SỐ 246
KINH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
Dịch Phạn ra Hán: Tam tạng Sa-môn Bất Không
Dịch Hán ra Việt: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: TỰA

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở trong núi Thứu phong, thuộc thành Vương xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba môn không, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi.

Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo-ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số Đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn sạch phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn Nhiếp pháp làm lợi ích chúng sinh, đem bốn Tâm vô lượng che trùm tất cả, thấu suốt ba Minh, chứng đắc năm Thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn thế gian, thâm nhập duyên sinh, Không, Vô tướng, Vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với

Pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sinh, với bốn Vô ngại giảng nói không sợ sệt, với mười Lực diệu trí, tiếng giảng pháp như sấm động, gần gũi Tam-muội Kim cang vô đẳng đẳng. Các vị ấy đều có đầy đủ các công đức như vậy.

Lại có vô lượng chúng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả đều thấy Thánh đế.

Lại có vô lượng vị tu hạnh Thất hiền, Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, tám Thắng xứ, mười Biến xứ, mười sáu Tâm hành, hướng đến bốn Đế hiện quán.

Lại có mười sáu đại quốc vương: vua Ba-tư-nặc… mỗi vị có biết bao ngàn vạn quyến thuộc tùy tùng.

Lại có sáu vị Thiên vương cõi Dục: Thích Đề-hoàn Nhân… cùng vô lượng Thiên tử quyến thuộc tùy tùng.

Có bốn Tĩnh tự thiên ở cõi Sắc: các Đại Phạm vương… với vô lượng Thiên tử quyến thuộc tùy tùng.

Có vô lượng hữu tình biến hóa của các cõi như A-tu-la… và rất nhiều quyến thuộc tùy tùng.

Lại có trăm ức tòa Sư tử biến hiện ở cõi tịnh khắp mười phương. Đức Phật ngồi trên tòa ấy giảng nói điều cốt lõi của pháp. Trước mỗi tòa hiện một đóa hoa, trăm ức đóa hoa ấy được trang hoàng bằng những vật quý báu. Trên mỗi đóa hoa có vô lượng hóa Phật, vô lượng Bồ-tát, vô lượng bốn chúng và tám bộ. Chư Phật ở trong đó đều giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa, lần lượt lưu bố khắp hằng sa cõi chư Phật ở mười phương.

Tất cả các đại chúng đến như vậy đều lạy sát hai chân Đức Phật rồi lui ngồi qua một bên.

Bấy giờ vào ngày mồng tám tháng giêng, Đức Thế Tôn nhập Tam-ma-địa đại tịch tĩnh diệu. Các lỗ chân lông trên thân Ngài phóng ánh sáng lớn chiếu khắp hằng sa cõi Phật ở mười phương. Khi ấy, vô lượng chư Thiên ở cõi Dục mưa các loại hoa đẹp. Chư Thiên cõi Sắc cũng mưa hoa trời đủ các màu sắc xen lẫn với nhau rất là đẹp mắt. Cõi Vô sắc mưa các hoa thơm, mùi thơm như Tu-di, hoa như bánh xe, như mây bủa xuống che khắp đại chúng và Phật, làm thế giới chấn động sáu cách.

Bấy giờ đại chúng nói với nhau:

–Trước đây Đại Giác Thế Tôn vì chúng ta đã nói Ma-ha Bátnhã ba-la-mật-đa, Kim cang Bát-nhã ba-la-mật-đa, Thiên vương vấn Bát-nhã ba-la-mật-đa, Đại phẩm đẳng vô lượng vô số Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hôm nay Như Lai phóng ánh sáng lớn như vậy là do nguyên nhân gì?

Khi ấy, vua Ba-tư-nặc nước Thất-la-phiệt suy nghĩ: “Hôm nay Đức Phật hiện tướng hy hữu như vậy, chắc chắn là có mưa pháp làm cho tất cả đều được lợi ích an lạc.”

