KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG

KINH SỐ 951

Hán dịch: Đại Đường_Nam Thiên Trúc Tam Tạng BỒ ĐỀ LƯU CHÍ
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

 

QUYỂN THỨ NHẤT

TỰA PHẨM THỨ NHẤT

Ta nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở nước Ma Kiệt, nơi đạo tràng Kim Cang dưới cây Bồ đề, thành Chánh Giác ở trong đại bảo trướng. Đất nơi bảo trướng do Như Lai cảm ra đầy đủ việc trang nghiêm thanh tịnh, toàn dùng vô lượng thượng diệu trân kỳ, các thứ trang nghiêm tự nhiên mà hiện ra, các màu sắc xen lẫn nhau phát ra ánh sáng lớn. Bánh xe báu kỳ lạ đặc biệt thanh tịnh tròn đầy dùng vô lượng màu sắc xen nhau để nghiêm sức, hiện ra vòng khắp đất ở đạo tràng, mọi lọng báu, phướng, phan đủ màu sắc vi diệu sáng sủa rực rỡ. Võng lưới bảy báu, các thứ diệu hương, dây hoa, che bên trên, tuôn mưa tất cả các thứ báu lớn, tự tại hiện ra nơi cây báu, nhành lá sáng rực, hoa hương thơm ngát. Do thần lực của Đức Phật khiến cho đất của đạo tràng này rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh, ánh sáng chiếu khắp. Hết thảy các vật báu đặc biệt kỳ lạ gom lại thành đống, vô lượng thiện căn trang nghiêm đạo tràng. Cây Bồ Đề ấy cao lớn đặc biệt, lưu ly làm cán, các báu làm cành, lá báu rũ xuống như đám mây, đủ các hoa báu màu sắc xen lẫn, đại bảo ma ni dùng làm trái ánh sáng của cây chiếu khắp hết thảy các cõi Phật, hiện ra các thứ làm Phật sự, hiện ra khắp Đại Thừa Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Tối Diệu Chương Cú Bồ Đề Đạo Giáo. Do thần lực của Đức Phật nên diễn ra các thứ Phạm Âm, tiếng vi diệu ngợi khen vô lượng công đức của Như Lai Nhất Tự Minh Đảnh Luân Vương Chú. Tòa sư tử do Kim Cang tạo thành, cao lớn đẹp đẽ vô cùng, Ma Ni Bảo Vương làm đài, hết thảy hoa báu kỳ diệu, ngọc báu xen lẫn nghiêm sức, chơn châu làm lưới che phủ ở trên, các báu trang nghiêm tuôn ra ánh sáng như mây chiếu soi mười phương chư Phật Bồ Tát, hiển hiện Giáo phương tiện của Như Lai.

Bấy giờ Đức Thế Tôn ngồi ở tòa này, nơi hết thảy Pháp thành Tối Chánh Giác, thấy biết ba đời thảy đều bình đẳng. Thân ấy hách dịch phóng ra vô lượng cu chi hằng hà sa số ánh sáng mặt trời chiếu sáng các đạo tràng của chư Phật ở tất cả sát hải không có bờ bến ở mười phương… đều ở trong ánh sáng của đạo tràng diễn ra tất cả Pháp Giáo Đạo Hoá của Nhất Tự Đảnh Luân Vương điều phục tất cả hữu tình. Ánh sáng chiếu khắp mười phương không đâu không đến. Hết thảy nơi Thần Biến của tất cả chư Phật qua khứ hiện tại vị lai ở trong ánh sáng đều hiện tất cả các việc tốt đẹp. Các việc khó nghĩ bàn của hết thảy Phật, các thứ trang nghiêm thảy đều hiện ra… cùng với chúng Đại Bật Sô đều là bậc A La Hán hay khéo điều phục, buông bỏ các gánh nặng, dứt hết các Kết Hữu Lậu, không còn phiền não, Giới Phẩm trong sạch, Tâm tịnh giải thoát, Huệ tịnh giải thoát, khéo tu Phật Huệ, chỗ làm đã xong được tự tại lớn, được lợi ích. Tên các vị đó là: Cụ thọ Xá Lợi Phất, Cụ thọ Ca Diếp Ba, Cụ thọ Na Đề Ca Diếp, Cụ thọ Già Da Ca Diếp, Cụ thọ Đại Ca Diếp Ba, Cụ thọ Đại Mục Kiền Liên, Cụ thọ Mãn Từ Tử, Cụ thọ Tôn Bạt Nan Đà, Cụ thọ Ô Ba Nan Đà, Cù thọ Bạt Địa Lợi Ca, Cụ thọ A Nê Lâu Đà, Cụ thọ Ca Chiên Diên Tử, Cụ thọ Ma Ha Câu Hy La, Cụ thọ Kiều Phạm Bát Đề, Cụ thọ Đại Kiều Phạm Bát Đề, Cụ thọ Tôn Na La, Cụ thọ Đại Tôn Na La, Cụ thọ Thiện Hiện, Cụ thọ Kiều Trần Như, Cụ thọ Chế Để Quân Nhạ La, Cụ thọ La Hầu La, Cụ thọ Khánh Hỷ… Chúng Đại Thanh Văn như vậy đều đến dự.

Lại có vô lượng số Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, đều được thành tựu các Ba La Mật, công đức sâu rộng như biển lớn không có bờ bến, Như Lai Hạnh Địa, hết thảy Trí Nguyện, Mật Giáo thâm sâu đều đầy đủ hết. Khéo biết tất cả chỗ làm của hữu tình, dùng trí Kim Cang như ứng, nói Pháp cho họ, khéo vào biển lớn các Pháp thuộc Công Đức của hết thảy Như Lai, tràn khắp trong thân, đi dạo khắp cả Hải Hội các cõi Phật, làm lễ cúng dường chư Phật Như Lai, hết thảy các Địa Đà La Ni biện tài đầy đủ lớn như biển, thảy đều hiểu biết, có vô lượng vô biên thần thông hiện hóa các môn Tam Ma Địa, được vô ngại. Tên các vị ấy là: Kim Cang Tràng Bồ Tát Ma Ha Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Thắng Ý Bồ Tát Ma Ha Tát, Kiên Cố Ý Bồ Tát Ma Ha Tát, Hư Không Vô Cấu Bồ Tát Ma Ha Tát, Ly Cấu Ý Bồ Tát Ma Ha Tát, Phổ

Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát Ma Ha Tát, Hư Không Thắng Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Siêu Tam Giới Bồ Tát Ma Ha Tát, Vô Thắng Trì Bồ Tát Ma Ha Tát, Trị Thế Gian Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Quan Bồ Tát Ma Ha Tát, Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử Bồ Tát Ma Ha Tát, Nguyệt Quang Đồng Tử Bồ Tát Ma Ha Tát, Bất Tư Nghị Huệ Bồ Tát Ma Ha Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Trừ Nhất Thiết Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát, Đại Tấn Tật Bồ Tát Ma Ha Tát, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát, Bảo Kế Bồ Tát Ma Ha Tát, Bảo Chưởng Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Tý Bồ Tát Ma Ha Tát cùng với Bồ Tát Ma Ha Tát của nhóm như vậy đều đến dự.

Lại có ba ngàn Đại Thiên Thế Giới vô lượng vô số chư Thiên, Thiên vương như là: Đế Thích Thiên vương, Đại Phạm Thiên vương, Diễm Ma Pháp Vương, Thủy Thiên Vương, Phong Thiên Vương, Đa Văn Thiên Vương, Tô Tiện Ma Thiên

Vương, Tha Hóa Đại Tự Tại Thiên Vương, Na La Diên Thiên Vương, Y Xá Na Thiên Vương, như vậy cho đến Quang Diễm Thiên Tử, Quảng Quả Thiên Tử, Tịnh Cư Thiên Tử, cùng với các hàng Thiên Vương của nhóm như vậy, bậc có oai đức lớn và quyến thuộc đến dự.

Lại có vô lượng trăm ngàn các Đại Thành Tựu Chú Tiên như là: Thành Tựu Luân Chú Tiên, Thành Tựu Kiếm Chú Tiên, Thành Tựu Kim Cang Xử Chú Tiên,

Thành Tựu Liên Hoa Chú Tiên, Thành Tựu Việt Phủ Chú Tiên, Thành Tựu Như

Lai Chủng Tộc Đại Minh Chú Tiên, Thành Tựu Liên Hoa Chủng Tộc Chú Tiên, Thành Tựu Kim Cang Chủng Tộc Chú Tiên, Thành Tựu Đại Tự Tại Thiên Chú

Tiên, Thành Tựu Na La Diên Thiên Chú Tiên, Thành Tựu Quỷ Mẫu Chủng Tộc Chú Tiên, Thành Tựu Ma Hô La Già Chú Tiên, Thành Tựu Ca Lâu La Chú Tiên, Thành Tựu Long Chú Tiên, Thành Tựu Trà Chỉ Ni Quỷ Chú Tiên, Thành Tựu Dược Xoa Chú Tiên, Thành Tựu Bảo Hiền Mãn Hiền Chú Tiên, Thành Tựu Đa Văn Thiên Vương Chú Tiên, Thành Tựu Thủy Thiên Chú Tiên, Thành Tựu Phạm Thiên Chú Tiên, cùng với các Thành Tựu Chú Tiên của nhóm như vậy, bậc có oai đức lớn đứng đầu đến dự.

Lại có vô lượng trăm ngàn Như Lai Tộc Chúng Chú Vương Sứ Giả, Liên Hoa Tộc Chúng Chú Vương Sứ Giả, Ma Ni Tộc Chúng Chú Vương Sứ Giả, Kim Cang Tộc Chúng Chú Vương Sứ Giả, cùng với Chú Vương Sứ Chúng, bậc có oai đức lớn đứng đầu đến dự.

Lại có Xuất Thế, Thế Gian hết thảy Tháp Thần, Pháp Thần, Hư Không Thần, Hoa Quả Thần, Tư Vị Thần, Miêu Giá Thần, Sơn Thần, Hải Thần, Thần, Châu Thần, Thành Thần, Ấp Thần, Trạch Thần, Nhai Thần, Hạng Thần, Thọ Thần, Tùng Lâm Thần, Thi Đà Lâm Thần, Cung Điện Thần cùng với các Đại Thần Vương của nhóm như vậy, bậc có oai đức lớn đứng đầu đến dự.

Lại có trăm ức Nhật Thiên Tử, Nguyệt Thiên Tử, Tinh Tú Thiên Tử v..v…. bậc có oai đức lớn đứng đầu đến dự.

Lại có hết thảy Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô La Già, Tất Xá Già Quỷ, Bộ Đa Quỷ, Ha Lị Đế Quỷ Mẫu…. bậc có oai đức lớn đứng đầu đến dự.

Lại có Nan Nễ Thấp Bà La Quỷ Vương đứng đầu đến dự. Chủ vô lượng trăm ngàn các Quỷ dùng làm quyến thuộc.

Lại Ma Hê Thủ La Thiên Vương đứng đầu đến dự. Chủ vô lượng trăm ngàn Ngược Quỷ dùng làm quyến thuộc.

Lại Trà Chỉ Ni Quỷ Vương đứng đầu đến dự. Chủ vô lượng trăm ngàn Trà Chỉ Ni Quỷ làm quyến thuộc

Ở trong Chúng Hội, lại có vô lượng chư Thiên, Thiên Tử, A Tố Lạc, A Tố Lạc Tử, Đại Tỳ Na Dạ Ca thuộc phương khác, bậc có oai đức lớn đứng đầu đến dự. Như vậy ba ngàn Đại Thiên Thế Giới hết thảy chư Thiên, chư Đại Chú Tiên, Rồng, Thần, Quỷ v..v… do thần lực của Đức Phật, nơi gốc Bồ Đề chung quanh năm trăm du thiện na, cùng tập họp Chúng đến dự, cùng ngồi nơi tòa mà không có chật chội.

Lúc đó Đức Như Lai bảo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát với các Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Thiện Nam Tử ! Cây này là cây đã được tất cả Bồ Đề trang nghiêm. Đầu tiên Ta ngồi dưới cây này, liền phá bốn Ma được chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Các ngươi cũng nên ngồi ở đất này, khiến các ngươi sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ

Đề của chư Phật”

Nói lời này xong, yên lặng tịch nhiên, không động đậy.

Bấy giờ Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát do nương nhờ oai đức của Phật, nhớ lại chỗ nguyện lực từ trước, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, sửa sang y phục, quỳ thẳng lưng, chắp tay cung kính chiêm ngưỡng bạch rằng: “Thế Tôn ! Nay con xin hỏi Đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác! Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú Giáo, dùng phương tiện nào thực hiện chút ít công lực liền được thành tựu Nhất Thiết Như Lai Nhất Tự Đảnh Luân Vương, Pháp Đại Minh Chú tối thắng không ngại thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian, Pháp họa vẽ đồ tượng, Pháp tắm gội, Gia Hạnh, Ấn Đàn, nhập vào Tam Ma Địa, Pháp Xứ thành tựu Pháp thượng trung hạ, Pháp ngồi, Pháp nằm, Pháp tụng, Pháp trì Pháp Luân kết ấn, Pháp bí mật sâu, Pháp chứng thần thông, Pháp trừ nghiệp chướng, Pháp đại an ẩn, Pháp đại phong nhiêu, Pháp hàng ma oán, Pháp của các Chú chân thật thuộc hết thảy Chủng Tộc của Như Lai, Pháp tự quán đảnh, Pháp Hộ Ma Đàn, Pháp các thời phần, Pháp chọn lựa đất (trạch địa)…. cho đến rộng khắp hết thảy hữu tình và cõi hữu tình Bồ tát thành tựu Hành Pháp, Chú Pháp khiến cho tất cả hữu tình của cõi Thiệm Bộ Châu này được đại an lạc,

Các hữu tình này dùng sức của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Như Lai Chú, hết thảy sẽ được làm Phật sự lớn. Do nhân duyên này hết thảy hữu tình của cõi Thiệm Bộ Châu được đại an lạc. Tức hay thành tựu Đảnh Luân Vương Pháp và được thành tựu Chú Pháp của hết thảy Thiên, hết thảy Thiên Thần chủng tộc. Chú Pháp của hết thảy Rồng, hết thảy Long chủng tộc. Chú Pháp của hết thảy Dạ xoa, hết thảy Dạ Xoa chủng tộc. Chú Pháp của hết thảy La Sát, hết thảy La sát chủng tộc. Chú Pháp của hết thảy Càn Thát Bà, hết thảy Càn Thát Bà chủng tộc. Chú Pháp của hết thảy A Tố Lạc, hết thảy A Tố Lạc chủng tộc. Chú Pháp của hết thảy Ca Lâu La, hết thảy Ca Lâu La chủng tộc. Chú Pháp của hết thảy Khẩn Na La, hết thảy Khẩn Na La chủng tộc . Chú Pháp của hết thảy Ma Hô La Già, hết thảy Ma Hô La Già chủng tộc…. cho đến Pháp thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian thảy đều thành tựu không có chướng ngại. Vì các hữu tình làm nơi quay về, trừ các cấu chướng, thành Chú Pháp của con với thành Chú Pháp Ấn Đàn của Quán Thế Âm Bồ tát, các Đại bồ tát, các bậc có oai đức lớn và thành vô lượng chủng loại Ấn Đàn, Chú Pháp, nơi chốn (xứ) khó thành mà hết thảy Như Lai đã nói. Cúi xin Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thương xót dạy bảo hữu tình, vì con mà nói ra”.

Lúc đó, Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay Bí Mật Chủ! Ông hay vì hết thảy hữu tình đời sau, làm đại lợi ích mà hỏi Ta Chương Cú tối thượng của Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương thành tựu nhóm Pháp Chú Đàn mà hết thảy Như Lai đã nói, khiến cho các Chú Giả trụ lối nẻo cố gắng tu hành (cần tu)

Vì thế, này Mật Tích Chủ ! Ông nên lắng nghe ! Lắng nghe ! Hãy khéo suy nghĩ nhớ giữ ! Nay Ta vì ông phân biệt giải nói Nhất Thiết Như Lai Nhất Tự Đảnh Luân Vương Vô Thượng Pháp Mẫu khiến các Phật Tử được Pháp Nhãn tịnh. Ta thấy hết thảy Như Lai xưa kia đã nói ra, hết thảy Như Lai đời sau sẽ nói, Ta với hết thảy Như Lai ở các cõi nước hiện tại trong mười phương, nay nói ra”.

_Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn liền dùng Pháp Nhãn xem xét vòng khắp hết thảy hữu tình, hữu tình giới thuộc tất cả cõi nước quá, hiện, vị lai ở mười phương với hết thảy hữu tình, hữu tình giới trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này: mỗi một nơi chốn (xứ), căn lành, Nguyện Lực, Nhân phát ra từ xa xưa, rồi bảo các Bồ Tát Ma Ha tát rằng: “Thiện Nam Tử nhớ niệm Nhất Thiết Như Lai Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, hết thảy Đại Tam Ma Địa tối thắng, nơi chỗ có sức thần thông không thể nghĩ bàn. Pháp này hay ở nơi hết thảy Thế Giới, làm Phật Sự lớn”.

Thời các Bồ Tát Ma Ha Tát được Đức Phật dạy bảo, đều nhớ niệm nơi Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Tam Ma Địa Pháp. Chỉ trừ Quán Thế Âm Bồ tát, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát. Tại sao thế ? Do thần lực của Đức Phật vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn ngồi tại đất phước Kim Cang dưới cội Bồ Đề, liền nhập vào Nhất Thiết Như Lai Nhất Tự Đảnh Luân Vương Thần Biến Đại Tam Ma Địa, cùng lúc hết thảy Như Lai trong cõi nước hiện tại ở mười phương đều ngồi tại đất phước Kim Cang dưới cội Bồ Đề, cũng đều cùng vào Nhất Thiết Như Lai Nhất Tự Đảnh Luân Vương Thần Biến Đại Tam Ma Địa. Ngay khi Đức Thế Tôn nhập Thần Biến Tam Ma Địa đó, thời nhớ nghĩ đến khắp mười phương: tất cả hữu tình, hữu tình giới trong cõi nước thuộc ba đời… với hết thảy hữu tình, hữu tình giới trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này, tức dùng vô lượng cu chi hằng hà sa đại kiếp đã tu tập gom chứa vô lượng căn lành của Bố Thí, Tịnh Giới, An Nhẫn, Tinh Tấn, Tịnh Lự, Bát Nhã, Khổ Hạnh… Từ ba mươi hai tướng Đại Trượng Phu phóng ra ánh sáng lớn, ấy là: trên đảnh, lông mày, sợi lông trắng xoay theo bên phải ở tam tinh (hào), mắt, tai, mũi, mái tóc, gò má, môi, miệng, răng, chân răng, vòm miệng, răng nanh, cằm, vai, khuỷu tay, cánh tay, ngực, vú, tim, rốn, tướng chữ trên ngực (chỗ chữ Vạn), bắp đùi đầu gối, bắp chân, gót chân, cổ tay, lòng bàn tay, lưng, ngón tay….

Như Lai Thiên Bức Chuyển Luân Pháp Ấn, Như Lai Như Ý Ấn, Như Lai Sóc Ấn, Như Lai Tích Trượng Ấn, Như Lai Tâm Ấn, Như Lai Nan Thắng Phẫn Nộ Đảnh Luân Vương Tam Ma Địa Nan Thắng Ấn, Như Lai Đại Từ, Như Lai Đại Bi, Như Lai Tam Ma Địa, Như Lai Vô Úy, Thọ Chúng Ký Biệt Như Lai Đại Minh Chú Vương…

Tướng xứ như vậy, mỗi mỗi đều phóng vô lượng ánh sáng. Ánh sáng ấy đều có ánh sáng của chủng tộc vây quanh trang nghiêm, cuối cùng ở trên đảnh phóng vô lượng vô số trăm ngàn ánh sáng kỳ đặc thù thắng. Ánh sáng ấy đều có đủ mọi loại màu sắc như là: Xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, ánh sáng đủ màu. Ánh sáng này sáng chói chiếu khắp mười phương vô lượng vô số các cõi Phật với tất cả Địa Ngục, Bàng Sanh, các cõi trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này, hữu tình có nghiệp đen, tất cả tội não…thảy đều trừ sạch. Tất cả Hạnh Hóa Trì Chú Bồ Tát gặp được ánh sáng này thảy đều thành tựu

Như đây hiện ra hết xong. Ánh sáng thuộc vô lượng Đại Phước của Như Lai đó rộng chiếu thấm nhuần, hiển hiện không thể nghĩ bàn, trải qua giây lát làm lợi lạc lớn. Nhổ hết thảy nghiệp khổ của các hữu tình. Ánh sáng lại che rợp hằng hà sa số tất cả cõi Phật, tất cả cõi Ma, cung điện của Ma, nơi sáng tỏ của Ma… Ánh sáng đều chiếu khắp Thế Giới của nhóm ấy, bên trên đến Trời Hữu Đảnh, bên dưới đến Địa Ngục A Tỳ, các hữu tình trong đó gặp được ánh sáng này đều cùng thức tỉnh, thân tâm vui vẻ. Ánh sáng lại quay về nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi đều trở lại tướng cũ (bổn tướng).

_Khi ấy Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai phóng ánh sáng này xong, từ Tam Ma Địa an ổn đứng đậy, quán các cõi Phật với quán Hội Chúng như Sư Tử Vương bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Nay ông hãy lắng nghe! Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Đại Minh Chú Vương, Phật Nhãn Chú Vương, bốn Ô Sắt Nị Sái Minh Chú Chú Vương. Chú Vương của nhóm này là bàn tay của Như Lai (Như Lai Thủ), là môi của Như Lai (Như Lai Thần), là miệng của Như Lai (Như Lai Khẩu), Chuyển Pháp Luân Vương, ban lợi ích lớn cho hết thảy hữu tình.

Nếu tất cả hàng Bồ Tát Ma Ha Tát với các Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca, các hàng tộc tánh nam, tộc tánh nữ của Thế Giới này đều hay y theo Pháp đầy đủ, đọc tụng thọ trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Minh Chú như vậy thì hết thảy tất cả các Trời, người đời, mọi loại Quỷ Thần đều không thể hại, làm các việc phá hoại… Người đó sẽ được tất cả an thọ (an ổn sống lâu), vô lượng phước lạc, hành Đại Từ Bi, trụ Bất Thoái Địa, không có các phiền não bệnh tật, lửa không thể hại, nước không thể cuốn chìm, đao không thế gây thương tích, không bị trúng thuốc độc, rắn độc.

Một chữ này của Ta sanh ra Tam Ma Địa Đảnh Luân Vương Chú. Nếu có kẻ mới học Đại Thừa Bồ Tát Ma Ha Tát với các hạng người tin tưởng hướng theo, tụng trì, viết chép, đeo mang…liền được an ổn, vì được vô lượng Đại Oai Đức Thiên thường ủng hộ. Các Trời, Rồng, Tỳ Na Dạ Ca ác chẳng thể gây chướng não.

Nếu người viết chép, nên tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới sạch, như Pháp Trai Giới, ngồi bên cạnh Đàn, dùng Hùng hoàng viết Chú trên vỏ cây hoa rồi đem cho các Bật Sô, Bật Sô Ni để trong chéo áo Cà Sa, cung kính mà đeo

Nếu có Quốc vương, vương tộc, phi hậu, đại thần, các kẻ giúp việc trong cung điện các hàng tộc tính nam, tộc tính nữ … vui vẻ đeo mang, đều đội trên đầu, hoặc buộc trên cổ, hoặc trên cổ tay, cánh tay…liền được an ổn, trừ các chướng não, Võng Lượng tật ách… thường được chư Thiên quán kính ngợi khen, sẽ chẳng bị đọa vào các cõi của ác đạo.

Này Mật Tích Chủ ! Đại Chú Vương này cũng hay diệt các Tai Tinh Biến Quái ban cho đại an lạc, cũng hay nhiếp phục hết thảy Trời, Rồng, tám Bộ Quỷ Thần, cũng hay thành tựu các Chú, nghiệp duyên vô thượng”.

_Lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Tất cả Như Lai Bạch Tản Cái Phật Đảnh Luân Vương Chú, Cao Đảnh Luân Vương Chú, Thắng Đảnh Luân Vương Chú, Quang Tụ Đảnh Luân Vương Chú đó ngang bằng trụ ở trong hết thảy Như Lai Tam Ma Địa, Thần Lực đều rộng lớn vô lượng như nhau…nhưng chẳng thể theo kịp sức của Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Tối Thượng Đại Minh Chú. Tại sao Chú này lại hơn hết không có gì sánh bằng ? Ví như Như Lai Phật Nhãn Minh Chú, Phật Hào Tướng Chú, Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú, Nan Thắng Phẫn Nộ Vương Chú, hợp lại mà nói Chú này. Do nhân duyên này được gọi là Tối Thượng Vô Đẳng Lữ (bạn)

Lại từ Đại Bi Đại Trượng Phu Đại Sư Tử Hống, tất cả các hàng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát không thể tồi hoại, Thần Thông oai đức của tất cả chư Phật khánh hộ gia bị làm ánh sáng Đại Trí phá các tối tăm. Tịnh Huệ sâu bền hay làm cát tường, tướng Phước, oai đức, tối thắng của Thế Gian. Thanh tịnh không nhơ, bền vững mạnh mẽ. Hiệu bốn Vô Úy hay làm xa lìa sanh, bốn Trí không ngại, bốn Trí niệm trụ, Trí không quên mất… rộng lớn vô lượng. Hay làm oai đức Đại Quang thuộc mười Lực của Vô Gián Kim Cang diệt các cấu chướng, nhập vào Phật Trí. Hay làm Công Đức thuộc vạn hạnh của tất cả các Đại Bồ Tát, tướng tốt của Như Lai, Nhất Thiết Trí Trí. Hay làm tất cả Pháp dõng mãnh tịch tịch, phướng Định Pháp cao không chướng ngại, chốn Đại Oai Đức hay cho tất cả hữu tình có nghiệp ác. Làm nơi của Đạo Thánh Đế, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả. Hay hiện Thần Lực của tất cả Như Lai, Vô Thượng Bồ Đề, chỗ của Đại Minh Kính Trí Tam Ma Địa”.

_Khi ấy Đức Thế Tôn vì hiển sức đại oai đức của Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương, liền biến thân tướng như Đại Chuyển Luân Vương đầy đủ bảy báu quyến thuộc viên mãn, một thời hiển hiện. Trong mỗi một báu đều phóng ra đại quang luân chiếu vô biên, tất cả Pháp Bảo cùng lúc hiện ra, phóng ánh sáng báu đủ màu. Đại Chuyển Luân Vương đó ngồi ở trên tòa, thân dung hách dịch, phóng mọi loại ánh sáng, ánh chiếu tất cả như vàng đúc trong lò.

Liền nói Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú là:

“Na mạc tam mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) bột-lâm, hồng (4)”

Khi Đức Như Lai nói Chú này thời hằng hà sa đẳng ba ngàn Đại Thiên Thế Giới một lúc chấn động sáu lần như Thiệm Bộ Châu bị gió lốc mạnh thổi bay các thứ cây cỏ trong rừng rậm. Trong đấy hết thảy núi Tô Di Sơn Vương cũng đều chấn động mạnh. Hết thảy sông, biển thảy đều tuôn trào. Do Thần Lực của Đức Phật nên hết thảy cung Ma đều bị lửa lớn dấy lên khắp cả, trong đấy các Ma bị lửa bức bách thảy đều hoảng sợ, lên tiếng quy y Phật thì hết thảy nỗi khổ ở Địa Ngục đều tiêu tan ngừng dứt.

Hữu Tình cùng với quyến thuộc trong Hội, không một ai có thể nhìn ngó chiêm ngưỡng. Hết thảy các Đại Bồ Tát như nhóm của Di Lặc cũng không một ai có thể thể nhìn ngó chiêm ngưỡng.

Quán Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát do oai thần của Đức Phật bỗng nhiên trong giây lát mê man té xuống đất.

Khi ấy các Đại Oai Đức Thiên kia như là: Đại Tự Tại Thiên, Na La Diên Thiên, Đế Thích Thiên, Câu Ma La Thiên, Bà Rô Nõa Thiên, Diễm Ma Pháp Vương, cho đến hết thảy chư Thiên, Thiên Thần, hết thảy Thần Quỷ, bậc có oai đức lớn….cầm nắm bánh xe, cây kích, cái chày, sợi dây, cây côn, cây xoa và các kẻ theo hầu… các khí trượng cầm ở tay thảy đều rớt xuống.

Đây là các Bồ Tát do sức gia trì của Đức Phật, nhớ niệm Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Bồ Đề Thần Thông Đại Tam Ma Địa của tất cả Như Lai.

Lúc đó, hết thảy chư Thiên, Rồng, Thần, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô La Dà, Thiên Thần, Quỷ ..v.v…. một thời run rẩy sợ hãi, toàn thân dựng đứng lông tóc, không dám nhìn xem oai quang đẹp đẽ của Đại

Pháp Luân Vương, chỉ một lòng quy Phật Thế Tôn

“Nam mô Phật Đà, nam mô Phật Đà”

_Bấy giờ Đức Thế Tôn vì khiến cho Quán Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát với các Đại Chúng được tỉnh lại, trong khoảng phút chốc ẩn dời thân đấy, hoàn lại tướng Như Lai rồi bảo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Ta nay lại nói Nhất Thiết Phật Nhãn Đại Minh Mẫu Chú để ngưng dứt loài đáng sợ khó điều phục. Vì muốn thành tựu Thế Xuất Thế Gian, hết thảy Phật Đảnh Đại Luân Vương Chú, hết thảy sự việc để diệt các tranh luận. Chú đấy tức là Mẫu Chú của hết thảy chủng tộc của chư Phật, lại là mẹ sanh nuôi dưỡng của hết thảy chư Đại Bồ Tát, lại là Phật Nhãn Minh Chú của chư Phật.

Liền nói Chú là:

“Na mạc tát phạ đả đà nga đế biều (1) la hạt mịch (2) tam miệu tam bột thê mịch (3) Úm-hồng (4) rô rô (5) tắc phổ rô (6) nhập phạ la, để sắt đà tha (7) tất đà, lô giả nễ (8) tát phạ lạt đà, sa đà nễ (9) tốt phạ ha (10)”

Nói Nhất Thiết Phật Nhãn Chú này xong, thời Quán Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát ấy, do oai lực của Chú, liền tỉnh lại rồi đứng dậy. Các vị có oai đức ấy, tất cả Thiên Chúng đều được lại Bổn Tâm, sung sướng an vui, mỗi mỗi vị đều cầm lại khí trượng của mình, chuyên tâm quy Phật, chiêm ngưỡng khen rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hiếm có! Bạch đấng Thiện Thệ ! Thật là hiếm có”.

Thời Quán Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, chắp tay chiêm ngưỡng cung kính thưa rằng: “Thế Tôn! Vì sao Đức Như Lai hôm nay lại đặc biệt hóa ra thân Đại Chuyển Luân Vương có nhóm hào quang lớn ? Thật lạ kỳ hiếm có! Từ xưa chưa từng thấy”.

Đức Như Lai bảo rằng: “Này Đại Thiện Nam Tử ! Đây là Nhất Tự Phật Đảnh Đại Pháp Luân Vương nắm giữ Hình Tướng Thần Biến Tam Ma Địa Môn của chư

Phật.

Đại Thiện Nam Tử! Ví như các ông tập hội Đại Đàn, hiện mọi loại oai đức, các tượng Thần Biến, việc không thể nghĩ bàn….thời Như Lai cũng thế, như vậy chấn hiện sắc thân đặc biệt kỳ lạ, dáng mạo, oai đức của Đại Pháp Luân Vương

Đại Thiện Nam Tử! Đảnh Luân Vương này chính là hết thảy Như Lai an trụ thân Tam Ma Địa tối thắng, hết thảy tất cả các Đại Bồ Tát không thể vượt qua, tất cả Chú Vương cũng không thể vượt qua nổi.

Đại Thiện Nam Tử ! Nơi chốn có người trì Chú này thì hết thảy Chú Vương trong năm du thiện na Xuất Thế, Thế Gian đều không có thành trụ. Các ông đồng ở nơi chốn đã nói này, gia trì Đại Chú cũng không có thành trụ. Nếu có người niệm Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú này, liền được hết thảy Đại Chú Xuất Thế, Thế Gian đều thành biện hết.

Hết thảy Chú Pháp mà các ông đã nói, tụng trì không có hiệu nghiệm. Nếu dùng Chú này rồi thường trợ tụng, sẽ mau được thành tựu. Năm du thiện na hết thảy Bồ Tát, Kim Cang, Chú Thần, tám Bộ Trời Rồng đều không trụ nhập hiện tướng thành tựu,

Lại oai đức thần lực của hết thảy Tối Đại Chú Vương khác cũng không thể sánh kịp Đại Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này. Tại sao thế? Vì Chú này có oai thần rất tôn quý (tối tôn), rất đặc biệt (tối đặc) không có bạn bè ngang bằng, hết thảy các Đại Bồ Tát trong mười Địa cũng sợ oai đức thần lực của chú đấy, huống chi là chư Thiên có oai lực nhỏ

Nếu thường tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này, thời trước tiên nên tụng Phật Nhãn Chú này bảy biến xong, rồi mới có thể an Tâm tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú đấy, tụng đủ biến số xong, lại tụng Phật Nhãn Chú bảy biến, liền được an ổn không có các nhiễu não”

_Bấy giờ Đức Thế Tôn lại ngồi trên tòa, hiện ra hào quang của hết thảy chư Phật gia bị cho thân của Bạch Tán Cái Đảnh Luân Vương Chú Vương, tức ở nơi trên đảnh hợp hiện ra một cái lọng tỏa ánh sáng rực rỡ kỳ lạ, che khắp bờ mé hư không trống rỗng trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, nhưng không làm xúc não hữu tình ngụ trong hư không.

Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát chắp tay cung kính chiêm ngưỡng, rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Thần Biến như vậy là tướng của vật gì mà đột nhiên biến Đại Thiên có hình dạng như cái dù lọng, trụ trên đảnh của Phật không thấy bờ mé, không có gì chẳng phân biệt hiểu biết được?”

Lúc đó Đức Thế Tôn lại bảo nhóm Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “ Nay Ta chính thức nhập vào Tam Ma Địa Nhất Thiết Như Lai Vô Lượng Quang Minh Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương, do đấy mà hiện bày Thể của hình trạng của Bạch Tản Cái Đảnh Luân Chú Vương Chú mà hết thảy chư Như Lai ba đời đã cùng nhau tuyên nói.

Bạch Tản Cái này chính là vô lượng sắc bảo (vật báu có hình thể màu sắc khác nhau), vô lượng âm thanh, hết thảy báu Như Ý, chuông lắc tay, lưới, võng của hết thảy Như Lai, trang nghiêm vòng khắp…hiển hiện dù lọng ánh sáng của chư Phật Thế Tôn không thể nghĩ bàn. Nay Ta hiện Nhất Thiết Như Lai Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương này, vì khiến cho trừ bỏ mọi thứ tội chướng của hết thảy hữu tình.

Nay Nhất Thiết Như Lai Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương này, thời hết thảy Bồ Tát, bậc có oai đức lớn cùng nhau suy nghĩ đo lường, cũng chẳng rõ biết được. Giả sử các Phật Tử trụ hơn trăm ngàn câu chi Đại Kiếp, quán sát suy nghĩ bờ mé phía trước, bờ mé ở giữa, bờ mé phía sau của Bạch Tản Cái này, cũng chẳng thấu tỏ được”

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai ngước lên xem xét Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương trên đảnh, khởi động Thần Lực của Phật, đột nhiên biến ra sắc thân của Bạch Tản Cái Đảnh Luân Chú Vương, liền nói Chú là:

“Na mạc sa mạn đả (1) bột đà nẫm (2) Úm-hồng (3) đả đà nga đố sắc nị sái (4) bế nẵng phạ lộ chỉ đả mỗ thúc đà (5) Úm-hồng (6) ma ma (7) hổ-hồng nịch (8)”

Khi nói Chú này thời ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, sáu lần chấn động. Lúc đó Đức Thế Tôn bảo chư Bồ Tát Ma Ha Tát: “Bạch Tản Cái Đảnh Luân Chú Vương này hay thành hay nhiếp hết thảy nhóm Chú, sức của Chú Vương đấy chẳng trống rỗng (bất không), không có Chướng, dũng mãnh không có ngăn ngại, không có gì sánh bằng”

_Bấy giờ Đức Thế Tôn lại vì Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát mà nói: “ Nay Ta lại nhập vào Nhất Thiết Chư Phật Quang Minh Oai Đức Đại Tam Ma Địa nói rõ oai đức thần lực của Quang Tụ Đảnh Luân Vương Chú. Vì diệt mọi loại tội chướng của hết thảy hữu tình. Vì đoạn hoại hết thảy Chú Lực thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian. Chú đấy chính là nơi mà vô lượng các Đại Bồ Tát đã khen ngợi, lại là Quang Tụ Đảnh Luân Vương Chú của vô lượng cu chi căng già sa số chư Phật Như Lai. Chú đấy có hết thảy sức oai đức thần thông quang minh, cũng dùng Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Oai Đức Thành Tựu Kim Cang Chú Cú.

Liền nói Chú là:

“Na mạc sa mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) đả đà nga đố sắc nị sái (4) bế nẵng phạ lộ chỉ đả mẫu khuyển đà (5) đế thiệu la thỉ (6) hổ-hồng (7) nhập phạ la nhập phạ la (8) đà ca đà ca (9) na la na la nhị (10) nhị na ra nhị na ra (11) sân na sân na (12) tần na tần na (13) hổ-hồng hổ-hồng phấn (14) tốt-phạ ha (15)”

Khi nói chú này, thời lúc đó Đức Như Lai liền dùng vô lượng oai đức rộng lớn, trên đảnh đầu phóng ra ánh sáng lớn chiếu đầy ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, tận khắp đất ấy, rộng khắp thành hiện hoa sen báu lớn trong Hội của Như Lai, ánh sáng báu đủ màu lớp lớp chiếu sáng. Ngay trên đảnh đầu của Đức Phật, hết thảy hoa báu làm thành dù lọng che cõi Đại Thiên, trùm đầy bờ mé hư không, dùng các lưới báu trang nghiêm xung quanh. Nhóm hương hoa màu nhiệm, chuỗi Anh Lạc, nửa vành trăng… Chuông lắc tay báu, chuông vàng rũ bày nơi nơi. Đại Bảo Ma Ni, các loại phất trần…xen kẽ nhau trang sức. Xung quanh ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, hết thảy trân kỳ làm tường vách, các báu vô giá dùng làm trang sức các bậc thềm, cửa lớn, cửa sổ đều dùng các báu trang nghiêm. Các báu ấy phóng ra lửa sáng lớn, chiếu sáng lẫn nhau.

Hết thảy chư Đại Bồ tát trong Hội đấy, nhìn thấy Thần Biến này, thấy điều chưa từng thấy, vui mừng hớn hở được đại an lạc. Hết thảy Chú Pháp Xuất Thế, Thế Gian đã được thành tựu thảy đều bị chặt đứt. Vì sao thế? Do sức của kho tàng ánh sáng lớn (đại quang tạng) giống như Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú.

Này Mật Tích Chủ! Nhất Thiết Như Lai Quang Tụ Chiếu Đảnh Luân Vương Chú này hay chiếu khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, bên trên đến Trời Hữu Đảnh, bên dưới đến Địa ngục A Tỳ. Hết thảy ánh sáng lớn cùng che lấp hết ánh sáng Ma Chúng của cung điện của các Ma

Này Mật Tích Chủ! Quang Vương Chú đấy, Tâm đã nghĩ nhớ phá đứt Chú khác, liền đều phá đứt, chỉ trừ Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú, Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương Chú, Cao Đảnh Luân Vương Chú, Thắng Đảnh Luân Vương Chú, Phật Nhãn Mẫu Chú, Phật Ngũ Tự Tâm Chú. Ngoài ra hết thảy các Chú Xuất Thế, Thế Gian đều hay phá đứt, đánh đập điều phục, kêu gọi đều đến trước mặt. Nếu có người trì Chú được chứng nghiệm lớn, tạm thời đọc tụng Quang Vương Chú, liền hay tồi phục hết thảy Quỷ Thần, thuần hóa sai khiến.

Này Mật Tích Chủ! Quang Vương Chú này, đừng ở nơi bất tịnh, hôi thối, tanh tưởi, đại tiểu tiện… đọc tụng thọ trì, cũng không được thọ trì đọc tụng ở nơi không có tháp thờ Xá lợi của Phật, cũng không được đối trước hết thảy các Chú Đàn Hội, chú vào tượng, trước mặt các hữu tình, càn bậy tụng Chú này.

Vì sao vậy? Quang vương Chú này giống như sức của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú có oai đức lớn, chỉ trừ các nơi như chỗ có tháp Xá Lợi của Phật, chỗ Phật nói pháp, nơi Không Nhàn thanh tịnh, nơi đảnh núi cao, nơi hang núi có tiếng tăm, nơi tốt đẹp bên bờ biển, nơi cù lao ngoài biển.

Vì sao vậy? Do Quang Vương Chú này có oai đức rất mạnh mẽ hay làm hoại Đạo Lực của ta và kẻ khác, Công Đức đều không có thành mong ước được.

Nếu có Thiện Nam Tử muốn thọ trì đọc tụng Quang Vương Chú này, đến các chỗ như trên mà thọ trì như Pháp, thời trước cần tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú với Phật Nhãn Chú, đều bảy biến xong, sau đó tụng Quang Tụ Vương Chú sẽ được oai đức lớn, bốn nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) an ổn, da dẻ sáng sủa, thông ngộ Biện Trí

Mật Tích Chủ! Quang Vương Chú này, nếu được thành tựu tức bằng thành tựu Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú Đại Tam Ma Địa. Ông lại nên biết quang minh oai đức của Quang Vương Chú này đều là thần lực quang minh oai đức của hết thảy chư Phật, hay hiện tăng trưởng phước thiện oai đức của hết thảy hữu tình, trừ sạch mọi tội chướng, hay đập phá chặt đứt oai đức thần lực của hết thảy các Chú, khéo hay điều phục hết thảy ác hữu tình khác, khéo hay làm thành hết thảy việc, hay làm ánh sáng chiếu soi hết thảy.

_Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại vì Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát mà nói rằng:

“Nay Ta lại nhập vào Nhất Thiết Như Lai Dõng Mãnh Xuất Hiện Thần Thông Tam Ma Địa, nói rõ thần thông oai đức của Cao Đảnh Luân Vương Chú, trừ các phiền não tội chướng của hết thảy hữu tình trong tam giới. Chú này chính là chỗ hết thảy Như Lai gia trì thần lực, vì muốn cho hết thảy các Đại Bồ Tát tu hành, hiện ra vô lượng oai đức, dõng mãnh tinh tấn được đại an lạc Liền nói Chú rằng:

« Nẵng mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2), hồng (3) nhập phạ la, nhập phạ la (4) tư nễ tệ tư phiếu (5) nga đố sắc nị sái (6) độ na độ na (7) hồ-hồng (8) ».

 

Khi nói Chú này thời ba ngàn Đại Thiên Thế Giới sáu lần chấn động, hết thảy Trời, Rồng, Dạ Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô La Già v.v… thảy đều mê man, mất đại oai đức, hết thảy các Tỳ Na Dạ Ca ác bị lửa thiêu đốt, kêu la kinh hoàng.

Này Mật Tích Chủ! Cao Đảnh Luân Vương Chú này tức là sức của Nhất Thiết Chư Phật Như Lai Tối Đại Thần Thông Dõng Mãnh Tinh Tấn Tam Ma Địa. Nếu Thiện Nam Tử ưa muốn thành tựu Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú, nên cần trang sức trong ngoài sạch sẽ, dùng vỏ cây hoa hoặc giấy lấy tre trắng sạch (ngày xưa không có giấy nên viết lên vỏ cây hoa hoặc trên thẻ tre), lụa… dùng Hùng Hoàng viết Cao Đảnh Luân Vương Chú này, rồi mang đeo nơi vai, cánh tay, cùng trì Chú này sẽ mau được thành tựu.

Nếu có quốc vương, vương tộc, phi hậu, Đại thần, quan thuộc, nam nữ có lòng tin trong sạch, hết thảy nhân dân… tin Chú này thời cũng khiến cho viết chép, đội trên đảnh, đeo mang ở cổ, cánh tay… sẽ được mọi người kính trọng, chẳng dám xâm nhiễu, tai cấu tiêu diệt, sẽ được đầy đủ Biện Tài, tướng tốt lành.

Nếu có quân tướng và các binh chúng tin kính Chú này thời cũng khiến cho viết chép, treo nơi lá cờ và đội trên đảnh, đeo ở cánh tay v.v… đi vào quân trận kia thì quân kia tự thần phục không tàn hại nhau. Vì sao vậy? Do sức gia trì của các Như Lai vậy.

Này Mật Tích Chủ! Cao Đảnh Luân Vương Chú này, nếu các Bồ Tát tu trì, liền được vô lượng Như Lai gia trì oai lực dõng mãnh, hết thảy các Ma, chư Thiên, Thần, Quỷ sợ hãi không dám gần gũi để gây não hại.

Nếu có người thành tựu Cao Đảnh Luân Vương Chú này, liền được vô lượng thắng phước oai đức, được đồng với sức của Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú. Vì sao vậy? Do sức Tam Ma Địa của chư Như Lai gia trì vậy”.

_Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Nay Ta lại nhập vào Nhất Thiết Như Lai Bất Tư Nghị Thần Thông Đại Tam Ma Địa, hiển nói thần thông oai đức của Thắng Đảnh Luân Vương Chú. Vì diệt mọi loại khổ của tất cả hữu tình trong hết thảy Địa Ngục, nẻo ác… cho nên vì họ hiện Nhất Thiết Như Lai

Bất Tư Nghị Thần Thông Đại Tam Ma Địa Liền nói Chú rằng:

“Na mạc sái mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhập phạ la (4) nhạ diệu sắt nị sái (5) bạn đà bạn đà (7) na ma na ma (8) nột rô mãng, nột rô mãng (9) hác (10) khiếm nẵng (11) hổ hồng (12)”

 

Khi nói Chú này thời Đại Thiên Giới này với các cõi Phật, hết thảy đều sáu lần chấn động, dùng oai đức của Phật hiện Thần Biến này, hết thảy khắp cả hữu tình đều không hoảng sợ, khiến cho mọi loại cực khổ của mọi hữu tình ác trong Địa Ngục đều ngưng dứt, chư ngạ quỷ ấy một thời đều được ăn uống các món ngon ngọt, no đủ

Này Mật Tích Chủ! Thắng Đảnh Luân Vương Chú này là điều mà căng già sa chư Phật Như Lai thần thông biến hóa đã diễn nói. Vì muốn cho hết thảy hữu tình bị các sự sợ hãi…được an vui, cho nên nói ra.

Mật Tích Chủ! Chú này ở tại nơi nào mà có người tạm quán, đọc thì hết thảy các Ma chẳng vào bên trong được, huống chi là thọ trì.

Nếu có Thiện Nam Tử ngày đêm tinh cần, đọc tụng, thọ trì Thắng Đảnh Luân Vương Chú này thì chẳng bao lâu sẽ Môn Bất Tư Nghị Giới Thần Thông Thần Biến Tam Ma Địa, được các Trời, người cung kính quán lễ, được Thân tích chứa Công Đức chẳng thể nghĩ bàn.

Nếu người có niềm tin chắc thật học Đại Thừa, lại hay tin tưởng hướng về Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Minh Thắng Chương Cú, hay thường khẩn thiết tinh tấn đọc tụng thọ trì, sẽ mau chứng Nhất Thiết Như Lai Thâm Bất Tư Nghị Bình Đẳng Thần Thông Tối Thắng Thần Thông Trí Tam Ma Địa, vượt qua Phước Thọ tốt đẹp của các hữu tình, được người tôn trọng.

