì đại chúng này, khai mở sơ lược trăm ngàn hằng hà sa bất khả Pháp môn tâm địa, như chừng đầu sợi lông.

Giải thích:

Lúc bấy giờ, là lúc Phật Lô Xá Na nói Pháp, Trung Hoa dịch là Quang minh biến chiếu.

– Trong thì dùng Trí quang biến chiếu chơn pháp giới.  Đây đứng về Tự thọ dụng thân.
– Ngoài thì dùng Thân quang biến chiếu ứng Đại cơ.  Đây đứng về Tha thọ dụng thân; Đại cơ tức Đại thừa Bồ Tát.

Tịnh Mãn, nghĩa là dứt hết tâm niệm xấu ác, nên nói là Tịnh, dứt hết mọi quả báo ác, các đức thảy đều đủ nên nói là Mãn.  Đây là thực hành quả báo thiện.  Phần nhiều dựa trên Tự thọ dụng mà đặt tên.  Còn Quang minh Biến chiếu, phần nhiều dựa trên Tha thọ dụng đặt tên.  Xét trong kinh Tâm Địa Quán, Pháp thân cũng gọi là tự tánh thân, vô thỉ, vô chung, lìa tất cả tướng, dứt hết các hý luận, châu viên biến khắp vắng lặng thường trụ, đây gọi là Pháp thân.  Thọ dụng thân có hai :

  1. Tự thọ dụng
  2. Tha thọ dụng.

Tự thọ dụng thân phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp tu muôn hạnh, khiến chúng sanh được an lạc lợi ích rồi, tâm Thập địa viên mãn, ra khỏi ba cõi, trụ nơi Tịnh diệu Quốc độ, ngồi trên bảo tòa liên hoa, có vô lượng Bồ Tát hải hội vây quanh cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán ngợi khen, như thế gọi là Hậu báo lợi ích.

Lúc bấy giờ, Bồ Tát vào Định kim cang, đoạn trừ hết tất cả phiền não chướng và sở tri chướng vi tế, chứng đắc Vô thượng Bồ Đề.  Diệu quả đó gọi Hiện tại lợi ích, đây là chơn báo thân, hữu thỉ vô chung, thọ lượng kiếp số, không có hạn lượng, suốt cho đến đời vị lai các căn tướng hảo, biến khắp pháp giới, bốn trí đầy đủ, thọ dụng pháp lạc, đầy đủ 84,000 trí môn, đủ tất cả các công đức, gọi là Như Lai Tự thọ dụng thân.  Còn Như Lai Tha Thọ dụng thân đầy đủ 84,000 tướng hảo, ở cõi Chơn Tịnh độ, thuyết pháp Nhứt thừa, khiến cho các Bồ Tát thọ dụng pháp lạc vi diệu của Đại thừa.  Tất cả Như Lai vì hóa độ chúng Thập địa Bồ Tát nên hiện ra mười thứ Tha thọ dụng thân:

– Phật thân ngồi trên hoa sen trăm cánh, vì hàng Sơ địa Bồ Tát nói trăm pháp minh môn.  Bồ Tát ngộ rồi, khởi đại thần thông biến hoá, đầy khắp trong thế giới của trăm Phật, làm an lạc lợi ích vô số chúng sanh.

– Phật thân ngồi trên hoa sen ngàn cánh, vì hàng Nhị địa Bồ Tát, nói ngàn pháp minh môn.  Bồ tát ngộ rồi, khởi đại thần thông biến hoá khắp hết thế giới của ngàn Phật, làm an lạc lợi ích vô lượng vô số chúng sanh.

– Phật thân ngồi trên hoa sen muôn cánh, vì hàng Tam địa Bồ Tát thuyết muôn pháp minh môn.  Bồ Tát ngộ rồi, khởi đại thần thông biến hóa đầy khắp cõi nước của muôn Phật, làm an lạc lợi ích vô lượng chúng sanh.

Như thế, Như Lai lần lần tăng trưởng, cho đến Thập địa Bồ Tát.  Tha thọ dụng thân, ngồi trên bất khả thuyết hoa sen báu vi diệu, vì hàng Thập địa Bồ Tát thuyết bất khả thuyết các pháp minh môn.  Bồ Tát ngộ rồi, khởi đại thần thông biến hóa, đầy khắp bất khả thuyết các cõi nước vi diệu của Phật và lợi ích an lạc cho các loại chúng sanh vô lượng vô biên không thể tính kể được.  Mười thân như thế, đều ngồi tòa thất bảo dưới cây Thọ vương, chứng đắc Vô thượng Bồ đề.  Đây gọi là Ứng thân Phật.

Trong mỗi một cánh sen là một Tam thiên thế giới, có trăm ức núi Tu Di và Tứ Đại Châu.  Mỗi một Thiệm bộ châu đều có tòa kim cang, cội Bồ đề Thọ vương.  Các hóa Phật đều ở dưới gốc cây, sau khi phá sạch ma quân rồi, nhứt thời chứng đắc Vô thượng Bồ đề.  Các hóa Phật ấy, mỗi vị đều đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, vì các hàng Bồ tát, Nhị thừa, phàm phu mà tùy nghi thuyết Tam thừa Diệu pháp.  Các hóa Phật này, đều gọi là Phật Biến hóa thân, nối tiếp nhau thường trú.  Có bài kệ:

Vì giáo hóa Địa thượng Bồ tát
 Một Phật hóa hiện mười thứ thân
 Tùy cơ ứng hiện thảy không đồng
 Lần lần nhiều cho đến vô cực
 Như thế mười Phật thành chánh giác
 Đều ngồi tòa Bồ đề thất bảo
 Phật trước nhập diệt Phật sau thành
 Hóa Phật khác nhau hiện cả kiếp.

Ứng thân, là Tha thọ dụng thân, hóa thân tức trăm ngàn ức hóa thân, nghĩa là càng tăng đến chỗ vô cực, chứ đâu phải chỉ ngàn trăm ức mà thôi.  Nên chánh văn ghi: “Trăm ngàn vạn đến bất khả thuyết.”  Đại Tiểu hóa Phật đều ngồi Bồ đề thọ, chính là phần lưu thông của kinh này nói:  “Vi trần thế giới là Phật.” Còn “Đại chúng” tức là chỉ cho Phật trên ngàn hoa và ngàn trăm ức Thích Ca.

Xét trong phẩm Thượng, khi ấy đức Phật Thích Ca đưa đại chúng ở thế giới này trở về Liên Hoa Đài tạng, gặp Phật Lô Xá Na, Phật rộng khai và chỉ rõ pháp môn tu của hàng Tam Hiền và Thập Thánh để khiến cho họ trở về cội nguồn Phật quả.  Như vậy phải biết, chẳng phải chỉ có ngàn Phật, ngàn trăm ức Phật mà thôi.

Vì đại chúng, tức là vì hằng hà sa người (người nhiều như cát sông Hằng). Con sông này nằm ở trung Thiên Trúc, rộng 40 dặm, cát của sông này mịn như bột gạo.  Cát của một con sông đã nhiều vô cùng, huống chi số cát trăm ngàn sông, lẽ đâu cùng tận.  Nên nói bất khả thuyết, bất khả thuyết.  Cũng như nói: “Số thứ 9 trong 10 số lớn là để dụ cho pháp môn rộng lớn vô cùng vô tận.”  Nay đối với pháp môn vô cùng vô tận mà chỉ nói Tâm địa Pháp môn thôi, nên ví như chừng đầu sợi lông là vậy, còn cát một sông trăm ngàn sông cũng thế.

Pháp môn tuy nhiều cũng không ngoài tâm địa.  Nói đến Tâm địa chính là bao gồm hết muôn pháp.  Đây cũng là dùng ít nhiếp nhiều.  Kinh Niết Bàn chép: “Phật ở trong rừng, Ngài cầm trong tay ít lá cây bảo các Tỳ Kheo: Tất cả các Pháp mà Ta chứng biết nhiều như lá cây trong Đại địa, còn pháp diễn nói cho chúng sanh chỉ bằng lá cây trong tay Ta mà thôi.”  Thí dụ về pháp môn cũng giống như thí dụ này vậy.

Đây là tất cả Phật quá khứ đã nói, tất cả Phật vị lai sẽ nói, Phật hiện tại đang nói.  Ba đời Bồ Tát đã học, đương học và sẽ học.

Giải thích:

Phật, tiếng Phạn nói đủ là Phật Đà, Trung Hoa dịch là Giác.  Giác có ba nghĩa:

1. Tự giác: Như người tỉnh thức sau giấc mộng dài (đại mộng).  Đây là vượt hơn phàm phu.

2. Giác tha: Đã vượt hơn Nhị thừa, vì Nhị thừa chú trọng cho mình nhiều hơn, không có tâm lợi tha, chỉ mong tự lợi, nên gấp ra khỏi sanh tử ba cõi.  Còn Phật Như Lai chứng đắc bình đẳng trí, được pháp tánh không, vận tâm vô duyên từ vào cảnh giới ma, độ khắp chúng sanh, khiến họ an vui, nên gọi là Giác tha.

3. Giác hạnh viên mãn: Khác hơn Bồ Tát, vì hàng Bồ Tát tuy khởi lòng từ độ khắp chúng sanh nhưng giác hạnh chưa được viên mãn, chỉ có Phật, tâm cảnh đều lìa, Căn bản trí được hiển lộ toàn vẹn, Ngũ trụ phiền não đã tận diệt, hai thứ sanh tử không còn, ba giác đã trọn, muôn đức đã đủ, đầy đủ mười hiệu, nay chỉ nên một hiệu là Như Lai thì mười hiệu đồng bày.

Ba đời chư Phật đã nói Pháp này; ba đời đó là quá khứ, hiện tại và vị lai.  Đức Xá Na tuy nói rằng: Chừng đầu mảy lông nhưng thực ra ba đời chư Phật cùng thuyết, ba đời Bồ Tát cùng học, vì sao vậy?  Vì tâm là nguồn gốc của muôn pháp.  Nêu tâm thì muôn pháp đều đủ, nên Chư Phật đồng thuyết, Đại sĩ đồng học.

Ta đã trăm ngàn kiếp tu hành môn Tâm địa này, ta được hiệu là Lô Xá Na, Chư Phật các ông truyền lời ta đã nói để khai mở tâm địa cho tất cả chúng sanh.

Giải thích:

Ngã, nghĩa là chính Chơn ngã được Bát tự tại của Như Lai, chẳng phải vọng ngã do phàm phu chấp ngũ uẩn thân tâm là ngã.  Kiếp, tiếng Phạn nói cho đủ là Kiếp-ba-cấp-đà, Trung Hoa dịch là Thời phần, nghĩa là rất lâu xa, chẳng phải năm tháng có thể tính biết được.

Kinh Anh Lạc chép: “Thí như một dặm, hai dặm cho đến mười dặm đá, bề rộng cũng chừng ấy.  Dùng y trời nặng 3 thù, theo ngày tháng ở nhân gian, cứ 3 năm lau bụi một lần, lau đến khi nào đá này mòn hết, thì gọi là một tiểu kiếp.  Từ một dặm, hai dặm, cho đến 40 dặm cũng gọi là 1 tiểu kiếp. Lại nữa, đá dài 800 dặm, rộng cũng ngần ấy, dùng y trời Phạm Thiên nặng 3 thù, lấy trăm thứ châu ngọc sáng rỡ của trời Phạm Thiên làm ngày tháng, cứ 3 năm lau 1 lần, lau đến khi nào đá này mòn hết, thì gọi là 1 trung kiếp.  Lại nữa, đá dài 800 dặm, rộng cũng ngần ấy, dùng y trời Tịnh Cư nặng 3 thù, lấy ngàn thứ bảo quang minh cảnh làm ngày tháng, cứ 3 năm lau 1 lần, lau đến khi nào đá này mòn hết, thì gọi là 1 Đại A Tăng Kỳ Kiếp.  Nếu 1 dặm, 2 dặm, cho đến 10 dặm đá hết, thì đó gọi là một dặm kiếp, 2 dặm kiếp v.v…Nếu 50 dặm đá hết, thì gọi là 50 dặm kiếp.  Trăm dặm đá hết thì gọi là trăm dặm kiếp.  Ngàn dặm đá hết thì gọi là ngàn dặm kiếp, vạn dặm đá hết thì gọi là vạn dặm kiếp.”  Tất cả Hiền Thánh vào số lượng này, tu tất cả pháp môn, trải qua thời gian lâu hoặc mau, mà được quả Phật.  Thời gian ấy có thể đến trăm kiếp mới chứng đắc Đẳng giác.  Nếu tất cả chúng sanh vào trong số này, không bao lâu sẽ được thành Phật.  Nếu không ở trong số này, thì không được gọi là Bồ Tát.