Thế rồi vua hỏi các Ưu-bà-tắc Bảo Cái, Vô Cấu Xứng…, các Đại Thanh văn Xá-lợi-phất, Tu-bồ-đề…, các Đại Bồ-tát Di-lặc, Sư Tử Hống…:

–Điều Như Lai biểu hiện là tướng của điềm lành gì?

Khi ấy các đại chúng không ai trả lời được. Nương sức oai thần của Phật, vua Ba-tư-nặc… trổi vang âm nhạc, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc đều tấu lên vô lượng các kỹ nhạc trời, tiếng nhạc vang khắp cả tam thiên đại thiên thế giới.

Bấy giờ, Thế Tôn lại phóng vô lượng vô số ánh sáng. Ánh sáng ấy đủ cả màu sắc lẫn lộn. Trong mỗi vầng ánh sáng hiện lên hoa sen báu, mỗi hoa có ngàn cánh làm bằng vàng ròng và có hóa Phật ngồi ở trên giảng nói điều cốt yếu của pháp. Ánh sáng của Phật chiếu khắp hằng hà sa cõi Phật trong mười phương, vì có nhân duyên nên hiện lên như vậy.

Trong cõi Phật ở các phương khác: phương Đông có Đại Bồtát Phổ Quang, phương Đông nam có Đại Bồ-tát Liên Hoa Thủ, phương Nam có Đại Bồ-tát Ly Ưu, phương Tây nam có Đại Bồ-tát Quang Minh, phương Tây có Đại Bồ-tát Hành Tuệ, phương Tây bắc có Đại Bồ-tát Bảo Thắng, phương Bắc có Đại Bồ-tát Thắng Thọ, phương Đông bắc có Đại Bồ-tát Ly Trần, phương trên có Đại Bồtát Hỷ Thọ, phương dưới có Đại Bồ-tát Liên Hoa Thắng, đều cùng vô lượng trăm ngàn ức Đại Bồ-tát đồng đến đây, đem đủ loại hương thơm, rải đủ loại hoa, trổi vô lượng âm nhạc để cúng dường Như Lai và đảnh lễ sát hai chân Ngài rồi im lặng lui qua một bên, ngồi chắp tay cung kính, nhất tâm chiêm ngưỡng Đức Phật.

 

Phẩm 2: QUÁN NHƯ LAI

Bấy giờ, Thế Tôn ra khỏi Tam-muội, ngồi nơi tòa Sư tử, dạy đại chúng:

–Ta biết mười sáu vị đại quốc vương đều nghĩ như vầy: “Thế Tôn đại Bi làm cho tất cả đều được lợi ích an lạc. Các vua chúng ta phải giữ gìn đất nước như thế nào?”. Này thiện nam, trước tiên vì các Đại Bồ-tát, ta sẽ nói về việc giữ gìn quả Phật, giữ gìn hạnh Thập địa. Các ông phải lắng nghe cho rõ, lắng nghe cho thật kỹ, ghi nhớ đúng về việc ấy.

Nghe Đức Phật nói như vậy, cả đại chúng, vua Ba-tư-nặc… đều cùng nhau khen ngợi:

–Lành thay, lành thay!

Rồi rải vô lượng hoa báu thơm đẹp, hoa ấy biến thành lọng báu ở giữa hư không, che khắp cả đại chúng và che khắp mọi nơi.

Khi ấy, vua Ba-tư-nặc đứng dậy đảnh lễ sát chân Đức Phật, chắp tay quỳ thẳng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát giữ gìn quả Phật như thế nào? Giữ gìn hạnh Thập địa như thế nào?

Đức Phật dạy vua Ba-tư-nặc:

–Giữ gìn quả Phật là Đại Bồ-tát nên trụ như vầy: giáo hóa tất cả loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và hóa sinh, không quán sắc tướng, không quán sắc, như thọ, tưởng, hành thức. Ngã, nhân, thường, lạc, ngã, tịnh, bốn Nhiếp, sáu Độ, hai Đế, bốn Đế, Lực, Vô úy… tất cả các hạnh cho đến Bồ-tát, Như Lai cũng đều như vậy, không quán tưởng, không quán Như. Vì sao? Vì tánh của các pháp là chân thật, nó không đến không đi, không sinh không diệt, đồng đẳng với chân tế, pháp tánh không có hai, không riêng biệt, như hư không, tướng uẩn xứ giới không có ngã, không có ngã sở. Đó là Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vua Ba-tư-nặc thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu tánh của Bồ-tát và chúng sinh không có hai thì Bồ-tát lấy tướng gì để giáo hóa chúng sinh?

