KINH NHẤT TỰ KỲ ĐẶC PHẬT ĐẢNH

KINH SỐ 953

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty_Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh_ Túc Quốc Công, thực ấp gồm ba ngàn hộ_ Ban áo tía tặng Tư Không, tên thụy là Đại Giám, tên hiệu chính là Đại Quảng Trí_Chùa Đại Hưng Thiện_Tam Tạng Sa Môn BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

 

QUYỂN THƯỢNG

HIỆN OAI ĐỨC PHẨM THỨ NHẤT

Ta nghe như vầy: “Một thời Đức Bạc Già Phạm (Bhagavaṃ: Thế Tôn) trụ ở cõi Tam Thập Tam Thiên (Trāyastriṃśat-deva), dùng Như Lai gia trì vô lượng Phước sanh ra lầu gác Phổ Biến Quang, Đại Phước cu chi trang nghiêm, Đại Phước Phật Tư Lương, vô lượng xưng tán tràn đầy khắp, vô số chúng Công Đức, vô lượng Kim Cang, nơi chốn kiên cố bất hoại, trang nghiêm Thế giới Phật thanh tịnh, hết thảy Ma Ni Bảo vương, trang sức mở bày trang nghiêm tròn sạch, nơi yêu thích của Trí, báu Ma Ni rực rỡ ánh sáng không dơ bẩn khéo trang nghiêm, cho đến Thế Giới Tam Ma Địa tròn đầy thanh tịnh, nói Lý Thú của hết thảy Pháp thanh tịnh, vô lượng biển báu Ma Ni rộng rãi đầy màu sắc xen kẽ nhau hiện bày nơi Như Lai Tam Ma Địa vô tận, Ma Ni Bảo Vương thanh tịnh vô tận, biến hóa các hoa xen lẫn, xoay quanh trang nghiêm các nhánh cây Ma Ni, phương tiện khéo léo hiện bày Phật Trí, ánh sáng của hết thảy báu Hương Hoa Ma Ni xen lẫn nhau, rực rỡ tràn đầy khắp

Nơi Đức Phật gia trì: hiện Thần Thông du hý, ánh sáng tràn khắp tất cả Ma Ni ở lầu gác lớn, rộng rãi xoay chuyển. Nơi mười phương đã quán sát: nhóm Phệ Lưu Ly (Vaiḍurya), mọi loại báu trang nghiêm, vô lượng Bảo Vương, thềm bậc lối đi xen nhau vây quanh, mọi loại Ma Ni trân châu rũ treo…dựng thẳng lọng, phướng, phan đoan nghiêm. Lưới châu ngọc, lưới báu che trùm, dùng làm trướng báu. Long Kiên (?), Chiên Đàn (Candana) xoa bôi tô điểm. Đồ trang sức có khảm hoa văn của Tự Tại Vương, lưới báu Ma Ni che trùm lên. Long Thắng dựng lập đất, Trí nghiêm ngặt thấu suốt tràn khắp ánh sáng, cột trụ báu Ma Ni, lưới báu giao chéo nhau, Sư Tử Nhị Ma Ni Bảo Vương che trên cây Sa La, cây phướng Sư Tử khéo trang nghiêm cửa sổ bên cây cột của cánh cửa báu Thắng Ma Ni trợ nhau tỏa sáng chẳng hoại. Hoa Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa, hoa Lô Già, hoa Ma Ha Lô Già, hoa Luân, hoa Đại Luân, hoa Tô Ma Na, hoa Mạt Sư Ca, hoa Đa La Na, hoa Mạt La, hoa Cồ Đạt La, hoa Tô Kiện Địa, hoa Đà Nỗ Sắc Ca Lợi, hoa Thiên Tô Ma Na, hoa Ô Ba La, hoa sen, hoa Câu Vật Đầu, hoa sen trắng, hoa lớn… dùng rải tán. Chỗ ngồi là tòa Vô Nhiễm Trí Nghiêm Tạng Sư Tử, hiện hành Diệu Thanh Tịnh Tuệ không có hai

Nói Pháp Vô Tướng, trụ Phật Trụ được sự bình đẳng của tất cả Phật, không có ngăn ngại thông đạt Pháp chẳng thoái lùi, cảnh giới không có tranh đoạt, thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, được Thân ba đời bình đẳng tràn khắp tất cả Thế Giới, tướng Vô Năng Quán Đảnh, nơi tất cả Pháp không có Trí nghi ngờ, thành tựu tất cả Hành Tuệ, Trí Vô Hoặc Giác, Thân không có phân biệt, Tuệ không có hai, trụ tối thắng đến bờ kia, Trí Vô Hoại của Như Lai, Trí Giải Thoát, cứu cánh chứng đắc bình đẳng không có mé giữa, Trí Vô Công Dụng tận hư không tràn đầy Pháp Giới, chuyển bánh xe Bất Thoái gia trì, đền Bồ Đề Tràng (Bodhi-maṇḍa) tồi phục Ma (Māra), chứng Chánh Đẳng Giác, chuyển bánh xe Pháp. Hiện Vô Trước Trí Trang Nghiêm Tạng, nơi đã gia bị tròn đủ không có hoại không có nương nhờ của tất cả tướng, khéo hay rộng hiện ngay tại tất cả Thế Giới ở mười phương, trụ cung Trời Đâu Suất (Tuṣita), hiện chứng Bồ Đề, chuyển bánh xe Pháp, Bát Niết Bàn (nhập vào Niết Bàn) trụ Pháp ẩn Pháp… Cùng với bốn vạn Tỳ Kheo, tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đều từ mười phương Thế Giới đi đến tập hội, đều trụ Nhất Sanh Bổ Xứ được địa vị Quán Đảnh, sinh ra vô lượng Tam Ma Địa giải thoát, trụ Kim Cương Tối Thắng Tam Ma Địa, được Liên Hoa Tối Thắng Tam Ma Địa với được Kim Cương Dụ Tam Ma Địa, Du Hý Tràng Thắng Trang Nghiêm Cụ, tất cả Phật Pháp đều được hiện tiền, trụ Công Đức Tạng Trang Nghiêm Tam Ma Địa, khéo đến Bồ Đề Tràng an trụ nhập vào cảnh giới của Phật, được nói Vô Tận Đà La Ni Trang Nghiêm sắc tướng tối thắng của tất cả cảnh giới của Ma, được Vô Tận Cú nói Bất Không Kiếp Thọ Ký, hay tồi phá Chúng ác của Giáo khác, dựng lập danh xưng, mười phương xưng tán. Sanh ra vô lượng Đàn (Dāna), Giới (Śīla), Nhẫn (Kṣānti), Tấn (Vīrya), Thiền (Dhyāna), Tuệ (Prajña), Phương Tiện (Upāya)… tất cả Phật tán thán xưng dương. Vô số na dữu đa trăm ngàn câu kỳ Kiếp, viên mãn làm Nghiệp xa lìa Pháp Duyên Sanh thâm sâu khó lường, vào hiển Biên Thường Đoạn Kiến. Hay ban cho tất cả hữu tình, biết khắp bệnh phiền não tùy theo thuốc Pháp tương ứng, khéo tịnh thanh tịnh đoan nghiêm niềm vui của ý không có dơ bẩn, dùng Kim Cang dũng mãnh bền chắc, Từ Thiện chẳng hoại đối với tất cả hữu tình hay nhiếp thọ, dạy bảo dùng Tuệ bình đẳng, vô lượng Công Đức Trí tận bờ mé hư không, trụ mười lực, Đà La Ni, biện tài, Lý Thú.

Các vị ấy tên là: Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát, Thường Quán Tự Tại Bồ

Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Thắng Tuệ Bồ Tát, Kim Cang Tuệ Bồ Tát, Sư Tử Tuệ Bồ Tát, Sư Tử Dũng Kiện Bộ Bồ Tát, Kim Cang Dũng Kiện Bộ Bồ Tát, Kim Cang Tướng Bồ Tát, Kim Cang Tràng Bồ Tát, Vô Động Bộ Dũng Kiện Bồ Tát, Thanh Tịnh Nhãn Bồ Tát, Tam Thế Bộ Dũng Kiện Bồ Tát, Liên Hoa Nghiêm Bồ Tát, Liên Hoa Nhãn Bồ Tát, Bảo Nghiêm Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát, Hư Không Vô Cấu Bồ Tát, Diệu Tý Bồ Tát, Diệu Tuệ Bồ Tát, Đại Tuệ Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Bảo Ấn Thủ Bồ Tát, Nghiêm Vương Ảnh Tượng Bồ Tát, Công Đức

Vương Ảnh Tượng Bồ Tát, Nghiêm Vương Bồ Tát, Điện Quang Trang Nghiêm Bồ Tát, Hư Không Khố Tạng Bồ Tát, Tồi Nghi Hoặc Bồ Tát, Vân Âm Bồ Tát, Thanh Tịnh Tuệ Bồ Tát, Lôi Âm Bồ Tát, Mạn Thù Thất Lợi Đồng Chân Bồ Tát, với Từ Thị Bồ Tát… làm Thượng Thủ (Pramukha) cùng với tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát đời Hiền Kiếp (Bhadra-kalpa) đền dự.

Lại có Diệu Giới Phần Thiên Tử, Thắng Ma Thiên Tử, Công Đức Nghiêm Thiên Tử, Thắng Thiên Tử, Tịch Điều Tự Tại Thiên Tử, Thắng Tuệ Thiên Tử, Thiện Tư Duy Thiên Tử. Nhóm Đại Oai Đức Thiên Tử như vậy cùng với hai vạn vị Thiên Tử đến dự, đều phát mầm giống của Tâm Bồ Đề, gieo trồng căn lành.

Lại có Tứ Thiên Vương Thiên, Chúng Thiên, Thiên Đế Thích, Thương Chủ Thiên, Ma Hề Thủ La Thiên, Pham Vương Sa Ha Thế Giới Chủ, Ma Thiên Tử. Lại có Chúng Đại Thanh Văn là: Xá Lợi Tử, Đại Mục Kiền Liên, Ca Chiên Diên Tử, Phú Lâu Na, Tân Đầu Lô, Kiêu Phạm Ba Đề, Tôn Tú Tháp Thượng, Ca Diếp Ba, Đại Ca Diếp Ba, Già Da Ca Diếp Ba, La Hầu La… Nhóm như vậy là bậc Thượng Thủ

Lại có năm ngàn vị Đại Tược Xoa Tướng là: Mãn Hiền Dược Xoa Tướng, Châu Hiền Dược Xoa Tướng, Tàm Bà La Thủy Đế Dược Xoa Tướng, Na Ha La Dược Xoa Tướng, Bát Chí Ca Dược Xoa Tướng kèm với Ha Lý Để Mẫu, năm trăm người con dùng làm quyến thuộc.

Tất cả vua của núi với sông lớn, Kim Sí làm bậc Thượng Thủ có vô lượng trăm ngàn Ca Lâu La Vương cùng với Thụ Khẩn Na La Vương có vô lượng Khẩn Na La dùng làm quyến thuộc.

Cùng với Quần Sanh Chủ Na La Diên Thiên, Y Xá Na Quỷ Chủ, vô lượng trăm ngàn quyến thuộc

Cùng với Bà Tô Cát Long Vương, Liên Hoa Long Vương, Đại Liên Hoa Long Vương, Sa Già La Long Vương làm bậc Thượng Thủ, vô lượng trăm ngàn Long Vương dùng làm quyến thuộc.

Với Trời, Rồng, Dược Xoa, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người, Phi Nhân khác cùng đến dự.

_Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng với vô lượng trăm ngàn Thiên Chúng trước sau vây quanh, nói Như Lai Đảnh Chân Ngôn Hạnh Phát Khởi, ngồi trên tòa Đại Nghiêm Sư Tử, rống như sư tử, hào quang: sáng như mặt trời, sáng như mặt trăng… chiếu khắp như Đế Thích, sáng rực như cây đuốc. Hào quang như Phạm Vương, cao tột như Tu Di to lớn ở biển. Phật Đảnh Chân Ngôn Hạnh thứ tự mà nói

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo hàng Bồ Tát rằng: “Này Thiện Nam Tử! Có Nhất Thiết Như Lai Nhất Thiết Tam Ma Địa Tối Thắng Tam Ma Địa Vương. Do trụ Tam Ma Địa (Samādhi) này: Nhất Tự Luân Vương Phật Đảnh. Ông nên nghe cho kỹ! Hãy khéo nghe! Rất khéo nghe! Ân cần tác Ý thọ trì. Do thọ trì cho nên Bồ Tát chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề”

_Thời tất cả Đại Bồ Tát chắp tay bạch Phật rằng: “Nguyện xin Đức Thế Tôn nói Đại Minh Vương Nhất Tự

Lúc đó, Đức Thế Tôn nhập vào Nhất Thiết Tối Thắng Tam Ma Địa Vương nói Minh Vương này

Nam mạc tam mạn đa bột đà nam, bộ-lâm-hồng

Vừa mới nói Minh Vương này thì ba ngàn Đại Thiên Thế Giới làm cái lưới ánh sáng chiếu sáng khắp cả hằng hà sa Thế Giới, chiếu sáng tất cả Thế Giới ấy, chấn động tất cả Thế Giới ấy. Tất cả Như Lai nhập vào Nhất Thiết Tam Ma Địa Tối Thắng Tam Ma Địa Vương cũng nói Đại Minh Vương này, khi nói thời tất cả nơi chốn đều được nghe. Ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này chấn động theo sáu cách: phương Đông trồi lên thì phương Tây chìm xuống, phương Nam trồi lên thì phương Bắc chìm xuống, phương trên trồi lên thì phương dưới chìm xuống, chấn động, chấn động lớn.

Tất cả hàng Trời từ chỗ ngồi đi đến trước mặt Đức Như Lai, cho đến A Ca Ni Tra Thiên Chúng, nhóm ấy thảy đều nghĩ nhớ Đức Như Lai. Hết thảy Hữu Tình trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới: Địa Ngục, Bàng Sanh, Diệm Ma Giới do chiếu chạm ánh sáng của Đảnh Vương cho nên trừ tất cả cảm giác khổ, lúc đó hữu tình lìa sự giận dữ, quan sát lẫn nhau, tưởng như cha mẹ. Hết thảy hữu tình sanh trong chỗ ấy trợ nhau làm, thấy như vậy

Ở trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới: núi Luân Vi, núi Đại Luân Vi với Hắc Sơn khác… do ánh sáng của Minh Vương Phật Đảng chiếu sáng cho nên bên dưới đến Vô Gián Đại Địa Ngục, bên trên đến cõi Trời A Ca Ni Tra (Sắc Cứu Cánh), hết thảy đại thần thông, đại oai đức, đại tự tại của mặt trời mặt trăng đều bị che lấp chẳng thể chiếu sáng, không cói một chỗ nào mà chẳng được ánh sáng chiếu khắp

Như vậy do Hạnh Thần Thông của Đức Thế Tôn làm Thần Thông mà kẻ điên cuồng được niệm, kẻ mù lòa được nhìn thấy, kẻ câm điếc được nói, người què được đi, kẻ điếc được nghe, kẻ lõa lồ được quần áo, kẻ có mong cầu đều được thức ăn uống với vật dụng trợ duyên, kẻ thọ khổ được an ổn, cho đến kẻ mang thai khi sanh thời được an ổn.

_Bấy giờ nhóm Bồ Tát kia đến chỗ của Đức Thế Tôn đều sanh kỳ đặc (kỳ lạ đặc biệt) nói lời như vầy: “Thế Tôn! Chẳng thể nghĩ bàn! Kỳ đặc, đại kỳ đặc! Phật Đảnh vương này, Đức Thế Tôn làm như vậy! Thấy ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này có lưới báu che khắp ở bên trên, hư không tuôn mưa hoa màu nhiệm của cõi Trời, mây hoa màu nhiệm của cõi Trời, mây hương bột, mây Chiên Đàn, mây quần áo với hương xoa bôi, mây vòng hoa, mây vòng hoa màu nhiệm của cõi Trời…. Tất cả Bồ Tát, tất cả hàngTrời, Rồng, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già … đem hoa màu nhiệm của cõi Trời rải tán trên Đức Phật. Lại tuôn mưa áo lụa, lọng báu, phướng phan, âm nhạc màu nhiệm của cõi Trời tấu nơi không trung, từ âm nhạc ấy phát ra tiếng như vầy: “Kỳ lạ thay Thế Tôn Phật Đảnh! Giả sử Bồ Tát trụ Thập Địa (daśa-bhūmi) cũng chẳng thể nhìn thấy, hết thảy tất cả hữu tình đều được an vui, được Niệm Phật Tam Ma Địa.

Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhân, hết tất cả Thiên Tử của Dục Giới (Kāma-dhātu) đều đến chỗ của Đức Thế Tôn, rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu có người trì Đại Minh Vương này thì chúng con, hết thảy tất cả vị Trời nhìn thấy thấy kẻ kia, đều đứng dậy chia nửa tòa cho ngồi chung”

Thời Đức Thế Tôn bảo Thiên Đế Thích rằng: “Này Thiên Đế! Pháp như thế! Người thành tựu Đảnh Luân thì chư Thiên của hàng Thiên Đế Thích nhìn thấy đều chia tòa ngồi.

Này Thiên Đế! Không có Giới hữu tình nào nhìn thấy người thành tựu Đảnh Luân mà chẳng chia nửa tòa ngồi. Trừ Bồ Tát được địa vị, người trụ Giải Thoát chẳng thể nghĩ bàn được Tam Ma Địa với hàng Duyên Giác, Thanh Văn ly dục Thiên Đế! Pháp như thế, nếu có kẻ nhìn thấy người thành tựu Đảnh Luân mà chẳng đứng dậy thì đầu của kẻ ấy bị phá vỡ thành trăm phần”.

_Lúc đó, Thiên Đế Thích nói lời như vầy: “Thế Tôn! Con gia hộ người Trì Minh. Nếu tu Minh Vương này hoặc đọc hoặc cúng dường, hoặc viết chép Kinh quyển cho đến thọ trì thì kẻ chẳng bị đọa vào đường ác, khiến cho kẻ ấy được chánh niệm”

Đức Thế Tôn khen ngợi Thiên Đế Thích: “Như vậy! Như vậy Thiên Đế! Nếu có người thành tựu Minh Vương này, người đọc tụng ắt chẳng bị đọa vào đường ác, được Túc Mạng Trí, chẳng dua nịnh, không có nói lời ly gián, chẳng làm ra vẻ giả tạo, Tâm chẳng khác lạ, đủ phương tiện khéo léo.

Này Thiên Đế Thích! Người trì Đảnh Luân mà bị đọa vào nẻo ác thì không có chuyện đấy. Thường sanh vào dòng tộc Bà La Môn, Sát Lợi Đại Vương, đoan chánh đủ sắc tướng tốt, thành tựu văn, bút, luận, công xảo, chẳng có tham lam keo kiệt, được Văn Trì chẳng quên, cha mẹ chẳng lìa Pháp như vậy. Oai Đức của Phật Đảnh chẳng thể nghĩ bàn, không so sánh được. Phật Đảnh Tộc chẳng thể nghĩ bàn”

_Thời tất cả Thiên Chúng, Bồ Tát ấy đều sanh kỳ đặc. Trong số đó, có cúng dường vô lượng Phật, được đến tay người ấy, tất cả Trời người (Thiên Thế) nhiếp thọ, nếu đến tay người ấy thì không có tự hoại. Nếu người được điều này thì thành tựu Công Đức chẳng thể nghĩ bàn.

 

ẤN KHẾ PHẨM THỨ HAI

Bấy giờ Kim Cang Thủ Bồ Tát, vô lượng câu chi chúng Trì Minh vây quanh, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu mặt lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Bậc Đại Hữu Trì Minh đối Chân Ngôn Hạnh của Phật Giáo, tu hành mà chẳng đủ phương tiện, chẳng khéo biết Nghi Tắc. Vì lợi ích của Hữu Tình ấy, do phương tiện này mau được thành tựu. Nguyện xin Đức Thế Tôn diễn nói Phật Đảnh Chân Ngôn Giáo

Đức Phật bảo Chấp Kim Cang: “Trước tiên, người Trì Minh nên thọ Tam Quy, phát Tâm Bồ Đề, thanh tịnh tắm gội, Đại Bi thương xót hết thảy hữu tình, ở nơi thanh tịnh yên lặng, nên kết Khế Ấn, gần gũi nương theo, vâng mệnh mà thọ nhận. Nếu người khác với Kết này sẽ bị các Mỵ với Tỳ Na Dạ Ca gây chướng nạn, khi chết bị đọa vào Địa Ngục. Người chẳng Quán Đảnh, chẳng phát Tâm Bồ Đề thì người ấy trước tiên chẳng nên kết Ấn của nhóm này.

Trước tiên, nên kết Tam Bộ Tâm Ấn: Bốn Đảnh (4 ngón tay) kết hợp bên trong, kèm dựng thẳng hai Luân (2 ngón cái), phía trước phụ dính ngón tay. Đây gọi là Nhất Thiết Như Lai Tâm Ấn

Tức Ấn lúc trước, co Tả Luân (ngón cái trái) vào trong lòng bàn tay, Hữu Luân (ngón cái phải) dựng thẳng như trước. Đây gọi là Liên Hoa Bộ Tâm

Tức Liên Hoa Bộ Tâm Ấn lúc trước, co Hữu Luân (ngón cái phải) vào trong lòng bàn tay, Tả Luân (ngón cái trái) dựng thẳng y như trước. Đây gọi là Kim Cang Bộ Tâm Ấn

Hai tay dựng thẳng các Đảnh (các ngón tay) giao chéo nhau, chắp tay trống rỗng như bông hoa ở trong lòng bàn tay, là Phổ Thông Nhất Thiết Phật Đảnh

Này Kim Cang Tạng (Vajra-garbha)! Trước tiên nên kết Nhất Thiết Thế

Gian Xuất Thế Gian Chân Ngôn Thượng Thượng Nhất Thiết Phật Đảnh Chủ Chuyển Luân Vương Ấn Tướng: Hai tay cài chéo nhau bên trong rồi nắm lại làm Quyền, dựng thẳng hai Quang (2 ngón giữa) co lóng bên trên, kèm dựng thẳng hai Luân (2 ngón cái), co hai lóng của hai Cái (2 ngón trỏ) cùng trụ ở trên hai Luân (2 ngón cái). Đây là Luân Vương Căn Bản Ấn, rất thù thắng trong tất cả Ấn

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, Hữu Cái (ngón trỏ phải) ở phía sau Hữu Quang (ngón giữa phải) dựng thẳng đứng khiến cho chẳng dính nhau. Đây gọi là Đảnh Ấn

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, hai Cái (2 ngón trỏ) đều ở phía sau Quang (ngón giữa) dựng thẳng đứng khiến chẳng cho dính nhau. Đây gọi là Đầu Ấn

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, hai Cái (2 ngón trỏ) đều trụ ở phía sau hai Quang (2 ngón giữa), là Giáp Trụ Ấn

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, co lóng thứ hai của hai Cái (2 ngón trỏ) cùng ép lưng ngón tay, dựng hai Luân (2 ngón cái) bằng nhau phụ hai Cái (2 ngón trỏ), là Tường Ấn

Người Trì Minh do kết Ấn này thì nhóm Đảnh Hạnh chẳng thể đến gần, huống chi là các nhóm Tỳ Na Dạ Ca gây chướng khác.

_Tức Căn Bản Ấn lúc trước, co hai Cái (2 ngón trỏ) trụ ở lóng thứ ba của hai Quang (2 ngón giữa). Đấy gọi là Luân Vương Tâm Ấn cùng với Chân Ngôn tương ứng, hay làm tất cả sự nghiệp

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, co hai Cái (2 ngón trỏ) phụ ở lóng thứ ba của hai

Quang (2 ngón giữa). Đấy gọi là Luân Vương Tâm Trung Tâm Ấn

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, co Hữu Cái (ngón trỏ phải) ở phía sau Hữu Quang (ngón giữa phải) hướng về thân chiêu vời ba lần, là Nghênh Thỉnh Ấn. Do Ấn này thỉnh tất cả Chân Ngôn Thánh Thiên với triệu Trì Kim Cang, huống chi là hàng Bồ Tát khác. Hướng Tả Cái (ngón trỏ trái) ra ngoài, ném ba lần là Phụng Tống Ấn.

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, co hai Cái (2 ngón trỏ) cùng trụ nhau phụ hai Quang (2 ngón giữa), hai Luân (2 ngón cái) mỗi mỗi đều dựng phụ bên cạnh Cái (ngón trỏ), là Át Già Ấn. Trước tiên, ở trong lòng bàn tay an bông hoa, sau đó kết Ấn này, bắt đầu Nghênh Thỉnh với Phụng Tống đều dụng Ấn này phụng hiến Át Già.

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, hai Luân (2 ngón cái) đều co vào trong lòng bàn tay, liền thành Phương Ngung Giới

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, kèm dựng hai Luân (2 ngón cái) hơi chẳng dính Cái (ngón trỏ), bên trên con mắt ngó nhìn mà kết. Đấy gọi là Thượng Phương Ấn

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, kèm dựng hai Luân (2 ngón cái) liền trợ nhau lay động chiêu vời hai bên trái phải. Đấy gọi là Tồi Chư Quan Kiện (cái khóa cửa) Ấn

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, hai tay: Cái (ngón trỏ) Luân (ngón cái) đều trụ nhau như cái vòng, đều y theo Quang (ngón giữa) mà trụ. Đây gọi là Phược Nhất Thiết Hựu Tình Cập Câu Ma La Thiên. Phạm Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Na La Diên Thiên Đẳng Phược Kỷ Cú Triệu Lệnh Thuận Phục Ấn. Cởi bỏ Cái Luân (ngón trỏ và ngón cái) liền thành giải thoát

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, muốn hoại được Chân Ngôn khác. Đem móng của hai Luân (2 ngón cái) để khớp bên cạnh móng của hai Cái (2 ngón trỏ) thì tất cả Chân Ngôn Minh thành đoạn hoại

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, tay phải co Cái (ngón trỏ) dựa lóng dưới của Quang (ngón giữa) là Đồ Hương Ấn.