Nay nói trăm kiếp tu hành, như phẩm Thượng ghi: “Trăm A Tăng kỳ kiếp.” ở đây có thể do lược bớt kinh văn.  Xét trong các kinh khác đều ghi: “Như Lai tu hành 3 Đại A Tăng kỳ kiếp, hoặc hơn thế nữa.”  Lại trong trăm trung kiếp tu nhân tướng hảo, nên nói trăm kiếp là vậy.  Ngài Thiên Thai Trí Giả dẫn Trí Độ Luận, Câu Xá Luận, Bà Sa Luận, v.v…, mà nói rằng: “Đức Như Lai từ cổ Phật Thích Ca đến Phật Thi Khí, Ngài gặp 75,000 Phật, gọi đó là A Tăng Kỳ đầu tiên (chẳng phải Phật Thi Khí trong thất Phật).  Từ Phật Thi Khí đến Phật Nhiên Đăng, gặp 76,000 Phật, gọi đó là A Tăng Kỳ thứ 2, được thọ ký biệt hiệu là Thích Ca Văn.  Từ Phật Nhiên Đăng đến Phật Tỳ Bà Thi, gặp 77,000 Phật, gọi là viên mãn A Tăng Kỳ thứ 3.”  Từ kiếp đầu tiên đến đây, tu Lục độ đã xong, lại trụ trăm kiếp, tu nhân của 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, nên Kinh Hiền Ngu chép: “Phật nói: Ta trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp, tinh tấn siêng tu khổ hạnh, trăm kiếp tu phước.”

– A Tăng Kỳ đầu tiên, tu cúng dường 84,000 Phật.

– A Tăng Kỳ thứ 2, cúng dường 99,000 Đức Phật

– A Tăng Kỳ sau cùng , cúng dường 100,000 Phật Thế Tôn, xuất gia tu hành trì giới nghiêm mật, đầy đủ giới Ba-La-Mật, nương xe lục độ, mặc giáp nhẫn nhục, ngồi tòa kim cang, dưới cội Bồ đề, hàng phục Ma vương chứng thành Phật đạo.

Xét trong kinh Anh Lạc: “Khi Phật mới phát tâm tu hành chí cầu quả vị Duyên Giác, ở chỗ vắng vẻ nhàn tĩnh, trải qua 44 ức kiếp, không có Phật pháp thánh chúng.  Thời gian đó là 70 kiếp sau cùng, gặp Phật Đại Thông Huệ diễn nói pháp Đại Thừa, mới phát khởi chút lòng tin hiểu, kiến tạo công đức.  Trải qua 19 kiếp nữa, làm bậc Đại Quốc vương, cúng dường chúng Thanh tịnh, chu cấp cho những người nghèo thiếu, rời bỏ ngôi vua, xuất gia tu hành, an ngồi tĩnh niệm, tâm lần lần bị mệt mỏi, qua lại trong đường sanh tử, thọ báo vô số, do ý không phát Đại Thệ nguyện, chỉ muốn thoát khỏi hoạn khổ tự thân.  Lại trải qua 60 kiếp, gặp được Phật Bảo Anh, nói đạo nhứt thừa không hai, không nghe tên tiểu tiết, ngay đó phát tâm, thệ tâm rộng lớn không trở ngại, từ đó đến nay, trải qua bảy ức A Tăng Kỳ, luôn luôn thuận theo chánh pháp, nay mới tự giác ngộ.  Phải biết bảy kiếp về trước, tuy là cần khổ tu đạo, nhưng không có thệ nguyện vững chắc, nên trọn không thể thành bậc Đẳng Chánh Giác.”

Căn cứ vào đây thì trăm A Tăng Kỳ kiếp vẫn còn ít, đây cũng chỉ tùy cơ mà nói.  Hóa nghi của Quyền thật, Đại tiểu không đồng.  Nay đức Xá Na diễn nói pháp mà mình tu chứng ấy, khiến người khác sanh lòng tin.  Nương pháp môn Tâm địa này để đạt đến kết quả tu chứng.

Chư Phật các ông truyền lời Ta đã nói, nghĩa là trước nói pháp, là khắp vì đại chúng , nay trao tâm ấn cho người chẳng phải người khác có thể kham được, nên đặc biệt phó chúc cho ngàn Phật Thích Ca, truyền lại lời của đức Phật Xá Na, chỉ lại cho các chúng sanh, khiến cho trên thừa dưới tiếp, vâng giữ giới pháp sẵn có.

Khai mở con đường tâm địa cho chúng sanh, nghĩa là tâm của tất cả chúng sanh vốn rỗng rang, nhưng vì từ vô thỉ kiếp đến nay, bị vọng tình hoặc nghiệp ngăn che, nên đức Xá Na phó chúc cho Thích Ca, truyền pháp môn khai mở tâm địa, khiến cho tất cả chúng sanh hoát nhiên khai thông tự tâm sẵn có của mình xưa nay.  Nay chỉ nêu sơ lược, phần sau sẽ giải thích rõ hơn.

3. Phó chúc riêng

Lúc bấy giờ, đức Phật Lô Xá Na ngồi trên tòa sư tử có ánh sáng cõi trời rạng rỡ trong thế giới Liên hoa Đài tạng.  Đức Phật phóng hào quang, trong hào quang có tiếng nói bảo Phật trên ngàn hoa, thọ trì pháp môn Tâm địa của Ta, mà đi truyền lại cho ngàn trăm ức Thích Ca, cho đến tất cả chúng sanh, theo thứ lớp nói phẩm Pháp môn Tâm địa này.  Các ông nên thọ trì đọc tụng vâng làm.

Giải thích:

Thế giới Liên hoa Đài tạng, chính là thế giới Hoa Nghiêm Hải Tạng.  Tạng, nghĩa là bao hàm, vì mười phương pháp giới, đều trụ trong đó.  Phần còn lại là văn trùng tụng, sau sẽ giải thích.

Trên tòa sư tử có ánh sáng cõi Trời, nghĩa là tòa phát ra quang minh cao sáng hiển lộ rực rỡ, cũng như thiên quang chiếu khắp.  Như Lai thuyết pháp vô úy, ma vương và ngoại đạo thảy đều quy phục, cũng như sư tử rống lên, các loài cầm thú khi nghe tiếng, thảy đều chạy trốn.  Bởi vậy, tòa Phật ngồi gọi là tòa Sư tử, còn gọi là tòa Pháp không, cũng biểu thị cho sự vô úy, vì Như Lai chứng pháp Không, nên không sợ hãi.

Phẩm Thượng ghi: “Đức Xá Na ở trong cung Kim cang Quang Minh, ngồi trên trăm ngàn muôn ức hoa sen, ánh quang của tòa này sáng rỡ” là vậy.  Trong ánh hào quang có tiếng nói bảo các Phật trên hoa sen, nghĩa là tâm địa của Như Lai, vốn bặt dứt danh ngôn sắc tướng.  Nay muốn hiển tâm địa chánh pháp này, trở lại dùng ánh sáng của tâm làm Phật sự, nên không dùng lời nói mà dùng ánh quang bảo.  Đây là Phật Xá Na phóng quang bảo ngàn Phật.  Ngàn Phật lại chuyển cho ngàn Phật Thích Ca hóa Phật, Thích Ca lại vì các chúng sanh mà nói.

Theo thứ lớp nói phẩm Tâm địa pháp môn, nghĩa là như phẩm trước nói về giai vị tu chứng của Bồ Tát, gồm các pháp môn như Thập Phát thú, Tâm địa pháp môn, v.v… nên đây bao gồm hết tâm địa giới phẩm sau, ở tâm thọ trì, ở miệng thì đọc tụng, tâm và khẩu tấn tu không hai, nên nói “Nhất tâm vâng làm.”

4. Cúng dường Bổn tôn

Lúc bấy giờ, Phật trên ngàn hoa, ngàn trăm ức Thích Ca từ tòa Sư tử sáng rỡ trong thế giới Liên hoa Đài tạng đứng dậy, tất cả đều thối lui, toàn thân các Ngài phóng ra hào quang không thể nghĩ bàn, trong hào quang đó hóa ra vô lượng Phật, đồng thời đem vô lượng hoa xanh, vàng, đỏ, trắng dâng lên cúng dường Phật Lô Xá Na, rồi thọ trì phẩm Tâm địa pháp môn như trước đã nói. 

Giải thích:

Đức Xá Na đem Pháp phó chúc cho Phật ngồi trên ngàn hoa, Phật trên ngàn hoa lại đem pháp phó chúc cho ngàn trăm ức Thích Ca, tất cả đều lãnh thọ vâng theo, nên cáo từ thối lui.

Toàn thân các Ngài phóng ra ánh sáng không thể nghĩ bàn, nghĩa là ánh quang của Chư Phật có Thường quang và Phóng quang.  Thường quang chính là bản giác viên minh, ánh sáng ấy chiếu khắp pháp giới.  Phóng quang tức là khởi thần thông, biến hiện chẳng phải một, nhưng không lìa bổn nguyên tâm địa giới thể mà lưu xuất.  Đã là giới thể cội nguồn, chính là bặt dứt ngôn từ suy nghĩ, nên nói: “Không thể nghĩ bàn.”

Trong ánh quang đó, hóa ra vô lượng Chư Phật, mà vô lượng Chư Phật cũng không lìa tâm địa, như vậy tâm địa Xá Na cũng hóa ra ngàn Phật, ngàn Phật hóa ra ngàn trăm ức, ngàn trăm ức hóa ra vô lượng, lại hóa vô lượng hoa vi diệu rồi trở về cúng dường Phật tâm địa bổn nguyên.
Đây cũng là biểu trưng Bồ Tát dựa vào Tâm địa giới thể, đồng tu phước  huệ, để thành muôn đức trang nghiêm tự tâm.

5. HAI PHẬT THUYẾT PHÁP

  1. Phật trên ngàn hoa thuyết pháp

Trước nói về Phật ngồi trên ngàn đài hoa, hiện thân ở mười nơi mà nói pháp.  Sau nói về ngàn trăm ức Thích Ca cũng hiện thân ở mười nơi mà thuyết Pháp.   Mười nơi ấy là:

  1. Kim cang tòa và Diệu Quang đường
  2. Trong cung trời Đế Thích
  3. Cõi trời Diệm Ma
  4. Cõi trời Đâu Suất
  5. Cõi trời Hóa Lạc
  6. Cõi trời Tha Hóa
  7. Cõi trời Sơ Thiền
  8. Cõi trời Nhị  Thiền
  9. Cõi trời Tam Thiền
  10. Cõi trời Tứ Thiền.

(Đây là Sắc giới, Đệ Tứ thiền, thuộc trên đỉnh sắc giới cứu cánh thiên, trên đó không còn cõi trời nào nữa).

Giải thích:

Hỏi: Trên cõi Sắc cứu cánh không còn cõi Trời nào hết, vậy Tứ không thiên thuộc Vô sắc ở chỗ nào?

Đáp: Tứ không thiên kia dùng bốn uẩn làm thân (Thọ, Tưởng, Hành, Thức), không còn sắc chất, con người giống như  ngọc nát, cõi như hư không, nên không có nơi chốn, chỉ tùy người đó ở chỗ nào tu chứng Tứ không định thì gọi là Tứ không thiên.  Do định kia đã vượt ra ngoài Tứ thiền, nên để trên Tứ thiền.

Mỗi mỗi Phật đều từ thế giới Liên hoa Đài tạng này rồi ẩn khuất, ẩn khuất rồi nhập Tam muội thể tánh hư không hoa quang, trở lại thế giới bổn nguyên đến cõi Diêm Phù Đề, ngồi dưới cội Bồ đề.

Giải thích:

Thể tánh thì vô tướng, nên nói hư không, chính là Bổn nguyên tâm địa.  tâm địa vốn đủ trí dụng, nên nói tâm thể tuy không nhưng đầy đủ hằng sa tánh đức, trí quang diệu dụng, nên gọi là thể tánh Hoa quang.  Vậy Tam muội (định) của Như Lai chẳng phải từ ngoài mà vào, nên nói: “Na Già thường tại định, không lúc nào chẳng định.”

Lại nói: “Không khởi diệt định, hiện các oai nghi, chỉ cho biết ảnh tượng mười pháp giới để dẫn đạo chúng sanh.”Nay nói nhập và xuất, do thể dụng hợp nhứt, nên nói nhập, thể dụng toàn bày nên nói “xuất”. Nghĩa là trăm ngàn định môn, đồng quy một tịch diệt, biển trí vô biên, cũng không lìa bổn nguyên.  Ngài Khuê Phong nói: “Dứt hết tâm phân biệt, trí và lý hợp nhau, gọi đó là nhập.”

Tam muội, Trung Hoa dịch là Chánh định, cũng gọi là Chánh thọ.  Tên gọi Tam muội rất nhiều nên quả vị tu chứng cũng không giống nhau.  Như tất cả Thiền định, cũng gọi là định, cũng gọi là Tam muội.  Nay nói Thể tánh Hoa quang là vượt xa các Tam muội trên.

Diêm Phù Đề, Trung Hoa dịch là Thắng Kim Châu, nghĩa là phía Bắc cõi Nam Thiệm Bộ Châu này có cây Đại thọ tên là Diêm Phù Đề, dưới cây có sông, sông ấy có cát vàng màu đỏ, nên lấy đó đặt tên .  Cây này dựa vào sông đặt tên, Châu là dựa vào cây mà đặt tên, cho nên tân dịch là Thiệm Bộ Châu.