Phật dạy:

–Này đại vương! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thường, lạc, ngã, tịnh. Pháp tánh không trụ vào sắc, không trụ vào phi sắc. Thọ, tưởng, hành, thức là thường, lạc, ngã, tịnh; không trụ vào tịnh, cũng không trụ vào phi tịnh. Vì sao? Vì tánh của các pháp đều là không, do thế đế, do ba giả mà có. Tất cả hữu tình và pháp uẩn, xứ, giới, tạo phước, chẳng phải phước, hạnh bất động…, do nhân quả mà có thì các hạnh của Thánh hiền Tam thừa đã tu cho đến quả Phật đều nói là có. Sáu mươi hai kiến cũng gọi là có.

Này đại vương! Nếu chấp trước vào danh tướng để phân biệt các pháp, hành quả của sáu cõi, bốn sinh, ba thừa tức là không thấy được thật tánh của các pháp.

Vua Ba-tư-nặc thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thật tánh của các pháp là thanh tịnh, bình đẳng, phi hữu, phi vô. Vậy trí quán chiếu như thế nào?

Phật dạy:

–Này đại vương! Trí quán chiếu thật tánh phi hữu phi vô. Vì sao? Vì pháp tánh là không; tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mười hai xứ, mười tám giới, sáu cảnh giới của phàm phu, mười hai nhân duyên, hai Đế, bốn Đế, tất cả đều không. Các pháp ấy thoạt sinh thoạt diệt, thoạt có thoạt không, trong từng sát-na từng sát-na cũng như vậy. Vì sao? Vì trong một niệm có chín mươi sát-na. Mỗi sát-na trải qua chín trăm lần sinh diệt. Vì các pháp hữu vi đều là không. Nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu nên chiếu thấy tất cả các pháp đều không, nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, vô thủy không, cứu cánh không, tán không, bản tánh không, tự tướng không, tất cả pháp không, Bát-nhã ba-la-mật-đa không, nhân không, quả Phật không, không không cho nên không. Các pháp hữu vi do pháp tập hợp nên có, thọ tập hợp nên có, danh tập hợp nên có, nhân tập hợp nên có, quả tập hợp nên có, sáu cõi có, mười Địa nên có, quả Phật có, tất cả đều có.

Này thiện nam! Nếu Bồ-tát trụ tướng của pháp mà có tướng ngã, tướng nhân, hữu tình, tri kiến là trụ vào thế gian, tức chẳng phải Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không. Nếu đối với các pháp mà đắc bất động, không sinh không diệt, vô tướng, không vô tướng thì không nên khởi kiến chấp. Vì sao? Vì tất cả pháp đều là Như. Phật, Pháp, Tăng cũng Như. Trong một niệm đầu tiên khi Thánh trí hiện tiền thì có đầy đủ tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật-đa, gọi là địa Hoan hỷ, sạch các chướng, chuyên chở sự giải thoát, gọi là thừa. Khi tướng động diệt thì gọi là định Kim cang, tướng lễ bình đẳng thì gọi là trí Nhất thiết trí.

Này đại vương! Văn tự, chương cú của Bát-nhã ba-la-mật-đa này trăm Đức Phật, ngàn Đức Phật, trăm ngàn vạn ức Đức Phật đều cùng nói. Nếu có người đem hằng hà sa bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, làm cho tất cả hữu tình trong đại thiên thế giới đều chứng quả A-la-hán, không bằng người đối với kinh này, dù chỉ một niệm khởi lòng tin thanh tịnh, huống chi người thọ trì, đọc tụng, hiểu một câu. Vì sao? Vì lìa tánh văn tự, không có tướng văn tự, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì Bát-nhã là không, nên Bồ-tát cũng không. Vì sao? Vì trong mười Địa, Địa nào cũng đều có mới bắt đầu sinh, hiện đang sinh, cho đến chấm dứt sự sinh. Như vậy, ba mươi sinh đều là không. Trí Nhất thiết trí cũng đều không.