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, tay trái co Cái (ngón trỏ) dựa lóng dưới của Quang (ngón giữa) là Hoa Ấn.

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, hai Cái (2 ngón trỏ) co dựa lóng dưới của hai Quang (2 ngón giữa) là Thiêu Hương Ấn.

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, co lóng thứ nhất của Cái (ngón trỏ) đều phụ bên cạnh của hai Luân (2 ngón cái). Đây gọi là Hiến Thực Ấn.

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, co hai lóng của Cái (ngón trỏ) khiến cho lưng ngón chẳng dính nhau, kèm dựng hai Luân (2 ngón cái) vịn bên cạnh Cái (ngón trỏ). Đây gọi là Đăng Ấn.

Người tu hành dùng nhóm Ấn này, khi niệm tụng thời kết dùng

_Tức Căn Bản Ấn lúc trước, hai móng của Cái (ngón trỏ) trụ trên móng của Luân (ngón cái). Đây gọi là cột trói tất cả Quỷ Mỵ khó điều phục, Khới Thi, Trà Cát Ni với loài Thủy Hành….cột buộc miệng của hàng ấy. Lại kết như Căn Bản Ấn thì thành cởi bỏ.

Kết Căn Bản Ấn, đem hoa quả an ở trong Ấn, niệm tụng cùng với người, liền được kính yêu.

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, co lóng thứ nhất của hai Cái (ngón trỏ) cùng ép nhau, đem hai Luân (2 ngón cái) đè lên. Dùng phẫn nộ tụng Căn Bản Chân Ngôn thì hay ngăn cấm voi, ngựa, xe cộ (xa luân). Tức Ấn này cỡi con voi, kết từ xa vứt ném thì hay ngăn cấm được kẻ địch (tha địch).

Kết Căn Bản Ấn đi vào quân trận thì hay cấm được tất cả đao binh, chẳng cho gây hại

Kết Căn Bản Ấn, phẫn nộ ném vào ao, giếng, suối thì tất cả cung Rồng bốc cháy hừng hực, giết hại tất cả Na Già (Nāga: Rồng). Ném vào không trung thì tất cả Trì Minh Tiên (Vidya-dhāra-Ṛṣī), Càn Thát Bà (Gandharva), Khẩn Na La (Kiṃnara) hay bị giết hại”

_Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ Bồ Tát rằng: “Đại Mạn Trà La này có tên gọi là Trì Tam Muội Da hay đánh tan tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, Phi Nhân. Tất cả Bồ Tát chẳng thể trái vượt, điều phục tất cả hữu tình khó điều phục, hay hoại tất cả Chân Ngôn Minh, câu triệu tất cả Bồ Tát. Tất cả Phật xưng tán khen ngợi, vui vẻ phát ra tiếng rống của Đại Tử Tử. Vừa mới kết thì giả sử Bồ Tát trụ ở mười Địa đều muốn kinh hãi tiêu dung, huống chi là hàng Phạm Thiên. Thế nên Thiện Nam Tử! Ta vì ông với Quán Tự Tại Bồ Tát phát ra tiếng rống của Đại Sư Tử

Này Thiện Nam Tử! Chuyễn Luân Vương Chân Ngôn này nhận được từ vô lượng Như Lai, chuyển vì người khác nói sự kỳ lạ đặc biệt của tất cả chư Thiên với chúng sanh

Thiện Nam Tử! Nhất Tự Luân Vương chẳng thể nghĩ bàn lày là điều mà tất cả Như Lai đã nói

Thiện Nam Tử! Ta ở trong a tăng kỳ Kiếp thời quá khứ, lúc đó có Đức Phật tên là Chuyển Luân Thánh Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, dùng Tam Ma Địa (Samādhi) trụ hình Chuyển Luân Vương (Cakra-varttin)

Này Thiện Nam Tử! Vào lúc đó, Ta từng là vị Trưởng Giả ở chỗ của Đức Như Lai ấy phụng sự, đặt bày thức ăn cúng dường chư Phật

Này Kim Cang Thủ! Khi ấy, Đức Như Lai nói Nhất Tự Luân Vương Chân Ngôn này. Lúc đó, Ta buông bỏ nhà cửa hướng đến chỗ không nhà, dùng Đại Tinh Tấn cầu thành tựu, chẳng xả bỏ thân này, được thành Trì Minh Chuyển Luân Thánh Vương, được Thần Thông dạo chơi ở bcõi Trời A Ca Ni Trá (Sắc Cứu Cánh)

Thiện Nam Tử! Ta thành tựu vô lượng trăm ngàn câu chi hữu tình, an lập ở Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, điều phục vô lượng trăm ngàn hữu tình khó điều phục, theo thứ tự đều được thành Đẳng Chánh Giác

Thiện Nam Tử! Nên biết Luân Vương Phật Đảnh chẳng thể nghĩ bàn này có Đại Oai Đức, Đại Tinh Tấn, dũng kiện… cho dù cả trăm kiếp cũng chẳng thể nói đủ, Nay Ta chỉ nói lược chút phần

Ở đời năm Trược sau này, nên tuyên bày hiển rộng cho hữu tình bền chắc tin tưởng trong sạch vào Đại Thừa, tức người ấy giữ gìn sự bí mật của tất cả Như Lai

Thiện Nam Tử! Nhất Tự Luân Vương này là bí mật của tất cả Như Lai, sự chân thật bền chắc của tất cả Như Lai, sự tối thắng của tất cả Như Lai, tất cả Như Lai gia trì Tam Ma Địa làm chân thật, là bậc Thượng Thượng của tất cả Tam Ma Địa đồng với Tam Ma Địa tối thắng của tất cả Như Lai, khiến cho các Bồ Tát sanh Tam Ma Địa đặc biệt lạ kỳ, hiển bày tất cả Như Lai khiến cho các Bồ Tát chẳng thể suy nghĩ đo lường được

Này Thiện Nam Tử! Ta lược nói Như Lai tự trụ hình của Chân Ngôn này

Thiện Nam Tử! Ta ở bên trong, Tướng Nhất Thiết Ấn Gia Trì Đại Luân Vương Quảng Đại Trịch Ấn: kèm hai chân đứng thẳng, đem ngón cái của chân trái đè lên ngón cái của chân phải, hai tay từ đầu gối bên phải, xoay chuyển từ trái sang phải như điệu múa Kim Cang, dần dần lên đến hai vú, lại xoay chuyển ở hai gò má đến trên đảnh đầu. Kết Căn Bản Ấn, liền trụ Vĩ Xả Khư (Viśākha: Đê Tú) mà đứng

“Vừa ném Phạm Thiên, Câu Ma Thiên

Đế Thích, Ma Hê Thủ La Thiên

Na La Diên Thiên với Đại Chúng

Chúng Rồng, Dược Xoa với Tu La

La Sát, hàng Tỳ Na Dạ Ca

Tất cả Tùy Tộc với chúng Quỷ

Mê loạn choáng váng sanh sợ hãi

Mọi hàng trụ ở Trời, La Sát

Loài Quỷ Thần trụ ở dưới đất

Vừa kết Ấn này, đều chạy tan

Hành Giả nên khởi Tâm thương xót

Tức Tai niệm tụng, trừ khổ não

Tụng Tâm Chân Ngôn, kết Tâm Ấn

Tịnh Tâm, nhóm ấy được an vui”

Như vậy Kim Cang Thủ! Trịch Ấn (ném Ấn) có hai loại là Cộng Bất Cộng, Đây là Bất Cộng Ấn

_Nay Ta nói tiếp Cộng Ấn: Đứng chân bằng nhau, nhấc chân phải lên như thế múa xoay chuyển, kết Căn Bản Ấn an ở trên đảnh đầu, đây gọi laà Hại Ấn, nên dùng ở chỗ có chướng nạn Thiên Ma. Vừa kết Ấn này thì tất cả các Ma bỏ chạy mười phương. Này Kim Cang Thủ! Đây gọi là Cộng ấn.

(Phàm kết Trịch Ấn y theo năm chi thành thân của Sự Pháp, Tưởng thân của mình như Nhất Tự Luân Vương có bảy báu vây quanh, ánh sáng hách dịch khó thể nhìn ngó. Tay trái trụ ở háng bên phải, tay phải cầm bánh xe, hai bên trái phải án theo bước đi A Lý Trà, Bát-La Đá Lý Trà, trợn mắt ngó nhìn hai bên trái phải như Sư Tử nhấc thân trổi dậy, sau đó trụ Trịch Ấn, kết Ấn an trên đảnh đầu. Liền tưởng bánh xe vàng có 12 cây căm tùy theo Ma ở tại phương nào mà ném Ấn ấy. Hoặc vẽ hính Ma ấy, đem Ấn hướng đến rồi ném. Sau đó nên khởi Tâm Từ làm Pháp Tức Tai. Tụng Phật Mẫu Chân Ngôn hoặc tụng Tâm Chân Ngôn, Tức Tai Hộ Ma. Hoặc làm hình ấy, dùng sữa bò, tụng Phật Mẫu Chân Ngôn dùng rưới rót tắm gội, khiến cho loài kia an vui, nếu chẳng như thế thì nhiều Kiếp tạo Nhân Duyên gây chướng cho Đạo)

_Khi ấy, Kim Cang Thủ Bồ Tát bạch Phật rằng: “Nguyện xin Đức Thế Tôn nói phương tiện dễ

Thế Tôn! Hoặc có hữu tỉnh hèn kém, tinh tấn không có siêng năng dũng mãnh.

Thế Tôn! Kẻ ấy chẳng thể tu Tối Thắng Thành Tựu. Thế nên vì hữu tình ấy trụ ở Đại Thừa, nói phương tiện dễ để làm Nghiệp

Thế Tôn! Do sức gia trì của Như Lai cho nên ở thời Mạt Thế năm trược, do Đại Minh Vương này dùng chút phương tiện trị tất cả Độc”

Đức Phật bảo Chấp Kim Cang: “Tức Căn Bản Ấn lúc trước, dựng hợp hai Phong (2 ngón trỏ) như cây kim, dùng phát động chất độc, triệu chất độc mê muộn, như thế mở hai Cái (2 ngón trỏ) liền thành phát khiển chất độc khiến cho tan

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, mở dựng hai Thắng (2 ngón út) là Lệnh Ngữ Ấn

Tức Căn Bản Ấn lúc trước, kèm dựng hai Luân (2 ngón cái) chẳng dính đảnh của Cái (ngón út) khiến A Vĩ Xả (Āviśa: biến nhập) trợ nhau dao động khiến cho lay đổ, trợ nhau cột buộc khiến cho nói, trợ nhau ràng buộc khiến cho múa, đếu ném tan khiến cho không có chất độc.

Này Thiện Nam Tử! Minh Vương hay làm tất cả sự nghiệp. Đối với hàng Quỷ Mỵ cũng làm như vậy”

_Lúc đó, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: “Làm thế nào để người Trì Minh kết Ấn? Nên ở chỗ nào?”

Đức Phật bảo Trì Kim Cang: “Người ấy nên tắm gội sạch sẽ, ở nơi nhàn tịnh kín đáo có Xá Lợi, đối trước Tượng nên Kết, nếu khác với Kết này tức bị thương tổn. Khi thành tựu thời kết Biến Trịch Ấn, dùng ở nơi có Đại Ma, chướng nạn lớn, hàng Trời chiến đấu với Tu La, và điều phục hữu tình khó điều phục. Nếu dùng ở chỗ khác thì gây thương tổn cho hữu tình”

 

MẠN TRÀ LA NGHI QUỸ PHẨM THỨ BA

Bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát dùng sức Oai Thần của Đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, ở trước mặt Đức Thế Tôn, chắp tay lễ xong, rồi bạch Phật rằng: “Con thỉnh Đức Thế Tôn nói Chân Ngôn chẳng thể nghĩ bàn.

Thế Tôn! Chư Phật Thế Tôn Minh Vương Phật Đảnh chẳng thể nghĩ bàn, giả sử Bồ Tát trụ mười Địa cũng chẳng thể nhìn ngó, huống chi là hàng Thích, Phạm, Hộ Pháp Thiên

Nay thỉnh Đức Thế Tôn Ứng Chúng Chánh Biến Tri. Nguyện xin nói Tam Muội Da Mạn Trà La là điều mà Phật Thế Tôn lúc trước ở quá khứ đã nói. Do nhập vào Mạn Trà La này, tức thành nhập vào tất cả Mạn Trà La. Ở đây Quán Đảnh này thì ở tất cả Mạn Trà La được Quán Đảnh. Ở đây được ấn khả thì ở tất cả Mạn Trà La được ấn khả. Ở đây được nhập vào thì vượt qua tất cả Ma Đạo

Do thấy điều này thì giải thoát được tất cả Ma Đạo. Do nhập vào đây thì được Bất Thoái Chuyển. Ở đây được Quán Đảnh thì ở tất cả Chân Ngôn Ấn được tự tại. Do nhập vào đây thì Trì Kim Cang nhiếp thọ được lìa tất cả tội. Do nhập vào đây thì hay kham nhận được tất cả sự nghiệp.

Do nhập vào đây thì an vui với phương tiện dễ, hay thành Đại Minh Vương, lìa tất cả chướng nạn.

Do nhập vào đây, hoặc Thiện Nam Tử, hoặc Thiện Nữ Nhân hay thành tựu vô lượng Công Đức.

Thế Tôn! Con từng vì loài người tu Nhất Tự Minh Chuyển Luân Vương này, được vô lượng Bồ Tát Tam Ma Địa, được sự gia trì của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.

Thế Tôn! Con từng nghĩ nhớ vượt qua hằng hà sa số Kiếp, vào Thời ấy có Đức Phật tên là Bảo Kế Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Thế Giới tên là Diệu Tuệ, lúc đó con là người nghèo túng, dùng phương tiện bán củi để sinh sống. Con nghe thấy Đức Bảo Kế Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri ấy thành tựu vô lượng Công Đức nếu ở trước mặt Đức Như Lai phát nguyện thì Đức Như Lai đều khiến cho thành tựu. Khi ấy, con ở tại nhà tác suy nghĩ này: “Nay con thỉnh Đức Bảo Kế Như Lai, đặt bày cơm với thức ăn (phạn thực)”. (Như thế con) dậy sớm đi bán củi, mua sắm thức ăn uống rồi đi đến chỗ của Đức Thế Tôn, thỉnh Phật dùng Phạn Thực thì Đức Như Lai nhận sự thỉnh cầu. Con ở trước mặt Đức Phật Thế Tôn phát niềm tin trong sạch rộng lớn, phụng hiến thức ăn, lễ Đức Phật xong, rồi nói lời Nguyện là: “Tất cả chúng sanh, đừng để cho họ chịu sự nghèo túng

Đức Như Lai ấy biết con có Tâm tin tưởng mãnh lợi thanh tịnh, nên vì con nói là: “Thiện Nam Tử hãy giữ gìn Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương này, rộng vì Ta nói Phước lợi của Bản Giáo”. Tức Đức Thế Tôn ấy vì con nói, con vui vẻ phụng hành, con dùng đại tinh tiến siêng năng mạnh mẽ, dùng thân này được Đại Minh Vương được Vô Ngại Nghiêm Tam Ma Địa

Thế Tôn! Do Tam Ma Địa này thành tựu vô lượng trăm ngàn Trì Minh nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề

Thế Tôn! Nay con biết Như Lai Phật Đảnh này chẳng thể nghĩ bàn, như vậy trong 32 tướng Đại Nhân thì Phật Đảnh là tối thắng, như vậy trong tất cả Chân Ngôn thì Phật Đảnh Chân Ngôn này là tối thắng, như vậy trong Thế Tôn Thiên thì Đức Phật là Đại Sư vô thượng, Phật Đảnh Luân Vương như vậy là Minh Vương trong tất cả Chân Ngôn. Do rộng lớn như vậy, nên con nguyện xin Đức Thế Tôn Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì con nói Mạn Trà La (Maṇḍala)”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Ông là bậc Đại Bi, là Đại Bồ Đề Tát Đỏa. Đối với hữu tình, Thể Đại Bi sanh vô lượng Đại Bi lợi ích cho hữu tình.

Này Đại Tát Đỏa! Ông nên nghe cho kỹ! Ta lược nói Mạn Trà La là vua trong tất cả Mạn Trà La

Tất cả Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La,

Ma Hầu La Già ở trong tập hội. Nơi du hý của tất cả Phật Bồ Tát, nơi gia trì của Kim Cang Thủ Đại Bồ Tát Luân Vương Tam Muội Da, làm lợi ích của các Bồ Tát Tam Ma

Da… do trì tụng Luân Vương này

Thiện Nam Tử! Như Lai đối với các hữu tình làm lợi ích, buông bỏ thân cuối cùng được an vui, không có tự hoại, được Đại Mạn Trà La Phật Đảnh Luân Vương. Người tu hành được đầy đủ tất cả ý nguyện

Này Thiện Nam Tử! Trước tiên nên, A Xà Lê (Ācārye) ở Tâm Đại Bồ Đề bền chắc, ở Đại Nguyện quyết định, thường niệm tụng Giới bình đẳng Phạm Hạnh, đủ Đại Bi, biến ơn, đa văn, biết báo ơn, hộ giữ Cấm Giới… nên vẽ Luân Vương Mạn Trà La. Khác với điều này mà dạy bảo vẽ thị bị rơi vào nẻo ác. Kẻ ấy nên trước tiên làm sạch đất ấy, nơi có nhiều hoa quả, những nơi ở đỉnh núi, có Tòa Kim Cang, chuyển bánh xe Pháp là thắng thượng thành tựu

Nên vẽ ở Đông Bắc làm chỗ thấp hơn, đất ấy ngay ngắn bằng phẳng. Nơi chẳng chứa hang lỗ, không có gai góc, xương, lông, tóc. móng tay, vỏ mai của loài thú. Nơi lìa đá cứng, đầu lâu, cát dơ, bùn đen.

Nếu màu đất tốt với không có thứ uế ác như trên thì nên đào xuống đất, rồi lại lấp đầy nện cho chặt. Nếu đất đã bền chặt mà có đất dư tức là Thượng Xứ thì kham làm thành tựu. Nếu đất chẳng đủ thì chỗ này chẳng dùng được, nên đi tìm Thắng Xứ

Nghiệm đất xong, ở đất có tướng mạo như vậy. Ở nơi rộng lớn hợp ý, cây cối đoan nghiêm trang nghiêm. Nơi có đầy đủ Công Đức như vậy, nên vẽ Mạn Trà La. Khiến Đồng Nữ hợp dây thừng màu trắng, xe làm dây ngũ sắc, hoặc dùng tơ ngó sen chẳng đứt đoạn không có kết loại (?không có lẫn lộn thứ khác), hoặc dùng Dã Ma (cây gai dầu hoang, cây lanh hoang), hoặc dùng sợi dây chăn trâu (mục ngưu thằng), nên dùng ghép ráp đất (Bính Địa). Bắt đầu lấy sợi dây đã se hợp, dùng Tâm Chân Ngôn 108 biến, khiến Hộ Ma (Homa).

Tâm Chân Ngôn là:

“Nam ma tam mạn đa bột đà nam. A bát-ra để ha đa xả sa na nam. Úm, đát tha nghiệt đô sắt-ni sa, a na phược lô chỉ đa, một đà ni, chước yết-ra, mạt lậtđể, hồng, nhạ-phạ ra, nhạ-phạ ra, đà ca đà ca, độ na, vi độ na, đát-ra sa dã, ma la du sai ra da, ha na ha na, bạn nhạ bạn nhạ, ám ác cược cược, bát-lung, xí ni, quân tra lý ni, a bát-ra nhĩ đa, tát đát-ra, đà lý ni, hồng phát, sa-phạ ha

Đây gọi là Luân Vương Tâm. Ở trong Mạn Trà La, đem hương hoa đã để trước tiên trong Đàn, gia trì 108 biến. Ở trong Đàn hiến Át Già xong, sau đó ghép ráp tất cả màu sắc, đều dùng Tâm Chân Ngôn gia trì. Trước tiên vẽ màu trắng, tiếp đến màu đỏ, tiếp đến màu vàng, tiếp đến màu xanh lục, tiếp đến màu đen. Nhóm phấn như vậy, hoặc dùng San Hô, vàng, Ma Ni, trân châu, Phệ Lưu Ly… nên nghiền thành bột. Hoặc dùng phấn đỏ của loại lúa, mọi thứ nhuộm làm màu sắc, hòa với hương. Thứ tự của Danh Sắc như vậy. Nếu chẳng được màu như trên thì lấy đất màu đỏ, đất màu vàng, đất màu xanh lục mà dùng

_Hộ thân của mình, hộ nơi của Mạn Trà La, hộ Đệ Tử đều dùng Tâm Chân Ngôn. Tất cả nên làm, tụng trì Minh Vương Tâm Chân Ngôn nên ghép ráp Mạn Trà

La. Dùng Tùy Tâm gia trì vào nước hương, rưới vảy trên Đàn Tùy Tâm Chân Ngôn là:

“Nam mạc tam mạn đa bột đà nam. A bát-ra để ha đa xả sa na nam. Úm, a bát-ra nhĩ đa, đặc”

 

Đây gọi là Luân Vương Tùy Tâm. Dùng Chân Ngôn này mỗi mỗi gia trì vào hương hoa bôi, hoa, hương đốt, thức ăn uống, Át Già rồi phụng hiến. Liền triển chuyển, bắt đầu từ phương Y Xá Na (Đông Bắc). Ở trung ương an Yết Thứ Xa (cái bình) chứa đầy nước, các hạt giống với thuốc. Dùng lụa cột buộc cổ bình. Ở bốn góc giăng dây bên hai con đường.

Nếu sợi dây bị đứt, hoặc rối loạn, hoặc thắt gút thì dùng bơ, dùng Lục Tự Biện Sự Chân Ngôn Hộ Ma 104 biến. Chân Ngôn là:

Na mạc tam mạn đa bột đà nam, a bát-ra để ha đa xá sa na. Úm, tra-lô úm, mãn đà, sa-phạ ha

 

Tụng 108 biến liền được ngưng dứt tai nạn (tức tai)

_Nếu giăng dây không thẳng, tức Thân chẳng hài hòa, nếu dây rối loạn tức bị mê hoặc. Khi cầm sợi dây thời chẳng nên quấn lại, nếu quấn lại tức Thân bị tật bệnh. Thế nên khi giăng dây cần phải cẩn thận khiến cho nước cốt của phấn thấm rõ, tức khiến cho lối đi thô kệch, nhỏ mịn được đều. Các cây cọc ở bốn góc chẳng quá thô kệch, chẳng quá nhỏ mịn, nên ứng định phải tương xứng với Đàn. Như vậy là nhóm dây ở bốn phương, bốn cửa

Ở trung ương, an Phật Đảnh Luân Vương hoặc dùng Phật Ấn

Ở bên trái Đức Phật, an Phiền Não Bạc Pháp Luân. Lại vẽ hai Phật Đảnh Vương là Quang Tụ, Cao (Cao Phật Đảnh Vương). Cũng hai phía phải trái, an Bạch Tản Cái Phật Đảnh, Thắng (Thắng Phật Đảnh), ba Phật Đảnh, Phật Nhãn, Phật Hào Tướng, Thước Khất Để Nha. Nên an Phật Từ Hỏa Phước Đức Minh với ba Bộ Mẫu Minh là Uy Đức Minh, Tối Thắng với Thương Yết Lê. A Nan (Ānanda), Tu Bồ Đề (Subhūti), cái bát với tích trượng…. theo thứ tự vẽ hai bên phải trái của Đức Phật

Bốn cửa bên ngoài, hai bên trái phải đều nên vẽ Sứ Giả của Phật. Trong cửa Tây vẽ Vô Năng Thắng (Aparājita) kèm ở trong Giới Đạo của cửa, vẽ hai vị Long Vương Nan Đà (Nanda), Ô Ba Nan Đa (Upananda). Bốn cửa vẽ Trì Liên Hoa (Padma-dhāra), Trì Kim Cang (Vajra-dhāra)

Hai bên phải trái của Đức Phật vẽ Ma Hê Thủ La (Maheśvara) với vợ , Câu Vĩ La Thiên (Kubera), mỗi mỗi vật khí cầm nắm (trì trì), nên để ở hai bên cửa của tất cả nơi chốn (xứ môn)

Viện thứ ba nên lấy bằng nửa viện thứ hai. Ở chính giữa của Viện Thứ ba, vẽ Phạm Vương với chư Thiên, Ca Lâu La (Garuḍa), hàng Hộ Thế (Loka-pāla) với chư Thiên khác, tùy ý mà vẽ. Cũng nên vẽ quyến thuộc của Bản Tộc trong ba Bộ. Tất đầu y theo Vô Năng Thắng Đàn Nghi Quỹ (nói trong Kim Cang Khởi)

Vẽ Đàn xong. Nên lấy cái bình mới, đáy bình chẳng được đen, khiến ứng với lượng. Lấy lá A Ma La Sao cắm vào trong cái bình ấy. Lại lấy Câu Duyên Quả để ở trên miệng bình (đất này không có thì tùy theo Thời, lấy hoa quả, cành lá ngay thẳng mà dùng). Trong cái bình để đầy các vật báu với các hạt giống kèm với nước hương. Dùng lụa màu cột buộc cổ bình rồi an ở trung ương với bốn góc của Đàn. Ở cửa đều dựng cây cột phan (sát trụ), dùng hoa theo mùa (thời hoa) kết vòng hoa trang nghiêm kèm treo phướng phan. Nên để lư hương để đốt Trầm Thủy Hương, Đàn Hương.