Bồ đề, Trung Hoa dịch là Đạo, là đạo cùng tột, gọi đó là Bồ đề, là đạo Đại Giác ngộ.  Tên cây đó vốn gọi là Tất Bát La, Phật ngồi dưới gốc cây này, thành đạo chánh giác, nên gọi là Bồ đề.  Cây này cao vài trăm thước, võ cây vàng trắng, lá cây màu xanh lục, mùa đông và mùa hạ không bị điêu tàn xơ xác, màu sắc tươi sáng không thay đổi.  Thường thường đến ngày 15 tháng 2 âm lịch, là ngày Như Lai nhập niết bàn, lá cây đều xơ xác rơi rụng, trong khoảnh khắc lại xanh tươi trở lại.  Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Cây Bồ đề cao lồ lộ rất đặc biệt, kim cang làm thân lưu ly làm cành, các thứ diệu báu xen lẫn làm nhánh, lá bấu víu nhau, rũ xuống như mây che, hoa báu nhiều màu sắc, phần nhánh cây bủa khắp, lại dùng Ma ni làm quả”.  Đây là Tha thọ dụng thân của Xá Na.  Cảnh giới của Bồ Tát Thập địa, chẳng phải hàng phàm phu Nhị thừa có thể thấy được, đó cũng là biểu trưng cho Trí Quang thần thông tam muội của Phật, ảnh hiện trang nghiêm trong tâm địa, lại đồng thể tánh Hoa quang.  Đức Thích Ca do tu tập đạo pháp này, nên nói rằng trở về thế giới bổn nguyên, dưới gốc Bồ đề.

Từ thể tánh tam muội hư không Hoa quang xuất định xong, Ngài mới ngồi kim cang Thiên Quang Vương tòa và Diệu Quang đường, diễn nói Thập Thế giới hải.  Ngài lại từ tòa đứng dậy, đến cung trời Đế Thích nói pháp Thập trụ; đến cung trời Diệm Ma nói pháp Thập hạnh; đến cung trời Đâu Suất nói pháp Thập Hồi hướng; đến cung trời Hóa lạc nói pháp Thập Thiền định; đến cung trời Tha Hóa nói pháp Thập địa; đến cõi Sơ thiền nói pháp Thập Kim cang; đến cõi Nhị thiền nói pháp Thập nhẫn; đến cõi Tam thiền nói pháp Thập nguyện, sau cùng ở cõi Tứ thiền nơi vương cung cõi trời Ma-hê-thủ-la, nói Phẩm Pháp môn Tâm địa mà Phật Lô Xá Na đã từng diễn nói trong Thế giới Liên Hoa Đài tạng Bổn nguyên của ta.

Giải thích:

Trước nói rõ ngàn Phật Thích Ca, sau cùng nói trăm ngàn ức Thích Ca, tất cả đều ở trước Phật Xá Na lãnh thọ Bồ Tát giới tạng rồi mới nhập định, trở về thế giới bổn nguyên.  Nay nói rõ xuất định, hiện thân mười nơi nói pháp.  Tòa Thiên Quang Vương, ở dưới cội Bồ đề, cách Vương Xá thành 200 dặm, về phía Tây thuộc nước Ma Kiệt Đà, trung Thiên Trúc.  Khi xưa thế giới này mới thành, tòa Thiên Quang Vương cùng đại địa đều dựng lập.  Xét trong Tam thiên Đại thiên thế giới, tận cùng trái đất là kim luân, trên nối liền với mặt đất.  Nó do kim cang tạo thành, chu vi hơn tám trăm bước.  Vào thời Hiền kiếp một ngàn vị Phật ra đời, đều ngồi tòa này để nhập định kim cang, thành Vô thượng chánh giác, nên gọi đây là tòa kim cang Thiên Quang Vương.  Đây là nơi Như Lai tu chứng thành đạo, cũng gọi là Đạo tràng.

Kinh Hoa Nghiêm chép: “Đất kia kiên cố, do kim cang tạo thành, các hoa báu và bánh xe báu thượng diệu, ma ni trong sáng, để làm đồ trang nghiêm, các sắc tướng hiển hiện vô biên, do thần lực của Phật khiến cho đạo tràng này được trang nghiêm hiện bày, cung điện lầu các, chỗ Như Lai ở trang nghiêm, rộng lớn trùm khắp mười phương, do các sắc quang lập nên ma ni, các thứ hoa báu dùng để trang nghiêm, điện đường lầu các, thềm cấp cửa sổ, tất cả các vật tượng để trang nghiêm thể tánh.  Tòa sư tử kia, rất cao rộng tốt đẹp, ma ni làm đài, hoa sen làm lưới, các báu thượng diệu thanh tịnh dùng làm bánh xe.  Nếu chẳng phải hàng Đại cơ Bồ Tát, thì đâu có thể thấy được.  Còn hàng phàm phu Nhị thừa, chỉ thấy được cây Bồ đề, tòa Bồ đề chu vi hơn trăm bước và Phật kim thân trượng sáu mà thôi.”

Diệu Quang đường, nghĩa là dùng các báu trang nghiêm, nên gọi là Diệu, đồ báu rực rỡ chiếu rọi vào nhau nên gọi là Quang, cũng gọi là Phổ Quang đường, hay Phổ Quang Minh điện.  Nó ở phía Tây cây Bồ đề không xa, khi Như Lai mới thành chánh giác, trời Phạm Vương dùng bảy báu kiến lập nhà này.  Trời Đế Thích xây tòa bảy báu, phóng ánh sáng lạ chiếu dưới cội Bồ đề, đức Phật ngồi trên tòa này bảy ngày phóng quang.  Ngày nay các thứ báu biến thành đá rồi.  Kinh Hoa Nghiêm chép: “Ở nơi Phổ Quang Minh điện, ngồi tòa sư tử Liên hoa Đài tạng là thế.”

Thập Thế giới hải: Xem kỹ trong Kinh Hoa Nghiêm.  Tóm lại gồm:

  1. Thế giới hải
  2. Chúng sanh hải
  3. Pháp giới an lập hải
  4. Phật hải
  5. Phật Ba-la-mật hải
  6. Phật giải thoát hải
  7. Phật biến hóa hải
  8. Phật diễn thuyết hải
  9. Phật danh hiệu hải
  10. Phật thọ lượng hải.

Biển lấy sâu rộng làm nghĩa, tức là tất cả pháp Như Lai đã nói, mười thứ này tóm thâu hết.

Kinh Anh Lạc chép: “Khi Phật mới đắc đạo, dưới cội cây Bồ đề, Ngài nói pháp môn Thập Thế giới hải.  Lúc đó có 80,000 Vô cấu Bồ Tát hiện thân thành Phật.  Lại nói có 90 ức người thể nhập Lục nhập Minh môn.  Ngài lại đến pháp đường Phổ Quang giảng về mười quốc độ Phật, có trăm muôn ức người, thể nhập Lục nhập Minh môn, cho nên Ngài ở Ma Ni đường – cõi trời thứ sáu – giảng pháp Thập địa, có trăm muôn hằng hà sa số người thể nhập Lục nhập Minh môn.

Cung điện của Đế Thích: Đế Thích tiếng Phạn nói đủ là Thích Đề Hoàn Nhơn, Trung Hoa dịch là Năng Thiên Chủ, nghĩa là người này thường làm thiên chủ ba mươi ba cõi trời.  Cung điện của thiên chủ này tên là Thù Thắng điện, ở trên đỉnh núi Tu Di, chính là cõi trời Đao Lợi thứ hai trong các cõi trời dục giới.  Kinh Hoa Nghiêm chép: “Lúc bấy giờ do oai thần lực của Như Lai, tất cả thế giới trong mười phương, mỗi một tứ thiên hạ trong cõi Diêm Phù Đề thảy đều thấy Như Lai, ngồi nơi cội Bồ đề, mỗi Phật đều có Bồ Tát nương thần lực của Chư Phật để diễn nói pháp.  Họ đều cho rằng ta hằng ở nơi Phật.”

Bấy giờ đức Thế Tôn không rời khỏi cội Bồ đề, mà lên đỉnh núi Tu Di, hướng về cung điện trời Đế Thích, ngoài ra Phật trong các cõi cũng đều như vậy.

Kinh Sớ ghi: “Như Lai chẳng rời Bồ đề mà lên cõi trời Đế Thích, đó là thể dụng tự tại, phó cảm đến lòng ham muốn của chúng sanh.”  Thí như khi nước sông yên lặng, dù một mặt trăng, nhưng ba thuyền cùng thấy, một thuyền dừng lại, hai thuyền đi về phía Nam và Bắc.  Người trên thuyền phía Nam thấy trăng ngàn dặm theo phía Nam, người trên thuyền phía Bắc thấy trăng ngàn dặm theo phía Bắc, người trên thuyền dừng lại thấy trăng không dời đổi.  Ấy là mặt trăng không lìa giữa dòng mà đến phía Nam hay phía Bắc.  Như Lai ứng hiện cũng thế.  Nên biết dụng của pháp thân là ứng thân cùng khắp, đi hay ở là do nơi duyên chứ Phật không động tĩnh.  Nên Kinh chép: “Thân Phật biến khắp pháp giới, khắp hiện ở trước tất cả chúng sanh, tùy duyên phó cảm đều châu biến mà vẫn hằng ở nơi tòa Bồ đề.”  Bởi vậy, Như Lai không rời chơn tế mà lợi lạc khắp quần sanh.

Thập trụ, là hàng Bồ Tát tấn tu từ cạn đến sâu, lấy Diệu giác làm quả cuối cùng , nhưng bắt đầu từ Thập tín nên nói quả Diệu giác từ Tín mà vào, vào rồi an trụ.

Từ đây sắp xuống bốn mươi ngôi vị: Trụ, Hạnh, Hướng, Địa.  Các Kinh khác chỉ nêu sơ lược.

Ngay trong Phẩm Thượng, bản kinh nói phát lòng tin nhẫn kiên cố rồi, tiến lên Thập Phát Thú Tâm.  Mười tâm ấy là:

  1. Xả tâm
  2. Giới tâm
  3. Nhẫn tâm
  4. Tấn tâm
  5.  Định tâm
  6. Huệ tâm
  7. Nguyện tâm
  8. Hộ tâm
  9. Hỉ tâm
  10.  Đảnh tâm.

Kinh An Lạc Bổn Nghiệp chép:

  1. Phát tâm trụ
  2. Trì địa tâm trụ
  3. Tu hành tâm trụ
  4. Sanh quý tâm trụ
  5. Cụ túc phương tiện tâm trụ
  6. Chánh tâm trụ
  7. Bất thối tâm trụ
  8.  Đồng chơn tâm trụ
  9. Pháp vương từ tâm trụ
  10. Quán đảnh tâm trụ.

Diệm Ma Thiên, tiếng Phạn là Diệm Ma hoặc Dạ Ma, Trung Hoa dịch là Thời Phần, là cõi trời thứ ba trong sáu cõi dục.  Cung điện cõi trời này gọi là Bảo đường.

Thập hạnh, là do mười Trụ trước tấn thú tu hành được viên mãn.  Tuy tu hành chưa thành tựu nhưng được lợi ích cả hai là tự lợi và lợi tha, nên lợi ích khắp chúng sanh, tùy thuận lòng mong muốn của họ, khiến họ được vui mừng, thực hành pháp nhẫn kiên cố, gọi là Thập Trưởng dưỡng tâm.

Mười tâm được Trưởng dưỡng ấy là:

  1. Từ tâm
  2. Bi tâm
  3. Hỉ tâm
  4. Xả tâm
  5. Thí tâm
  6. Hảo tâm
  7. Ích tâm
  8. Đồng tâm
  9. Định tâm
  10. Huệ tâm

Kinh Anh Lạc chép:

  1. Hoan hỷ tâm hành
  2. Nhiêu ích tâm hành
  3. Vô sân hận tâm hành
  4. Vô tận tâm hành
  5. Vô si loạn tâm hành
  6. Thiện hiện tâm hành
  7. Vô trước tâm hành
  8. Tôn trọng tâm hành
  9. Thiện pháp tâm hành
  10. Chơn thật tâm hành.

Cõi trời Đâu Suất là cõi trời thứ tư trong sáu cõi trời dục, Trung Hoa dịch là Hỷ Túc.  Cung điện cõi trời này gọi là Pháp Quang đường.

Thập Hồi hướng, nghĩa là hành giả tấn tu thập hạnh viên mãn rồi, khởi tâm đại bi cứu độ tất cả chúng sanh, hồi chuyển pháp thiện của Thập hạnh, hướng đến ba chỗ:

  1. Hướng đến Chơn như thật tế, ấy là sở chứng.
  2.  Hướng đến Vô thượng Bồ đề, ấy là sở cầu.
  3. Hướng đến tất cả chúng sanh, ấy là đối tượng sở độ.

Lại dùng tâm năng hồi hướng và thiện hạnh, sở hồi hướng, hướng đến muôn loại, vạn hạnh được viên mãn, đồng nhập vào pháp giới, chính là “Kiên trì tu nhẫn” trong Phẩm Thượng, kiên cố tu trì trong tâm nhẫn.

Thập Kim cang tâm gồm:

  1. Tín tâm
  2. Niệm tâm
  3. Hồi hướng tâm
  4. Đạt tâm
  5. Trực tâm
  6. Bất thối tâm
  7. Đại thừa tâm
  8. Vô tưởng tâm
  9. Huệ tâm
  10. Bất hoại tâm.