Này Mật Tích Chủ! Như vậy tinh cần thọ trì Thắng Đảnh Luân Vương Chú thì người này không lâu cũng được Thần Thông. Hết thảy hàng Thiên Ma, Tỳ Na Dạ Ca, Quỷ Thần ác… đều không dám gần gũi, nếu gặp người này liền đều bỏ chạy, mất đại oai đức.

Mật Tích Chủ! Nếu người tin tưởng, tu chứng thành Chú này, tức đồng với chứng thành Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Minh Thắng Chương Cú, hay khởi Thần Thông đi vào Địa Ngục độ thoát tội khổ của hết thảy hữu tình.

Mật Tích Chủ! Chú này có vô lượng vô biên thần thông oai đức, nay Ta lược nói chút phần, nếu Ta rộng nói thì trong vô lượng kiếp ngợi khen công đức này cũng chẳng thể hết”.

_Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Thiện Nam Tử! Năm Đỉnh Luân Vương Minh Chú Chương Cú này từ Nhất Thiết Như Lai Thần Thông Uy Lực Đại Tam Ma Địa sinh ra, lưu hiện. Giả sử Ta ở trăm ngàn cu chi đại kiếp, nói thần thông công đức của nhóm Chú này cũng chẳng thể hết. Nay Ta chỉ vì lợi ích độ thoát hết thảy hữu tình, lược nói chút ít. Nếu Như Lai trụ trong trăm ngàn cu chi đại kiếp, nói nhóm Chú của năm Đỉnh Luân Vương Chủng Tộc cũng không thể hết mỗi một bờ mé của năm Chủng Tộc Chú

Này Mật Tích Chủ! Nếu có Thiện Nam Tử ở chỗ của vô lượng Phật Thế Tôn, dùng hết thảy nhóm vật: quần áo, giường nằm, thuốc thang, đồ ăn uống, tài bảo bên trên, ngày ngày ba thời đem đến cúng dường, trải qua trăm ngàn kiếp thì trăm ngàn phần Công Đức đã được, chẳng bằng một phần Công Đức của người trong hai mươi mốt ngày, y theo pháp, trì năm Đảnh Luân Vương Minh Thắng Chương Cú. Vì sao vậy? Vì người đọc tụng, thọ trì trì năm Đảnh Luân Vương Minh Thắng Chương Cú này được thành tựu thì người này quyết định được Bất Thoát Bồ Tát Địa, sắc tướng oai đức thù đặc trong ba cõi, bền chắc tinh tấn vượt qua sanh, già, chết.

Đế Thích, hết thảy chư Thiên đại oai đức trong Dục Giới (Kāma-dhātu), thấy người thành tựu năm Đảnh Luân Vương Chú, chẳng từ chỗ ngồi đứng dậy để nghinh đón, thì cái đầu bị phá vỡ làm bảy phần như nhánh cây A lê

Oai đức thần lực, ánh sáng của thân Đại Tự Tại Thiên, Đế Thích Thiên, Na La Diên Thiên, Đa Văn Thiên Vương, với các hàng Trời… đều bị ánh sáng oai đức của người trì Chú của năm Đảnh Luân Vương che lấp không hiện được, oai quang của người này luôn rực rỡ màu nhiệm hơn chư Thiên gấp ức trăm ngàn vạn lần.

Lại có người đại phước thuẩn Thiện Đức, tin tưởng, ý ưa thích thành Chú này, liền nên như Pháp viết chép Kinh này, đọc tụng thọ trì, thường dùng hương xoa bôi, hương bột, hương đốt, hoa quả, đồ ăn uống mà cúng dường. Người này nếu thấy và tin Thần Thông, oai đức mười lực, hết thảy Pháp thâm sâu của Đức Phật, hành Bồ Tát Thừa (Bodhisatva-yāna) liền nên vì họ mà nói, không được keo kiệt giữ lấy cho riêng mình, tức được thành tựu trong trăm ngàn kiếp không bị đọa vào Địa Ngục, được Túc Mạng Trí, cho đến A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác), thường được hết thảy tám Bộ Trời, Rồng kính ngưỡng vệ hộ, hết thảy các Ma chẳng gây nhiễu hại, nói lời dạy bảo thì người đều kính nhận, khi mạng chung thời như nhập vào Tĩnh Lự (Dhyāna: Thiền Định)

Này Mật Tích Chủ! Nếu có Thiện Nam Tử thuộc giòng tộc cao quý, cha mẹ chân chánh, sanh vào ngày có (Nakṣatra) tốt, đầy đủ các căn, thân thể đoan nghiêm tốt đẹp, màu da trắng đỏ, không lộ lóng xương. Cánh tay, bàn tay nhỏ nhắn, không ngắn không xấu, không mập không gầy, móng tay đỏ hồng, chân như Lộc Vương (vua nai), hai mắt cá bằng đầy, răng không thưa gãy cũng không vàng đen mà trắng đều đặn. Mắt không bị lé, màng mắt màu xanh lục vàng. Mũi không to lớn, môi không sứt, mặt không ốm xấu, da dẻ sáng bóng, không bị Giới Lại, phong thấp, lậu, ghẻ… Không tham sắc dục, không bị Tỳ Na Dạ Ca gây não loạn, Phước Đức Trí Tuệ thanh tịnh viên mãn, Tánh tự quy y Phật Bồ Tát, Pháp, Tăng…không tin, không làm theo chư Thiên, Thiên thần, Tà Thần, Quỷ v.v… thường không lười biếng, nhiếp tâm tinh tấn, chỉ ham tu học Đạo Giáo của Đại Thừa, ý muốn viên mãn Đại Nguyện của Bồ Tát, vượt khỏi cảnh Ma hướng đến Bồ Tát Địa. Người như vậy hợp với Kinh này, thành tựu Chú này.

Này Mật Tích Chủ! Nếu thấy người như vậy thì kính làm bạn lành, nên dùng mọi loại phương tiện vì kẻ ấy nói công đức tu hành Pháp Giáo của Chú này, nên khiến cho người này mau được thành tựu năm Đại Luân Vương Minh Thắng Pháp Địa

Mật Tích Chủ! Chú Vương Kinh này ở vô lượng cõi Phật khó được thấy nghe. Nếu được nghe đều là Thần Lực của Như Lai gia bị. Nếu được Kinh này tức là thân thuộc của Như Lai Chủng Tộc (Tathāgata-kulāya). Vì sao vậy? Vì Như Lai Chú Tam Ma Địa Vương này, thật khó nghĩ bàn; trong các Chú là tối thượng tối thắng, là đại đệ nhất. Nhóm hữu tình này cần phải quyết định sanh Tâm tối thượng thành năm Đảnh Luân Vương Chú này.

Nếu có hữu tình cầu được Kinh này, thanh tịnh như Pháp, hoặc lại viết chép, hoặc lại đọc tụng Chú này Kinh này… thời nên biết người này ắt liền được năm Đảnh Luân Vương Chú Tam Ma Địa Vương. Chặt đứt hẳn dòng yêu đương (ái lưu), vô minh, kết tặc (tên gọi khác của phiền não); Tâm: giận dữ, si hại, ngu ngốc… ắt được chư Thiên cung kính cúng dường hỗ trợ.

 

PHÁP VẼ TƯỢNG PHẨM THỨ HAI

_Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lại dùng Phật-Nhãn (Buddha-cakṣu) quán sát Hội Chúng này rồi bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Thiện Nam Tử! Ông hãy lắng nghe! Tượng của Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương này, là Tượng mà vô lượng căng già sa cu chi chư Phật cùng chung tuyên nói. Đối với hết thảy Biến Tượng của Thế (Laukia), Xuất Thế Gian (Lokottara) thì Tượng này lợi ích tối thượng cho hết thảy hữu tình bị Chướng Luy (sự trở ngại và phiền não của nghiệp ác). Tượng này tức là Thần Thông biến hóa của hết thảy Như Lai, hình dung tướng tốt, mão, giải mũ, áo quần… vận chuyển hóa độ hết thảy hữu tình tội cấu, lên Tối Tam Ma Địa của bờ Niết Bàn

Người vẽ tượng này. Trước kia đã từng vào Đảnh Luân Vương Quán Đảnh Vô Thắng Pháp Đàn này, thọ nhận đầy đủ câu Chú, Ấn Pháp từ tay của A Xà Lê (Acārya). Hoặc lại đi vào Thắng Đảnh Vương Đàn rồi, được thành tựu, được A Xà Lê ấn khả khen ngợi, cầu chứng Xuất Thế Đại Niết Bàn Xứ. Hành Nhân như vậy mới có thể vẽ tượng.

Chánh mạng, khiến Thiện Tín Đồng nữ thuộc Bà La Môn tịnh hạnh, hoặc Thiện Tín Đồng Nữ có cha mẹ chân chánh thuộc mạng đại tánh chủng tộc, dạy bảo hộ trì thanh tịnh, lấy tơ không có thô xấu, dệt làm tấm vải, không dùng dao chặt cắt, rộng khoảng bốn khuỷu tay, dài khoảng sáu khuỷu tay, hoặc rộng ba khuỷu tay, dài năm khuỷu tay. Nếu không dệt được như vậy, cũng có thể tìm mua vải sạch trắng tốt, không được trả giá. Mua được rồi, dùng nước hương sạch như Pháp thấm giặt, rồi tô vẽ bên trong. Chén đựng màu sắclà vật mới sạch, không được dùng nước keo da, điều hòa màu sắc, lấy nước keo thơm mà trộn màu, hoặc lấy Giáo Pháp, Quỹ Tắc trong Như Lai Chủng Tộc (Tathāgata-kulāya), vẽ tượng cũng được

Vẽ tượng này, nên ở nơi tháng Thần Thông của tất cả Phật, tô vẽ màu sắc. Ấy là tháng giêng, tháng năm, tháng chín… Liền ở nhóm tháng này, ngày mồng một của tháng, hoặc ngày mười lăm thì bắt đầu họa vẽ.

Nơi vẽ tượng ấy, nên ở Đường Điện của Phật, hoặc ở trong núi, hang động của Tiên Nhân. Nơi này vuông tròn, trong trăm bước không có các nước hôi thối, cũng không có loài trùng, trong trẻo sạch sẽ. Chỗ đất vẽ tượng, ngày ngày như Pháp lấy nước hương xoa bôi rưới vảy

Người vẽ tượng ấy, các Căn đầy đủ đoan chánh tốt đẹp tánh tình hiền thiện chân chính, đủ năm gốc rễ của niềm tin. Khi họa vẽ phải thọ tám Trai Giới, một lần ra vào phải tắm gội thay quần áo mới sạch, cắt đứt các sự đàm luận.

Trước tiên, ngay chính giữa vẽ cây Bồ Đề với cành lá hoa quả bằng các báu trang nghiêm, như cây Như Ý xen kẽ đều nhau nhau. Cành nhánh bảy báu, mọi hoa lá báu, viên ngọc trắng làm nhụy, viên ngọc đỏ làm tua, mọi báu Lưu Ly dùng làm các quả. Hoặc các cành mọc ra mọi loại báu, hoặc có cành mọc ra mọi loại mầm báu, hoặc có cành nổi lên mọi loại mây báu, hoặc có cành tuôn mưa các giọt nước Cam Lồ, hoặc có cành treo các áo báu của cõi Trời, hoặc có cành treo các chuông, mõ, khánh báu. Hoặc có cành mọc ra San Hô, Hổ Phách, Xích Châu, Mã Não… Ở giữa các cành vẽ mây, ánh sáng, sấm chớp. Trên các cành hoa lá lại vẽ Bạch Hạc, Khổng Tước, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng Chi Điểu với các loài chim đẹp. Nơi đất vẽ bảy báu tràn đầy để trang nghiêm

Bên dưới cái cây ở đất ấy, vẽ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ ba mươi hai tướng Đại Nhân, tám mươi vẻ đẹp, sau lưng có hào quang tròn, ngồi Kiết Già trên tòa sư tử, làm tướng Thuyết Pháp, mắt nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương, trên Đảnh phóng ra lửa sáng lớn đủ màu, tay phải co lại giơ lòng bàn tay hướng lên, ngón cái vịn đầu ngón giữa, ba ngón kia hơi co bung duỗi, ngửa tay trái để trên đầu gối trái, làm Thí Vô Úy

Bên phải Đức Phật, vẽ Phổ Hiền Bồ Tát mặt mắt vui vẻ, ngồi Kiết Già, tay cầm cây phất trắng.

Bên trái Đức Phật, vẽ Di Lặc Bồ Tát mặt mắt vui vẻ, ngồi Kiết Già, tay cầm cây phất trắng.

Ngay phía trước tòa của Đức Phật, bên phải vẽ Nhất Tự Đảnh Luân Vương, thân tướng màu vàng ròng, chiêm ngưỡng Đức Như Lai. Tay trái cầm hoa sen nở, trên đài hoa vẽ một bánh xe vàng dựng đứng, giương lòng bàn tay phải, sau lưng có hào quang tròn.

Ngay phía trước tòa của Đức Phật, bên trái vẽ Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương, thân tướng màu vàng ròng, nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương. Tay trái để ngang ngực cầm hoa sen nở, trên đài hoa vẽ cái lọng trắng, tay phải cầm hoa sen chưa nở hoặc nở một nửa, sau lưng có hào quang tròn.

Lại phía sau Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương, vẽ Cao Đảnh Luân Vương, thân tướng màu vàng ròng, nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương, tay trái cầm quả Nhĩ Nhạ Bố La Ca, tay phải cầm hoa Ưu Bát La màu xanh, sau lưng có hào quang tròn.

Lại phía sau Nhất Tự Đảnh Luân Vương, vẽ Quang Tụ Đảnh Luân Vương, thân tướng màu vàng ròng, nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương, tay trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ Phật Tâm Ấn có lửa rực vây quanh, tay phải để ngang ngực cầm viên ngọc Như Ý, thân có hào quang tròn, làm mọi loại màu sắc.

Lại phía sau Quang Tụ Đảnh Luân Vương, vẽ Thắng Đảnh Luân Vương, thân tướng màu vàng ròng, tay trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ cây kiếm đứng thẳng. Tay phải cầm viên ngọc báu Như Ý, thân có hào quang tròn, nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương.

Năm Đảnh Luân Vương này, mặt mắt vui vẻ, thân tướng hình dạng đều như Bồ tát, đầu đội mão, Anh Lạc, vòng, xuyến, quần áo trang nghiêm nơi thân, đều ngồi Bàn Già trên hoa sen trắng.

Lại bên phải Nhất Tự Đảnh Luân Vương, vẽ Chủ Binh Thần, mặt mắt vui vẻ, nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương, tay trái để bên cạnh ngực cầm cây giáo (sóc), trên cây giáo vẽ treo dây lụa, tay phải cầm chày Kim cang, thân mặc áo giáp, ngồi Bán Già.

Lại ngay trước tòa của Đức Phật, bên phải vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát, thân màu vàng trắng, ngồi Kiết Già, tay trái để bên cạnh ngực cầm hoa sen nở, tay phải giương lòng bàn tay, co lại, nhìn Đức Phật.

Lại ngay trước tòa của Đức Phật, bên trái vẽ Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, thân màu đỏ tía, ngồi Kiết Già, tay trái để bên cạnh ngực cầm chày Kim Cương, tay phải giương lòng bàn tay, co lại, nhìn Đức Phật.

Tiếp theo, phía sau Phổ Hiền Bồ Tát, vẽ Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử Bồ Tát, tay trái để bên cạnh ngực cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ chày Kim Cang ba chia đứng, tay phải co khuỷu tay, ngửa lòng bàn tay, đem ngón cái, ngón giữa vịn đầu nhau, ba ngón kia hơi co, bung duỗi

Tiếp theo, vẽ Vô Cấu Tuệ Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ cái loa nằm ngang, tay phải co cạnh bên trên, giương lòng bàn tay.

Tiếp theo, vẽ Tịch Tĩnh Tuệ Bồ Tát, tay trái để bên cạnh ngực cầm chày Kim Cang, ngửa tay phải để trên đùi phải.

Tiếp theo, vẽ Vô Lượng Tuệ Bồ Tát, tay trái để bên cạnh ngực cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ bánh xe dựng đứng, tay phải cầm viên ngọc Như Ý.

Tiếp theo, vẽ Hư Không Tạng Bồ Tát, tay trái để ngang ngực cầm hoa, ngửa tay phải cầm viên ngọc Như Ý để trên đùi phải

Tiếp theo, vẽ Hư Không Vô Cấu Tạng Bồ Tát, tay trái cầm chày Kim Cang, tay phải giương lòng bàn tay.

Tiếp theo, vẽ Đại Tuệ Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ viên ngọc Như Ý chung quanh rực lửa, cạnh bàn tay phải ở bên trong giương lòng bàn tay

Nhóm Bồ Tát này, mặt mắt vui vẻ, thân tướng màu vàng ròng, đều dùng mão báu, anh lạc, vòng ,xuyến, các thứ y phục trang nghiêm,ngồi Bán Già trên tòa sen báu.

Tiếp theo, phía sau Di Lặc Bồ Tát, vẽ Phật Nhãn Bồ Tát, mặt mắt hiền hậu, ngước nhìn Hội Chúng, tay trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ Phật Tâm Ấn, hai bên cạnh Ấn đều vẽ một con mắt, tay phải cầm viên ngọc Như Ý.

Tiếp theo, vẽ Phật Hào Tướng Bồ Tát, mặt mắt hiền hậu, tay trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ Phật Hào Tướng Ấn, xung quanh rực lửa, tay phải hơi nắm lại để bên hông phải, nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương.

Tiếp theo, vẽ Như Lai Sóc Bồ Tát, mặt mắt hiền hậu, tay trái để ngay rốn, tay phải cầm cây giáo, trên cây giáo vẽ treo dây lụa.

Tiếp theo, vẽ Như Lai Nha Bồ Tát, mặt mắt hiền hậu, tay trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ Phật Nha Ấn, tay phải để ngang ngực.

Tiếp theo, bên dưới tòa của Phật Nhãn Bồ Tát, vẽ Tôn Na Lợi Đại Minh Chú Vương, mặt mắt hiền hậu, tay trái cầm chày Kim Cang, tay phải cầm hoa sen, mắt nhìn Đức Như Lai.

Nhóm Bồ Tát này, thân tướng màu vàng ròng, đều dùng mão hoa, Anh Lạc, vòng, xuyến, các thứ y phục để nghiêm sức, ngồi Bán Già trên hoa sen báu.

Lại phía sau Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, vẽ Quân Trà Lợi Kim Cang Đồng Tử, vẽ Kim Cang Tướng Đồng Tử, vẽ Thiện Tý Kim Cang Đồng Tử, vẽ Mỗ Thúc Đà Nhứ Ca Kim Cang Đồng Tử. Bốn Đồng Tử này thân đều màu đỏ rực, đều cầm chày Kim Cang, dung mạo vui vẻ, đều dùng vòng hoa, báu, Anh Lạc, vòng, xuyến, quần áo màu nhiệm của cõi Trời để trang nghiêm thân, ngồi Bán Già trên hoa sen.

Lại phía sau Quan Thế Âm Bồ Tát, vẽ Mã Đầu Quan Thế Âm Đại Minh Chú Vương, thân màu đỏ tía, mặt mắt giận dữ, tay phải dựng thẳng bên cạnh ngực cầm cây búa, tay trái co phần bên trên cầm hoa sen, cọng lá sen…đều dùng rắn làm anh lạc, cổ tay đeo xuyến báu, cánh tay đeo dải áo báu, đầu đội mão hoa, eo mang áo quần, ngồi trên hoa sen báu, nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương.

Tiếp theo, phía sau Mã Đầu Quán Thế Âm, vẽ Liên Hoa Tôn Na Lợi Bồ Tát, thân màu vàng trắng, dung mạo hiền hậu, tay phải cầm sợi dây, tay trái để bên dưới, thân ngồi trên tòa hoa sen.

Tiếp theo, phía sau Tôn Na Lợi Bồ Tát, vẽ Bát Thứ Noa Xả Phạ Lợi Thần, thân màu xanh lục, dung mạo hiền hậu, có bốn tay, một tay cầm sợi dây, một tay cầm cây búa, một tay cầm quả trái báu, một tay Thí Vô Úy, ngồi trên tòa hoa sen.

Tiếp theo, bên trái Đảnh Luân Vương, vẽ Nan Thắng Phẫn Nộ Vương có bốn mặt, bốn cánh tay, thân màu trắng, làm tướng xem xét. Thân hình, bàn tay, cánh tay, bàn chân, thấp lùn, ngắn nhỏ. Nơi eo vẽ da cọp, dùng rắn làm vòng đeo tai, dùng Đức Xoa Ca Long Vương làm dây lưng, Bà Tu Cát Long Vương làm dây quấn bắp tay, các rắn độc quấn nơi thân, cánh tay, cẳng chân v.v… tóc dựng lên làm mão, khắp thân rực lửa, đứng trên hoa sen đỏ. Bên phải: thứ nhất cầm chày Kim cang, tay thứ hai đem ngón giữa, ngón vô danh, ngón út nắm lại làm quyền, lấy ngón cái đè lên trên, duỗi thẳng ngón trỏ, co khuỷu tay hướng lên trên. Bên trái: tay thứ nhất cầm cái xoa ba chia, tay thứ hai cầm búa. Mặt lớn ở chính giữa trợn mắt há miệng, phun ra mọi ánh sáng, mắt nhìn Đức Như Lai. Mặt bên phải nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương. Mặt bên trái nhìn người trì Chú. Mặt trên đảnh nhìn Hội Chúng của Đức Phật.

Tiếp theo, bên dưới Phẫn Nộ Vương, vẽ Địa Thiên Thần, mặt mắt vui vẻ, thân màu trắng, tay trái để ngang ngực cầm cái hộp báu, tay phải co phần bên trên cầm bình

Táo Quán báu, miệng bình ló ra cành lá sen, quỳ thẳng lưng, ngồi trên đất báu

Tiếp theo, phía sau Địa Thiên Thần, Di Liên Thiền Hà Thần, mặt mắt vui vẻ, thân màu trắng lợt, chắp tay cung kính, trên đầu vẽ bảy cái đầu Xà Long.

Tiếp theo, phía sau Thần Sông Di Liên Thiền, vẽ Ca Lý Ca Long Vương bảy đầu, vẽ Mẫu Chỉ Lân Đà Long vương bảy đầu, quỳ thẳng lưng chiêm ngưỡng Đức Như Lai, một vị nâng hoa báu, một vị nâng viên ngọc báu.

Này Mật Tích Chủ! Hai vị Long Vương này đã từng cúng dường vô lượng vô số hết thảy chư Phật.

Lại ở bên dưới tòa của Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, vẽ Tối Thắng Minh Vương Kim Cang Bồ Tát, thân màu vàng đỏ, cau mày trợn mắt, một mắt nơi giữa hai chân mày (tam tinh), ló nanh chó lên trên, ngồi Bán Già, tay phải chống cây đao dài, tay trái để ngang ngực cầm chày Kim Cang.

Tiếp theo, vẽ Khả Úy Kim Cang Bồ Tát, thân màu vàng đỏ, cau mày trợn mắt, ló nanh chó lên trên, ngồi Bán Già, tay phải chống cây Tam Kích Xoa, tay trái ngửa co cầm chày Kim Cang một chia.

Tiếp theo, vẽ Hoàng Nhãn Kim Cang Bồ Tát, thân màu vàng trắng, diện mạo vui vẻ ngồi Bán Già, tay phải co hướng vào trong giương lòng bàn tay, tay trái co để lên hông trái cầm hoa sen nở , ở trên đài hoa vẽ chày Kim Cang ba chia dựng đứng.

Tiếp theo, vẽ Quân Trà Lợi Kim Cang Bồ Tát có tám cánh tay, ba con mắt, ló nanh chó lên trên, ngồi Bán Già, thân làm màu xanh, một tay cầm chày Kim Cang ba chia, một tay cầm cây Tam Kích Xoa, một tay cầm bánh xe, một tay cầm cây búa, một tay Thí Vô Úy, một tay cầm sợi dây, tay hai tay kết Ấn.

Tiếp theo, phía sau vẽ Đại Độ Để Sứ Giả, thân màu trắng đỏ, mặt mắt giận dữ, một tay cầm sợi dây, một tay để ngang ngực dựng đứng cầm cây búa.

Lại bên dưới tòa của Tối Thắng Minh Vương Kim Cang Bồ Tát, vẽ A Nan Đả Long Vương chín đầu, vẽ Vô Nhiệt Não long vương năm đầu, vẽ Sa Già La Long Vương bảy đầu, đều quỳ thẳng lưng chiêm ngưỡng đức Như Lai, vị thứ nhất nâng viên ngọc báu, vị thứ hai nâng hoa sen. Nhóm Long Vương này, mặt mắt vui vẻ, dạng như Thiên Thần, trên đầu vẽ đầu Rồng ló ra.

Tiếp theo, bên trái Đại Tuệ Bồ Tát, vẽ Bán Noa La Bà Tỉ Nê Quán Thế Âm Mẫu Bồ Tát, thân tướng màu trắng, tay phải cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ viên ngọc báu Như Ý, ngửa tay trái giữa để trên đùi trái ban cho vô úy.

Bên dưới tòa của Quán Thế Âm Mẫu Bồ Tát này, vẽ Đa La Bồ Tát, thân màu vàng trắng, tay phải cầm hoa Ưu Bát La màu xanh, tay trái ban cho vô úy.

Tiếp theo, vẽ Tỳ Cu Chi Bồ Tát, thân màu hồng trắng, có ba con mắt, bốn cánh tay, một tay cầm gậy báu Như Ý, một tay cầm cái bình Quân Trì, một tay cầm tràng hạt (sổ châu), một tay cầm hoa sen.

Tiếp theo, phía sau Phật Hào Tướng Bồ Tát, vẽ Ma Mạc Kê Kim Cang Mẫu Bồ Tát, thân màu trắng xanh, tay phải cầm Bát Nhã Phạm Giáp (rương Kinh Bát Nhã), tay trái cầm báu bàn cho vô úy, thân trạng dung mạo như Bát Nhã Bồ Tát. Kim

Cang Mẫu này là mẹ của hết thảy chư Phật Bồ Tát Kim cang,

Tiếp theo, phía sau Kim Cang Mẫu, vẽ Ương Cu Thi Kim Cang Bồ Tát, tay phải cầm chày Kim cang, tay trái ngửa để trên đùi.

Tiếp theo, vẽ Chấp Kim Cang Quyền Kim Cang Bồ Tát, tay trái để ngang ngực tác Chấp Kim Cang Quyền Ấn, tay phải ngửa để trên đùi.

Tiếp theo, vẽ Kim Cang Bạc Kim Cang Bồ Tát, tay trái cầm chày Kim cang, tay phải giương lòng bàn tay.

Nhóm Kim Cang này, mặt mắt hiền hậu, đủ Đại Minh Chú, sức oai đức lớn, vệ hộ hết thảy. Kim Cang với Bồ Tát như vậy đều dùng mão, Anh Lạc, vòng, xuyến y phục đề trang nghiêm, ngồi Bán Già trên tòa hoa sen.

Trên cây Bồ Đề với hai bên cạnh, vẽ chư Thiên, Thiên Tử tấu mọi thứ nhạc Trời, với vẽ tám Tịnh Cư Thiên Chúng, bay quanh trên cây đều cỡi mây đi, đều dùng tay nâng rải mọi loại hoa để cúng dường Đức Phật.

Tiếp theo, bên trái Đức Phật, ở mặt góc Đông Bắc, vẽ Đề Đầu Lại Tra Thiên

Vương, tay trái cầm cây giáo, tay phải giương lòng bàn tay

Tiếp theo, bên trái Đức Phật, ở mặt góc Đông Nam, vẽ Tỳ Lỗ Sá Ca Thiên Vương, tay trái cầm cây giáo, tay phải giương lòng bàn tay

Tiếp theo, bên phải Đức Phật, ở mặt góc Tây Nam, vẽ Tỳ Lỗ Bác Khất Sái Thiên Vương, tay trái cầm Giáo, tay phải cầm chày Kim Cang.

Tiếp theo, bên phải Đức Phật, ở mặt góc Tây Bắc, vẽ Đa Văn Thiên Vương, tay trái cầm giáo, tay phải cầm chày Kim Cang.

Nhóm Hộ Thế Thiên Vương này đều mặc áo giáp trang sức, ngồi Bán Già.

Lại phía sau Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương, vẽ Y Xá Na Thiên Thần, với vẽ Bộ Đa Quỷ Vương.

Lại, phía sau Tỳ Lỗ Sá Ca Thiên Vương, vẽ Hỏa Thiên Thần, với vẽ Khổ Hạnh Tiên Chúng.

Lại, phía sau Tỳ Lỗ Bác Khất Sái Thiên Vương, vẽ La Sát Vương với vẽ tùy tùng.

Lại, phía sau Đa Văn Thiên Vương, vẽ Phong Thiên Thần với vẽ tùy tùng.

Lại ngay trên cây Bồ Đề, trong hư không, bên phải, vẽ Đại Phạm Thiên Vương, phía sau vẽ hai Phạm Chúng Thiên

Trong hư không, bên trái vẽ Đế Thích Thiên Vương, phía sau vẽ hai Thích Chúng Thiên.

Lại, ở bên phải Tỳ Lỗ Sá Ca Thiên Vương, vẽ Diêm Ma Vương ngồi trên con trâu đang nằm

Nhóm Thiên Thần Quỷ như vậy đều tự khoác mọi loại trang sức

Tiếp theo, bên dưới Nan Thắng Phẫn Nộ Thần, ở bên trái vẽ người trì Chú, quỳ thẳng lưng, cong tay cầm lư hương, nhìn Đảnh Luân Vương.

Lại, bên dưới tòa của Đức Phật, ở mặt bên của bức tranh, vẽ dòng sông Hy Liên Thiền.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Tượng này tức là Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Đại Biến Tượng Pháp, là điều mà hết thảy chư Phật cùng nhau tuyên nói. Nếu người có Trí gặp được Tượng này, sanh tưởng hiếm có, tin vui quán lễ, đốt hương cúng dường, ghi nhớ, khen ngợi, gìn giữ thì người này liền được đời này, đời sau sống lâu không sai, tội nặng đã gây tạo trong cu chi kiếp liền đều diệt hết.

Nếu có người thọ trì hết thảy Phật Đảnh Chú, Phật Chủng Tộc Chú, Chư Thiên

Bồ Tát Chủng Tộc Chú, hết thảy Kim Cang Chủng Tộc Chú, cùng các Chú khác. Nếu đã thành nghiệm hoặc chưa thành nghiệm… đối trước Tượng này như Pháp xoa tô Đàn, mọi loại cúng dường, làm Bổn Chú Pháp, thì mau được Bổn Chú Tối Thượng thành tựu mọi việc cầu nguyện”.

_Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lại vì Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát mà bảo rằng: “Ông hãy lắng nghe! Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương Biến Tượng Họa Pháp là điều mà căng già sa cu chi Phật vì bạt tế các hữu tình mà nói.

Nếu vẽ tượng thời Pháp dệt may, mua vải, vẽ tượng… đều dựa theo phương cách lúc trước, tròn ba khuỷu tay.

Chính giữa vẽ cây Bồ Đề. Ngay dưới cây Bồ Đề, vẽ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, đủ tướng đại nhân, thân màu vàng ròng, bày tướng Thuyết Pháp, ngồi Kiết Già trên tòa Sư Tử.

Bên phải Đức Phật, vẽ Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, mặt mắt vui vẻ, thân màu đỏ tía, tay phải cầm chày Kim Cang, tay trái cầm cây phất trắng.

Bên trái Đức Phật, vẽ Tịnh Cư Thiên Vương, mặt mắt vui vẻ, thân màu hồng trắng, tay trái để ngang ngực cầm hoa sen nở, tay phải nắm lần tràng hạt (sổ châu).

Tiếp theo, ngay phía trước Đức Phật, dựa theo lúc trước, vẽ Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương

Bên trên cây Bồ Đề, ở hai bên trái phải, đều vẽ một vị Củ Luật Bà Thiên, dạng như đứa trẻ trần truồng, thân màu hồng trắng, tay cầm sợi dây báu, đều nương trụ trong mây.

Trong hư không trên cây, ở hai bên trái phải, cùng chung tòa ngồi, vẽ sáu Tịnh Cư Thiên Chúng đều nâng rải hoa, đều nương trụ trong mây.

Lại, ở bên phải Đức Phật, vẽ người trì Chú, quỳ thẳng lưng chiêm ngưỡng, tay cầm lư hương, trên dưới bốn phía vẽ các hoa báu.

Này Mật Tích Chủ! Đây gọi là Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương Biến Tượng Họa Pháp, sẽ hay thành cứu giúp hết thảy hữu tình, việc của các Phước Nghiệp”

_Lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ta lại tiếp theo nói Quang Tụ Đảnh Luân Vương Biến Tượng Họa Pháp. Tượng này là chư Phật nói, đối với Thế, Xuất Thế Gian được tối thắng thượng, thành lợi ích cho Đạo Pháp vô thượng của hữu tình.

Nếu vẽ tượng thời Pháp dệt may, mua vải, Pháp vẽ tượng… đều dựa theo Pháp lúc trước, lượng ấy khoảng ba khuỷu tay, hoặc vuông vức một khuỷu tay.

Chính giữa, vẽ núi báu với mọi thứ trang sức. Bên dưới núi vẽ cây Bồ Đề. Ngay bên dưới cây, vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thân màu vàng ròng, đủ tướng đại nhân, ngồi Kiết Già, trên đảnh phóng mọi loại lửa sáng rực, bày tướng Thuyết Pháp, ngồi ở hoa sen trắng trên tòa sư tử báu.

Bên phải Đức Phật, vẽ Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, mặt mắt vui vẻ, thân màu đỏ tía, tay phải cầm chày Kim Cang, tay trái cầm cây phất trắng.

Bên trái Đức Phật, vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát, mặt mắt vui vẻ, thân màu vàng trắng, tay phải cầm chày hoa sen, tay trái cầm cây phất trắng.

Ngay phía trước Tòa của Đức Phật, dựa theo lúc trước, vẽ Quang Tụ Đảnh Luân Vương

Hai bên trái phải của cây, vẽ một Củ Luật Bà Thiên, hình trạng dựa theo lúc trước, tay cầm sợi dây báu, đều nương trụ trong mây.

Trong hư không trên cây, ở hai bên trái phải, cùng chung tòa ngồi, vẽ sáu Tịnh Cư Thiên Chúng đều nâng rải hoa, đều nương trụ trong mây.

Lại bên dưới tòa của Đức Phật, ở bên phải, vẽ người trì Chú, quỳ thẳng lưng chiêm ngưỡng Đức Phật, tay cầm lư hương.

Đất của cây Bồ Đề này, vẽ làm bảy báu

Lại, bên dưới tòa của Đức Phật, vẽ nước biển lớn, trong đấy vẽ nhiều hoa sen, loài cá, loài thú.

Này Mật Tích Chủ! Tượng Quang Tụ Đảnh Luân Vương này, hay dẫn đưa hữu tình thành các Pháp của Quả, được khiến cho thoát các nạn”.

_Lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ta lại tiếp theo nói Cao Đảnh Luân Vương Tượng. Tượng này là chư Phật vì thương xót hữu tình, vì lợi ích cho nên nói.

Nếu vẽ tượng thời Pháp dệt may, mua vải, Pháp vẽ tượng… đều dựa theo Pháp lúc trước, vuông tròn khoảng ba khuỷu tay, hoặc vuông vức một khuỷu tay.

Chính giữa vẽ cây Bồ Đề. Ngay bên dưới cây, vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thân màu vàng ròng, đủ tướng đại nhân, ngồi Kiết Già, bày tướng Thuyết Pháp, tay phải để trên đầu gối phải ban cho vô úy, ngửa tay trái để dưới rốn, trên đảnh phóng mọi ánh sáng

Bên phải Đức Phật, vẽ Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, mặt mắt vui vẻ, thân màu đỏ tía, tay phải cầm chày Kim Cang, tay trái cầm cây phất trắng.

Bên trái Đức Phật, vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát, mặt mắt vui vẻ, thân màu vàng trắng, tay phải cầm chày hoa sen, tay trái cầm cây phất trắng.

Ngay phía trước Tòa của Đức Phật, dựa theo lúc trước, vẽ Cao Đảnh Luân Vương

Hai bên trái phải của cây, đều vẽ một Củ Luật Bà Thiên, hình trạng dựa theo lúc trước, tay cầm sợi dây báu, đều nương trụ trong mây.

Lại bên trên, trong hư không trên cây, ở hai bên trái phải, cùng chung tòa ngồi, vẽ sáu Tịnh Cư Thiên Chúng đều nương trụ trong mây, đều nâng rải hoa cúng đường Đức Phật

Lại bên dưới tòa của Đức Phật, ở bên phải, vẽ người trì Chú, quỳ thẳng lưng chiêm ngưỡng Đức Phật, tay cầm lư hương.

Này Mật Tích Chủ! Tượng Cao Đảnh Luân Vương này, thành tấn hết thảy Nguyện Pháp của hữu tình, giải thoát các nạn”.

_Lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ta lại tiếp theo nói Thắng Đảnh Luân Vương Tượng. Tượng này tức là hết thãy chư Phật vì thương xót hữu tình mà nói.

Nếu vẽ tượng thời Pháp dệt may, mua vải, Pháp vẽ tượng… đều dựa theo Pháp lúc trước, vuông vức khoảng ba khuỷu tay, hoặc vuông vức một khuỷu tay.

Chính giữa vẽ cây Bồ Đề. Ngay bên dưới cây, vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thân màu vàng ròng, đủ tướng đại nhân, ngồi Kiết Già, bày tướng Thuyết Pháp, tay phải giương lòng bàn tay, tay trái để trên đầu gối trái, trên đảnh phóng mọi ánh sáng , ngồi trên tòa Sư Tử

Bên phải Đức Phật, vẽ Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, mặt mắt vui vẻ, thân màu đỏ tía, tay phải cầm chày Kim Cang, tay trái cầm cây phất trắng.

Bên trái Đức Phật, vẽ Tịnh Cư Thiên Vương, mặt mắt vui vẻ, thân màu hồng trắng, tay phải cầm hoa sen, tay trái cầm cây phất trắng

Ngay phía trước Tòa của Đức Phật, dựa theo lúc trước, vẽ Thắng Đảnh Luân Vương

Lại ở trên cái cây, hai bên trái phải dựa theo lúc trước đều vẽ một Cự Luật Bà Thiên, đều cầm sợi dây báu, đều nương trụ trong mây.

Lại bên trên, trong hư không trên cây, ở hai bên trái phải, cùng chung tòa ngồi, vẽ sáu Tịnh Cư Thiên Chúng đều nương trụ trong mây, đều nâng rải hoa cúng đường Đức Phật

Lại ở bên phải tòa của Đức Phật, vẽ người trì Chú, quỳ thẳng lưng chiêm ngưỡng Đức Phật, tay cầm lư hương.

Này Mật Tích Chủ! Tượng Thắng Đảnh Luân Vương này, nhổ bứt cứu thoát hết thảy Khổ Chướng của hữu tình. Ông nên biết rõ, chư Phật Bồ Tát đều có vô lượng Sắc Thân biến dịch, đưa dẫn, khuyên nhủ, hiện hóa, bày ra Biến Tượng này vì muốn thành tựu cho người trì Chú. Thế nên Người có Trí nên thường chính đúng phát Tâm Từ, Tâm Bi, Tâm Hỷ, Tâm Xả, Tâm bố Thí, Tâm Nhẫn Nại, Tâm Tịnh Giới, Tâm Tinh Tiến, Tâm Tĩnh Lự, Tâm Bát Nhã để nhổ bứt cứu độ hết thảy hữu tình, tùy theo nơi chỗ, được lụa trắng, vải, miếng ván v.v… một khuỷu tay, nửa khuỷu tay đều có thể họa vẽ, trang nghiêm cúng dường, tức được căn lành Đại Vô Thượng, sẽ thành địa vị của năm Đảnh Luân Vương Tam Ma Địa, trụ chứng Thập Địa (Daśa-bhūmi) cho đến Bồ Đề (Bodhi) rốt ráo chẳng thoái lùi.

KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG

_QUYỂN THỨ NHẤT (Hết)_


QUYỂN THỨ HAI

PHÂN BIỆT THÀNH PHÁP PHẨM THỨ BA

Bấy giờ Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát chắp tay cung kính bạch rằng: “Thế Tôn Như Lai Vô Thượng Ứng Chánh Đẳng Giác! Nguyện xin rũ lòng thương, vì người tu hành lược nói oai đức rộng lớn, Lý Thú thâm sâu của Đảnh Luân Vương Thành Tựu Hành Pháp”.

Lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Hết thảy các Chú đều y như trong đây, làm sao thành được chỗ tu trì?”.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Kim Cang Mật tích Chủ Bồ Tát nói rằng: “Lành thay! Lành thay Mật Tích Chủ! Ông hay khéo hỏi Ta về việc này! Nay ông hãy lắng nghe!

Hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ! Ta sẽ vì ông nói Hành Pháp, Lý Thú, câu Kim Cương Pháp của chư Phật, được sinh ra từ Lý Pháp của câu Kệ tối thắng của vô lượng Phật, để được lợi ích thành tựu Chú vậy.

Lúc đó, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai quán khắp Đại Chúng xong, dùng Đại Phạm thanh (Mahā-brahma-ghoṣa), khen Già Tha (Gāthā: Kệ Tụng) rằng:

“_Thích Ca Đại Sư Tử

Vô lượng môn Bồ Đề

Lý Thú, hành tự tại

Nên làm Tối Thượng Sứ

Thấy khổ bức hữu tình

Ưa tu hành Pháp này

Trời, Người cùng kính ngưỡng

Sẽ thành Vô Thượng Tôn

_Tu tập Pháp thâm sâu

Khen ngợi Đại Diệu Chú

Tin ưa nơi Đại Thừa

Tâm hành ứng Bồ Đề

Trụ tháp, tịnh đường, thất

Bên sông, vực với suối

Trong hang núi, cây cao

Ngồi một mình, tịnh Tâm

Giữ thân miệng thanh tịnh

_Thường an trụ nơi này

Y Pháp, trì Cấm Giới

Một lòng nhớ trì Chú

Biết Chú Tam Ma Địa

Xuất Sinh với Thành Tựu

Mọi loại Pháp chứng Tướng

Chứng Pháp Chú thành xong

Phá diệt nhà sanh tử

Ước nguyện đều viên mãn

Không lâu được Bồ Đề

_Thường dùng hai loại Ý

Trì Giớibạn lành

Thành tựu đây chẳng khó

Tức thân này được chứng

_Tâm không động, chắc sạch

Thường nhớ Phật Bồ Đề

Phật Đảnh Luân Vương Pháp

Tức thân này được chứng

_Nếu có Chú Giả Bạn (bạn của người trì Chú)

Siêng tu vì hữu tình

Tướng khó nghĩ rất nhiều

Tức thân này được chứng

_Thành Tâm, Chú ấn Tháp

Tụng Chú, tu Đại Pháp

Mỗi mỗi hiểu rõ ràng

Tức thân này được chứng

_Bền chắc đủ tinh tấn

Tâm rộng lớn vô lượng

Làm Pháp tối tăng thượng

Tức thân này được chứng

_Các tướng Thân viên mãn

Thẳng thắn đủ Chân Trí

Hay chịu đựng đói khát

Người này đáng thành tựu

_Người Trí nếu đang được

Kinh với Pháp Môn này

Kẻ ấy không bao lâu

Chứng thành tựu tối thắng”

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, nói rằng: “Sau khi Ta diệt độ, sẽ có loại hữu tình ngu si, tội ác trụ nơi Tràng Tướng (tên gọi khác của Cà Sa), Pháp Loại (Tăng lữ, tự viện có quan hệ đồng Pháp Hệ) của Ta… Bí Sô (Bhikṣu:Tỳ Kheo), Bí Sô Ni (Bhikṣuṇi:Tỳ Kheo Ni), Ô Ba Sách Ca (Upāsaka:Cận Sự Nam), Ô Ba Tư Ca (Upāsikā:Cận Sự Nữ) thường ưa chạy theo ngu si tà kiến, các đàm luận ác, tham trước các món đẹp ngon, lười biếng, ít Đức. Chẳng tin nhận: mười Lực, bốn Vô Sở Úy, bốn Vô Ngại Giải của Như Lai, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả, Chân Như Pháp Giới, bốn Pháp Thánh Đế, Tĩnh Lự, oai đức vô úy, Thuyết của Đại Thừa… Không có sức tu theo Luật Hạnh của Bồ Tát, Pháp Giáo phương tiện. Chê bai, phá hoại, không kính, không tin oai đức thần thông, môn Tam Ma Địa của chư Phật, Bồ tát. Nhóm người này giữ làm Pháp này chẳng được thành tựu, tức tăng thêm chê bai Ta với chê bai Bồ Tát mà nói rằng: “Pháp này không phải là Phật nói mà là Ma nói, vọng nói Giáo Hạnh Đại Thừa của Bồ Tát”. Nếu như thấy kẻ thiện nam, người thiện nữ trì Chú này thì càng chê bai, gây não loạn, làm các chướng ngại. Do tội lỗi này sẽ bị vô lượng tội nặng của Vô Gián

Thế nên Mật Tích Chủ! Có kẻ thiện nam, người thiện nữ nguyện muốn tu hành Đại Hạnh của Bồ Tát thì nên tin hướng bền chắc, một lòng chánh nguyện, thường ham viết chép Kinh Điển Đại Thừa, đọc tụng cúng dường, hiểu Nghĩa Vị ấy. Nếu thấy người này thì liền vì họ mà giải thích, như Kinh Bảo Vũ, mỗi một Pháp Môn, tu học Gia Hạnh, Pháp Hạnh của Bồ Tát, liền được thành tựu.

Thế nên Bí Mật Chủ! Đâu là chỗ thành của Chú? Chủ yếu từ Thân, Tâm siêng năng khẩn thiết Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Định, Tuệ thanh tịnh, một lòng tu tập thì mới được thành tựu”.

 

PHÂN BIỆT MẬT NGHI PHẨM THỨ TƯ

Khi ấy, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Làm sao thực hành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, Pháp tắm gội thanh tịnh, Pháp quán tưởng Tâm? Xin Thế Tôn rũ thương vì con giải thích, do Pháp này đầy đủ Chi Pháp (Pháp cành nhánh) nên mau được Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú Thành Tựu Chứng Môn

Bấy giờ Đức Thế tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ông hãy lắng nghe! Ta vì lợi ích cho kẻ có Đức mỏng, Phước kém, ít tinh tấn mà nói tất cả Chú. Khi tu trì Pháp thì mỗi ngày ba thời theo Pháp tắm gội tẩy tịnh, không tham các Dục niệm, Tâm không loạn, chỉ một lòng tưởng Phật, Tâm Từ duyên đủ hết thảy hữu tình ở mười phương Pháp Giới. Lấy đất sạch hòa với bột cù ma di (Gomayī: phân bò) khô, Chú vào mà rửa tay, tẩy tịnh nơi thân

_Nếu khi tắm gội thời mặc Dục Sấn Y (Áo tắm bố thí cho Tăng Ni, Đạo Sĩ), kết Ấn hộ thân.

Hộ Thân Chú là:

“Úm-hồng (1) ma ma, ma ma (2) hổ-hồng (3) nịch (4)’

Nên tụng Chú này bảy biến Hộ Thân

Nếu sám hối tội chướng, cầu Thần Thông thì nên dùng đất màu trắng. Đất ấy không có loài trùng, không đỏ, không đen, không hôi thối, không dơ bẩn.

Nếu cầu phong nhiêu thì dùng đất màu trắng vàng. Đất ấy không có loài trùng cũng không có dơ bẩn hôi thối.