Tức A Xà Lê ở bên cạnh Đàn, nên làm Hộ Ma (Homa), dùng Căn Bản Chân Ngôn với dùng bơ để Hộ Ma 108 biến. Sau đó Nghênh Thỉnh, dùng Minh Vương Đầu Đảnh Giáp Trụ tự gia trì thân. Đối với tất cả hữu tình, khởi Tâm Đại Bi, lại phát Tâm Bồ Đề. Lấy vật khí bằng vàng bạc, hoặc gạch ngói chứa đầy các hạt giống với hoa, hương, nước. Quỳ gối phải sát đất, kết Căn Bản Ấn

Ứng thỉnh Minh Vương thì dùng Tâm Chân Ngôn y theo thứ tự. Ứng thỉnh hàng Trời, Rồng, Dược Xoa liền dùng Minh Vương Tâm gia trì trung bình 108 biến. Sau đó lấy gỗ cây Bồ Đề (xứ này dùng cây Dạ Hợp) nhúm lửa, hòa với ba vị ngọt, dùng Đầu Vương Chân Ngôn Hộ Ma 108 biến. Tức mỗi một Chân Ngôn đều Hộ Ma 108 biến.

Đảnh Chân Ngôn là:

Nam mạc tam mạn đa bột đà nam, a bát-ra để ha đa, xá sa na nam. Úm, chước yết-ra mạt mật-để. Úm

Đầu Chân Ngôn là:

Úm, chước yết-ra mạt mật-để. Hồng phát, sa-phạ ha” (Quy mạng đồng với bên trên)

Kết Hạ Thượng Phương Giới Chân Ngôn là:

Úm, Vi chỉ ra nõa, vi đặc-phòng sa ni, ca bỉ la nhị, phạ lý ni, đát-ra sa da, phạ nhật-ra phệ xa, tát đế nao ra đặc-phạ, năng sắt tra-ra, ra khất-sa, hàm phát

(Quy mạng đồng với Đảnh Chân Ngôn)

 

Giáp Trụ Chân Ngôn (Quy mạng dựa theo lúc trước)

Úm, chước yết-ra, mạt lật-để, bát-ra xa nhị đa, ra nại-ra ra nại-ra, sa tátma, xa lô sắt-ni sa, ra khất-sa, ra khất-sa, hàm hồng phát, sa-phạ ha

 

Tường Chân Ngôn (Quy mạng dựa theo lúc trước)

Ác mạc hác

Như vậy, nói Ấn như lúc trước, tùy theo sự nghiệp nên dùng.

Tất cả Chân Ngôn Thiên Minh dùng Căn Bản Chân Ngôn an lập. Tức đối với Đức Thế Tôn, Chúng Thánh làm thực phẩm, tùy theo sức cúng dường, lễ tất cả Phật Bồ Tát, cúi năm Luân (5 vóc) sát đất. dùng bùn thơm xoa bôi bàn tay, kết Đại Tam Muội Gia Ấn là: Chắp hai tay lại giữa rỗng, các ngón đều hơi co như Phù Dung, gọi là Như Lai Tộc Tam Muội Da Ấn. sau đó mỗi mỗi tụng 108 biến, cũng tụng Tâm Chân Ngôn, nhiễu quanh Mạn Trà La, khải bạch chúng Thánh: “Con đối với điều chẳng nên làm mà làm, hết thảy lỗi vi phạm là thêm bớt Nghi Quỹ. Nguyện xin chúng Thánh bỏ lỗi cho” Như thế lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy.

Đệ Tử đã thọ nhận Giới, người đối với Pháp Chân Ngôn sanh niềm tin trong sạch, người đã phát Tâm Bồ Đề, người đối với Tam Bảo có niềm tin trong sạch. Đệ Tử có Đức như vậy thì nên khiến vào Đàn, Hạn chế người vào là tám người

Nếu muốn vào Mạn Trà La, tắm gội sạch sẽ, xoa bôi hương khắp thân, khiến lập bày lời Thề. Nếu trái ngược Tam Muội Da hoặc có sự ngu si sẽ bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián. Thiện Nam Tử, các ông thường hộ trì Tam Muội Da như vậy

Vì Đệ Tử mà nói Tam Muội Da, dùng lụa che mặt lại, kết Tam Muội Da Ấn, khiến xưng Tâm Chân Ngôn, khiến ném hoa, hoa rơi lên trên chỗ nào, tức xác định Bộ Tộc ấy. Như vậy dẫn Đệ Tử xong, mỗi mỗi vì Đệ Tử tụng Căn Bản Chân Ngôn, dùng bơ Hộ Ma 108 biến.

Như vậy làm xong, nên nói Tam Muội Da: “Các ngươi nên siêng năng tu nơi Chân Ngôn Hạnh (Mantra-caryā), chẳng nên sanh nghi ngờ nơi Đại Thừa, chẳng nên khinh rẻ tất cả chư Thiên, trong Phật Giáo chẳng nên nghi hoặc”.

Hàng Đệ Tử đối với A Xà Lê, thù thắng buông xả, bố thí, cúng dường, buông bỏ thân của mình, nên thọ nhận Chuyển Luân Vương Phật Đảnh. A Xà Lê đối với người ấy không có Tâm tiếc lẫn, Tâm chẳng thương xót, Nên dạy bảo trao truyền Ấn Khế với Chân Ngôn

Tức từ đây về sau, người thành tựu chẳng bị tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già… với tất cả hữu tình gây não hại được. Đối với Chân Ngôn Thành Tựu đều hay kham nhận, được Bất Thoái Chuyển, nhập vào địa vị của tất cả Bồ Tát, tất cả chư Thiên chẳng thể tự hoại, liền thành nhập tất cả Mạn Trà La Tam Muội Da của Thế Gian Xuất Thế Gian, tất cả chư Thiên đều biết. Thiện Nam Tử như vậy thành tựu Bồ Đề, liền được Tất Địa

(Siddhi), là nơi mà Trì Kim Cương gia trì, tùy hành an vui

Ta lược nói Nghi Tắc theo thứ tự nên làm tất cả Mạn Trà La VươngNhất Tự Đảnh Luân Vương đã xưng nói”

_Bấy giờ, Mạn Thù Thất Lợi Đồng Chân Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thế nào là A Xà Lê? Thế nào là Quán Đảnh?”

Thời, Đức Thế Tôn khen ngợi: “Lành thay! Lành thay Diệu Thanh! Lành thay Diệu Âm! Nếu có người muốn thọ nhận Quán Đảnh thì đối với A Xà Lên nên bố thí gấp đôi, nên bố thí hai sợi dây thừng, nên bố thí vật khí bằng vàng, bạc, đồng đã tôi luyện… chứa đầy các hạt giống với thuốc, hương, nước

Tức A Xà Lê đối trước Mạn Trà La, ở bốn phương xoa tô làm Mạn Trà La, dùng phấn trắng vẽ khoảng ba khuỷu tay, vẽ tòa Sư Tử an trên hoa sen, tòa ngồi của người thọ nhận Quán Đảnh. Xong rồi cầm cái lọng với cây phất, tụng tiếng Cát Khánh tán dương, gia trì 108 biến vào cái bình trong tay, khiến Đệ Tự kết Phật Đảnh Ấn an ở trên đầu

A Xà Lê tự khiến Đệ Tử rưới rót lên đảnh đầu (quán đảnh), thổi loa, đánh trống, làm các âm thanh như vị quốc vương thọ nhận Quán Đảnh.

A Xà Lê nên dùng bàn tay phải cầm bàn tay phải của Đệ Tử, dẫn vào Mạn Trà La, nơi tất cả Phật Bồ Tát phụng hiến Đệ Tử, khiến Đệ Tử thỉnh sự ấn khả nơi Phật Bồ Tát

A Xà Lê vì Đệ Tử bẩm cáo với chư Phật, nói lời như vầy: “Bạch Đức Thế Tôn! Đệ Tử do con đã Quán Đảnh xong. Từ nay trở đi, Thiện Nam Tử này dùng Tâm Bi Mẫn không có hy vọng, thương xót tất cả hữu tình, ứng vẽ tất cả Mạn Trà La của Thế Gian Xuất Thế Gian, như Thuyết nên làm tất cả Mạn Trà La Nghi Quỹ như vậy, nên gia hạnh. Người Quán Đảnh như vậy liền làm A Xà Lê, vào tất cả Đạo Bồ Đề, như vậy tu hành nơi Bồ Tát Hạnh thời được vô lượng quả báo Công Đức”

 

TIÊN HÀNH PHẨM THỨ TƯ

Bấy giờ, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, chắp tay lễ Đức Phật rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn ấn khả cho con nơi tất cả Chân Ngôn được Quán Đảnh, nơi tất cả Như Lai trì giữ bí mật. Đức Thế Tôn ở Đại Tập Hội của Bồ Tát, vì người tu Chân Ngôn Hạnh với vì can và tất cả hữu tình, thương xót lợi ích cho tất cả Đại Chúng. Nguyện xin nói Phật Đảnh Chuyển Luân Vương Giáo Phương Tiện. Hoặc có người đời sau ở đương lai được lợi ích an vui”

Thời, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Lành thay! Lành thay Bí Mật Chủ! Ông hay vì lợi ích như thế mà hỏi như vậy. Ông nên nghe cho kỹ, nay Ta sẽ nói

Này Bí Mật Chủ! Tất cả Minh Chân Ngôn Vương, Tam Muội Da, Tùy Nhập Nghi Quỹ, Quán Đảnh Nghi của Vô Chướng Ngại Như Lai Đảnh này đã nói. Nay ta ví dụ.

Bí Mật Chủ! Như Đức Như Lai đối với hữu tình ở đời, trên Trời… là bậc Thượng Thượng

Thiện Nam Tử! Chuyển Luân Vương Phật Đảnh này là tối thắng trong tất cả Chân Ngôn, là Thượng Thượng trong tất cả Chân Ngôn Vương. Như vậy Nghi Quỹ của việc trước tiên, tức thành Thành Tựu Nghi

Trước hết nên nói nghi thức vẽ tượng. Do vừa thấy tượng này, tu tất cả Chân Ngôn, nơi tất cả Giáo, kham nhận thành tựu

Do vừa thấy tượng này, giải thoát được tất cả tội, tất cả CHâ Ngôn của Thế

Gian Xuất Thế Gian đều được lưu thông

Do vừa thấy tượng này, được Trì Kim Cang nhiếp thọ

Do vừa thấy tượng này, xa lìa được tất cả Chướng, Tỳ Na Dạ Ca

Do vừa thấy tượng này thì 18 Đại Giáo Vương an vui, dễ được thành tựu

Do vừa thấy tượng này thì tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người, Phi Nhân…đều lễ kính.

Cho đến lược nói. Này Thiện Nam Tử! Do vừa thấy tượng này thì đều được thành tựu tất cả nghĩa của câu đã nói trong tất cả Minh Giáo thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian, thấy tất cả Chân Ngôn Minh Thượng Thượng của Thế Gian Xuất Thế Gian, Phật Đảnh này là Chủ Tể trong tất cả Phật Đảnh.

Nay Ta nói vẽ tượng. Đồng Nữ se bện dây chẳng được cắt xen như Dũng Sĩ mua bán với nhau (giao dịch). Thầy dệt vải (chức sư) thọ nhận Trai Giới, nên đan dệt sợi dây dài ba khuỷu tay. Trước tiên dùng Ngũ Tịnh (sữa, bơ, cao sữa với nước tiểu, phân của con bò màu vàng) tẩy rửa, sau đó dùng nước hương Chiên Đàn tẩy rửa. Xoa bôi hương trên bức vách là nơi treo tượng vẽ, hướng mặt về phương Đông, đối diện trước mặt để cái bình với đáy chẳng được đen, chứa đầy nước hương với tất cả thuốc báu, cúng dường rộng lớn tất cả Phật, Bồ Tát. Ba Thời tiêu đốt Trầm Thủy Hương.

Thầy vẽ (họa sư) ấy tin tưởng trong sạch nơi Tam Bảo, chẳng tin vị Trời khác, rất nghiêm nghị, thọ nhận tám Giới, trải cỏ để ngủ nghỉ, thân mặc áo trắng, ba thời tắm gội, ba thời thay đổi áo.

Như vậy, người vẽ (họa nhân) chẳng có phóng dật, nên vẽ Thánh Giả từ biển lớn nhảy vọt lên trên Tu Di Lô Vương do bốn báu tạo thành, ngồi trên hoa sen trắng với thân màu vàng trắng, ngồi Kiết Già chánh thọ Nhất Thiết Tam Ma Địa Tối Thắng Vương Tam Ma Địa. Từ tất cả chỗ trên thân, biến ra các bánh xe (luân) có hào quang rực rỡ.

Ở phía trên, nên vẽ ngọn núi, ngọn núi ấy do mọi loại báu hợp thành.

Người trì tụng ở bên phải Đức Phật, y theo hình sắc của người ấy (bản hình sắc) bưng lư hương, quỳ gối phải sát đất, quán nhìn khuôn mặt của Đức Như Lai.

Bên dưới nên vẽ cái ao hoa sen. Từ đảnh đầu của Đức Phật phóng ra các ánh sáng: màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng.

Liền đem tượng này an ở nơi vắng lặng, chẳng được gấp rút, yên lặng tiết chế ăn uống, y theo nhóm Chân Ngôn, Khế Kinh, Tỳ Ni… chẳng nên phóng dật, sanh Tâm thương xót tất cả hữu tình đạng chịu khổ, dùng con mắt Trí (Trí nhãn) khép nhiếp các Căn, Tâm chẳng tán động, ý thường Đẳng Dẫn (Samāhita), xa lìa tất cả lỗi lầm với ngăn chận các chướng nạn, chẳng nên ăn cá, thịt, chẳng tác ý khác, tin tưởng trong sạch nơi Tam Bảo, hiện tiền kính tin, xót thương tất cả hữu tình, phát ý nguyện Đại Bồ Đề nơi sự thành tựu, ba thời tắm gội, mặc áo sạch mới, ở nhàn tịnh không có người tại con sông lớn hoặc ngọn núi, thân miệng tâm chẳng mệt mỏi, trong tất cả thời làm cúng dường rộng lớn nơi Phật Thế Tôn, vào lúc trăng tròn thì ngày đêm chẳng ăn.

Bắt đầu từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, hoặc ăn rau, hoặc ăn Đại Mạch, hoặc đi xin thức ăn, hoặc uống nước, hoặc ăn Sa (?)… Tụng tám Lạc Xoa (80 vạn), làm Pháp Tiên Sự (việc làm đầu tiên)

_Nếu muốn thành tựu An Thiện Na. Dũng Sĩ giao dịch, mua một lạng Tảo Vĩ Lan An Thiện Na, khiến Đồng Nữ Bà La Môn dùng Ngũ Tịnh tẩy rửa, hướng mặt về phương Bắc nghiền xong, rồi dùng ngón tay phải vê thành viên (dùng nước mưa để hòa, khi vê thời dùng sáp xoa bôi mặt ngón tay, se vê làm thành viên. Nếu viên thuốc có vằn của ngón tay tức chẳng thành tựu). Làm bốn viên xong, để đầy trên lá hoa sen, phơi trong bóng mát cho khô, sau đó an trước mặt Đức Phật, y theo Nghi Quỹ Hộ Ma nhúm lửa. Làm một ngàn Tam Ba Đa (Samāpta: đã xong chỗ dùng của thời Hộ Ma)

Làm xong, liền ở nơi có tháp Xá Lợi, hoặc ở trước mặt tượng, cúng dường rộng lớn. Thiêu đốt cây Ba La Xa (Palāśa: Xích Hoa Thụ) tám ngày Hộ Ma. Xoa tô một

Mạn Trà La nhỏ, an hộ bốn phương

Ở Mạn Trà La của lớp thứ hai, dùng hạt cải trắng cảnh giác

Ở Mạn Trà La của lớp thứ ba, có bạn hoặc không có bạn, cúng dường rộng lớn, tác Chân Ngôn gia hộ

Hướng mặt về phương Đông, trải cỏ trang ngồi, an vật khí chứa thuốc trên ba lá Bồ Đề, đem bốn lá Bồ Đề che trùm lên, dùng bàn tay phải đè lên vật khí chứa thuốc, niệm tụng cho đến khi phát ra hơi ấm, khói, lửa

Nếu thành tựu địa vị ban đầu (sơ vị, tức hơi ấm), dùng chấm vào con mắt thì người nào nhìn thấy người trì tụng thảy đều kính yêu

Thành tựu địa vị thứ hai (tức phát ra khói) thì có sức mạnh chống lại ngàn con vôi, đi nhanh như gió, thọ mạng 500 năm, Giả sử được một phần mười thì các Trì Minh chẳng dám xúc phạm

Thành tựu địa vị thứ ba (tức phát ra lửa) thì thân như mặt trời mới mọc phát ra ánh sáng quý báu trang nghiêm, thọ mạng một Trung Kiếp. các loại Trì Minh khác chẳng dám khinh mạn, cao ngạo như Luân Vương nổi gió lên mà đi.

Như vậy, nơi đạt được Tất Địa (Siddhi) thuộc ba loại thành tựu của nhóm Tố Lộ, Đán Thiện Na, Thư Hoàng, Hùng Hoàng… đều giống nhau

_Lại có Pháp, nếu muốn thành tựu chày Kim Cang. Lấy cây Phích Lịch dài 16 ngón tay làm chày Kim Cang. Trong khi trăng tròn, 3 ngày 3 đêm chẳng ăn, làm cúng dường rộng lớn nơi Phật, Bồ Tát. Bày đủ chày hiến Phật, đem mọi loại thức ăn uống cúng dường Đức Phật. Sau đó đem chày Kim Cang đến chỗ Xa Ma Xa Na (Śma-śana: nơi bỏ xác người chết, nơi vắng vẻ lặng yên có mồ mả). Lấy đất ở hai bên con sông chảy về phương Đông, hòa với Ngũ Tịnh làm Tốt Đổ Ba (Stūpa: cái tháp có nhiều tầng) cao một khuỷu tay, đối trức mặt y theo Nghi Quỹ cúng dường. Lấy tro ở Xa Ma Xa Na ở trước tháp làm hình chày Kim Cang, an chày Kim Cang ở bên trên, dùng bàn tay đè lên trên, niệm tụng, cho đến khi Khất Thực (đi xin thức ăn) thời tắm gội, cầm cái chày ấy đi xin thức ăn. Được xong thì chia tức ăn cúng dường Đức Phật, sau đó tự ăn để hộ thận. Hoặc có bạn, hoặc không có bạn, dùng hai tay đè lên trên cái chày ấy, niệm tụng cho đến khi thành tựu ba loại.

Thành tựu địa vị ban đầu (sơ vị, tức hơi ấm) thời người cầm chày Kim Cương nhìn thấy ai thì đều được họ kính yêu

Thành tựu địa vị thứ hai (tức phát ra khói) thì như con trâu theo bụi mù, bay cao lên mà đi, có sức mạnh chống lại chín ngàn con voi, đi nhanh như gió. Giả sử được một phần sáu thì chỗ mong cầu đều tự tại, hay Câu Triệu, thân có ánh sáng màu nhiệm, được oai đức lớn

Thành tựu địa vị thứ ba (tức phát ra lửa) thì thân như mặt trời mới mọc phát ra ánh sáng, thọ mạng một vạn tuổi, cao ngạo như Luân Vương cầm chày Kim Cang du hành.

Như vậy, nơi thành tựu Tất Địa (Siddhi) của nhóm hoa sen, Tam Kích Xoa, Việt Phủ (cây búa)… đều giống nhau

_Lại có Pháp, muốn thành tựu ngón tay (chỉ). Trước tiên làm Pháp Tiên Sự. Lấy ngón trỏ của đứa bé chẳng đủ óc não, như Pháp lúc trước làm Tốt Đổ Ba (cái tháp), lại cúng dường rộng lớn nơi Xa Ma Xa Na (Śma-śana), trải cỏ tranh ngồi hướng mặt về phương Đông, đem ngón tay ấy hiến Phật xong, dùng bàn tay đè lên, cho đến khi phóng ánh sáng, lửa đèn sáng lên, tức như ý Kết Hộ, niệm tụng hết một đêm cho đến sáng sớm, dùng ngón tay ấy chiêu vời tức được kính yêu.

_Lại có Pháp. Ba ngày ba đêm chẳng ăn, niệm tụng. đối trước mặt Đức Phật làm Mạn Trà La, đốt đèn bơ cúng dường, trải cỏ tranh mà ngồi. Lấy sữa của bò mẹ con cùng màu với bò con, đựng đầy trong cái bình bẳng ngói, gia trì 1008 biến, dùng tro kết Đàn Giới. Sáng sớm tắm gội, tụng Chân Ngôn, quậy sữa lấy bơ sống (sanh tô) để trước mặt Đức Phật cúng dường, đốt đèn bơ, tụng Chân Ngôn, lấy bơ đã khấy, làm hình tượng người để trên bảy lá Bồ Đề, đối trước tượng gia trì niệm tụng, cho đến khi cử động thì lấy này chạm vào người khác, đều được kính yêu.

_Lại có Pháp. Như Pháp lúc trước, lấy bột của nhụy cây Long Hoa làm hình người, lấy vật khí bằng ngói thơm mà đựng, gia trì 1008 biến thì người tiếp chạm với người nghĩ nhớ đến, đều được kính yêu.

_Lại có Pháp. Dùng Pháp lúc trước, thiêu đốt cọng, mầm của Ngưu Tất làm Hộ Ma thì đều được Tài Lợi đã mong cầu

_Lại có Pháp. Ở trong chuồng bò (ngưu lan), đối trước mặt Đức Phật làm một Tốt Đổ Ba (cái tháp) cao một khuỷu tay, y theo Pháp cúng dường, đốt An Tất Hương, Hộ Ma mười vạn biến thì được một ngàn con bò.

_Lại có Pháp. Dùng Pháp lúc trước, lấy Bạch Giao Hương hòa với bơ, Hô Ma mười vạn biến thì được mười hai thôn (làng xóm) tối thắng.

_Lại có Pháp. Dùng Pháp lúc trước, lấy hoa sen, xoa bôi Đàn Hương, đem một ngàn cái hiến Phật, liền được làm Chủ một thành ấp.

_Lại có Pháp. Dùng Pháp lúc trước, đốt An Tất Hương, đem một vạn hoa Chiêm Bặc hiến Phật thì được một ngàn lạng vàng.

_Lại có Pháp. Lấy mười vạn hoa có nhụy hiến Phật thì mười tấm lụa trắng, Như vậy tất cả hoa tùy theo màu sắc mà được lụa màu

_Lại có Pháp. Lấy tro ở Xa Ma Xa Na (Śma-śana), khi trăng tròn ngày đêm không ăn, lấy Lỗ Địa La (Rudhira: máu) của ngón vô danh làm hình người kia, dùng bàn chân trái đạp lên, niệm tụng một ngàn biến kèm theo Chủng Tộc, đều được kính yêu.

Lại có Pháp, muốn cầu hôn. Lấy hoa lúa gạo hòa với bơ, mật, lạc, Hộ Ma 1008 biến, xưng tên cô gái kia, niệm tụng, tức tùy theo ước nguyện. Nếu chẳng tùy thuận thì cô gái kia sẽ chết.

_Lại có Pháp. Lấy bột gạo tẻ (cánh mễ) làm hình người, đem dầu đắng (khổ du) đổ đầy ở trái tim, lấy kim sắt mà châm, đem dầu hạt cải xoa bôi, lấy lửa ở Xa Ma Xa Na mà nướng, niệm tụng 1008 biến, khoảng một ngày liền khiến cho nam nữ kính yêu. Hai ngày thì Tỳ Xá Vương, ba ngày thì Bà La Môn đều kính yêu

_Nay Ta nói sự nghiệp chưa thành tựu. Lấy Ngưu Hoàng gia trì 7 biến rửa mặt. Nếu người nhìn thấy đều kính yêu. Nếu đem chấm lên trán, hoặc thấy người kia với ngươi kia nhìn thấy mình đều kính yêu. Ở trong đám giặc, tác ý niệm tụng thì đều được giải thoát.

Nếu người kia làm Pháp gây tổn hoại thì người tự trì Chân Ngôn, dùng hoa lúa gạo, hoa Câu Na Vệ (tên riêng của cây Giáp Trúc Đào) màu trắng, hạt cải trắng… làm hình Bản Tôn, đem bàn tay trái đè lên trên, niệm tụng một ngàn biến thì tất cả Chân Ngôn chẳng thể gây tổn hoại.

Nếu muốn trừ bệnh nóng, lạnh. Lấy hoa Sơn Nhĩ, gia tri 108 biến thiêu đốt. Giả sử bị bệnh sốt rét do Quỷ gây ra (Quỷ ngược) cũng được trừ khỏi

_Lại có Pháp. Lấy cây Khư Đà La (Khadira) Hộ Ma 108 biến thời trừ tất cả Quỷ Mỵ. Lại gia trì vào tro 7 biến, tụng Già Tha Chân Ngôn một biến xong, dùng nước rưới vảy liền giải trừ

_Lại người bị rắn cắn. Vẽ hình con rắn, cầm cây đao tụng một biến thì chặt xuống một lần, ắt con rắn đã cắn người liền đến. Xoay cây đao ấy theo bên trái tức thành phát Khiển kèm theo Quy Mạng, tụng Chân Ngôn gia thêm hai chữ Hồng (HŪṂ HŪṂ) liền cấm chỉ con rắn. Kèm theo Quy Mạng gia thêm chữ Hồng (HŪṂ) tụng Chân Ngôn tức thành giải trừ. Gia thêm hai chữ Phát Tra (PHAṬ PHAṬ) tụng Chân Ngôn, lấy ngón cái trái vẽ dưới đất thì con rắn đã cắn người liền bò đến. Bỏ chữ Phát Tra (PHAṬ) tụng 21 biến, lấy tay chạm nơi trán thì người đã bị rắn cắn liền đứng dậy, gia trì 21 biến, lấy nước rải trên đầu như bánh xe xoay chuyển, kèmm tụng Phát Tra (PHAṬ) 21 biến, lấy nước để ngay lỗ mũi gia trì rải tán bốn phương, liền đến nơi đã cư ngụ (bản cư) lấy nước, y theo lúc trước gia trì, sau đó ném xuống đất thì (con rắn) cũng đến.