Kinh Anh Lạc chép:

  1. Tâm hồi hướng cứu độ tất cả chúng sanh, lìa chúng sanh tướng.
  2. Tâm hồi hướng chẳng hoại
  3. Tâm hồi hướng ngang bằng tất cả Phật
  4. Tâm hồi hướng đến mọi nơi
  5. Tâm hồi hướng kho tàng công đức vô tận
  6. Tâm hồi hướng tùy thuận căn lành bình đẳng
  7. Tâm hồi hướng tùy thuận quán tất cả chúng sanh như nhau
  8. Tâm hồi hướng tướng chân như
  9. Tâm hồi hướng giải thoát, không trói buộc
  10. Tâm hồi hướng thể nhập vô lượng pháp giới.

Cõi trời Hóa Lạc là cõi trời thứ năm trong sáu cõi trời dục giới.

Thập Thiền định, cũng gọi là Thập Đại tam muội, các Đại Bồ Tát mới có khả năng khéo vào.  Vào tam muội này (nhập định) được pháp giới lực không cùng tận, được pháp vương vị vô lượng tự tại, sanh vào nhà Như Lai, thị hiện các thứ thần thông quảng đại.  Thập Đại tam muội ấy là:

  1. Phổ Quang tam muội
  2. Diệu Quang tam muội
  3. Thứ lớp khắp đến các cõi Phật tam muội
  4. Thành tinh tấn tâm hành tam muội
  5. Biết quá khứ tạng trang nghiêm tam muội
  6. Trí Quang Minh Tạng tam muội
  7. Biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm tam muội.
  8. Chúng sanh sai biệt thân tam muội
  9. Pháp giới tự tại tam muội
  10. Vô ngại luân tam muội.

(Xem phẩm Thập Định trong Kinh Hoa Nghiêm.)

Cõi trời Tha Hóa là cõi trời thứ sáu trong sáu cõi trời dục giới.  Cung điện cõi trời này tên là Ma Ni Bảo Tạng.

Thập địa, nghĩa là hành Bồ Tát chứng ngôi Thập địa này, cũng như đất liền, tất cả Phật pháp nương vào đây phát sanh.

Kinh Anh Lạc chép: “Địa gọi là Trì, giữ gìn tất cả muôn A Tăng Kỳ công đức.”  Địa cũng gọi là sanh, vì sanh ra tất cả nhơn quả, tức Thập Địa trong Thánh Nhẫn Kiên Cố ở Phẩm Thượng, gồm:

  1. Thể tánh bình đẳng địa
  2. Thể tánh thiện huệ địa
  3. Thể tánh quang minh địa
  4. Thể tánh nhĩ diệm địa
  5. Thể tánh huệ chiếu địa
  6. Thể tánh hoa quang địa
  7. Thể tánh mãn túc địa
  8. Thể tánh Phật hống địa
  9. Thể tánh Hoa Nghiêm địa
  10. Thể tánh nhập Phật giới địa.

Kinh Anh Lạc chép:

  1. Hoan hỷ địa
  2.  Ly cấu địa
  3. Minh địa hay Pháp quang địa
  4. Diệm Huệ địa cũng gọi là Diệm địa
  5. Nan Thắng địa
  6. Hiện tiền địa
  7. Viễn hành địa
  8. Bất động địa
  9. Diệu Huệ địa cũng gọi là Thiện Huệ địa
  10. Pháp Vân địa.

Sơ thiền là sơ Thiền thiên trong Sắc giới.

Thập Kim cang:  Xét ở phẩm thượng và phẩm hạ trong kinh này chính là Thập Hồi hướng.  Nhưng ở cõi trời thứ tư đã nói đến Thập Hồi hướng, ở đây tên gọi tuy giống nhưng ý nghĩa thì khác.  Nay dựa vào Kinh Hoa Nghiêm nêu ra Thập Kim cang tâm.  Nhưng bản kinh này và kinh Hoa Nghiêm, cùng nói trong một thời gian, về sau các vị kết tập, chia làm hai bộ.  Nghĩa là tâm nguyện của Bồ Tát thì kiên cố vững chắc không gì lay động được, chắc như Kim cang.

  1. Tâm rõ biết các pháp
  2. Tâm hóa độ chúng sanh
  3. Tâm trang nghiêm thế giới
  4. Tâm đem căn lành hồi hướng
  5. Tâm phụng sự Đại sư
  6. Tâm thực chứng các pháp
  7. Tâm hành hạnh nhẫn nhục rộng lớn
  8. Tâm luôn luôn tu hành
  9. Tâm tự hành đầy đủ
  10. Tâm khiến cho người khác được mãn nguyện.

Nhị thiền là đệ nhị Thiền thiên trong Sắc giới.

Thập nhẫn, hành giả đạt được sức nhẫn này, thì đạt được nhẫn địa vô ngại của Bồ Tát, chứng đắc tất cả Phật pháp, vô ngại không cùng tận.  Đây chính là hậu tâm Đẳng giác Bồ Tát đã chứng các pháp, đoạn dứt hết vi tế vô minh.  Trong Kinh Hoa Nghiêm, Nhẫn có nhiều loại:

  1. Âm thanh nhẫn
  2. Thuận nhẫn
  3. Vô sanh pháp nhẫn
  4. Như huyễn nhẫn
  5. Như diệm nhẫn
  6. Như mộng nhẫn
  7. Như hưởng nhẫn
  8. Như ảnh nhẫn
  9. Như hóa nhẫn
  10. Như không nhẫn.

Tam Thiền là đệ tam Thiền thiên trong Sắc giới.

Thập nguyện: Kinh Hoa Nghiêm nêu ra 2 loại:

Thập nguyện trước:

  1. Nguyện thành tựu chúng sanh không có mệt mỏi
  2. Nguyện hành đầy đủ các việc thiện để thanh tịnh các thế giới
  3. Nguyện thừa sự Như Lai, thường sanh tâm tôn kính
  4. Nguyện hộ trì chánh pháp, không tiếc thân mạng
  5. Nguyện dùng trí tuệ quán sát các cõi Phật
  6. Nguyện cùng các Bồ Tát, đồng một thể tánh
  7. Nguyện vào cửa Như Lai, rõ tất cả pháp
  8. Nguyện thấy Phật sanh lòng tin kính đều được lợi ích
  9. Nguyện dùng thần lực trụ thế, mãi cho đến kiếp vị lai
  10. Nguyện đầy đủ hạnh nguyện của đức Phổ Hiền, trừ sạch cấu uế, chứng đắc môn nhứt thiết chủng trí.

Thập nguyện sau:

  1. Nguyện lễ kính Chư Phật
  2. Nguyện xưng dương tán thán Như Lai
  3. Nguyện rộng tu các pháp môn để cúng dường
  4. Nguyện sám hối tất cả nghiệp chướng
  5. Nguyện vui theo tất cả công đức
  6. Nguyện thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp
  7. Nguyện thỉnh Phật trụ thế
  8.  Nguyện thường theo Phật để học hỏi
  9. Nguyện hằng tùy thuận chúng sanh
  10.  Nguyện hồi hướng khắp tất cả.

Tứ thiền là đệ tứ Thiền thiên trong Sắc giới.

Ma Hê Thủ La, Trung Hoa dịch là Đại Tự Tại, được tám thứ tự tại, giải thoát tâm ham vui, ánh quang sáng vượt hơn tất cả, ở trên đỉnh cõi sắc giới , làm bậc Thiên chủ thống lãnh Đại Thiên thế giới.  Thập Trụ Bồ Tát này tên là Oai Linh Đế, Phật trước ở cõi Tứ Thiền thuyết giảng các pháp môn trụ, hạnh, hướng, v.v… nay thân rốt sau cũng ở Tứ Thiền, giảng pháp Tâm địa Pháp môn.

Lại nữa, không có pháp nào vượt qua tâm.  Nay pháp vô vi, vô tướng là bổn nguyên chẳng phải tâm phàm phu và sơ phát ý Bồ Tát có thể lường được, chỉ có Phật cùng Phật, mới có thể biết được mà thôi.

6. Ngàn trăm ức Thích Ca nói Pháp

Ngoài ra hai trăm ức Thích Ca giảng nói cũng lại như thế, không hai không khác, như trong Phẩm Hiền Kiếp có nói rất rõ.

Giải thích:

Pháp môn Tâm địa của Xá Na, nay một ngàn trăm ức Phật, cũng thuật lại như thế, nên nói: “Không khác, không hai.”

Phẩm Hiền Kiếp rút ra từ Đại Bổn, Kinh văn trước đã nói.  Đây là phần tổng kết phẩm Thượng.  Văn sớ ngày xưa đặt phần này ở đầu phẩm hạ, để bày rõ Bổn và Tích của Phật Thích Ca, khiến cho người biết rõ như xem chỉ trong bàntay, nên nay theo bản cựu dịch.

III.  MỘT PHẬT THUYẾT PHÁP

1. Mười nơi thuyết pháp

Lúc bấy giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ lúc mới hiện thân thế giới Liên hoa Đài tạng, từ Đông phương đến Vương cung cõi trời này nói kinh, giáo hóa chúng trời, rồi Ngài giáng sanh cõi Diêm Phù Đề, nước Ca Tỳ La.

Mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma Da, Cha tên Bạch Tịnh, Ngài tên Tất Đạt, 7 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật, ở nơi Tịch diệt đạo tràng, ngồi tòa Hoa Quang Vương, cho đến Vương cung cõi trời Ma Hê Thủ La, trong thời gian đó, lần lượt nói pháp, cả thảy mười nơi.

Giải thích:

Trước nói về ngàn Phật, ngàn trăm ức Thích Ca nói pháp trong trăm ngàn ức thế giới, nay nói về một thế giới, một đức Phật Thích Ca giáng sanh, nói rõ quốc độ, tên họ cha mẹ, xuất gia tu đạo thành Phật, tóm tắt đại lược về việc lợi sanh.

Đông phương, nghĩa là thế giới có một mặt trời, một mặt trăng này ở phía Đông trong thế giới Hoa tạng, nên kinh Anh Lạc chép: “Trong một pháp giới, có quả báo của một cõi.  “Đối với tất cả pháp hữu vi, hoặc phàm hoặc thánh, nếu thấy mà chấp đắm, hoặc pháp nhơn pháp quả, cũng không ngoài pháp giới.  Chỉ có riêng Phật là người sống ngoài pháp giới, sau lại trở vào pháp giới tạng, chỉ rõ thiện, ác, tốt, xấu, vô lượng quả báo sai khác cho những chúng sanh vô minh sâu dày.

Cung Thiên Vương, là nơi tất cả Phật xuất thế. Đầu tiên Phật ở cõi trời Đâu Suất Thiên cung để giáo hóa các Thiên tử ở cõi này, xong Ngài giáng sanh xuống cõi Nam Diêm Phù Đề.

Ma Thọ hóa, nghĩa là theo các kinh điển Phật nói trời Đâu xuất không có ma, các Thiên tử cõi trời thường tu pháp môn Hỷ túc định nên không có ma ở cõi này.  Vương cung cõi trời Ma Hê Thủ La ở Tứ Thiền thiên là chót đỉnh cõi sắc giới.  Tứ Thiền có 9 cõi trời, 5 cõi trời trên gọi là “Ngũ bất hoàn thiên” – thuộc cõi sắc giới, đây đều là chỗ ở của các vị Thánh nhơn đã chứng A Na Hàm, là quả thứ ba trong tứ quả Thanh văn Nhị thừa.  Trên đỉnh cõi sắc giới có cung điện Tỳ Lô Giá Na, các vị đại Bồ Tát thường tập hợp trên đó nên không có ma.  Phật ở trong cung điện Ma vương, nơi cõi trời Tha Hóa nói pháp, khiến cho ma được thọ hóa rồi, mới đến cõi trời Đâu Suất, hoặc ma tự đến cõi trời Đâu Suất thọ hóa.

Trong Tập Chú ghi: “Đâu Suất thiên còn ở trong dục giới, trong bảy cõi trời Phạm Thế, vì Phật thường ở trong đạo pháp, nên cung Ma thường bao hàm hết trong đó.  Lúc Thế Tôn ở cung trời Đâu Suất, Ngài có tên là Bồ Tát Hộ Minh.

Nước Ca Di La, Trung Hoa dịch là Xích Trạch; hay Ca Tỳ La, Trung Hoa dịch là Huỳnh Sắc, nghĩa là từ xa xưa có vị tiên tóc vàng tu đạo ở đây, nên lấy đó đặt tên.  Đây thuộc địa phận Thiên Trúc.  Thiên Trúc gồm có 12 nước, Ca Di La chính là trong địa phận Nam Thiệm Bộ Châu.  TIếng Phạn Ma Ha Ma Da, Trung Hoa dịch là Đại Huyền, cũng gọi là Đại Trí Mẫu, nghĩa là Bồ Tát thành tựu Đại nguyện Trí huyễn giải thoát môn, dùng Đại Huyễn Thuật, thường làm mẹ chư Phật.  Ngày 8 tháng 7 âm lịch, Hộ Minh Bồ Tát từ cung trời Đâu Suất cỡi Đại bạch tượng vương vào hông phải bà mẹ mà thụ thai.  Căn trí Đại thừa thấy Bồ Tát nương lầu các chiên đàn, trụ trong thai mẹ.  Phụ vương tên Duyệt Đàn Đầu, Trung Hoa dịch là Tịnh Phạn, nay gọi là Bạch Phạn – tuy hai nghĩa nhưng ý chỉ là một.