Nếu Pháp Hàng Phục thì dùng đất màu đen đỏ

Nếu muốn người khác tôn trọng thì nên dùng đất chẳng trắng chẳng đen Nếu muốn người khác kính phục, khen ngợi thì dùng đất màu đỏ xanh Như nhóm đất này, người Trí khéo biết.

Chú lấy đất là:

“Úm-hồng (1) na la (2) hổ-hồng (3)”

Chú vào đất bảy biến, liền dùng cái xẻng lấy đất, làm hết thảy Pháp.

_Nếu gặp được chỗ thanh khiết, sông ngòi Linh Thánh, nước có chim muông, ở trên bốn bờ có cây có nhiều hoa quả… vào trong đây tắm gội thì được Phước thắng cát tường .

Chú gia trì tắm gội là:

“Úm-hồng (1) nhập-phạ la (2) hổ-hồng (3)”

Nên tụng bảy biến Hộ Thân, Quán Đảnh như Pháp tắm gội. Nước này tuy là Thánh Thủy, nhưng nếu có nạn sợ hãi với có đàn bà, con nít, gia súc, mọi thứ dơ uế… tức không được tắm.

_Chú gia trì vào đất là:

“Úm-hồng (1) bả la nhập-phạ la (2) hổ-hồng (3)”

Nếu khi muốn tắm thời Chú vào đất bảy biến , để đất nơi sạch sẽ không cho dơ uế.

_Bị Giáp Chú là:

“Úm-hồng (1) nhập-phạ la, đế nhạ (2) hổ-hồng (3)”

Nếu khi đang tắm thời dùng ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út của tay phải nắm lại thành quyền, sau đó để dưới tim, dựng thẳng ngón cái để trên trái tim, tụng Bị Giáp Chú, chú vào ngón tay của quyền bảy biến tưởng thành mặc áo giáp.

Bị Thúc Giáp Trụ Chú là:

“Úm-hồng (1) nhập-phạ la (2) bá la cật-la ma (3) hổ-hồng (4)”

Chú này lại chú trên trái tim, quyền chỉ thân thể bảy lần an, từ từ đi vào nước khiến cho nước đến eo lưng.

_Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú là:

“Úm-hồng (1) trác nhật-lỗ, hồng (2) bạn đà (3) tốt-phạ ha (4)”

Chú này khi vào trong nước, lửa tụng bảy biến, tức sẽ cấm chỉ Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka), Rồng (Nāga), Ba Ba (con Giải) ở trong nước chẳng thể gây tai hại, và hay thành hộ giúp hết thảy sự nghiệp.

Lại chú vào đất bảy biến, chia đất làm ba phần, ba loại đều dùng để chà rửa. Trước tiên lấy một phần, chà rửa từ bàn chân lên đến đầu gối, lại lấy một phần chà rửa từ đầu gối lên đến rốn, lại dùng một phần chà rửa từ rốn cho đến vai, cánh tay, bàn tay, mặt, lưng…

Tắm xong mặc quần áo. Lại dùng Chú này chú vào nước bảy biến. Ba lần rưới vảy trên đầu, cổ, thân phần… im lặng không nói năng, lại tụng Chú đây làm Pháp hộ thân.

Tiếp theo tụng nan Thắng Phẫn Nộ Vương Chú. Tiếp theo tụng Phật Hào Tướng Chú. Tiếp theo tụng Phật Nhãn Minh Chú. Tiếp theo tụng Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú. Nhóm Chú như vậy hộ trì hết thảy, rất ư thù thắng.

Nếu trong Phật Chủng Tộc Chú làm Pháp thì Phật Nhãn Chú là hơn hết.

Nếu trong năm Đảnh Luân Chú làm Pháp thì Phật Nhãn Chú là cao hơn hết

Nếu kết Đàn Địa Giới với mười phương Giới, tự hộ giúp mình, hộ giúp bạn thì nên dùng Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú với Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú

_Tịnh Thân Khẩu Chú là:

“Na mạc tát phạ bột đà (1) bồ địa tát đỏa nam (2) Úm-hồng (3) tuất thê nỗ (4) du đà nại dã (5) tốt-phạ ha (6)”

 

Chú này, khi vào Đàn thời dùng áo sạch xong, chú vào nước ba biến, súc miệng, và chấm vảy trên đầu, tai, vai, tim… đàng hoàng thẳng thắn, khởi lòng Đại Bi, bước lớn (đại bộ) từ từ đi vào bên trong Đàn.

Như vậy, người Trí thường mặc áo vải sạch sẽ, hoặc áo vải gai, tu Chú Pháp này, thường dùng Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Vương Tâm Chú, chú vào hết thảy vật. Ở trước tượng Luân Vương dâng các món hiến cúng xong, ngồi trên tòa cỏ tranh, một lòng tưởng chư Phật Bồ Tát, tụng Chú kết Ấn, mời gọi, phát Nguyện, mắt chiêm ngưỡng Tượng, kết Liên Hoa Ấn, tưởng Phật Tòa Ấn…. như vậy làm trì. Thế nào gọi là làm? Là Nguyện được tòa Phật, tòa Bồ Tát.

_Bả Sổ Châu (cầm nắm tràng hạt) Chú là:

“Úm-hồng (1) át bộ đê (2) nhĩ nhạ duệ (3) tất địa, tất đà át thê (4) tốt-phạ ha (5)”

OṂ_ ADBHŪTE VIJAYE SIDDHI SIDHĀRTHE SVĀHĀ

Phật Tộc Chú này, dùng Bồ Đề Châu (dùng hạt Bồ Đề làm tràng hạt), mỗi niệm cầm trành hạt đều chú vào ba biến sẽ mau được thành, hướng đến Chánh Đẳng Bồ Đề Tam Đẳng Chứng Pháp

Hết thảy Chú Đà La Ni Pháp ấy cũng như nhóm Pháp của ba thành tựu này. Cầu giầu có thì dùng hạt châu bằng vàng, bạc. Cầu sẽ thành tựu hết thảy Thắng Sự thì dùng hạt châu bằng pha lê.

_Sợi dây dùng xâu hạt châu, bảo Đồng Nữ se hợp lại, đều tụng Bổn Chú chú vào hạt châu rồi xỏ cột lại.

Chú Sổ Châu Chú là:

“Na mô bà già phạ để (1) tất thê, sa đà dã (2) sa đà dã (3) tất đà, át thê (4) tốt-phạ ha (5)”

 

Phật Tộc Chú này chú vào hạt châu xỏ xâu xong, bụm châu (tràng hạt) trong lòng bàn tay rồi chắp lại, lại chú vào bảy biến. Việc làm như vậy gọi là Thọ Trì Châu, thường ngồi trên cỏ tranh, tịnh Tâm yên lặng, mặc áo cỏ tranh, trì tụng theo khóa số, làm Pháp an ổn

Nếu khi trì đủ số xong, lại chú vào cây Thất Lợi hoặc cây Mật La, cây Bạch Chiên Đàn, hoặc cây Mật, hoặc cây Phong Hương, ngang mười hai ngón tay, chặt bằng hai đầu, làm Pháp an ổn, Pháp phú nhiêu đều là Thượng Thành Tựu.

Hoặc cây táo chua, cây Khư Đà La, cây Ca La Nhĩ La … ngang 12 ngón tay, chặt bằng hai đầu, làm Pháp Điều Phục cũng là Thượng Thành Tựu.

Không có ba cây này, chỉ được lá của nó. Lá ấy không có loài trùng thì làm cũng thành tựu.

Nên dùng Cù ma di (phân bò) hòa với nước thơm, mỗi ngày xoa bôi, rưới vảy ở chỗ ngồi nằm … với nơi Quán Đảnh. Nước đã dùng thời đều lọc tẩy cho trong sạch, áo quần trong ngoài thường giặt dũ cho sạch.

Như điều này làm Pháp, nếu chẳng thành tựu. liền gia thêm Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú, biến biến đồng tụng

Lại chẳng thành tựu thì gia thêm nhóm Phật Nhãn Chú, cả ba đồng tụng, Tâm đừng buông lung. Phật Nhãn Chú này là điều mà chư Phật quá khứ đã nói, thế nên nay Ta lại nói, vì sẽ thành tựu, cứu được năm nghịch vậy. Trì Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chú này được Đại Chứng Thành, huống chi là người có Tánh trong sạch, đủ Tín Căn, thọ trì đọc tụng mà chẳng thành tựu sao?!…

_Nếu người trì Chú không có tượng năm Đảnh Luân Vương này để ngồi đối diện trì niệm, thì như Đức Phật nói Tượng, tưởng bức Tượng ngay trước mắt, một lòng

chiêm ngưỡng, chắp tay lễ xong, ngồi Kiết Già ngay thẳng Định Tưởng Tâm Chú là:

“Na mô la đát-na đát-la da dã (1) a giả la, nhĩ lệ (2) tốt-phạ ha (3)”

Tụng bảy biến, kết Đại Căn Bản Ấn, chú bảy biến, tùy tưởng Ấn này do Kim Cang tạo thành, tưởng ấn lên đất của Đàn thành nước biển lớn, sâu rộng không có bờ mé.

Quán Tưởng Đại Hải Chú là:

“Úm-hồng (1) nhĩ ma lộ na địa (2) hổ-hồng (3)”

Tụng bảy biến, quán tưởng biển lớn sâu rộng không có bờ bến, thanh tịnh sáng trong không có xao động dơ bẩn, hiện ra rõ ràng ở giữa biển có núi báu lớn.

Quán Tưởng Bảo Sơn Chú là:

“Úm-hồng (1) a giả la (2) hổ-hồng (3)”

Tụng bảy biến, quán tưởng núi Tu Di bảy báu, chung quanh cao rộng vô lượng vô biên, đầy đủ các báu trang nghiêm sáng chói hiển hiện tương xứng, trên núi ấy có hoa sen lớn do các báu tạo thành.

Quán Tưởng Bảo Liên Hoa Chú là:

“Úm-hồng (1) hổ-hồng, ca ma la (2) tốt-phạ ha (3)”

Tụng bảy biến, quán tưởng hoa sen bảy báu có vô lượng trăm ngàn cánh to lớn, đài, tua, nhị, cọng…ḥiển hiện ánh sáng rực rỡ, đài sen rộng lớn cũng như ngọn núi… nhị, lá tương xứng, trên đài có trướng báu lớn.

Quán Tưởng Bảo Trướng Chú là:

“Na mạc tát phạ đả sá già đá nam (1) Úm-hồng (2) tát phạ thổ tát đê (3) tát phả la, hứ ma-hồng (4) nga nga na kim (5) tốt-phạ ha (6)’

 

Tụng bảy biến, quán tưởng trướng báu do hết thảy báu nghiêm sức tự nhiên thành, hiển hiện Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương trên dưới rộng lớn vô lượng, đại bảo ma ni hình nửa mặt trăng, hình mặt trăng tròn đầy, các thứ hoa báu, chuông lắc tay báu, chuông vàng… nơi nơi treo xen lẫn nhau để trang nghiêm, trân châu, lưới võng, hương hoa màu nhiệm, Anh Lạc treo rũ xung quanh. Trong các báu ấy tuôn ra mọi loại ánh sáng xen lẫn nhau

Lại ở trong ánh sáng thấy Thần Thông tự tại của các Như Lai. Ngay trên trướng báu, tưởng có dù lọng rộng lớn vô lượng tương ứng, trên trướng bảo dùng mọi viên ngọc báu, hoa báu, các thứ phất trần để nghiêm sức, lưới báu, Anh Lạc rũ bày bốn bên

Ở trong trướng báu, tưởng có Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai ngồi Kiết Già trên tòa Sư Tử, đầy đủ ba mươi hai tướng Đại Nhân, tam mươi vẻ đẹp, thân phóng hào quang tròn làm tướng Thuyết Pháp, mắt ngắm nhìn Nhất Tự Đảnh Luân Vương Bồ Tát.

Như bên trên nói, các hàng Bồ Tát Thanh Văn, chư Thiên… đều tưởng hiện ra rõ ràng, với tưởng thân của mình ngay bên trong trướng báu, ở bên phải Đức Phật, quỳ thẳng lưng chắp tay, cúi đầu, tay bưng lư hương, tụng Bổn Trì Chú, thưa trình Hội Chúng của Đức Phật, kèm thưa trình hết thảy chư Phật ở mười phương ngồi trong trướng báu, hiển hiện rõ ràng, nguyện nhận cúng dường.

Lại nên tưởng cầm mọi loại mây hương, mọi loại hoa thơm, thức ăn thơm, nước thơm… cúng hiến Phật Hội. Liền phát nguyện rằng: “Nguyện xin Thánh Chúng đều dùng Thần Lực thương xót hộ giúp con, nhận sự cúng dường”

_Tiếp đãi đầy đủ xong. Tiếp theo tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú 108 biến. Lại tưởng riêng thành cái ao tắm bảy báu: Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương bàng trên dưới… sâu rộng như biển, bên trong đầy nước hương thơm, tắm gội Thân Chân Báo Phật của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai với cùng một lúc tưởng tắm hết thảy Thân Chân Báo Phật ở mười phương, kèm với Phật Chủng Tộc, Bồ Tát, Chú Thần, Bổn Sở Chú Thần

Tưởng tắm tất cả xong. Lại tưởng mọi loại Chiên Đàn, hương xoa bôi… một thời xoa bôi tô điểm hết thảy thân Phật với Phật Chủng Tộc, Bồ Tát, Chú Thần .

Lại tưởng mọi loại the,lụa kỳ diệu, dây vàng, Cà Sa, mão đội, Anh Lạc với các áo quần một lúc nghiêm sức suốt hết thảy thân Phật với Phật Chủng Tộc, Bồ Tát, Chú Thần. Lại tưởng thưa trình lần nữa với Chúng hội tọa bên trong trướng.

Lại tưởng hiến bày các món ăn uống thượng diệu, một lúc cúng dường hết thảy chư Phật với Phật Chủng Tộc, Bồ Tát, Chú Thần xong. Nhân Giả liền đem chỗ Căn lành này, tâm miệng tỏ bày, chân thành sám hối mọi tội, hồi hướng Bồ Đề, tưởng thỉnh chư Phật trong trướng báu, chuyển bánh xe Đại Pháp.

Nhân Giả nên liền như ở trong trướng, quỳ ngồi bên phải Đức Phật, quán nơi sống mũi, tưởng tâm không có nghi ngờ, tay phải lần tràng hạt, tay trái để ngang ngực, kết Sổ Châu Ấn, mỗi mỗi điều phối tụng số Chú.

Đủ Khóa xong rồi, để tràng hạt (sổ châu) ở trong cái tráp hương sạch sẽ, dùng Ấn Chú hộ trì. Lại đốt trác hương, tưởng các hoa hương… như Pháp cúng dường. Liền tụng Bổn Chú giải Phương Giới ấy, chắp tay đảnh lễ, y theo các phương mà phát khiển.

Quán Pháp như vậy ba mươi sáu tháng, dứt các sự đàm luận, Tâm đừng lầm lỗi chạy theo các cảnh loạn trược. Quán tưởng thanh tịnh y theo Pháp mỗi ngày ba lần, tức được chứng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Tam Ma Địa Môn.

 

PHÂN BIỆT BÍ TƯỚNG PHẨM THỨ NĂM

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ tát rằng: “Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Thành Tựu Hành Pháp này là điều mà chư Phật cùng nói, vì được lợi ích cho hết thảy hữu tình, thành Giáo Pháp của Phật Đảnh Luân Vương này.

Này Mật Tích Chủ! Hết thảy Như Lai quá khứ hiện tại đã nói: câu kệ, Giáo Hạnh, Pháp Môn… không có sai khác, đều chọn lựa nơi thù thắng yên lặng trống vắng. Nay Ta lược nói: Chọn các núi có tiếng tăm, chỗ chư Thánh cư ngụ, hoặc hang động Thần Tiên, hoặc nơi nhà mới sạch sẽ trống rỗng, hoặc cây lớn mọc một mình, rừng, suối…Ở Thắng Xứ này, một lòng thiện tịnh tu hành Pháp này. Đối với Pháp Bất Thiện cần đoạn trừ sạch hết, đối với Pháp Thiện Tịnh thì sanh nghĩa Kiến Tịnh (thấy trong sạch). Hai câu Pháp này liên miên chẳng dứt, hay sanh ra nghiệp Thiện, Bất Thiện. Thế nên việc ăn uống: các vị cay, ngọt, mặn, lạt không được tham lam, ham thích mà ăn quá no. Nếu ăn no quá thì không thể trì tụng cúng dường, đốt lửa, Tâm Định không sanh. Chính vì thế người trì Chú nên xa lìa sự tham muốn thức ăn

Thường lúc đầu đêm, tùy theo sức chuyển đọc Hoa Nghiêm, Bảo Vũ với hết thảy Ma Ha Diễn Kinh (Kinh Đại Thừa) khác. Quán Hành Pháp ấy chế ngự ruộng Tâm, tu tập Giáo này là Pháp Vô Vi (Asaṃskṛta).

Nếu Bố Sắt Trí Ca (Puṣṭika: Tăng Ích) thì mỗi lúc nửa đêm, trải cỏ tranh sạch, kết Giới bốn phương, kết Ấn tụng Chú… ấn hộ trì thân như Sư Tử Vương, đầu hướng về Nam, mặt hướng về Đông, nghiêng hông bên phải, tay để nơi gối (làm gối), duỗi chân mà nằm.

Nếu Phiến Để Ca (Śāntika: Tức Tai), thì mỗi nửa đêm, đầu xoay về Đông, mặt hướng về Bắc, nghiêng hông bên phải, tay làm gối, duỗi chân mà nằm.

Nếu A Tỳ Chá Lỗ Ca (Abhicāruka: Hàng Phục) thì mỗi khi nằm, đầu hướng về Tây, mặt hướng về Nam, nghiêng hông bên phải, tay làm gối, duỗi chân mà nằm

Nếu khi ngủ, trong mộng thấy leo lên cây Bồ Đề, cây Chiên Đàn Hương, cây Nhĩ La Uất Đầu Mạt La thì gọi là Chứng Trung Phẩm Hướng Tốc Thành Tướng.

Nếu có mộng thấy cỡi nhóm chim Bạch Hạc, Khổng Tước, Kim Sí Điểu.. thân phát ra lửa sáng thì gọi là Chứng Thượng Phẩm Hướng Tốc Thành Tướng.

Nếu có mộng thấy leo lên cây phướng bảy báu, lầu gác, đài báu, đạp trên vòng hoa. Hoặc thấy tay cầm cây đàn Không Hầu, đi vào Tăng Chúng, leo lên Tháp, ngồi trên thuyền thì gọi là Chứng Hạ Phẩm Hướng Tốc Thành Tướng.

Nếu có mộng thấy người Chiên Trà La, heo, chó, Lạc Đà, lừa, người chết… hoặc chạm vào, hoặc cỡi. Đây là bị chướng ngại, chẳng thành tựu được. Nhóm tướng như vậy, người Trí nên biết.

_Nếu Tỳ Na Dạ Ca gây chướng não, liền dùng cánh mễ (gạo tẻ) trộn với dầu mè đen, một ngày ba thời, mỗi lần Chú mỗi lần thiêu đốt, 1008 biến, đủ 21 ngày tức được Bổn Thần hiện thân trong mộng dạy rằng: “Ngươi nên đi đến chỗ (…) Lấy bơ, mật trộn lại, ngày đêm ba thời, mỗi lần Chú mỗi lần thiêu đốt, đủ 1008 biến, đủ ba ngày đêm tức được mộng thấy dạy bảo hết thảy Chân Pháp điều phục Tỳ Na Dạ Ca. Ta đã nhận thức ăn của ngươi rồi, sẽ cho thành biện (làm thành công) hết thảy Chân Đạo.

Nếu mộng, biết được rồi thì niệm thêm Chú Thần. Nguyện vì ta mà hiện tướng Đại trượng phu, đừng vì ta mà hiện hình tướng Thiên Nữ, làm loạn cảnh tâm của ta, sằng bậy sanh tâm ái nhiễm si mê.

Lại trì Hộ Thân che trùm, sau đó nằm ngủ, tức được mộng thấy hình tướng Bổn Thần hoặc các Thần Biến, mọi loại thắng sự. Tâm cũng không nên vọng sanh ham ưa vui vẻ.

Nếu khi trì tụng thời đừng nhớ mọi thứ vui chơi, Pháp Dục Lậu ở quá khứ. Cũng đừng suy tính mọi việc vị lai, nói các Pháp khác, làm cho Tâm lay động tán loạn, chỉ một lòng cột buộc tưởng vào mỗi một Lý màu nhiệm của câu văn của Chú.

Nếu sanh tâm tham thì quán thân hư hoại

Nếu sanh tâm sân thì quán trụ tâm Từ (Maitra-citta)

Nếu sanh tâm si thì liền quán trụ mười hai nhân duyên

Nếu tâm khởi duyên, trụ sanh điên đảo. Tức liền quán tưởng Chú Thần ở trên đảnh đầu, cầm các hoa hương trước tiên hiến cúng như lúc trước, ngồi Kiết Già như Pháp niệm tụng. Nếu có chút ít không y như Pháp Thức, tức bị chướng ngại Tỳ Na Dạ Ca phá hoại, ăn nuốt các các Công Đức đã tu.

Như vậy, Nhân Giả nếu tụng niệm xong, hộ thân kết Giới, thân thể ngay ngắn ngồi Kiết Già, hé mắt nhìn về trước, lưỡi để trên đốc họng, đem lưng bàn tay phải đè lên lòng bàn tay trái, để dưới rốn. Quán chiếu hình sắc của bốn Đại xong, rốt ráo đều là Thể trống rỗng, không có chân thật. Lại quán năm Uẩn, tánh của nó cũng trống rỗng (Śūnya: Không) như tánh của Pháp Giới, không có ta, không có người, cũng không có sự thọ nhận, Pháp có thể đắc thì tâm liền vắng lặng.

Lại quán tâm yên tĩnh (tĩnh tâm), tâm cũng không có trụ. Người trì Chú, tụng Chú mỗi thời số xong, thường làm Quán này.

Nếu thấy cảnh tượng của mọi loại Thần Biến, cũng không được dính mắc, tự yên tĩnh thấy Tâm, liền được diệt trừ tất cả tội dơ bẩn.

Nếu người chưa từng vào Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Đại Chủng Tộc Đàn, chưa được A Xà Lê dạy bảo truyền Pháp mà tự trì Pháp này, tức thường bị Tỳ Na Dạ Ca như bóng theo hình, gây chướng ngại… ăn nuốt hương, hoa, thức ăn uống, nước hương, thức ăn thiêu đốt trong lửa (hỏa thực) mà người trì Chú đã cúng hiến, làm cho âm thanh của Chú không đến được Bổn Sở Chú Thần nên Pháp không có thành nghiệm.

Đảnh Luân Vương này, nếu người thành tựu, tức thường không bị Lạo Khuyển Đà Tra Ca, Tỳ Na Dạ Ca Vương làm sanh chướng nạn, huống chi là hết thảy Tỳ Na Dạ Ca khác có thể gây chướng nạn sao?!…

Thế nên người Trí muốn được thành tựu Chú Pháp này thì nên dùng Nan Thắng Phẫn Nộ Vương Chú hoặc dùng 12 loại Chú của Bộc Tòng (tôi tớ) của Luân Vương.

Vào lúc trì tụng, khi thiêu đốt hỏa thực thời hộ giữ Thân ấy, nếu chẳng y theo Pháp mỗi mỗi hộ thân, tức khó thành tựu. Thường bị các Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát ác, loài Cấu Tiên ác, Trà Chỉ Ni Quỷ, Tất Xá Già Quỷ với các Quỷ đói, nơi nơi chỗ chỗ thường đi theo tìm cầu dịp thuận tiện phá hoại hư hao.

Trong Chú Pháp này, đừng dùng nhóm hoa Mạn Đà La, hoa Nhĩ La, hoa Át Già.. đem hiến cúng dường, với trong Pháp cúng dường các Phật Đảnh cũng không được dùng để cúng dường.

Nên dùng hoa Nhạ Để, hoa Hiệt Bát La, hoa Câu Vật Đầu, hoa sen, hoa Dụ Để Ca với các loại hoa có hương thơm, hoa nổi tiếng… cầm nhóm hoa này thường dùng cúng dường năm Đảnh Luân Vương.

Nếu có người trì Chú trải qua một, hai, ba lần tinh tu Pháp này mà chẳng chứng Tất Địa (Siddhi) thì cần phải cố gắng siêng năng tu tập chuyên tinh, cho đến bảy lần. Vào tháng giêng, tháng năm, tháng chín đi đến nơi sông, biển… ngày ngày ba thời dùng cát ấn tháp Phật, tùy theo sức ấn, tu, kèm chuyển các Kinh Điển khác của Đại Thừa. Quán xem tất cả chỗ Ta đã hành từ trước đến nay, tu học Pháp này, ấn đủ số ba mươi vạn cái tháp, để diệt mười nghiệp chướng nặng nề trong đời trước. Lại tùy ở trước mỗi một cái tháp, dùng hương xoa bôi, hương bột, các hoa hương màu nhiệm để hiến cúng dường. Ở trước mỗi một cái tháp, ngồi tụng Chú 108 biến.

Người Trí như vậy, như Pháp tu trì mà chẳng thành tựu tức bị chướng nặng của đời trước. Lại gia thêm, ngày ngày ấn khoảng một ngàn cái tháp cao bẳng một khuỷu tay. Nếu tội nặng năm nghịch cũng được tiêu diệt mà chứng thành tựu, huống chi là các chướng mỏng nhẹ khác của đời trước. Như đây, y theo Pháp tinh cần tu tập, chỉ tụng trì Chú cũng được tiêu diệt, huống chi là ấn tháp

Lại có Pháp. Đi đến trụ bền bờ sông lớn, sông nhỏ, biển… hái hoa sen xong, một lần Chú thì một lần ném vào trong nước, mãn mười vạn cái, liền được thành hướng, huống chi là tăng thêm gấp bội mà chẳng thành tựu sao. Nếu chẳng phải là nơi chốn ấy mà làm Tu Pháp tức chẳng thành công.

Như Chú Pháp này, nếu người Phước mỏng kém thì khiến gia thêm ấn tháp liền được thành tựu. Người đã gieo trồng Phước Đức thì chỉ y theo Giáo, tụng trì cúng dường, tức được thành tựu.

Như vậy, người thành tựu, siêng năng tụng trì Chú dùng làm căn bản. Thế nên các kẻ thiện nam, bền chắc tinh tiến, thân tâm thanh tịnh cầu Bồ Đề, ắt quyết định thành tựu.

Này Mật Tích Chủ! Chưa từng thấy Chú dùng ngôn từ khoa trương chẳng thật mà nói Đạo, Ta viết Chú này trong Kinh để tự thành, cần yếu là phải tinh tấn vì Bồ Đề, sư tăng, cha mẹ với chúng sanh khổ… ra công tu tập, chắp tay đảnh lễ, y theo Pháp tụng Chú, cắt trừ cấu chướng thì mới được thành tựu

Đảnh lễ như vậy là được thành tựu Công Đức rộng lớn. Đảnh lễ như vậy là vô lượng quả báo, vô lượng nhóm Phước. Thế nên luôn luôn chắp tay đảnh lễ mới được thành tựu Công Đức của miệng tốt lành, thân tốt lành, ý tốt lành. Hữu tình ở Kiếp Sơ, do tính chất thuần thiện, Phước Đức cao thắng, nên tùy làm tùy thành. Chẳng như ngày nay, Ta, Thích Ca Mâu Ni Như Lai sinh ra ở đời trược ác khi được giải thoát với hàng Đệ Tử khi chứng giải thoát. Thế nên người Trí liên tục đoạn trừ Tâm của lưới nghi ngờ sai lầm.

Nếu có người đời trước gom chứa Phước Đức tăng thắng thì y theo Pháp tu hành sẽ mau được thành tựu. Nếu đời trước không gom chứa Phước Đức mỏng kém thì y theo Pháp tu trì ắt rất lâu mới thành tựu.

Chú tối thượng này, nếu chứng thành tựu, tức được cao hơn hết, không có gì ngang bằng được. Ví như mượn báu Lưu Ly so sánh với báu Liên Hoa Quang kia thì công lực trội hơn gấp bội, không thể ví dụ được. Cho nên liền biết sức của Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương dõng mãnh thù đặc chẳng thể nghĩ bàn.

_Người trì Chú nên thường ôm bình bát đi xin ăn (khất thực). Nếu được cơm, bánh thì nên trong sạch chọn lựa, chia ra làm ba phần: Một phần hiến Phật, Chú Thần, chư Thiên. Nếu thức ăn hiến xong thì đem bố thí cho hết thảy hữu tình ở trên bờ dưới nước. Một phần cấp cho kẻ từ nơi khác đến xin ăn, nếu không có người xin, thì ban cho cầm thú. Một phần tự giữ, y theo Pháp mà ăn.

Nếu có làm Pháp cầu an ổn thời ngồi hướng mặt về phương Bắc mà ăn.

Nếu có làm Pháp cầu phú nhiêu (giàu có) thời ngồi hướng mặt về phương Đông mà ăn.

Nếu có làm Pháp cầu điều phục thời ngồi hướng mặt về phương Nam, mà ăn.

Người trì Chú, mỗi ngày dùng Tâm Từ phát Hoằng Nguyện, che chở cho hết thảy hữu tình bị các khổ, thề sẽ độ thoát.

_Nếu Đại Bật Sô, Ô Ba Sách Ca, người giữ gìn Phạm Hạnh (Brahma-caryā)… nếu tâm Từ Bi, một mình trì Pháp, tức không có chướng ngại. Thế nên người Trí ưa muôn an ổn, phú nhiêu, điều phục… mau thành chứng thì nên thường định tâm, cung kính chắp tay, đảnh lễ tháp Phật, tịnh trị rưới vảy đất. Trị xong, lấy phân bò hòa đất bùn màu vàng, xoa bôi đất của Đàn. Tụng thì dùng Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Vương Tâm Chú, hoặc tụng Tồi Toái Đảnh Vương Chú… chú vào hạt cải trắng (bạch giới tử) và tro sạch bảy biến, rồi rải tán khắp mười phương kết làm Phương Giới, cầm bốn cây cọc có cột dây chỉ, chú vào bảy biến rồi đóng ở bốn góc, kết Phương Địa Giới, an bày vị trí tòa ngồi, bày biện mọi loại cúng hiến, hộ thân kết Ấn, thỉnh triệu cúng dường, tụng Chú đốt lửa… tự thân thành nghiệm,

Đầu tiên cúng dường Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Tiếp theo nên cúng dường Nhất Tự Minh Đảnh Luân Vương. Tiếp đến nên theo thứ tự cúng dường các Đảnh Luân Vương. Tiếp theo nên cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát với chủng tộc của Ngài. Tiếp theo nên cúng dường Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát với chủng tộc của Ngài. Tiếp theo nên cúng dường Dữ Nguyện Đảnh Vương với chủng tộc của Ngài. Như vậy cúng dường, mỗi mỗi theo thứ tự, đều cầm hương hoa trước tiên cúng dường xong. Tiếp theo nên cúng dường Thiên Thần của Thế Gian.

Như cúng hiến này thì gọi là Pháp Tắc cúng dường ba Chủng Tộc. Người ngu si không thể hiểu biết nỗi, nên dùng mọi thứ chê bai hết thảy Chú, nói các Chú Pháp đều là lời nói lừa dối (mạn ngữ). Nếu người Trí gặp kẻ ngu si như vậy thì nên tự mình suy nghĩ xem xét là chư Phật nói ắt chẳng có hư dối sai lầm, chỉ tự mình chuyên chí tu hành cúng dường, Pháp Phiến Để Ca (Tức Tai), Pháp Bố Sắt Trí Ca (Tăng Ích), Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca (Hàng Phục).

Nếu làm Pháp Bố Sắt Trí Ca, khi tụng Chú, khi thiêu đốt hỏa thực, hướng mặt về phương Đông, nhất tâm, ngồi Kiết Già ngay thẳng, sau mỗi lần Chú thêm ba chữ Tốt Phạ Ha (SVĀHĀ)

Nếu làm Pháp Phiến Để Ca, khi tụng Chú, khi thiêu đốt hỏa thực, hướng mặt về phương Bắc, định Tâm, ngồi Kiết Già ngay thẳng, cũng sau mỗi lần Chú thêm ba chữ Tốt Phạ Ha (SVĀHĀ)

Nếu làm Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca, khi tụng Chú, khi thiêu đốt hỏa thực, hướng mặt về phương Nam,giận dữ, bàn chân trái đạp trên cạnh bàn chân phải, ngồi xổm, cũng sau mỗi lần Chú thêm hai chữ Hổ Hồng (HŪṂ)

Nếu muốn thường làm Pháp Phiến Để Ca. Dùng dầu mè đen trộn với hạt cải trắng (bạch giới tử), làm Pháp Hỏa Thực

Nếu muốn thường làm Pháp Bố Sắt Trí Ca. Cũng dùng dầu mè đen trộn với gạo tẻ trắng, làm Pháp Hỏa Thực

Nếu muốn nhổ bứt cái gai trong Phật Pháp, làm Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca. Dùng thuốc độc trộn với rễ Lang Già Lý, làm Pháp Hỏa Thực

Nếu Pháp Bố Sắt Trí Ca. Dùng nhóm cây Nhĩ La, cây A Du Ca, cây A Sai Na, cây Bồ Đề, cây Tát Nhạ Ca… thường nhóm lửa thiêu đốt

Nếu Pháp Phiến Ca. Dùng nhóm cây Nễ Cù Đà, cây Hiệt Đầu Mạt La, cây A Thuyết Tha, cỏ Thiên Môn Đông… thường nhóm lửa thiêu đốt

Nếu Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca. Dùng nhóm cây Khư Địa La, cây Vô Hoạn, cây Khổ Đống, cây La La Nhĩ La… thường nhóm lửa thiêu đốt

Điều oán ác của người khác khiến cho Tâm hồi phục thì gọi là A Tỳ Chá Lỗ Ca (Abhicāruka)

Trừ sạch tai chướng, hết thảy yên tịnh thì gọi là Phiến Để Ca (Śāntika)

Nguyện được viên mãn, mong cầu như ý thì gọi là Bố Sắt Trí Ca (Puṣṭika)

Nhóm Pháp như vậy, ở hết thảy nơi chốn, người trì Chú khéo suy nghĩ, y theo Pháp tu tập, làm Giáo Pháp này được tối thượng. Vì muốn tịch trừ hết thảy tai chướng trong Giáo Pháp này, nên làm Pháp này. Trừ Pháp này ra, còn lại chẳng nên làm.

_Người trì Chú, có Tâm Từ, hết thảy Phạm Hạnh thanh tịnh, đừng như Ngoại Đạo để tóc dài, móng tay móng chân dài… tức được thanh khiết. Nếu tóc dài thì bị chí, rận cùng sinh ra… tùy sinh chướng lâu dài làm cho niệm tụng không thành. Nếu móng tay mónh chân dài, tức bên trong đầy cáu bẩn… dâng hoa đốt hương tức bị chạm dơ, do đây sanh tội.

Khi Nhật Nguyệt Thực thời đặc biệt đừng quán sát nói. Cũng đừng chê trách lỗi với chẳng phải là lỗi của Hòa Thượng A Xà Lê.

Nếu khi cúng dường Chú Thần, chợt thấy Chú Thần thọ nhận sự khoái lạc của cõi Trời thì cũng đừng yêu thích, nguyện giống như vậy.

Nếu thấy có cõi nước không có chủ, rối loạn thì đặc biệt đừng trụ trong đó, tu Pháp niệm tụng

Lại đừng trụ ở đất có Long Thần hộ giữ, đất có Dược Xoa La Sát thường tụ tập, đất rừng Tử Thi Đà, đất không có Phật Pháp, đất có cọp sói trụ, đất có nhiều muỗi mòng, đất không có mưa, đất có nhiều gió, đất có nhiệu giặc cướp trụ, đất có người giết mổ trụ, đất có người bán rượu trụ, đất mua bán Kinh Tượng, đất mua bán hung khí, đất có Dâm Nữ trụ với đất có mọi nạn… đều đừng trụ trong đó kiếm Pháp niệm tụng, làm cầu các Pháp ắt chẳng thành tựu.

Trong Pháp niệm tụng thì Pháp thiêu đốt lửa là hơn hết. Thiên Thần rất vui ví như ăn no đủ thì vui vẻ thích thú. Thế nên Đức Phật nói trong hết thảy Niệm Tụng Phẩm Pháp thì Hỏa Pháp là hơn hết.

Cũng chẳng bảo dùng quốc vương hạ liệt như tướng Dược Xoa. Cũng chẳng đàm luận chuyện quân trận giết nhau, nhận sứ mệnh thông thương giữa các nước (thông quốc sứ mệnh), Môi Cấu (mưu tính kết hợp con trai con gái), đùa bỡn hung bạo, trói người, trị bệnh… đều chẳng nên làm.

Như hướng đã nói: niệm tụng, đốt lửa, hết thảy Pháp Sự… thì công lớn thành lớn, công ít thành ít. Cũng không được đem rượu thịt, thuốc độc, đao, kiếm, cung tên, búa, giáo, các loại khí cụ cho người khác. Cũng không được khen ngợi sự vui thích giết hại, phương tiện giết hại, mưu tính giết hại. Cũng không được bói toán, nói việc xấu tốt của kẻ khác. Cũng không được dạy kẻ khác các pháp mê đảo, si mê…với những việc khủng bố hết thảy hữu tình, Pháp không an ổn…. đều chẳng nên làm.

Trụ ở chỗ thanh nhàn xong, dùng phương tiện của Trí, tưởng tu các Pháp. Nếu có duyên gặp nơi của Quỷ Bộ Đa chẳng sạch, nơi có Thi Quỷ, nơi có hàng Dược Xoa La Sát….Thường một lần ra vào đều tưởng là thanh tịnh. Ở nơi niệm tụng, ngồi Kiết Già, tưởng các Diệu Pháp thành ao nước hương thơm, chìm ngập thân tắm gội, kết Dục Chú Ấn ấn vào thân tưởng là xoa bôi hương, khắp thân đều xoa bôi tô điểm, nhất chí niệm tung, không được dao động, nhìn ngó, nghe ngóng, dò xét, ho hắng khạc nhổ, đàm luận.

Nếu phá oai nghi, dao động, ho hắng khạc nhổ. Tức lại xoay vòng kết Dục Ấn ấn vào thân. Trì xong, lấy nước sạch rửa tay, súc miệng rồi lại tụng niệm, cũng được Thượng Trung Hạ mà đều thành tựu.

 

THÀNH TƯỢNG PHÁP PHẨM THỨ SÁU

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ta thấy đời sau, hết thảy người trì Chú: Đức mỏng, Phước ít, ưa thích đùa giỡn vui chơi, bạn bè chẳng hiền thiện, đam mê phóng đãng, nơi Giới bị khuyết rỉ, thấy biết kém cỏi, chẳng ham cầu học Đảnh Luân Vương Quảng Giáo Xuất Thế Thượng Pháp, chỉ ưa thích Pháp của Thế Gian (thế pháp). Ta vì người này, nói Pháp Thế Thành Tựu của Đảnh Luân Vương, tâm chẳng nghi ngờ dao động, y theo Pháp tu tập tức quyết định thành Hướng.

Này Mật Tích Chủ! Người thành Thế Pháp nên thường mỗi ngày, y theo thời, thỉnh triệu Nhật Thần, Nguyệt Thần, Tinh Thần, Tùy Sở Trụ Thần. Một lòng niệm tụng, nhiếp gọi đến trụ, kết Giới, Hộ Thân, tụng Chú, làm Pháp… liền được các Pháp thành tựu của Thế Gian. Nếu chẳng Hộ Thân, Kết Giới, kết Ấn tức bị Quỷ đoạt tinh khí của con người cướp đoạt mất Chú Lực, sáu phần thì thâu lấy năm phần, hoặc thâu đoạt hoàn toàn. Hoặc bị Quỷ Trà Chỉ Ni (Ḍākiṇī) cướp đoạt Chú Lực. Nếu sợ bị thâu đoạt, liền tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú, Nan Thắng Vương Chú thì quyết được bảo toàn Bổn Sở Chú Lực

Mật Tích Chủ! Chính vì thế cho nên hết thảy người trì Chú, Tâm thường vắng lặng, kiên trì sáu niệm, cột buộc tu Chú Pháp, phát Tâm Bồ Đề liền được thành tựu. Lìa Bồ Đề (Bodhi) ra đều không có thành công. Tại sao thế ? Vì Tâm Bồ Đề có oai lực lớn vậy

Này Mật Tích Chủ! Thế nên Chú Nhân (người trì Chú) ngăn cấm khiến chẳng được ăn thức ăn có màu xanh, đen. Cũng chẳng nên ngồi nằm ở giường của Phật, giường của Pháp, giường của Tăng, giường của Hòa Thượng Xà Lê, giường của cha mẹ

Khi ăn cũng chẳng được: ăn ngồm ngàm thô bạo, ăn miếng lớn, nhai thức ăn phát ra tiếng, vừa ăn vừa nói chuyện, chuyền vật chứa thức ăn cho nhau, dùng ngón tay xỉa răng…đều chẳng nên làm

Người trì Chú nên biết như Pháp xoa chà Đàn, ngồi Kiết Già ngay thẳng, yên lặng ăn

Nếu khi niệm tụng, hoặc lúc làm Pháp thời nên cắt đứt hết thảy lời nói thiện, bất thiện… như Pháp tụng niệm, cũng đừng cùng với người khác ngồi, nằm chung một cái giường; trao đổi quần áo, giày dép, vớ…

Vật khí chứa thức ăn, thuần dùng vật khí bằng đồng trắng đỏ. Nếu đã ăn xong liền dùng nước sạch tẩy rửa, lại dùng tro đất lau chùi trong ngoài. Thường chẳng làm các việc giễu cợt vui đùa, hý luận. Nếu vui thích vi phạm thì tùy tội cùng sanh, Chú khó thành nghiệm.

Nếu làm Đại Pháp. Thường chọn năm tốt, tháng tốt, ngày tốt, giờ tốt.. y theo Pháp tạo dựng ba loại Phẩm Pháp. Ấy là vào tháng Thần Thông của Phật, tu là tốt nhất, chứng hướng Tất Địa rộng lớn của Đảnh Vương

Hai kỳ Bạch Nguyệt, Hắc Nguyệt: vào ngày 8, ngày 14… ăn ba loại thức ăn màu trắng, dùng thêm hương, hoa, thức ăn uống sạch mới đem hiến cúng dường, như Pháp niệm tụng gấp đôi thì mau thành chứng.

_Người muốn nhanh chóng thành tựu thì như Pháp, y theo Pháp nên vẽ tượng, dạy bảo Đồng Nữ dùng nước nóng thơm tắm gội, thọ tám Trai Giới, cầm sợi tơ đan dệt tấm lụa ứng với độ lượng, đừng dùng dao cắt xén, độ lượng khoảng năm khuỷu tay, hoặc ba khuỷu tay

Vào ngày tốt thời bắt đầu ra công vẽ. Hoặc dùng miếng ván để vẽ. Khi vẹ tượng ấy thì tấm rửa sạch sẽ, mặc áo sạch mới, thọ tám Trai Giới

Trước tiên, ngay chính giữa, vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi Kiết Già trên tòa Sư Tử, đủ mọi tướng tốt, đảnh đầu phóng ra ánh sáng lớn, làm tướng Thuyết Pháp, thân có hào quang tròn.

Tiếp theo, bên phải Đức Phật vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát, thân màu trắng vàng, đầu đội mão báu, mão có vị Hóa Phật, mặt hơi giận, một tay cầm cây phất trắng, một tay cầm tràng hạt (sổ châu), lại nơi giữa hai chân mày (tam tinh) vẽ một con mắt đứng, dùng quần áo của cõi Trời, anh lạc, vòng xuyến, mọi thứ trang nghiêm, ngồi Kiết Già trên tòa hoa sen.

Tiếp theo, bên trái Đức Phật vẽ Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, thân tướng màu xanh, đầu đội mão báu, mặt mắt giận dữ, một tay cầm chày Kim Cang, một tay cầm cây phất trắng, cũng dùng áo quần, anh lạc, vòng xuyến, mọi loại trang nghiêm, ngồi Kiết Già trên tòa hoa sen.

Tiếp theo, phía sau vẽ Tối Thắng Minh Vương Kim Cang, vẽ Đại Độ Để Sứ Giả, vẽ Khả Úy Kim Cang, vẽ Hoàng Nhãn Kim Cang, vẽ Đại Tiếu Kim Cang, vẽ Đại Quyền Kim Cang, vẽ Quân Trà Lợi Kim Cang. Nhóm Kim Cang này đều có đại lực, điều phục tối thượng, đều cầm khí trượng, ngồi Bán Già trên tòa hoa sen, đều dùng mọi loại quần áo, anh lạc … để trang nghiêm.

Tiếp theo, phía sau Quan Thế Âm Bồ Tát, vẽ Mã Đầu Quán Thế Âm Vương, vẽ Ý Lạc Viên Mãn Vương, vẽ Bạch y Quán Thế Âm Bồ Tát Mẫu, vẽ Đa La Bồ Tát, vẽ Tỳ Cu Chi Bồ Tát, vẽ Phật Nhãn Bồ Tát. Nhóm Bồ Tát này, mỗi mỗiđều cầm Bổn Sở Khí Trượng, ngồi Bán Già trên tòa hoa sen, cũng dùng mọi quần áo màu nhiệm, anh lạc để trang sức.

Tiếp theo, bên trái Đức Phật, vẽ Nan Thắng Đại Phẫn Nộ Thần, vẽ Đại Tự Thần. Tiếp theo, bên phải Đức Phật, vẽ Phật Nhãn Thần, vẽ Tướng Hảo Thần. Bốn vị Thần của nhóm này đầu có thân màu vàng ròng, ngồi Bán Già trên tòa hoa sen.

Này Mật Tích Chủ! Nhóm tượng như vậy: sắc tướng, khí trượng như lúc trước đã nói, là Đại Biến Tượng gọi là Như Lai Thân Tối Thắng Đảnh Luân Vương Đại Thành Tựu Tượng, hết thảy các Chú đều đồng thông dụng, đều vẽ thành chứng”.

_Lúc đó Đức Thế Tôn vì Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử, nói rằng: “Xưa kia, Ta thấy ông khi chưa chứng Địa, tụng dùng Chú này cúng dường Tượng này, Tượng phóng ánh sáng lớn, chiếu khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, chúng sanh thượng trung trong ba cõi đều vui vẻ sung sướng ham thích.

Này Mạn Thù Thất Lợi! Ông được ánh sáng chiếu đến, nhảy vọt lên Tam Địa, được năm Thần Thông, cho nên nói Tượng không thể nghĩ bàn, là Đại Tam Ma Địa của thân Như Lai. Do đây, Ta dùng sức Tam Ma Địa này, khắp cả ba cõi vì các hữu tình làm lợi ích thành tựu, thần thông biến bày thân Đảnh Luân Vương, như báu Như Ý

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử: “Ông hay khéo dùng Đại Bị Giáp Trụ, phương tiện khéo léo, an trụ hữu tình, bày sự cứu giúp hữu tình, biến hóa vô lượng, hiện thân Phật, thân Bồ Tát, thân Duyên Giác, thân Thanh Văn… nhiếp lấy chúng sanh, nói các Thắng Pháp, giác ngộ hữu tình”.

Khi ấy Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử chắp tay cung kính bạch rằng: Thế Tôn! Đức có bao nhiêu tên gọi hiện Đảnh Luân Vương Tam Ma Địa, lưu truyền nơi Thế Giới này?”.