Lại dùng cành Câu Na Vệ kèm tụng chữ Phát Tra (PHAṬ) đánh xuống đất thì Quỷ Mỵ kêu la, kèm theo Quy Mạng, tụng. dùng bàn tay phải tiếp chạm tức được trừ khỏi

Lại trừ bỏ Quy Mạng, tụng 21 biến. Lấy xương Ma Nô Sa (xương người) làm cây cọc, xưng tên người kia, tùy theo đất mà đóng thì Ma Nô Sa (Manuṣā: con người) liền bị bệnh do Quỷ Mỵ gây hoại loạn. Dùng tóc kết thành sợi dây cột buộc cây cọc ấy, tụng một biến rồi nhổ lên, tức được trở lại như cũ.

Lại bỏ chữ Phát Tra (PHAṬ), Lấy An Tất Hương làm thành viên rồi thiêu đốt, niệm tụng 108 biến, xưng tên kẻ kia. Hoặc loài La Nhạ (Rāja: vua chúa) tức thành Câu Triệu. Đốt Bạch Giao Hương, tụng 21 biến liền được giải trừ.

_Lại Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chân Ngôn kèm với chữ Phát Tra

(PHAṬ) viết lên vải lụa viết, hoặc ở trên vỏ cây hoa (hoa bì) rồi để trên cây phướng thì cả hai quân binh liền đứng yên. Liền đem cây phướng này dẫn đầu tức quân binh kia đều bức não chẳng yên. Bụm nước tụng 7 biến rải tán bốn phương, cầm cây phướng lui trở về liền được an ổn.

Lại muốn loại bỏ tên bắn, lấy dầu gia trì 21 biến rồi xoa bôi lên trên thì mùi tên liền rơi ra

Lại bỏ chữ Phát Tra (PHAṬ), gia trì vào nước hoặc dầu rồi cho người đàn bà khó sanh uống vào với xoa bôi, liền sanh dễ dàng

Lại gia trì vào khối đất một biến, vẽ hình kẻ kia, để đất ở trên miệng, tức cấm tài ăn nói của kẻ ấy với luận nghị được thắng. Muốn giải trừ thì kèm theo Phát Tra (PHAṬ) gia trì vào Khương Thạch rồi để ở bên trên, liền giải trừ

Lại gia trì vào hạt cải trắng 108 biến, liến thành Câu Triệu. Lấy một bụm nước, gia trì 7 biến rồi tán rải liền thành Phát Khiển.

Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương này không có chướng ngại, y theo tất cả

Giáo Tướng, nên làm Pháp

_Lại có Pháp. Làm Pháp Tiên Sự: ở bờ sông, hoặc dưới một cáy cây, hoặc ở sườn núi, hoặc bên cạnh cái ao. Hoặc có trợ bạn, hoặc không có trợ bạn. Đi xin thức ăn, lặng yên tương ứng với Tâm Từ. Ba thời nói tội, y thường cứng mạnh không có yếu hèn, Tâm thường ưa thích bố thí, tự làm Quán Đảnh, làm Gia Hộ, mặc áo giáp, kết Phương Ngung Đàn Giới, dùng Chân Ngôn gia trì vào nước rưới vảy lên áo. Tụng Chân Ngôn của nhóm: hương xoa bôi, vòng hoa, hương đốt, thức ăn uống, đèn sáng… nghênh thỉnh, phụng tống… Tất cả thời tác tụng mười vạn biến tức kết thúc

Sau khi làm Tiên Sự. Nếu phẫn nộ nhìn người khác thì kẻ ấy bị Điên Giản Quỷ làm cho cuồng loạn, thân chẳng tự tại. Nếu lại niệm tụng ngó nhìn, tức mụn nhọt trên thân bị thiêu đốt đến chết. Việc này không có ngăn ngại.

Hoặc dùng ngón trỏ chân phải bấm đất mà tụng, tức khoảng sát na, từ trên không tuôn cơn mưa lửa đốt cháy tất cả nơi chốn. Song, khởi Tâm Từ niệm tụng liền giải trừ

Như vậy giận dữ tụng thì xua đuổi quân địch, hay sanh tất cả bệnh, khiến xua đuổi giết hại làm cho khô kiệt, mê muội cuồng loạn. Hoặc bị Điên Giản Quỷ, Mỵ, Ngược Quỷ nắm giữ làm cho thân phần bị bức não. Nếu như điều này, tụng thì tất cả chẳng có gì không được thành tựu. Nếu khởi ý trong sạch, Tâm hiền từ tụng tức đều được ngưng dứt

_Lại có Pháp, nếu muốn thành tựu. Vào tháng Thần Thông (tháng giêng, tháng 5, tháng 9) ở chỗ giao hội của con sông, làm cái tháp Duyên Sanh Thai Tạng, để tượng ở trước Tháp. Hoặc uống nước, ăn Sa (?). Lấy cây Át Già tẩm bơ thiêu đốt làm Hộ Ma mười vạn biến, tức đất chấn động tận bên trong Địa Chủ ấy. Hoặc Lưu Tinh, hoặc ẩn ngay trong mây mưa, được đại phục tàng (kho tàng to lớn bị che dấu), thấy ánh sáng, Ý ưa thích chuyển y (Āśraya-parivṛtti, hay Āśraya-parāvṛtti: Ý chuyển nơi đã nương tựa), sống lâu một Kiếp, tất cả hữu tình chẳng thể tự gây hoại, làm Đại Minh Vương sáng chói tất cả phương. Nếu nhìn thấy thì hay tràn khắp, nhập vào tất cả Thành tựu Tượng Pháp này, chẳng nên thiếu chí mạnh mẽ, chẳng nên thiếu Tuệ, không có Tâm Bi, chẳng nên tạp uế, chẳng gom chứa Tư Lương (Sambhāra), chẳng nên khinh hủy Tôn Sư, nói lời thô ác, Tâm tán động lừa dối với chẳng thấy Mạn Trà La,người bận bịu với việc kinh doanh buôn bán, hy vọng có việc để làm… Nếu có người lìa thứ ác như vậy… thì chẳng lâu sẽ thành tựu Công Đức như vậy. Nếu người làm khác với việc như lúc trước tức bị điên cuồng, chẳng thành tựu

_Lại có Pháp. Nếu muốn (giáng phục) Ma La (Mārā: loài Ma), kẻ hủy báng Bồ Tát Tạng với phát Tâm Bồ Đề gia hạnh, người chê bai Phật Pháp… Ở trước Tượng, hoặc trước đầu lâu người, nghiền đầu lâu thành bột làm hình của người ấy. Hướng mặt về phương Bắc, ở Xa Ma Xa Na (Śma-śana) hoặc ở sông, hoặc ở ao… yên lặng đi xin thức ăn. Dùng sự giận dữ đem chân trái đạp lên hình kẻ ấy, đem ngón út gạt ra, tụng 7 ngày, một ngày ba thời thì kẻ kia liền bị sốt rét nặng, khắp thân nổi mụn nhọt đến chết, chịu sự đau buốt, liền thấy Cật Lý Đa như lóng ngón cái bốc lửa mạnh mẽ, như nhóm ánh sáng vàng ròng. Đem ngón tay Kỳ Khắc làm thế muốn ăn nuốt, dùng âm thanh báo khắp các phương: “Người kia (tên là…) sai ta đến hại ngươi”. Khi nói lời như vậy thì kẻ kia nhìn thấy xong, liền học máu mà chết

Nếu đối với Phật Pháp sanh niềm tin trong sạch, tức ngưng dứt sự phẫn nộ, Nếu ngưng dứt phẫn nộ tức sanh Tâm hiền từ (Từ Tâm). Tức người Trì Minh gấp rút dùng nước thơm rưới tắm tượng Phật, niệm tụng khởi Tâm Từ, trong phút chốc dùng nước rưới vảy thì sự đau buốt vì bị thiêu đốt kia đều được ngưng dứt, lại được như cũ

Thiện Nam Tử! Bồ Tát dùng phương tiện nên làm đối với kẻ gây tổn hại cho Tam Bảo

_Lại có Pháp. Làm Pháp Tiên Sự, suy nghĩ lợi ích cho tất cả hữu tình, lìa sự dính mắc, không có sợ hãi, chẳng yếu hèn, Tâm cứng mạnh chẳng hèn kém, trì giữ tám Giới, được Quán Đảnh, biết Tam Muội Da, thường nên nhớ đến Như Lai với Bồ Tát, Thanh Văn. Nói tội, tùy vui, an tượng ở Xa Ma Xa Na (Śma-śana), thân mặc áo đỏ, dùng hoa ở Xa Ma Xa Na trang nghiêm thân với cái đầu, lại ăn thức ăn ở Xa Ma Xa Na, trụ niệm không có hạn kỳ, niệm tụng, chẳng mất niệm, Nghi Quỹ của nhóm: Hộ Phương Ngung, Giáp Trụ, Tường…như vậy niệm tụng

Bảy ngày đầu, thấy hình ác đáng sợ, lòi răng nanh, tóc dựng đứng rực lửa. Hoặc có một chân, hai chân, ba chân, hai tay, ba tay, bốn tay, hoặc tám tay. Hoặc có hai đầu, ba đầu, bốn đầu… Tức người Trì Minh giận dữ tụng thì lúc ấy như luồng gió lớn thổi đám mây tan tác bốn phương, liền khởi Tâm Từ

Bảy ngày thứ hai, liền có người nữ hiện ra: dáng dấp rất ưa thích, đoan chánh, Anh Lạc trang nghiêm… hiện bày hình sắc đáng yêu. Nhìn thấy xong, liền niệm tụng khởi Tâm Từ, tác Bất Tịnh Quán, liền diệt mất chẳng hiện

Bảy ngày thứ ba, liền thấy Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka). La Sát có hình ác… yên lặng đi đến. Đến rồi thì nói rằng: “Bảo ta làm điều gì?”. Người tu hành nói là: “Làm phụng Giáo” tức liền làm Sứ Giả, sai khiến làm gì, đều y lời dạy làm xong. Nếu Ma tác Tâm phẫn nộ nhìn người tu hành, tức bị hoại diệt.

_Phàm người làm Tiên Sự. Hoặc ở bên sông, hoặc ở bên ao hoa sen, hoặc ở dưới một cái cây, hoặc ở vườn hoa lớn… mà làm.

 

NHẤT TỰ KỲ ĐẶC PHẬT ĐẢNH KINH _QUYỂN THƯỢNG (Hết)_


QUYỂN TRUNG

THÀNH TỰU TỲ NA DẠ CA PHẨM THỨ NĂM

Ở cái bình phong an tượng Phật, khởi Tâm thương xót tất cả hữu tình. Chọn tháng Thần Thông (tháng 1, tháng 5, tháng 9) ba thời tắm gội, ba thời thay áo, một thời tụng riêng 1008 biến, cho đến tròn đủ tháng, vào ngày cuối kỳ thì ngày đêm chẳng ăn, làm một y Tăng Già Lê (Saṃghātī: áo có chín Điều). Lấy lụa trắng giặt tẩy cho sạch rồi nhuộm màu, khéo may vá ứng với lượng. Dùng tất cả hương xoa bôi, đem bùn hương xoa tô một cái Đàn, để Cà Sa (Kaṣāya) trong Đàn, thắp 1008 chén đèn bơ. Toàn thân làm lễ với tất cả Phật, Bồ Tát rồi nói lời này: “Con thực hành Bồ Tát Hạnh”. Phát Tâm như vậy, ngồi Kiết Già, đưa tay trái đè lên Cà Sa, niệm tụng cho đến khi thân bay lên hư không như mặt trời mới mọc, lễ tất cả Phật Bồ Tát, xưng tên của Nhất Tự Đảnh Luân Vương. Vừa mới xưng tên liền được sức không có ai vượt hơn được (vô siêu thắng lực), đi đến chỗ của Kim Cang Thủ Bồ Tát. Tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà v.v… đều làm lễ, nói lời này: “Chúng tôi làm được việc gì?”. Nếu ném áo Tăng Già Lê thì các nhóm ấy đều té xuống đất, lại dùng Tâm khiến cho đứng dậy.

_Lại có Pháp. Làm Pháp Tiên Sự (việc làm trước tiên): Ở ngọn núi, hoặc bên cạnh ao, hoặc các chỗ khác. Ăn rau, lúa tẻ hoặc uống sữa hoặc đi xin ăn… lễ Phật nói tội, làm Công Đức tùy hỷ, tụng hai mươi lạc xoa thì hết thảy chỗ đã làm đều được thành tựu.

_Lại có Pháp. Muốn khiến cấm chỉ, giết hại khiến cho kẻ kia hôn mê, cấm khí trượng. Vẽ bốn Ấn Mạn Trà La, hoặc vẽ Liên Hoa Quang Quảng Đại Mạn Trà La, tùy theo sức cúng dường thức ăn uống. Ở chỗ của Nhất Kế La Sát Tôn (Eka-jaṭārākṣasa) đối trước cửa làm cái phan màu xanh

Cây phan ấy làm ba cái cọc hình chày Kim Cang. Ở bên trên phan dùng Lỗ Địa La (Rudhira: máu) của mình vẽ chày Kim Cang ba chia (tam cổ Kim Cang Chử), ở giữa vẽ Nhất Tự Đảnh Luân Chân Ngôn kèm vẽ hình dạng của Luân Vương rồi treo trên cây trúc. Bên dưới cây cây trúc, lấy bột đầu lâu làm cái Đàn như hình chày Kim Cang, ở giữa làm lò Hộ Ma, bốn bên lò có chày Kim Cang một chia (Độc Cổ Kim Cang Chử) nối tiếp vây quanh. Dùng cây Át Già nhóm lửa, lấy xương Ma Nô Sa (xương người) với Lỗ Địa La (máu) kèm với thuốc độc hòa chung với nhau rồi gia trì, mỗi biến mỗi thiêu đốt, cho đến 108 biến. Đối trước quân trận, tức quân chúng kia như bị mù, mê loạn… tất cả khí trượng trên tay đều bị rơi xuống, đều bị cấm chỉ.

Muốn khiến quân địch bị té ngã thời khiến người làm thuốc lấy máu ở năm chi của con người, bỏ vào lò làm Hộ Ma ắt trong chớp mắt quân kia ngã tùy ý cột trói, nếu muốn khiến tức tai. Lấy bơ, mật hòa long hoa hộ ma, tức được an lạc.

_Lại có Pháp, muối phá tan quân địch. Niệm tụng khiến cho quân ấy đến gần thời hoặc làm Mạn Trà La lúc trước với cây phan ấy, ở trước quân ấy, lõa thể tán phát, kết Bị Giáp với Tường Ấn, ba thời đều tụng 108 biến, thiêu đốt thịt Ma Nô Sa (thịt người) với Lỗ Địa La (máu) hòa với thuốc độc Hộ Ma. Ban đêm, Hành Giả nằm trên tấm da bò để ngủ hoặc tùy ý ngủ

Làm như vậy xong, giả sử quân kia được Câu Ma La Thiên, Phạm Thiên, Ma Hê Thủ La, Đế Thích gia hộ doanh trại ấy thì trong bảy ngày nhất định phản lại, đánh lẫn nhau, bỏ chạy, tâm sanh khổ não, không thể thấy nhau. Cho đến trong khoảng mười lăm ngày các quân kia đều bị cột trói, không một ai có thể cử động…Chẳng y thero Nghi Quỹ, giận dữ ở trước quân trận, tùy ý làm Pháp, hoặc y các Giáo khác làm Hộ Ma đều được thành tựu.

_Lại có Pháp. Lấy Sanh Ngưu Tô làm hình Ma Ni, ở trước tượng dùng diệu hương hoa rải tán trên Đàn, lấy ba lá Bồ Đề để Tô châu (hạt ngọc bằng bơ) niệm tụng, cho đến khi ấm áp, lấy nuốt vào không cho đụng vào răng. Vừa mới ăn xong, dùng Tâm suy nghĩ thì tất cả đều phát sanh, sức mạnh chống lại một ngàn Trượng Phu (Puruṣa), tùy ý muốn hiện các thân sống lâu một kiếp. Vừa mới xưng chữ Hồng (HŪṂ) thì núi non thành ấp, miếu Trời đều bị hư hoại, tùy chỗ có vật Hộ Ma, trong trăm do tuần xưng tên người kia với La Nạ Tất Đế Lợi đều bị câu móc.

_Lại có Pháp nghiệm biết Phục Tàng (kho tàng bị che lấp). Lấy Ngưu Hoàng, bơ, mỡ rắn, Hùng Hoàng, vỏ cây Át Ca làm cây đuốc, lại gần chỗ cách phục tàng khoảng một khuỷu tay, đốt đuốc gia trì 21 biến, quay cây đuốc tùy theo lửa lớn nhỏ thì biết phục tàng cũng như vậy. Nếu có chướng nạn, cũng dùng Chân Ngôn này che chở phòng bị.

_Lại có Pháp. Ở nơi thanh nhàn, chốn A Lan Nhã (Araṇya), an tượng Phật ở trước Tốt Đổ Ba (cái tháp), ba thời tắm gội, ba thời thay áo, ba thời mỗi thời tụng riêng 1008 biến. Bắt đầu từ đầu ngày cho đến lúc trăng tròn, suốt ngày đêm trong ngày ấy không ăn, dùng hoa Tô Mạt Na ở trước Tượng làm cái trướng, dùng mọi loại hương xoa bôi, vòng hoa, hương đốt… cúng dường, thắp 108 chén đèn bơ với mọi thức ăn uống… hiến Phật. Ngồi Kiết Già, có trợ bạn hoặc không có bạn, khởi Tâm Đại Từ Bi, đủ đại tinh tấn, niệm tụng cho đến khi nhìn thấy (tương kiến): mây, âm thanh, cành phan, vòng hoa trong Đạo Tràng lay động, đèn lửa sáng hơn, từ tượng Phật phóng ánh sáng, tượng cử động… Nếu thấy các tướng như vậy thì hết thảy điều mong muốn đều được thành tựu.

_Tiếp theo, nói nói Thành Tựu tối thắng, vào Đại A La Nhã (Mahā-araṇya) hoặc bên bờ sông lớn làm vô úy. An tượng Phật ở chỗ ấy, luôn định ý, ăn củ và trái cây, tụng 21 lạc xoa biến, niệm tụng xong tùy sức làm cúng dường. Để Ngưu Hoàng trên lá sen làm Tam Ba Đa Hộ Ma (Samāpta-homa: Hộ Ma thành tựu) xong, ngồi Kiết Già, an ở trong lòng hai bàn tay, niệm tụng cho đến khi ba tướng hiện ra:

Nếu ấm áp thì Chuyển Luân Thành Vương càn tác kính yêu, huống chi là sợ Hữu Tình khác, được sống thọ ngàn năm

Nếu bốc khói thì làm vua tối thắng trong An Đạt Đà Na thành tựu, một ngày đi ngàn dặm rồi quay lại. Đối với An Đạt Đà Na trong tất cả thành tựu, Tâm nghĩ sanh tất cả thức ăn uống, làm tất cả Thần Biến, ở An Đạt Đà Na bên cạnh Đế Thích thì làm sao còn sợ các hữu tình khác, thân có ánh sáng màu nhiệm, thọ mạng một ngàn câu chi tuổi

Nếu bốc lửa, vừa mới xoa bôi thân thì tự nhiên tóc trở thành màu lưu ly xanh biếc, thân như màu mặt trời mới mọc, có 28 tướng khó nhìn ngắm, điều phục kẻ khó điều phục, tùy theo ý muốn hiện thân ý mau chóng. Tất cả hàng Phạm Thiên chẳng thể gây tổn hại không có nghi, thân tỏa hào quang chiếu sáng trong chu vi một do tuần, được Thần Thông Cảnh Trí, sống lâu một Đại kiếp, có vô lượng trăm ngàn Trì Minh dùng làm quyến thuộc, có Đại Oai Đức. Chiến đấu với hàng Trời, A Tu La được Vô Năng Thắng. Đến chỗ Đế Thích thì được Đế Thích chia cho nửa tòa ngồi, được Bồ Tát ban cho vị trí ngang bằng, thừa sự vô lượng chư Phật, Tâm không có ham muốn (dục) khuynh đảo vô lượng cõi Phật, cho đến tùy theo thứ tự được Bồ Tát Địa (Bodhi-satvabhūmi)

_Lại có Pháp. Lại nói Pháp Tối Thắng Thành Tựu khác, làm Pháp Tiên Sự xong, dựng lập Mạn Trà La, theo Thầy được Quán Đảnh, trì tám Giới, thành tựu Tam Quy, phát Tâm Bồ Đề làm thành tựu. Ở nhà trống hoặc núi, nơi hoang vắng, hoặc ngưu lan (chuồng bò)… nơi đây có các loại đất, nước xa bùn dơ hôi thối. Ở nơi thành tựu lúc trước, đào đất sâu đến đầu gối, loại bỏ ngói, gạch, than, đá… dùng Nhất Tự Đảnh Luân Tâm Chân Ngôn gia trì vào nước, rưới vảy nơi ấy, liền lấy hương, đất khác lấp đầy chỗ đã đào, làm Duyên Khởi Tạng Tốt Đổ Ba (cái tháp Duyên Khởi Tạng) rồi an tượng

Ở trước chỗ ấy, ban đêm tắm gội thay sạch mới. Đem hương xoa bôi, hoa, hương đốt tác Khải Thỉnh… Tất cả nhóm Tịch Trừ dùng Nhất Tự Luân Tâm tụng 30 lạc xoa, đủ số rồi dùng ba thứ sắt thép làm chày Kim Cang, bảo người thợ đúc thọ tám Giới, làm một ngàn Tam Ba Đa Hộ Ma xong. Vào ngày 4, ngày 14 của kỳ Hắc Nguyệt lấy hạt cải trắng đựng đầy trong cái chén sành để ở chỗ ấy, ngồi trên tòa cỏ tranh, làm Nghi Quỹ Cúng Dường, tất cả thức ăn uống mà ý ưa thích đều phụng hiến, lấy tay đè lên chày Kim Cang, niệm tụng cho đến khi tỏa lửa sáng. Vừa mới tỏa ánh sáng xong đều cùng với quyến thuộc hiện ở hư không, sắc tướng như Kim Cang Thủ, hay điều phục kẻ khó điều phục, trong các thành tựu là hơn hết. Tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ xoa, đều làm lễ, chẳng tránh né Đạo, được ánh sáng chiếu vào thân vượtt qua mười cõi nước Phật, dạo chơi vô lượng Thế Giới, cùng ngàn quyến thuộc sống lâu một Đại Kiếp, khi chết sanh vào cung của Kim Cang Thủ.

_Lại có Pháp. Vì người bệnh gia trì vào nước 7 biến rồi đem cho họ uống, liền được khỏi bệnh. Nếu bị Mỵ gây bệnh, dùng hạt cải trắng Hộ Ma thì nhóm mỵ ấy đều chạy tan

_Lại có Pháp. Ở bên bờ biển, an tượng Bản Tôn, y theo Nghi Quỹ, tụng một lạc xoa thì Sa Già La Long Vương (Sāgara-nāga-rāja: Hải Long Vương) khiến vào cung của mình, ở trong ấy cầu báu Như Ý, được tùy theo sự ưa muốn, biến hiện thân, tự ý đi lại.

_Lại có Pháp. An tượng Bản Tôn ở hang A Tu La, tụng một lạc xoa thì A Tu La nữ hiện ra dẫn Hành Giả vào. Vào xong,cầu thuốc sống lâu của A Tu La đều được hoặc trụ ở trong đó.

Ở một Tốt Đổ ba (cái tháp) đi xin ăn, làm Pháp Tiên Sự, tụng mười vạn biến xong rồi, vào ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, ngày đêm không ăn, tùy sức cúng dường thức ăn uống, niệm tụng cho đến khi bóng ảnh của mình ẩn đi, được sức không ai hơn, sống lâu một vạn năm. Nếu đầu tiên chẳng thành tựu, lại làm pháp Tiên Sự sau đó nên cầu thành tựu, đến lần thứ tám, giả sử người có tội Vô Gián cũng được thành tựu.