Tất Đạt, Trung Hoa dịch là Đốn Kiết, nghĩa là Phật đản sanh, ngày mồng 8 tháng 4, các điềm lành kiết tường, liền thời xuất hiện.  Còn dịch là Nhứt Thiết Nghĩa Thành, đây là tên chữ của Phật khi còn tuổi nhỏ.  Bảy tuổi, Ngài xuất gia.  Các kinh đều nói 19 tuổi hoặc 24 tuổi, nay nói 7 tuổi hoặc 24 tuổi xuất gia.  Đầu tiên Ngài đến tham vấn các vị tiên nhơn, biết chỗ sở đắc của họ là chẳng phải chánh đạo.  Thật ra, ngay từ khi Bồ Tát mới 7 tuổi, ở nơi vườn ngự uyển, ngồi dưới gốc cây Diêm phù, Ngài tu đạo ly dục tịch tĩnh rồi, một năm trôi qua, vì muốn hàng phục các hàng ngoại đạo, thị hiện tu tập 6 năm khổ hạnh cộng thành 7 năm, thế nên nói 7 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo.  Có kinh nói 19 tuổi, nửa đêm ngày 15 tháng 2, Ngài cưỡi ngựa Kiền trắc vượt thành xuất gia, 6 năm tu hành khổ hạnh, 5 năm đi du hóa, 30 tuổi thành đạo.

Đây tất cả đều do Như Lai tùy cơ ứng hóa, chẳng phải trí hiểu biết của phàm phu, Nhị thừa có thể lường được, hoặc là đương thời các nhà phiên dịch tạm ước định thế thôi.  Người xưa thận trọng, họ không dám sửa đổi.

Thích Ca, Trung Hoa dịch là Năng Nhơn – là họ. Mâu Ni, Trung Hoa dịch là Tịch Mặc – là tên. Từ Phật xa xưa đã thọ ký cho Ngài được Thánh hiệu này, cũng nói thuở xa xưa Như Lai làm người thợ gốm cúng dường Cổ Phật Thích Ca, tự phát thệ nguyện, nguyện đồng danh hiệu như đức Phật kia.

Tịch diệt Đạo tràng, chính là dưới cội cây này thành đạo giác ngộ, tòa này là chỗ chứng Đại Tịch diệt đạo Niết Bàn, hoặc nói Tịch ngũ trụ phiền não, dứt hai thứ sanh tử (phần đoạn và biến dịch) là nơi đắc đạo.

Kinh Hoa Nghiêm chép: “Lúc bấy giờ đức Thế Tôn ngồi nơi tòa này, rõ suốt tất cả pháp rồi thành bậc tối chánh giác.”  Nhưng pháp thân thì vốn không thành, vượt ra ngoài chướng ngại gọi là thành, báo thân tứ trí tròn sáng là thành, hóa thân tám tướng ngồi dưới gốc cây Bồ đề là thành.  Nên nói: “Thích ứng với vật nên gọi là thành thân, tùy nghi đặt tên.”

2. Nhơn duyên khởi giáo

Khi ấy Phật quán xem mành lưới báu của các trời Đại Phạm Thiên Vương, nhân đó nói vô lượng thế giới cũng như lỗ lưới, mỗi mỗi thế giới, đều khác nhau không đồng, có vô lượng sai khác, pháp môn của Phật cũng lại như thế.

Giải thích:

Đại phạm Thiên Vương, nghĩa là ba ngàn Đại Thiên thế giới, có muôn ức Đại Phạm Thiên Vương.  Đại ở đây, chẳng phải Đại Phạm Thiên Vương trong cõi trời sơ thiền, mà là Đại Tự Tại Phạm vương ở cõi trời Tứ Thiền.

Xét trong phẩm trước, thì có vô lượng Đại Phạm Thiên Vương.  Đây tổng nêu các trời Phạm Vương trong thế giới đến nhóm họp nhiều như vi trần.

Mành lưới báu, nghĩa là nhiều muôn mặt lưới, lớp lớp trùng trùng, vô lượng sai khác, mà ánh sáng hạt châu chiếu rọi vào nhau, không ngăn ngại nhau.  Chư Phật tùy cơ thuyết giáo, cũng đều sai khác vô lượng, nhưng không hề bị ngăn ngại.

3. Giáng sanh không phải một

Nay Ta đã đến thế giới Ta Bà này tám ngàn lần, ngồi trên tòa Kim cang Hoa quang, cho đến Vương cung cõi trời Ma Hê Thủ La, vì tất cả đại chúng trong đây nói sơ lược Tâm địa pháp môn.

Giải thích:

Pháp thân Như Lai, nghĩa là thể của pháp thân vắng lặng như hư không , vốn đã lìa tướng năng và sở, động tịnh, sanh diệt, qua lại.  Nên kinh Đại Bát Niết Bàn chép: “Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”, nghĩa là pháp thân Như Lai không từ đâu đến và cũng không đi về đâu.  Nay nói tám ngàn lần, chính là đại dụng của Như Lai, dùng Bi trí lợi sanh mà thôi.

Kinh Hoa Nghiêm chép rằng: “Như Lai vốn không có thân, vì chúng sanh nên Ngài thị hiện thân kia.”  Pháp thân thì vô sanh mà không chỗ nào là không có, có tất cả tướng.  Pháp thân và Hóa thân không có dị thể, do cơ cảm của chúng sanh, thì thấy Phật cũng xuất thế , khi duyên hết thì thấy Phật nhập diệt.  Như áng mây che  mặt trời, kẻ ngu muội liền cho Phật diệt độ.  Khi mây tan mặt trời hiện, lại bảo rằng Phật xuất hiện.  Chúng sanh cũng vậy, nghiếp chướng nặng không thấy được mặt trời trí tuệ, nghiệp nhẹ thấy được Phật xuất hiện nơi đời, chỉ do cơ cảm  của chúng sanh chứ Phật không hề có đến đi.  Xuất thế hay diệt độ đều vì lợi ích chúng sanh mà thôi.  Nên Kinh Niết Bàn chép: “Chư  Phật Như Lai  vì muốn khiến cho chúng sanh sanh tâm ham mộ, nên xuất hiện nơi đời, muốn khiến cho chúng sanh sanh tâm ngưỡng mộ và luyến tiếc, nên thị hiện nhập Niết bàn.”  Theo các kinh khác, trăm ngàn chỉ là số lớn của tục ngữ mà thôi. Như kinh Niết Bàn chép: “Ta tuy ở cõi Diêm Phù Đề, thường thường thị hiện nhập Niết bàn, nhưng thật ra ta đâu thực nhập Niết bàn.” Như Lai  tánh thực ra không diệt, thế nên phải biết đây là pháp thường trụ, pháp không thay đổi.  Đại Niết Bàn tức là pháp giới của Phật Như Lai.  Chúng sanh cho rằng Ta mới thành Phật, nhưng thật ra trong vô lượng kiếp việc làm đã xong vì tùy thuận pháp thế gian, nên Ta thị hiện ở cõi Diêm Phù Đề, xuất gia cho đến thành đạo.”

Kinh Pháp Hoa chép: “Thực ra Ta đã thành Phật từ vô lượng, vô biên, vô số kiếp đến nay.  Trăm ngàn muôn ức Na Do Tha kiếp, Ta thường ở cõi Ta Bà này, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh khắp mọi nơi, cả trăm ngàn Na Do Tha A Tăng Kỳ, cõi nước, dẫn dắt chúng sanh, thọ mạng của Ta cũng vô lượng A Tăng Kỳ kiếp thường trụ bất diệt, chẳng phải thực diệt độ, nhưng Ta nói: Sẽ diệt độ” đó là Như Lai dùng phương tiện để giáo hóa chúng sanh.

Hỏi:  Như Lai đã thành Phật từ lâu xa, sao không tự hiện thân thuyết pháp mà lại giáng sanh vào Vương cung Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Da để xuất gia tu đạo?

Đáp:  Nếu không làm vậy, kẻ phàm phu vô trí sẽ nghi Phật là hóa nhơn, hoặc cho rằng người không có cha mẹ, vợ con, tông tộc, mới có thể đắc đạo; còn phàm phu làm sao đắc đạo, nên không chịu tu tập noi theo, đây chính là diệu dụng mà Như Lai thị hiện, phương tiện độ sanh.

Ta Bà, Trung Hoa dịch là Năng Nhẫn, cũng gọi là Kham Nhẫn,  nghĩa là chúng sanh ở thế giới này hay kham nhẫn, chấp nhận chịu khổ tam độc (tham, sân, si) và các khổ phiền não mà không sanh tâm nhàm lìa để cầu giải thoát.

Cho đến, nghĩa là mười nơi thuyết pháp này, trước là tòa kim cang, sau cùng là cung Thiên vương, ngoài ra còn 8 nơi khác ở hết trong đó.

Trước nói Thiên Quang Vương tòa, nay nói Hoa Quang Vương tòa,  vì từ ngàn Phật cũng đều xuất phát từ Hoa Quang tam muội mà ngồi tòa này.  Đại địa chấn động, mà tòa này nghiễm nhiên bất biến, chính là tiêu biểu thực tướng Tâm địa giới thể, cũng như chất kim cang, hay phá trừ được tất cả phiền não mà không bị phiền não làm dao động.

Vì tất cả đại chúng trong đây, nghĩa là đại chúng thập trụ xứ, lược nói trăm ngàn hằng hà sa pháp môn trong tâm địa, như chừng đầu sợi lông rồi sau mới vì hàng địa thượng phàm phu mà nói, văn sau sẽ nêu rõ.

4. Nói giới cho phàm phu

Phật từ cung Thiên Vương, cho đến Nam Diêm Phù Đề, dưới cội Bồ Đề, vì tất cả chúng sanh , kẻ phàm phu si ám, nói Tâm địa Phật Lô Xá Na.  Người sơ phát tâm nên đọc tụng Kim cang Quang minh Bảo giới này, là bổn nguyên của tất cả Phật, tất cả Bồ Tát, là Phật tánh chủng tử của tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả ý thức, sắc tâm là tình, là tâm đều ở trong Phật tánh giới, thường có chánh nhân, thường có pháp thân thường trú.

Giải thích:

Trước vì Đại chúng Bồ Tát mà nói, nay vì hàng phàm phu trước quả vị Thập địa mà nói.  Si là không biết chánh pháp, vọng sanh tà kiến, Ám là vô minh phiền não, che lấp tâm địa.

Như Lai vì lòng từ bi thương xót hạng người này nên tám ngàn lần qua lại cõi Ta Bà để truyền nói chánh giới của Phật Lô Xá Na.  Ba đời Chư Phật đều thọ chánh giới này trước để làm chánh nhơn thành Phật, nên nói trong khi mới phát tâm thường nên đọc tụng giới này.

Giới chính là Kim cang Quang Minh Bảo Giới, là 10 giới trọng, 48 giới khinh.  Quang minh nghĩa là ánh sáng của giới này hay phá trừ nhà si ám, vô thỉ vô minh.

Báu của Kim cang, nghĩa là thể chất của giới này chắc như kim cang hay phá hoại tất cả mọi vật mà không bị các vật phá hoại nó, dụ đây là chánh giới, hay xô dẹp được tất cả phiền não, núi kiêu mãn tà kiến, lại hay phát sanh vô lượng  pháp tài công đức, nên gọi là báu.  Tất cả chư Phật Bồ Tát đều lấy giới này làm hột giống Phật tánh bổn nguyên.

Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nghĩa là ở Thánh, tánh này không thêm và ở phàm, tánh này cũng không giảm.  Nên Kinh chép: “Tất cả chúng sanh xưa nay đã thành Phật, chỉ vì một niệm bất giác ban đầu rồi khởi lên vô minh vọng động, thành ra tối tăm si ám, tự mình làm chướng, nên Phật khiến cho thọ chánh giới này để khai thông.  Chướng kia đã trừ thì Phật tánh tự hiện.”

Ý thức sắc tâm, nghĩa là một thể nhứt chơn pháp giới, do không giữ được thể chơn như, nên mới có tên là Tâm, Ý, Thức. Tên gọi tuy có ba, mà thể của nó vốn không hai

Ý thức, chính là tên khác của tâm, nghĩa là phàm phu vọng động bỗng nhiên tập khởi gọi là Tâm, tiếp theo tâm suy lường gọi là Ý, sau sanh niệm phân biệt gọi là Thức.

Sắc là sắc chất, chính là sắc thân tứ đại.

Tình và tâm này đều thể nhập trong Phật tánh giới, nghĩa là Tình, là tên khác của ý thức, chính là phát minh thấy rõ tất cả sắc tâm của chúng sanh đều có Phật tánh, ngoài tâm này ra không có Phật tánh nào nữa cả.  Các pháp cũng như thế, chỉ có một thể, nên nói A Lại Da Thức, chính là Như Lai tàng là thế.

Đương đương, nghĩa là hành giả lãnh thọ giới này, tu hành như pháp, đó là chánh nhân quyết định thành Phật, có chánh nhơn này rồi, quyết định hằng trụ cực quả thanh tịnh pháp thân.

Ví như vàng đã ra khỏi quặng không bao giờ trở lại quặng nữa, nên nói là Thường.

Trong Kinh Tâm Địa Quán có bài kệ rằng:

Chúng sanh vốn có Bồ Đề chủng
Đều nằm trong thức A Lại Da
Nếu gặp bạn tốt phát đại tâm
Dùi mài ba chủng tu diệu hạnh
Dứt sạch phiền não sở tri chướng
Chứng đắc Như Lai thường trụ thân.