Lúc đó Đức Thê Tôn bảo Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử: “Ông hỏi tên gọi của Nhất Tự Đảnh Luân Vương. Ấy là: Tên gọi Ấn Nại La, tên gọi Đế Thích, tên gọi Bố Lãn Na La, tên gọi Đại Phạm Thiên, tên gọi Tỳ Sắt Nộ Thiên, tên gọi Ma Hê Thủ La Thiên, tên gọi Tự Nhiên, tên gọi Kiếp Bỉ La, tên gọi Bổ Đả Na, tên gọi Mỗ Nễ, tên gọi Để Lật Trá Ca Lật Sái, tên gọi Đại Địa Địa, tên gọi Trì Thế Địa, tên gọi Nhĩ Dã Sai, tên gọi Nhất Thiết Hành, tên gọi Nhất Thiết Môn, tên gọi Tịch Tĩnh, tên gọi Niết Bàn, tên gọi Biến Hóa, tên gọi Sở Biến Hóa, tên gọi Nan Tồi, tên gọi Đại Thiên, tên gọi A Tố Lạc, tên gọi Cứu Độ, tên gọi Thắng Thủ, tên gọi Tối Thắng, tên gọi Na Dã Ca, tên gọi Tỳ Na Dạ Ca, tên gọi Phước Đức, tên gọi Mang Già La, tên gọi Nhất Thiết Sự Thành Tựu, tên gọi Cứu Thế, tên gọi Tác Lạc, tên gọi Tác An Ổn, tên gọi Không Đệ Nhất Nghĩa Đế, tên gọi Bất Sanh Ứng, tên gọi Danh Văn

Năng Thí, tên gọi Cụ Bi, tên gọi Cụ Tri, tên gọi Tam Ma Địa, tên gọi Cụ Từ, tên gọi Bà Lỗ Noa, tên gọi Sư Tử, tên gọi Ngưu Vương, tên gọi Nỉ Phạ, tên gọi Long Vương, tên gọi Dược Xoa, tên gọi Khổ Hạnh Tiên, tên gọi Đại Khổ Hạnh Tiên, tên gọi Năng Giả, tên gọi Xúc Giả, tên gọi Thế Gian Mẫu, tên gọi Chất Đa La, tên gọi Tam Mục, tên gọi Thiên Mục, tên gọi Bả Nhĩ Đát La, tên gọi Bổ Đả, tên gọi Đại

Tam Ma Địa, tên gọi Xuất Sanh Tam Ma Địa, tên gọi Dũng Tam Ma Địa, tên gọi Biến Tri, tên gọi Nhân Trung Sư Tử, tên gọi Điều Ngự Trượng Phu, tên gọi Xuất Sanh Đệ Nhất Nghĩa Đế, tên gọi Chứng Kiến, tên gọi Tướng Chứng Tướng, tên gọi Tam Giới Chủ, tên gọi Thế Gian Chủ, tên gọi Vô Cấu Xưng, tên gọi Ngũ Nhãn, tên gọi Tương Tự Nhãn, tên gọi Liên Hoa Mộng, tên gọi Quang Minh, tên gọi Hỏa, tên gọi Bộ Đa Chủ, tên gọi Đoạn Dục, tên gọi Vô Dục, tên gọi Vô Sân, tên gọi Phá Sân, tên gọi Khiển Sân, tên gọi Tồi Cấu, tên gọi Dõng Mãnh, tên gọi Đại Vương, tên gọi Hộ Thế, tên gọi Trị Địa, tên gọi Đế Thích Tượng, tên gọi Hương Tượng, tên gọi Bạch Liên Hoa, tên gọi Giải Không, tên gọi Kiến Không, tên gọi Hiện Bỉ, tên gọi Kiến Đạo, tên gọi Sanh Giả, tên gọi Vô Sanh Giả, tên gọi Phân Biệt, tên gọi Vô Phân Biệt, tên gọi Tận Phân Biệt, tên gọi Phá Phân Biệt, tên gọi Hộ Thế Gian, tên gọi Thiện Quốc, tên gọi Hứa Khả, tên gọi Diêm Ma Vương, tên gọi Thí Tài, tên gọi Thủy Thiên, tên gọi Câu Phát La Thiên, tên gọi Đề Đầu Lạt Tra, tên gọi Thiện Hiện, tên gọi Tô Di Lô, tên gọi Kim Cang, tên gọi Dụ Kim Cang, tên gọi Diệu Diệu Hạnh, tên gọi Dõng Mãnh, tên gọi Đại Dõng Mãnh, tên gọi Sở Sanh, tên gọi Đại Sở Sanh, tên gọi Thường Trụ, tên gọi Vô Thường, tên gọi Thường Vô Thường, tên gọi

Đảnh Luân Chú, tên gọi Đại Chú Vương, tên gọi Dược, tên gọi Đại Dược, tên gọi

Luận, tên gọi Đại Luận, tên gọi Thượng, tên gọi Vô Thượng, tên gọi Bạch, tên gọi Diễn Bạch, tên gọi Trượng Phu, tên gọi Thuyết Trượng Phu, tên gọi Sa Già La, tên gọi Đại sa Già La, tên gọi Hải, tên gọi Đại Hải, tên gọi Pháp Thủy Trụ, tên gọi Nhật Nguyệt, tên gọi La Ma, tên gọi Lạc Tướng Cụ Túc, tên gọi Tướng Trang Nghiêm, tên gọi Vân, tên gọi Đại Vân, tên gọi Thụ, tên gọi Đại Thụ, tên gọi Vô Đẳng, tên gọi La Hầu La, tên gọi Tướng, tên gọi Đại Tướng, tên gọi Chúng Sanh, tên gọi Đại Chúng Chủ, tên gọi Nhân Chủ, tên gọi Đại Nhân Chủ, tên gọi Trì Thủy, tên gọi Đại Trì Thủy, tên gọi Long Tượng, tên gọi Sư Tử, tên gọi Dõng Thí, tên gọi Vị Tằng Hữu, tên gọi Bất Tư Nghị, tên gọi Đại Bất Tư Nghị, tên gọi Phú Quý, tên gọi Đại Phú Quý, tên gọi Cự Phú, tên gọi Đại Cự Phú, tên gọi Thật Ứng Cúng, tên gọi Diệt Phiền Não, tên gọi Giải Thuật, tên gọi Hành Thuật, tên gọi Tác Biến Hóa, tên gọi Cụ Tiền Tài, tên gọi Pháp Cụ Tiễn, tên gọi Nhất Phi Nhất, tên gọi Hoạt Phi Hoạt, tên gọi Sơn, tên gọi Đại Sơn, tên gọi Vô Năng Hoại, tên gọi Lạc Hành Từ, tên gọi Cụ Túc Thần Thông, tên gọi Cụ Lực, tên gọi Cụ Trí, tên gọi Vô Đẳng Lữ, tên gọi Cụ Túc Quang

Này Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử! Có một loại người biết Ta là chẳng sanh chẳng diệt, Chân Như (Tathatā), Thật Tế (Bhūta-koṭi), Thật Pháp, Pháp Giới (Dharma-dhātu), Niết Bàn (Nirvāṇa), Thật Trí, không có hai, không có Tướng (Nirnimitta), Ý Sanh (Manuja), Nho Đồng (Mānava: Thắng Ngã), Tác Giả (Kāraka:Người hay tạo làm dựng nên vạn vật trong trời đất), Thọ Giả (một trong 16 Tri Kiến, đối với các Quả Báo thì nói là Thọ Giả), Tri Giả (Thể của Thần Ngã), Kiến Giả (cái thấy xác nhận có ta người)… làm hiểu biết như vậy

Này Đồng Tử! Chúng sinh ở Thế Giới Sa Bà (Sahā-loka-dhātu) này xưng gọi Ta là Đại Ly Dục Như Lai Phật Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư

Này Đồng Tử! Ta thường như vậy ở Thế Gian này, thành thục hữu tình bày các tên gọi như vậy

Này Đồng Tử! Nhóm tên gọi như vậy thành tựu chúng sinh, mới có năm a tăng kỳ trăm ngàn số tên gọi. Tất cả Thanh Văn, chúng sanh ngu si tuy xưng gọi tên của Ta cũng chẳng nhận biết tên gọi khác như vậy của Ta.

Này Đồng Tử! Ta vì thành tựu hết thảy hữu tình như vậy, cũng ở các Kinh nói tên gọi khác này.

Này Đồng Tử! Lại có một loại hữu tình biết Ta ở trong vô biên căng già sa đẳng Thế Giới có vô lượng loại tên gọi khác. Như Lai nói Pháp Như Như, chúng sanh điều phục thành tựu. Như Lai cũng chẳng đi lại, phân biện hiện ra sắc tướng.

Này Đồng Tử! Do chẳng đi lại, không làm phân biệt, liền hay hiện ra vô lượng

Pháp Sự Đà La Ni Môn”

_Khi ấy Đức Thế Tôn lại bảo Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử rằng: “Này Đồng Tử! Nếu có người tu trì Đảnh Luân Vương Pháp này thì nên thường nhìn chọn kỳ Bạch Nguyệt tốt, vào ngày 5, ngày 8, ngày 13, ngày 14, ngày 15, giờ có Tinh Tú tốt… tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới

Nếu là người đời (tục nhân) thì thọ tám Trai Giới, y trì Pháp Quỹ, thanh tịnh, nghiêm sức xoa bôi, kết Đàn Tràng, bày hiến hương hoa, thiêu đốt Hỏa Thực. Trước tiên, cúng dường Đức Phật với Quán Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, Ma Ha Bà La Thần kèm với các Bồ Tát, tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, các Thiên Chúng…Như cúng dường này liền được hết thảy Đại Oai Đức Thiên, Đại Oai Chú Thần, Đại Minh Chú Thần vui vẻ quán nhìn.

Nhóm chư Thiên này, tuy lại ngày ngày thỉnh triệu, cung kính như Pháp cúng dường. Ở trong Pháp này chẳng nên lễ bái. Tại sao thế? Vì năm Đảnh Vương Tôn này có hết thảy Đại Lực chẳng thể nghĩ bàn.

Này Đồng Tử! Người trì Chú này, tuy chẳng lễ bái hết thảy chư Thiên, nói ra chẳng hủy diệt các Chú Thiên Thần. Vì sao thế? Vì các Thiên Thần Bộ Tộc cùng nhiếp hộ trì Pháp.

Người biết Chú này, cũng chẳng nên đến nhà có tang ma, nhà có người mới sanh đẻ, nhà của người bất tịnh, nhà của Chiên Đà La, nhà của người săn bắn, nhà mua bán đồ hung khí, nhà mua bán Kinh Tượng, nhà của người Ngoại Đạo, nhà bán rượu…

Đi đến chỗ nghỉ qua đêm nhận cúng dường của người khác thì cũng chẳng được đem hết thảy thức ăn dư thừa, hôi thối để qua đêm mà cúng dường với tự mình ăn nuốt.

Người trì Chú nên biết mỗi ngày ba thời, tự thệ quy y Phật, Pháp, Đại Bồ Tát Tăng, phát Tâm Bồ Đề tịnh trừ ba nghiệp, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm

Giới, niệm Thí, niệm Thiên…

Nếu là người đời (tục nhân) thường vào lúc sáng sớm thọ tám Trai Giới, không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối,uống rượu, dùng son phấn xoa bôi thân, ngồi nằm trên giường cao lớn, không ăn quá Ngọ… Dùng Trí như thật, Tâm không có tạo làm, thành kính, tu tập… tức được thành công”

_Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu ni như lai lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Lại có tượng Chuyển Luân Vương đối với hết thảy Chú Tượng thuộc Thế Gian, Xuất Thế Gian là tối thượng không có gì ngang bằng được. Dựa theo theo ngày tháng lúc trước, người vẽ tượng phải đoan nghiêm, giữ đủ mười điều hiền Thiện, dùng vải lụa mịn rộng khoảng ba khuỷu tay, hoặc hai khuỷu tay

Trước tiên vẽ nọi núi báu, ở trong núi báu vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đầy đỏ mọi tướng, thân màu vàng ròng, làm tướng Thuyết Pháp, lưng và toàn thân có hào quang, Ngồi tại hoa sen trắng trên tòa Sư Tử, đảnh đầu phóng ánh sáng lớn.

Ở bên phải Đức Phật, vẽ dáng mạo của người trì Chú, quỳ thẳng lưng, chiêm ngưỡng Đức Phật, tay bưng lư hương.

Lại ở bên dưới núi, vẽ nước biển lớn, ở khắp trong nước vẽ nhóm lá hoa sen. Tượng này trang nghiêm, dựa theo điều mà lúc trước đã nói

_Này Mật Tích Chủ! Tượng Đảnh Luân Vương này, hết thảy Đức Phật nói, vì muốn người trì Chú được lợi ích lớn, mà lược nói Tượng này. Nếu có người nhìn thấy, tùy vui cúng dường thì tùy diệt mọi tội, được Công Đức lớn. Chư Thiên, Rồng, Thần hoan hỷ quán kính, sẽ quyết định thành tựu sức của Nhất Thiết Dõng Mãnh Đảnh Vương Chú, được vô số Phật, mọi loại ca tán, cúng dường Công Đức. Diệu Biến Tượng này được vô lượng vô số hết thảy chư Phật thường cùng nhau khen ngợi.

Nếu có người tin ưa, ngày đêm tinh tấn cung kính cúng dường, tức được lần lần tiêu diệt hết thảy tội chướng từ Vô Thủy, thân nghiệp thanh tịnh thành tựu biển Trí Công Đức của Đảnh Vương, vượt hơn hết thảy đặc biệt thù thắng, được các Trời Người cúng dường, cung kính khen ngợi vô lượng, sẽ chứng Phật Địa, rốt ráo không có thoái lùi.

Người chứng Chú này, trợn mắt giận dữ la rầy thì hết thảy Trời, Rồng, tám bộ Quỷ Thần đều hoảng sợ bỏ chạy khắp nơi. Thiên Đế Thích ấy thấy người này đến thì chia tòa cùng ngồi, các Đại Thiên cũng đều chia tòa. Nếu chư Thiên trong ba cõi thấy người này đến, cao ngạo không đứng dậy tiếp nghinh, liền bị phá vỡ cái đầu như nhánh cây Lan Hương. Nếu Ta trong ức cu chi đại kiếp, ngợi khen Chú này cũng không hết được.

Người thành Chú này thì người đó có tên gọi là chứng Tất Địa tối thượng, sẽ được trụ thọ, Tam Thập Tam Thiên Đại Na La Bát Để Tam Ma Địa, thân mạng an ổn, thường trụ không bị hại chết, thọ nhận địa vị của hàng Trời xong, biến thân như Đức Phật, chứng năm thần thông, bỏ cõi Trời này cùng vô lượng chư Thiên trước sau vây quanh đi đến các cõi Phật, dùng mọi loại biến hóa dạy dỗ chúng sinh.

Tùy theo các cõi Phật mà hiện thân Đế Thích, hoặc hiện thân Kim Cang, hoặc hiện thân Đại Phạm Thiên, hoặc hiện thân Y Thủ La Thiên, hoặc hiện thân Đồng Nam Đồng nữ. Hoặc vào trong cõi Địa Ngục, Quỷ đói, súc sanh… tùy hiện các thân, cứu thoát các chúng sanh. Hoặc trong rừng núi, thành ấp, tụ lạc tạo làm làm nhà phòng, mọi thức ăn uống cung cấp ban cho… , thường làm chỗ nương dựa trong ba cõi, độ thoát hết thảy chúng sanh, đủ năm Thần thông, hành Bồ Tát Hạnh, là bậc tôn quý trong loài người.

KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG

_QUYỂN THỨ HAI (Hết)_


QUYỂN THỨ BA

ẤN THÀNH TỰU PHẨM THỨ BẢY

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai bảo Đại Chúng rằng: “Các Thiện Nam Tử cần phải thọ trì vô lượng vô số sức đại dõng mãnh của Tam Ma Địa Xuất Hiện của hết thảy Như Lai, Thân an trụ Chú của hết thảy Như Lai, vô lượng vô biên Pháp chưa từng có của Chủng Tộc chân thật của hết thảy Như Lai, Oai Đức vô cực sinh ra lưu bày Đại Ấn Ấn Chú… Trong đây hay sanh hết thảy Bồ Tát, hết thảy chứng Địa thần thông,

Đại Pháp Đảnh Tam Ma Địa Môn, hay phá cu chi tất cả Ma Quân, hay nhiếp sức Đại Hùng của hết thảy Bồ Tát, bậc trợ giúp hộ trì, hay khiến cho hết thảy hữu tình đáng sợ sanh Tâm Đại Từ.

Này các Thiện Nam Tử! Nay Ta lược nói Thành Biện Nhất Thiết Sự Nghiệp Oai Đức Đại Ấn Ấn Chú

Khi ấy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, chắp tay cung kính bạch rằng: “Thế Tôn! Nguyện vì con giải nói nói rõ Oai Đức Đại Ấn, Ấn Chú mà hết thảy Như Lai đã lưu bày, để làm lợi ích cho hết thảy hữu tình, dùng chút ít công mà gom chứa thành Đại Chứng”.

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ông nên lắng nghe! Hãy nghe cho kỹ! Tĩnh Lự (Dhyāna: Thiền Định) niệm trì. Nay Ta vì ông phân biệt giải thích Pháp Đại Tinh Tấn Ấn, Ấn Chú của Phật Thế Tôn

NHẤT THIẾT NHƯ LAI TÂM TINH TẤN ẤN_CHI MỘT

Hai tay: đem tám ngón, bên phải đè bên trái, cài chéo trong lòng bàn tay, liền nắm lại thành quyền, duỗi hai ngón cái ngang bằng, đè trên lóng giữa bên cạnh của ngón trỏ đừng khiến cho đầu ngón co lại.

Ấn Chú là:

“Na mạc tát phạ bột đà (1) bồ địa tát đỏa nam (2) a nhĩ la (3) hổ-hồng (4) yêm (5)”

Ấn này, nếu đem hai đầu hai ngón cái, lên xuống qua lại, tức gọi là Khải Triệu Như Lai Chủng Tộc Ấn.

Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhĩ na chức (4)”

Hai Ấn Chú này gọi là Như Lai Tối Tinh Tiến Tâm, sức hay độ thoát hết thảy địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… cũng hay trợ giúp thành Công Tích Nghiệp Sự của hết thảy Như Lai. Nhiếp các Bồ Tát, Đế Thích, Phạm Vương, Y Thủ La Thiên, Diêm Ma Vương, Thủy Thiên, Phong Thiên, Đa Văn Thiên Vương cho đến hàng Đại Tự Tại Bồ

Tát Ma Ha Tát của mười Địa (Daśa-bhūmi)

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ẤN_ CHI HAI

Dựa theo Tâm Ấn lúc trước, chỉ sửa ngón cái trái, co vào trong lòng bàn tay, áp đầu ngón trỏ phải, ngón cái phải y theo Định Thân Ấn lúc trước.

Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) a lô lực (4)”

Ấn này, nếu sửa đầu ngón cái phải, lên xuống qua lại, tức gọi là Thỉnh Triệu Quán Thế Âm Bồ Tát Chủng Tộc Ấn

KIM CANG MẬT TÍCH CHỦ BỒ TÁT ẤN_ CHI BA

Dựa theo theo Tâm Ấn lúc trước, nên sửa ngón cái trái, như lúc trước duỗi đè lên, co ngón cái phải vào trong lòng bàn tay nắm đầu ngón trỏ trái, ngón cái trái y theo Định Thân lúc trước.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) bạt nhật la (4) điệt-lực (5)”

Ấn này, nếu sửa đầu ngón cái trái, lên xuống qua lại, tức gọi là Thỉnh Triệu Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát Chủng Tộc Ấn

NHẤT TỰ PHẬT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI BỐN

Lại nên chắp tay, đem hai ngón cái vô danh, hai ngón út, bên phải đè bên trái, cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Duỗi dựng thẳng hai ngón giữa đều co lóng thứ nhất khiến đầu ngón trụ nhau. Kèm song song hai ngón cái ngang bằng nhau trong lòng bàn tay. Lại đem hai ngón trỏ co bằng nhau co đè trên lưng móng của hai ngón cái sao cho ngón trỏ cùng dựa nhau.

Ấn Chú là:

“Na mô bà già phạ để (1) a bả-ra để khiếm đố (2) sắt nị sái dã (3) Úm-hồng (4) đả đà nga đố (5) sắt nị sái (6) a na phạ lộ chỉ đả (7) mỗ bột đà (8) chước cật-la vạt la để (9) hổ-hồng (10) nhập phạ la, nhập phạ la (11) đà giá đà giá (12) độ na độ na (13) nhĩ độ na, nhĩ độ na (14) đát-ra sái dã (15) ma la dã (16) hiệt sa na dã (17) ca na (18) bạn nhạ, bạn nhạ (19) ám ám (20) ác ác (21) các các (22) bổ-lộng xí ni (23) bổ-lộng xí ni (24) quân noa lý ninh (25) a bá ra xí đá tắc đát ra (26) đà lý nị (27) hổ-hồng (28)”

 

Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Căn Bản Ấn Chú này, là điều mà căn già sa đẳng hết thảy Như Lai quá khứ đã cùng nhau nói giữ, hết thảy Như Lai đời vị lai sẽ cùng nhau nói giữ, hết thảy Như Lai đời hiện tại nay cùng nhau nói giữ. Vì muốn nhiếp ngự các hữu tình nên đều cùng nói giữ. Người Trí ở nơi cư ngụ vịn kết Ấn này thì hết thảy kẻ ganh ghét, kẻ gây chướng ngại ác, Tỳ Na Dạ Ca chẳng dám gần gũi.

Này Mật Tích Chủ! Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Căn Bản Ấn Chú này. Hết thảy chư Phật trụ trong trăm ngàn cu chi căng già sa kiếp, khen ngợi nói Thần Lực, Công Đức của Ấn này cũng chẳng thể hết được. Lại dùng mọi loại ngôn từ, nói Đại Ấn này cũng chẳng thể hết được.

Nếu người Trí xoay vần trì Ấn này, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, tức thường chẳng bị cu chi trăm ngàn Ma, giòng họ Ma…rình tìm gây não loạn. Người này qua trăm ngàn cu chi đại kiếp về sau,chẳng bị đọa vào đường ác. Vì sao thế? Vì người này đã được Phước gom chứa Công Đức, Ta dầu ở trong trăm ngàn cu chi đại kiếp, nói cũng không hết.

Đại Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này. Nếu có người dùng một Tâm tịnh, kèm trì Giới Hạnh, thường tụng trì thì Niệm Lực, Tuệ Lực, Trí Lực đã được, ở trong trăm ngàn cu chi kiếp nơi sanh ra, thường chẳng bị lùi mất. Tại sao vậy? Vì Đại Ấn như vậy có oai đức lớn, có công dụng lớn, vô lượng sức mạnh.

CAO ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI NĂM

Lại hai tay: đem hai ngón vô danh, hai ngón út, bên phải đè bên trái, cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Tiếp theo, dựng thẳng hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón. Cùng kèm song song hai ngón cái duỗi đè trên bên cạnh lóng giữa của hai ngón vô danh. Lại đem hai ngón trỏ để trên lóng giữa của hai ngón giữa, co đầu chạm nhau.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhập phạ lộ nhập phạ la, tư nhĩ tư diệu (4) nga đố ô sắc nị sái (5) độ na độ na, hổ-hồng (6)”

 

BẠCH TẢN CÁI ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI SÁU

Dựa theo Cao Đảnh Vương Ấn lúc trước, nên sửa hai tay ngón giữa, hơi co lóng thứ nhất sao cho đầu ngón ngang bằng dựa nhau, tiếp theo mở hai ngón trỏ cách nhau nửa thốn (1/6 dm)

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ma ma ma ma (4) hỗhồng nịch (5)”

 

QUANG TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI BẢY

(Một tên gọi là Kim Luân Phật Đảnh Ấn)

Dựa theo Cao Đảnh Luân Vương Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón trỏ, tách mở dựng thẳng duỗi đầu ngón cách đầu ngón giữa hoảng một thốn hai phân (6/15 dm)

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) đả đà nga đố ô sắc nị sái (4) a na phạ lộ chỉ đả (5) mỗ phất đà, đế thiệu la thủy (6) hổ-hồng (7) nhập phạ la, nhập phạ la (8) đà cả đà cả (9) na la nhĩ na la nhĩ (10) sân na sân na, tần na tần na (11) hổ-hồng phán (12) tốt-phạ ha (13)”

 

THẮNG ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI TÁM

Dựa theo Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón trỏ ở dưới lóng thứ nhất của ngón giữa, co bằng đầu ngón dựa nhau.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhạ thiệu sắt nị sái (4) nhập phạ la nhập phạ la (5) bạn đà bạn đà (6) na ma na ma (7) đốt-lỗ-hồng (8) đốt-lỗ-hồng (9) đốt-lỗ hồng (10) hoắc (11) khiếm nẵng hổ-hồng (12)”

 

CHUYỂN PHÁP LUÂN_ CHI MƯỜI

(Dùng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú)

Lại hai tay: đem hai ngón út, co đầu ngón ngang bằng dựa nhau. Tiếp theo đem hai ngón vô danh đều co vào trong lòng bàn tay, hai ngón giữa đều hơi co dựng thẳng sao cho đầu ngón trụ nhau, để hai ngón trỏ ngay trên cạnh lóng giữa của ngón giữa, hai ngón cái đều đè trên hai ngón vô danh, mở hai lòng bàn tay, cổ tay cách nhau bốn thốn (2/5 dm).

Một Pháp Ấn này hay chuyển bánh xe Pháp của 12 Hành Tướng, diệt các cấu chướng, ngang bằng với Như Lai.

BẠC (mưa đá) TỒI (phá vỡ) PHIỀN NÃO ẤN- CHI MƯỜI

(Dùng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú)

Dựa theo Đảnh Luân Vương Ấn, sửa hai ngón giữa dựng thẳng hợp đầu ngón, lại đem hai ngón trỏ bật sau lưng hai ngón giữa, cùng trụ đầu ngón. Một Pháp Ấn này cũng gọi là Tọa Ấn

Này Mật Tích Chủ! Năm Đại Ấn này gọi là Nhất Thiết Như Lai Đảnh Luân Vương Chú Chủng Tộc Vương Ấn Đại Ấn. Tên thứ nhất là Cao Đảnh Luân Vương Ấn, tên thứ hai là Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương Ấn, tên thứ ba là Quang Tụ

Đảnh Luân Vương Ấn, tên thứ tư là Chuyển Pháp Luân, tên thứ năm là Bạc Tồi Phiền Não Ấn. Nhóm Ấn này được gọi là Đại Đảnh Luân Vương Ấn.

NHƯ LAI ĐẠI TÂM ẤN_ CHI MƯỜI MỘT

Dựa theo Như Lai Tâm Ấn thứ nhất, chỉ sửa hai ngón cái đều co vào lòng bàn tay. Một Pháp Ấn này gọi là Như Lai Tâm Đại Tinh Tấn Ấn.

Người trì Chú thường xoay vần kết Ấn này, tụng Đảnh Luân Vương Chú, một lần Chú thì một lần ấn trên trái tim, đủ 108 biến, tức hay tồi diệt hết thảy tội nặng căn bản của quá khứ hiện tại. Thường dùng Ấn này làm tất cả Pháp, ủng hộ nơi thân.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ngộ na lê, nhị la (4) tốt-phạ ha (5)”

Một Pháp Chú này có công lực đồng với Ấn Chú thứ nhất lúc trước. Ở nơi làm

Pháp, trợ nhau dùng cũng được. Chú này có sức đại oai mãnh

 

NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG TÂM ẤN_ CHI MƯỜI HAI

Lại chắp tay để ngang trái tim, lòng bàn tay trống rỗng, lại đem tám ngón đều co đầu ngón ngang bằng cùng dựa nhau, khoảng giữa của tám ngón cách nhau khoảng ba phân (1/10 cm), hai ngón cái cũng cách nhau ba phân (1/10 cm) dựng thẳng ngang bằng đầu ngón.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) trác-lỗ hồng (4) bạn đà (5) tốt-phạ ha (6)”

Pháp Ấn Chú này cũng hay thành biện hết thảy sự nghiệp, tự hộ giúp mình, hộ giúp người khác. Kết tu các Pháp sẽ lìa chướng não

NHƯ LAI TÍCH TRƯỢNG ẤN_ CHI MƯỜI BA

Lại tay phải: đem ngón cái nằm ngang co vào lòng bàn tay, bốn ngón kia nắm lại thành quyền, co khuỷu tay ngay phía trước duỗi ngang bằng. Tay trái nắm góc áo cà sa, lòi đầu ra bốn thốn (2/5 dm), co khuỷu tay để phía trước duỗi ngang bằng.

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) độ nại, nhĩ đả la noa (4) hổ-hồng (5)”

Pháp Ấn Chú này. Nếu gặp hết thảy các hữu tình ác, liền kết Ấn này dùng ủng hộ thân.

NHƯ LAI BÁT ẤN_ CHI MƯỜI BỐN

Trước tiên, ngửa lòng bàn tay phải để ngang trái tim, đem tay trái úp lên lòng bàn tay phải, đầu ngón út trái cùng đầu ngón cái phải cùng trụ nhau, đầu ngón cái trái cùng đầu ngón út phải cùng trụ nhau.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) lộ ca bá la, địa sắt-sỉ đá (4) đà la, đà la dã (5) ma ha nỗ bà phạ (6) bột đà bá đát-la (7) tốt-phạ ha”

Pháp Ấn Chú này có đủ đại tinh tấn, thường làm hết thảy Như Lai Thần Lực mà gia hộ. Xoay vần kết Ấn này và tụng Chú này, kết thúc mỗi một biến, xưng nhớ hữu tình ở Địa Ngục, Quỷ đói… mãn 108 biến tức hết thảy Quỷ đói ở Địa Ngục được ăn uống no đủ. Nếu ở trong đồng trống hoang vắng, kết trì Ấn này kèm tụng Chú này, liền được hết thảy Quỷ Thần trong đồng trống hoang vắng không dám gây nhiễu loạn.

NHƯ LAI TƯỚNG HẢO ẤN_ CHI MƯỜI LĂM

Lại hai tay: đem hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út… bên phải đè bên trái, cài chéo nhau nhau trong lòng bàn tay, đều nắm lòng bàn tay. Duỗi thẳng hai ngón trỏ cùng trụ đầu ngón, hai ngón cái đều nắm trên cạnh ngón trỏ. Đem Ấn đảo rũ xuống, ngửa lòng bàn tay để ở trên trán, đầu hai ngón trỏ để ngay giữa hai chân mày (tam tinh).

Ấn Chú là:

“Na mạc tát phạ đả đà già để (1) biều, a ra hạt mịch (2) tam miệu tam bột thê mịch (3) hề hề (4) bạn đà bạn đà (5) để sắt sá, để sắt sá (6) đà ra dã, đà ra dã  (7) nễ luận đà (8) nễ luận đà, phất noa ma nê (9) tốt-phạ ha (10)”

 

Pháp Ấn Chú này gọi là Đại Trượng Phu Thiên Nhân Tướng Hảo. Nếu có người thường hay xoay vần kết Ấn này, tức mau thành tựu hết thảy Tất Địa (Siddhi), đủ oai đức lớn

Nếu đem Ấn ấn đảnh đầu tức gọi là Như Lai Đảnh Ấn. Nếu đem Ấn ấn lỗ mũi thì gọi là Như Lai Tỵ Ấn.

Đảnh Tỵ Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ải lý ni, hổ-hồng, phán (4) tốt-phạ ha (5)”

 

Như Lai Đảnh Tỵ Ấn này thường kết Hộ Thân, sẽ ở nơi được sanh ra trong trăm ngàn cu chi Đại Kiếp, chẳng bị các tật bệnh ở đảnh đầu, lỗ mũi

NHƯ LAI NHÃN ẤN CHÚ_ CHI MƯỜI SÁU

Lại chắp hai tay lại, đem hai ngón cái co vào lòng bàn tay, tiếp theo đem hai ngón trỏ đều co lóng thứ nhất, đem đầu ngón đè trên lóng giữa bên cạnh hai ngón giữa, hai đầu hai ngón trỏ cách nhau một tấc (1/3 dm)

Như Lai Nhãn Ấn này ở Đảnh Luân Vương Đàn, thanh tịnh xoay vần kết thì hay làm lợi ích lớn, diệt các tội nặng, thành tấn Tất Địa của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Giả

Nếu trải qua trăm ngàn cu chi kiếp tu các Công Đức, dùng oai lực của Ấn này hay nhiếp hết các nhóm Công Đức đã gom chứa.

Ấn Chú là:

“Na mạc tát phạ đả đà già để (1) biều, a ra hạt mịch, tam miệu tam bột thê mịch (2) Úm-hồng (3) lỗ lỗ (4) tắc phổ lỗ (5) nhập phạ la (6) để sắt sá (7) tất đà lạo giả nê (8) tát phạ át đà, sa đà ninh (9) tốt-phạ ha (10)”

 

Này Mật Tích Chủ! Như Lai Nhãn Đại Minh Vương Chú này là điều mà mười cu chi Phật cùng nhau tuyên nói. Xưa kia khi Ta làm Bồ Tát thời ở chỗ của mười cu chi Phật nhận được Chú này. Nếu người trì Chú thường hay dùng Tâm đại tinh tấn, tụng trì Chú này liền được hết tất cả Bồ Tát, Chú Thần đều hiện ra trước mặt, cũng đều thành tựu Chú Phẩm của hết thảy Kim Cang Chủng Tộc. Thế nên Mật Tích Chủ! Người trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, nên trước tiên tụng Chú này 7 biến hoặc 14, hoặc 21 biến.

Như Lai Nhãn Đại Minh Vương Chú này. Nay Như Lai vì hết thảy hữu tình được an vui lớn, lìa dơ bẩn, thanh tịnh cho nên nói. Người trì Chú, nếu gặp người có tánh bạo ác thì Chú vào bàn tay xoa mặt, ngầm tụng Chú này rồi cùng nhau luận lý liền được vui vẻ, cũng hay tồi phục hết thảy hàng Si Mỵ, Vọng Lượng, Quỷ Thần ác.

Này Mật Tích Chủ! Nếu người tụng trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, một lần cầu Pháp, hai lần cầu Pháp mà chẳng thành chứng. Tức nên gia thêm Đại Minh Vương Chú này, cùng nhau đồng tụng mãn hai mươi vạn biến thì quyết định thành tựu Tất Địa tối thượng của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú

Nếu chưa trải qua một, hai lần làm Pháp mà tụng cả hai, tức thân của người trì Chú sẽ bị tai ương.

NHƯ LAI MY HÀO ẤN CHÚ_ CHI MƯỜI BẢY

Dựa theo Như Lai Nhãn Ấn, chỉ sửa hai ngón trỏ đều để ở lưng lóng trên của ngón giữa sao cho đầu ngón đều cách lóng của ngón giữa một phân (1/3 cm).

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) hột-lý (3) hổ-hồng (4)”

Như Lai My Hào Ấn Chú này tức là điều mà hết thảy Như Lai quá khứ đã cùng nhau tuyên nói, nay Ta cũng nói. Khi xoay vần Ấn này thời Đại Tự Tại Thiên, Cu Ma La Thiên, Bảo Hứ Dã Thiên… đều chẳng dám quấy nhiễu huống chi là các Si Mỵ, Quỷ Thần nhỏ quấy nhiễu được sao

NHƯ LAI KHẨU ẤN_ CHI MƯỜI TÁM

Dựa theo Như Lai Tâm Ấn, chỉ sửa hai ngón cái, kèm nhau duỗi thẳng, co lóng đầu khiến cách cạnh ngón trỏ khoảng ba hạt lúa. Đem Ấn để ở Diện Môn (Mukha: chỉ 3 chỗ là cái miệng, khuôn mặt, phần bên dưới cái mũi bên trên cái miệng), lóng đầu của lưng hai ngón cái để ở ngay môi.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) chỉ lý, chỉ lý (3) hổ-hồng (4)”

Một Ấn Chú này chuẩn bị sẵn cây đuốc lửa lớn, hay mau chóng giúp đỡ hoàn thành hết thảy sự nghiệp. Người trì Chú nếu thường xoay vần kết Ấn này để trước miệng mà tụng Khẩu Chú này hai, ba, bảy biến. Sau đó tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú. Do sức của Ấn Chú mà Người, Trời trong ba cõi thấy nghe luận nói, thảy đều kính yêu. Bởi thế, người này nên thường dùng Pháp Ngữ hòa nhã, chân thật, dịu dàng. Người này trong trăm ngàn cu chi kiếp chẳng bị bệnh về miệng. Đại Tự Tại Thiên, Tỳ Sắt Nộ Thiên với các hàng Trời, Rồng, tám bộ Quỷ Thần nghe người này nói, cũng đều kính phục, huống chi là Si Mỵ, Quỷ Thần nhỏ

NAN THẮNG PHẤN NỘ VƯƠNG ẤN_ CHI MƯỜI CHÍN

Nên quỳ gối phải sát đất, chân trái đạp đất, làm như thế muốn đứng dậy chồm về phía trước, ngửa mặt trợn mắt, ngó nghiêng về bên trái. Tay phải: nên đem cánh tay, bàn tay, ngón tay theo bên phải hướng về phía sau, nghiêng cánh tay duỗi nghiêng, gấp rút gồng cánh tay như thế muốn hướng xuống đất, bung năm ngón cố gắng tách mở, lòng bàn tay tựa như che, tựa như nghiêng. Tiếp theo đem cánh tay trái theo bên trái hướng về phía sau, gấp rút nâng cánh tay lên, cố gắng co cánh tay, bàn tay hướng lên trên, hơi bung năm ngón duỗi thẳng, cố gắng tách mở, hướng lòng bàn tay về phía trước.

Khi kết Ấn này thời phát ra tiếng giận gữ lớn, xưng hai chữ Hổ-Hồng (HŪṂ) 21 tiếng, thì các chướng tội thảy đều được phá diệt. Ma Vương với quân tướng Ma trong Dục Giới (Kāma-dhātu) đều bị đập nát

Xưa kia, khi Ta mới đến sông Di Liên Thiền (Nairañjanā) tắm gội thân xong, hướng đến bên dưới cây Bồ Đề (Bodhi-vṛkṣa), ngồi ở tòa Kim Cang (Vajrāsana). Lúc đó có vô lượng trăm ngàn cu chi Ma Vương với chúng Ma Tộc đều cầm giữ mọi loại tướng giận dữ uế ác đến quấy nhiễu, khủng bố Ta. Thời Nan Thắng Phấn Nộ Vương đột nhiên ở trước mặt Ta, từ dưới đất nhảy vọt lên, làm tướng Thiên Nữ, giận dữ kết Ấn này đập nát các chúng Ma, một thời mọi loại tướng đáng sợ bị diệt tan, không thể gây phiền não được. Ngay trong đêm này cho đến khi trời rạng sáng thì Ta liền viên chứng Vô Thượng Chánh Trí, quán thấy Thế Gian hết thảy Sa Môn, Bà La Môn không có ai chứng được Trí này.

Tồi Ma Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) hổ lỗ, hổ lỗ (4) chiến noa lý, ma đăng nghê (5) hổ-hồng, tốt-phạ ha (6)”

Này Mật Tích Chủ! Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú này là điều mà Ta đã nói. Nếu người trì Chú gặp nơi có Quỷ Thần ác rất đáng sợ, mà muốn Hộ Thân, kết Giới, ủng hộ, tạo tu Pháp thì nên siêng năng tinh tấn trì kết Ấn này kèm tụng Chú này, hướng tu Pháp này, tức không có chướng não, mau được thành tựu

NHƯ LAI SÓC (cái giáo) ẤN_ CHI HAI MƯƠI

Ngồi Kiết Già,thân ngay ngắn, ngửa lòng bàn tay trái để ngang dưới rốn, bốn ngón tay ấy tưởng dính nhau duỗi thẳng, ngón cái hơi co duỗi thẳng nắm cạnh gốc ngón trỏ. Tiếp theo, tay phải: đem ngón cái và ngón trỏ cùng vịn nhau, tưởng ngón giữa, ngón vô danh, ngón út dính nhau kèm duỗi chút ít tựa như co lại. Tay trái: ngón cái, ngón trỏ cùng với ngón út cùng trụ đầu ngón.

Một Pháp Ấn này, Nếu người Trí thường trì kết, thời ở nơi sanh ra, vĩnh viễn không lui sụt sức Tín Tấn Tuệ, Như Lai Hạnh Lực, được chư Như Lai gia hộ niệm.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) Nhĩ nhạ duệ, ma ha thước để (4) đột đà lý (5) hổ-hồng phán (6) nhĩ nhạ dị nễ phán (7) mang nga lê phán (8) tốt-phạ ha (9)”

 

Một Pháp Chú này, mỗi ngày ba thời tụng 21 biến, thì ở ba cõi mau được không chướng ngại, thắng thành tựu.

NHƯ LAI TỀ ẤN_ CHI HAI MƯƠI MỐT

Dựa theo Như Lai Sóc Ấn, chỉ sửa ngón cái, ngón trỏ của tay phải sao cho đầu ngón cách lìa đầu ngón út của tay trái khoảng một hạt lúa.

Một Pháp Ấn này cũng gọi là Chư Phật Đại Thần Lực Ấn. Nếu người Trí thường hay nhớ trì, xoay vần kết Ấn này kèm tụng Chú này, liền được tiêu trừ bệnh sốt rét, một ngày, hai ngày phát bệnh một lần.., bệnh bại liệt, bệnh đau bụng, buốt đầu với các nhóm bệnh. Lại được hết thảy tai chướng tự nhiên diệt hết, sống lâu, được Phước, an ổn giàu có sung sướng.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) chỉ trí, chỉ trí (4) tốtphạ ha (5)”

Một Pháp Chú này hay hiện thần thông biến hóa chẳng thể nghĩ bàn của mọi thứ loại hình sắc của Như Lai, an ủi hữu tình.

NHƯ LAI GIÁP ẤN_ CHI HAI MƯƠI HAI

Nên để tay phải ngang trái tim, đem ngón cái co ngang trong lòng bàn tay, đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út gấp rút nắm ngón cái, làm thành quyền.

Một Pháp Ấn này gọi là Tối Nhất Nhiết Đảnh Luân Vương Tâm Ấn. Nếu người Trí thường dùng Ấn ấn vào đảnh đầu, cổ, bắp vai trái phải với ấn trên trái tim, tức khiến cho người tu trì được oai lực lớn.

Người trì Chú tuy lại như Pháp tinh tấn tu trì các Pháp. Nếu không có Ấn này tức không có trang sức, như người trần truồng, như đất nước không có vua, như nhà không người, như ăn không có muối, như ao khô cạn, như mặt đất không có cây, rừng hoa quả; như Ngoại Đạo Bà La Môn thờ lửa không có Pháp có thể nương dựa, như vua ngồi xe không có người điều khiển. Người Trí tuy lại siêng năng tinh tấn, nếu không có Giáp Ấn tức bị Ma quấy nhiễu, không có chỗ thành hiệu (hiệu nghiệm).

Ấn Chú Là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) bộ, nhập-phạ la (4) hổhồng (5)”

 

Một Pháp Chú này gọi là Như Lai Kim Cang Cú Tam Ma Địa thường dùng Hộ Thận. Như vua mặc áo giáo còn thêm khí trượng tức chẳng sợ hãi binh chúng của giặc ác. Như người Trí này cũng lại như vậy, mỗi ngày ba thời, lượng sức lượng Pháp… như Pháp siêng năng tu Giáp Ấn Chú này tức mau thành tựu, không có chỗ sợ hãi.

NHƯ LAI PHÁT KẾ (búi tóc) ẤN_ CHI HAI MƯƠI BA

Dựa theo Giáp Ấn lúc trước, chỉ sửa duỗi ngón giữa dựng thẳng. Đem Ấn an trên đảnh đầu khiến dựng thẳng đứng.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) a khuất-luật (3)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Kế Tam Ma Địa Môn có sức hay làm thành hết thảy sự nghiệp.

NHƯ LAI NHĨ (lỗ tai) ẤN_ CHI HAI MƯƠI BỐN

Dựa theo Giáp Ấn lúc trước, chỉ sửa duỗi ngón trỏ dựng thẳng. Đem Ấn để thẳng đứng bên lỗ tai, cùng ngang bằng với vành tai.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) hổ ca (3)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Nhĩ Tam Ma Địa Môn. Nếu thường xoay vần kết thì mau được tồi diệt hết thảy bệnh vễ lỗ tai, sẽ chứng Thiên Nhĩ Thông

NHƯ LAI NHA (răng nanh) ẤN_ CHI HAI MƯƠI LĂM

Nên dùng tay trái: đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út nắm gấp lại thành quyền, không cho lòi móng ra. Lại đem ngón cái duỗi thẳng đè lên trên bên cạnh ngón trỏ. Vạch thứ nhất trên mặt ngón cái ấy cùng ngang bằng với lưng bên ngoài ngón trỏ. Đem Ấn để bên cạnh cằm có răng nanh bên trái. Bên phải cũng như vậy.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) đả đà nga đả (4) đặng sắt nhứ lệ (5) hồ-hồng phán (6) tốt-phạ ha”

 

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Nha Tam Ma Địa Môn, có oai lực lớn. Do tụng Chú Luân Ấn này ấn vào răng nanh thời ở đời sau này được răng với răng nanh của Đức Phật.

 

NHƯ LAI ĐẦU (cái đầu) ẤN_ CHI HAI MƯƠI SÁU

Lại dùng tay phải: đem ngón cái nằm ngang đè trên móng ngón giữa, ngón vô danh, ngón út, duỗi thẳng ngón trỏ vịn trên đầu đảnh.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) mộ phất đà ninh (4) tốt-phạ ha (5)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Đầu Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI THẦN (cái môi) ẤN_ CHI HAI MƯƠI BẢY

Lại dùng tay phải: duỗi thẳng ngón cái nắm cạnh của bên ngón trỏ, dựng thẳng ngón trỏ, duỗi ngón giữa ấy tự như co lại, hướng ngón vô danh vào trong lòng bàn tay co như hình móc câu, co ngón út như hình trăng mới mọc.

Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) a a (3) phạ (4) phạ hàm (5)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Thần Tam Ma Địa Môn. Người trì sẽ được diệt trừ tội.

NHƯ LAI THIỆT (cái lưỡi) ẤN_ CHI HAI MƯƠI TÁM

Lại dùng tay phải: đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út cùng nắm nhau để ngang trái tim, ngửa lòng bàn tay duỗi ngang bằng, đặt ngón cái nằm ngang co trong lòng bàn tay, đầu bốn ngón tay hướng ra bên ngoài chỉ.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) na la (4) nễ phạm nhạ (5) hổ-hồng phán (6) tốt-phạ ha (7)”

 

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Thiệt Tam Ma Địa Môn. Người trì sẽ được viên mãn Phước của cái lưỡi của Như Lai

NHƯ LAI LẶC (xương sườn) ẤN_ CHI HAI MƯƠI CHÍN

Lại dùng tay phải: co khuỷu tay để ngang hông sườn, co đầu ngón vô danh, ngón út trụ trên mặt ngón cái, kèm duỗi thẳng ngón trỏ, ngón giữa hướng về phía trước xiên vào hông sườn.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) hổ-hồng, khác (4)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Lặc Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI BÁC (bắp tay) ẤN_ CHI BA MƯƠI

Dựa theo Giáp Ấn lúc trước, chỉ sửa cánh tay, duỗi thẳng hướng lên trên.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) bạn nhạ, a hứ, phán (3) tốt-phạ ha (4)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Bác Tam Ma Địa Môn có đủ đại thần lực, dõng mãnh thù đặc, thành mọi Pháp.