_Lại có Pháp. Dùng vòng hoa đỏ, mặc áo đỏ, tay cầm Khư Tra Võng Ca (Khaṭvaṅga: cây gậy đầu lâu), lấy 7 gò kiến ở Xa Ma Xa Na (Śma-śana: nơi bỏ xác người chết) làm Tốt Đổ Ba (cái tháp) lượng như khuỷu tay của Đức Như Lai, an Duyên Khởi Kệ đối trước mặt, uống sữa ăn cơm hoặc đi xin ăn. Ở trước tháp, yên lặng tụng một lạc xoa, thì nơi đó hiện ra mọi loại dạng ác đáng sợ, ắt không nên sợ hãi. Vào ngày 14 của kỳ Hắc Nguyệt, ngày đêm không ăn, cúng dường rộng lớn nơi Tốt Đổ Ba, đều bố thí thức ăn cho tất cả Quỷ Thần. Dùng hương, hoa, hương đốt… cúng dường Khư Tra Võng Ca (Khaṭvaṅga: cây gậy đầu lâu), mặc giáp trụ, Giới của nhóm Tường (Tường Giới…) ngồi Kiết Già niệm tụng cho đến khi Khư Tra Võng Ca phát ra ánh sáng, tức Khư Tra Võng Ca thành tựu, liền cầm lấy, ở Hiền Chúng được kính yêu, các vị kia đều tuân phụng Khư Tra Võng Ca ấy. Ở nơi khác, ban đêm đem cắm xuống đất tại nơi không người thì tự nhiên thành cung điện với, tất cả báu trang nghiêm, Thiên Nữ thừa sự, Trượng Phu làm theo lời dạy bảo, có một ngàn quyến thuộc, tất cả yêu thích, sống lâu năm ngàn năm… khi nhổ (Khư Tra Võng Ca) lên thì biến mất

_Lại có Pháp. Lấy sắt Bổ Sa làm bánh xe (Cakra: luân) lượng nhỏ bé bén nhọn, có mười hai cây căm. Làm Pháp Tiên Sự xong. Ở bên bờ sông, đảnh núi, nơi có tháp Xá Lợi… an tượng Bản Tôn, tùy theo thứ tự cúng dường như lúc trước. Dùng nhóm hương màu xanh cúng dường bánh xe, bố thí thức ăn cho các Quỷ Thần khác. Ngồi Kiết Già, hai tay cầm bánh xe, từ hoàng hôn bắt đầu niệm tụng cho đến khi có tướng hiện ra, có gió thơm nổi lên trong không trung nghe tiếng ha ha, cát lị cát lị, tất cả núi đều chấn động, tất cả biển bị kích động… không nên sợ hãi, sau lại niệm tụng làm một quang tụ (đống ánh sáng) vây quanh người trì tụng. Người ấy cầm bánh xe, trong nháy mắt liền đến cõi Trời A Ca Ni Tra (Sắc Cứu Cánh Thiên) cùng ngang bằng với Bồ Tát, sống lâu một Đại Kiếp. Ở Trung Kiếp thấy Đức Phật ra đời, tức từ đây về sau theo thứ tự vượt lên Bồ Tát Địa, khi thân tan hoại thì sanh vào cung điện của Trì Kim Cang.

Nếu ở nơi không có tháp Xá Lợi, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chân ngôn với nơi chẳng thanh tịnh, không có mưa. Tại sao vậy? Vì nạn vua chúa nổi lên, chẳng phải là chỗ niệm tụng, cho nên thân bị tật bệnh, có tai nạn lớn.

_Lại có Pháp: nói thành tựu cây kiếm. Lấy sắt Bố Sa làm cây kiếm, người đúc kiếm chẳng thiếu các Căn làm cây kiếm khoảng một khuỷu tay, không có bạn chí dũng mãnh bền chắc hoặc có bạn, làm Pháp Tiên Sự ở trên đảnh núi, làm Tốt Đổ Ba Duyên Khởi Tạng, làm cúng dường rộng lớn, phát Tâm Bồ Đề lợi ích tất cả hữu tình đối trước Tháp tỏ bày (phát lộ) v.v… tùy hỷ tất cả Công Đức, ngồi trên chiếu cỏ tranh tròn, dùng tay phải cầm cây kiếm, bắt đầu từ hoàng hôn cho đến sáng, lúc tướng hiện ra thời tay huy động ánh sáng như sao băng (lưu tinh) có đến cả ngàn đường sáng. Ánh sáng ấy chiếu sáng người Trì Minh, lúc đó Đại Trì Minh Vương đều lại quán đảnh, Hành Giả ấy cùng quyến thuộc đều đi trong hư không, trong khoảng sát na dạo chơi cõi này, đi không có ngăn ngại, chiếu sáng bên trong năm Do Tuần.

_Lại có Pháp: nói thành tựu Hiền Bình. Do Bồ Tát thành tựu điều này thì hay dứt hết thảy sự đói khát khổ não của hữu tình. Ở chỗ có tháp Xá Lợi, đi xin ăn thật nghiêm nghị, an tượng Bản Tôn yên lặng trải cỏ tranh để nghỉ ngơi, y theo Kinh Trì Minh nói điều cấm kị khéo léo, niệm tụng một năm. Vào kỳ Bạch Nguyệt, Hắc Nguyệt… ba ngày ba đêm không ăn, làm cúng dường rộng lớn nơi tượng, lấy Ca La Sa (Kalaśa: cái bình) có đáy không đen, đổ đầy các loại hạt giống, các vật báu, thuốc… đối trước tượng, ngồi Kiết Già, dùng tay phải đè lên miệng bình, niệm tụng, cho đến khi tất cả vật ở bên trong phát ra tiếng Yết Nõa Yết Nõa. Lại niệm tụng cho đến khi các vật lại hiện ra. Cái bình ấy tác tiếng Yết Nõa Yết Nỏa thì nên biết được thành tựu. Liền ở chỗ của cái này suy nghĩ voi, ngựa, xe cộ, báu Chân Đa Ma Ni với các vật, Tất Để Lợi… tức trong bình sinh ra, tùy ý lấy thuốc ban cho tất cả hữu tình.

_Lại có Pháp. Chỗ kia có Dược Xoa nữ hiện ra nơi ứng nghiệm. Làm Pháp Tiên Sự xong, ở chỗ ấy niệm tụng, xoa tô một Mạn Trà La nhỏ. Dng cây Khư Đà La (Khadira) nhúm lửa ba đêm xong, lấy hạt cải trắng Hộ Ma 1008 biến thì Dược Xoa Nữ liền đi đến tùy theo ý bảo Dược Xoa Nữ rằng: “Cho ta thuốc trường niên”. Được thuốc xong, uống vào thì sống lâu một kiếp. Nếu (Dược Xoa Nữ) chẳng đến thì lấy hạt cải trắng hòa với Lỗ Địa La (Rudhira: máu) của mình, thiêu đót 1008 biến, tác tiếng ha ha, tức đi đến. Trước tiên chẳng nên làm, nếu làm thì Dược Xoa Nữ kia bị tổn hoại.

_Lại có Pháp. Uống sữa, ăn lúa mạch, an tượng Bản Tôn ở chỗ có tháp Xá Lợi,tụng niệm một năm. Vào ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, liền cúng dường thức ăn uốn nơi Phật Thế Tôn, y theo Nghi Quỹ phụng hiến, đối trước tượng nhúm lửa, đốt gỗ của cây Ni Cồ Đà, ba vị ngọt… thiêu đốt 1008 biến thì Câu Vĩ La Dược Xoa (Kuberayakṣa) đều đến, chẳng nên sợ hãi. Đem nước hương đã để lúc trước, hiến Át Già thì hành Dược Xoa ấy nói rằng: “Tôn giả có việc gì mà hô gọi chúng tôi?”. Hành Giả liền bảo rằng: “Hãy làm Phụng Giáo cho ta”. Làm điều đó xong thì ẩn mất không hiện ra. Tức được thành tựu chúng Dược Xoa, đều ban cho sự ưa thích mong cầu, cầu thuốc Trường Niên màu nhiệm của cõi Trời đều được, cấp cho trăm ngàn quyến thuộc đủ thức ăn uống có sáu mùi vị, chỗ mong cầu đều được.

_Lại có Pháp. Muốn khiến Phạm Vương, Tỳ Nữu, Ma Hê Thủ La kính yêu. Ở kỳ Hắc Nguyệt, đối trước tượng Bản Tôn, dùng than không có khói, lấy viên An Tất Hương ba thời hòa với bơ Hộ Ma một ngàn biến thì nữa đêm đều đi đến tùy theo sự muốn thỉnh, cầu thuốc Trường Niên với điều mong cầu… đều được.

_Lại có Pháp khiến cho La Nhạ (Rāja: vua chúa) kính yêu. Ở trước tượng Bản Tôn, lấy Nhũ Mộc nhúm lửa, đem hạt cải trắng hòa với ba vị ngọt Hộ Ma 1008 biến, bảy ngày ba thời thì vị chủ của bốn châu hai đi đến kính yêu

_Lại có Pháp muốn cho loại La Nhạ (Rāja: vua chúa) kính yêu. Lấy cây Át Già nhúm lửa, 7 ngày 3 thời, dùng Xích Giới Tử (hạt cải đỏ) Hộ Ma

_Lại có Pháp khiến cho tất cả Quỷ Thần kính yêu. Lấy muối hòa với Lỗ Địa La (máu) Hộ Ma liền được.

Chỗ kia là nơi có Phạm, La Sát và các loại Quỷ Thần cư trú. Đến chỗ ấy, trụ Cấm Giới, tụng mười vạn biến…liền được đại phục tàng, hoặc hay khiến xua đuổi kẻ khác.

_Lại có Pháp, chẳng lựa chọn ngày sao Tú trực (Nhật Tú) cũng chẳng Trai Giới, Trước hết, làm Pháp Tiên Sự, lấy Một Lật Đa Ma Nô Sa (Mṛta-manuṣa: người chết) chưa bị hư hoại, tắm rửa sạch sẽ, trang nghiêm, an Ma Nô Sa ở trong Xa Ma Xa Na (Śma-śana) hướng đầu về phương Đông, Hành Nhân ngồi đối diện, dùng cây cọc Khư Đà La cột buộc, bố thí thức ăn cho Quỷ Thần, bốn phương đều để cây kiếm hộ trì, Hành Giả ngồi trên trái tim của Ma Nô Sa, lấy bột sắt gia trì rồi bỏ vào trong miệng (xác chết), cho đến khi lè lưỡi ra thì mau chóng cầm cây đao bén bén cắt lấy, tức thành cây kiếm màu hoa sen xanh. Do cầm cây kiếm này cùng quyến thuộc đi trong hư không, tất cả Trì Minh không thể tự hoại, làm vua ở trong tất cả Trì Minh, sống lâu một đại kiếp, khi thân hoại thì sanh vào cõi Trời.

“Ngọn Kế La (Kế La phong) đẹp ý

Ngọn Man (Man phong) đủ đoan nghiêm

Ở đỉnh ngọn núi vàng (Kim phong)

Nơi người thành tựu

Ngọn lớn (đại phong) của Di Lô (Meru: Tu Di)

Nơi sen xanh, đỏ đẹp

Núi Tần Đà ưa thích

Hang báu Kim Cang Đế

Núi Viên Hội đẹp ý

Chốn Ma Lại Tiên Sơn

Với ở núi Đại Đế

Núi Tuyết với Hương Chủy

Nơi đẹp ý như vậy

Nhàn tĩnh đầy an lạc

Trì Minh Nữ cùng với

Nhạc Thiên Nữ ca vịnh

Cùng Thiên Nữ dạo chơi

Vui đùa thật tối thắng

Người Trì Minh du hành

Như Đế Thích (Indra), Xá Chi (Śaci:vợ của Đế Thích)

Không người đối địch nổi

Được nẻo không ngại ấy

Lưu chuyển khắp mọi nơi

Đủ Công Đức như vậy

Trì Minh thường du hành

Nếu tu Chân Ngôn Minh, hoặc chẳng thành tựu thì cùng với Nhất Tự Đảnh Luân này tụng chung với nhau, đối trước tượng Phật cúng dường Đức Phật, niệm tụng, liền ở trước tượng ngủ nghĩ, ở trong mộng thấy Chân Ngôn thêm bớt, khiến cho Chân Ngônđầy đủ. Đối trước tượng đốt củi Nhũ Mộc, dùng bơ Hộ Ma 1008 biến thì Bản Tôn ấy tức thành tựu, Pháp này đến lần thứ bảy mời được dùng, nếu chẳng như thế tức bị hoại.

Pháp, muốn làm A Tỳ Già Lỗ (Abhicāruka: Hàng phục), đến chỗ Xa Ma Xa Na (Śama-śana) dùng cậy củi ở Xa Ma Xa Na nhóm lửa, lấy tro thiêu đốt xác chết Hộ Ma 1008 biến trên thì Đế Thích còn phải từ chỗ ở của mình di chuyển đến

_Lại có Pháp, muốn khiến loại La Nhạ (Rāja:vua chúa ), Ma La (Māra: loài Ma). Mặc áo ướt dùng bàn chân đạp trên (tượng Oan Gia), ngâm nga tụng Nhất Tự Đảnh Luân cho đến khi áo khô, như vậy thân của oan gia liền bị khô héo.

_Lại có Pháp. Lấy Khương Thạch mỗi mỗi gia trì. Đối trước thành với thôn ấp, trụ đó bảy đêm, qua bảy đêm vì Đại Ma Lê lại khiến Tức Tai. Ở trước tượng lấy sữa Hộ Ma 1008 biến, dùng nước thơm gia trì 108 biến, rưới vảy bốn phương của cái thành với thôn ấp kia, liền được ngưng dứt (tai nạn).

_Lại có Pháp. Nếu có người tổn hoại Tam Bảo mà muốn khiến cho họ điều phục thì trụ phương tiện khéo léo, vì kẻ ấy đi đến Xa Ma Xa Na, dùng tro thiêu đốt xác chết làm hình của người ấy. Hành Nhân trần truồng, xỏa tóc y theo Nghi A Tỳ Già Lỗ Ca, tụng Nhất Tự Đảnh Luân 1008 biến, thì kẻ kia liền bị La Sát nắm giữ. Trừ thân của mình ra, người trì tụng khác chẳng thể giải được. Đây là phương tiện khéo của Bồ Tát, người có chủng Tính của Bồ Tát mới nên làm

_Lại có Pháp. Lấy lửa trong nhà Chiên Đà La, đi đến Xa Ma Xa Na, lấy cây trong đó mà đốt lửa. Lấy Khổ Hồ Tử xưng tên người kia hoặc nghĩ nhớ đến, Hộ Ma 1008 biến, tức kẻ kia bị bệnh sốt rét nặng. Muốn khiến giải trừ, đối trước tượng, tắm rửa tượng Phật, tụng Chân Ngôn, lấy nước tắm rửa tượng rải trên thân kẻ ấy.

_Lại có Pháp. Muốn khiến tồi diệt, lấy xương Ma Nô Sa (xương người) dài tám ngón tay làm cây cọc, gia trì 1008 biến rồng đóng dưới cửa nhà oan gia, ắt tất cả tài vật đều tan hết. Lấy cây cọc ra, liền giải trừ.

_Lại có Pháp. Ở Xa Ma Xa Na thiêu đốt tử khoáng hòa với Lỗ Địa La (máu) Hộ Ma 1008 biến, kẻ kia liền ngưng dứt.

_Lại có Pháp, nếu muốn quán đảnh cho ta người. Lấy bốn cái bình có đáy không đen, lấy nước trong dòng sông, đựng đầy tất cả vật với hương kèm với hạt giống rồi an trong cái bình ấy, gia trì 1008 biến, bảo đệ tử hoặc người trông coi sự việc, tự rưới rót đảnh đầu thì tất cả tai chướng đấu tranh kiện tụng, tất cả chướng nạn đều được giải thoát.

_Lại có Pháp. Ở trước Tốt Đổ Ba (cái tháp) có Xá Lợi, an tượng Bản Tôn, uống sữa ăn lúa mạch, tùy theo sứccúng dường, tụng Chân Ngôn ba lạc xoa, tức hay phá nhóm việc mê loạn, ngu si

_Lại có Pháp. Ba thời xưng tội, tùy hỉ, khuyến thỉnh, phát nguyện ưa thích làm. Hoặc uống nước ăn Sa (?) xuống sông lớn nước đến ngực, tụng ba lạc xoa. Muốn khiến kính yêu, ẩn thân, thành tựu nhóm việc Hùng Hoàng, Thư Hoàng…. đều hay thành tựu.

_Lại có Pháp. Ba đêm không ăn, đứng một mình ở phía Nam của Xa Ma Xa Na, không có bạn, tụng một lạc xoa, tức kham nhận được tất cả sự việc.

_Lại có Pháp. Nếu có Rồng ác khó điều phục, hoại Phật pháp, tổ hoại hữu tình mà muốn khiến điều phục thì ba đêm không ăn, ở chỗ của Rồng, lấy hạt cải trắng hòa với chất độc với Lỗ Địa La (máu) Hộ Ma, thì Rồng ấy từ trong ao vọt lên, trong khoảng bảy ngày chỗ làm đều thành, chỗ cầu đều được. Nếu Rồng chẳng đi ra, niệm tụng đến hai lạc xoa, hoặc ba lạc xoa thì Rồng kia liền chết, trong ao Rồng có mùi hôi thối bay lên.

_Lại có Pháp. Gia trì vào bàn chân trái bảy biến, dùng sự giận dữ đạp lên mặt đất, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương và tụng thêm chữ Hồng (HŪṂ) tức cấm chỉ voi, ngựa xe, bộ binh…

_Lại có Pháp khiến oan gia, Ma La (loài Ma). Đi đến chỗ Xa Ma Xa Na, lấy tro ở xa ma xa na, giận dữ làm hình người kia, gia trì vào cây đao bén, chặt từ chân lên từng đoạn rồi ở Xa Ma Xa Na Hộ Ma, đến ngày thứ bảy thì mạng người kia chẳng còn.

_Lại có Pháp. Nếu ở quân trận, ở cung vua. Hoặc nói tụng nơi tụng, thời được thắng

_Lại có Pháp. Dùng Du Ma (mè) Hộ Ma thì nam nữ kính yêu

_Lại có Pháp. Gia trì vào ngón trỏ phải bảy biến, hoặc nghĩ đến loại La Nhạ (vua chúa) hoặc kẻ khác, đều được kính yêu. Tức dùng ngón tay này chỉ vào voi, trâu…thì nhóm ấy đều hay bị cấm chỉ.

_Lại có Pháp, muốn tự mình thành tựu. Vào trong Xa Ma Xa Na mua Mãng Sa (Māṃsa : thịt), dùng Nhất Tự Đảnh Luân Vương gia trì bảy biến hộ thân, triệu Long Để Lợi với Trì Minh Để Lợi cũng dùng Chân Ngôn này câu triệu.

_Lại có Pháp. Lấy cây sét đánh dài mười hai ngón tay làm chày Kim Cang. Ở trong Xa Ma Xa Na niệm tụng ba lạc xoa thì then cài cửa bên trong bên ngoài của A Tu La đều gãy mở.

_Lại có Pháp. Dùng Nhất Tự Đảnh Luân Vương gia thêm chữ Hồng thì hay cấm chỉ quân nơi khác. Nếu chưa thành tựu thì phẫn nộ tụng cũng hay cấm chỉ quân nơi khác. Nếu thành tựu thì khiến cây gãy đổ hay hoại tất cả Minh (Vidya). Chân Ngôn kèm với chữ Hồng, tụng ở trong Xa Ma Xa Na thì được gia hộ.

_Lại có Pháp. Lấy sắt Bổ Sa, bảo người thợ đúc thọ tám Giới làm chày Kim Cang. Ở Xa Ma Xa Na thọ tám Giới, Tâm chẳng tán động, làm Pháp Tiên Sự, tay cầm chày Kim Cang tụng mười lạc xoa. Vào lúc nửa đêm trong ngày mười bốn của kỳ Hắc Nguyệt, đem tất cả hương, hoa, hương đốt, thức ăn uống, đèn sáng… làm Nghi Quỹ cúng dường Đức Phật, tay trái cầm chày Kim Cang, ngồi Kiết Già niệm tụng. Vào lúc sáng sớm thời chày ấy phóng ngàn ánh sáng rực rỡ. Do cầm chày này liền được thành tựu, vừa phát tâm tức cùng quyến thuộc bay lên hư không, hay trị phạt tất cả Trì Minh, oai quang không ai có thể ngang bằng. Đế Thích ban cho nửa tòa ngồi, làm Đại Trì Minh Vương, trụ một đại kiếp, cầm chày Kim Cang tùy ý du hành.

Bị bệnh sốt rét bốn ngày phát bệnh một lần, kèm với nhóm Cổ Độc…thì gia trì tức được trừ khiển.

_Lại có Pháp. Ở Xa Ma Xa Na làm hình Xa Đổ Lô (Śatrū: oan gia), dùng chân trái đạp lên trái tim, lấy ngón trỏ phải chỉ nghĩ đến, kèm với chữ Hồng tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương một ngàn biến, tức kẻ kia trong giây lát kia bị diệt hoại, lại cũng dùng Chân Ngôn này đẩy lui, hay khiến cho ngưng dứt.

_Lại có Pháp. Lấy tro ở Xa Ma Xa Na làm hình Xa Đổ Lô (Śatrū: oan gia), dùng cây cọc Khư Đà La, tụng Chân Ngôn, đóng ở đảnh đầu, tức thời bị diệt hoại

_Lại có Pháp. Lấy hạt cải trắng, ở Xa Ma Xa Na gia trì mười vạn biến thì hay làm bẻ gẫy làm rớt tất cả then cài cửa, xích khóa nhà…

_Lại có Pháp. ở Xa Ma Xa Na lấy Một Lật Đa Bổ Lỗ Sa (Mṛta-puruṣa: xác chết của kẻ Trượng Phu) chưa bị tổn hoại, y theo Pháp tắm gội sạch sẽ trang nghiêm, cho Quỷ Thần ở bốn phương ăn uống, ngồi ở trên tim của người ấy, Chú vào hạt cải trắng, một lần tụng thì một lần ném vào miệng kẻ ấy, cho đến khi lè lưỡi ra, dùng cây đao bén cắt lưỡi liền thành cây kiếm. Do cầm cây kiếm này, làm vua trong tất cả Trì Minh, có sức mạnh không ai bì kịp, tùy ý du hành trong Thế Giới này.

_Lại có Pháp. Ở Tốt Đổ Ba (cái tháp) có Xá Lợi, đem nhóm hương với thức ăn uống cúng dường đủ một tháng, đối trước tượng đốt Trầm Thủy Hương ngày đêm niệm tụng tức nơi sáng sớm thỉnh Tăng lần lượt nên cúng dường nơi Đại Chúng ấy, cầu Tất Địa. Liền dùng Nghi Quỹ này, ngồi Kiết Già niệm tụng, tức được thành tựu Bất Tư Nghị Vương sống lâu, đều được thành tựu Văn Trì.

_Lại có Pháp. Làm Pháp Tiên Sự xong, ở nơi thanh tịnh, nơi tháp có Xá Lợi mãn một tháng, ngày đêm không ăn, phát Tâm ân trọng, lấy Cồ Ma Di (Gomaya: phân bò) chưa rớt xuống đất xoa tô Đàn. Lấy tám cái bình đựng đầy nước với các hạt giống, thuốc … đeo mọi loại vòng hoa ở cổ. Đem mọi loại hương đốt: Huân Lục, Trầm Thủy, Đàn Hương hòa chung với nước đã được chứa đầy ấy, buông xả thân của mình phụng hiến tất cả Phật Bồ Tát, ngồi Kiết Già niệm tụng, cho đến khi từ đảnh đầuphát ra ánh sáng, xoay nhiễu theo bên phải người Trì Tụng, rồi ẩn vào thân Hành Giả, tức được Thân thành tựu. Tức thân ấy tỏa ánh sáng trong khoảng sát na liền được tóc xoắn như dạng 16 tuổi, có năm Thần Thông, oai quang như vàng ròng chiếu sáng, cùng quyến thuộc đi trong hư không. Tất cả thành tựu của Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già…., Ma Hầu La Già đều kính lễ, trong khoảng Sát Na (Kṣana: thời gian cực nhỏ), Lạp Phược (Lava: 7200 sát na), phút chốc đi khắp vô lượng Thế Giới Phật, thực hành Phạm Hạnh, Tâm Dục không nghiêng động, nơi đi qua được Đế Thích chia nửa tòa ngồi, oai đức không thể so sánh. Ở Thế Giới Phật vượt qua chỗ nghĩ bàn, thấy vô lượng Đức Phật, từ nơi ấy được nghe Pháp đều được sự hiểu biết thù thắng. Như vậy thứ tự tu Bồ Tát Hạnh thời ở Bồ Tát Hạnh được nhập vào Điều Phục Thiện Xảo Phương Tiện Hạnh, chẳng từ sức của Tam Ma Địa ấy, tổn giảm tùy ý mà trụ cho đến thọ sanh.

_Lại có Pháp. Vào trong dòng nước, niệm tụng một lạc xoa. Tác công ấy xong thì muốn khiến cho người bị bệnh sốt rét được giải thoát. Lấy bơ, mật trộn lại Hộ Ma tức được trừ khỏi. Nếu làm Tức Tai thì thêm chữ Tát-phạ ha (Svāhā)

Ở nơi thanh tịnh, an tượng Bản Tôn, đem một ngàn hoa Câu Na Vệ (tên gọi riêng của Trúc Đào) ném lên tượng, xưng tên kẻ kia, một lần xưng thì một lần ném, ắt khiến cho kẻ ấy với chủng tộc đều được kính yêu.

_Lại có Pháp. Nếu muốn ngưng dứt chướng nạn, mặc áo ướt phẫn nộ niệm tụng, lấy du ma (mè), bạch giới tử (hạt cải trắng) hòa chung với bơ, thiêu đốt 108 biến. Ba ngày, một ngày ba thời thì đều trừ diệt được tất cả Ma Chướng.

_Lại có Pháp. Ở trên đảnh núi, uống sữa, lấy tất cả hương làm chày Kim Cang dài 12 ngón tay hoặc 6 ngón tay, tay trái cầm chày niệm tụng cho đến khi phát ra tướng ấm áp, khói, ánh sáng. Nếu thấy khói thì được làm vua trong An Đát Đà Na thành tựu. Nếu ấm áp, cầm chày Kim Cang thì ai nhìn thấy người ấy đều kính yêu. Nếu tỏa ánh sáng liền được Trì Minh Tiên

_Lại có Pháp. Lấy Tố Lộ Đa Nhạ Na, trước tiên dùng một ngàn Tam Ba Đa Hộ Ma, cho đến khi Nhật Thực thì gia trì 108 biến, để ở trong miệng, niệm tụng cho đến hết mặt trời trở lại như cũ, bảo Bà La Môn nữ nghiền nát, gia trì 1008 biến, đem chấm vào mắt tức được An Đát Đà Na, tất cả bậc thành tựu An Đát Đà Na đều không thể tự ẩn mất.