Mười Ba-la-đề-mộc-xoa này xuất hiện nơi đời.  Giới pháp này tất cả chúng sanh trong ba đời đều lãnh thọ phụng trì.

Giải thích:

Ba-la-đề-mộc-xoa ,Trung Hoa dịch là Bảo giải thoát, nghĩa là hay giữ gìn chúng sanh khiến cho họ chắc chắn được giải thoát khỏi vô minh phiền não, mà chứng đắc pháp thân thanh tịnh.

Mười giới, tức là 10 giới trọng, ở nhơn năng trì gọi là Ba-la-di, ở quả sở đắc gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa.  Nay trước nêu giới trọng, là tổng nhiếp cả giới khinh.

Xuất hiện ở đời, nghĩa là tâm địa giới pháp này ở đời khó gặp, Như Lai xuất thế nay mới nêu ra.  Giới pháp này chẳng phải giới pháp của Nhị thừa mà chính là đại giới tâm địa của chánh nhân thành Phật, nên phải đê đầu lãnh thọ, tôn trọng giữ gìn, không được quên lãng dù trong phút chốc.

Nay ta vì đại chúng này, nói lại phẩm Vô tận Tạng giới, là tất cả giới của chúng sanh, là bổn nguyên tự tánh thanh tịnh.

Giải thích:

Nói lại, nghĩa là trước nói rồi, sau nói lại, hoặc vì chúng trời, người, Bồ Tát, nay vì hàng phàm phu, nên nói là Trùng thuyết.

Phẩm Vô Tận Tạng giới, nghĩa là giới phẩm này, tuy nói rằng mười giới mà thực ra đã bao la không cùng tận. Giới pháp của Bồ Tát, đầy đủ vô lượng pháp môn.  Giới là bổn nguyên tự tánh thanh tịnh của tất cả chúng sanh, nghĩa là giới pháp này, trước ngàn Phật đã truyền nói, sau là giúp khắp cho tất cả căn cơ, tăng tục, trời người, đều vâng lãnh thọ trì, tất cả quỷ thần súc sanh đều lãnh thọ được, vì chúng sanh và Phật cùng bản tánh thanh tịnh.  Chư Phật đã trở về nguồn tánh này, còn ở chúng sanh thì cần phải có giới mới có thể trở về cội nguồn.  Tánh của cội nguồn vốn thanh tịnh, chẳng phải ngoài cội nguồn mà có tánh nào khác, mà cũng chẳng có thanh tịnh nào khác.

5. TRÙNG TỤNG

Kinh văn trên là văn trường hàng.  Nay tổng kết lại thành bài tụng hay còn gọi là Ứng tụng, nghĩa là ứng hợp với văn trường hàng mà trùng tuyên lại nghĩa.

Trong các kinh, hoặc 6 câu, 4 câu, 2 câu, tùy theo câu nhiều ít không nhất định, đều gọi là kệ tụng.

Nay kệ tụng này gồm có 46 câu, nếu dùng 4 câu làm 1 kệ, thời có 11 bài rưỡi, xét trong nghĩa của bài tụng, nêu bày sơ lược, vì kinh văn phẩm trước, chưa có phần tụng tóm kết.  Tụng trong đây chia làm 8 đoạn để giải thích:

  1. Y báo chánh báo, bổn và tích của ba Phật
  2. Chánh hóa truyền giới
  3. Khen ngợi công năng của giới
  4. Truyền tụng
  5. Phú chúc khuyên tin
  6. Khuyến khích lãnh thọ
  7. Thọ ký
  8. Khuyến nghe.

Nay thân Lô Xá Na
Ngồi ở đài Hoa sen
Ngàn hoa vây chung quanh
Lại hiện ngàn Thích Ca
Một hoa trăm ức cõi
Mỗi cõi một Thích Ca
Đều ngồi cội Bồ đề
Nhứt thời thành Phật đạo
Ngàn trăm ức như thế
Thân chính Lô Xá Na.

Giải thích:

Thân Lô Xá Na, là chánh báo của giới quả.  Đài hoa sen, là y báo của giới đức.

Lại nữa, Ngàn Phật trăm ức Phật, là chánh báo. Ngàn hoa trăm ức Quốc độ, là y báo.  Mỗi cõi nước chính là một thế giới, có một mặt trăng, một mặt trời chiếu soi.  Xá Na là Bổn, ngàn Phật là Tích; lại ngàn Phật là Bổn, trăm ức là Tích.

Vừa ngồi tòa Hoa sen, nghĩa là an trụ trong giới của chánh pháp.  Sen hoa, nghĩa là thế giới Hoa tạng, hình dáng giống như hoa sen, hoa đỡ phía dưới, đài nằm ở giữa, biểu trưng cho giới là chánh nhơn trung đạo, hay phát khởi quả Phật trung đạo.  Thân Xá Na gọi là đài hoa, cũng là y báo, chánh báo không khác.  Xá Na là bổn Phật ngồi trên đài hoa, cũng là chủ của Chư Phật, chính là biểu trưng cho giới pháp, là gốc của muôn đức.  Tạng là bao gồm mười phương pháp giới, cũng biểu trưng cho giới, gồm chứa muôn pháp.

Ngàn hoa vây chung quanh, lại hiện ngàn Thích Ca, nghĩa là ngàn hoa mà mỗi hoa có đủ ngàn cánh, nên có ngàn thích Ca.  Hoa ở thế gian có hơn mười cánh, còn hoa trên trời có trăm cánh, hoa của Chư Phật Bồ Tát có ngàn cánh.

Một hoa trăm ức cõi, mỗi cõi một Thích Ca, đều ngồi cội Bồ Đề, nhứt thời thành Phật đạo, nghĩa là trước đã nói rõ mỗi cánh hoa là một thế giới, nên có ngàn đức Thích Ca, nay nói rõ trên một cánh hoa lại có trăm ức cõi, nên có trăm ức Thích Ca, ngàn trăm ức cánh hoa nên thành ngàn trăm ức Thích Ca, cõi tuy có phân chia, mà thành Phật thì đồng thời, đây là biểu trưng y báo và chánh báo là một.  Thể và dụng không hai.

Ngàn trăm ức như thế, thân chính Lô Xá Na, nghĩa là về dụng thì tuy ngàn trăm ức mà thể chỉ là một.

Ức có bốn cách tính:

  1. Dùng mười muôn là một ức
  2. Dùng trăm muôn là một ức
  3. Dùng ngàn muôn là một ức
  4. Dùng muôn muôn là một ức.

Nhưng Tam thiên Đại thiên thế giới trong cõi Ta Bà, cộng có muôn ức mặt trăng, mặt trời, đều do một Phật hóa thân làm chủ, nên đồng thời thành Phật đạo.

Như phẩm Thượng ghi: “Ta tu hành trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp, dùng tâm địa pháp môn này làm chánh nhân. Trước hết xả phàm phu thành đẳng chánh giác, gọi là Lô Xá Na, trụ nơi thế giới hải của Liên Hoa Đài tạng.  Đài hoa kiacó ngàn cánh, mỗi cánh một thế giới, tổng cộng thành ngàn thế giới.  Ta hóa ra ngàn Thích Ca, an trụ trong ngàn thế giới.  Sau đó ở ngay trên thế giới của một cánh, lại có trăm ức núi Tu Di, trăm ức mặt trăng, mặt trời, trăm ức tứ thiên hạ, trăm ức Nam Diêm Phù Đề, trăm ức Bồ Tát Thích Ca, ngồi dưới trăm ức cội Bồ Đề, 999 đức Thích Ca còn lại, mỗi vị đều hiện 100 ức Thích Ca.  Phật ngồi trên ngàn hoa, là hóa thân của Ta, ngàn trăm ức Thích Ca là hóa thân của ngàn Thích Ca, Ta làm bổn nguyên, gọi là Lô Xá Na Phật.”  Phải biết ngàn Phật hay ngàn trăm ức Phật cũng không ngoài thân Xá Na bổn nguyên.  Bổn  nguyên tức là giới thể thật tướng của tâm địa.

Ngàn trăm ức Thích Ca
Đều có vô lượng chúng
Cùng đi đến chỗ Ta
Nghe Ta tụng giới Phật
Cửa Cam lồ liền mở
Bấy giờ ngàn trăm ức
Về lại Đạo tràng cũ
Đều ngồi cội Bồ Đề
Tụng giới của Thầy Ta
Mười trọng bốn tám khinh.

Giải thích:

Ngàn trăm ức Thích Ca: Xét phần đầu và phần sau của phẩm đó, ngàn Thích Ca và ngàn trăm ức Thích Ca đều tiếp độ kẻ hữu duyên, đều đến chỗ Phật Xá Na lãnh thọ giới tạng Bồ Tát rồi sau mới ngồi đạo tràng, thị hiện thành chánh giác, truyền tụng giới tạng Xá Na.

Đều có vô lượng chúng, nói “vô lượng” nghĩa là đại chúng nhiều không đếm xiết, nên dụ như vi trần, nghĩa là ngàn trăm ức Phật, mà mỗi mỗi Phật đều đem theo số thính chúng nhiều vô lượng như vi trần của ngàn trăm ức thế giới.  Phật có Tam bất năng:

  1. Không thể độ người vô duyên
  2. Không thể giải thoát sạch cõi chúng sanh
  3. Không thể trừ định nghiệp cho họ được.

Cùng đi đến chỗ Ta, Ta ở đây là đức Xá Na tự xưng, tức Năng hóa và Sở hóa cùng hội họp một chỗ, để biểu trưng cho Thể và Dụng đồng trở về cội nguồn tâm địa.

Nghe Ta tụng giới Phật, nghĩa là nói thính chúng đã đến, lấy tâm địa này làm Đại giới là giới mà Chư Phật truyền nhau chứ chẳng phải đức Xá Na tự lập ra, nên không nói là “thuyết” mà chỉ nói là “tụng”.

Cửa Cam lồ liền mở, nghĩa là giới này hay thông đến đại Niết bàn, nên ví giới như cửa.  Cõi trời có cam lồ, người nào uống được thì trường sanh bất tử, ví như người nào được nghe tụng giới này, cũng như uống được nước cam lồ, cái nhân của phiền não bị nguội lạnh liền chứng đắc pháp thân thường trụ, vĩnh viễn xa lìa biển khổ sanh tử.

Về lại đạo tràng cũ:”Đạo tràng” tức là nơi cội Bồ Đề, là nơi tu tập chứng quả.

Tụng giới của Thầy ta: “Thầy ta” chính là ngàn trăm ức Thích Ca đều đến trước Phật Xá Na thọ giới, nên xưng Xá Na là Thầy ta (Bổn sư).

Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, là tổng nêu giới tướng, phần sau mới nêu riêng.

Giới như nhựt nguyệt sáng
Như chuỗi báu Anh lạc
Chúng vi trần Bồ Tát
Do đây thành chánh giác.

Giải thích:

Đây nói rõ công năng của giới, mặt trời hay phá trừ nhà tối tăm cả ngàn năm, để dụ cho giới hay diệt trừ si ám, vô thủy vô minh của chúng sanh.  Ánh sáng mặt trăng hay khiến cho muôn vật được mát mẻ.  Lại nữa, mặt trời, mặt trăng trưởng dưỡng muôn vật, để dụ cho giới pháp hay sanh ra muôn pháp thiện.

Chuỗi Anh Lạc hay trang sức cho kẻ nghèo xấu, là dụ cho giới này hay sanh ra căn, lực, giác đạo, tam muội, pháp tài của các Thánh, trừ ra những  kẻ thiếu phước nghèo khổ và không trân quý giới cấm.  Thể tánh Phật Xá Na được trang nghiêm đều do công đức của giới này.

Bậc chánh giác là người nói pháp đúng như pháp.  Tất cả thời sơ, trung, hậu đều lành, nên nói là chánh.  Ai nghe được pháp này, ra khỏi đêm dài sanh tử trong nhiều kiếp, nên gọi là giác.   Tất cả Bồ Tát do giới này được thành Phật, nên nói  “Do đây thành chánh giác.”

Là Lô Xá Na tụng
Ta cũng tụng như vậy
Các Bồ Tát mới học
Cung kính thọ trì giới
Thọ trì giới này rồi
Truyền trao cho chúng sanh
Lắng nghe Ta sẽ tụmg
Giới tạng trong Phật pháp
Ba-La-đề-mộc-xoa.

Giải thích:

Đây  nói rõ thầy trò lần lượt truyền tụng, đức Xá Na là thầy của Thích Ca, Thích Ca là thầy của Bồ Tát, Bồ Tát là thầy của chúng sanh, nên truyền trao giới cho chúng sanh.

Ngã là đức Phật Thích Ca tự xưng.  Bồ Tát mới học, chỉ cho các Đại sĩ mới nghe giới.  Chúng sanh ở đây chỉ cho Đại thừa phàm phu, ý cho rằng người nghe trước phải truyền trao cho người chưa nghe, khiến cho giới pháp này được nối tiếp truyền trao mãi  mãi, pháp lưu truyền không cùng tận.

Chánh tụng là Tâm địa giới tạng.  Giới tạng chính là Ba-la-đề-mộc-xoa.  Đây chính là vượt xa giới của Tiểu thừa và tà giới của ngoại đạo, nên nói là chánh.