NHƯ LAI NÃI (cái vú) ẤN_ CHI BA MƯƠI MỐT

Dựa theo Giáp Ấn lúc trước, chỉ sửa co cánh tay, dùng quyền ấn trên mặt, ấn ngay trên trái tim. Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) phong nga cật-lệ phác (3)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Nãi Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI TIỂU PHÚC (cái bụng nhỏ) ẤN_ CHI BA MƯƠI HAI

Lại đem tay phải duỗi ngang để dưới rốn cách một Thốn (1/3 dm) ngửa lòng bàn tay, năm ngón tay cùng kèm nhau. Tiếp theo duỗi tay trái, năm ngón tay cùng kèm nhau, đem lưng bàn tay đè trên lòng bàn tay phải. Hai bàn tay ấy dựa bên cái bụng.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nỗ nhứ, nỗ nhứ (4) tắc phổ nhứ, tắc phổ nhứ (5) mật nại la bả ninh (6) bả la mạt na ninh (7) sân na ninh, tần na ninh (8) hổ-hồng, phán (9) tốt-phạ ha (10)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Phúc Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI TÍCH (xương sống) ẤN_ CHI BA MƯƠI BA

Lấy dùng tay phải: đem ngón cái đè nhóm móng của ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út không để lòi móng ra, tiếp theo để ngón giữa nằm ngang đè trên ngón cái.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) ải ca lý nẵng (3) ca lý, kiền đà, chất đốt lô na la (4) ma nê đổ nê (5) tốt-phạ ha (6)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Tích Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI BỄ (bắp đùi) ẤN_ CHI BA MƯƠI BỐN

Dựa theo Tích Ấn lúc trước, lại sửa đè đầu móng ngón giữa, duỗi ló đầu ngón trỏ đè trên móng ngón cái.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) đổ sá giả (4) tốt-phạ ha (5)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Bễ Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI TẤT (đầu gối) ẤN_ CHI BA MƯƠI LĂM

Chắp hai tay lại, đều đem ngón út, bên phải đè bên trái, co vào trong lòng bàn tay.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) na bạo khất ninh (4) bả la nễ bả đả dã (5) tốt-phạ ha (6)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Tất Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI CƯỚC (bàn chân) KHÕA (mắt cá chân) ẤN_ CHI BA MƯƠI SÁU

Chắp hai tay lại, đều đem ngón vô danh, bên phải đè bên trái, co vào trong lòng bàn tay.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) a đả lệ, đả lệ (3) hiệt đả lệ (4) bạt nhật la (5) mộ cật sử nê (6) tốt-phạ ha (7)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Cước Khõa Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI CƯỚC (bàn chân) ẤN_ CHI BA MƯƠI BẢY

Chắp hai tay lại, đều đem ngón giữa, bên phải đè bên trái, co vào trong lòng bàn tay.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) bạt nhật la (4) thương củ la (5) bộ sử đê (6) na la (7) nhập-phạ la, hổ-hồng (8) tốt-phạ ha (9)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Cước Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI TRÀNG (cây phướng) ẤN_ CHI BA MƯƠI TÁM

Lại dùng tay phải: đem ngón cái tay nằm ngang đè trên móng ngón giữa, ngón vô danh, ngón út, duỗi thẳng ngón trỏ thẳng, tách dựng đè thẳng lên cánh tay.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) đảo nhứ (3)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Tràng Ấn Tam Ma Địa Môn

 

NHƯ LAI NGỌA CỤ (giường nằm) ẤN_ CHI BA MƯƠI CHÍN

Dựa theo Tràng Ấn lúc trước, chỉ sửa ngón trỏ, để dưới ngực, chỉ.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) a khuất luận (3)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Ngọa Cụ Tam Ma Địa Môn

 

NHƯ LAI THỪA (cái xe) ẤN_ CHI BỐN MƯƠI

Dựa theo Tràng Ấn lúc trước, sửa lại co cánh tay, để trước trái tim, nghiêng cánh tay duỗi ngang bằng.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) hổ-hồng (3) nga một-lâm (4) úmhồng (5)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Thừa Tam Ma Địa Môn

 

NHƯ LAI THỌ KÝ_ CHI BỐN MƯƠI MỐT

Lại co cánh tay phải để bên cạnh ngực, duỗi cánh tay ngang bằng. Ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út nắm lại thành quyền. Dựng co ngón cái sao cho đầu ngón cách cạnh ngón trỏ khoảng hai phân (1/15 dm)

Một Pháp Ấn này là điều mà hết thảy Như Lai quá khứ, hết thảy Như Lai vị lai, hết thảy Như Lai hiện tại đều dùng Ấn này để Thọ Ký riêng. Thế nên người Trí nên kết Ấn này ban cho các hữu tình thọ nhận Bồ Đề Ký.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3)hổ-hồng (4) đặc phạm (5)”

Một Ấn Chú này hay thành hết thảy sự nghiệp của Như Lai. Do sức của Ấn Chú cho nên đời đời thường được Niệm Lực, Tấn Lực, Giới Định Tuệ Lực, Phước Thắng Uẩn Lực chẳng bị hết thảy Si Mỵ Quỷ Thần gây nhiễu não.

NHƯ LAI KIẾN CHƯ PHÁP TÁNH ẤN_ CHI BỐN MƯƠI HAI

Lại dùng tay phải: co khuỷu tay hướng lên trên, ngón giữa co đầu cùng dựa đầu ngón cái. Kèm dựng ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út, cùng áp nhau đứng thẳng.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) bả-la tất địa, ca lý (4) tốt-phạ ha (5)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Kiến Chư Pháp Tánh Tam Ma Địa Môn

NHƯ LAI QUANG DIỆM ẤN_ CHI BỐN MƯƠI BA

Dựa theo Kiến Ấn lúc trước, chỉ sửa ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út hướng về lòng bàn tay bung mở, hơi co như mặt trăng mới mọc.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhập phạ lý nê (4) tốtphạ ha (5)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Quang Diệm Tam Ma Địa Môn. Hiển các Pháp

NHƯ LAI QUANG CHIẾU ẤN_ CHI BỐN MƯƠI BỐN

Lại dùng tay phải: duỗi dựng ngón cái nắm cạnh ngón trỏ, dựng thẳng ngón trỏ. Duỗi ngón giữa, ngón út hướng về lòng bàn tay co như mặt trăng mới mọc. Hướng ngón vô danh về lòng bàn tay, co như hình móc câu.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) hồ-hồng, hổ-hồng (4) mãng mãng, phán (5) tốt-phạ ha (6)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Quang Chiếu Chư Tam Ma Địa Môn. Viên mãn hiện.

NHƯ LAI TAM MA ĐỊA ẤN_ CHI BỐN MƯƠI LĂM

Lại dùng tay trái: năm ngón cùng kèm nhau để dưới rốn cách mặt đất khoảng hai hạt lúa, nghiêng ngang, ngửa lòng bàn tay duỗi bằng nhau. Tiếp theo dùng tay phải: bốn ngón cùng kèm nhau cũng nghiêng ngang, ngửa lòng bàn tay duỗi bằng nhau, đem lưng bàn tay để lên lòng bàn tay trái. Co ngón cái phải nằm ngang trong lòng bàn tay.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) a để xả dã (4) nhĩ cậtla mê (5) tốt-phạ ha (6)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Tề Tam Ma Địa Môn.

NHƯ LAI KIM CANG QUANG DIỆM ẤN_ CHI BỐN MƯƠI SÁU

Dựa theo Tam Ma Địa Ấn lúc trước, chỉ sửa để trên trái tim.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhập phạ la (4) bạt nhật la (5) phồn nặc lý (6) nặc-lâm chủ (7)”

 

Này Mật Tích Chủ! Kim Cang Quang Diệm Ấn Chú này cũng gọi là Quá Khứ Vị Lai Hiện Tại Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Quang Diệm Tâm Tam Ma Địa Đại Minh Chú Vương. Hết thảy hàng Chứng Địa Đại Bồ Tát với các Trời, Rồng, tám Bộ Quỷ Thần, bậc có Đại Oai Đức đều không thể trái vượt, huống chi là Si Mỵ, Quỷ Thần thấp kém khác.

NHƯ LAI ĐẠI TỪ ẤN_ CHI BỐN MƯƠI BẢY

Dựa theo Tích Ấn lúc trước. Lại sửa: đè đầu móng ngón giữa, lòi đầu ngón vô danh, đè trên móng ngón cái.

Ta vì hết thảy hữu tình cấu trọng nói Đại Từ Ấn khiến sanh Tâm Từ. Xưa kia, Ta ngồi dưới cây Bồ Đề dùng Tâm Đại Từ trì kết Ấn này thì được các quân Ma tự bỏ chạy. Người kết Ấn này nên dùng hết thảy Phật Lực, Pháp Lực, A La Hán Lực, Từ Niệm Tâm Lực trì kết Ấn này, liền được hết thảy tội dơ cực nặng mau đều tiêu diệt.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) đát địa tha (3) cự nghê ninh (4) áng củ lý, ma lý giả (5) bát-lạt noa xả phạ lý (6) lạc khất sái, lạc khất sái, ma-hồng (7) củ ma lý, thất-lý dã (8) ma lý nê (9) tốt-phạ ha (10)”

 

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Đại Từ Lực Chú. Nếu có người trì Chú thường khởi Tâm Từ trì Chú này, tức sẽ chẳng bị hết thảy Tỳ Na Dạ Ca, cọp, sói, oán tặc, đấu tranh, tai nạn, hoạnh can (?), nhiễu não. Do sức của Ấn Chú mau chứng Từ Tâm Tam Ma Địa.

NHƯ LAI ĐẠI BI ẤN_ CHI BỐN MƯƠI TÁM

Lại chắp hai tay lại sao cho lòng bàn tay trống rỗng, co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) đả đăng nghê ninh (4) hổ-hồng, phán (5) tốt-phạ ha (6)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Đại Bi Tam Ma Địa Môn.

NHƯ LAI VÔ CẤU ẤN_ CHI BỐN MƯƠI CHÍN

Dựa theo Từ Ấn lúc trước, lại sửa đầu ngón vô danh đè ở dưới ngón cái, tiếp theo, đem đầu ngón út đè trên móng ngón cái.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) mạc lợi đạt-nê (4) hổ lỗ (5) hổ-hồng, phán (6) tốt-phạ ha (7)”

Một Ấn Chú này. Người Trí tụng chú vào các thức ăn uống, lại ăn uống vào thì hay diệt mọi tội. Lại sẽ chẳng bị Tỳ Na Dạ Ca trong thức ăn gây não hại

NHƯ LAI CAM LỒ ẤN_ CHI NĂM MƯƠI

Lại dùng tay phải: đặt ngón cái nằm ngang đè nhóm móng của ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ấn nghê ninh (4) bộ đá ninh (5) tốt-phạ ha (6)”

Một Ấn Chú này hay khiến cho người trì chứng Cam Lồ Pháp Đại Giải Thoát Môn

NHƯ LAI ĐẠI SƯ TỬ HỐNG ẤN_ CHI NĂM MƯƠI MỐT

Chắp tay để ngang trái tim, đem hai ngón cái đều co vào trong lòng bàn tay. Lại đều đem hai ngón trỏ, hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út co nắm ngón cái làm quyền sao cho lưng móng cùng dính với nhau, tám đầu ngón tay ấy không chạm dính lòng bàn tay.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ca bỉ la, nhạ trí la (4) hổ-hồng, phán (5)”

Một Ấn Chú này gọi là Đại Sư Tử Hống thành tựu Kim Cang Đảnh Luân

Vương Giáo, hay rộng bày các việc vượt qua ý nghĩ chưa từng có chẳng thể nghĩ bàn.

NHƯ LAI TƯỚNG TỰ (chữ của tướng Như Lai) ẤN_ CHI NĂM MƯƠI HAI

Lại dùng hai tay đều duỗi tám ngón mở tách ra, bên phải đè bên trái, cài chéo nhau cùng đè lóng giữa, tám đầu ngón tay duỗi dựng thẳng không chạm khoảng rẽ. Hai ngón cái ấy cũng đều tách nghiêng duỗi dựng sao cho đầu ngón tay cách nhau nửa thốn (1/6 dm). Đem Ấn để ngang ngực dựa khoảng ba thốn (1 dm).

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) thị (3)”

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Đại Trượng Phu Tướng Tam Ma Địa Môn.

NHƯ LAI LẠC CẬT SẮT NHĨ CÁT TƯỜNG ẤN_ CHI NĂM MƯƠI BA

Lại dùng hai tay: hợp dính cổ tay, mười ngón tay ấy đều tách mở, dựng thẳng, hơi duỗi co sao cho đầu ngón đều cách nhau khoảng một thốn rưỡi (1/2 dm) Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) tố một-la khiếm-nhĩ (4) lạc cật sáp nhĩ (5) lạc cật sáp nhĩ (6) tốt-phạ ha (7)”

 

Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Cát Tường Tam Ma Địa Môn hay khiến cho người trì được Đại Pháp Tài, mọi người kính khen.

NHƯ LAI BÁT NHÃ BA LA MẬT ẤN_ CHI NĂM MƯƠI BỐN

Lại đem hai tay chắp lại sao cho bên trong trống rỗng, như đóa hoa sen chưa nở.

Ấn Chú là:

“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) thất lỗ để (4) tắc mậtlật để (5) nhị nhạ duệ (6) tốt-phạ ha (7)”

 

Này Mật Tích Chủ! Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Bát Nhã Ba La Mật Tam Ma Địa Môn. Hết thảy Như Lai, các Đại Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn trong ba đời đều từ Bát Nhã Ba La Mật Ấn Chú Tam Ma Địa Môn này sanh ra, thành chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Địa. Nên biết Ấn Chú này có oai đức lớn, gọi là mẹ của hết thảy Như Lai, các Đại Bồ Tát, tất cả Kim Cang, Độc Giác, Thanh Văn trong ba đời”

_Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Nhóm Ấn Chú này được sanh ra từ tướng Đại Trượng Phu trang nghiêm thân phần chi tiết của Như Lai.

Này ông, Thiện Nam Tử! Như Lai lại có vô lượng cu chi trăm ngàn Chú Ấn, mỗi một Ấn này đều có vô lượng nhóm Ấn Bộc Tòng (tôi tớ) thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Vương này. Nay Ta chỉ vì đời đương lai, khi người thành Chú này thì được lợi ích lớn, nên lược nói chút phần của Ấn Chú này.

Này Mật Tích Chủ! Ở đời sau này, ít có hữu tình thành tựu, hiểu biết cái dụng của Pháp Nghi của Chú Ấn này. Ông nên đọc tụng, y theo Pháp thọ trì nhóm Ấn Chú này, vì hết thảy hữu tình đời đương lai mà phân biệt, giải nói sức gom chứa công của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Bộc Tòng Ấn Chú này.

Nếu Thiện Nam Tử ham thích thành Đại Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này, nên thường thanh khiết luôn tụng Chú này, xoay vần kết Ấn này thì người này được vô lượng trăm ngàn Công Đức đáng khen ngợi, tiêu diệt hết thảy hắc ám cấu chướng, được chư Như Lai, Đại Bồ Tát hoan hỉ thương nhớ, ở nơi sanh ra được Túc Mạng Trí, thân tướng Tâm Trí đều được viên mãn, không có yểu tật, hay làm ánh sáng lớn ban cho hữu tình, hay ở nơi cõi ác (ác giới) độ thoát hữu tình, được Đại Biện Trí, đủ đại tinh tấn, oai đức quang minh quyến thuộc đầy đủ, hiểu rõ hết thảy công xảo của Thế Gian, cũng hay trị cứu bệnh si mê phiền não của hết thảy hữu tình, thường được mười phương hết thảy Như Lai gia bị hộ niệm, hiện được Pháp Thân thanh tịnh của Bồ Tát.

Nếu có người, ngày ngày xoay vần trì kết nhóm Ấn Chú này, tự xưng tên mình, tức sẽ chẳng bị hết thảy Tỳ Na Dạ Ca bức bách quấy nhiễu, hết thảy tội chướng tự nhiên diệt hết. Nếu người ở trong đời này chứng thành Đại Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này, tức đời đương lai, nhất định được chứng Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề Đại Tam Ma Địa.

Này Mật Tích Chủ! Nhóm Ấn Chú này đều là cây đuốc Pháp của Ấn Chú chân thật của hết thảy Như Lai Chủng Tộc. Nay, Thích Ca Mâu Ni Như Lai vì muốn khiến cho người thành tựu Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú mà nói Ấn Chú Tam Ma Địa Môn này.

 

KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG

_QUYỂN THỨ BA (Hết)_


QUYỂN THỨ TƯ

ĐẠI PHÁP ĐÀN PHẨM THỨ TÁM

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:Ông nên lắng nghe! Ta vì lợi ích hết thảy hữu tình, lược nói Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Bí Mật Mạn Noa La. Mạn Noa La này đối với Xuất Thế, Thế Gian là cao hơn hết, như trong ba mươi hai tướng Đại Nhân của Như Lai thì Đảnh Tướng là trên hết.

Lại như Đức Như Lai trong cõi người, trên Trời là Đại Đạo Sư thì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Mạn Noa La này cũng lại như vậy, ở các Chú Đàn làm Đại Luân Vương là bậc nhất hơn hết, hay diệt hết thảy tướng bất tường, hay đánh tan hết thảy các ác, Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, A Tố Lạc với các hữu tình, hay ban cho tất cả người học Đại Thừa trừ sạch mọi tội dơ bẩn, chứng thành hết thảy việc Thắng Phước Nghiệp, Môn Đại Niết Bàn.

Khi làm Đàn thời thường chờ đến ngày 1, ngày 8, ngày 14, ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, hoặc ngày giờ có tinh tú tốt lành, vào lúc sáng sớm, nấu nước thơm tắm gội, mặc quần áo sạch mới, ở trước tháp Xá Lợi hoặc ở sườn núi, hoặc ở ấp Đông, hoặc ở ấp Bắc, xem xét chỗ nhàn tịnh, bên bờ sông, suối, ao… lựa chọn đất tốt, rộng khoảng 32 khuỷu tay, hoặc 16 khuỷu tay, 12 khuỷu tay, 8 khuỷu tay… có thể như số khuỷu tay ấy, trước tiên phải sửa trị, lau quét.

Vị A Xà Lê cầm chày Kim Cang, ở giữa tâm của đất Đàn đứng hướng mặt về phương Đông, hỏi các Đệ Tử: “Các người quyết định cầu học Pháp Tạng bí mật của chư Phật, mà chẳng sanh nghi ngờ chăng?”. Thời chư Đệ Tử một lúc đáp rằng: “ Chúng con (họ tên….) chí cầu học Pháp Tạng sâu xa của chư Phật, nhất định tin chân thành, chẳng sanh tâm nghi ngờ”. Như vậy hỏi ba lần, đáp ba lần xong.

Khi ấy, A Xà Lê lại Chú, Ấn vào lò hương lần nữa rồi cầm giữ, hướng mặt về phương Đông, quỳ thẳng lưng, chú vào hương thiêu đốt, khải bạch hết thảy chư Phật, hết thảy Đảnh Luân Vương Bồ Tát, hết thảy Bồ Tát, hết thảy Kim Cang, các Trời, Rồng, Thần ở mười phương với các Nghiệp Đạo (Karma-mārga), hết thảy hàng Thần Kỳ (Thần đất) đều chứng biết.

Nay con thỉnh nơi đất này là phương địa của con. Con ở đất này dựng lập Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Đại Mạn Noa La Đạo Tràng Pháp Hội bảy ngày, bảy đêm… cúng dường mười phương Pháp Giới, hết thảy chư Phật Thiện Thệ Thế Tôn, Bát Nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, hết thảy Pháp Tạng bí mật sâu xa, Pháp Môn khó lường, các Đại Bồ Tát, hết thảy Kim Cang, chư Thiên, Thần đều kèm với quyến thuộc… Thỉnh chứng thành tựu.

Con muốn Hộ Thân, kết Giới, Pháp Sự… ngay tại đất này: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương bàng, phương trên, phương dưới… Hết thảy hàng phá hoại Phật Pháp, Tỳ Na Dạ Ca, Quỷ Thần ác… thảy đều đi ra ngoài bảy dặm. nếu là hàng Hộ Pháp, Thần Quỷ hiền thiện… ở trong Phật Pháp làm lợi ích thì được an trụ (tách bạch ba lần xong).

Liền kết Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Ấn hộ thân, tụng Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú chú vào hạt cải trắng (bạch giới tử), nước thơm bảy biến dùng rảy tán mười phương, kết Phong Đàn Giới.

Sau đó có thể làm vuông hay tròn theo số khuỷu tay ấy, đào xuống loại bỏ đất xấu, ngói, gạch, đá, rễ cây, xương, cỏ với các vật ác. Đào cái hầm sâu một khuỷu tay, dùng đất sạch tốt đổ xuống lấp lại, nện cho bằng phẳng, đắp nền cao lên nửa khuỷu tay. Mặt Đông Bắc của Đàn hơi thấp xuống một chút. Đàn ấy: bốn góc đàn với trung tâm đều đào một lỗ tròn nhỏ, sâu nửa khuỷu tay…trong đó chôn nhóm vật của bảy báu và năm thứ lúa đậu.

Bảy báu là: một là vàng (Suvarṇa), hai là bạc (Rūpya), ba là trân châu (Lohitamukta: Xích Châu), bốn là San Hô (Musāra-galva: Xà Cừ), năm là Hổ Phách (Aśmagarbha: Mã Não), sáu là báu Tát Pha Chi Ca (Sphaṭika: Pha Lê) [Đời Đường gọi là: Thủy tinh], bảy là Lưu Ly (Vaiḍurya).

Năm thứ lúa đậu là: một là Đại mạch (Yava), hai là tiểu mạch (Godhūma), ba là đạo cốc (Śāli), bốn là tiểu đậu (Masūra), năm là Hồ Ma (Atasī:mè).

Bảy miếng báu chia đều như đậu (hạt đậu hay cái đậu là đồ đựng vật cúng) trộn với ngũ cốc, đều một hợp (1/10 lít). Phân chia xong,dùng lụa trắng sạch gói bọc lại, Chú vào bảy biến. Dùng sợi dây năm màu cột buộc đầu túi lụa, rồi chôn trong năm cái lỗ, để đầu cột dây lụa ló ra trên mặt đất dài khoảng năm ngón tay. Chôn xong rồi không được đào lên.

Như Pháp lấp nện cho bằng phẳng, dùng cù ma di (phân bò) sạch mới trộn với đất trắng vàng hòa với nước thơm làm bùn, xoay chuyển theo mặt trời như Pháp xoa bôi, sơn phết.

Lại Chú vào hạt cải trắng (Bạch giới tử) rải tán phương để kết Giới. Lại có thể ở giới hạn bên ngoài Đàn, từ góc Đông Bắc đến góc Đông Nam với góc Tây Nam, góc Tây Bắc đều dựng thẳng một cây gậy dài một trượng hai (4 m) [không có hỏi cây trúc]. Lại từ góc Đông Bắc, cây gậy hướng lên trên một trượng (10/3 m), cột ràng sợi dây trên cây gậy, dẫn đến ba góc cũng như vậy cột buộc đến góc Đông Bắc là xong.

Liền từ góc Đông Bắc, xen kẽ treo bày mọi loại Thần Phan, lụa là, phan, cành hoa, chuông, dây đai, vàng, bạc, hoa sen… trang nghiêm bốn phía, bên ngoài giới hạn mười sáu khuỷu tay, riêng phương của bốn mặt lại chọn khoảng bốn thước (4/3 m) đất, như Pháp sữa trị tô điểm giăng dây làm Phong Giới, lễ đặt bày đường đi.

Lại kết Ấn hộ thân vào Đàn, tụng Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú chú vào hạt cải trắng với Chú vào tro thiêu đốt Hỏa Thực 108 biến

Tiếp theo, tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú chú vào hạt cải trắng, tro với số như bên trên.

Lại nên cầm hạt cải trắng, tro này từ góc Đông Bắc của Đàn, chuyển theo bên phải, tụng Chú giáp vòng, ném rải bốn phương bàng, phương trên, phương dưới, kết Tịnh Đàn Giới.

Lại tụng Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú chú vào bốn cây cọc làm bằng cây Khư Đà La, mỗi cây dài chín Thốn (3 dm) đều chú 108 biến. Tiếp theo tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú này

Như lúc trước, Chú vào cây cọc xong. Từ góc Đông Bắc, một lần Chú thì một lần đóng cọc, mãn một thất (bảy ngày) trở xuống. Đóng ba góc còn lại thì Pháp của nhóm cây cọc cũng như vậy.

Lại ở mặt Tây, quỳ thẳng lưng mà ngồi, Chú vào An Tất Hương, Trầm Thủy Hương bảy biến rồi thiêu đốt. Kết phật Nhãn Ấn, tụng phật Nhãn Chú, ấn chú vào lư hương bảy biến. Tay bưng lư hương, lại nói lời này: “Nay con (tên là…) khải bạch mười phương hết thảy chư Phật, hết thảy Bát Nhã Ba La Mật, hết thảy Đảnh Luân Vương Bồ Tát, hết thảy Quán Thế Âm Bồ Tát, hết thảy Chư Đại Bồ Tát, hết thảy Kim Cang Tạng Bồ Tát, hết thảy tám Bộ Trời Rồng, hộ Tháp, Hộ Pháp, các Thiện Thần Vương… chứng biết cho con, Bí Sô (tên là…) làm Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Quán Đảnh Đại Tam Muội Đàn. Công Đức của Pháp Vương như Ý thành tựu. Thỉnh cầu âm thầm gia hộ”.

Nói lời này xong. Lại từ góc Đông Bắc của Đàn, giáp vòng chuyển theo bên phải, xoay vần kết Nhất Thiết Như Lai Tâm Tinh Tấn Ấn, Nhất Tự Đảnh Luân Vương Ấn, Chuyển Pháp Luân, Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Ấn, Như Lai Nhãn Ấn, Nan Thắng Phấn Nộ Vương Ấn, Tồi Toái Đảnh Luân Vương Ấn. Như vậy bảy Ấn từ Đông, Tây, Nam , Bắc, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới theo thứ tự xuay vần kết, kết Đàn Phương Giới.

Lại ở tâm Đàn, đứng hướng mặt về phương Đông, dùng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Ấn, Tồi Toái Đảnh Luân Vương Ấn đều ổ trên đảnh, cao khoảng một Xích (1/3 m) chuyển theo bên phải ba vòng với ấn nơi đất, gọi là Kết Thượng Phương Hạ Phương Đại Giới. Lại làm Pháp kết Giới của Quân Trà Lợi Kim Cang một biến.

Kết Giới như vậy gọi là Pháp Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Quán Đảnh Pháp Đàn Đại Tam Ma Địa Kết Giới.

Sau đó ra khỏi Đàn cùng với người vẽ tượng ấy với Đệ Tử một lần từng vào Đàn nhận Pháp, kết Ấn hộ thân rồi nói rằng: “Ngươi cầm sợi dây năm màu theo Ta vào Đàn. Từ góc Đông Bắc đi theo mặt trời hồi chuyển, giúp phân chia vị trí của Đàn: Bên trong, bên ngoài, lối đi chia làm bốn Viện, chỉ mở cửa Tây”.

Chia Nội Tâm Viện vuông rộng bốn khuỷu tay, đều chia làm 13 ngăn. Ngăn ngay Tâm ấy, vuông rộng hai khuỷu tay.

Chính giữa vẽ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai hướng mặt về phương Tây, hé mắt, ngồi Kiết Già, làm tướng Thuyết Pháp, ngồi ở hoa sen báu trên tòa báu Sư Tử, đảnh đầu phóng ánh sáng.

Ngay phía trước Đức Phật, ở bên phải vẽ Nhất Tự Đảnh Luân Vương Bồ Tát chiêm ngưỡng Đức Như Lai, ngồi Bán Già, tay trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ một bánh xe vàng bảy báu dựng đứng, có mũi nhọn nhiễu quanh bánh xe, vẽ lửa rực lớn, tay phải giương lòng bàn tay

Ở bên trái Đức Phật vẽ Cụ Thọ Thiện Hiện đứng, ở bên phải Đức Phật vẽ Cụ Thọ Khánh Hỷ đứng.

Tách các ngăn ở bốn mặt thành 12 ngăn. Bên phải Đức Phật, ngăn ở phía Bắc vẽ Bạc Phiền Não Vương Bồ Tát, tay trái để cạnh ngực cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ chày Kim Cang một chia, tay phải để cạnh ngực giương lòng bàn tay.

Bên phải Đức Phật, ngăn ở phía Nam vẽ Quang Tụ Đảnh Luân Vương Bồ Tát, tay trái để cạnh ngực cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ Phật Tâm Ấn; tay phải để cạnh ngực, duỗi thẳng ngón cái, ngón trỏ; co ngón giữa, ngón vô danh, ngón út ở trong lòng bàn tay.

Tiếp theo, ngăn ở phía Đông của Bạc Phiền Não Vương Bồ Tát, vẽ Cao Đảnh Luân Vương Bồ Tát, tay trái co phần bên trên cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ bánh xe vàng tám căm đựng đứng; tay phải để cạnh ngực giương lòng bàn tay.

Tiếp theo, ngăn ở phía Đông của Quang Tụ Đảnh Luân Vương Bồ Tát, vẽ Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương Bồ Tát, tay trái co phần bên trên cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ dù lọng, tay phải để cạnh ngực cầm hoa sen nở

Tiếp theo, ngay phía trước Đức Phật, mặt Tây, ngăn ở phía Nam vẽ một bánh xe báu tám căm khoảng một xích hai thốn (4 dm) với mũi nhọn nhiễu quanh bánh xe, vẽ lửa rực tỏa khắp.

Tiếp theo, ngăn ở phía Bắc vẽ Thắng Đảnh Luân Vương Bồ Tát, tay trái để ngang ngực cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ một cây đao đứng, trên mũi nhọn của cây đao cung quanh vẽ đám lửa lớn; co tay phải ra bên ngoài cầm hoa Ưu Bát La xanh (Nīla-utpala)

Tiếp theo, ngăn ở phía Đông Bắc vẽ Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát, tay trái để bên cạnh phía trước ngực cầm hoa Ưu Bát La xanh; tay phải co phần bên trên hướng vào bên trong, giương lòng bàn tay.

Tiếp theo ngăn ở phía Nam của Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát vẽ Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu Bồ Tát, tay trái để bên cạnh bụng, phần bên trên cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ cái loa ngũ sắc dựng đứng; tay phải để cạnh ngực giương lòng bàn tay.

Ngăn ở góc Đông Bắc vẽ Tồi Toái Đảnh Luân Vương Bồ Tát, tay trái để cạnh ngực cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ phướng phan Kim Cang; tay phải co phần bên trên hướng vào bên trong, giương lòng bàn tay.

Bên trái vẽ Phật Nhãn Bồ Tát, tay trái để ngang vú cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ Phật Tâm Ấn, ở hai bên Ấn đều vẽ một co mắt; tay phải co phần bên trên hướng vào bên trong, giương lòng bàn tay.

Ngăn ở góc Đông Nam vẽ chung ba vị Đảnh Luân Vương Bồ Tát, tay trái để ngang ngực cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ chày Kim Cang dựng đứng; tay phải để ngang ngực hướng ra bên ngoài, giương lòng bàn tay.

Bên phải vẽ Như Lai Hào Tướng Bồ Tát, tay trái để cạnh vú cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ Phật Hào Tướng Ấn; tay phải hơi co bốn ngón tay, nắm lại thành quyền, duỗi thẳng ngón cái đè cạnh hông sườn bên phải

Ngăn ở góc Tây Nam vẽ chung hết thảy Siêu Đảnh Luân Vương Bồ Tát, duỗi tay trái, ngửa trên bắp đùi trái cầm hoa sen nở; tay phải co bốn ngón tay, nắm lại thành quyền để ngang ngực, ngửa quyền duỗi thẳng ngón cái

Bên phải vẽ Như Lai Sóc Bồ Tát, tay phải cầm cây giáo, ở dưới mũi nhọn của cây giáo vẽ treo dây đai lụa; tay trái hơi co bốn ngón đè phía trên bên cạnh cái bụng.

Ngăn ở góc Tây Bắc vẽ Thánh Vô Biên Đảnh Luân Vương Bồ Tát, tay trái co úp bên hông sườn trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ cái loa báu dựng đứng; tay phải để ngang vú, giương lòng bàn tay

Bên phải vẽ Như Lai Nha Bồ Tát, duỗi tay trái để trên bắp đùi trái cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ Như Lai Nha Ấn; tay phải để ngang ngực hơi co bốn ngón tay nắm quyền, duỗi thẳng ngón cái.

Các Bồ Tát này có thân, ánh sáng, sắc tướng như lúc trước đã nói, đều dùng mão hoa, Anh Lạc, vòng, xuyến, mọi loại quần áo để trang sức, khắp thân có hào quang, ngồi Bán Già trên tòa hoa sen.

_Chia viện thứ hai nên rộng hai khuỷu tay, bốn mặt cùng phân chia làm 24 ngăn

Ngăn ở góc Đông Bắc, ngăn thứ nhất ở phía Nam vẽ Đông Phương Bảo Tinh Như Lai, tay trái úp để trên ngực cẩm góc áo Cà Sa; tay phải giương lòng bàn tay.

Ngăn thứ hai ở phía Nam, vẽ Bắc Phương A Súc Như Lai, duỗi tay trái ngửa dưới rốn nắm góc áo Cà Sa; tay phải duỗi úp để trên bắp đùi pháp, làm tướng Thí Vô Úy

Ngăn thứ ba ở phía Nam, vẽ Tây Phương Vô Lượng Thọ Quang Như Lai, đem lưng tay trái đè trên lòng bàn tay phải, duỗi để dưới rốn.

Ngăn thứ tư ở phía Nam, vẽ Nam Phương Khai Phu Liên Hoa Vương Như Lai, úp duỗi tay tay trái để dưới rốn nắm góc áo Cà Sa; co tay phải ngửa bên trên giương lòng bàn tay

Ngăn thứ năm ở phía Nam, vẽ Nhất Thiết Phật Tâm Ấn với lửa sáng vây quanh

Bốn Đức Phật như vậy có thân tướng màu vàng ròng, toàn thân có hào quang, ngồi Kiết Già tại hoa sen báu trên tòa Sư Tử.

.) Mặt Bắc, ngăn ở góc Tây Bắc, ngăn thứ nhất ở phía Đông, vẽ Tỳ Cu Chi Bồ Tát, mặt có ba con mắt, thân có bốn cánh tay. Một tay cầm hoa sen, một tay cầm bình Quân Trì, một tay cầm tràng hạt (sổ châu), một tay duỗi ngửa dưới rốn.

Bên phải, vẽ hai vị Thị Giả đều quỳ thẳng lưng ngồi trên tòa hoa sen. Một vị nâng hoa, một vị rải hoa.

Ngăn thứ hai ở phía Đông, vẽ Đa La Bồ Tát, tay trái ngửa lòng bàn tay duỗi năm ngang dưới rốn cầm hoa Ưu Bát La xanh; co tay phải, phần bên trên ngửa lòng bàn tay.

Bên phải vẽ hai vị Thị Giả Bồ Tát, cả hai vị đều chắp tay, quỳ thẳng lưng ngồi trên lá sen.

Ngăn thứ ba ở phía Đông, vẽ Quán Tự Tại Bồ Tát, tay trái để ngang ngực cầm hoa sen, tay phải duỗi ngửa dưới rốn.

Bên phải vẽ Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát Mẫu, tay trái cầm hoa sen nở, tay phải duỗi ngửa ở dưới rốn.

Ngăn thứ tư ở phía Đông, vẽ Đắc Đại Thế Chí Bồ Tát, tay trái nắm lại để dưới rốn cầm hoa sen nở một nửa, tay phải để cạnh ngực, giương lòng bàn tay

Bên phải, vẽ Ma Ha Thấp Phế Đa Bồ Tát, tay trái ngửa lòng bàn tay để trên bắp đùi trái cầm hoa sen; tay phải làm thế xoa đảnh đầu.

Ngăn thứ năm ở phía Đông, vẽ Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát, tay trái để ngang ngực cầm cây búa, tay phải cầm nhóm hoa sen, lá sen

Bên phải vẽ Đại Cát Tường Bồ Tát, tay trái nắm lại để ở rốn cầm hoa sen nở, tay phải duỗi ngửa để trên bắp đùi phải.

Nhóm Bồ Tát này có thân, ánh sáng, màu thịt như lúc trước đã nói, đều dùng mão hoa, Anh Lạc, vòng, xuyến, mọi loại quần áo để trang nghiêm, ngồi Bán Già trên tòa hoa sen.

.) Mặt Nam, ngăn ở góc Đông Nam, ngăn thứ nhất ở phía Tây, vẽ Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, tay trái để cạnh ngực cầm chày Kim Cang, tay phải giương lòng bàn tay

Bên phải, vẽ Ma Mạc Kê Kim Cang Mẫu Bồ Tát, tay trái để cạnh ngực cầm chày Kim Cang, tay phải ngửa lòng bàn tay duỗi co dưới rốn.

Bên phải vẽ Kế Lý Chỉ La Kim Cang Bồ Tát, tay trái để ngang ngực cầm chày Kim Cang, tay phải giương lòng bàn tay.

Ngăn thứ hai ở phía Tây, vẽ Kim Cang Chủng Tộc Sanh Bồ Tát, đem lưng tay phải đè trên lòng bàn tay trái, duỗi để dưới rốn, lòng bàn tay có chày Kim Cang

Bên phải, vẽ Tế Na Kim Cang Đồng Tử, tay trái để ngang ngực cầm chày Kim Cang, tay phải đè trên bắp đùi phải

Ngăn thứ ba ở phía Tây, vẽ Phấn Nộ Nguyệt Điểm Kim Cang Bồ Tát, mặt mắt giận dữ, tay phải để nghiêng bên cạnh ngực cầm chày Kim Cang, tay trái co phần bên trên cầm cây tam kích xoa dựng đứng.

Bên phải, vẽ Quân Trà Lợi Kim Cang Đồng Tử, tay trái để nghiêng bên cạnh ngực cầm chày Kim Cang, tay phải cầm cây tam kích xoa dựng đứng.

Ngăn thứ tư ở phía Tây, vẽ Chấp Kim Cang Quyền Bồ Tát, tay trái để nghiêng bên cạnh ngực cầm chày Kim Cang Quyền Ấn, tay phải ngửa lòng bàn tay để trên bắp đùi phải

Bên phải, vẽ Thiện Tý Kim Cang Đồng Tử, trên đầu vẽ cái đầu của chày Kim Cương, hai cánh tay giao đè chéo nhau đều cầm chày Kim Cang

Ngăn thứ năm ở phía Tây, vẽ Chấp Kim Cang Câu Bồ Tát, tay trái để nghiêng ngang ngực cầm chày Kim Cang Câu Ấn, tay phải ngửa lòng bàn tay để trên bắp đùi phải

Bên phải, vẽ Chấp Kim Cang Tỏa Bồ Tát, tay trái để ngang ngực cầm chày Kim Cang Tỏa Ấn, tay phải duỗi ngửa dưới rốn.

Bên phải, vẽ Mỗ Phất Đà Nhứ Ca Kim Cang Đồng Tử, tay trái cầm chày Kim Cang, tay phải để cạnh ngực giương lòng bàn tay.

Nhóm Kim Cang này có thân, ánh sáng, sắc tướng như lúc trước đã nói, đều dùng mão hoa, Anh Lạc, vòng, xuyến, mọi loại quần áo như Pháp trang nghiêm, đều ngồi Bán Già trên tòa hoa sen.

.) Mặt Tây, ngăn ở góc Tây Nam, ngăn thứ nhất ở phía Bắc, vẽ Tối Thắng Tam Giới Bồ Tát, mặt có ba con mắt, ló nanh chó lên trên, mắt rất giận dữ, tay trái để nghiêng ngang ngực cầm chày Kim Cang, tay phải nắm một cây đao dài dựng đứng.

Bên phải, vẽ Bất Động Sứ Giả, mặt mắt giận dữ, tay trái cầm sợi dây, tay phải để nghiêng ngang ngực cầm cây kiếm dựng đứng.

Ngăn thứ hai ở phía Bắc, vẽ Di Lặc Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, ở trên đài hoa có cái bình Táo Quán; tay phải giương lòng bàn tay.

Bên phải, vẽ Nan Thắng Đại Phấn Nộ Vương Thần, mặt mắt rất giận dữ, tay trái để nghiêng ngang ngực cầm chày Kim Cang, tay phải cầm cây kiếm, bên ngoài làm thế nghĩ ngợi.

Ngăn thứ nhất ở phía Bắc của cái cửa, vẽ Mạn Châu Thất Lợi Đồng Tử Bồ Tát, tay trái để ngang ngực cầm hoa sen nở, ở trên đài hoa vẽ chày Kim Cang ba chia; tay phải co phần bên trên, ngửa lòng bàn tay hướng ra ngoài.

Bên trái vẽ hai vị Thị Giả, vị thứ nhất tên là Ô Bà Kế Thủy Nễ Bồ Tát, vị thứ hai tên là Kế Thủy Nễ Bồ Tát, một vị cầm cây giáo, một vị cầm cây đao, đều dùng bàn tay phải cầm

Tiếp theo, ngăn thứ hai ở phía Bắc của cái cửa, vẽ Phổ Hiền Bồ Tát, tay phải để nghiêng ngang ngực cầm cây kiếm dựng đứng, tay trái co ra bên ngoài ngửa lòng bàn tay.

Bên phải, vẽ Thủy Phạ Ma Khiếm Minh Chú Vương, thân đứng nghiêng giận dữ, duỗi bàn tay trái làm thế bợp tai, tay phải để ngang ngực làm màu trắng vàng.

Nhóm Bồ Tát này khắp thân có ánh sáng, sắc tướng như lúc trước đã nói, đều dùng mão hoa, Anh Lạc, vòng, xuyến, mọi loại quần áo để trang sức, đều ngồi Bán Già trên tòa hoa sen.

.)Ngăn ở góc Đông Bắc, vẽ Đông Phương Vô Úy Thần, thân màu xanh lục, mặt mắt giận dữ, tay phải để ngang vú cầm cây bổng, tay trái nắm quyền án trên bắp tay trái

Hai bên trái phải đều vẽ một vị Thị Giả, một vị đứng cầm cây bổng, một vị quỳ chắp tay cầm sợi dây.

Ngăn ở góc Đông Nam, vẽ Nam Phương Diệt Bố Úy Thần, thân màu vàng đỏ, mặt mắt giận dữ, tay trái nắm nghiêng ở rốn cầm cây bổng dựng đứng, tay phải để ngang ngực hơi nắm quyền

Hai bên trái phải đều vẽ một vị Thị Giả đứng, một vị cầm cây Tam Kích Xoa, một vị cầm chày Kim Cang

Ngăn ở góc Tây Nam, vẽ Tây Phương Nan Thắng Thần, thân màu vàng trắng, mặt mắt giận dữ, tay phải để ngang ngực cầm sợi dây, tay phải nắm quyền đè trên đầu gối phải.

Bên phải vệ một vị Thị Giả, quỳ thẳng lưng mà ngồi, cầm cây Tam Kích Xoa

Ngăn ở góc Tây Bắc, vẽ Bắc Phương Giải Trừ Bố Úy Thần, thân màu đỏ tía, mặt mắt giận dữ, tay phải để nghiêng bên ngực cầm cây đao dựng đứng

Hai bên trái phải đều vẽ một vị Thị Giả đứng, một vị cầm cây đao, một vị cầm bánh xe.

Thần ở bốn phương này đều dùng vòng hoa, Anh Lạc, vòng, xuyến, mọi loại quần áo như Pháp trang nghiêm, đều ngồi Bán Già trên tòa hoa sen.

_Chia viện thứ ba cũng rộng hai khuỷu tay, thuần vẽ đất màu xanh, sợi dây bằng vàng giăng chéo lối đi, hoa báu trang nghiêm

_Chia viện thứ tư cũng rộng hai khuỷu tay, bốn mặt cùng chia làm 42 ngăn.

Ngăn ở mặt phương Đông, vẽ Tịnh Cư Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên với vẽ hết thảy hàng Trời

Ngăn ở mặt phương Đông Nam, vẽ Đế Thích Thiên Vương, vẽ Hỏa Thiên Thần với vẽ hết thảy Thiên Tiên để làm quyến thuộc.

Ngăn ở mặt phương Nam, vẽ Na La Diên Thiên, A Nan Đà Long Vương, Diệm Ma Vương với vẽ Quỷ Tử Mẫu, Tỳ Xá Già Quỷ, Bố Đan Na Quỷ để làm quyến thuộc.

Ngăn ở Tây Nam, vẽ Đại Cát Tường Thiên, La Sát Vương Chúng với Bộ Đa Quỷ Chúng để làm quyến thuộc.

Ngăn ở mặt phương Tây, vẽ Thủy Thiên Vương kèm với quyến thuộc. Ở hai ngăn bên trái bên phải của Thủy Thiên Vương vẽ Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương để làm quyến thuộc.

Ngăn ở mặt phương Tây Bắc, vẽ Phong Thiên Thần, vẽ các Minh Chú Tiên với vẽ Nghiệt Lỗ Đồ Chúng để làm quyến thuộc.

Ngăn ở mặt phương Bắc, vẽ Ma Hê Thủ La Thiên, vẽ Ma Ha Tế Na Chú Thần, Ô Ma Thiên Nữ với vẽ các hàng Dược Xoa để làm quyến thuộc.

Ngăn ở mặt phương Đông Bắc, vẽ Đại Phạm Thiên Vương, Y Thủ La Thiên Chúng với vẽ Cưu Bàn Trà Quỷ, các Chủng Tộc Quỷ để làm quyến thuộc.

Lại cửa Đông, ngăn thứ nhất ở phía Nam vẽ Nhật Thiên Tử với vẽ Thất Tinh

Thiên Chúng trước sau vây quanh

Lại cửa Tây, ngăn thứ hai ở phía Nam vẽ Nguyệt Thiên Tử với vẽ Thất Tinh

Thiên Chúng trước sau vây quanh

Lại cửa Tây, ngăn thứ hai ở phía Bắc vẽ Độ Để Sứ Giả, vẽ Tất Lật Sa Ca Thần với vẽ các Sứ Giả khác.

Lại ở đầu cửa Đông vẽ Mãn Hiền Dược Xoa Thần, Bảo Hiền Dược Xoa

Thần, Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương

Lại đầu cửa Nam vẽ Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương với vẽ Thất Tinh Thiên Chúng vây quanh bên phải bên trái

Lại đầu cửa Tây vẽ Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương, vẽ Bán Chi Ca Đại Dược Xoa Thần

Lại đầu cửa Bắc vẽ Đa Văn Thiên Vương với vẽ Thất Tinh Thiên Chúng vây quanh bên phải bên trái

Bốn vị Thiên Vương này có thân, quần áo, trang sức như lúc trước đã nói.

Các hàng Thiên Tiên, Long Vương, Thần này đều dùng trang phục, khí trượng của Bản Sở để tự trang nghiêm, hết thảy đều ngồi Bán Già.

_Viện thứ nhất bên trong ấy rộng hai thốn rưỡi (5/6 dm), giáp vòng bốn mặt vẽ chày Kim Cang dựng đứng, đầu chày dựa nhau, trên mỗi một cái chày có lửa rực khắp.

Giới hạn của viện thứ hai ấy cũng rộng hai thốn rưỡi (5/6 dm), bốn mặt đều vẽ lối đi giới hạn bằng bảy báu

Giới hạn của viện thứ ba bên ngoài, rộng ba thốn (1 dm), giáp vòng bốn mặt đều vẽ chày Kim Cang dựng đứng, đầu chày dựa nhau, khắp ở trên mỗi cái chày đều vẽ đám lửa lớn.

Giới hạn của viện thứ tư ấy rộng bốn thốn (4/3 dm), bốn mặt cũng vẽ lối đi giới hạn bẳng bảy báu.

Giới hạn của viện thứ năm bên ngoài, rộng sáu thốn (2 dm), giáp vòng bốn mặt đều vẽ chày Kim Cang dựng đứng, đầu chày dựa nhau, cũng khắp trên mỗi một cái chày đều vẽ đám lửa lớn

Đất của viện bên trong bên ngoài (nội ngoại viện) đều tô vẽ màu xanh.

Bốn mặt của Đàn ấy, phía Nam của hai cửa bên trong bên ngoài, ở bên cạnh đều mở một cửa, khiến cho người trì Chú ra vào hành động.