_Lại có Pháp, cầu Ngữ Thành Tựu. Làm Pháp Tiên Sự, ở nơi thanh tịnh, an tượng Bản Tôn, lần lượt ban đồ thức ăn cho tất cả Trời, Rồng, Dược Xoa….Ở trước tượng làm cái lò Hộ Ma, lấy hoa sen xanh hòa với ba vị ngọt Hộ Ma mười vạn biến, tức thành tựu. Nhiễu quanh theo bên phải tượng Bản Tôn, rồi đối trước tượng niệm tụng. Các ngày khác, tùy sức đặt bày tăng thêm cúng dường, cầu thành tựu. Từ đây trở về sau, tất cả chỉ dùng lời nói, đều được thuận theo.

_Lại có Pháp. Lấy An Tất Hương làm thành viên, ba thời Hộ Ma, mỗi thời 108 biến, thì điều mà ý ưa thích đều được viên mãn. Nếu bị Quỷ Mỵ nắm giữ thì gia trì Chú vào sợi mà đeo.

_Lại có Pháp. Lấy mè, hạt cải trắng hòa với bơ, bảy ngày đối trước tượng Hộ Ma, thì điều đã mong cầu đều được.

_Lại có Pháp, khiến cho nam nữ kính yêu. Lấy sáp làm hình người ấy, trì tụng Nhất Tự Đảnh Luân, đem dầu đắng (khổ du) đổ đầy bụng kẻ ấy, dùng bảy gai nhọn Ma Na đâm chích 7 chỗ nối khớp xương, hơ gai nhọn trên lửa Khư Đà La, gia trì 108 biến, bảy đêm tức được việc mong cầu.

_Lại có Pháp, muốn xua đuổi người khác. Giã hạt cải đỏ (xích giới tử) thành bột, làm hình người ấy, rồi chặt đứt từ bàn chân phải, bỏ vào trong lửa than Khư Đà La, tụng Chân Ngôn, Hộ Ma bảy ngày liền được như nguyện.

_Lại có Pháp, khiến cho thân của mình ngưng dứt tai nạn. Ở tháp có Xá Lợi, an tượng Bản Tôn, đem nhóm hương hoa…cúng dường. Lấy cái bình mới chứa đầy nước thơm, kèm tất cả thuốc với các vật báu… gia trì 108 biến. Lấy sợi dây thừng chẳng bị cắt đứt, cột cổ bình, rưới tắm thân của mình sẽ lìa được tất cả tội, tất cả chướng nạn.

Gia trì vào Thanh Mộc Hương 108 biến, ngậm trong miệng rồi cùng người nói chuyện, ắt đều được kính yêu. Luận lý ở chỗ quan phủ đếu được thắng.

_Lại có Pháp. Lấy hoa màu vàng bỏ vào lửa Khư Đà La, Hộ Ma một ngàn bông hoa sẽ được ngàn lạng vàng

_Lại có Pháp. Lấy muối làm hình người khác, nơi lửa Khư Đà La gia trì một ngàn biến Hộ Ma thì chỗ cầu kẻ kia đều được kính yêu.

Này Bí Mật Chủ! Tất cả nhóm Thế Gian Xuất Thế Gian như vậy thì Luân

Vương Phật Đảnh đều hay làm

“Trời, Rồng, Dược Xoa Vương

Ngạ Quỷ, La Sát ác

Với các Bộ Đa khác

Thấy trì tụng, tiêu sạch

Ngưng dứt các Thiên Pháp

Cổ Độc, Bộ Đa Na

Thường trong tay Hành Nhân

Tội kia chẳng thể được

Tất cả cầu thành tựu

Người tương ứng sẽ được

Giáo đến tay người ấy

Mau chóng làm các lợi”

Bấy giờ, Kim Cang Thủ Bí mật Chủ bạch Phật rằng: “Hữu tình kia dùng Phước lớn nhiếp nhận. Giáo này sẽ được đến tay người ấy.

Thế Tôn! Con cũng nhiếp nhận hữu tình ấy, khiến cho Giáo này vào tay người ấy, ở tất cả cõi hữu tình thì Minh Vương này hay làm tất cả sự nghiệp, hay diệt tất cả sự sợ hãi, thường làm gia hộ tiền tài lúa đậu, tăng trưởng thọ mạng, không có bệnh, đều trừ được tám vạn Quỷ Mỵ Tộc, dứt hết thảy Pháp ếm đối, cái chết chẳng đúng thời, ngưng dứt khắp lửa độc, lợi ích tất cả hữu tình, hay trừ tất cả bệnh, haychặt đứt tất cả Chấp Diệu, siêng năng mạnh mẽ như Sư Tử, thương xót tất cả hữu tình, cho nên tác Thuyết như vậy”

Thời Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ Bí mật Chủ rằng: “Nay Ta nói công năng khiến trừ tất cả tội, trừ tất cả bệnh. Ông nên nghe cho kỹ!

Này Kim Cang Thủ! Nếu bị tất cả Quỷ Mỵ gây tai vạ, gia trì vào sợi dây năm màu cột vào bàn tay, hộ thân. Lấy tro gia trì kết Phương Ngung Giới, gia trì vào nước. Tất cả bệnh sốt rét, dùng sợi dây gia trì rồi cột buộc cho ta người (tự tha) khiến trừ tất cả tội. Đem hạt cải trắng hòa với bơ Hộ Ma sẽ khiến tăng thêm thọ mạng. Dùng hoa Câu Tô Ma gia trì cúng dường Phật Thế Tôn.

_Lại có Pháp. Dùng hoa Tô Ma Na gia trì 108 biến, rồi ném trong hư không liền được trời quang đãng không có mây.

_Lại có Pháp, gia trì vào nước, vì người kia, xưng tên rồi cho uống, sẽ khiến ccho kẻ ấy được kính yêu.

_Lại có Pháp. Dùng cành Câu Na Vệ gia trì bảy biến, hướng về nơi có mưa đá tuôn xuống mà đánh thì mưa đá liền dời đi. Mây ác cũng dùng Pháp này, kết Phương Ngung Giới dùng cây cọc Khư Đà La. Dùng nước hoặc hạt cải trắng cột buộc Tỳ Na Dạ Ca

_Lại có Pháp. Tất cả bệnh thì gia trì sợi dây năm màu cho đeo tức trừ khỏi. Tất cả Quỷ Mỵ, tất cả bệnh thì Hộ Ma liền ngưng dứt. Gia trì vào hoa quả rồi đem cho người kia sẽ được kính yêu.

_Lại có Pháp. Gia trì vào thức ăn uống rồi đem cho người đều được kính yêu

_Lại có Pháp. Làm cây cóc sắt gia trì thì đối với tất cả sự sợ hãi, tất cả chướng nạn đều được gia hộ. Trời với Quỷ Thấn, La Sát không dám trái vượt đến gần cây cọc. Ở tất cả chỗ sợ hãi được gia hộ trong một do tuần kết Giới.

_Lại có Pháp, muốn cấm chất độc. Gia trì vào sợi dây 7 biến rồi cột vào Nhũ Mộc (cây có nhựa như sữa) thì tất cả chất độc đều tiêu. Hết thảy chỗ có độc dùng đất hoặc hạt cải trắng hoặc nước gia trì mà dùng, đều được trừ khỏi. Tất cả bệnh, gia trì vào sợi dây năm màu 108 biến rồi đeo cột cho người bệnh tức được trừ khỏi. Đốt Trầm Thủy Hương hoặc Huân Lục Hương thì hay trừ tất cả bệnh sốt rét. Tất cả chỗ đáng sợ, tụng Minh Vương này đều được không sợ hãi (vô úy).

_Lại có Pháp. Gia trì vào cỏ tranh, quét tất cả độc. Ở chỗ tù tội cột trói, tụng tức giải thoát được sự cột trói. Người bị sốt rét, gia trì vào sợi dây rồi đeo nơi eo liền khỏi bệnh

_Lại có Pháp, Tự hộ thân của mình thì dùng Tâm tụng. Trâu bò gia súc bị bệnh dịch thì gia trì vào sợi dây màu đen rồi đem cột nơi cổ liền khỏi bệnh

_Lại có Pháp. Người bị Pháp Ấn ác, gia trì vào sợi dây trắng bảy biến, thắt gút rồi đeo trên thân liền trừ được.

_Lại có Pháp. Kết Phương Ngung Giới thì dùng hạt cải trắng

_Lại có Pháp. Bị tai vạ Phong Mỵ thì gia trì vào dầu rồi cho uống, liền khỏi

_Lại có Pháp. Bị đau mắt thì gia trì vào nước rồi cho tẩy rửa, liền khỏi

_Lại có Pháp. Bị Dược Xoa nắm giữ thì gia trì vào nước rồi rưới vảy, liền được giải thoát

Lại có Pháp. Bị Ngạ Quỷ nắm giữ với điên cuồng thì gia trì vào sợi dây rồi cho đeo, liền được khỏi

_Lại có Pháp. Ngăn cấm Rồng, dùng cành Câu Na Vệ. Phá các Ấn thì dùng tro.

Ngăn giặc thì gia trì vào khối đất bảy biến rồi ném vứt bốn phương pháp. Muốn mong cầu việc thì tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, đối trước tượng, một ngày một đêm không ăn, đốt Huân Lục Hương, tụng Chân Ngôn 108 biến, liền ngủ nghỉ trước tượng thì trong mộng nói việc thiện ác, chỗ cầu mong đều chỉ bảo.

_Lại có Pháp. Muốn dừng mưa dầm, vào trong nước, niệm tụng thì tất cả đều ngưng. Cầu mưa thì cũng vào trong nước, niệm tụng, tùy ý nhiều ít

_Lại có Pháp. Muốn cầu thức ăn. Vào đầu ngày, ở thôn ấp, đứng đối trước cổng thành, gia trì vào hoa Tô Ma Na 108 biến rối hướng về cửa thành mà ném, sau đó vào thành, không cầu sẽ được thức ăn chẳng cần cầu đều dư đủ.

_Lại có Pháp. Trẻ con bị Quỷ Mỵ nắm giữ, viết Nhất Tự Đảnh Luân Vương trên vỏ cây hoa rồi cho đeo dưới cổ, liền khỏi bệnh

_Lại có Pháp. Thường niệm tụng thì mọi người đều được kính yêu.

_Lại có Pháp. Vào cung vua, gia trì vào nước 108 biến, dùng xoa bôi mặt thì La Nhạ (vua chúa) cùng các kẻ quần thần đều kính yêu

_Lại có Pháp. Gia trì vào nhóm áo, hương hoa, anh lạc…hoặc đem cho người hoặc tự mặc thì đều được kính yêu.

_Lại có Pháp. Gia trì vào các thức ăn uống 108 biến, rồi xưng tên người kia, nghĩ nhớ rồi ăn, tức được kính yêu.

_Lại có Pháp. Bị sưng nhọt .. gia trì vào bùn bảy biến rồi xoa bôi, liền khỏi bệnh.

Ta lược nói chỗ làm đều được thành tựu”

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Thiện Nam Tử! Nhất Tự Đảnh Luân Vương như vậy hay làm tất cả sự nghiệp, tất cả Phật đã nói Giáo Lệnh không có ngăn ngại, vô lượng na do tha trăm ngàn câu chi Phật đã nói, nay Ta cũng nói. Nay Ta nói Phước Lợi

Này Bí Mật Chủ! Ông hãy lắng nghe! Hãy nghe cho kỹ! Tất cả Phật đã nói, tất cả Bồ Tát tùy vui.

Bí Mật Chủ! Nếu có Đại Minh Vương Luân Vương Phật Đảnh này, hoặc hay thọ trì đọc tụng, hoặc nghe diễn nói, cho đến viết chép Kinh Quyển, cúng dường niệm tụng… thì người ấy chẳng bị rơi vào nẻo ác, chẳng làm Ngạ Quỷ Dược Xoa, chẳng nghèo túng, chẳng bị tất cả tội, tất cả hữu tình đều được kính yêu, tất cả đều được tùy thuận, nơi sanh ra đều được Túc Mạng, tất cả Quỷ Mỵ chẳng dựa dính thân, ấy là: Thiên Mỵ hoặc Long Mỵ, hoặc Anh Hài mỵ, hoặc La Sát Mỵ, hoặc Khẩn Na La Mỵ, hoặc Ma Hầu La Già Mỵ, hoặc Bổ Đát Na Mỵ, hoặc Yết Tra Bổ Đát Na Mỵ, hoặc Tỳ Xá Già Mỵ, hoặc Ca Lâu La Mỵ, hoặc A Tu La Mỵ, hoặc chư Mẫu Thiên Mỵ, hoặc Cưu Bàn Trà Mỵ… Đao gậy không dính vào thân, không bị vướng vào chất độc, lửa, nước… Chẳng sanh vào nơi có tất cả kẻ địch, đói kém, hoang vắng…hết thảy nhọt độc, phù thủng, Cổ Mỵ, Khởi Thi (xác chết đứng dậy đi), làm pháp không lành… đều được giải thoát. Tất cả Trời, Rồng, Dược Xoa, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già đều lễ kính.

Thiện Nam Tử! Nay Ta lược nói. Hết thảy tất cả tai nạn, tất cả điều kia đều chẳng thể gây hại cho người ấy được. Tại sao thế? Vì là Cảnh Giới của Phật, cảnh Sở Hành của vô lượng Phật, vô lượng Tam Ma Địa du hý của vô lượng Phật Thế Tôn

Này Bí Mật Chủ! TTất cả Như Lai trong Hiền Kiếp này nói, Phật quá khứ, vị lai, hiện tại nói,nay Ta cũng nói, hằng hà sa số đồng tên Như Lai nói, đều tùy hỉ

Nếu có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân, ở đời sau thời sau Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di… tắm gội sạch sẽ, đối trước mặt Phật làm cúng dường, tụng trì Minh Vương Chân Ngôn này, nếu thành tựu nghe phước lợi như vậy mà sanh niềm tin trong sạch, sẽ sanh lên cõi Trời, được oai đức lớn của hàng Trời. Nếu sanh trong loài người sẽ làm vua, được Túc Mạng Trí. Ơ trong đời này niệm tụng được lìa tất cả tật bệnh, nếu được thành tựu thì thân người này từ đây về sau vào nhập vào cảnh giới của Bồ Tát, dạo chơi vô lượng Thế Giới Phật, như tất cả Như Lai du hí.

 

THUYẾT PHÁP PHẨM THỨ SÁU

Bấy giờ, Tịch Tĩnh Tuệ Bồ Tát Ma Ha Tát là em của Kim Cang Thủ Bồ Tát, từ trong tập hội của Đại Chúng ấy đứng dậy, chắp tay lễ Phật. Vì cúng dường Đức Thế Tôn nên cỡi vòng đại chân châu vô giá đeo ở cổ, dùng bàn tay phải cầm nắm rồi dâng lên Đức Thế Tôn, nói báo đáp màu nhiệm, nói Già Đà (Gāthā: Kệ Tụng) này khen ngợi Đức Phật

“Tiếng Đảnh ở ba cõi

Các hữu tình vui thích

Tiếng tối thắng của Phật

Hiện Ngữ được vinh thịnh

Hết thảy Phật trụ Pháp

Điều Ngự kia nói pháp

Nơi sanh bậc Đẳng Giác

Thế Tôn được Bồ Đề

Đấng chuyển Diệu Pháp Luân

Xưa kia tu tròn đủ

Chư Phật ngồi tòa nầy

Thế gian không người sánh

Ở mỗi mỗi đất ấy

Đều thành như Kim Cang

Nay đối trước Thế Tôn

Được thấy làm cát tường

Quá khứ làm cát tường

Ai lại nghe Diệu Pháp

Trước đây lại cát tường

Cát tường kia cũng thế

Nghe Giáo ấy không hoại

Kẻ Trí Tuệ chánh trụ

Nơi ấy thường tưởng Trời

Cũng quán, tưởng cha mẹ

Thân giáo, tưởng chị em

Đều thấy bậc vô úy

Trước tu thuận Giáo Lệnh

Nơi Thi La (Śīla: Giới trong mát) tối thắng

Do kia ở Pháp Vương

Nương cậy được cúng dường

Như vòng hoa Mạt Lợi

Gió thổi hương thơm lừng

Mè tạp làm thành dầu

Hương ấy cũng thơm phức

Hình sắc Tôn khôn sánh

Quần phẩm khó tính lường

Thâm sâu với oai đức

Danh Sắc với Thần Thông

_Nay, ở nơi đất này

Con quán, tưởng cao rộng

Làm sao các nam nữ

Tán dương chút Công Đức

Nếu nay, người được nghe

Nghe Pháp sanh niềm tin

Nếu người hay xả thí

Ở trong Giáo Thế Tôn

Nếu hướng vào Phi Gia (xuất gia)

Ở trong Giáo Thích Vương

Con đối với tất cả

Thương xót, tưởng thân tộc

Như muỗi mòng trong không

Như trâu, ếch biển lớn

Như vậy, Công Đức Phật

Nơi khen như mộng nói

Như con ở Thiên Vương

Tán dương bậc Công Đức

Hoặc Công Đức tiếng Phật (Phật thanh)

Tùy sức, con khen ngợi

Cung kính, cầm cúng dường

Chuỗi ngọc báu vô giá

Dùng căn thắng thiện này

Hữu tình đều như Phật”

Khi Tịch Tĩnh Tuệ Bồ Tát Ma Ha Tát, dùng Già Tha tán dương Đức Thế Tôn xong, lại bạch Phật rằng: “Bồ Tát có bao nhiêu Pháp thành tựu để tu Phật Đảnh Luân Vương Nhất Thiết Như Lai Tam Ma Địa Sí Thịnh này?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng Già Tha đáp Tịch Tĩnh Tuệ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:

“Nếu có Tâm Từ, Tâm thanh tịnh

Chẳng thô, mềm mại đầy đủ niệm

Hộ Cấm, chánh trực tu Phạm Hạnh

Người ấy thành tựu Minh Vương này

Hết thảy lìa tội, chẳng làm ác

Tăng trưởng thường tịch, lìa giận dữ

Người có như vậy thành Minh Vương

_Hiềm hận người khác với đùa cợt

Như vậy nơi người, thường chẳng làm

Chẳng dòm dài ngắn nơi người khác

Người có như vậy thành Minh Vương

_Nếu ở Phật pháp đủ Công Đức

Thường hay cung kính và cúng dường

Chẳng đánh, chẳng chế diễu người khác

Ấy đều thành tựu Minh Vương này

_Không có ganh ghét, không nhờn láo

Chẳng lợi cho người thì chẳng làm

Chẳng gây lỗi lầm với người khác

Như vậy thành tựu Chân Ngôn Vương”

Này Thiện Nam Tử! Ta thừa sự cúng dường sáu mươi câu chi Phật, nơi câu chi Phật ấy chẳng tu Phạm Hạnh, cầu Pháp siêng tu hành, từ nơi ấy thọ nhận Đại Minh Vương lưu bố rộng rãi, do căn lành ấy liền được Công Đức rộng lớn, oai đức như vậy.

Thiện Nam Tử! Tam Ma Địa chẳng thể nghĩ bàn của tất cả Như Lai rất thù thắng, cho nên Bồ Tát hộ giữ thân, khẩu, ý tu trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương

Như vậy! Như vậy Thiện Nam Tử! Như Lai đối với tất cả hữu tình, dùng hình Chân Ngôn làm bạn tốt (thiện hữu)”

Tịch Tĩnh Tuệ nói lời này: “Thế Tôn! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân cung kính tưởng như bạn tốt, nên tập Đại Minh Vương, nên thừa sự cúng dường. Tại sao thế?”

_”Này Tịch Tĩnh Tuệ! Nếu đối với Thiện Tri Thức mà gần gũi tu tập thì được thành Thiện Pháp, nghe Pháp Thiện Diệu, dùng ý thiện ưa thích liền được Thiện Gia Hạnh. Dùng Thiện Nghiệp hướng đến chỗ Thiện, được Trợ Bạn tốt, chẳng gây nghiệp tội. Làm Thiện Gia Hạnh hướng đến nơi thiện xong, thừa sự trợ bạn tốt chẳng gây nghiệp ác. Đã chẳng làm ác thì đối với người khác sẽ hộ giữ ý của người khác, viên mãn Đạo Bồ Đề, trụ Đạo, kham nhận có sức mạnh đối với hữu tình trụ Ác Đạo mà làm nghĩa lợi. Thế nên Thịch Tĩnh Tuệ! Gần gũi bạn tốt thì tất cả Công Đức đều được viên mãn, đều được xưng tán”

Thời Tịch Tĩnh Tuệ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát có bao nhiêu Pháp thành tựu để mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, được Pháp Nhẫn thâm sâu?”

Đức Phật bảo Thịch Tĩnh Tuệ Bồ Tát: “Có bốn Pháp thành tựu, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, được Pháp Nhẫn thâm sâu. Thế nào là bốn?

Vào Duyên Sanh Pháp Trí, vào Vô Chúng Sanh Vô Nhân Vô Thọ Giả, nơi Không Pháp Tánh quyết định cảnh giới thắng giải, xa lìa hai Kiến Đoạn Thường. Bốn Pháp như vậy: Tiền Tế (quá khứ) thanh tịnh, Hậu Tế (vị lai) chẳng đến, ba đời bình đẳng, đã thấy tại Trí. Như vậy là bốn Pháp

Lại có bốn Pháp. Phật Tính nên quán, Phật Sắc Tính nói yếm tăng (?chán ghét), Như Lai dùng con mắt Tuệ, tức Tuệ Nhãn thanh tịnh. Như vậy là bốn Pháp

Lại có bốn Viên Mãn Ba La Mật: chẳng bỏ bốn Nhiếp Pháp, dùng phương tiện khéo léo, không có người quyết định, phát sanh Đại Bi.

Này Thanh Tĩnh Tuệ! Bốn Pháp như vậy, Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu, mau chúng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, nơi Pháp Nhẫn thâm sâu”

Khi Đức Thế Tôn ở chỗ này nói bốn Pháp thời vô lượng Bồ Tát được Vô Sanh Pháp Nhẫn, vô lượng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già phát Tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Già Tha này:

“Lý Thú Pháp như vậy

Chánh Đẳng Giác đã nói

Dio tu Chân Ngôn này

Tất cả làm Như Lai

Nếu thích vượt sanh tử

Nếu muốn chặt các Kết

Làm tất cả Y Chỉ

Tu lâu nơi Hạnh này

Khiến khởi tưởng thù thắng

Ta hướng nơi đoan nghiêm

Suy nghĩ chuyển lời này

Thường tu Hạnh bình đẳng

Chẳng làm Bất Đẳng Hạnh

Liền thành Bồ Tát Vị (địa vị của Bồ Tát)”

 

NHẤT TỰ KỲ ĐẶC PHẬT ĐẢNH KINH

_QUYỂN TRUNG (Hết)_


QUYỂN HẠ

ĐIỀU PHỤC NHẤT THIẾT CHƯỚNG TỲ NA DẠ CA THIÊN VƯƠNG PHẨM THỨ BẢY

Bấy giờ, Mạn Thù Thất Lợi Đồng Chân Bồ Tát Ma Ha Tát (Maṃjuśrīkumāra-bhūta) đối với Pháp mà Đức Thế Tôn nói, đã biết rốt ráo xong, liền chắp tay đến gần Đức Thế Tôn, cúi đầu mặt lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng rồi lui ra ngồi một bên.

Mạn Thù Thất Lợi Đồng Chân Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như vậy hữu tình sanh ở bốn sanh (noãn, thai, thấp, hóa) nuôi lớn sanh tử từ vô thủy, ở sáu đường.

Thế Tôn! nhóm hữu tình, biển hữu tình, hữu tình thêm bớt cùng tận chẳng thể được. Vì sao Thế Tôn Như Lai Tam Ma Địa nên thấy sắc tướng gia trì? Như Đức Thế Tôn nói trì Chân Ngôn Vương Bồ Tát Ma Ha Tát này được bất thoái chuyển, cho đến thứ tự chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Thế Tôn! Làm thế nào nhập vào Lý Thú của Pháp Môn? Làm thế nào an lập Công Đức của Pháp? Thế nào là Tam Ma Địa Pháp Giới Đại Oai Đức làm rộng rãi nhiếp thị hiện?”

Khi ấy, Đức Thế Tôn mỉm cười nói rằng: “Lành thay! Lành thay Mạn Thù Thất Lợi!”