Đại chúng nên tin chắc
Ông là Phật sẽ thành
Ta là Phật đã thành
Thường tin chắc như vậy
Là giới phẩm đầy đủ.

Giải thích:

Như Lai sở dĩ dặn đi dặn lại, rằng phải tin chắc, vì lòng tin là đầu mối để vào đạo, là mẹ của công đức, tin Chư Phật đã thành, chúng sanh sẽ thành, chỉ khác là trước sau mà thôi.  Vì đại giới của tâm địa từ tâm mà được, nếu tâm đã tin chắc không nghi ngờ, thì giới thể liền đầy đủ.  Vừa phát tâm này liền thành chánh giác là thế.

Trong Nghĩa Sớ nói Tin có ba thứ:

1. Tin tâm thức của mình và người khác, đều có Phật tánh, nghĩa là tin tâm này vốn là Phật.

2. Tin siêng năng thực hành các việc thiện, thì ắt được quả tốt, nghĩa là siêng năng làm các nhơn thiện, thì được quả báo lành.
3. Tin kết quả mà ta chứng đắc là Thường – Lạc – Ngã – Tịnh, nghĩa là tin chắc do tâm là Phật, cho nên chứng được quả Phật.  Nếu không có lòng tin chân chánh này thì giới phẩm liền mất, đạo quả cũng tiêu.

Tất cả người có tâm
Đều nên nhiếp giới Phật. 

Giải thích:

Trước đã nói cần nên có lòng tin vững chắc, nay khuyên thọ trì.  Nói “người có tâm” là không nói đến những kẻngu si vô trí, những người ác không có tín tâm, giống như gỗ đá vô tâm, như cây bị chặt đầu không khác.  Nên nói, chỉ hiểu lời của Pháp sư, thì đều được thọ giới.

Nhiếp tức là thọ trì, nghĩa là muốn thành Phật cần phải thọ trì chánh giới của Bồ Tát, chánh giới không ngoài Tam tụ tịnh giới:

1. Nhiếp Luật nghi giới, nghĩa là không giới nào mà không thọ trì, mãi cho đến thành tựu được pháp thân. Vậy Chỉ tức là trì, Tác tức là phạm.

2. Nhiếp thiện pháp giới, nghĩa là không pháp lành nào mà không tu, mãi cho đến thành tựu báo thân.  Vậy Tác tức là trì, Chỉ tức là phạm.

3. Nhiếp chúng sanh giới, nghĩa là không chúng sanh nào mà không độ, độ tất cả để trọn thành hóa thân Phật. Vậy Tác là trì, Chỉ là phạm.

Tam tụ tịnh giới này, bao gồm tất cả Định cộng giới, Đạo cộng giới, Thiền vô lậu giới, v.v… cho đến Lục độ Vạn hạnh Bồ Tát, cho nên gọi là Tụ.

Chúng sanh thọ giới Phật
Liền vào vị Chư Phật
Vị đồng bậc Đại giác
Thật là đệ tử Phật.

Giải thích:

Đoạn này Như Lai thọ ký cho chúng sanh có ý thức, mới thọ được giới Phật liền đồng quả vị đại giác.

Do chúng sanh và Phật đồng nguồn, tâm tánh không hai, bối giác hiệp trần gọi là chúng sanh, bối trần hiệp giác gọi là Chư Phật.  Nay thọ chánh giới tâm địa là tức khắc trở về bản nguyên, lẽ đâu không đồng với Phật ư?  Quả vị tuy đồng bậc Đại giác nhưng vẫn còn gọi là Phật tử là tại sao vậy?  Bởi vì, vọng nghiệp chưa sạch, đức của tánh hải chưa đầy, đây là Phật nhơn chứ không phải Phật quả. Dụ như Vương tử đã thọ quán đảnh sau sẽ nối ngôi Vua, nhưng nay chỉ gọi là Vương tử, chứ chưa gọi là Vua.

Đại chúng đều cung kính
Chí tâm nghe ta tụng.

Câu trên là lời kết khuyến, câu dưới là dặn dò lắng nghe.  Phật đã đích thân lãnh thọ, đích thân tụng đọc, ấy là hết lòng tôn trọng giới pháp, nên ba phen dặn dò khuyên nhắc, chí tâm lắng nghe.  Nếu hành giả không chí tâm thì vọng niệm phát sanh, che lấp tâm địa.  Giới pháp Tâm địa không có đường thể nhập, nếu không thể nhập thì không thể về lại cội nguồn.  Bên ngoài hiện dung nghi tôn kính thánh giới, gọi là “cung”, trong tâm lắng lòng thành khẩn chuyên chú lắng nghe gọi là “kính”.  Trong và ngoài hợp nhứt, gọi là chí tâm.

6. KẾT GIỚI

Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni mới thành đạo Vô thượng Chánh giác dưới cội Bồ đề,  Ngài bắt đầu kết Bồ Tát giới dạy rằng: “Hiếu thuận Cha Mẹ, Sư Tăng, Tam Bảo, hiếu thuận là pháp chí đạo, hiếu cũng gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn.”

Giải thích:

Khi đức Thích Ca Mâu Ni  mới thành đạo Vô thượng Chánh giác dưới cội Bồ đề,  Ngài bắt đầu kết “Bồ Tát giới ” :Đây là các nhà kết tập , nói rõ khi Phật mới thành đạo, Ngài kết giới Bồ Tát trước hết, vì giới là thuyền bè vượt qua biển khổ, là bè báu để trở về cội nguồn.

Vô thượng Chánh giác , nghĩa là không có cái giác nào ở trên quả vị Phật nữa nên gọi là vô thượng.  Thanh văn, Bích chi Phật thì cái biết của họ chưa phải chân chánh, vì chỉ mới ngộ được ngã không, chứ chưa biết được pháp không nên gọi là Thiên giác, chứ không phải là Chánh giác.

Còn hàng Tam Hiền (Trụ, Hạnh, Hướng), Thập Thánh cho đến Đẳng giác Bồ Tát tuy chánh giác nhưng vẫn còn tiến tu nên không được gọi là Vô thượng, mà chỉ gọi là tùy phần giác mà thôi. Phật thành tựu quả Diệu giác viên minh, độc tôn, nên gọi là Vô thượng Chánh giác.  Nói giới của Bồ Tát chính là vượt xa giới của Thanh văn.

Tuy Phật đã kết giới Bồ Tát mà chưa chỉ rõ vấn đề trọng yếu của giới, nên nay lấy hiếu thuận làm giềng mối của giới, khéo phụng sự dưỡng nuôi gọi là “hiếu”.  Theo ý muốn không sanh trái nghịch gọi là “thuận”.  Cha mẹ sanh thành nuôi dưỡng sắc thân, ân đó không gì sánh bằng.

Sư Tăng, chính là Hòa thượng A Xà Lê truyền trao giới pháp, là cha mẹ xuất thế, dạy bảo để ta thành tựu hạnh đức.  Nên kinh ghi: “Thành tựu pháp thân, nuôi dưỡng trí tuệ mạng, là nhờ công đức của Sư trưởng, công ấy lớn laokhông gì bằng.”  Đây là nói luôn về Tam sư Thất chứng của Tiểu thừa, nên nói “Sư Tăng”. Tăng là người truyền trao giới và tôn chứng giới cho ta, tuy không phải địa vị là thầy, mà có ân thành tựu giới pháp.

Tam bảo, nghĩa là ba ngôi báu: Phật, Pháp và Tăng, sơ cơ phát tâm học đạo đã nương theo ba ngôi báu này.  Phật là bậc cha lành cho chúng sanh trong ba cõi, Pháp là quy tắc xuất thế, Tăng là đệ tử của Phật.  Ba ngôi Phật, Pháp, Tăng là ruộng phước của chúng sanh, là bậc đạo Sư của chúng trời người,  Nếu hành giả hay cúng dường tôn kính, không trái khuôn phép, ấy gọi là hiếu thuận.

Hiếu thuận là pháp chí đạo, chí đạo nghĩa là đạo lý cùng tột, đó là chánh pháp vô lượng.  Vì tâm hiếu thuận hợp với Đại đạo của pháp vô thượng chánh giác.  Hiếu gọi là Giới, nghĩa là người hay thực hành tâm hiếu, thì các giới đều đầy đủ.  Bởi vậy, 58 giới trong đoạn sau, phần nhiều nói về tâm hiếu thuận, không trái với 10 giới trọng và 48 giới khinh, nên thuận với Tâm địa bổn nguyên.  Bởi vậy, hiếu gọi là giới, hay cấm chỉ.

Đức Như Lai nói 58 giới này dùng để ngăn dứt những nghiệp bất thiện của thân, khẩu, ý, lại hay ngăn ngừa khiến cho vọng niệm không khởi, nên gọi là ngăn dứt.  Hiếu là thể của giới, ngăn dứt là dụng của giới.  Đó chính là đại dụng của 10 giới trọng và 48 giới khinh.

Từ nơi miệng Phật phóng ra vô lượng ánh sáng.

Giải thích:

Khi Như Lai muốn nói Đại pháp, trước hết phóng quang biểu hiện điềm lành, khiến cho thính chúng trong pháp hội sanh lòng kính tin sâu xa.  Đồng thời muốn nói rõ giới này là tối thắng, có công năng phát huy và phá trừ bóng tối, đủ năng lực diệt ác sanh thiện.  Xưa đức Xá Na dùng hào quang, diễn thuyết Giới Phẩm Tâm địa, nay Phật Thích Ca cũng phóng quang để truyền trao lại.  Bồ Tát đến nghe và lãnh thọ, chính là từ kim khẩu Phật sanh ra, nên họ được gọi là Phật tử chơn chánh.

Bấy giờ có trăm vạn ức đại chúng, các Bồ Tát, mười tám cõi trời Phạm, sáu cõi trời dục, mười sáu đại Quốc vương, chắp tay chí tâm lắng nghe đức Phật tụng giới pháp Đại thừa của tất cả Chư Phật.

Giải thích:

Đức Như Lai xuất hiện nơi đời đều là có nhân duyên cơ cảm, nên người, trời, phàm, thánh vân tập, gọi là đại chúng.  Trăm vạn ức là nêu đại số tiêu biểu mà không ngoài hai chúng đồng sanh và dị sanh.

Hỏi: Thế nào là đồng sanh, dị sanh?

Đáp: Có hai nghĩa:

1. Tạp loại dị sanh, có muôn hình vạn trạng chẳng hạn như bát bộ v.v…Bồ Tát, chúng sanh, trời, rồng, quỷ thần được thân pháp Tánh đồng thân hình với con người, cho nên gọi là đồng sanh.

2. Bồ Tát đồng với nhân loại, thì gồm nhiều giai vị Bồ Tát, còn các loại khác là dị sanh, vì Pháp giới sai biệt.

Mười tám cõi trời Phạm gồm có 4 cõi thiền:

  1. Sơ thiền 3 cõi trời
  2. Nhị thiền 3 cõi trời
  3. Tam thiền 3 cõi trời
  4. Tứ thiền 9 cõi trời.

Phạm là tịnh, nghĩa là tâm trần tục của họ đã thanh tịnh chỉ còn sắc thân, nên gọi là sắc giới.

Sáu cõi trời dục, nghĩa là chúng thiên ở cõi trời dục, tham đắm ngũ trần dục lạc không có tâm nhàm chán nên gọi là Dục giới thiên, gồm có 6 cõi trời:

  1. Tứ thiên vương, cõi này ở lưng chừng núi Tu Di.
  2.  Đao Lợi thiên, cõi trời này ở đỉnh núi Tu Di.
    Hai cõi trời này gọi là Địa Cư thiên.
  3. Diệm Ma thiên.
  4. Đâu Xuất thiên.
  5. Hóa Lạc thiên.
  6. Tha Hóa Tự Tại thiên.

Bốn cõi trời này gọi là Không Cư Thiên, như trước đã giải thích.

Mười sáu đại Quốc vương là:

  1. Ương Già
  2. Ma Kiệt Đà
  3. Ca Thi
  4. Kiều Tát La
  5. Bạt Kỳ
  6. Mạt La
  7. Chi Đề
  8. Bạt Sa
  9. Ni Lâu
  10. Bàn Xà La
  11. A Thấp Bà
  12. Bà Ta
  13. Tô La
  14. Càn Đà La
  15. Kiếm Phù Sa
  16. A Bàn Đề.

Các nước này vốn là địa phận của 5 xứ Thiên Trúc, tất cả có hơn 70 nước nhỏ, nay chỉ nêu số lớn là bao quát cả số nhỏ.

Hỏi: Dưới cội Bồ đề làm sao có thể vân tập cả trăm muôn ức đại chúng được?

Đáp:  Như kinh Hoa Nghiêm chép:  “Lầu các và cung điện dưới cội Bồ đề đầy khắp mười phương, do thần lực của Chư Phật gia bị, chỉ trong một niệm thảy đều bao gồm cả pháp giới.” Nên trong hội Niết Bàn, cả rừng Ta La Song Thọ, chừng bằng đầu mũi kim, mà dung chứa cả vô biên chúng ngồi trong đó.

Thế thì có thể dùng phàm tâm và tri giác của hàng Nhị thừa mà suy lường được ư?

Chắp tay là biểu thị thân nghiệp cung kính, tay vốn có hai bàn hiệp lại làm một, ấy là thân tâm đều cung kính.  Chí tâm là tâm thành ý nghiệp cung kính tột độ.