Như vậy vẽ Đàn, hoặc ở trên lụa, hoặc ở trên vải mịn có thể dùng lượng khuỷu tay ấy, như Pháp tô vẽ

Người vẽ tượng ấy, mỗi ngày tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, thọ Tam Quy Giới. Dùng hạt cải trắng (bạch giới tử) điều hòa màu sắc, y theo Pháp tô vẽ màu, tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Thân Chú chú vào các màu sắc với chú vào hương, hoa, thức ăn uống, nước hương với nhóm vật cúng dường khác, cầm bày phụng hiến.

Nếu tô vẽ xong, liền dùng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Căn Bản Tâm Ấn Chú, Tồi Toái Đảnh Luân Vương Ấn Chú đều chú, ấn vào hạt cải trắng bảy biến. Ở vện bên trong bên ngoài, chuyển theo bên phải tán rải, kết Tứ Phương Tứ Duy Đại Giới của Đàn xong, lại có thể trên Đàn an cây dù lọng lụa màu báu lớn.

Ở đầu bốn góc bên ngoài của viện thứ ba bên trong ấy, dựa theo Pháp Dụng lúc trước, dựng đứng cây gậy có cột buộc dây, chỉ dùng cành phan của chư Phật Bồ Tát, các hoa màu mầu nhiệm, chông, dây đai, dây đeo bằng ngọc… treo bày bốn mặt xen kẽ trang nghiêm. Ở bốn cửa, bốn góc ấy đều treo hai cành phan Kim Cang đối nhau

Bốn cửa, bốn góc của viện thứ năm bên ngoài, cũng đều đối treo cành phan của bốn Thiên Vương, cành phan của các Thần Vương.

Ở bốn mặt của phương bên trên của viện bên trong bên ngoài dùng cành Phan lớn vây quanh làm tấm hoành phi.

Bốn mặt của viện bên ngoài (ngoại viện) ở phương bên dưới, trải khắp chiếu, chăn, mền sạch mới

viện bên trong (nội viện) trước mặt Đức Phật Thích Ca Mâu Ni để cái hũ nước thơm. Bốn góc bên trong bên ngoài đều để một cái hũ nước thơm. Bốn cửa bên trong bên ngoài đều để hai hũ nước thơm đối nhau. Nhóm hương úng (Hũ chứa nước thơm) chứa được một đẩu (cái đấu) đều để hạt của năm loại lúa đậu, miếng của bảy báu ở trong hũ, chứa đầy nước thơm… ở trong miệng hũ, cắm hết thảy cành, hoa, lá…

Trên giới hạn của bốn cửa của viện bên trong bên ngoài bày chung 200 hoa nổi bọt lưu ly đủ màu, hoa tạp bằng vàng bạc.

Lại dùng bốn cái mâm bằng bạc: một mâm chứa đầy hương đốt, một mân chứa đầy hoa, một mâm chứ đầy nhóm hạt cải trắng (bạch giới tử) , hạt sỏi (tiểu thạch tử); một mâm chứa đầy bột hương… đem để hai bên cửa Tây của viện bên ngoài (ngoại viện)

Bốn cửa, bốn góc của ba viện bên trong bên ngoài đều để lư hương thiêu đốt mọi thứ hương nổi tiếng.

Khi ấy, người trì Chú mỗi lần muốn kết Ấn, tụng Chú thỉnh triệu đều nên rửa tay, súc miệng. Lại Chú trì vào nước thơm, hạt cải trắng… chuyển theo bên phải vảy tán. Kết Ấn hộ thân, quỳ ngồi, lại Chú vào lư hương bảy biến, tay bưng lư hương, lại khải bạch rằng: “Nay con (tên là…) cúng dường mười phương hết thảy chư Phật, năm Đảnh Luân Vương, hết thảy Bát Nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, vô biên Pháp Tạng, Pháp Môn khó lường với Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, các Đại Bồ Tát, hết thảy Kim Cang Tộc Chúng Bồ Tát, tám Bộ Trời Rồng, Hộ Tháp, Hộ Pháp, các Thiện Thần Vương, hết thảy Sứ Giả… đều thỉnh giáng lâm, chứng biết cho con (tên là…) nay tác trì Nhất Tự Phật Đảnh Tam Ma Địa Chú Đàn Pháp Sự, Công Đức vô thượng như ý thành tựu. Thỉnh cầu âm thầm gia hộ”

(Bạch ba lần như vậy). Liền kết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Ấn, Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Ấn, Tồi Toái Đảnh Luân Vương Ấn đều dùng Ấn đội trên đảnh đầu, cung kính với Tồi Toái Phật Đảnh Luân Vương Ấn Chú ấn bảy lần, ấn: vai trái, vai phải, dưới cổ họng, trên trái tim, trên đầu gối trái đầu gối phải, giữa hai lông mày (tam tinh), chân tóc với ấn trên đảnh đầu, sau đảnh đầu. Các chỗ như vậy đều ấn ba lần, gọi là Kết Thân Giới.

Nếu hộ Đồng Bạn với hộ Đệ Tử thì Pháp cũng dựa theo điều này. Liền dùng ngón cái, ngón giữa của tay phải nắm lần tràng hạt (sổ châu), tay trái cầm chày Kim Cang, ấn vào hạt cải trắng bên trong cái mâm bạc, tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú, Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú đều chú 108 biến xong, trở lại buông tràng hạt với chày Kim Cang để trên cái mâm bạc.

Lại kết Tồi Toái Đảnh Luân Vương Ấn ấn vào nhóm hạt cải trắng, hạt sỏi bẩy lần.

Tiếp theo, kết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Ấn ấn vào nhóm hạt cải trắng, hạt sỏi cũng bẩy lần. Tiếp theo, kết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Tâm Ấn như lúc trước ấn vào hạt cải trắng, hạt sỏi. Liền cầm cái mâm bạc chứa hạt cải, từ góc Đông Bắc bên trong Đàn Tràng chuyển theo bên phải, tán rải hạt cải trắng, như vậy giáp vòng, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới.

Như Pháp tán rải xong. Cầm hạt sỏi ấy từ góc Đông Bắc của Ngoại Viện của Đàn, ném hạt sỏi ấy. Như vậy giáp vòng bốn phương bàng, phương trên, phương dưới đều ném một hạt sỏi. Nơi mà hạt sỏi rơi đến thì gọi là Ngoại Giới, nơi mà hạt cải rơi đến thì gọi là Nội Giới

Quay lại vào Đàn, kết Tồi Toái Đảnh Luân Vương Ấn ấn vào đất của Đàn, tụng Chú bảy biến thì gọi là Kết Địa Giới

Bốn góc, bốn phương dùng ấn không trung, chuyển theo bên phải bảy vòng, tụng Chú bảy biến thì gọi là Kết Bát Phương Đại Đàn Thành Giới

Vào Viện chính giữa (trung viện) của Đàn , lại kết Thủ Ấn, trên đảnh đầu khoảng một Xích (1/3 m) chuyển theo bên phải bảy vòng, tụng Chú bảy biến thì gọi là Kết Thượng Phương Không Giới với làm Pháp kết Giới của Quân Trà Lợi Kim Cang xong.

Lại bốn góc, bốn cửa đốt hương xong, liền nên như Pháp khải triệu. Kết Thỉnh Phật Ấn: Hai tay đem hai ngón vô danh, hai ngón út, bên phải đè bên trái, cài chéo nhau trong lòng bàn tay, dựng thẳng hai ngón giữa dựa đầu nhau, mở thẳng hai ngón trỏ cách nhau bốn thốn rưỡi (15 cm) kèm hai ngón cái dựng thẳng, cách ngón giữa tám phân (4/15 dm)

Ấn Chú: tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú đến biến thứ tư thì hai ngón trỏ co dần dần vào lòng bàn tay, Chú đủ bảy biến kèm Thủ Ấn hòa nam (Vandana: kính lễ) đảnh lễ, hướng vào bên trong bung tán Ấn. Sức của Ấn này hay thỉnh triệu hết thảy Như Lai.

_Liên Hoa Tòa Nghênh Ấn: Dựng hai ngón út dính nhau, cũng dựng hai ngón cái kèm song song dính nhau, sáu ngón còn lại mỗi mỗi bung mở bằng nhau, dựng duỗi hơi co lại như hình trăng mới mọc, tựa hoa sen nở.

Tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú mãn bảy biến, liền kèm co hai ngón cái hướng vào bên trong lòng bàn tay, đảnh lễ nghênh đón, hướng vào bên trong bung Ấn.

_ Thỉnh Tọa Ấn: tay phải: dựng năm ngón tay cùng chụm đầu ngón. Tay trái đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh nắm bên trên năm ngón của tay phải, ngón cái đè lên trên, duỗi thẳng ngón út. Tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú bảy biến, thỉnh ngồi nơi tòa. Bung tán Tọa Ấn, thỉnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi ở vị trí của Tâm Đàn

_Tiếp theo, thỉnh Nhất Tự Đảnh Luân Vương cũng y theo Pháp lúc trước

Tiếp theo, từ phương Đông đi đến đầu phương Bắc, thỉnh lần thứ nhất, cho đến hết vị trí ở đầu phương Nam, Pháp cũng dựa theo lúc trước

Tiếp theo, từ phương Bắc đi đến đầu phương Tây, thỉnh lần thứ nhất, cho đến hết vị trí ở đầu phương Đông, Pháp cũng dựa theo lúc trước

Tiếp theo, từ phương Nam đi đến đầu phương Đông, thỉnh lần thứ nhất, cho đến hết vị trí ở đầu phương Tây, Pháp cũng dựa theo lúc trước

Tiếp theo, từ phương Tây đi đến đầu phương Nam, thỉnh lần thứ nhất, cho đến hết vị trí ở đầu phương Bắc, Pháp cũng dựa theo lúc trước Tiếp theo, thỉnh Trung Viện cũng y theo Pháp lúc trước.

Tiếp theo, thỉnh Ngoại Viện cũng y theo Pháp lúc trước.

Như vậy thỉnh triệu hết thảy chư Phật, hết thảy Đảnh Luân Vương Bồ Tát với các Bồ Tát, Kim Cang Bồ Tát, các hàng Thiên Thần… tùy kết Bản Ấn.

_Nếu thỉnh Phật thì kết Ấn Thỉnh Phật lúc trước

Nếu thỉnh Nhất Tự Đảnh Luân Vương Bồ Tát với Đảnh Luân Vương Bồ Tát khác thì nên kết Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Đồng Thỉnh Hoán Ấn

Nếu thỉnh hết thảy Bồ Tát với Kim Cang Bồ Tát, Đế Thích, Phạm Vương kèm với các hàng Trời đều kết Nhất Thiết Như Lai Tâm Tinh Tấn Ấn Nghênh Ấn, Tọa Ấn ấy dựa theo đồng với Ấn lúc trước

_Nội Viện, Trung Viện, Ngoại Viện đều y theo vị trí đã vẽ, xưng tên của mỗi một Đức Phật, xưng tên của mỗi một Bồ Tát, xưng tên của mỗi một Kim Cang, xưng tên của chư Thiên. Kết Ấn, tụng Chú, xưng tên, lễ thỉnh.

Như vậy mỗi mỗi thỉnh Phật, Bồ Tát, Kim Cang, các hàng Thiên Thần… tùy thỉnh tùy tưởng, tập hội ở Đàn trụ theo vị trí.

Phụng Thỉnh hết xong, kết Đại Tam Muội Sắc Ngữ Kết Giới Ấn. Dựa theo Thỉnh Phật Ấn lúc trước, sửa hai ngón trỏ đều vịn lưng lóng trên của ngón giữa, co hai ngón cái đều phụ lóng dưới của ngón trỏ. Hai lòng bàn tay cách nhau khoảnh bốn Thốn (4/3 dm). Đem Ấn đội trên đảnh đầu, cung kính, trên đầu chầm chậm tùy theo mặt trời chuyển theo bên phải ba vòng, tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú chú thêm bốn chữ “bạn đà, bạn đà” (BANDHA BANDHA) bảy biến, liền nên Sắc là: “Tam Muội Kết Giới đầy đủ oai nghi, khải thỉnh chúng Thánh như Pháp trụ ở vị trí mà ngồi yên”

Lại ở cửa Tây, chắp tay đảnh lễ, quỳ thẳng lưng cung kính, tay bưng lư hương thiêu đốt các hương nổi tiếng. Tưởng các hình vẽ của Phật, Bồ Tát, Kim Cang, hết thảy Thiên Thần như Chân Thân, Báo Thân đều ngồi ờ tòa, tự động nhìn quán Đức Phật, tướng Thuyết Pháp của Đức Phật. Miệng lại khải bạch: “Phụng thỉnh kết Giới, nguyện các chúng Thánh đều y theo vị trí của mình (bổn vị) đầy đủ oai nghi như Pháp mà trụ.

(Nói lời này xong) tức mọi loại bột hương trên cái mâm bạc, hai tay bụm lấy hương, tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú chú vào bột hương bảy biến. Từ Nội Viện rải tán trên Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai với trên năm Đảnh Luân Vương, các Bồ Tát.

Tiếp theo ở viện thứ ba rải khắp trên hết thảy Phật với rải tán trên hất thảy hàng Bồ Tát, Kim Cang… cho đến rải tán hết các hàng Thiên Thần, đồng cúng dường khắp cả.

Lại lấy hoa bên trong cái mâm bạc, hai tay nâng bụm hoa, chú vào bảy biến xong, như Pháp rải hương, đồng cúng dường khắp cả. Cúng dường như vậy gọi là Hương Tam Muội Đà La Ni Cúng Dường, gọi là Hoa Tam Muội Đà La Ni Cúng Dường

Làm Pháp này xong. Lại dùng tay trái cầm chày Kim Cang, tay phải cầm tràng hạt (sổ châu), miệng nói rằng: “Nay con (tên là…) đội trên đảnh đầu, cung kính hết thảy Bát Nhã Ba La Mật Đa, vô biên Pháp Tạng, hằng sa vạn Đức. Nay từ mười phương hết thảy chư Phật, kính nhận Pháp này”

Nói lời này xong. Liền nâng hai tay đội trên đảnh đầu, cung kính. Làm Pháp như vậy gọi là Pháp Đảnh Đái Cung Kính Thọ Trì

Lại buông tràng hạt (sổ châu), chày Kim Cương để trên cái mâm bạc, đảnh lễ Đức Thế Tôn. Tay bưng lư hương thiêu đốt hương cúng dường, nhiễu quanh Đàn ba vòng, từ tạ Đức Phật rồi lui ra.

_Lại Viện thứ ba bên trong với viện thứ hai bên ngoài dùng mọi loại hương, hoa, bơ, mật, sữa, lạc, đường cát, cháo sữa, cháo sữa đặc, cháo mè, cơm gạo tẻ, bánh, thức ăn, quả trái…. Thức Ăn, quả trái như vậy đều mới sạch tốt… sắp xếp trong mâm vàng, mâm bạc, mâm đồng… như Pháp chứa đầy trang nghiêm, mỗi mỗi tùy theo vị trí, bày hiến ở bốn mặt

Lại dùng bơ, mật, sữa, váng sữa đặc (lạc), cháo sữa đặc, cháo sữa, mọi loại hương hoa, hết thảy thức ăn uống với nhóm quả trái… ở Ngoại Viện tùy theo vị trí, xếp bày ở bốn mặt mà cúng dường.

Bốn mặt, bốn góc của Nội Viện đều thắp đuốc sáp

Bốn mặt của Ngoại Viện thắp đèn cúng dường, bày khắp làm vòng hoa đèn.

Lại lấy chút phần bằng nhau của hết thảy thức ăn uống, hoa, quả… như để trong nước sạch, chứa đầy ở trong cái quán (cái lọ nhỏ, cái bình, cái vại, cái chai, cái hộp) cầm đến chỗ sạch sẽ dưới gốc cây, hoặc dưới đám tre trúc, tụng Chú, ba lần hô gọi hết thảy Quỷ Thần đến ăn thức ăn uống Cam Lồ của Ta, nghiêng dốc đổ mọi vật xuống đất, rồi quay về. Pháp bố thí như vậy làm cho người này tăng thêm Phước Lộc.

Pháp rộng lớn của Đàn này, từ ngày bắt đầu làm cho đến ngày cuối cùng, mọi loại Nghi Tắc, phương pháp Tu Đàn, Pháp của A Xà Lê, Pháp dạy bảo Đệ Tử, Pháp vào Đàn, Pháp Quán Đảnh… dựa theo các Đàn Pháp của các Kinh Đại Quán Đảnh dùng giống nhau

Người Trí nên biết làm Pháp này. Người với nhóm Đồng Bạn, Đệ Tử thân cận đều một lần ra một lần vào phải tắm gội sạch sẽ. Bên trong Đàn, trang nghiêm đừng nói lung tung, cười đùa, một lòng niệm Phật… Đều ba lần thay áo mới sạch: một lần khi vào Đàn, một lần khi ăn, một lần đi ra ngoài Kinh Hành, đi đến nhà cầu

A Xà Lê lại liền vào Đàn, ở hai viện bên trong bên ngoài, nhiễu theo bên phải hành đạo giáp vòng, quán nhìn các vật trang nghiêm , cái nào như Pháp, cái nào chẳng như Pháp… sai Đệ Tử sửa sang lại cho trang nghiêm, hoặc tự mình trang sức xong. Khi ra khỏi Đàn thì như Pháp rửa tay, súc miệng

Lại dựa theo lúc trước, kết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Sắc Ngữ Đại Tam Muội Gia Ấn, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, sau mỗi một biến đều gia thêm bốn chữ Bạn Đà, Bạn Đà (BANDHA BANDHA). Bốn phương, bốn góc, trung ương… dùng Ấn trong hư không, chuyển theo bên phải ba vòng, tiếng tụng Chú chẳng dứt. Giáp vòng bốn phương bàng xong, liền lại khải bạch rằng: “Nhất Tự Đảnh Luân Vương Tam Muội kết Giới, oai nghi đầy đủ. Bạch các chúng Thánh như Pháp an trụ, nhận các cúng dường” thì mới được hoàn tất. Làm Pháp như vậy gọi là Đại Kết Giới An Ủy Định Tọa

Lại nữa, người trì Chú lại ở cửa Tây, chắp tay đảnh lễ, nhiễu quanh Đàn hành Đạo. Ở mỗi cửa, lễ bái, dùng Phạm Âm (Brahma-ghoṣa) khen ngợi. Tưởng Đàn Tràng này có mọi loại trang nghiêm như cây Bồ Đề, Đạo Tràng Kim Cang, Hội Thuyết Pháp. Sanh tưởng kỳ đặc, tưởng Bổn Tôn Phật với hết thảy Phật, Bồ Tát, Kim Cang, chư Thiên, Chú Thần, Chú Tiên, Long Vương… mỗi mỗi theo thứ tự như Chân Thân (thân chân thật)

Lại ở cửa Tây của Viện thứ Tư, quỳ thẳng lưng, kết Ấn, tụng Chú, chú ấn vào lư hương bảy biến, rồi cầm lư hương thiêu đốt các thứ hương nổi tiếng, tụng Chú. Vì khắp hết thảy tám Bộ Trời Rồng, quốc vương, vương tộc, đại thần, liêu tá (quan lại) với hết thảy sư tăng, cha mẹ đời này đời quá khứ, mười phương Đàn Việt (Dāna-pati: thí chủ), sáu nẻo, Tứ Sanh (các loài sanh theo bốn cách: trứng, thai, ẩm thấp, hóa sanh), hết thảy hữu tình, người đồng tu hành với vì thân của mình… đều thiêu đốt một viên hương.

Chí Tâm tưởng tượng mây hương, thức ăn uống, hết thảy hoa quả… cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, năm Đảnh Luân Vương Bồ Tát, Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát, Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu Bồ Tát, Tồi Toái Đảnh Luân Vương Bồ Tát, Phật Nhãn Bồ Tát, Hội Thông Tam Đảnh Luân Vương Bồ Tát,

Như Lai Hào Tướng Bồ Tát cho đến Như Lai Nha Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát với chư Phật, hết thảy Bồ Tát, hết thảy Kim Cang, hết thảy Thiên Tiên với các quyến thuộc ở Ngoại Viện đều ngồi ở vị trí của mình, như ngay trước mắt, mỗi mỗi như lúc trước như Pháp cúng dường

Lại nên vận Tâm, tưởng mây hương này đến khắp mười phương hết thảy cõi Phật, Bồ Đề Đạo Tràng, mọi loại Pháp Hội… mỗi mỗi cúng dường hết thảy chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, hết thảy Thiên Tiên.

Mây hương như vậy ở mỗi một cõi Phật hóa làm hương, cung điện, lầu gác, đài ao bảy báu, âm thanh vi diệu, mây biển hết thảy Phật Sự cúng dường; mây biến hết thảy hoa báu, hoa Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, hoa Câu Vật Đà, hoa Chiêm Bặc Ca cúng dường; mây biển hết thảy hương bột cúng dường, mây biển hết thảy hương xoa bôi cúng dường, mây biển hết thảy hương đốt cúng dường, mây biển hết thảy báu Đại Ma Ni kỳ đặc cúng dường, mây biển hết thảy mọi loại thức ăn uống Cam Lồ cúng dường; mây biển hết thảy mọi thứ vòng hoa, mão báu, quần áo, Anh Lạc của chư Thiên cúng dường… tràn khắp mười phương Pháp Giới, hết thảy cõi Phật để cúng dường. Với hết thảy hữu tình bị bệnh não, sanh theo bốn cách (tứ sanh) trong sáu đường ở mười phương, hết thảy Địa Ngục, nơi hữu tình chịu khổ… phát ra âm thanh hòa nhã khen ngợi Tam Bảo, tùy nghe tùy được lỉa mọi thứ khổ phải chịu trong các Địa Ngục, mãn Nguyện của chúng sanh, hữu tình bị bệnh khổ được mây hương nhận vào thân thể thì trừ khử được hết thảy bệnh não của thân tâm.

Cúng dường như vậy, ở các niệm tụng cũng thường làm; đảnh lễ chư Phật, hết thảy Bồ Tát, nhiễu quanh Đàn hành Đạo, chắp tay khen ngợi, phát Đại Hoằng Nguyện rồi từ tạ Đức Phật lui ra bên ngoài Đàn.

Người thọ Pháp ấy: các căn đoan chánh tốt đẹp, Tánh lại thuần chánh, phát Tâm Bồ Đề, dùng nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, như Pháp đều cho tỏ bày Sám Hối các tội mười ác, năm nghịch, nghiệp của thân, nghiệp của miệng, nghiệp của ý trong đời quá khứ hiện tại…

Trao truyền Giới Tam Quy. Hỏi rằng: “Các người có quyết định hay học Tạng Pháp bí mật của Nhất Tự Đảnh Luân Vương của chư Phật mà chẳng sanh nghi ngờ chăng?” Nhóm người thọ Pháp này một lúc đáp rằng: “Nay con (tên là…) thề sẽ quyết chí học Tạng Pháp thâm sâu của hết thảy chư Phật, quyết định thành tín, chẳng sanh lo lắng nghi ngờ” (như vậy ba lần hỏi, ba lần đáp)

Lúc đó, A Xà Lê tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú, cầm sợi dây tùy theo người thọ Pháp, kết số gút ở sợi dây Chú (chú sách), một lần Chú một lần kết, đủ 49 gút rồi đem cột buộc trên cánh tay phải của người thọ Pháp, mỗi mỗi như vậy. Nữ thì cột buộc ở cánh tay trái.

Lại dùng Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú chú vào hạt cải trắng, một lần Chú một lần ném lên đảnh đầu của người thọ Pháp, đủ 21 lần hoặc bảy lần.

Lại cho kết Ấn để ấn vai trái, vai phải, dưới cổ họng, trên trái tim, giữa hai lông mày (tam tinh) chân tóc, trên đảnh, sau đảnh, đầu gối trái, đầu gối phải.

Lại tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú chú vào người thọ Pháp 108 biến. Tụng Phật Nhãn Chú chú vào tấm lụa trắng sạch 108 biến cột kín hai mắt của người thọ Pháp. Liền thu lấy hoa bên trong cái mâm bạc. Dạy rằng: “Hai tay như Pháp nâng hoa”

Từ cửa Tây của Đàn, cầm tay dẫn đến cửa Tây của viện thứ năm bên ngoài đứng thắng, dạy phát Đại Nguyện, dùng tay ném rải hoa. Liền cởi bỏ tấm lụa che mắt ra, nói rằng: “Hoa mà ngươi đã ném, rơi trên Đức Phật nào, Bồ Tát nào, Kim Cang nào, Thiên Thần nào, Sứ Giả nào thì hãy nhớ cho kỹ, đừng có quên”. Lại dạy chắp tay cung kính lễ bái.

Pháp của mỗi một Đệ Tử ấy đều như vậy

Nếu có rải hoa ba lần mà chẳng dính vào chư Vị thì chẳng được cởi bỏ tấm lụa, liền tùy đưa người này ra bên ngoài. Đây là người có tội lớn, chẳng hợp vào Đàn, dạy cho người này sám hối hết thảy tội chướng từ vô thủy cho đến đời này.

Các Đệ Tử này rải hoa xong, lại vì họ khải bạch với chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, hàng Thần rồi mới dẫn đi. Dựa theo lúc trước rải hoa, người được hoa dính thì cởi bỏ lụa che mắt ra, người chẳng được hoa dính thì đưa ra ngoài, lại đừng cho vào nhìn thấy Đàn.

Các Đệ Tử ấy đã rải hoa xong, khiến họ xếp hàng ở phía Đông của mặt bên ngoài ở cửa Tây của Đàn, quỳ thẳng lưng, chắp tay một lòng chiêm ngưỡng Đức Phật.

A Xà Lê ấy cũng tự mình y như Pháp phát nguyện, khen ngợi, rải hoa cúng dường xong, sửa sang oai nghi, thống lãnh các Đệ Tử, khải bạch lễ tán rồi đi trước dẫn, một thời nhiễu quanh Đàn hành Đạo, niệm Tâm không có loạn, rồi quay trở lại ngồi ở tòa của mình

_Tiếp theo làm Quán Đảnh. Ở bên ngoài cửa Tây của Đàn làm bốn khuỷu tay, nghiêm sức cái Thủy Đàn Quán Đảnh. Như Pháp kết Giới, treo lục, phan, hoa. Như Pháp an trí một mâm thức ăn uống, bốn góc thắp đèn. Ở ngay Tâm của Đàn này để một cái giường, trải cỏ trang màu trắng khiến người thọ Pháp ngồi Kiết Già ở trên giường.

Lại sai hai người, một người cầm cái dù lọng màu tím che trên đầu A Xà Lê, một người cầm cái dù lọng màu trắng ở trên Thủy Đàn che trên đầu người Quán Đảnh.

A Xà Lê nên tự mình nâng lấy cái hũ nước thơm trước mặt Đức Phật ở trung tâm của Đại Đàn này, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú chú vào hũ nước thơm 108 biến, tồi đi ra bên ngoài Đàn, mỗi mỗi theo thứ tự, hô dẫn Đệ Tử đấn cái Đàn Quán Đảnh nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, dạy ở trên giường, hướng mặt về phương Đông ngồi Kiết Già.

A Xà Lê ấy cũng tự đi lên Đàn, đứng thẳng ở bên cạnh cái giường. Lại hỏi ĐệTử này rằng: “Hoa vừa mới rải, dính ở vị trí trên thân của Đức Phật nào, Bồ Tát nào, Kim Cang nào, chư Thiên nào?”

Đệ Tử đáp rằng: “Hoa dính ở vị trí trên Thân của Đức Phật (tên là…), Bồ Tát (tên là…), Kim Cang (tên là…) hàng Trời (tên là…”

Tùy theo chỗ đáp, dạy làm Ấn của Phật, Bồ Tát, Kim Cang… vốn được hoa đã rải ấy dính vào… ấn trong hoa dính, dạy bảo khiến chí tâm tùy niệm tên gọi của Phật, Bồ Tát, Kim Cang…

A Xà Lê ấy cũng đều vì Đệ Tử, kết Ấn của Phật (…), Bồ Tát (…), Kim Cang (…) ấn vào đảnh đầu của Đệ Tử, tùy tụng Chú của Phật (…), Bồ Tát (…), Kim Cang (…) cùng rưới rót lên đảnh đầu của Đệ Tử ấy. Vì Đệ Tử phát nguyện rằng: “Nguyện cho (người tên là…) này từ nay trở đi, thường được chư Phật, hết thảy Bồ Tát, hết thảy Kim Cang nhiếp thọ gia bị, trừ hết mọi tội dơ bẩn, mau chứng Pháp của Phật (…), Bồ

Tát (…), Kim Cang (…) với Tất Địa tối thượng của Nhất Tự Đảnh Luân Vương”

Quán Đảnh xong, lại dạy rải tán hoa, giải tán Ấn ấy, mặc áo vào Đàn, đảnh lễ tạ Phật rồi quay lại ngồi ở tòa của mình.

Pháp của Đệ Tử khác đều dựa theo điều này. Nếu có vào trong Đàn này, Quán Đảnh, thọ nhận Pháp, được làm các Chú Đại Quán Đảnh A Xà Lê Sư, lại được hết thảy chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Độc Giác, Thanh Văn, chư Thiên, Chú Tiên, Đại Minh Chú Vương thảy đều thấy biết, gia bị ủng hộ. Người này sẽ được thọ nhận địa vị của Bồ Tát cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, rốt ráo chẳng chuyển lùi.

Tiếp theo, đem cái hũ nước thơm ở bốn cửa, bốn góc bên trong bên ngoài, như lúc trước Chú vào, rồi rưới lên đảnh đầu của người Đồng Bạn thì cũng đều trừ hết vô lượng cấu chướng của chúng sanh, được chư Phật hộ trì.

Nếu có người nhìn thấy Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đàn này mà tin tưởng, hướng đến tùy vui, thân thanh khiết, cung kính, nhiễu Đàn, lễ tán….. thời cũng tiêu trừ hết thảy tội chướng với sẽ được vào, nhận hết thảy Pháp Đàn, tức sẽ chẳng bị hết thảy Tỳ Na Dạ Ca, Mỗ Phất Đà Nhứ Ca.. tác sanh chướng não. Bồ Tát mười Địa, bậc Đại Oai Đức cũng chẳng thể hoại, mau khiến thành hướng hết thảy Chú Pháp.

Người đã vào Đàn này, Quán Đảnh, thọ nhận Pháp thì nên tự buông xả thân, thề làm Đệ Tử của hết thảy chư Phật, Đệ Tử của A Xà Lê… thệ nguyện cung kính, cung cấp hầu hạ nơi của chư Phật với A Xà Lê, trước tiên nên cung cấp quần áo tốt cho A Xà Lê.

_Bên ngoài cửa Nam của Đàn, bên cạnh phía Đông của cửa, dựa theo đồng với thuyết bên dưới, như Pháp tu pháp trang điểm Bổ Sắt Trí Ca Hỏa Đàn. A Xà Lê ấy ở phía Đông của Hỏa Đàn, nên chỉnh sửa oai nghi, hướng mặt về phương Đông quỳ ngồi. Nên dùng bơ, mật, Hồ Ma Nhân, bột hương Trầm Thủy, bột hương Bạch Đàn, hương Tô Hợp, hương An Tất, hương Huân Lục, hoa gạo đều phân bằng nhau trộn lại, chú vào bảy biến xong. Trước tiên thỉnh Hỏa Thiên (Agni-deva) ngồi trong lò lửa, dùng tay phải bốc, một lần Chú một lần thiêu đốt, đủ bảy lần xong, liền ở trong Tâm thỉnh rằng: “Đại Hỏa Thiên Thần hãy tạm ra bên ngoài lò ngồi yên ở bên cạnh. Nay muốn cúng dường chư Phật, Bát Nhã Ba La Mật Đa, hết thảy Đảnh Luân Vương Bồ Tát, các hàng Bồ Tát”

Nói lời này xong. Liền thỉnh hết thảy Đảnh Luân Vương Bồ Tát đến ngồi trên hoa sen trong lò lửa. A Xà Lê ấy liền dùng tay trái cầm chày Kim Cang, mỗi mỗi theo thứ tự kêu riêng Đệ Tử đến sát bên trái A Xà Lê, chắp tay, quỳ gối, ngửa lòng bàn tay. Dùng Kim Cang Chử Định Ấn ấn trong tâm lòng bàn tay của Đệ Tử, nên dùng nhóm bơ, mật, hương lúc trước…ḍùng tay phải bốc ném, một lần Chú một lần thiêu đốt, một lần xưng tên của Đệ Tử, đủ bảy lần rồi nói rằng: “Ngươi hãy quay về tòa của mình mà ngồi”

Pháp của Đệ Tử khác đều dựa theo đây, ấn lòng bàn tay, thiêu đốt thức ăn, mỗi mỗi xong rồi, liền kính mời Nhất Tự Đảnh Luân Vương Bồ Tát quay về tòa của mình mà ngồi”

Tiếp theo thỉnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trung tâm Đàn đến ngồi trên hoa sen trong lò lửa. Dựa theo lúc trước một lần Chú một lần thiêu đốt nhóm bơ, mật, hương, đủ 108 biến xong, dựa theo lúc trước kính mời Đức Phật quay về tòa của mình mà ngồi”

Tiếp theo, dựa theo Pháp Thỉnh Triệu lúc trước, mỗi mỗi theo thứ tự thỉnh chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, các Thiên Thần đều kết Bổn Ấn, tụng Bổn Chú. Kết Liên Hoa Ấn mỗi mỗi nghênh đón đến ngồi trong tâm của lò lửa, đều tụng Bổn Chú, một lần Chú một lần thiêu đốt nhóm bơ, mật, hương lúc trước; đủ 108 biến hoặc 21 biến đều thông cúng dường.

Mỗi mỗi theo thứ tự thiêu đốt Hỏa Thực hiến cúng dường xong. Mỗi mỗi tùy làm Bổn Ấn, nghênh thỉnh, đưa tiễn quay về ngồi ở tòa của mình. Như vậy các Vị mỗi mỗi đều theo Pháp nghênh thỉnh, cúng dường, đưa tiễn như lúc trước không có khác

Tiếp theo từ mặt Đông, ở đầu Bắc thỉnh lần thứ nhất, mỗi mỗi cho đến hết vị trí của đầu Nam

Tiếp theo từ mặt Bắc, ở đầu Tây thỉnh lần thứ nhất, mỗi mỗi cho đến hết vị trí của đầu Đông

Tiếp theo từ mặt Nam, ở đầu Đông thỉnh lần thứ nhất, mỗi mỗi cho đến hết vị trí của đầu Tây

Tiếp theo từ mặt Tây, ở đầu Nam thỉnh lần thứ nhất, mỗi mỗi cho đến hết vị trí của đầu Bắc

Pháp của hai viện bên ngoài ấy cũng dựa theo Pháp Thỉnh của Nội Viện này.

Như vậy cúng dường hết thảy Hỏa Thực giáp vòng xong.

Lại, thứ nhất vì quốc vương, vương tộc. Thứ hai vì đại thần, liêu tá (quan lại). Ba là hết thảy sư tăng, cha mẹ quá khứ hiện tại. Bốn là Nghiệp Đạo Minh Quan. Năm là Thí Chủ ở mười phương. Sáu là hết thảy hữu tình bị tám nạn trong ba đường, sanh theo bốn cách (tứ sanh) trong sáu đường ở mười phương Pháp Giới. Như vậy sáu loại nguyên nhân phát sinh ra hành vi động tác (sở vi) thiêu đốt Hỏa Thực cúng dường, đều tùy theo chỗ làm, xưng tên khải bạch, đồng tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú, một lần Chú một lần thiêu đốt, đều 21 biến xong.

A Xà Lê ấy liền lại tự mình thiêu đốt 21 lần với vì chủ nhân của chỗ Đạo Tràng cũng thiêu đốt 21 lần xong. Thời A Xà Lê lại rửa tay sạch sẽ, bưng cầm lư hương thiêu đốt các hương nổi tiếng, chuyển theo bên phải nhiễu quanh Đàn hành Đạo một vòng. Ở trước cửa Tây, chắp tay lễ bái, chí thành tạ ơn là: “Nay hương, hoa, thức ăn uống đã cúng dường… phần lớn chẳng như Pháp nên rất xấu hổ với chư Phật, chúng Thánh” Nói lời này xong, lại lễ bái lần nữa. A Xà Lê ấy tức liền xoay vần kết Ấn trong Đượng Bộ với kết Ấn của chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang… chẳng nên tụng Chú, mỗi mỗi theo thứ tự hiển bày cho Đồ Chúng để làm cúng dường, mọi loại Pháp Sự.

Lại vào Đào Tràng, nhiễu quanh Đàn hành Đạo, mọi loại tán thán, lễ bái, sám hối, rộng phát Hoằng Nguyện xong. A Xà Lê này lại hô gọi Đệ Tử thọ Pháp Quán Đảnh lớn hơn hết, nên dùng tay trái nắm ngón cái phải của Đệ Tử, tụng Phật Nhãn Chú làm Pháp Phiến Để Ca (Śāntika: Tức Tai), thiêu đốt Hỏa Thực 108 lần, khiến cho Đệ Tử thứ nhất thọ Pháp này trừ hết mọi Chướng Lụy, tùy theo hết thảy Pháp Đàn đã làm ấy, tự tại vô ngại, nhận lấy chỗ đã tu làm.

A Xà Lê ấy lại bưng lư hương, thiêu đốt các hương nổi tiếng, nhiễu quanh Đàn hành Đạo, vô lượng tán thán, phát Hoằng Nguyện xong. Ở cửa Tây lễ bái, thưa trình, hổ thẹn đáp ân: “Nay Hội này, làm mọi việc Pháp: hương, hoa, thức ăn uống đều chẳng như Pháp, rất xấu hổ với chúng Thánh. Nguyện xin Đại Từ Bi bố thí, vui vẻ”

Liền kết Giải Ấn chuyển theo bên trái, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, phía sau gia thêm bốn chữ Muộn Già, Muộn Già (MUÑCA MUÑCA). Dựa theo Pháp Thỉnh Triệu lúc trước, thoạt tiên từ Tọa Chủ trong Trung Viện ở tâm Đàn cho đến Ngoại Viện mỗi mỗi đều dùng Bổn Ấn Chú… khải bạch, phát khiển đều quay về cõi của mình (bổn thổ) … giáp vòng hết xong

A Xà Lê ấy, tay cầm cây đuốc lửa dẫn Đệ Tử vào Đàn, mỗi mỗi chỉ bày, nói rằng: “Đây là vị trí tòa ngồi của Phật (…), Bồ Tát (…), Kim Cang (…) Thiên Thần (…)” Mỗi mỗi chỉ bày xong, liền tụng Trừ Đàn Chú 21 biến, tức liền thu gom hết thảy phan, hoa, nhóm vật cúng dường… Dùng bùn loãng sạch chuyển theo bên trái, xoa bôi lau quét đất vẽ Đàn, trước khi mặt trời mọc phải làm cho xong.

_Này Mật Tích Chủ! Đất này được gọi là Kim Thằng Giới Đạo (lối đi giới hạn được giăng bởi sợi dây vàng) do bảy báu hợp thành. Là nơi mà chư Phật cư ngụ diễn nói Đại Pháp, chuyển bánh xe Pháp. Ở đất này dựng lập Phật Đường, tháp… là hơn hết. Nếu người trụ ở trên thì Nghiệp Thọ có hao tổn.

Tài vật bên trong Đàn ấy. A Xà Lê chia làm ba phần, một phần đưa vào Thường Trụ cúng dường chúng Tăng, một phần cấp cho người nghèo hèn đến xin, một phần thì A Xà Lê tự nhận lấy, dùng chép Kinh làm Tượng.

Các thức ăn uống cũng chia làm ba phần, một phần cúng thí chúng Tăng bên ngoài, một phần cho người nghèo hèn đến xin, một phần cho các loài chim thú trên bờ dưới nước. Người vào Đàn này chẳng được ăn thức ăn cúng dường này.

Nếu khi thỉnh gọi, phát khiển thời đều tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, Phật Nhãn Chú…

_Này Mật Tích Chủ! Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này hay chặt đứt Chú khác, hết thảy Tỳ Na Dạ Ca gây chướng ngại đều sợ hãi bỏ chạy hết

Nơi làm Đàn này, vuông tròn 500 Du Thiện Na thì hết thảy Chú khác đều chẳng thành tựu, các Ma, Quỷ, Thần sợ hãi chẳng dám trụ bên trong. Bồ Tát, Chú Thần, hết thảy chư Thiên Chú, Long Vương, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Khẩn Na La, Ca Lâu La, Ma Hô La Già… nhìn thấy người này y theo Pháp thọ trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú thời lễ kính, nhìn khen, tôn trọng như Đức Phật. Thế nên người Trí nên thường tưởng nhớ chư Phật Bồ Tát, Kim Cang… xoa tô Đàn cúng dường.

_Này Mật Tích Chủ! Như vậy tô vẽ hình tượng Phật, hình tượng Bồ Tát, hình tượng Kim Cang cho đến hình tượng của Trời, Rồng, Quỷ, Thần… Đây gọi là Thượng Đàn.

Trung Đàn ấy, số khuỷu tay, viện, vị trí, hết thảy trang nghiêm cũng đều y theo mỗi một thứ tự của lúc trước. Nên dùng phấn của năm thứ hoa làm hoa sen nở rộ, làm tòa hoa của Phật, tòa hoa của Bồ Tát, tòa hoa của Kim Cang cho đến tòa của chư Thiên, Rồng, Thần, Quỷ… đều ở trên đài của mỗi một tòa hoa, trên nhóm Ấn này có đủ

Trung Đàn ấy, số khuỷu tay, viện, vị trí, hết thảy trang nghiêm cũng đều y theo mỗi một thứ tự của lúc trước. Cũng dùng phấn năm màu làm tòa của Đức Phật, tòa của Bồ Tát, tòa của Kim Cang… chỉ làm tòa hoa cho đến tòa của chư Thiên, Rồng, Thần… Ba Đàn như vậy: mọi loại việc Pháp, Pháp Thượng, Pháp Trung, Pháp Hạ, xoa Đàn, thỉnh triệu, hết thảy cúng dường, tụng Chú, hành Đạo đều chuyển theo mặt trời, thành tựu tướng tốt lành.

_Này Mật Tích Chủ! Lại các Pháp Tùy Tâm Cúng Dường Thành Tựu Đàn. Dựa theo lúc trước khải bạch, vuông rộng bốn khuỷu tay, như Pháp dùng bùn xoa lau, chia làm hai viện, vẽ lối đi giới hạn báu, giới hạn rộng ba Thốn (1 dm)

Chia Trung Viện bên trong, vuông rộng hai khuỷu tay. Ngay chính giữa viện vẽ hoa sen nở rộ màu hồng trắng khoảng một khuỷu tay, ở mặt của đài hoa vẽ một Kim Luân bảy báu có 12 căm lớn khoảng một Xích (1/3 m) chung quanh bánh xe có mũi nhọn, giáp vòng vẽ lửa rực. Ở đất của bốn góc đều vẽ cái bình báu Như Ý, lại ở trong miệng bình vẽ cành, lá, hoa, quả.

Chia viện thứ hai nên khộng hai khuỷu tay, tách mở bốn cửa, trừ vị trí của bốn cửa thì chia làm 12 ngăn.

Ngăn phía Nam của cửa Đông, vẽ Thiên Đế Thích Kim Cang Chử Ấn

Ngăn phía Đông của cửa Nam, vẽ Đại Thiên Thần Ấn

Ngăn phía Tây của cửa Nam, vẽ Diêm La Vương Ấn

Ngăn phía Nam của cửa Tây, vẽ La Sát Vương Ấn

Ngăn phía Bắc của cửa Tây, vẽ Long Vương Ấn

Ngăn phía Tây của cửa Bắc, vẽ Phong Thiên Thần Ấn

Ngăn phía Đông của cửa Bắc, vẽ Đa Văn Thiên Vương Ấn

Ngăn phía Bắc của cửa Đông, vẽ Y Thủ La Thiên Ấn

Ngăn ở bốn góc ấy đều vẽ hai chày Kim Cang hình chữ thập giao chéo nhau.

Nhóm Ấn như vậy trên đài hoa sen, như Pháp tô vẽ. Trên các Ấn này vẽ lửa rực nhiễu quanh.

Đất của hai viện này đều tô vẽ đất màu xanh. Chính giữa để tượng Nhất Tự Đảnh Luân Vương, bốn mặt treo bày mọi loại phan, hoa… Đầu bốn góc bên ngoài để bình nước thơm với dùng hoa, hương, hương bột, hương đốt, sữa, cơm gạo tẻ, bơ, mật, lạc… tùy Tâm cúng dường. Ngày ngày y theo Pháp cắt đứt các đàm luận, giữ thân tinh khiết, hộ thân, tụng Chú, cầu đảo, khẩn thành làm Pháp tức mau thành tựu.

_Lại có Pháp. Dùng vải trắng hoặc lụa trắng làm một cái dù lọng (tản cái), bốn bên ở trên đảnh thếp vàng, như Pháp trang nghiêm, lcột buộc đầu cây gậy cao bảy xích (7/3 m) cắm trên tâm Đàn. Mỗi ngày ba thời đốt Trầm Thủy Hương, tụng Chú chú vào cái lọng một ngàn vạn biến cho đến ngày 15, giữ thân tinh khiết gấp đôi, lại làm cúng dường lớn, tay cầm dù lọng, ngồi hướng mặt về phương Đông, tụng Chú đều đều. Chú khiến cho cái dù lọng phóng ra lửa sáng lớn, liền chứng Thần Thông, thọ nhận Na La Bát Để Địa, chứng các Pháp Nghĩa, đến các cõi Phật, trăm ngàn chúng sanh vui vẻ làm bạn. Hết thảy Như Lai, các Đại Bồ Tát cùng chung ca ngợi

_Lại có Pháp. Vào trong núi sâu chọn tìm đất tốt, khải bạch như lúc trước, đào đất, đắp nện sửa trị làm cái Đàn rộng bốn khuỷu tay, nền cao một thốn (1/3 dm) như Pháp xoa mài tô điểm, trên tâm Đàn vẽ hoa sen ngàn cánh bảy báu nở rộ với mặt rộng bốn xích bốn thốn (44/3 dm). Giới hạn bốn viện của Đàn rộng ba thốn (1 dm), vẽ lối đi giới hạn báu, chỉ mở cửa Tây, trên bốn góc đều vẽ viên ngọc báu, giáp vòng bên trên viên ngọc vẽ lửa rực. Mỗi ngày như Pháp tắm gội sạch sẽ mặc quần áo sạch mới, đốt Trầm Thủy Hương hộ thân, kết Giới. Ngồi an lành trên đài hoa, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú mãn một ngàn vạn biến, tức từ trong đất phun vọt lên một ngàn chúng Đại Tiên Thần, khi ấy người trì Chú liền chứng Thần Thông, thân phát ra lửa sáng chiếu năm do tuần, một thời chứng ngộ hết thảy Pháp thâm sâu của năm Phật Đảnh Luân Vương, làm Đại Na La Bát Để, vô lượng Chú Tiên làm bạn, sống lâu một kiếp, biến thân như hàng Trời.