Lại nói: “Lành thay Mạn Thù Thất Lợi! Ông hỏi Như Lai về nghĩa như vậy, lợi ích an vui cho nhiều người, thương xót Pháp người Trời trong Thế Gian”

Lúc đó, Đức Phật Thế Tôn mỉm cười, từ miệng mọi loại ánh sáng màu là: xanh, vàng, đỏ, trắng, tím, Phả Chi (Spaṭikā: thủy tinh), màu bạc… chiếu vô lượng Thế Giới cho đến Phạm Thiên, ánh sáng dọi lại che lấp ánh sáng của mặt trời, mặt trăng rồi quay trở lại nhập vào trong miệng của Đức Phật

Bấy giờ, Mạn Thù Thất Lợi Đồng Chân Bồ Tát Ma Ha Tát là người biết tướng, biết tướng xong, dùng nghĩa này, dùng Già Tha tán dương Đức Thế Tôn

“Đấng Diệu Kiến hay hiện sắc tướng

Tám mươi tùy hình rất đoan nghiêm

Tầm quang, diệu quang, viên mãn quang

Như vậy vì con, nói nhân (Hetu) cười

_Bậc nhẫn nhục, mười lực trì tiến

Tinh tấn cao tột, không nghiêng động

Tròng mắt yêu thích nhìn bốn Đế

Vì con nói nhân mỉm cười này

_Phạm Vương, Thiên Chúng với tất cả

Đầu mặt đảnh lễ Đức Như Lai

Chiêm ngưỡng, cung kính rồi quán sát

Vì con nói nhân mỉm cười này

_Như núi khéo hành, hành Diệu Hạnh Định

Tuệ dấy vọt ánh sáng Trí

Sức Giải Thoát bền, thấy chân thật

Vì con nói nhân mỉm cười này

_Thân Tánh Kim Cang bền khó hoại

Na La Diên (Nārāyaṇa) đến Nhân Trung Thắng

Phạm Âm, Diệu Âm, Văn Thù Âm

Vì con nói nhân mỉm cười này

_Đắc được ánh sáng, lìa u ám

Tròng mắt thấy khắp, trụ bình đẳng

Công Đức thù thắng được vững mạnh

Vì con nói nhân mỉm cười này

_Thế Tôn đã chuyển Thắng Pháp Luân

Dùng tiếng Phật Đảnh nơi người, Trời

Kèm Rồng, Dược Xoa với tất cả

Vì con nói nhân mỉm cười này”

Bấy giờ, Đảnh Hạnh trì giữ hình Đồng Tử rũ búi tóc làm bậc Thượng Thủ có trăm ngàn loài gây chướng vây quanh, dùng Oai Nộ Oai Thần của Đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, chắp tay làm lễ Đức Thế Tôn xong, rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con là chủ trong tất cả loài Tỳ Na Dạ Ca gây chướng

Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả loài gây chướng tôn phụng con, tất cả loài gây chướng thuộc vào con, xem xét tất cả Tỳ Na Dạ Ca gây chướng rồi bảo rằng: “Các ngươi, Tỳ Na Dạ Ca gây chướng hãy nghe cho kỹ! Loài gây chướng ở tất cả Thế Giới, loại chẳng nhiêu ích nơi người thành tựu, hàng Quỷ Mỵ ác phẫn nộ gây tội

Bạch Đức Thế Tôn! Từ nay về sau, người thành tựu Đảnh Luân đối với Đại Phẫn Nộ Chân Ngôn này, nếu sáng sớm tụng 7 biến

Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con đối với tất cả Tỳ Na Dạ Ca gây chướng kia khiến phải xa lìa. Nếu làm thành tựu thì chẳng khiến dấy lên Ma Chướng, chẳng khiến cho thân tâm tán động

Thế Tôn! Nếu người thường dùng Đại Phẫn Nộ Chân Ngôn này làm gia hộ thì người Trì Minh ấy thành tựu Minh Vương vậy. Chúng con làm gia hộ ngăn chận các hình phạt, vì người ấy làm Tức Tai, làm cát tường, làm lợi ích.

Thế Tôn! Từ đây trở về sau, đối với người siêng năng thực hành Đảnh Luân Giáo Vương, người tu Chân Ngôn thì (các ngươi) chẳng nên khởi Tâm gây chướng, nếu Đức Như Lai này biến hóa làm Đại Phẫn Nộ Vương ắt sẽ hủy hoại các người. Nếu có người nhớ niệm thì các ngươi phải dùng gia hộ này. Từ đây trở về sau, người tu Chân Ngôn Hạnh kia đối với Nghi Quỹ của Chân Ngôn Hạnh đã nói: ăn các món mật, mè, hành, tỏi, củ cải Bát Bả Tra … là điều ngăn cấm trong Chân Ngôn Hạnh, người tu Luân Vương Phật Đảnh Chân Ngôn thành tựu, nếu có ăn thì các người chẳng nên chấp lỗi, chẳng nên não hoại, chẳng nên cướp đoạt Tất Địa, chẳng nên khiến cho Tâm tán động. Do Giáo Lệnh của Ta, chẳng nên khởi Tâm ác với người tu Phật Đảnh Chân Ngôn.

Các người thấy người tu hành ấy thì nên khởi Tâm Từ, các người không được rời khỏi chỗ của mình (bản xứ). Nếu trái ngược với lời Ta đã nói, đối với người kia mà dấy lên Tâm khác thì (các ngươi) chẳng được ở trong cung vua A Tra Ca Phạ Để, cung của Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ. Trái ngược Giáo Lệnh của Ta thì Ta sẽ trừng phạt làm cho tổn hại. Với hết thảy hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, tất cả Ngạ Quỷ, Tỳ Xá Già, Khởi Thi, Tỳ Na Dạ Ca gây chướng, Yết Tra Bố Đan Na, Nõa Cát Ni…khác, chẳng nên đối với người tu Luân Vương Phật Đảnh Chân Ngôn khởi Tâm ác khiến cho Tâm (người ấy) tán động. Nếu hàng ấy với nhóm tùy tùng gây chướng nạn thì Ta dùng chày Kim Cang đập nát đảnh đầu của nhóm ấy. Lời Ta nói đây là sự thật”.

_Thời tất cả Chướng Tướng Chủ kia là: Kim Cang Trang Nghiêm, Kim Cang Sách, Kim Cang Trần, Kim Cang Việt Phủ, Kim Cang Cực Tiếu, Kim Cang Thành Trang Nghiêm, Kim Cang Đảnh, Kim Cang Tỳ Na Dạ Ca Năng Đoạn..như vậy cùng với Đại Chướng Tỳ Na Dạ Ca Tướng Chủ khác, từ chỗ ngồi đứng dậy, đến chỗ của Đảnh Hạnh. Đến nơi xong, dùng một âm thanh nói lời này: “Như lệnh đã răn bảo (giáo lệnh), tất cả chúng tôi đều làm theo. Từ nay về sau, chẳng trái vượt Giáo Lệnh của Ngài (Tôn). Nếu trái vượt thì cái đầu bị phá vỡ thành trăm phần”

Lúc đó, Đảnh Hạnh bảo hàng Đại Chướng Tỳ Na Dạ Ca với Tác Chướng Tướng Chủ: “Nay Ta nói người thành tựu Phật Đảnh Chân Ngôn Vương Thành Tựu thời hết thảy Tâm chẳng nhiêu ích khiến chặt đứt thành trăm phần, hết thảy Thiên Thế Tỳ Na Dạ Ca không thể gây chướng nạn”

Nói lời như vậy xong. Đối với hàng Thượng Thủ của tất cả Đại Tác Chướng Tướng Chủ, loài gây chướng trong tất cả Thế Giới, loài cướp đoạt Tất Địa, loài quấy rối người thành tựu. Ta nói Chân Ngôn của chính mình là:

Na mô ra đát-na đát-ra dạ da. Na mô thất chiến-nõa phạ nhật-ra ba nô duệ, ma ha dược khất-xoa tế na ba đa duệ. Úm, hồng phát, hồng hồng, phát phát, sa-phạ ha”

Lại nữa, khi Đảnh Hạnh nói Chân Ngôn của mình thời tất cả Đại Chướng Tỳ Na Dạ Ca thuộc nhóm Kim Cang Trang Nghiêm ấy đều run rẩy, kinh sợ, choáng váng té xuống, (kêu gọi): “Xin Bí Mật Chủ hãy gia trì cho con!”

Thời Đảnh Hạnh ở chỗ của Đại Chướng Tỳ Na Dạ Ca, dùng đầu ngón tay chỉ vào nhóm ấy, vừa nói Chân Ngôn này thì tất cả đều đứng dậy.

(Đảnh Hạnh) nói lời như vầy: “Ta với Đại Chướng Chủ Như Lai trụ hình Chân Ngôn này, trụ Luân Vương Chân Ngôn Thù Thắng Tam Ma Địa. Từ nay về sau, nếu có ai khởi Tâm ác với người tu Luân Vương Chân Ngôn Đạo thăng tiến thì nên nhớ nghĩ đến Chân Ngôn của Ta ngày hôm nay. Các ngươi đối với người thành tựu kia, chẳng nên khởi Tâm chướng nạn vì chúng ta làm ủng hộ cho kẻ ấy. Do Ta gia hộ nên chẳng có chướng nạn đến gần được.

Này Đại Chướng Tướng Chủ! Ta lược nói, chẳng nên gây chướng nạn. Nếu có làm thì Ta dùng cái chày của mình đập nát đảnh đầu của các ngươi”.

_Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai làm gia trì như vậy. Do gia trì cho nên Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con nói Phật Đảnh Chân Ngôn với người tu Chân Ngôn khác: Đại Minh Vương Như Lai Tộc, Liên Hoa Tộc với Tộc của con, làm Pháp Tiên Sự. Do Đại Phẫn Nộ Cam Lộ Quân Trà Lợi Thành Tam Muội Gia này, cho nên thành tựu Phật Đảnh Luân Vương. Do Quán Đảnh cho nên hữu tình cuồng tâm khiến cho chẳng điên cuồng. Thế nên vẽ Mạn Trà La (Maṇḍala) này

Ở bên bờ sông hoặc nơi thanh tịnh khác, đất ấy như lúc trước đã nói Nghi Tắc Luân Vương Mạn Trà La, nên làm Mạn Trà La khoảng bốn khuỷu tay, bốn cửa dùng năm màu vẽ Mạn Trà La, chính giữa vẽ Đức Phật Thế Tôn ngồi trên hoa sen, từ đảnh đầu phát ra ánh sáng. Hai bên trái phải vẽ 8 Tỳ Na Dạ Ca Chúng đều ngồi trên hoa sen, nhóm ấy có tên gọi là: Kim Cang Trang Nghiêm, Kim Cang Trần, Kim Cang Sách, Kim Cang Việt Phủ, Kim Cang Cực Tiếu, Kim Cang Thành Trang Nghiêm, Kim Cang Đảnh, Kim Cang Tỳ Na Dạ Ca Năng Đoạn đều như bản hình.

Thỉnh Phật dùng Bản Chân Ngôn, ngoài ra đều dùng Chân Ngôn này:

“Na mô ra đát-na đát-ra dạ da. Na mô thất chiến-nõa phạ nhật-ra ba nõa duệ, ma ha dược khất-xoa tế na ba đa duệ. Na mạc thất chiến-nõa phạ nhật-ra cú lộ đà da. Úm, hổ lỗ hổ lỗ, để sắt-xá để sắt-xá, mãn đà mãn đà, ha na ha na, a mậtlý đế, hồng, phát, sa-phạ ha

 

Dùng Đại Phẫn Nộ Vương Chân Ngôn này gia trì vào Ca La Xa (Kalāśa: cái bình), cúng dường mọi thức ăn uống…treo lọng, phướng, phan, đốt đèn bơ…dùng Chân Ngôn này nên làm tất cả gia hộ, Thầy nên ban cho Quán Đảnh, xả thí vật thù thắng nơi Thánh, như trước đã nói Đàn Nghi Quỹ, khiến vào. Làm Quán Đảnh xong, thời tất cả hàng Trời, Rồng, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già v.v… chẳng dám gây chướng nạn. Ở dưới đất A Tu La nữ, Trì Minh Thiên với các loài khác đều tùy thuận. Tất cả Tỳ Na Dạ Ca tộc thấy người Trì Minh thảy đều chạy tan. Từ đây về sau các độc, điên cuồng, Cổ Độc… đều chẳng được dịp thuận tiện gây hại. Tất cả Minh Chân Ngôn Thánh Chúng đều tùy thuận.

Trong đây, vừa mới Quán Đảnh thì người Trì Minh đã phát khởi thành tựu, tất cả đều hộ được, quả báo của hữu tình ấy là được Thánh Cam Lộ Quân Trà Lợi Quán Đảnh Pháp. Như người chẳng có niềm tin trong sạch, kẻ kiêu mạn lừa dối, người chẳng cung kính Sư Trưởng… thì chẳng nên cho vào Quán Đảnh. Chỉ nên khiến người có niềm tin trong sạch, người cầu La Nhạ (vua chúa) yêu kính, cầu Thượng Thượng Thành Tựu… do bảy lần Quán Đảnh, người ất đem hết thảy vật báu thù thắng cúng thí Thánh Chúng với Thầy thì Phước của kẻ ấy hơn bảy Luân Vương. Gặp được Mạn Trà La này, do vào đây được Quán Đảnh, một lòng trụ các Cấm Cụ tinh tấn không tham dính, đủ Giới khiến Thầy hoan hỉ, thì tất cả đều được không có nghi ngờ”.

_Bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát, do sức Oai Thần của Đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, nơi đài hoa sen trước Đức Thế Tôn, chắp tay lễ xong, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Người tu Phật Đảnh Chân Ngôn Vương, con nói hộ trì, khiến cho tất cả làm Phước Báo, khiến cho tất cả Tỳ Na Dạ Ca ác khởi Tâm Từ, thật bền chắc trong Tộc của con, từ hoa sen của con sanh ra Đại Chân Ngôn Vương. Nay con xin nói”.

Đức Phật nói: “Nay ông hãy nói, vì lợi ích hữu tình, Đại Bi tăng ích tất cả làm thành tựu. Ông từ hoa sen của mình đã sanh ra Đại Phẫn Nộ Vương nên cần phải nói.

Người tu Phật Đảnh Chân Ngôn làm lợi ích an vui cho Trời, Người”.

Thời Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (Avalokiteśvara) cùng với Đắc Đại Thế Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta) nhiễu quanh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākya-muṇi) theo bên phải bảy vòng, nhập vào Liên Hoa Hỏa cảnh giác tên là Đại Bồ Tát Tam Ma Địa, nói Đại Chân Ngôn này:

“Na mô ra đát-na đát-ra dạ da. Na mô a lý-dã phạ lô cát đế thấp-phạ ra da, mạo địa tát đát-phạ dã, ma ha tát đát-phạ da, ma ha mạo địa tát đát-phạ nô chỉnương đa da, độ na độ na, đà ra đà ra, mạo địa tát đát-phạ, bát-ra để bán ninh, na ha na ha, bả già bả già, a yết lý-sái sa da, a yết lý-sái sa da, hồng phát

 

Đại Bồ Tát vừa nói Phẫn Nộ Vương Chân Ngôn thời hàng Ma Hê Thủ La, Đế Thích, Diễm Ma, Thủy Thiên, Câu Vĩ La, Na La Diên với Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, tất cả Tập Hội cùng với các hàng Thiên khác, Mẫu Thiên, Bộ Đa, Tỳ Na Dạ Ca gây chướng.. đều từ chỗ ngồi đứng dậy, quy y với Đức Thế Tôn: “Nguyện xin Đức Thế Tôn cứu giúp con! Nguyện xin Đức Thiện Thệ cứu giúp con! Bạch Đức Thế Tôn! Ánh sáng của vị Đại Bồ Tát ấy bức não khiến chúng con đều mất Thần Thông của mình”.

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, búng ngón tay khiến Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát đứng dậy. Trong khoảng sát na Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát từ Bồ Tát Tam Ma Địa ấy, không nháy mắt quán nhìn Đức Phật. Quán xong, bảo tất cả hàng Ma Hê Thủ La, Đế Thích, Phạm Vương Thiên rằng: “Nếu có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân, tu Phật Đảnh Luân Vương này, nếu trì kinh này thì sáng sớm rải hoa làm Mạn Trà La, đem nhóm hương xoa bôi, hoa … dùng niềm tin trong sạch đọc, thực hành Chân Ngôn Hạnh của Bồ Tát thời các ông, Nhân Giả đối với người thành tựu, tất cả Thiên Vương, tất cả A Tu La, tất cả Long Vương, tất cả Ca Lâu La Vương, tất cả Tỳ Xá Già Quỷ Thần Vương….đều đối với người thành tựu Luân Vương Phật Đảnh làm ủng hộ. Khi đang tu thời các ông nên cúng dường các nhóm vật. Nơi người ấy dấy lên chướng nạn, nếu người tu Luân Vương Phật Đảnh Chân Ngôn, thì Ta từ hoa sen đã sanh ra Phẫn Nộ Vương, nếu người thường tụng thì Ta tự sẽ gia hộ cho người ấy. Tại sao vậy? Vì Như Lai trụ nơi hình Luân Vương này.

Thế nên Thiện Nam Tử! Như vậy, người tu Luân Vương Phật Đảnh Chân Ngôn thì Bồ Tát trụ Thập Địa còn làm gia hộ. Như vậy Thiên Vương các ông cùng với tùy tùng quyến thuộc …cũng đối với người siêng tu Bồ Tát Hạnh ấy, quán tưởng như Đức Phật”

Hàng Trời ấy đều nói lời này: “Đại Bồ Tát! Từ đây trở về sau, người tu Luân Vương Phật Đảnh Chân Ngôn này, nếu xưng Tôn Chân Ngôn của Ngài. Pháp Giáo này, nếu đọc hoặc tin tưởng trong sạch… thì đối với người ấy đều làm ủng hộ, khiến cho người ấy có Oai Lực, Niệm Lực, Tinh Tấn Tuệ Lực, Tam Ma Địa Lực… được quả báo. Do Tôn Chân Ngôn của Ngài làm cảnh giác, chúng con đều làm, dùng sự gia trì của Đức Phật cho đến làm tất cả lợi ích… đều vâng theo sự dạy bảo (phụng giáo)”.

 

THÀNH TỰU TỐI THẮNG PHẨM THỨ TÁM

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lại bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Lại nữa, Bí Mật Chủ! Nay Ta nói Nghiệp thành tựu của Luân Vương Phật Đảnh. Ông hãy nghe cho kỹ! Tất cả sự nghiệp thành tựu của Quyến Thuộc Chân Ngôn Tâm với Tùy Tâm… Y theo Nghi Quỹ của Căn Bản Chân Ngôn làm Pháp

Tiên Sự xong, ở chuồng bò, người thành tựu dùng bàn tay đè lên vật thành tựu

“Ngưu Hoàng hoặc Thư Hoàng

Hoặc lại tất cả báu

Quỷ Thần kính yêu nên

Người Trí tụng trăm tám (108 biến)

Thắng Nghi thanh tịnh ấy

Thương xót các hữu tình

Một lòng phải quyết định

Vật ấy được ánh sáng

Nếu ấm (noãn) được Không Hành (đi trong hư không)

Khói thành là tối thắng

Quang (lửa sáng) bay đi an lành

Lúc ấy được Luân Vương

Do khói được ẩn thân

Ấm áp thành Kính Ái

Nơi thành tựu nhóm vật

Thành tựu đều không ngại

Lễ kính Đại Chế Để (Miếu thờ to lớn)

Với làm Tốt Đổ Ba (cái tháp)

Người ít Phước, thành tựu

Quyết định chẳng nên nghi

Mạn Trà La Quán Đảnh

Ân cần nên đi vào

Thấy được Mạn Trà La

Ân cần nhận Quán Đảnh

Diệt hai tội quá hiện (quá khứ với hiện tại)

Lo sợ với các Mỵ

Câu triệu các loại Phàm

Rộng cúng dường tượng Phật

Sau đó, dùng hoa sen

Cháo sữa với bơ, mật

Ngàn số nên Hộ Ma

Tụng xong, Trời phó triệu

Đế Thích với Xá Chi (vợ Đế Thích)

Há sợ các loại vua

Nên làm việc câu triệu

Việc màu nhiệm cõi Trời

Với các việc nhân gian

Hay làm tất cả việc

Do tụng Đảnh Luân Vương

Các độc, hình bạo ác

Các Mỵ oai lực mạnh

Các bệnh tật khó chữa

Khéo làm các sự nghiệp

Định ý tụng ngàn tám (1008 biến)

_Nếu làm các việc nhỏ

Nơi các việc Hàng Phục

Các sự nghiệp tương ứng

Hạt cải đỏ (xích giới tử) với mè (du ma)

Độc, đắng bằng ngón cái Tất cả nên Hộ Ma

Khiến giúp việc kia sanh

Cây Bồ Đề màu nhiệm

Cát Tường hạ Thiên xứ (Thành Khúc Nữ là nơi Đức Phật từ trên Trời Đâu Suất đi xuống)

Chỗ chuyển bánh xe Pháp

Nơi thị hiện Thần Thông

Linh Thứu (Gṛdhra-kuṭa), Phệ Xá Ly (Vaiśālī)

Với rừng Lâm Tỳ Ni (Lumbinī)

Thành Câu Thi (Kuśi-nagara), các chỗ

Mau chóng hiện thành tựu

Cho đến Phật Chân Ngôn

Tất cả thành, không nghi

Nơi ấy không chướng ngại

Không có Ma não hại

Thế nên, ở chỗ ấy

Nói mau chóng thành tựu

Với nơi vắng lặng khác

Ở ngọn núi, sông lớn

Ao thích ý, sông Hằng

Ở nơi thù thắng ấy

Như vậy, nói nơi chốn

An Tượng, chẳng loạn ý

Theo Thầy được Quán Đảnh

Sau đó làm thành tựu

Tiên Hạnh như Nghi Quỹ

Nên làm việc như vậy

Bảy tháng, Đại Cần Dũng

Tâm với Tùy Tâm Minh

Dùng Giáp ân cần hộ

Nên ở phần Thần Thông (tháng 1, tháng 5, tháng 9)

Ân cần làm niệm tụng

Đủ tháng khởi thành tựu

Cúng dường nơi tượng Phật

Nên cúng tam bạch thực (3 món ăn màu trắng)

Cúng hiến tất cả Phật

Bồ Tát với Thanh Văn

Tùy sức với Duyên Giác

Nên hiến Kim Cang Thủ

Thức ăn uống cúng dường

Tức trên tòa cỏ tranh

Ngồi theo thế Kiết Già’

Một lòng hiến thân của mình cho Phật Bồ Tát. Đốt Trầm Thủy Hương cúng dường Đức Phật , ban thức ăn cho tất cả Quỷ Thần với Ngạ Quỷ, Tỳ Xá Già… Liền kết Đại Phẫn Nộ Vô Năng Thắng Ấn nơi các chướng nạn, dùng Chân Ngôn tương ứng ném đánh thì tất cả loài gây chướng đều tan hoại. Do Ấn này tương ứng: đem hai tay giao chéo nhau, cùng hợp mặt hai Cái (2 ngón trỏ) đều co lóng bên trên, bên phải đè bên trái, đem hai Luân (2 ngón cái) đều đè móng ba ngón còn lại.

Phàm kết Ấn này, trước tiên quán thân của mình là Vô Năng Thắng Phẫn Nộ Vương, gia trì làm hình đáng sợ, ló nanh chó lên trên, mọi loại đầu mắt có ánh sáng rực rỡ, dùng mọi loại Rồng làm chuỗi Anh Lạc, thân cao tám vạn bốn ngàn do tuần, có vô lượng cánh tay cầm các khí trượng, ánh sáng như thời tận Kiếp chiếu sáng, hai môi bặm lại. Quán xong, nên dùng Bản Ấn gia trì năm chỗ trên thân mình, kết Ấn để ngang trái tim, tường Ấn là sợi dây Kim Cang, chân phải đứng theo thế Dư Hiệt Đa Lý Trà, tùy theo chỗ của Ma mà đánh, tức tất cả Chướng đều lui tan “Tên Phẫn Nộ Vương Ấn Hay hoại tất cả chướng

Như Đế Thích thành tựu

Trượng Phu, Na La Diên

Với Đại Oai Đức khác

Mau chóng hoại chư Thiên

Ấn như vậy, sức lớn

Tương ứng, chẳng lâu hoại

Không có các hữu tình

Cõi chúng sanh đã được

Dùng Ấn này mau chóng

Được điều phục, không nghi

Hay trừ tất cả độc

Vừa niệm, trừ các Ma

Các hữu tình bạc ác

Với các nhóm Rồng ác

Các Ma, Đại Chướng Chủ

Mau chóng đều diệt trừ

Làm các việc, không nghi”

Như vậy, Đại Ấn Vô Năng Thắng Đại Phẫn Nộ Vương này nơi Phật Đảnh dạy bảo người tu hành, nên dùng ở chỗ có tất cả Đại Chướng, hoàn thành tất cả sự nghiệp

Tức người Trì Minh đối trước tượng, đốt 1008 chén đèn bơ, có bạn giúp đỡ (trợ bạn) làm ích lợi hữu tình, khởi Đại Bi, kết Luân Vương Căn Bản Ấn niệm tụng cho đến nửa đêm tức có tướng hiện ra. Người trì Chân Ngôn nên biết ta quyết định thành tựu. Tượng cử động thành động đất, liền lấy nhóm hương hoa đã để lúc trước, cúng dường Phật Bồ Tát với tượng, với tất cả Kim Cang Bộ. Hiến hương hoa xong, đốt Trầm Thủy Hương nơi Kim Cang Thủ, dâng hiến dùng Đảnh Luân Vương Căn Bản Chân Ngôn.

Lại ngồi Kiết Già, kết Ấn, chuyên chú một ý niệm tụng cho đến sáng thởi ở khoảng trung gian, tức thấy Phật Thế Tôn, liền được năm Thần Thông, được Đại Địa Bồ Tát, biết ngôn ngữ oai nghi của tất cả hữu tình, được Thần Cảnh Thông, cho đến thân trên tuôn ra nước, thân dưới phát ra lửa, đi đến chỗ của Đế Thích thành tựu. Kẻ nhìn thấy người thành tựu đều cùng nhau bay trong hư không, có vô lượng Trì Minh vây quanh, muốn đi đến đâu đều tùy ý liền đến, vô lượng đời sau đắc được Bồ Tát Hạnh, oai đức không thể so sánh, một thân hiện nhiều thân, nhiều thân hiện một thân, làm trăm ngàn vô lượng biến hóa. Vách đá với nước .. đều qua lại không ngại, tùy ý trụ trong đời. Nhóm như vậy do thấy Như Lai được trăm ngàn Công Đức, được Văn Trì Đà La Ni, khi kiếp hoại thì qua Thế Giới khác”.

_Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai quán sát Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ nói Đại Thành Tựu. Lúc trước đã nói nơi chốn, làm Pháp Tiên Sự… Ở nơi thanh tịnh an tượng Bổn Tôn, vào lúc trăng tròn của phần Thần Thông (tháng 1, tháng 5, tháng 9), có trợ bạn hoặc không có trợ bạn, kiên cố dõng mãnh một ngày một đêm, ở trước tượng cúng dường rộng lớn, dâng ba món thức ăn màu trắng và ban thức ăn cho các

Quỷ Thần, có Chuyển Luân Vương Mạn Trà La

A Xà Lê họa Mạn Trà La, hoặc theo Thầy được ấn khả, nên tự vẽ không có lỗi lầm. Ở trong Mạn Trà La trương tượng làm hộ giúp, kết Phương Ngung Giới đều dùng Chân Ngôn, tất cả Ấn Khế đã nói như lúc trước. Ngồi Kiết Già, dùng Bản Chân Ngôn nghênh thỉnh Bản Tôn,. Dùng tất cả hoa trắng với hoa có mùi thơm nên cúng dường tất cả Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, tùy theo nhóm thức ăn uống có được mà cúng dường. Liền định ý quán Kim Cang Thủ mà làm cúng dường lớn. Ân cần cúng dường Kim Cang Câu, Kim Cang Quyền Bồ Tát,. Dùng hương hoa cúng dường bậc Trí của Kim Cang Bộ khác. Liền ngồi Kiết Già đối trước mặt Phật, dùng lửa không có khói đốt Trầm Thủy Hương 1008 biến, tụng mà Hộ Ma, tức hiện chướng nạn, mọi loại hình ác. Dùng Phẫn Nộ Vương Ấn đánh tức chúng liền bỏ chạy bốn phương.

“Chân Ngôn Ấn tương ứng

Nên ném đánh bốn phương

Dẫu khiến là Thiên Vương

Với hiện bày Đế Thích

Thế Gian Dục Tự Tại

Ma Thiên Đại Ba Tuần

Hoặc tự Đảnh Hạnh Tôn

Phẫn Nộ Vương sẽ hoại

Oai lực Ấn Chân Ngôn

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni nói Già Tha (Kệ Tụng) này:

“Đại Tự Tại Thiên Vương

Hoặc Phạm, Na La Diên

Nhật Thiên hoặc Hỏa Thiên

Thủy, Nguyệt Thiên, Diệm ma

Loại trụ nơi hoang vắng

Xoa Vương (vua dạ xoa), Câu Vĩ La

Ấn Chân Ngôn như Giáo

Sát na liền diệt hoại”

Tức người thành tựu, tất cả đều dùng Đại Phẫn Nộ Vương Vô Năng Thắng, khiến ngưng dứt tùy theo nơi nào đến gây chướng nạn. Trước tiên gia trì vào nhóm hạt cải trắng, khiến Trợ Bạn ném rải, hoặc tự mình ném.

Trước tiên để riêng hương hoa, mỗi mỗi gia tri ném rải Đảnh Luân Vương, Tâm quán niệm Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, khiến cảnh giác gia trì, tức ma chướng đều ngưng dứt. Từ Phật Đảnh Vương phóng ra ánh sáng, chiếu sáng ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, che lấp tất cả cung Trời. Vì cảnh giác Kim Cang Thủ, cho nên ánh sáng cảnh giác càng thêm chiếu sáng Thân, từ trong cung của mình vô lượng trăm ngàn Trì Minh Minh Vương Thượng Thủ, Kim Cang Tướng, Tô Ma Hô, Đảnh Hạnh, cùng với Trì Minh Vô Lượng Thắng Tuệ Nữ Sứ Giả, Thượng Thủ Minh Vương Phi đều đủ cả, vô lượng Đại Bồ Tát trước sau vây quanh, vô lượng Sứ Giả nữ, Chế Tra Chế Phụng Giáo với Nữ Phụng Giáo, vô số câu chi thiên Ấn Khế, câu chi Luân Vương đều đi đến ban Nguyên cho người thành tựu. Do Bản Nguyện trước kia, cho nên Đức Phật Thế Tôn chẳng có nói sai. Khi Bí Mật Chủ đến thời ở khoảng trung gian ấy, tất cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách. Tất cả Trời, Rồng, Dược xoa, Càn Thát Bà,

A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già… đủ mọi sắc loại cúng dường nơi Kim Cang Thủ. Tất cả hữu tình ở Địa Ngục trong khoảng sát na được an vui, ngay lúc ấy không có một hữu tình nào làm hại lẫn nhau. Tất cả Thế Gian, Xuất Thế Gian, người tu Chân Ngôn Minh, do Bồ Tát gia trì đều được thành tựu.

Tức Hành Giả đã để nước hương, Át Già lúc trước. Kim Cang Thủ xoa đảnh đầu Hành Giả mà khen rằng: “Lành thay! Lành thay Đại Tát Đỏa! Lành thay Đại Trượng Phu!”. Như vậy, Bồ Tát đều ngợi khen. Do Kim Cang Thủ vừa mới xoa đảnh đầu, cho nên tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa với Trời Tịnh Cư tuôn mưa hoa, ở trên hư không đều tấu âm nhạc. Tất cả cỏ cây với núi non đều hướng về Kim Cang Thủ Bồ Tát cúi đầu, không có một hữu tình nào có thể gây tổn hoại. Tức Kim Cang Thủ Bí mật Chủ hay điều phục vô lượng hữu tình khó điều phục. Do Đại Bồ Tát yêu thương (Maitra: Từ) gia trì Hành Giả trao cho chày Kim Cang: “Này Đại Tát Đỏa! Chày Kim Cang này vì khiến điều phục hữu tình khó điều phục, đắc được Bồ Tát Địa cho nên dùng yêu thương (Từ) gia trì Tam Ma Địa Kim Cang. Thiện Nam Tử dùng điều này mà ngươi làm lợi ích cho hữu tình, nơi Phật Thế Tôn cầm cây phất vàng, nơi Phật Thế Tôn hộ trì Giáo Lệnh, nơi Bồ Tát Hạnh ân cần làm”

_Bí Mật Chủ nói như vậy xong, trong giây lát ẩn mất chẳng hiện. Khoảng sát na ấy Hành Giả như Kim Cang Thủ khó nhìn thấy cùng với quyến thuộc, cho đến thấy người và người được thấy đều bay trong hư không tràn đầy ánh sáng, chư Thiên khen ngợi tuôn mưa hoa, hữu tình ưa thích đều bay trong hư không, được làm Bồ Tát, đươc Thần Thông, điều phục kẻ khó điều phục, không ai có thể đối địch nổi, làm Đại Trì Minh Chuyển Luân Vương tùy ý trụ nơi đời cùng trăm ngày quyến thuộc bay trong hư không, đến vô lượng Thế Giới thấy Phật nghe Pháp đều được hiểu rõ, biết tất cả Thần Thông du hí, cùng trụ với Đại Bồ Tát, lại đến Thế Giới Cực Lạc thấy Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, với thấy Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát với Bồ Tát khác, đều dùng tướng Đại Nhân trang nghiêm, đầu có đảnh kế, dùng mọi loại Chân Ngôn Giáo làm lợi ích cho chúng sanh.

Ta lược nói cho đến thứ tự ngồi Bồ Đề Tràng, chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, Tất cả tối thắng thành tựu như vậy chẳng nên trao cho người chẳng thọ Quán Đảnh, người ác với người chẳng phát Tâm Bồ Đề, người ở Nhị Lệ Xa (biên địa hạ tiện) chẳng gom chứa Tư Lương, người hủy báng Hòa Thượng A Xà Lê. Ngươi như Thuyết tu hành, tất cả đều thành tựu.

 

BỒ TÁT TẠNG PHẨM THỨ CHÍN

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai nhập vào Nhiếp Nhất Thiết Phật Đảnh Năng Tồi Nhất Thiết Tam Ma Địa. Do Đức Phật vừa mới nhập vào Tam Ma Địa này, thời lúc ấy ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách, phát ra vô biên ánh sáng. Dùng ánh sáng ấy chiếu sáng cho đến vô lượng Thế Giới ở mười phương đều vòng khắp tất cả. Dùng ánh sáng lớn ấy chiếu sáng: ở phương Đông có Đức Kim Cang Tràng Như Lai làm Thượng Thủ, hằng hà sa số đẳng Như Lai như vậy. Phương Tây có Đức Vô Lượng Thọ Như Lai làm Thượng Thủ., như vậy tất cả nhiếp nhập vào Phật Đảnh Vương, do nhập vào Tồi Nhất Thiết Ma Tam Ma Địa. Như vậy phương Bắc có Đức Quang Minh Vương Như Lai làm Thượng Thủ. Như vậy phương Nam có Đức Đế Thích Tràng Như Lai làm Thượng Thủ. Như vậy phương trên có Đức Thắng Đấu Chiến Như Lai làm Thượng Thủ. Như vậy phương dưới có Đức bảo Liên Hoa Sơn Vương Như Lai làm Thượng Thủ. Như vậy, tất cả Như Lai ở mười phương đều nhập vào Đảnh Luân Vương Chân Ngôn. Nhóm ấy đều nhập vào Năng Tồi Nhất Thiết Ma Tam Ma Địa. Hết thảy cung Ma trong tất cả Thế Giới ấy đều như một đống lửa lớn. Hết thảy chúng Thiên Tử của Ma Giới kêu gào kinh sợ, khắp thân tuôn mồ hôi, đều mất Thần Thông của mình. Tất cả Bồ Tát vì cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho nên bên trên từ hư không tuôn mưa hoa, hoặc tuôn mưa cây Kiếp Thụ…. Nhóm mây hoa sen, Ngưu Đầu, Chiên Đàn, áo, lụa… che mưa. Hết thảy hữu tình sanh trong các nẻo Địa Ngục, Bàng Sanh, Ngạ Quỷ… trong khoảng Sát Na đều được an vui tối thắng, lìa tất cả khổ bức

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai từ Tam Ma Địa ấy đứng dậy, bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Này Kim Cang Thủ! Nay ông thọ nhận Đại Phẫn Nộ Vương này, tất cả Như Lai đã nói, vì người thành tựu Đảnh Luân Vương Chân Ngôn, khiến làm gia hộ. Như vậy tất cả Như Lai trong tất cả Thế Giới đều từ Tam Ma Địa ấy khởi dậy, mỗi mỗi đều ở trong Thế Giới vì Bồ Tát kia nói”

Khi ấy, Kim Cang Thủ Bí Mật Nhủ, nhiễu quanh Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến tri trăm ngàn vòng, rồi quay trở lại ngồi ở tòa hoa sen báu, đứng quán sát không nháy mắt, Quán xong bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Thế Tôn! Nguyện xin nói Đại Phẫn Nộ Vương, vì con thành tựu, cho nên thành tựu tu Đảnh Luân Vương Chân Ngôn Bồ Tát Ma Ha Tát”.

Thời Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai dùng niềm vui của ý mình, như tiếng trống hiển sướng, như tiếng biển, như tiếng sấm lớn, thâm sâu khéo léo màu nhiệm, mọi loại đẹp đẽ rộng lớn như tiếng Ca Lăng Tần Già, mạnh mẽ cảnh báo vô biên Thế Giới. Dùng Như Lai Hống mãn tất cả ý nguyện, khiến cho tất cả Bồ Tát vui thích. Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai bình đẳng trụ ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, nói Vô Năng Thắng Đại Phẫn Nộ Vương:

“Nam mô tam mạn đa một đà nam, a bát-ra để ha đa xá sa na nam. Úm, hồng, nhĩ nõa lý trí tra, hồng hồng, phát, sa-phạ ha

Này Kim Cang Thủ! Đây gọi là Vô Năng Thắng Đại Phẫn Nộ hay đập tan tất cả Tỳ Na Dạ Ca gây chướng, hay vượt qua tất cả Ma Đạo, hay điều phục tất cả hàng Tỳ Na Dạ Ca gây chướng ác, Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già… là điều mà vô lượng trăm ngàn cau chi Phật đã nói, hay chặt đứt tất cả Chân Ngôn Phẫn Nộ thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian, hay làm lợi ích cho người tu tất cả Phật Đảnh Chân Ngôn, hay đập tan vô lượng trăm ngàn câu chi Ma, hay hộ giúp người tu Luân Vương Chân Ngôn, tất cả Thời điều phục tất cả Ma chướng, nhiếp nhập vào Đảnh Luân Vương Tam Ma Địa”.

Khi Thế Tôn nói Đại Phẫn Nộ Vương thời trong khoảng sát na: chữ, câu, ngôn thuyết do oai thần của Phật ở Tập hội Mạn Trà La này phát ra tiếng sư tử rống rất đáng sợ, hiện hình bạo nộ

Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật vì thương xót hữu tình khó điều phục, cho nên làm việc của Như Lai, biến hóa Đại Phẫn Nộ, lợi ích cho Bồ Tát Ma Ta Tát siêng tu Đảnh Luân Chân Ngôn Hạnh, hiện bày Tát Bà Nhã (Sarva-jñā: Nhất Thiết Trí) cho nên phát ra tiếng sư tử rống.

Đức Như Lai gia trì hình tượng như vậy, hình đáng sợ, ló nanh chó lên trên, lộ mọi loại đầu, ánh mắt sáng lòa, dùng mọi loại Rồng làm chuỗi Anh Lạc, thân cao tám vạn bốn ngàn do tuần, có vô lượng cánh tay cầm các thứ khí trượng, ánh sáng chiếu rực như kiếp tận, hai môi bặm lại. Tất cả hàng Tinh Diệu, Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La …đều tồi phục, ở tất cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới do oai quang chiếu đến che lấp, trừ ánh sángcủa Phật với Bồ Tát trụ bBất Tư Nghị Giải Thoát Tam Ma Địa ngoài ra các ánh sáng khác đều không chiếu sáng được, tại sao thế? vì do gia trì vậy”.

Thời Đại Phẫn Nộ Vương nhiễu quanh Đức Thích Ca Mâu Ni Phật theo bên phải rồi bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Đại Tinh Tấn hiện bày Giáo Lệnh. Con làm thế nào để y theo sự dạy bảo của Đức Như Lai mà trụ?”.

Đức Phật bảo Đại Phẫn Nộ: “Ông đến nơi có người thực hành Gia Hạnh của tất cả Phật Bồ Tát, làm lợi ích an vui, khiến cho đắc được bất Thoái Chuyển Bồ Tát Địa, khiến nhập vào tất cả Như Lai Giáo, an lập Như Lai Giáo, vì tu tất cả Phật Bồ Tát Hạnh, nhập vào Đại Thừa…điều phục hữu tình ác, kẻ có Tâm tội lỗi hung bạo khó điều phục, hủy hoại Phật Pháp, Tỳ Na Dạ Ca gây chướng khó điều phục… dùng thân hình như vậy khiến thọ ba Quy Y, khiến cho tất cả kẻ khó điều phục phát Tâm nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, ở tất cả Thế Giới làm Phật sự, sẽ thành lợi ích an lạc cho chúng sanh, được Đạo giải thoát vô thượng”.

Thời Đại Phẩn Nộ Vương vì lợi ích chúng sanh, cho nên biến hóa Đại Phẫn Nộ Vương trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này dùng tiếng Hồng (HŪṂ) tràn đầy khắp, thành tựu Chân Ngôn mà tất cả Như Lai đã nói, làm tất cả Phật Bồ Tát Hạnh, dùng sự gia trì của tất cả Như Lai, lại nói Chân Ngôn này:

“Nam mô tam mạn đa một đà nam, a bát-ra để ha đa xá sa na nam. Úm, hồng, nhĩ nõa lý trí tra, hồng hồng, phát, sa-phạ ha

 

Lúc đó, Đức Như Lai đã được Thắng Tam Ma Địa Phẫn Nộ Vương nơi câu Chân Ngôn thành tựu, thời nhìn thấy tất cả Đại Địa như kiếp hỏa, tất cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới rúng động, cực rúng động, rúng động khắp, lay động, cực lay động, lay động khắp… như vậy Thế Giới này chấn động theo sáu cách. Tất cả cung điện của Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già… cung của Ma đều chấn động, ánh sáng rực rỡ khắp nơi,… tất cả hàng Trời bị mất Thần Thông của mình đều run rẩy, tất cả Tỳ Na Dạ Ca khó điều phục đều buồn rầu… do bị ánh sáng bức não nên đều quy y Phật, Pháp, Tăng, đều nói lời như vầy: “Thế Tôn! Từ đây về sau, chúng con đều làm lợi ích cho tất cả hữu tình”

Tất cả Tỳ Na Dạ Ca gây chướng với và nhóm Quỷ Mỵ có Đại Oai Đức khó điều phục..đi đến chỗ của Đức Thế Tôn, cúi đầu mặt lễ bàn chân của Đức Phật, dùng một âm thanh nói lời này: “Thế Tôn! Ở hết thảy thời Mạt sau này, người muốn thành tựu

Đảnh Luân Vương Chân Ngôn, nếu tụng thời chúng con ban cho thành tựu”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Tỳ Na Dạ Ca gây chướng ấy, khen ngợi rằng: “Lành thay! Lành thay! Đại Chướng Tỳ Na Dạ Ca khéo nói lời này, Như Lai đều tùy vui”.

Thời tất cả Tỳ Na Dạ Ca gây chướng ấy, dùng âm thanh nói lời này: “Thế Tôn! Vì Thiện Nam Tử kia siêng tu Đảnh Luân Chân Ngôn mà làm gia hộ tăng thêm sức niệm ấy”

_Bấy giờ, Thiên Đế Thích cúi đầu mặt lễ bàn chân của Đức Phật, rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con theo nhiều Đức Như Lai, được nghe nói Chân Ngôn Hạnh.

Thế Tôn! Nếu lại được vào Chuyển Luân Vương Tam Ma Địa biến hóa thì ở Đảnh Luân Vương Tam Ma Địa này được hữu tình không có nghi ngờ, gom chứa vô lượng căn lành.

Thế Tôn! Nếu có người tu được vào Phật Đảnh Chân Ngôn Hạnh, nếu thọ trì đọc tụng vì người khác nói. Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con sẽ cùng với hàng tùy tùng vì Thiện Nam Tử ấy mà làm thừa sự”

_Thời bốn vị Đại Thiên Vương cùng với quyến thuộc, bạch Phật rằng: “Nơi chốn ở thôn ấp, tụ lạc, vương thành (cái thành của vua chúa)… thành tựu Phật Đảnh Luân Vương này, hoặc lưu hành ở nơi chỗ niệm tụng.

Thế Tôn! Con với quân quyến thuộc, tùy tùng làm gia hộ trong năm do tuần

Thế Tôn! Nếu thành tựu niệm tụng Minh Vương thì chúng con, bốn Thiên vương, cùng với quyến thuộc đi đến chỗ ấy cung kính hầu hạ Hành Giả. Nơi tu Luân Vương Chân Ngôn thì tất cả Tỳ Na Dạ Ca gây chướng mong cầu dịp thuận tiện, ắt chẳng được dịp thuận tiện nào để gây hại”.

_Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: “Này Bí Mật Chủ! Ông hãy nói Chân Ngôn của mình (tự Chân Ngôn), vì người tu Đảnh Luân Vương Chân Ngôn hủy hoại chướng, nên thủ hộ, ngưng dứt tai vạn, được cát tường”

Lúc đó, Kim Cang Thủ được Giáo Lệnh của Đức Thế Tôn, dùng sức oai thần của Phật, nói Tự Tâm Tứ Tự Chân Ngôn Minh Vương:

“Nam mô tam mạn đa một đà nam, a bát-ra để ha đa xá sa na nam. Phạ nhật-ra, hồng phạ

 

Khi Kim Cang Thủ nói Đại Minh Vương Chân Ngôn thời ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này chấn động theo sáu cách, mười phương ở trong hư không, Tỳ Na Dạ Ca kêu ra tiếng A Ha.

Thời Kim Cang Thủ nói lời như vầy: “Thế Tôn! Nếu có người thành tựu Luân Vương Phật Đảnh Chân Ngôn. Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni… phát Tâm Bồ Đề, ba thời tụng Chân Ngôn của con một biến thì tất cả Tỳ Na Dạ Ca gây chướng chẳng được đến gần. Con vì người Trì Minh ấy, cầm chày Kim Cang làm gia hộ, tất cả thời ban cho thành tựu Chân Ngôn Minh của Hành Giả ấy”

_Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: “Này Bí Mật Chủ! Nếu thọ trì Luân Vương Phật Đảnh Đại Minh Vương này, Tam Muội tối thắng của tất cả Như Lai… Hoặc đọc hoặc vì người khác rộng nói, hiển bày, vì nhiều hữu tình trong đêm dài làm lợi ích an lạc, vì chứng Như Lai Trí (Tathāgata-jñāna) cho nên tu hành. Nếu có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân, hoặc thành, hoặc đọc, hoặc cúng dường, hoặc thường niệm tụng… thì người ấy chẳng bao lâu ắt mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề

_Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Thượng Thủ Phổ Hiền Bồ Tát Đẳng: “Thiện Nam Tử ở a tăng kỳ câu chi kiếp gom chứa Chánh Đẳng Bồ Đề, Ta tùy vui nơi pháp yếu như vậy, được Phật gia trì nhiếp thọ. Sau khi Như Lai vào Niết Bàn, trong thời mạt, ở Thiệm Bộ Châu (Jambu-dvīpa) có hữu tình gom chứa căn lành, viết chép Kinh, cuộn giữ Kinh nơi bàn tay. Nếu lại có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân, Trời, Rồng, Dược xoa Vương, Đại La Sát Vương… gom chứa căn lành, đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, ẩn thân nơi chúng sanh mà gia hộ”

Thời Bồ Tát Thượng Thủ của nhóm Phổ Hiền bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Lạ kỳ thay Pháp Giáo này!

Thế Tôn! Chúng con vì Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân siêng tu Đảnh Luân ấy. Nay Vô Thượng Bồ Đề mà Đức Như Lai đã gom chứa trong vô số trăm ngàn na do tha kiếp, chúng con sẽ hộ giữ. Nơi loại như vậy, hoặc thọ trì, hoặc đọc tụng cho đến viết chép Kinh Quyển, hoặc gia trì thêm sức niệm của kẻ ấy . Do sức niệm này, nghe Pháp Giáo của loại như vậy, hoặc nghe viên chứng, sẽ thọ trì đọc tụng viết chép”.

_Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Thiên Chú rằng: “Thiên Tử ở nơi chốn lưu chuyển Pháp Giáo này thì các ông nên tác tưởng chuyển bánh xe Pháp. Như vậy, Thiện Nam Tử nếu cúng dường Chánh Pháp thì nên biết như cúng dường nơi Ta. Tại sao thế? Này Thiên Tử! vì Pháp Thân là thân của Như Lai, nếu cúng dường Pháp tức là cúng dường Như Lai”

Lúc đó, Đức Thế Tôn nói Già Tha (Kệ Tụng):

“Trì Giới, trụ Lan Nhã

Thành ấp với tụ lạc

Nếu muốn Thượng Thành Tựu

Chẳng chê bai, lừa dối

Thường làm nơi lợi ích”

_Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát Đồng Tử: “Bồ Tát Ma Ha Tát tu Phật Đảnh Chân Ngôn như vậy, đắc được Pháp như vậy, tu Chân Ngôn Hạnh mãn tất cả Pháp của Bồ Tát. Này Đồng Tử! Ta lược nói được vô lượng Pháp Thần Thông của Bồ Tát, ở đây lại nói Pháp khéo léo của Phật Đảnh Chân Ngôn Hạnh

Thời vô lượng trăm ngàn Bồ Tát ở chỗ của Đức Thế Tôn, tự cởi mọi loại chuỗi Anh Lạc bằng vàng, bạc, trân châu từ cổ của mình… vì cúng dường Pháp cho nên xả thí cúng dường.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo tất cả Chúng Hội rằng: “Nếu có thành tựu Minh Vương này, nơi Bồ Tát Hạnh ấy, từ đây buông xả hết cho đến ngồi Bồ Đề Trường… sẽ chẳng rơi vào nẻo ác, chẳng sanh vào dòng tộc hèn kém, chẳng tệ ác, chẳng đoản thọ, thọ mạng lâu dài, khéo thành thục hữu tình, thành tựu cõi Phật, chẳng mê hoặc Tâm Bồ Đề, nơi sanh ra nhớ Túc Mạng, được Văn Trì chẳng quên, tập hội không tận, thường ưa thích vắng lặng, thành tựu Phước lớn của Đại Biện Tự Tại, hình sắc màu nhiệm chẳng khuyết giảm, lời nói có đủ oai khiến người ưa thích nghe, khéo thừa sự tất cả Như Lai, khéo mãn tất cả Ba La Mật, là nơi nhiếp thọ của bạn tốt, xa lìa bạn ác. Trời, Rồng, Dược Xoa, Bộ Đa, Mỵ, Mẫu Thiên, Tỳ Xá Già, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già… chẳng thể tự hoại, lìa tất cả bệnh tật, chẳng bị chết yểu không đúng thời, đều được thành tựu tất cả Minh (Vidya), tất cả chỗ đã phát khởi đều khéo hay làm, dùng phương tiện thiện diệu hay thành tựu tất cả sự nghiệp.

Này Thiện Nam Tử! Ta lược nói: người thành tựu Đảnh Luân Chân Ngôn, đắc được vô lượng Công Đức, phước lợi. Tất cả Thư Luận, Công Xảo của Thế Gian đều hay biết, cho đến ngồi Bồ Đề Trường

_Đức Thế Tôn nói Kinh này xong thời Đại Bồ Tát Ma Ha Tát ấy với Thanh Văn, tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người, Phi Nhân… tất cả Tập Hội ấy nghe điều mà Đức Phật đã nói, đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành

 

NHẤT TỰ KỲ ĐẶC PHẬT ĐẢNH KINH

_QUYỂN HẠ (Hết)_

Hiệu chỉnh xong một Bộ gồm 3 quyển vào ngày 04/09/2014