Thính giả là người nghe , tâm chuyên chú vào một cảnh nghe pháp.  Tự tịch, thân, khẩu , ý, ba nghiệp cung kính thanh tịnh tự nhiên giới quang từ nguồn tâm thể sáng rỡ phát ra.

Đức Phật nói với các vị Bồ Tát: “Nay Ta cứ mỗi nửa tháng, tự tụng giới pháp của Chư Phật.  Tất cả hàng Bồ Tát mới phát tâm các ông, cho đến các Bồ Tát Thập Phát thú, Thập Trưởng dưỡng, Thập Kim cang và Thập Địa cũng tụng giới này.  Vì thế nên giới quang từ miệng Ta phóng ra, phóng quang là vì có duyên do, chứ chẳng phải là vô cớ.  Giới quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen; chẳng phải sắc pháp, chẳng phải tâm pháp, chẳng phải pháp hữu, pháp vô, cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả, nó chính là bổn nguyên của chúng Phật tử, vì thế nên chúng Phật tử phải thọ trì, đọc tụng, phải học kỹ giới pháp này.”

Giải thích:

Bồ Tát là bậc tôn quý của trời, người, vì thế Bồ Tát gồm đủ cả trời người, huống gì Đại sĩ là người thượng thủ trong chúng đương cơ, nên đặc biệt nói với họ.

Mỗi nửa tháng, nghĩa là nửa tháng trước hay nửa tháng sau, hoặc nói là “Bạch ngoạt, Hắc ngoạt” (tức hai ngày 15 và 30) .  Bạch và Hắc là biểu trưng cho ác nghiệp và thiện nghiệp.  Hắc là biểu trưng ác nghiệp, muốn dứt trừ ác nghiệp để thành tựu “Đoạn đức”.  Bạch là biểu trưng thiện nghiệp, muốn viên thành thiện nghiệp thành tựu “Trí đức”, đây là khuôn phép của Chư Phật, nên Phật cứ mỗi nửa tháng thường tụng để thành khuôn phép quy củ cho Đại chúng, hiện tại cũng như vị lai, thọ trì đọc tụng giới pháp này.

Bồ Tát phát tâm, nghĩa là hàng Bồ Tát thập tín phát đại tâm, Tín có nghĩa là  thuận theo, tin chắc thực không còn nghi ngờ gì nữa, là bước đầu của bậc Tam Hiền, là thềm thang của bậc Thập trụ.  Tín vị gồm 10 bậc:

  1. Tín tâm
  2. Niệm tâm
  3. Từ tâm
  4. Tịnh tâm
  5. Định tâm
  6. Bất thối tâm
  7. Hộ tâm
  8. Hồi hướng tâm
  9.  Giới tâm
  10. Nguyện tâm.

Kinh Anh Lạc chép: “Từ phàm phu địa không biết gì, nay được gặp Phật và Bồ Tát, đối với giáo pháp Đại thừa, họ khởi niềm tin, thì tâm Bồ đề nơi họ liền phát.” Những người có tín tâm như thế gọi là Bồ Tát tưởng, hay Danh tự Bồ Tát.

Người này thực hành sơ lược 10 tâm, tức là từ Tín tâm cho đến Nguyện tâm.

Thập Phát thú: Các vị Bồ Tát này từ Sơ Thập tín mà phát tâm, họ luôn hướng đến Phật quả nên gọi là Phát thú hay Thập Trụ vị, vì ở sau tín vị, trí tuệ của họ luôn trụ nơi lý, được ngôi vị bất thối, nên gọi là Trụ vị.

Thập trưởng dưỡng: Các vị ở ngôi vị Bồ Tát này từ chơn nhập tục, để làm việc lợi sanh, nuôi dưỡng thánh thai, nên gọi là Trưởng dưỡng, tức là Thập hạnh.  Từ Thập trụ, họ phát chơn tỏ ngộ diệu lý, luôn tấn thú hướng tới nên gọi là “hạnh”.

Thập kim cang, chính là Thập Hồi hướng vị, hàng Bồ Tát này, trên bước đường tu hành luôn luôn chú tâm vào việc hồi nhân hướng quả, hồi hướng công đức của mình cho khắp tất cả chúng sanh, hồi hướng công đức năng tu và sở tu đến pháp giới.  Tánh chắc như kim cang, không gì phá hoại được, nên gọi là “kim cang”. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi hướng, 30 loại tâm ấy chia thành sơ, trung, hậu, đều là Bồ Tát ở giai vị “Tam Hiền”.

Thập địa: Là các bậc Bồ Tát ở ngôi vị này có trách nhiệm đưa người ra khỏi bể khổ sanh tử bằng phương pháp giáo hóa họ, mà luôn luôn trụ nơi Phật trí và làm chỗ nương tựa cho chúng sanh, cũng như đất liền sanh ra muôn vật.  Lại nữa, đất này cũng là nơi sanh ra vô lượng pháp môn nên gọi là “Thập địa”.  Đây là các Thánh vị trong hàng Bồ Tát.  Như trước đã nêu, Bồ Tát là chỉ cho Đại sĩ từ sơ phát tâm Thập địa cho đến Đẳng giác Diệu giác, đều từ giới phẩm này mà thành tựu, giới này chính là Tâm địa pháp môn mọi người sẵn đủ.

Đây là nói từ phàm cho đến Thánh, mỗi nửa tháng cũng tác pháp bố tát, nên nói cũng tụng như vậy.  Bởi vậy Phật trước, từ miệng phóng ra vô lượng quang minh, rồi nói.  Nay cũng từ miệng phát ra ánh sáng là “duyên”, có duyên ắt phải có nhơn, nên phóng quang, đặc biệt hiển bày tánh thế giới này, là bổn nguyên tâm địa, không phải là vọng cảnh, nên nói không phải xanh, vàng, đỏ, trắng và đen , v.v… vì không vướng vào vọng tình nên không là sắc, là tâm.  Không xa rớt vào hai bên Đoạn và Thường, nên nói chẳng phải có, chẳng phải không.  Thể của nó vốn tự viên thành, không lạc vào pháp quyền thừa tu chứng mà có, nên không phải nhơn và quả.

Chư Phật dùng Tâm địa giới này làm cội gốc tu hành.  Bồ Tát tu pháp lục độ vạn hạnh tự lợi và lợi tha, cũng y vào Tâm địa giới này làm nền tảng tấn tu.

Tất cả chúng sanh thành Phật ở tương lai cũng y Tâm địa này làm căn bản tấn thú tu tập, thế nên Phật ba lần khuyên nhắc tất cả nên thọ trì , đọc tụng và học kỹ.

Hành giả khi lãnh thọ giới pháp, qua lối truyền dạy của giới, đưa vào tâm tư gọi là “thọ giới”, giữ gìn cẩn mật, không sai phạm gọi là “trì giới”. Miệng đọc tụng giới kinh gọi là “đọc tụng”, làu thông luật văn, thấu triệt nghĩa luật gọi là “thiện học” (học kỹ).

Phật tử lắng nghe: “Nếu là người thọ Bồ Tát giới rồi, không luận là Quốc vương, Vương tử, Bá quan, Tể tướng, Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, mười tám cõi trời phạm, sáu cõi trời dục, thứ dân, huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ, nô tỳ, tám bộ quỷ thần, thần Kim cang, súc sanh, cho đến kẻ biến hóa, chỉ cần hiểu được lời nói của Pháp sư, tất cả đều được thọ giới, đều được gọi là Thanh tịnh thứ nhất.”

Giải thích:

Phần này nêu bày bổn nguyên Tâm địa giới, mà tất cả chúng sanh sẵn đủ.  Tâm địa ấy vốn xưa nay thanh tịnh thể tự làu làu sáng rỡ, không nhiễm, không tịnh, không tất cả nên không lựa chọn sang hèn, trí ngu, cao thấp,v.v…

Người, chẳng phải người, cho đến phi nhơn , nếu ai có thể lãnh hội được lời truyền dạy của Pháp sư thì tất cả đều được thọ giới.  Đó là điều đặc biệt nhứt của giới pháp Đại thừa.  Từ Tâm địa giới này mà được, vì giới này thuộc về tâm giới, nên vấn đề lãnh thọ không như giới Thanh văn (Tỳ kheo ni giới).  Khi hành giả lãnh thọ, cần phải đủ năm duyên mới thành tựu giới pháp, năm duyên ấy nếu thiếu, tác pháp không thành.  Hơn nữa, giới sư lại phải kiểm tra xác định lại, nếu giới tử nào vướng vào 13 giá nạn hoặc lục căn bất cụ không được thọ giới, còn Đại thừa Bồ Tát không như vậy, chỉ lựa bảy giá nạn, ngoài ra đều gọi là Pháp khí thanh tịnh.

Tỳ kheo bẩm thọ giáo pháp của Phật, thế phát mặc áo hoại sắc là ngôi Tam bảo trụ trì ở thế gian, làm ruộng phước cho đời và khuôn phép cho người, trời.  Nếu không phải là Pháp khí thì giới thể không phát sanh, do đó cần phải lựa chọn.

Còn Bồ Tát thành Phật quả là do tâm thành hoặc tại gia hay xuất gia ẩn hiện không nhứt định, nên chẳng phải là trụ trì thế gian.  Vì thế, chỉ cần hành giả phát tâm Bồ đề liền được thọ giới.

Quốc vương là bậc nhơn chủ, Bá quan là văn võ triều thần, Tể tướng là bậc lớn giúp vua về Quốc sự.

Tỳ Kheo, Trung Hoa dịch là Trừ cẩn nam.  Tỳ kheo ni là Trừ cẩn nữ.  Khi Như Lai mới thành đạo, chưa có hai chúng xuất gia, nên trước cho phép hai chúng đều được thọ chánh giới này.

Thứ dân là trăm họ trong nước.  Huỳnh môn là Hoạn quan nội giám, huỳnh là trung, vua sai người này giữ gìn trong nội cung, để giúp việc giao thông, sứ mạng của nội cung nhà vua.  Nay chẳng luận nội quan hay phi nội quan, chỉ không có nam căn là Huỳnh môn.

Tám bộ Quỷ Thần gồm:

  1. Chư Thiên các trời dục giới, sắc giới, đây nói Bát bộ hoặc là Tứ Thiên vương trở xuống ba cõi trời và các Thiên thần.
  2. Các Rồng.
  3. Chúng Dạ xoa, Trung Hoa dịch là Dõng kiện quỷ.
  4. Chúng Tu la, Trung Hoa dịch là Phi nhơn.
  5. Chúng Càn thát bà, Trung Hoa dịch là Hương âm, Thiên đế Dược thần.
  6. Chúng Ca lầu la, Trung Hoa dịch là Kim sí điểu.
  7. Chúng Khẩn na la, Trung Hoa dịch là Nghi thần, Kỳ thần của trời Đế Thích.
  8. Ma hầu La già, Trung Hoa dịch là Phúc hành Địa long (đi bằng bụng, bò sát đất).

Kim cang thần, tay cầm chày kim cang, xô dẹp tà ma, ủng hộ chánh pháp.

Súc sanh là chỉ chung cho các loài lục súc (trâu, bò, chó, lợn, dê, v.v…) hình dáng chúng sanh này đi ngang bằng bốn chân hoặc hai chân gồm chung tất cả cầm thú.

Hóa nhơn là trời rồng quỷ thần, tự biến thân làm hình người để cầu thọ giới, như xưa có một con rồng hóa thành người đến xin thọ giới Tỳ kheo, Phật biết nên không chấp nhận.

Nay Tâm địa đại giới này thuộc về Đại thừa giới, cho tất cả chúng sanh đều được thọ giới, ví như Phật Thích Ca theo lời dạy của Phật Lô Xá Na khuyến hóa nhắc nhở cho tất cả loài hữu tình đều được thọ giới pháp này.  Như nước trăm sông chảy về biển cả, đều không còn tên riêng của nó mà chỉ còn một vị nước biển mặn mà thôi.  Vì khiến cho tất cả chúng sanh trở về bản nguyên tự tánh thì không còn phân chia giai cấp sang hèn, giàu nghèo, trí ngu, cao thấp nữa, chỉ đồng một tên Đại sĩ giới Nhứt Tâm địa mà thôi.

Kinh Anh Lạc chép: “Hành Bồ Tát đạo, nếu có trang thiện nam tử và thiện nữ nhơn nào, nhẫn đến kẻ nô tỳ, người biến hóa, tất cả đều được thọ giới, đều có tâm hướng đến Phật quả, vì sơ phát tâm xuất gia là muốn nối ngôi vị Bồ Tát rồi, trước nên thọ chánh giới vì chánh giới này là cội gốc Công đức tạng.  Tất cả các hạnh chánh đồng với Phật quả đều từ giới này phát sanh.”

Công năng của giới này, hay trừ diệt tất cả tâm niệm xấu, giới này là gương sáng chánh pháp.

Hỏi: Sao không nói cõi Vô sắc giới và địa ngục súc sanh?

Đáp: Cõi Vô sắc không có thân, địa ngục khổ có đủ, cả hai đều chẳng phải pháp khí (không kham lãnh nổi).

-o0o-

Giải Thích Đề Kinh || Mười Giới Trọng || Bốn Mươi Tám Giới Khinh