_Lại có Pháp. Tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo sạch mới, dùng cây Tử Đàn hoặc cây Bạch Đàn, hoặc ván quan tài trong rừng Thi Đà, đinh sắt đóng quan tài làm chày Kim Cang ba chia, dùng nước cốt ngũ tịnh của bò ngâm tẩm, rồi mỗi mỗi rửa lau, lại dùng nước hương mỗi mỗi rưới rửa, Chú vào 1008 biến, để trên tâm Đàn, rộng bày cúng dường, bốn bên quanh Đàn để một trăm chén đèn bơ, cúng dường chư Phật, năm Đảnh Luân Vương Bồ Tát. Mỗi ngày sáu thời tắm gội sạch sẽ thay quần áo sạch mới, gia thêm kết Giới, xoay vần Ấn, hộ thân, tay trái cầm tràng hạt, tay phải cầm chày, dựa theo lúc trước ngồi an lành trên đài hoa sen, tịnh Tâm tụng Chú chú vào cái chày, cho đến khi trên chày phóng ra lửa sáng lớn, tức được hết hảy Chú Tiên, chư Thiên, Thần, Rồng, Dược Xoa đều đến lễ lạy ngợi khen, quán nhìn, cung kính, đem đến cõi Trời Sắc Cứu Cánh, dung mạo tự biến ra như Kim Cang Bồ Tát, sống lâu một kiếp, gặp Đức Phật Di Lặc, được nghe Pháp thâm sâu. Nếu khi mạng chung, ưa muốn sanh về hết thảy cõi Phật liền tùy được vãng sanh.

_Lại có Pháp. Dùng cơm gạo tẻ hòa với bơ, lạc… mỗi ngày ba thời, một lần Chú một thiêu đốt, 1008 biến đủ một trăm ngày xong. Lại vào ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, một ngày một đêm không ăn không nói; dùng bơ, mật, lạc… một lần Chú một thiêu đốt, xưng tên Tỳ Sa Môn và tên các Dược Xoa, mãn 1008 biến thì Tỳ Sa Môn Vương với các Dược Xoa liền đều tập hội, đi đến hỏi Hành Giả: “Nay cần việc gì?”. Hành Giả đáp rằng: “Nay tôi muốn hết thảy tài bảo, thuốc sống lâu”, thời các Dược Xoa dùng tay phụng thí, mãn chỗ mong cầu.

_Lại có Pháp. Mỗi ngày ba thời, dùng bột Trầm Thủy Hương hòa với bơ, mật… xưng tên chư Thiên, một lần Chú một thiêu đốt, 1008 biến mãn 21 ngày, liền được chư Thiên âm thầm cung kính, gia hộ.

_Lại có Pháp. Mỗi ngày ba thời, dùng An Tất Hương đập vỡ lớn như trái táo chua, hòa với bơ, mật, lạc… xưng tên Dược Xoa, một lần Chú một thiêu đốt, 1008 biến mãn bảy ngày đêm, liền được hết thảy Dược Xoa âm thầm tự kính phục.

 

CÚNG DƯỜNG THÀNH TỰU PHẨM THỨ CHÍN

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lại quán Đại Chúng, vì Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, nói rằng: “Ta thấy đời này, hết thảy hữu tình, phần nhiều ngoan ngu, thấp kém Tâm tinh tấn ham mọi thứ si mê, giận dữ, ngạo mạn… thấy thấp làm kém, chẳng thể thành tựu Pháp vô thượng này.

Nếu hữu tình có niềm tin trong sạch, thuần thiện, yêu thích Pháp này, phát Tâm Bồ Đề, hạnh thường chân chánh, đủ đại tinh tấn. Nay Ta chỉ vì người này, lược nói oai lực Công Đức thù thắng vô lượng của Nhất Tự Đảnh Luân Vương này, là Đạo Xứ mà các Như Lai, các Đại Bồ Tát, Kim Cang, hàng Trời… đã khen ngợi. Cũng là nơi đã sanh ra Tam Ma Địa Môn của vô lượng chư Phật, hay khiến cho người trì vượt qua hết thảy Ma Giới trong ba cõi. Là sắc thân của Thiên Trung Thiên Như Lai, đập nát hết thảy mọi ác, các Pháp ác của Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, Ngoại Đạo… Tâm phục cung kính. Hết thảy Chú Pháp của chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, chư Thiên điều nhiếp trong đây. Ta ở vô lượng trăm ngàn cu chi Kiếp khen nói Chú này cũng chẳng thể hết được.

Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này. Thời quá khứ, hết thảy Như Lai vì hữu tình kia đã nói Pháp này. Ta cũng từng ở bên cạnh vô lượng trăm ngàn Đức Phật quá khứ, gần gũi nghe nhận được Nhất Tự Đảnh Luân Vương Giáo, do vậy được làm bậc tôn quý trong các Pháp. Nay Ta cũng vì ông, sẽ nói Chú Pháp này.

Này Mật Tích Chủ! Nếu đang có người tinh Tâm, nhớ trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này tức trừ vô lượng tám nạn, không có sợ hãi, phá các quân Ma, diệt các tội nặng.

Lúc trước đã nói Tượng. Tùy vẽ một tượng, dùng bùn Bạch Đàn Hương xoa tô Đàn Tràng, ngày ngày ba thời y theo Pháp tắm gội, mặc áo sạch mới, ba thời tụng Chú, ba thời cúng dường, thường xoay vần kết Ấn tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú mãn 200 vạn, khoảng chừng ba tháng. Vào ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, ở trước tượng này, lập cái Đàn rộng ba khuỷu tay, dùng bùn Bạch Đàn Hương xoa tô mặt Đàn, như Pháp sửa trị, dùng mọi loại bột hương, hương đốt, nước thơm, thức ăn uống, đèn bơ, hoa… xếp bày trên Đàn như Pháp hiến cúng. Chọn ngày mồng một của tháng, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, Phật Nhãn Chú… ba thời đều tụng 1008 biến, đến ngày 15 thì hái hoa Nhạ Để Diên (đất nhà Đường (trung quốc) không có hoa này) ngay trên đảnh đầu của tượng, cột buộc làm dù lọng, gia thêm cúng dường gáp đôi, nhiễu quanh bốn mặt của Đàn, thắp bày một ngàn chén đèn bơ, nhịn ăn không nói, giữ cho thân thể quần áo tinh khiết, kết Kim Cương Tọa, tụng Chú đều đều. Đến cuối đêm thời đột nhiên trong hư không nghe tiếng sấm động, liền hiện ba tướng: một là lọng hoa lay động, hai là thân của tượng vẽ phóng ánh sáng lớn, ba là tượng tự lay động con mắn nhìn ngó. Thấy tướng này xong thì Tâm ước nguyện cầu xin đều viên mãn.

Nếu thường y theo Pháp tinh cần tụng mãn một cu chi số (Tiếng Phạn nói một cu chi (Koṭi), đời Đường nói là một ngàn vạn) mới gọi là Hạ Sĩ, Nghiệp trong sạch thừa sự, cúng dường Đức Phật (Phật Nhân)

Nếu thường y theo Pháp tụng mãn hai cu chi số, mới gọi là Trung Sĩ, gần gũi thừa sự, cúng dường Đức Phật

Nếu thường y theo Pháp tụng mãn ba cu chi số, mới gọi là Thượg Sĩ, gần gũi thừa sự, cúng dường Đức Phật. Chứng trụ Đại Tự Tại Bồ Tát Địa, làm Pháp không có ngăn ngại, sức hay điều phục hết thảy tám Bộ Trời Rồng, Thần, Quỷ

Nếu muốn điều phục Trời, Rồng, Thần thì tụng bốn biến tức đều kính phục, tùy theo ý của người trì Chú.

Nếu muốn chứng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Địa, nên đi đến trên bãi cát ở biển, hoặc trên bãi cát bên sông, tụng Chú ấn Tháp, tháp cao một khuỷu tay, một lần Chú một lần ấn tháp. Tùy ở trước mặt mỗi một cái tháp để hoa, nước thơm, hương đốt.. tụng Chú làm đủ mười cu chi cái tháp, ở cái tháp cuối cùng phóng ánh sáng lớn nhập vào thân của người trì Chú. Ngay lúc đó ba ngàn Đại Thiên: hết thảy Thích, Phạm Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, Lạc Biến Hóa Thiên, Quảng Quả Thiên, Tịnh Cư Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên, với các hàng Trời kèm với Chủng Tộc Thiên đều trụ trong hư không, tuôn mưa hương hoa, mọi loại ca tán… với các Rồng, Thần, Dược Xoa, La Sát, hết thảy Thần Quỷ đều tụ tập, rải hoa cúng dường rồi khen ngợi. Vào lúc này thời hết thảy hữu tinh bị các khổ ở Địa Ngục Hàn Băng đều được ấm áp, hết thảy hữu tình ở Địa Ngục Nhiệt Não đều được mát mẻ. Lúc đó người trì Chú được oai đức lớn, thân chứng Thần Thông, làm Thiên Trung Thiên, thân tướng màu vàng ròng như thanh niên, chứng Đại Trí Tuệ, ở Không Tự Tại làm Đại Na La Bát Để.

Các Đồng Bạn ấy thấy người làm Pháp, đều được theo hầu, vô lượng trăm ngàn chư Thiên, Chú Tiên cùng làm bạn đi theo, đến các cõi Phật tùy Tâm đều đến. Hoặc ở trong cung Thiên Đế Thích, chia tòa cùng ngồi, dung mạo, oai quang, tinh tấn, Trí Tuệ… hết thảy Thiên Nhân không có ai sánh bằng, với chứng Trí Tuệ thâm sâu, phương tiện khéo léo của Bồ Tát, điều phục hữu tình, lại sống lâu vô lượng số kiếp, thấy chư Như Lai ra đời, thấy Thành Đạo.

_Bấy giờ Đức Như Lai lại nói Tụng rằng:

“Kia (Pháp ấy) khó nghĩ bàn: Thiên Nhân kính

Chặt các tham dơ, Tà Kiến Luân

Thân với Trí Tuệ, đại tinh tấn

Sẽ được Thần Thông lợi hữu tình

Thành tựu Thần Thông chứng Phật Địa

Làm Pháp Thắng Tôn trong loài người”

_Này Mật Tích Chủ! Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Thành Tựu Pháp này. Xưa kia, khi Đức Bảo Kế Phật là phàm phu thời thanh khiết thân tâm, chuyên Pháp tu trì được chứng thành tựu. Kim Cang Tràng Phật, Quang Minh Tự Tại Vương Phật. Như vậy quá khứ, hiện tại mười phương hết thảy tên gọi khác, vô lượng vô số hết thảy chư Phật khi còn là phàm phu thời mỗi mỗi siêng năng cần mẫn chuyên tinh tu trì Pháp thành tựu này, đều chứng thành tựu

Lại có Quán Thế Âm Bồ Tát, Bất Động Xứ Bồ Tát, Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát. Như vậy quá khứ, hiện tại mười phương vô lượng hết thảy Đại Bồ Tát khi còn là phàm phu thời thanh khiết thân tâm, tu trì Pháp thành tựu này, đắc được Bồ Đề.

_Này Mật Tích Chủ! Như ông khi xưa ở Nhân Địa, khi gặp Pháp của Kim Cang Tràng Như Lai muốn diệt thời thương xót hữu tình, hay làm pháp khó làm, chịu khó chịu khổ tu thành Phật Nhãn Đại Minh Mẫu Chú. Đời nầy người trì Chú được như ông, kiên cố, tinh tấn, phát Tâm Bồ đề, thương xót hữu tình, tu Nhất Tự Đảnh Luân Vương Thành Tựu Pháp này thì quyết định thành chứng.

Lại Pháp tu riêng. Nên thường đối trước tượng Nhất Tự Đảnh Luân Vương tụng đủ trăm vạn biến, đến ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, gia thêm tắm gội sạch sẽ mặc quần áo sạch mới, một ngày một đêm không ăn không nói, lấy hạt cải trắng hòa với nước, Chú vào 1008 biến, ở trước tượng tán rải vòng khắp tám phương kết làm Đàn Giới. Dùng cơm, thức ăn, nước thơm, hoa, hưng bày biện cúng dường, bốn mặt trên Đàn treo các phan, lọng… dùng Hùng Hoàng tốt để trên tâm hoa sen ở trong Đàn, ngồi hướng mặt về phương Đông, Chú vào Hùng Hoàng này khiến hiện ra ba tướng.

Nếu được tướng ấm áp, tức hay điều phục hết thảy hữu tình

Nếu tượng tướng khói, tức liền chứng được Ẩn Không Đại Tiên

Nếu được tướng ánh sáng thì cầm lấy xoa bôi thân, chứng như thanh niên làm Na La Bát Để, thân tướng màu vàng ròng, cùng làm bạn với các Chú Tiên, thọ mạng một kiếp.

Pháp thành tựu Ngưu Hoàng cũng như vậy.

_Lại có Pháp. Chọn tháng Thần Thông của Phật, vào ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt: một lần đi ra, một lần tắm gội, mặc áo sạch mới, ba thời cúng dường, ba thời sám hối, tụng Chú, phát Nguyện, khải thỉnh chư Phật chuyển bánh xe Đại Pháp. Sáu thời, một thời tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương 1008 biến. Như vậy làm Pháp đến ngày 15 lại gia thêm tinh khiết, một ngày một đêm, không ăn không nói, dùng áo Tăng Già Lê sạch mới, hoặc dùng tích trượng hoặc dùng bình bát, Chú vào 1008 biến để chính giữa Đàn. Lại dùng mọi thứ cơm, thức ăn, hoa, hương bày biện cúng dường, giáp vòng cần kết Giới, ủng hộ nơi thân, ngồi hướng mặt về phương Đông, tụng Chú đều đều, Chú vào áo Tăng Già Lê, khiến hiện ra lửa sáng, người trì Chú thấy xong, đem khoác trên thân, liền chứng Chú Tiên, bay đến cõi Phật, Thần Thông tự tại, hay hiện mọi thân, sống lâu một kiếp.

_Lại có Pháp. Trong tháng Thần Thông của Phật, đi đến bãi cát ở sông, vực…ấn mười vạn cái tháp Phật, mỗi cái tháp cao một khuỷu tay, đến ngày 14 gia thêm Pháp hộ thân. Lại ở trước Tượng rộng bày cúng dường, ngồi trên cái chiếu cỏ tranh, tay phải cầm một cây kiếm mới sạch, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú cho đến khi nghe trong hư không phát ra tiếng Phạm Âm vi diệu khen ngợi. Tượng Đảnh Vương ấy liền phóng ánh sáng lớn chiếu vào thân người trì Chú. Ở trong hư không ấy có vô lượng Thiên nhạc chẳng cần đánh vẫn cùng nhau hòa vang. Thời A Tu La, A Tu La Nữ với các Chú Tiên, chủng tộc của Chú Tiên thảy đều tập hội, khen ngợi vô lượng. Khi ấy người trì chú liền chứng Thân Thông (Thần Thông của thân), làm Kiếm Chú Tiên, Na La Bát Để… mặc y phục của chư Thiên bay đi tự tại, dạo chơi các cõi Phật, sống lâu một kiếp.

_Lại có Pháp. Đi lên đảnh núi cao, trang nghiêm Đàn Giới, treo Tượng hướng mặt về phương Đông, kết Ấn hộ thân, tụng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú chú vào mọi loại quả trái, các thứ thuốc …. dùng làm thức ăn Trai, không được ăn thức ăn uống. Lại tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú chú vào sắt trong rừng Thi Đà, đúc làm bánh xe đầy đủ vành căm. Người đúc bánh xe phải có sáu căn đoan nghiêm. Nếu đúc xong, cùng với một người bạn hiền thiện (thiện bạn) đi đến cửa hang A Tố Lạc Ở cửa hang treo Tượng kết Đàn. Dùng cây Khư Đà la, chặt khúc nhúm lửa, thiêu đốt Hỏa Thực. Dùng hạt cải trắng (bạch giới tử), lá cây Vô Hoạn, dầu Hắc Giới Tử (hạt cải đen) như Pháp hòa chung với nhau. Ngồi trên chiếu cỏ tranh, tay phải cầm bánh xe, một lần Chú một lần thiêu đốt, mãn mười vạn biến, tức phá nát được hết thảy then khóa của cửa A Tố Lạc. Hai mươi vạn biến thời cung điện A Tố Lạc liền bốc lửa lớn. Ba mươi vạn biến thời chúng Đồng Nữ A Tố Lạc tự hiện ra, cung kính bạch rằng: “Đại Trượng Phu! Nay có việc gì mà nguyện vào cung điện? Đồng Bạn ấy cũng đều tùy vào, tùy ý sai khiến”. Khi người trì Chú vào thời đừng dẫn Đồng Bạn theo. Tại sao thế? Vì sợ bị tàn hại.

Nếu đi vào thời tay phải cầm bánh xe, tụng Chú. Vào thẳng trong cung điện làm A Tố Lạc Tôn. Hết thảy tài bảo trong cung điện của A Tố Lạc đều thuộc về người trì Chú. Hết thảy A Tố Lạc, Đại Tiên, A Tố Lạc Đồng Nữ trong hang đều làm người hầu.

Nếu ở Thế Gian dạo chơi, đi, đứng thì thân cũng được như thân a Tố Lạc, sống lau một kiếp. Nếu trụ trong động cũng được sống lâu một Đại Kiếp. Nếu thấy bánh xe của Na La Diên thì nhớ niệm Chú này, cần phá liền phá, cần toàn vẹn liền toàn vẹn.

Xưa kía, ở thời của Đức Phật Ca Diệp Chú Luân Vương trụ trong hang A Tố Lạc, tên là Luân Vương Thủ Chú Tiên, cầm bánh xe ra ngoài dạo chơi. Nay giống như hiện tại cúng dường chư Phật.

_Lại có Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Thành Tựu Pháp. Xưa kia, Ta ở Nhân Địa từng làm đại thương chủ, tên là Lộ Ma, vì thành Chú Tiên mà trải qua nơi có nạn, thương xót Thế Gian, hướng đến các Tỳ Kheo nói Bổn Hạnh của Phật, đi đến bờ biển, cũng đến bờ sông, mỗi mỗi như Pháp ấn tháp Phật cao một khuỷu tay , đủ số một ngàn cái tháp. Ở trước mỗi một cái tháp dùng hoa hương trong sạch phụng hiến cúng dường, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú mãn ba trăm vạn, rời mới dùng sắt trong rừng Thi Đà, khiến thợ đúc tượng có sáu căn đoan nghiêm, thân thể sạch sẽ, dùng sắt này đúc làm bánh xe tám thốn (8/3 dm), vành căm không tỳ vết, vành xe có mũi nhọn bén. Lại dùng nước cốt của phân bò mà ngâm, rửa bánh xe, Chú vào 1008 biến, Chờ đến tháng Thần Thông của Phật, chọn một bạn lành, như Pháp mà làm Pháp chuyên Chú vào bánh xe này mãn một cu chi số, khiến hiện ra đám lửa. Nhìn thấy xong rồi cầm lấy, liền chứng Thân Thông đi trong hư không tự tại, đi đến các cõi phật được đại oai đức, sống lâu một Đại Kiếp, hóa đạo chúng sanh.

Thế nên Mật Tích Chủ! Ông cũng nên biết, đến bên bờ sông lớn như Pháp thanh khiết trang nghiêm các Đàn Tràng, bên trong để tượng Nhất Tự Đảnh Luân Vương, dùng các hoa hương, nên ngày ngày như Pháp tùy theo Tâm cúng dường. Tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú mãn một cu chi số, tức một lần Chú một lần ấn Tháp, đủ sáu trăm cái tháp thì mới có thể làm Pháp.

Chẳng dò hỏi ngày giờ, tìm một Mễ Đả La (Veṭala: Xác chết) đã bỏ đi nhưng thân chi chưa bị hoại, không có vết sẹo. Dùng nước nóng thơm tắmn rửa sạch sẽ, cho mặc quần áo mới sạch, đeo vòng hoa rồi để nằm bên trong Đàn. Lúc đó, người trì Chú kết Giới hộ thân, ngồi Kiết Già, Chú khiến cho ngồi dậy, Tâm dừng sợ hãi, an lành hỏi Mễ Đả La (Veṭala) rằng: “Hãy vì Ta nói việc thiện ác của quá khứ, vị lai, việc của thuốc Tiên được sống lâu, làm Pháp vàng bạc, Pháp An Đát Đà Na, Pháp Na La Bát Để. Hãy vì Ta nói đầy đủ khiến cho Ta hiểu rõ” Người đang trì Chú gia thêm tinh tấn, tụng gấp đôi Chú ấy, chuyên nhất làm Pháp, liền chứng Đại Chuyển Luân Đảnh Na La Bát Để Tam Ma Địa. Mễ Đả La Thần kia tùy làm Sứ Giả hay cho các Nguyện.

_Lại có Pháp. Dùng bột sắt, một lần nhúm bốc một lần Chú rải đầy trong miệng, cho đến 108 biến. Lại Chú vào cái miệng khiến cho lưỡi lè ra hơn một xích (1/3 m), liền cầm lấy dùng con dao cắt cái lưỡi của Mễ Đát La (Veṭala), lấy tay phải cầm nắm, liền biến làm cây kiếm. Lúc đó người trì Chú liền được chứng làm Kiếm Tiên, bay lên đảnh núi Tu Di, hết thảy hàng Trời nhìn thấy đều rất sợ hãi, chịu làm bạn theo hầu. Thiên Đế Thích ấy chia tòa cho ngồi chung, muốn đến cung Trời nào tùy ý. Thường có sáu mươi ngàn cu chi Thiên Chúng trước sau đi theo, các hàng Trời này đều có đại oai đức, thân có ánh sáng rực rỡ. Lại có chư Thiên, Hỏa Thiên, Thiên Vương ưa thích cùng làm bạn. Người chứng như vậy đều do sức oai thần của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú. Dùng Thần Túc Thông, trong giây lát đi đến trăm ngàn cu chi cõi Phật, vui chơi các thứ, cõi Phật đã đến đều chấn động lớn, oai quang rực rỡ chiếu đến hết thảy hữu tình nơi Địa Ngục, kẻ đói khát được ăn uống, kẻ lõa lồ được áo quần, kẻ khổ được vui.

Lại có vô lượng chư Thiên, Thiên Nữ vây quanh ca hát ngợi khen, trăm ngàn đại kiếp dạo chơi các cõi Phật, cúng dường chư Phật. Nếu Thế Giới này bị hoại thời đi đến các cõi Phật khác. Như vậy công chứng vô lượng vô biên, chứng Bồ Tát Địa, lợi cứu giúp hữu tình.

_Lại có Pháp. Dựa theo lúc trước kết Ấn hộ thân, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú mãn 600 vạn, rồi đến bờ sông, ấn tháp Phật cao hai xích tám thốn (28/3 dm), một lần Chú một lần ấn, đủ 1008 cái tháp. Ở trước mỗi một cái tháp đều để hoa hương, tụng Chú cúng dường xong. Lại dựa theo lúc trước, tìm một Mễ Đả La, tắm gội, mặc quần áo, hộ thân, kết Giới, rồi để nằm trong Đàn. Lấy bột bảy báu, một lấn nhúm bốc một lần Chú bỏ đầy trong miệng, đủ 108 biến. Chú khiến cho trong miệng phun ra viên ngọc báu tỏa lửa sáng rực rỡ. Người trì Chú thấy xong, lại kết Ấn gia thêm Pháp ấn vào Thân để hộ thân, cầm lấy viên ngọc báu. Lúc đó liền chứng Đại Na La Bát Để, Uy Đức Chú Tiên, thần thông tự tại, bay đi vui chơi trong các cõi Phật khác, tùy được vô lượng Đại Oai ĐứcTiên đồng làm quyến thuộc, luôn cùng nhau cúng dường hết thảy chư Phật , các Đại Bồ Tát…

_Lại có Pháp. Dựa theo lúc trước, hộ thân, kết Giới và hộ Đồng Bạn. Dùng cháo sữa sạch hòa với bơ, lấy muỗng múc, một lần múc một lần Chú, đổ đầy trong miệng. Lại Chú vào thân của Mễ Đả La khiến tự ngồi dậy, nôn cháo sữa ra, liền lấy đồ bằng đồng hứng lấy. Người trì Chú với Đồng Bạn đều chia một nửa. Ăn cháo sữa xong, liền chứng Thân Thông mà làm Chú Tiên.

_Lại có Pháp. Dùng lòng bàn tay phải che đè trên miệng Mễ Đả La, Chú khiến cho miệng phát ra khí nóng nung nóng bàn tay, liền nắm tay lại làm quyền, lại Chú 1008 biến, sau đó dùng quyền nghĩ đến các hữu tình đều tự điều phục, nhất định không có nghi ngờ. Nếu được miệng phát ra đám lửa tỏa ánh sáng lớn, liền chứng thành Đại Quyền Chú Tiên.

_Lại có Pháp. Đi đến bên bờ ao sen, trì kết Đàn Giới, hướng mặt về phương Tân an trí tượng Đảnh Luân Vương, ngồi Kiết Già ngay trước Tượng, lấy hoa sen hòa với bơ, mật… ở trước Tượng tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, một lần Chú một lần thiêu đốt, mãn 500 vạn thì người trì Chú liền thấy mắt của tượng Đảnh Luân Vương ngó nhìn hoặc tay chân cử động. Người trì Chú liền được tài bảo tự nhiên, sống lâu giàu có, không có khổ, không có lo lắng, trừ các tai nạn. Lại gia thêm tinh tấn, lấy hoa sen xoa bôi hòa với bơ, mật, một lần Chú một lần thiêu đốt, mãn một ngàn vạn, liền chứng Đại Na La Bát Để Tam Ma Địa.

Nếy hay gia thêm gấp đôi, mãn hai ngàn vạn liền chứng Thiệm Bộ Châu Ma Nỗ Sử Đại Na La Bát Để Tam Ma Địa, thực hành mười hạnh tốt lành (thập thiện hạnh)

Nếu lại gia thêm gấp bốn lần, y theo Pháp tác trì sẽ được chứng Thọ Tứ Nỉ Phạ Trung Đại Na La Bát Để Tam Ma Địa, chỗ làm đều thành công.

Pháp như vậy. Nay Ta lược nói, quyết định chẳng nghi ngờ. Xưa kia, Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Chí Bồ Tát, Hư Không Thủ Bồ Tát với Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn… đều ở Nhân Địa khi còn làm phàm phu thời sợ hãi sanh tử, ham tìm Thiện Tri Thức, cầu được Pháp này, y theo Giáo tu tập, thoát các phiền não, nay được nơi đại tự tại như vậy.

_Lúc đó, Đức Như Lai lại nói Tụng là:

“Luân Vương Tối Thượng Chú

Nếu có người chứng thành

Cõi này với cõi khác

Không gì vượt hơn được

Dung mạo với oai lực

Mà chứng nơi tối thượng

Ví như thân Như Lai

Thù đặc không ai hơn

Như Đảnh Luân Chú này

Pháp tương ứng năm Đảnh

Thành chứng vượt hơn hết

Như Lai Bổn Pháp Ấn

Với các Bồ Tát Ấn

Ban cho người đời sau

Thành được Chú Vương này

Ấn không gì bằng này

Đại lực, đại dõng mãnh

Người chứng Pháp thành tựu

Đại dũng, khó nghĩ bàn

Các Bồ Tát mười Địa

Đã nói Pháp Chú Ấn

Nhiếp ngay trong đây, dùng

Cũng tồi phục Thiên Đế Huống chi hữu tình ác

Bày Pháp, chẳng phục sao!?…

Nhóm như vậy làm đầu

Ta nói Pháp thành tựu

Thế nên người thành tựu

Siêng tu như Pháp trì

Nếu chẳng chứng Tất địa

Cũng sẽ lìa Thế Gian

Lý Thú sâu của Phật

Hết thảy các Chú Pháp vô lượng Phật đã nói

Đều từ trong đây, hiện”

 

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lại quán Đại Chúng, bảo Kim Cang Mật Tích Chủ, lại nói Tụng là:

“Xưa kia, chư Phật nói

Bảo Kế Vương Như Lai Trong Kinh đã nói nghĩa

Gom tập giải nói này

Pháp Na La Nhĩ Noa

Xả Phạ La Luyện Già

Chú Pháp Ma Đăng Già

Rộng lược đều nói đủ

Pháp thành của nhóm này

Đừng cho người phá Pháp

Người ngu ngoan Tà Kiến

Chút phần vì họ nói

Kẻ tham lam, sẻn Pháp

Đừng vì họ tuyên nói

Vì sao chẳng nói bày?

Sợ diệt cùng Pháp Môn

_Người nghèo cùng thiếu Pháp

Kẻ chẳng cầu Bồ Đề

Ngủ, nghỉ với đi, đứng

Cũng chẳng ở chung chỗ

_Nếu người ưa thích cầu

Trước cho thọ Tam Muội

Dạy bảo Đàn, Chú Pháp

Pháp tắc của thân, miệng

Pháp Môn quán tưởng Tâm

Mới vì họ giải nói

 

Pháp Luân Vương như vậy

Phật quá khứ dựng lập

Số lượng Pháp Thế Gian

Tô vẽ, các công xảo

Pháp trong Luân Vương Thiên

Mà vì chúng sanh nói

Hết thảy Phật đã nói

Ba loại Pháp Chú Ấn

_Chú Giả (người trì Chú): Trí không sâu

Không hiểu Pháp câu, chữ

Tụng câu văn điên đảo

Tham, sân bí nhiêu hoặc (mê mờ quấy nhiễu sai lệch)

Tỳ Na Dạ Ca quấy

Chê không chứng thành tựu

Tham dính văn tự Chú

Thường ưa giải nói không (Śūnya: trống rỗng)

Chẳng siêng tu tụng trì

Chê không chứng thành tựu

_Người tạp nhạp dơ xấu

Đừng nói, đừng ban cho

Điên đảo dính Pháp chữ (tự Pháp)

Hoại diệt Kinh Giáo này

Người đã cho Pháp này

Chê không chứng thành tựu

_Thế nên với người này

Đừng vọng bày Giáo Pháp

Ham dính Danh, Sắc, Dục

Nguyện chứng gấp Pháp này

Thế Gian vì lợi lớn

Chê không chứng thành tựu

_Lấy gì độ chúng sanh?

Thế Gian chịu mọi khổ

Một mình ở sơn cốc

Vì danh, vì tài lợi

Phát Tâm này, nīệm tụng

Chê không chứng thành tựu

_Phật hủy ba loại Pháp

Thế nên phải hồi Tâm

Vì Pháp, vì chúng sanh

Trụ giữ Pháp tương ứng

Đời có ba Tâm sai

Hết thảy đều Tự Tánh

Nói không có Nhân, Quả

Hết thảy chẳng tu được

Làm sao Chú Vương này

Tu đến Đất Vô Vi

Thế nên quán hai Pháp

Tinh tiến Pháp (Dharma) đồng Nhân (Hetu)

_Lại các loại Thiên Tiên

Người Trí chẳng nên chê

Kẻ không Trí, có lỗi

Người tu tựa ít thành

Chú chân thật, người Trí

Lợi đời chẳng thành Phật

Như vậy Pháp Luân Vương

Ba Tộc thành Loại Phẩm

Kính tế hết thảy Trời

Chẳng quy hướng đảnh lễ

_Pháp Luân Vương như vậy

Nghi Tắc theo thứ tự Như trên đã dạy nói

Người tu đều thọ trì”

 

KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG

QUYỂN THỨ TƯ (Hết)


QUYỂN THỨ NĂM

THẾ THÀNH TỰU PHẨM THỨ MƯỜI

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai ngay lúc đó lại nhập vào trong Nhất Thiết Phật Bất Tư Nghị Đà La Ni Đảnh Pháp Quang Vương Cảnh Giới Thần Biến Tam Ma Địa. Căng Già Sa hết thảy chư Phật ấy đều ở lúc đấy cũng nhập vào trong Nhất Thiết Phật Bất Tư Nghị Đà La Ni Đảnh Pháp Quang Vương Cảnh Giới Thần Biến Tam Ma Địa

Khi ấy, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi lui lại đứng một bên, chiêm ngưỡng Đức Như Lai, mắt chẳng nhìn nơi khác.

Lúc đấy, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai cùng với căng già sa hết thảy Như Lai từ Tam Ma Địa an lành đứng dậy, bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát: “Ông hãy trong sạch nghe cho kỹ! Hết thảy chư Phật, năm Đảnh Luân Vương khác Chú đồng Pháp, hay thành vô lượng oai đức, vô lượng sự nghiệp của nhóm Đảnh Luân Vương Chú, Phật Nhãn Chú. Hay hiện mọi loại chẳng thể nghĩ bàn to lớn, lợi ích chúng sanh. Từ trong một Ấn sanh Ấn khác nhau, thông dụng khác nhau… đều thành tựu vô lượng việc”

NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG CĂN BẢN TÂM ẤN_ CHI MỘT

Hai tay: đem hai ngón trỏ, hai ngón vô danh, hai ngón út, bên phải đè bên trái, cùng cài chéo nhau vào trong lòng bàn tay rồi nắm quyền. Kèm song song hai ngón cái ấy, co đầu ngón vào trong lòng bàn tay, dựng thẳng hai ngón giữa cùng hợp đầu ngón

Một Pháp Ấn này thông hết Pháp thành tựu của các Phật Đảnh. Dùng Ấn ấy khiến cho hết thảy Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, A Tố Lạc, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô La Già, Tỳ Na Dạ Ca ác nhìn thấy xoay vần Ấn này thảy đều sợ hãi bỏ chạy.

Ấn Chú là:

“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) Úm-hồng (3) trác lỗ-hồng (4) bạn đà (5) tốt-phạ ha (6)”

Một Ấn Chú này đủ oai đức lớn. Nếu thường xoay vần kết tự hộ giúp mình, hộ giúp người khác… được an vui lớn, trừ hết mọi khổ, lợi các hữu tình, cũng hay làm đủ Pháp của hết thảy việc.

NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ĐỒNG THỈNH HOÁN ẤN_ CHI HAI

Dựa theo Căn Bản Ấn, chỉ đem đầu hai ngón giữa hơi hơi đưa lên đưa xuống, đưa qua, đưa lại.

Ấn Chú là:

“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) ế hứ duệ hứ (3) bạc già bạn (4) đạt ma la nhạ (5) bả la để xả, ma ma (xưng tên gọi của mình) yết kiệm (6) kiện đà, bổ sáp bả, độ bả, phạ lẫm giả (7) mạn già tị la khất-sái, a bả la để khiếm đả (8) phạ la bá la (9) cật-la ma dã (10) tốt-phạ ha (11)”

 

Một Ấn Chú này, nâng giữ hoa màu trắng, Chú vào ba biến, thỉnh triệu hết thảy Chủng Tộc của chư Phật, năm Đảnh Luân Vương, Bồ Tát tập hội trong Đàn rồi ngồi xuống.

NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG CÚNG DƯỜNG ẤN CHÚ_ CHI BA

Trong đây, Ấn cúng dường dựa theo Cúng Dường Ấn khác mà dùng

“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) ải ma-hồng, kiện đàm (3) bổ sáp phàm, độ phàm (4) phạ lâm, nễ phàm giả (5) bả la để xả (6) ca la, ca la (7) tát phạ bột đà địa sắt sỉ đê (8) đạt ma la nhạ (9) a bả la để khả đá dã (10) tốt-phạ ha (10)”

Một Pháp Chú này. Nếu khi cúng dường thời dùng hương xoa bôi, hương đốt, nước hương, hoa với các thức ăn uống… đều Chú vào ba biến rồi cầm hiến cúng.

NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG THỈNH HOÁN HỎA THIÊN ẤN _ CHI BỐN

Dựa theo Căn Bản Ấn. Chỉ sửa, co hai ngón giữa như thế nửa cái vòng, đầu ngón đừng để dính nhau.

Một Pháp Ấn này, thỉnh gọi Hỏa Thiên để cúng dường. Nếu hiến cúng đều Phát Tống (đưa tiễn) Hỏa Thiên, tức lại duỗī thẳng đầu hai ngón giữa.

Ấn Chú là:

“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) ế hứ duệ hứ (3) đế thiệu ma lý nỉ (4) a khất na duệ (5) tốt-phạ ha (6)”

 

Một Ấn Chú này. Khi thiêu đốt Hỏa Thực thời tụng ba biến. Trước tiên thỉnh Hỏa Thiên thiêu đốt thức ăn cúng dường. Sau đó mới thiêu đốt thức ăn cúng dường chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang với các Chú Thần.

NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG PHÁT KHIỂN HỎA THIÊN ẤN CHÚ _ CHI NĂM

Phát Khiển Ấn này dựa theo Thỉnh Ấn lúc trước mà dùng.

“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) gia hứ, gia hứ (3) đế thiệu ma lý nỉ (4) a khất na duệ (5) tốt-phạ ha (6)”

 

Một Ấn Chú này, Hỏa Thực đã hiến đều hoàn tất xong, tụng 21 biến phát khiển Hỏa Thiên.

THỈNH TRIỆU NGŨ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN CHÚ_ CHI SÁU

Một Chú Ấn này dựa theo Thình Ấn lúc trước mà dùng.

“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) Úm-hồng (3) a bá la nhĩ đả (3) úm-hồng (4) nhập phạ la nhĩ, úm-hồng (5) nhã diệu nga đả, hổ-hồng (6) úm-hồng (7) mỗ phất đà, ninh sách (8) úm-hồng (9) ma ma ma (10) hổ-hồng, ninh (11)” NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA_ OṂ APARĀJITA_ OṂ JVALA ME_ OṂ JAYO-GATA HŪṂ_ OṂ MŪRDHA NIṢAD_ OṂ MAMA HŪṂ NĪḤ

Một Ấn Chú này khải triệu năm Đảnh Luân Vương với hết thảy Phật, Bồ Tát, các Chú Tiên Thần. Cũng thông với dụng của Pháp: xoa bôi hương, rải hoa, thiêu đốt hương cúng dường

TỒI TOÁI ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI BẢY

Dựa theo Căn Bản Ấn. Chỉ sửa co đầu ngón giữa phải trụ ở vạch lóng thứ nhất trên ngón giữa trái, duỗi thẳng đứng ngón giữa trái.

Một Pháp Ấn này cũng gọi là Tịnh Trị Địa Ấn, có sức hay thành tựu hết thảy các việc, kết Giới, hộ thân, sửa trị đất (trị địa), quán đảnh thảy đều thông dụng.

Ấn Chú là:

“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) Úm-hồng (3) nhĩ chỉ la noa (4) độ nẵng, độ nẵng (5) độ (6)”

 

Một Ấn Chú này. Nếu bị Tỳ Na Dạ Ca quấy nhiễu gây chướng ngại thì thường dùng Chú này quán đảnh, hộ thân, kết Giới, kết Đàn, thông dụng cho hết thảy

Nếu làm Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Pháp Đàn. Khi nhà của sạch sẽ thời nên tụng Chú này chú vào Hỏa Thực được thiêu đốt, tro, hạt cải trắng… 108 biến hoà chung với nhau rồi cầm rải tán bốn phương bên trong bên ngoài của nhà cửa để Tịnh Giới. Hoặc dùng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú chú vào nước, tro… rồi chú rải tán khắp. Hoặc dùng Bổn Sở Tụng Trì Thân Chú Tâm Chú chú vào. Lại tụng Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú chú vào bốn cây cọc bằng gỗ Khư Đà La 108 biến rồi đóng ở bốn phương, kết làm Đàn Giới.

NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG TỒI CHƯ ÁC THẦN QUỶ ẤN_ CHI TÁM

Dựa theo Căn Bản Ấn. Chỉ sửa co đầu ngón giữa trái trụ ở vạch lóng thứ nhất trên ngón giữa phải, duỗi thẳng đứng ngón giữa phải ấy.

Một Pháp Ấn này gọi là Nhất Tự Đảnh Luân Vương Tâm Ấn có sức hay điều phục Tỳ Na Dạ Ca gây chướng ngại, các Thần Quỷ ác. Thường xoay vần Ấn này sẽ đập tan các chướng nạn. Quán đảnh, tắm gội thảy đều thông dụng, không có các chướng não.

Ấn Chú là:

“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) tát phạ nhĩ khất na (3) bật khoách sái ca dã (4) đốt lộ nhứ dã (5) tốt-phạ ha (6)”

 

Một Pháp Chú này hay đập nát hết thảy chúng Thần Quỷ ác kèm Chú vào Đồng

Bạn che chở hộ thân, đứng thẳng ở bốn phương bố thí làm Đại Pháp

ĐẠI NAN THẮNG PHẤN NỘ VƯƠNG ẤN_ CHI CHÍN

Dựa theo Căn Bản Ấn. Chỉ sửa, co hai ngón giữa, bên phải đè bên trái, đều dựng đầu ngón đè khoảng giữa ở lưng của ngón tay bên trái bên phải.

Một Pháp Ấn này, nếu thường xoay vần kết thì hay diệt mọi tội, được an ổn lớn, chẳng gặp mộng ác. Đối với Pháp Phiến Để Ca (Śāntika: Tức Tai) thiên về dụng làm cho thù thắng.

Ấn Chú là:

“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) tát phạ đát la, a bả la nhĩ đả dã (3) úm-hồng (4) xả ma dã, xả ma dã (5) phiến để đãn để (6) đạt ma la nhạ (7) bà sử để (8) ma ha bật-địa, tát phạ lạt đà, sa đà ninh (9) tốt-phạ ha (10)”

 

Một Ấn Chú này. Dùng một cái bình sành trắng đựng hai đấu nước thơm, để chính giữa Đàn, Chú vào 1008 biến rồi quán đảnh, tắm gội thân, hay trừ bỏ hết thảy tội cấu, tai ách, Tỳ Na Dạ Ca…. Ngày đêm an ổn, trừ hết mọi mộng ác.

Này Mật Tích Chủ! Đây gọi là lược nói một Ấn sanh ra Ấn sai khác, tùy theo các Pháp mà dùng. Nếu rộng giải nói Pháp của mỗi một Chú lưu bày, Giáo Hạnh tức có vô lượng, không có vay mượn rộng nói. Tại sao thế? Vì Ta ở Bộ khác đã rộng phân biệt năm Đảnh Luân Vương Chú cộng với Pháp của Phật Nhãn Chú với các Chú Pháp. Thế nên nay ở trong đây lược nói Pháp thành tựu Chú của năm Đảnh Luân Vương, dùng sức của Chú Thần chứng nơi giải thoát, là nơi mà hết thảy Phật đã nói cho Phật Tử, nói dùng sức tinh tấn thề làm lợi chúng sanh đang bị mọi thứ khổ, thọ nhận được sự an vui của Thế Gian. Người biết Chú này làm lợi cho chúng sanh, chặt đứt các lưới nghi, siêng năng tinh tấn tu tập, liền chứng thành tựu.

_Này Mật Tích Chủ! Nếu người đang trì Chú này, dùng đại tinh tấn, lâu dài thọ trì Chú mà chẳng thành chứng. Lại nên làm một cái Đàn vuông vức bốn khuỷu tay, như Pháp trét bùn tô điểm.

Ở chính giữa Đàn, vẽ hoa sen bảy báu có ngàn cánh lớn khoảng một khuỷu tay, ở trên đài hoa vẽ bánh xe bảy báu

Lại ở đầu cửa Đông, vẽ Luân Ấn

Tiếp theo đầu cửa Nam, vẽ Tam Kích Xoa Ấn

Tiếp theo đầu cửa Tây, vẽ Long Vương Ấn

Tiếp theo đầu cửa Bắc, vẽ chày Kim Cang ba chia

Tiếp theo, chữ thập cài chéo nhau trong bốn góc vẽ hai Ngũ Cổ Kim Cang Chử Ấn

Dùng cái bình sứ trắng chứa đầy hai đấu nước hương, để trên đài hoa sen ngay tâm Đàn.Ngày ngày dùng Đại Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú chú vào 1008 biến, như Pháp tự cầm, lại Chú bảy biến, rưới rót đảnh đầu, tắm gội thân, Tâm miệng phát Nguyện

Dựa theo Pháp Đại Quán Đảnh lúc trước, phát Nguyện..v.v…

Một ngày thường làm ba lần, mãn 21 ngày hoặc 49 ngày, dựa theo lúc trước trì tụng, liền được hết thảy Tỳ Na Dạ Ca gây chướng ngại, tinh tú ác, tai quái… thảy đều chịu hàng phục, tăng trưởng Phước Đức, mau chứng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Đại Tam Ma Địa.

_Này Mật Tích Chủ! Năm Đảnh Luân Vương này lại có chút ít Pháp, chỉ nhớ tụng trì, kết Như Lai Đảnh Ấn ấn ở trên đảnh đầu, Chú Ấn ba lần liền thành ủng hộ.

Hoặc dùng tro của Hỏa Thực đã được thiêu đốt, hoặc dùng hạt cải trắng… Chú vào bảy biến rồi đội trên đảnh, búi tóc, đeo trên thân cũng thành ủng hộ

Nếu có tai ách, Vọng Lượng, các tật bệnh. Hợp se sợi dây trắng, một lần Chú thì thắt một gút rồi đeo giữ trên thân, cổ liền được trừ diệt.

Nếu ở rừng Thi Đà làm các Pháp thì kết Ấn, tụng Chú 108 biến liền hộ ích cho thân, thực hiện được Pháp đã làm

Nếu Phiến Để ca (Śāntika: Tức Tai) thì dựa theo Pháp bên dưới. Dùng Bơ, một lần Chú một lần thiêu đốt, liền được Pháp thành.

Nếu lấy Phục Tàng (kho tàng được chôn dấu) dùng bơ đã luyện tinh sạch, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến thì lấy không có chướng ngại. Hoặc dùng hạt cải trắng, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến cũng được không có chướng ngại.

Nếu muốn mở cửa của A Tố Lạc. Trước tiên, xoa làm Tùy Tâm Đàn (đàn tùy theo Tâm), đốt hương cúng dường, tụng ba lạc xoa (Tiếng Phạn một Lạc Xoa (Lakṣa), đời Đường nói là mười vạn) khiến then chốt gài cửa của A Tố Lạc bị gãy mở. Lại dùng hạt cải trắng (bạch giới tử), muối bằng nhau, hòa Lỗ Địa La (Rudhira: máu) của thân mình, mỗi ngày ba thời dùng hai ngón tay bốc giữ, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến, mãn 21 ngày, thì cung điện bên trong hang A Tố Lạc đều bốc lửa lớn, chúng A Tố Lạc nữ đều ra cửa hang nghinh đón người trì Chú, ban cho thuốc trường sanh, ban cho cái chày, bánh xe, cây kiếm, Hùng Hoàng, Tất Địa. Hoặc cung kính thỉnh vào trong hang, người trì Chú nếu thấy A Tố Lạc ác nên kết Như Lai Đảnh Ấn, một lần Chú một lần hướng vào A Tô La ấy ném Ấn, mãn bảy biến, thì A Tố Lạc ấy liền mê man té xuống dất.

Lại có Pháp. Thường ăn Đại Mạch, cháo sữa… xoa tô Đàn, tụng Chú mãn ba lạc xoa, tức ở trong mộng biết được thuốc trường sanh, lấy mà ăn.

Lại có Pháp. Vào lúc Nguyệt Thực, xoa tô Đàn, đốt hương. Khi ấy người trì Chú không được nhìn mặt trăng, lấy đồ bằng bạc đựng đầy sữa để ở chính giữa Đàn, chuyên tâm Chú vào sữa đến khi mặt trăng trở lại như cũ, liền cầm lấy, uống vào bụng thì hay trừ hết thảy ách nạn trong thân.

Lại có Pháp. Đến trụ trên đảnh núi, thường ăn cơm sữa, gạo tẻ… ngồi hướng mặt về phương Đông, kết Ấn, tụng Chú mãn ba lạc xoa, rồi ở ba ngày ba đêm không ăn không nói, lấy cây Bồ Đề chặt bằng đầu nhúm lửa. Liền đem mè, bơ, lạc lượng bằng nhau trộn lại. Trong ba ngày ba đêm, một lần Chú một lần thiêu đốt, không dược gián đoạn. Mãn ba ngày đêm khi trời sắp sáng, tức được cát tường tài bảo tự nhiên.

Lại ở trên đảnh núi làm Tùy Tâm Đàn, Ở ngay tâm Đàn để tháp Xá Lợi, thường ở trước tháp, ngồi hướng mặt về phương Đông, mỗi ngày: một lần Chú vào hoa sen thì một lần để trước tháp, mãn một lạc xoa thời hay chuyển người bạc phước, đoản mạng tăng gấp đôi Phước Thọ

Lại có Pháp. Đến ở bên bờ sông, thuần dùng bùn Bạch Đàn Hương bôi trên hoa sen, một lần Chú một lần ném xuống sông, mãn một lạc xoa, cũng trừ hết tội cấu, được Phước lâu xa.

Lại có Pháp. Lấy bạch giới tử trộn với dầu, một ngày ba thời, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến, mãn bảy ngày liền được người khác tự kính phục.

Lại có Pháp. Nếu muốn Tịnh Hạnh Bà La Môn cung kính thán phục thì nên thiêu đốt hoa màu trắng.

Nếu muốn Sát Lợi cung kính yêu phục thì nên thiêu đốt hoa màu vàng.

Nếu muốn người Điền Lợi yêu kính thuận phục thì nên thiêu đốt hoa màu đen.

Nếu muốn sai khiến hàng phục (khiển phục) người ác Tà Kiến thì vỏ trấu của lúa gạo, cây Khổ Đống, thuốc độc … lượng bằng nhau, hòa với nhau. Một lần Chú một lần thiêu đốt, liền được khiển phục.

Nếu phạt người Oán. Dùng hạt cải đen (hắc giới tử), một lần Chú một lần thiêu đốt, liền được tồi phục.

Nếu muốn điều phục Bộ Đa Quỷ, Tất Xá Già Quỷ. Dùng Uất Kim Hương, một lần Chú một lần thiêu đốt, một thời riêng 1008 biến, mãn ba ngày đêm, liền tự kính phục.

Nếu muốn khiển phục Quỷ gây bệnh. Kết Ấn, tụng Chú, sau mỗi biến Chú tụng thêm chữ Phán (PHAṬ)

Nếu người bị vướng trùng độc, thuốc độc…làm cho mê man, lo lắng, đau đớn thì người trì Chú sau mỗi biến lại tụng thêm hai chữ Nhạ Ninh bảy biến, lại gia thêm ba chữ Mạc Ma Ma bảy biến, lại gia thêm chữ Cảo bảy biến, lại gia thêm hai chữ Nhứ Mục bảy biến… như vậy chữ gia thêm chữ đều tụng ngầm sẽ nhiếp cấm nhiếp các độc. Nếu muốn cấm Quỷ, khi Chú lại tụng thêm chữ Để Sắt Xá, Để Sắt Sá (TIṢṬA TIṢṬA), hoặc GIA thêm Ca Nhứ, Ca Nhứ (KAṬA KAṬA), hoặc gia thêm Lạc Cật Sái, Lạc Cật Sái (RAKṢA RAKṢA) liền ngăn cấm bắt thân đứng yên. Nếu gia thêm Luận Đà, Luận Đà (RUDDHA RUDDHA) liền ngăn cấm hơi ở cổ họng của Quỷ chẳng tuôn thông.

Lại có Pháp. Lấy 108 cái lông đuôi của chim công, cột chung lại…Vào lúc Nhật Nguyệt Thực thời xoa tô Đàn an Tượng, nên để lông đuội chim công ở trước tượng, kết Ấn, tụng Chú chú vào lông đuôi chim công, sau khi mặt trời mặt trăng trở lại như cũ thì cầm lấy lông đuôi này, tùy dụng phất phủi thì hay làm hết thảy Pháp Cát Tường. Nếu phất phủi người bị chất độc thì chất độc đần dần được trừ diệt. Nhóm Pháp như vậy tùy theo chỗ làm, tu hết thảy đều thành.

Nếu muốn trị phạt Quỷ Thần gây bệnh. Lấy muối hòa với dầu, một lần Chú một lần thiêu đốt liền trừ được bệnh Quỷ

Lại pháp dùng Cù Ma Di (phân bò) nặn hình tượng Quỷ để ở trước Tượng, cầm cây đao, một lần Chú vào cây đao thì một lần chặt tay, chân, chi tiết của hình Quỷ thì hay khiến cho chi tiết của Quỷ bị đau buốt.

Nếu muốn giàu có, dùng các cây có nhựa trắng, chặt bằng đầu rồi nhúm lửa, Lấy các quả trái, bơ, mật hòa chung với nhau, một lần Chú một lần thiêu đốt, liền như ước nguyện.

Lại có Pháp. Lấy mè trắng hòa với bơ, mật. Một lần Chú một lần thiêu đốt, cũng được như Nguyện.

Lại có Pháp. Lấy có Cốt Lộ chặt một thốn (1/3 dm), một lần Chú một lần thiêu đốt, mãn một lạc xoa, liền chuyển Chánh Nghiệp, tăng thêm Phước Thọ

Lại có Pháp. Dùng bơ, một lần Chú một lần thiêu đốt thì được oai đức lớn

Lại có Pháp. Lấy bơ, sữa hòa chung với nhau. Một lần Chú một lần thiêu đốt thì được đại an ổn.

Lại có Pháp. Lấy bơ, lạc hòa chung với nhau. Một lần Chú một lần thiêu đốt thì được đại tài thực.

Như vậy Hỏa Thực, mỗi ngày ba thời, riêng một thời làm 1008 biến, đều mãn bảy ngày, liền được thành tựu.

_Lại nữa Mật Tích Chủ! Lại có Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp Vương Đại Pháp Lạc Thành Tựu. Ở chỗ có Xá Lợi, hoặc trên đảnh núi cao, đốt hương cúng dường, ngồi hướng mặt về phương Đông, kết Ấn, tụng Chú, mãn ba lạc xoa rồi mới rang hoa gạo (đạo cốc hoa) hòa với bơ, lạc, mật. Ngồi ở trước Tượng, mỗi ngày ba thời, dùng ba ngón tay bốc, một lần Chú một lần thiêu đốt 1008 biến, mãn một lạc xoa, liền đến chỗ có cây tùng, bách trên ngọn núi lớn, ba ngày ba đêm không ăn không nói, ngồi hướng mặt về phương Đông, cột góc áo Cà Sa, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú chú vào, mãn một lạc xoa. Nếu là người đời (tục nhân) thì Chú vào tóc rồi cột lại, mãn một lạc xoa, liền chứng An Đát Đà Na, dạo chơi trong Thế Gian không bị ai thấy.

Lại có Pháp. Đến trụ trên đỉnh núi, ăn Đại Mạch, cháo sữa, thường ngồi Kiết Già hướng mặt về mặt trời, tụng Chú mãn một lạc xoa thì cũng được chứng An Đát Đà Na

Lại có Pháp. Dùng tay trái nắm quyền, Chú mãn một lạc xoa thì chứng Pháp như bên trên.

Lại có Pháp. Nếu lúc Nguyệt Thực, xoa tô Tùy Tâm Đàn, dùng bơ của con bò màu vàng đỏ, đựng đầy trong vật khí bằng đồng đỏ rồi để bên trong Đàn, dùng cây đũa bằng đồng đỏ khuấy bơ đều đều, Chú vào bơ chẳng dứt, khiến hiện ra ba tướng: một là tướng bọt nổi lên, người trì Chú uống vào thì được Đại Văn Trì. Hai là tướng khói, người trì Chú uống vào thì được Đại An Đát Đà Na. Ba là tướng hiện ra ánh sáng, người trì Chú uống vào thì được chứng Thức Thông, hay biết ba đời.

Pháp thành tựu Hùng Hoàng cũng như vậy.

Lại có Pháp. Nơi có tháp Xá Lợi, nơi trên đảnh núi cao, nơi A Lan Nhã, nơi sơn cốc sâu, nơi bên sông, suối ao… tạo làm Pháp bánh xe, Pháp cây kiếm, Pháp cái chày, Pháp cây gậy, Pháp da hươu đen… thảy đều trước tiên Chú vào 1008 biến, rồi mới y theo Pháp làm Pháp, tụng Chú thì đều chứng ba loại Tam Muội Gia Tất Địa như bên trên.

Lại có Pháp. Lấy Mễ Đả La (Veṭala: xác chết) chưa bị hoại, tắm gội sạch sẽ, cho mặc áo sạch mới, đầu đội vòng hoa… xoa tô cái Đàn tám khuỷu tay. Ngay chính giữa Đàn, để Mễ Đả La này nằm ngửa mặt ở đầu Đông. Lại dùng bốn cây cọc gỗ Khư Đà La đóng sâu xuống đất, tức liền cột hai chân, hai tay của Mễ Đả La ở trên bốn cây cọc. Người trì Chú cũng tắm gội sạch sẽ, hộ thân, kết Giới, ăn ba thức ăn màu trắng, cỡi trên trái tim của Mễ Đả La. Trước tiên Chú vào Mễ Đả La ba vạn một ngàn lẻ tám biến. Liền nên đem cháo sữa, một lần múc một lần Chú một lần đổ vào miệng của Mễ Đả La cho đến khi đầy thì ngưng. Chỉ một lòng Chú vào Mễ Đả La này khiến tự động ngồi dậy, miệng phun cháo sữa ra. Người trì Chú thấy xong, cầm cái chén bằng đồng đỏ hứng lấy rồi tự ăn, liền chứng Chú Tiên.

Nếu Chú vào bột vàng đổ vào miệng Mễ Đả La. Như lúc trước, Chú vào đến khi lay động,miệng phun ra hết thảy báu, vật dụng trang nghiêm thì cầm lấy, đeo đội cũng chứng Chú Tiên.

Nếu Chú vào bột sắt đổ vào miệng Mễ Đả La. Như lúc trước, Chú vào đến khi lay động, miệng phun ra cây kiếm, cấm lấy thì cũng chứng Kiếm Tiên

Nếu Chú vào hạt cải trắng, bỏ vào miệng Mễ Đả La. Như lúc trước, Chú vào đến khi lay động, miệng phun ra Anh Lạc thì cầm lấy, đeo đội liền chứng Chú Tiên

Nếu Chú vào mè, bỏ vào miệng Mễ Đả La. Như lúc trước, Chú vào đến khi lay động, khiến nói Nhất Tự Đảnh Luân Tam Ma Địa Môn. Lại dùng tay chận trên miệng Mễ Đả La, Như lúc trước, Chú vào, khiến hiện ra ba tướng. Một là tướng tự nói, hỏi việc mong cầu liền vì mình nói. Hai là tướng khởi động, ưa thích làm Sứ Giả. Ba là miệng phát ra ánh sáng, người trì Chú cỡi lên, đều bay lên hư không.

_Lại nữa, Mật Tích Chủ! Năm Đảnh Luân Vương này lại có Pháp đồng thành thuốc là điều mà chư Phật nói, dùng chút công sức liền được thành tựu.

Nên dùng ba vật: hoa Yết Nễ Ca La, hoa sen, Tu Tố Lỗ Đán Nhạ… lượng bằng nhau, hòa chung rồi đâm giã thành bột, lấy nước hòa chung làm thành viên, chứa đầy trong cái hộp bằng bạc. Vào lúc Nhật Nguyệt Thực thời xoa tô cái Đàn hai khuỷu tay, an Tượng ở tâm Đàn rồi để cái hộp ở trước Tượng. Chú vào hộp thuốc này khiến hiện ra ba tướng. Nếu được tướng ấm áp, lấy đeo vào liền hai điều phục hết thảy loài người.

Nếu được tướng khói, lấy đeo vào liền chứng An Đát Đà Na. Nếu được tướng ánh sáng, lấy đeo vào liền chứng Chú Tiên trrong Thế Gian.

Nếu nghe tiếng sấm, tiếng sét đánh, hoặc tượng động đậy thì gọi là được chứng Hạ Phẩm Tất Địa

Nếu thấy tướng ác thì sửa lại, tu Hỏa Pháp. Mỗi ngày ba thời, dùng bơ, hoa sen, hoa lúa gạo hòa chung với ngau, dùng ngón tay bốc, một lần Chú một lần thiêu đốt, một thời 1008 biến, mãn bảy ngày, lại dựa theo Pháp lúc trước, nân ấn tháp Phật, mãn một lạc xoa cái tháp, liền tăng thêm Phước, chư Thần ủng hộ, được thành tựu lớn.

Nếu khi làm Pháp mà nghe thấy tiếng của loài trùng Cật Lý Ca La Sai, tiếng hót hay của chim Gia Ca thì vào Đàn làm Pháp, liền được thành tựu.

Nếu tụng biến Chú, thường nối tiếp quy mạng, mỗi mỗi tụng trì, hồi thí cho hữu tình sẽ được nhóm Tối Thượng Chứng Đại Phước Tụ

Nếu có hữu tình ngu dốt, ít Phước. Trong ba ngàn ngày, tụng trì Pháp này, chịu vô lượng gian khổ thì mới được thành tựu

Thế nên người tu Pháp này, tin tưởng tinh ròng, một lòng trong sạch giữ Giới Hạnh, tắm gội sạch sẽ, chẳng làm Pháp tạp, chỉ trì Pháp này để cầu Phật Quả, cứu giúp chúng sanh, tức được quả Phước, chứng Địa tối thượng. Thường được hàng Đại Phạm Thiên Vương, Thiên Đế Thích với các Đại Thiên, bậc Đại Oai Đức âm thầm ủng hộ trong mộng

Nếu có người trì Chú chẳng y theo Giáo này, Chú như dân ngu hèn kém trong Thế Gian, chẳng y theo Phương Thư (sách vở ghi chép phương thuật, y thuật) làm thuốc trường sanh, tự mình ăn uống để cầu sống lâu thì trở ngược bị chết yểu, diệt thân.

Lại như người thợ hợp luyện vàng bạc mà không hiểu Pháp độ của âm dương, treo tượng… Lại chẳng y theo Giáo Pháp, chẳng kín đáo làm Pháp thì cũng không có chỗ thành tựu, bị kẻ khác mưu hại.

Lại như người lấy Phục Tàng mà chẳng y theo phương pháp, tiết lộ Pháp ra bên ngoài, tức bị Quỷ Thần, Quốc vương, người ác… hãm hại mà chết.

Này Mật Tích Chủ! Pháp này cũng lại như vậy. Nếu có người hay y theo Giáo, phương pháp, phát Tâm Bồ Đề, đọc tụng, thọ trì, nghe thật kỹ rồi suy nghĩ, tu tậpṭức được Thắng Phước, hết thảy thành tựu. Tại sao vậy? Vì Pháp này dùng Văn Trí, Tín Trí, Tư Trí, Tu Trí, Chân Trí, Trì Trí…được chứng thành này. Thế nên Pháp này, Ta đã rộng lược nên vì hữu tình nói Pháp Giáo này.

 

HỘ PHÁP PHẨM THỨ MƯỜI MỘT

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại quán Hội Chúng, rồi bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “ Ở đời này, có nhiều hữu tình: tinh tấn hèn kém, tu học hèn kém, ngã mạn, tà mạn, sân, si… đủ mọi trói buộc, tham lam, ganh ghét, lười biếng, tà mạng. Bên ngoài mặc áo quần oai nghi, bước đi chậm chạm, bày tướng hiền thiện nhưng bên trong không có cái thấy chân chánh (chân kiến), chẳng y theo Luật Tạng, Tâm không có xấu hổ, thường nói nịnh nọt nghiêng vẹo, ham đắm danh lợi, bị Ma nhiễu hoặc, chỉ nói Đoạn Kiến, trống rỗng (śūnya: Không), không có Pháp… Như hữu tình này, ý như vậy, nghiệp như vậy, ngày đêm như vậy. Tuy bỏ ra nhiều công, cực khổ thọ trì các Chú nhưng vĩnh viễn không có chứng nghiệm. Nay ta vì hữu tình có Ma Nghiệp này, phá nghiệp đen (Hắc Nghiệp), nói Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú của chư Phật xưa kia, để khiến cho lợi ích các hữu tình, được chứng tối thượng. Nếu có người hay tinh Tâm, mỗi ngày ba thời thọ nhận trì tụng, tức được phá diệt hết thảy chướng nạn, nghiệp nhà của Ma”.

Lúc đó, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát vui mừng hớn hở, lễ hai bàn chân của Đức Phật, khom mình, đứng phía trước, dùng Kệ bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Cứu Thế Đại Giác Chủ

Nơi người Trí cung kính

Nay con nguyện vui nghe

Nan Thắng Phấn Nộ Chú

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ông hãy khéo nghĩ nhớ! Nay Ta liền nói Đại Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú là:

1_Na mô lạt đát-na đát-la gia dã

2_Na mạc tát phạ bột đà

3_Bồ địa tát đắc-phế mịch

4_Đát địa nễ tha

5_Nhĩ nê, nhĩ nê

6_Nhĩ na phạ lợi

7_Đả đà nga lợi sai nhạ đê

8_Tát phạ bột đà ninh sái nhĩ đế

9_A mộ kỳ, a bả la để khả đê

10_A bá la nhĩ đê

11_Nhĩ la nê

12_Nhĩ nga đả bà duệ

13_ Nhĩ ma lê

14_Nặc nễ-nại la tắc-la mễ

15_Bà phạ để duệ ca nhĩ lệ

16_Na dĩ đê

17_Nỗ la địa nga mê

18_Tát-để duệ

19_Ninh la củ lê

20_Ma la phạ la

21_ Nhĩ na xả ninh

22_Xá chỉ dã mỗ nê

23_Tắc đế nhạ sa

24_Phạ lệ nẵng mị lý duệ noa

25_Lạc khất sái, lạc khất sái, ma-hồng

26_Sai bả lý phạ lâm

27_Tát phạ nặc

28_Tát phạ ca lâm

29_La nhạ chú lô na cá

30_Cận-nhương xả ninh

31_Mật quật nễ tăng hà nha khất-la

32_Sai tắc lý bả

33_Nỉ phạ kiện thát phạ

34_Nại nga dược khất sái

35_La khất sái sai

36_Bỉ-điệt lý, Tỉ xá giả, bộ đa, bát tắc ma la

37_Bố đả na, ca nhứ bố đả na

38_Ca khu phất nộ tắc đả la ca

39_Mê đá la cật-lý tả, yết ma noa

40_Mạn đát-la diệu nga

41_Chú phất noa diệu nga

42_Noa khẩn nễ-diệu thiệu khả la

43_Tát phạ bà dã

44_Nột sắt trụ

45_Bát nại-la mộ bát tát vũ

46_Bà dã tế biều

47_Na mô tốt đổ, bà già miệt để-dã

48_Ô nại la tị thận-nê

49_Hứ lý hứ lý

50_Lạt tát-na củ la sai

51_Ma thất-lý đê 52_Nhĩ lý nhĩ lý

53_A ca xả đà đổ, vũ giả lệ

54_Xí lý, xí lý

55_Tát phạ đả đà nga đá lý dã

56_Thất la phạ ca, lăng ca la, bộ đê

57_Nê nhĩ tư gia lý dã

58_Một-la khả ma, đả đà nga đá

59_Nỗ nga đê nhĩ thấp-phạ chấn để-gia

60_Phạ la bà la cật-la mê

61_Na mộ bà già phạ đát, bà la nhĩ đê

62_Lạc khất sái, lạc khất sái, ma ma (xưng tên của mình)

63_Đà la ni kiện nhạ tả

64_Bát mại-la vũ

66_Bà gia tế mịch

67_Tốt-phạ ha

Này Mật Tích Chủ! Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú này hay phá hết thảy Ma Vương, chúng Ma. Hay tăng sức đại oai đức dõng mãnh, hay giữ Chú Lực Tam Ma

Địa. Ông cần nên biết

NAN THẮNG PHẤN NỘ VƯƠNG TÂM CHÚ:

1_Na mạc táp đá nam

2_Tam miểu tam bột đà nam

3_Tát thất la phạ ca tăng khả nam

4_Tát phạ mê la bà gia để đá nam

5_Nhĩ bả thủy nặc tắc đế nhạ sa

6_Lật-địa giả thủy xí nẵng tắc đát đà

7_Nhĩ thấp-phạ bộ bả-la thận-hoại gia nê phạ

8_Cật-la khuất tôn na

9_Phạ lệ nẵng giả

10_Ca na ca mỗ nê

11_Thủy khất-sái gia

12_Ca thủy dã bả tả

13_Ngộ thỉ la, bỉ xá chỉ dã tăng khả tả

14_ Mị lý duệ noa

15_Tốt phạ tất để, bà phạ đổ, ma ma (Xưng tên của mình)

16_Đà la ni, kiện nhạ tỉ-dã

17_Tát phạ tát đỏa-phạ nan giả

18_Tát phạ bà diệu, bát nại-la mễ mịch

19_Đát địa nễ tha

20_Nhạ duệ, nhĩ nhạ duệ

21_Nhạ diễn để, nhĩ nhạ diễn để

22_A nhĩ, nhĩ đán, nhạ duệ, nhạ diễn đê

23_A nhĩ đê, a bá la nhĩ đê

24_Ma la tế nhương

25_Bả-la mạt na ninh duệ

26_Tốt phạ ha

Khi Đức Như Lai nói Chú này thời ba ngàn Đại Thiên, Đại Địa, các cung điện của Ma… một thời đều chấn động lớn theo sáu cách

Lúc đó, Đức Như Lai bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Chú này là đều mà Ta đã nói, xưng tán Công Đức mười lực, Thần Thông của bảy Đức Phật vì khiến cho lợi ích hữu tình ở các cõi (chư hữu) thọ trì thành tựu Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú với các Chú… khiến trong sạch như Pháp, viết chép, đeo đội trên cổ, cánh tay, đảnh đầu… liền mau thành chứng, Chú Thần thích hợp đi theo vây quanh hộ niệm

Nếu có đi đến chỗ trong sạch, chẳng trong sạch thì nên trước tiên tụng Nan

Thắng Phấn Nộ Vương Tâm Chú này ba biến, tức thường chẳng bị hết thảy Thiên

Ma, Sa Môn, Bà La Môn…làm cho não loạn

Nếu Dược Xoa, La Sát, Tỳ Na Dạ Ca, Tị Xá Già Quỷ, Cưu Bàn Trà Quỷ, các Thần Quỷ ác… nếu có khởi Tâm chẳng phục, trái ngược với Chú của Tâm này, liền chẳng được vào thành của Tỳ Sa Môn, tức đã trái nghịch với Kim Cang Chủng Tộc và Chủng Tộc của mình.

Thế nên Mật Tích Chủ! Phấn Nộ Vương Tâm Chú này có oai đức lớn, hay thành hộ vệ hết thảy sự nghiệp, chư Phật Bồ Tát thảy đều tùy vui.

 

CHỨNG HỌC PHÁP PHẨM THỨ MƯỜI HAI

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy biết hết thảy hữu tình trong Pháp Giới bị Vô Minh che lấp bền chắc, cấu chướng trói buộc, chia cắt chẳng tận, lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ta vì hết thảy Bí Sô, Bí Sô Ni, Tín Nam, Tín Nữ…… trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Ấn Chú chẳng thể nghĩ bàn này, ưa muốn thành tựu, nói nơi tu hành Môn Tam Muội Gia. Nên đều giữ gìn Giới thanh tịnh, phát Tâm Bồ Đề, thỉnh A Xà Lê, làm Đàn thọ nhận Pháp, quán đảnh truyền Pháp, trong sạch như Pháp tu hành đầy đủ căn lành, y theo Thiện Tri Thức nhớ tu sáu niệm, phương tiện khéo léo, quán biết Chân Như Thật Pháp, Pháp Giới như Tánh của hư không, vào Bát Nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, không có hai, không có hai Hạnh, tâm chẳng phóng dật, miệng chẳng nói dối, thường chẳng hung bạo, sân não, ngã mạn cùng với chê bai diễu cợt… Nói hữu tình học theo cảnh giới Pháp Hạnh của chư Phật Bồ Tát ba đời, khéo hiểu phân biệt tùy vui tu tập, chẳng tiếc thân mạng, xa lìa nhân gian, trụ A Lan Nhã mỗi ngày ba thời, phát Tâm Bồ Đề quy Phật, Pháp, Tăng…như Pháp tự thề thọ nhận Bồ Tát Giới, nhớ giữ chẳng quên, như chỗ đã nghe mà tu tập, suy nghĩ nghĩa của Pháp, tu bốn Nhiếp Pháp… xoa bôi lau quét tháp Phật, xoa tô Đàn cúng dường, phát Tâm siêng năng tinh tấn, tâm miệng hợp một, trong ngoài thanh tịnh, trụ tướng không có trụ (vô trụ tướng).Thường khiêm hạ cúng kính Hòa Thượng, A Xà Lê, Đồng Học. Thương xót hữu tình, hiểu rõ nghĩa bí mật, Pháp Môn thâm sâu. Luôn ưa thích tinh tấn tế độ hữu tình, trụ ở Phật Đạo. Tương ứng như vậy liền được chứng thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp. Ở đời đương lai, được thân màu vàng ròng, đủ tướng tốt đặc biệt không thể nghĩ bàn. Thuần dùng bảy báu, khuyên tai, vòng, xuyến, mão hoa, Anh Lạc… để trang sức. Thân tướng tỏa ánh sáng vượt hơn trăm ngàn mặt trời, che lấp mọi tướng đều chẳng hiện ra được.

Này Mật Tích Chủ! Như vậy chứng thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp, mọi người thấy đều rất vui vẻ, như cây Như Ý viên mãn điều ưa thích.

Lại nữa Mật Tích Chủ! Nếu có Bồ Tát chứng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp này, Tâm ưa thích biến hóa các thức ăn ngon đẹp của cõi Trời, tuôn mưa bố thí cho hết thảy hữu tình ở Địa Ngục tức đều viên mãn, cũng thỏa mãn được ý vui thích của Thế Gian. Nếu có người phát Tâm vì các hữu tình, tu thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp thì Bồ Tát mười Địa cũng chẳng thể gây chướng ngại.

Này Mật Tích Chủ! Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp này của Ta là Chú hơn hết ở trong các Chú. Nếu người thành tựu thì thảy đều viên mãn vạn hạnh của Bồ Tát. Hết thảy mười nghiệp nặng, tất cả tội dơ bẩn, báo ứng ở Địa Ngục thảy đều trừ diệt. Được các Thần Thông, trong khoảng sát na liền dạo đến khắp cõi Trời A Ca Ni Tra (Sắc Cứu Cánh Thiên) hành Bồ Tát Hạnh, được hết thảy Phật, Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn, chư Thiên vui nhìn khen ngợi.

Nếu muốn dạo đến vô lượng vô biên hết thảy Thế Giới, dẫn lối hóa độ chúng sinh, tùy theo ngôn âm của họ, nói các Pháp. Cũng đều dạo đến vô lượng vô biên mọi loại Thế Giới, tùy theo Thế Giới đó hiện mọi loại thân đều được đoan nghiêm tốt đẹp,

tùy theo hình loại, ngôn từ hay đẹp ấy… thảy đều viên mãn Lúc đó, Đức Như Lai lại nói Tụng là:

“Người thành tựu Đảnh Luân Vương Pháp

Tướng tốt hơn hẳn Na La Thiên

Các Chú Tiên, hàng Trời đại oai

Tay đều cầm kiếm như sen xanh

Đánh nhau, bay đi như mây chuyển

Oai quang sáng rực chiếu Không Thiên

Nếu gặp Đảnh Luân Pháp Chú Nhân (người trì Chú Pháp Đảnh Luân)

Trong Tâm liền phục, tự cúi đầu”

_Này Mật Tích Chủ! Nay Ta lại vì hết thảy người trì Chú, lược nói nơi thành tựu của ba loại đất. Một là Thượng Địa, hai là Trung Địa, ba là Hạ Địa. Nơi sạch sẽ, chẳng sạch sẽ, ba đất như vậy đều lại có ba thứ, người Trí khéo biết.

Nói Thượng Địa. Ấy là trên Trời có ba Thắng Địa thành Thượng Tất Địa

Nói Trung Địa là bờ sông lớn, bờ biển, trong núi. Ba đất như vậy thành Trung Tất Địa.

Nói Hạ Địa là ở suối ao lớn có hoa sen, ở rừng có nhiều hoa quả, ở rừng Thi Đà. Ba đất như vậy thành Hạ Tất Địa.

Hết thảy Chú Pháp cũng nói như vậy. Nếu xứ có quốc vương ác, nơi có nhiều nạn giặc cướp, nơi có đồng bạn tạp ác, nơi đói khát… đều chẳng thể ở chung, tu trì làm Pháp

Nơi Pháp tu trị lại có ba thời chẳng thể tu tập, nên khéo phân biệt để biết. Một là lúc cực nóng, hai là lúc mưa lũ, ba là lúc cực lạnh… chẳng ở Thời này tu trị Đại Pháp

Ngày tu trị Pháp lại có ba thời, nên khéo phân biệt để biết. Một là từ canh năm đến khi trời sáng, hai là từ giờ Ngọ đến giờ Mùi của ngày, ba là từ giờ Dậu đến giờ Hợi của đêm. Trong Thời như vậy, tụng niệm làm Pháp đều được viên mãn.

 

HỘ MA ĐÀN PHẨM THỨ MƯỜI BA

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Có ba Mật Pháp nên khéo phân biệt để biết. Nếu chẳng hiểu biết Pháp đã niệm tụng tức chẳng thành chứng. Ấy là Pháp Hỏa Đàn, Pháp , Pháp thiêu đối Thời Thực. Nói ba Pháp này đều riêng có ba Pháp chẳng đồng nhất, nếu đồng nhất tức sanh tai họa. Khi dùng lò thiêu đốt để làm Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca (Abhicāruka: Hàng Phục) thì chẳng làm Pháp Bổ Sắt Chi Ca (Puṣṭika: Tăng Ích), Pháp Phiến Để Ca (Śāntika: Tức Tai). Tại sao thế? Vì như thuốc độc chẳng được chứ đầy sữa ngon ngọt, nếu chứa đầy trong sữa thì sữa cũng tùy theo chất độc. Thế nên nói là ba.

_Phiến Để Ca (Śāntika): Hỏa Đàn vuông vức khoảng bốn khuỷu tay, hoặc ba khuỷu tay. Như Pháp dùng bùn xoa lau, ở chính giữa Đàn đào lò hầm tròn trịa, sâu 16 ngón tay, rộng 32 ngón tay. Ngay dưới đáy lò lại làm cái đài bằng đất cao khoảng bốn ngón tay, lại có thể ở mặt Đàn dùng bùn nặn đắp bánh xe có góc, đùm, 12 cây căm, cao khoảng một ngón tay. Dùng bùn đất màu vàng trắng như Pháp làm lò. Ở cửa Đông của Đàn vẽ bánh xe vàng 12 căm, cửa Nam vẽ cây Tam Kích Xoa, cửa Tây vẽ Long Sách Ấn (sợi dây Rồng), cửa Bắc vẽ Kim Cang Chử Ấn (chày Kim Cang), bốn góc đều vẽ hai chày Kim Cang giao chéo nhau thành hình chữ Thập.

Bắt đầu từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, tắm gội sạch sẽ, mặc áo trắng sạch, chỉ ăn cơm, sữa, cháo sữa, cháo lạc, dứt hẳn ngôn luận, Tâm trong sạch yên lặng, trong Đàn tụng niệm đến khi mặt trời lặn, ở mặt Nam của lò của Đàn trải cái chiếu cỏ tranh, ngồi hướng mặt về phương Bắc. Dùng cây có chất ngọt (mật mộc), cây bách, cây dâu, cây Cấu (cấu mộc)… các cây như vậy, tùy lấy một cây cũng được thông, dài một gang tay, chặt bằng hai đầu, dùng bơ, mật trộn lại bôi vào hai đầu, mỗi mỗi Chú vào rồi xếp chồng chất vuông vức trong lò, như Pháp nhúm lửa.

Lại dùng Thanh Khoa (lúa mì), Đại Mạch, Tiểu Mạch, gạo tẻ, mè đen đều phân bằng nhau, hòa với bơ, sữa, lạc. Ngày ngày ba thời, một lần Chú một lần thiêu đốt, mãn nửa tháng, hoặc mãn một tháng, liền được trừ diệt hết thảy tội chướng, hết thảy tai ách, Phước Mạng tăng tuổi thọ, hết thảy an ổn. Hết thảy tinh tú ác, biến quái, tướng chẳng tốt lành trong Thế Gian cũng đều diệt tan.

Ban đêm, khi mặt trời lặn là lúc chúng Tịnh Cư Thiên đi xuống dạo chơi ở cõi này tập hội, ưa thích thành tựu Pháp an ổn của Thế Gian. Như vậy làm Pháp, mỗi khi muốn kịp, thời dùng bùn lỏng của đất trắng sạch xoa lau khắp lò

_Pháp Bố Sắt Trí Ca (Puṣṭika). Dựa theo Pháp Phiến Để Ca lúc trước, làm Đàn, vẽ Ấn. Chỉ sửa lò, hầm vuông tròn hai khuỷu tay, sâu cũng hai hai khuỷu tay. Đài đất trong hầm tròn rộng một khuỷu tay, cao hai ngón tay. Trên mặt Đàn dùng bùn nặn đắp hoa sen tám cánh với đài, hoa, lá này đều khiến rõ ràng. Dùng bùn đất màu vàng đỏ như Pháp xoa lau.

Bắt đầu từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, giữ thân trong sạch, mặc áo trắng sạch, ăn ba loại thức ăn màu trắng, dứt các đàm luận, trong Đàn niệm tụng đến khi mặt trời mọc, trụ ở phía Tây của lò Đàn, hướng mặt về phương Đông ngồi yên trên cái chiếu cỏ tranh, phát Tâm vui vẻ.

Dùng cây có chất ngọt (mật mộc), cây Cấu (cấu mộc), cây dâu, cây bách…dài một gang tay, chặt bằng hai đầu; dùng bơ, mật, sữa, lạc hòa chung với nhau rồi bôi vào hai đầu, mỗi mỗi trì Chú vào rồi xếp chồng chất vuông vức trong lò, như Pháp nhúm lửa.

Nấu cơm gạo tẻ với mè đen… hai nhóm bằng nhau. Đem hòa chung với bơ, mật, lạc, sữa… một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến, mãn bảy ngày hoặc mãn nửa tháng hoặc mãn một tháng. Như vậy làm Pháp, liền được thành tựu cát tường giàu có. Khi mặt trời mọc thì chư Thiên cát tường đi xuống dạo chơi ở cõi này, khi vui vẻ tập họp thời ưa thích thành tựu Pháp cầu giàu có của Thế Gian. Như vậy làm Pháp, mỗi khi muốn kịp thời dùng bùn đất màu vàng đỏ xoa lau lò sạch sẽ

Lại dùng cây Ma La, hoặc cây Phong Hương, hoặc cây bách. Ngày ngày ba thời chẻ ra nhúm lửa. Chặt cỏ Cốt Lộ hòa với Uất Kim Hương và bơ, mật… thiêu đốt Hỏa Thực làm Bổ Sắt Chi Ca (Puṣṭika: Tăng Ích), cầu giàu có lớn với mọi Pháp thiện. Lại dùng cây A La Xa, chặt bằng nhau nhúm lửa; nên dùng mè đen, bơ, mật, hạt cải trắng (bạch giới tử) hòa chung với nhau, thiêu chú Hỏa Thực, cũng được thành tựu ba loại Pháp.

_Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca (Abhicāruka: Hàng Phục). Bắt đầu từ ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, hoặc ngày 14, 15 của kỳ Hắc Nguyệt, mặc áo màu đỏ xanh, tô làm Hỏa Đàn hình tam giác khoảng ba khuỷu tay, đào sâu xuống đất một khuỷu tay, một góc chỉ về phía Đông, một góc chỉ về phía Tây, một góc chỉ về phía Nam.

Thần (cái môi ?cái miệng) trên Đàn ấy khiến rộng ba ngón tay, Thần cao hai ngón tay, ở đày hầm dùng bùn nặn đắp cái đầu của Tam Kích Xoa, cao ba ngón tay, đấu nhọn chỉ về phía Nam. Dùng bùn đất màu đen xoa lau vòng khắp. Đến giờ Ngọ trong ngày, lúc nửa đêm thời trụ ở mặt Bắc của Đàn, chân trái đạp trên chân phải, ngay thẳng thân ngồi xổm, chau mày trợn mắt, giận dữ tụng Chú.

Dùng cây táo chua, cây Khổ Đống dài một gang tay, chặt vuốt nhọn đầu, rồi xếp chồng chất thành hình tam giác ở trong lò của Đàn. Lại dùng hoa có mùi hôi, hạt cải đen (hắc giới tử), vỏ trấu, muối, A Tát La Kế Xả… hòa chung với Lỗ Địa La (Rudhira:máu) của thân mình, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến, mỗi thời đều như vậy, mãn ba ngày hoặc mãn bảy ngày, tức thân của nhóm Thần Quỷ ác gây chướng ngại kia bị tai vạ bệnh tật , chi tiết đau buốt, hoặc thân bị tai nạn… nên ẩn mất chẳng thể gây chướng não.

Như vậy làm Pháp. Nếu vì thân của mình, tham cầu tài bảo, tức chẳng thành tựu, sẽ bị đọa vào Địa Ngục A Tỳ (Avīci).

Giờ Ngọ, lúc nửa đêm mới là giờ mà các Dược Xoa, La Sát ác du hành tụ tập, vui nguyện thành tựu hết thảy Pháp điều phục kẻ khác của Thế Gian. Như vậy làm Pháp, mỗi khi muốn kịp thời dùng bùn đất màu đen xoa lau khắp Đàn.

_Này Mật Tích Chủ! Tháng giêng, tháng hai, tháng tư, tháng tám, tháng chín, tháng mười hai (Lạp Nguyệt). Nhóm tháng này, vào ngày mồng một cho đến ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt thời ngày Sóc (ngày mồng một) là tốt, nên cầu Đại Pháp ắt quyết định thành tựu.

Tháng giêng, phần lớn có các nạn thời làm Pháp Trung Thượng. Nếu có sấm chớp tương ứng hiện tướng thì quyết định mau chứng thành tựu.

Tháng hai có nạn về gió. Làm Pháp an ổn, có tướng gió lớn

Tháng tư có nạn về mưa. Làm Pháp Hàng Phục, có tướng mưa lớn

Tháng tám, tháng chín không có nóng lạnh thời làm Pháp Phú Nhiêu (cầu giàu có), sẽ có tướng của nạn sấm chớp, sét đánh

Chỉ ở tháng mười hai (Lạp Nguyệt) làm Pháp cầu xin thì không có tướng của các nạn

Các nạn như vậy đều là tướng Thượng Thành

_Sáu kỳ Bạch Nguyệt này, từ ngày mồng một đến ngày 15, nên khiến tu pháp Phiến Để Ca (Tức Tai), pháp Bổ Sắt Trí Ca (Tăng Ích) thì hết thảy thành tựu việc Nguyện vô thượng.

Sáu kỳ Hắc Nguyệt này, từ ngày mồng một đến ngày 15, cũng làm pháp Bổ Sắt Trí Ca (Tăng Ích), Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca (Hàng Phục) thì hết thảy thành tựu việc Pháp nguyện cầu

Hai Pháp như vậy. Nếu lúc Quỷ Tú (Puṣya) trực nhật, hoặc lúc Nguyệt Thực thời như Pháp dựng lập tu tập sẽ được thành tối thượng. Chỉ có lúc Nhật Thực thời thông cả Thượng Trung Hạ, làm Pháp thành tựu

Làm Pháp như vậy đều dùng ngày mồng một, ngày mồng ba, hoặc ngày mồng năm, hoặc ngày mồng tám, hoặc ngày 13, hoặc ngày 15 của hai kỳ Bạch Nguyệt, Hắc Nguyệt… đều tu các vật, thành tựu việc Pháp (pháp sự)

Nếu làm Pháp thành tựu mãnh lợi thì trở lại y theo lúc Tú Diệu mãnh lợi mà làm. Hoặc dựa theo Pháp Tướng của ba việc mà làm. Pháp Phẩm của ba việc thành tựu ấy đều như Bổn Pháp chỉ truyền Thời Phần.

Tháng giêng, tháng hai là đầu mùa Xuân, là Thượng Vũ Sơ Tiết (Tiết đầu của mùa mưa). Nên ở lúc này làm pháp của hết thảy việc Thượng Trung

Tháng ba, tháng tư là lúc sau mùa Xuân đến mùa Hạ, là Thượng Vũ Trung Tiết (Tiết giữa của mùa mưa). Nên ở lúc này làm Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca (Hàng Phục). Tháng năm, tháng sáu là lúc nóng bức giữa mùa Hạ, là Thượng Vũ Hạ Tiết (Tiết cuối của mùa mưa). Người cần thiết muốn thành thì tu Pháp Hạ Thành

Tháng bảy, tháng tám là lúc cuối mùa Hạ đến mùa Thu, là Hậu Vũ Trung Tiết (Tiết giữa sau mùa mưa). Nên ở lúc này làm Pháp Phiến Để Ca (Tức Tai)

Tháng chín, tháng mười là lúc cuối mùa Thu đến đầu mùa Đông, là Đông Thượng Tiết (Tiết đầu của mùa Đông). Nên ở lúc này làm Pháp Bổ Sắt Trí Ca (Tăng Ích).

Như vậy các Thời của Xuân, Hạ, Thu, Đông nên thích hợp thành tựu ba loại Tất Địa, đều phân biệt chín Phẩm Thượng Trung Hạ.

Ban đêm có ba thời: đầu đêm là Hạ Thời, tướng đầu đêm hiện là Hạ Thành Tựu. Giữa đêm là Trung Thời, tướng giữa đêm hiện là Trung Thành Tựu. Sau đêm là Thượng Thời, tướng sau đêm hiện là Thượng Thành Tựu. Ở đầu đêm thời làm Pháp Phiến Để Ca (Tức Tai), ở giữa đêm thời làm Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca (Hàng Phục), ở sau đêm thời làm Pháp Bổ Sắt Trí Ca (Tăng Ích)

Như ba thời này, phân biệt chín Phẩm để biết loại Pháp tương ứng với Thời Tiết ấy. Ba thời này chia ra việc Thượng Trung Hạ của Pháp Tướng đã nói. Chỉ có lúc Nhật Nguyệt Thực thời tu các việc Pháp chẳng xem xét Thời Tiết.

Nếu ưa thích Pháp của việc thành tựu mãnh lợi với Pháp của việc A Tỳ Thác Lỗ Ca (Hàng Phục). Vào lúc Nhật Nguyệt Thực, như Pháp làm sẽ được Thượng Tương Ứng.

Phàm Pháp bắt đầu ra công nguyện cầu thành tựu, đều khiến một ngày, hai ngày, ba ngày chẳng ăn chẳng nói. Thượng Trung Hạ ấy tu Pháp Tất Địa. Ở loại ngày trong 12 tháng nên biết ngày 1 đến ngày 15 của mỗi kỳ Bạch Nguyệt thì làm Phiến Để Ca, Bổ Sắt Trí Ca, Pháp của hết thảy việc thành tựu giải thoát. Từ ngày 1 đến ngày 15 trong mỗi kỳ Hắc Nguyệt làm Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca Hàng Điều Phục.

Nếu có tai nạn thì chẳng nên đợi Thời, tùy theo việc làm Pháp cũng được trừ khỏi.

_Này Mật Tích Chủ! Thượng Trung Hạ này: lúc nên làm Pháp, lúc chẳng nên làm Pháp. Người trì Chú khéo biết liền được thành, hiện Tất Địa của ba loại Pháp.

Thế nên Mật Tích Chủ! Nếu người đang trì Chú, thành tựu Pháp bí mật của Nhất Tự Đảnh Luân Vương thì nên thường dùng cây Phong Hương, cây có chất ngọt (Mật Hương), cây Bách, cây Đàn chặt ngang bằng rồi nhúm lửa. Lấy mè hòa với nhóm bơ, sữa…ngày ngày ba thời đốt cúng dường, tức được Chú Thần vui vẻ ủng hộ, ban cho ba loại Tất Địa.

Này Mật Tích Chủ! Như vậy, người được chứng ba loại Tất Địa. Dùng thân, khẩu, ý, như Pháp Giới Tánh, Tánh chẳng biến đổi, như như bất động, tu tập Luật Pháp, Tụng Pháp, Hỏa Pháp… tức được chứng ba loại Tất Địa: một là Tất Địa trên Trời, hai là Tất Địa trong hư không, ba là Tất Địa trên mặt đất. Chứng ba Địa này tùy theo Thượng Trung Hạ… Pháp đã tu trì được Pháp Nguyện Tài

Này Mật Tích Chủ! Nếu muốn thành tựu hết thảy Chú Pháp, nên khởi Chánh Kiến Từ Bi hết thảy, cúng dường chư Phật, không ở nơi Thế Pháp cầu Đạo vô thượng, thiên về công ấn Tháp tức mau thành tựu, chứng ba loại Tất Địa, đời này đời tăng thêm phước thiện đầy đủ, nơi sanh ra thường nhận được Phước Lạc

Lại nữa Mật Tích Chủ! Chú Vương Chú này là vô lượng vô số tên gọi giống nhau, tên gọi khác nhau ở thời quá khứ. Hết thảy Như Lai lúc còn là Phàm Phu đồng được chứng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Vô Thượng Bồ Đề Tam Ma Địa Pháp này, thành Đẳng Chánh Giác (Samyaksaṃbuddha). Ta cũng chứng thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Vô Thượng Bồ Đề Tam Ma Địa Pháp này, thành Đẳng Chánh Giác (Samyaksaṃbuddha)”

_Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại dùng Phật Nhãn quán sát vô lượng vô biên hết thảy cõi Phật, ân cần ba lần bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Chú Bộ khác của Ta đã nói Luật Pháp, Thành Pháp, Tác Pháp, Cố Pháp, Quả Pháp, Đàn Pháp, Hỏa Pháp… ở trong Pháp này tùy ý lấy dùng. Pháp Kim Cang Bộ thành tựu của Quân

Trà Lợi này với Pháp của Phật Bộ, Pháp của Quán Thế Âm Bộ, Pháp của Kim Cang Tạng Bồ Tát Bộ… nói Pháp Ấn Chú đều tùy ý lấy dùng. Do sức của Chú ấy mà Tỳ Na Dạ Ca chẳng thể gây chướng não. Hết thảy Ấn Pháp, Bật Địa (Siddhi: thành tựu), Đả Ma (đánh Ma) của Kim Cang Chủng Tộc thì cũng ở Bộ này mà tùy ý lấy dùng.

Này Mật Tích Chủ! Chính vì thế cho nên người trì Chú chẳng nên ăn hành, tỏi, hẹ, dầu, la bặc (củ cải), Địa Phì. Các món ăn hôi, thức ăn dơ uế, thức ăn để qua đêm… thì cũng không được ăn, nếu ăn tức chẳng chứng thành Tất Địa Nghiệm Pháp

Nhóm Pháp như vậy, lược nói chút ít. Nếu Ta trụ một Kiếp rộng diễn giải nói thì ở trong chút phần cũng chẳng thể cùng tận. Tại sao thế? Vì nơi của Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề mà Ta vốn đã chứng được, cũng là nơi mà hết thảy Như Lai quá khứ đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề

Thế nên Mật Tích Chủ! Giả sử chư Như Lai, hàng Bồ Tát Ma Ha Tát trụ trăm ngàn ức kiếp, dùng mọi loại phương tiện nói chút ít phần của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Tam Ma Địa Chú Pháp này thì cũng chẳng hết được

Nếu đang có người được Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp Vương này, như Pháp tu hành, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường thì từ đời này cho đến Bồ Đề, rốt ráo chẳng bị lùi chuyển. Nên biết người này đã sớm ở đời quá khứ gom chứa tư lương, căn lành Bồ Đề. Do Nhân Duyên này, thế nên nay được viên mãn đầy đủ Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp Vương này

Thời Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, các Đại Bồ Tát, chúng Đại Bí Sô, chư Thiên, Chú Tiên, Rồng, Thần, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô La Già với hết thảy Người, hàng Phi Nhân ở Thế Gian… một thời nghe Đức Phật nói Kinh này xong, đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG

_QUYỂN THỨ NĂM (Hết)_

Hiệu chỉnh một Bộ gồm 5 quyển xong vào ngày 11/10/2013