Này đại vương! Nếu Bồ-tát thấy có cảnh giới, thấy trí tuệ, thấy nói, thấy thọ trì thì tức chẳng phải sự thấy của bậc Thánh mà đó là sự thấy của phàm phu. Quả báo của hữu tình ba cõi là hư vọng. Các nghiệp ở cõi Dục do phân biệt đã tạo ra, các nghiệp của bốn Tĩnh lự định ở cõi Sắc đã tạo ra, các nghiệp của bốn không định ở cõi Vô sắc đã tạo ra, tất cả nghiệp quả của ba cõi đều là không. Căn bản vô minh của ba cõi cũng không. Các địa của bậc Thánh, vô lậu sinh diệt. Sự huân tập các vô minh khác, quả báo có thay đổi ở trong ba cõi cũng đều là không. Nhân quả trong hai trường hợp chết của Bồtát ở ngôi Đẳng giác đã đắc định Kim cang là không, Nhất thiết trí cũng không. Phật Vô Thượng Giác, các trí đã viên mãn; trạch, phi trạch diệt, pháp giới chân tịnh, tánh tướng bình đẳng, việc ứng hóa cũng không.

Này thiện nam! Nếu có người tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì người nói, người nghe như nhà ảo thuật không nói, không nghe. Pháp đồng với pháp tánh giống như hư không. Tất cả đều là Như.

Này đại vương! Đại Bồ-tát giữ gìn quả Phật là như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo vua Ba-tư-nặc:

–Ông dùng tướng gì để quán Như Lai?

Vua Ba-tư-nặc thưa:

–Quán thật tướng của thân thì quán Phật cũng như vậy, không có khoảng trước, không có khoảng sau, không có khoảng giữa, không trụ ba khoảng, không lìa ba khoảng, không trụ vào năm uẩn, không trụ bốn đại, không lìa bốn đại, không trụ sáu xứ, không lìa sáu xứ, không trụ ba cõi, không lìa ba cõi, không trụ phương hướng, không lìa phương hướng. Minh và vô minh đồng đẳng, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải đây, chẳng phải kia, chẳng phải tịnh, chẳng phải uế, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, không có tự tướng, không có tha tướng, không danh, không tướng, không mạnh, không yếu, không bày, không nói, chẳng phải bố thí, chẳng phải xan tham, chẳng phải giữ giới, chẳng phải phạm, chẳng phải nhẫn nhục, chẳng phải sân giận, chẳng phải tinh tấn, chẳng phải biếng nhác, chẳng phải định, chẳng phải loạn, chẳng phải trí tuệ, chẳng phải ngu si, chẳng phải đến, chẳng phải đi, chẳng phải vào, chẳng phải ra, chẳng phải ruộng phước, chẳng phải không ruộng phước, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải nắm bắt, chẳng phải xả bỏ, chẳng phải lớn, chẳng phải nhỏ, chẳng phải thấy, chẳng phải nghe, chẳng phải hay, chẳng phải biết, diệt hết nơi hoạt động của tâm, dứt hẳn đường ngôn ngữ, pháp tánh đồng với chân tế. Con dùng tướng như vậy để quán Như Lai.

Phật dạy:

–Này thiện nam! Đúng như lời ông đã nói, các Lực, Vô úy… hằng hà sa công đức, các pháp bất cộng của chư Phật Như Lai đều như vậy. Người nào tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa nên quán như vậy. Nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Khi Đức Phật nói pháp này có vô lượng đại chúng đắc Pháp nhãn tịnh.

 

Phẩm 3: HẠNH BỒ-TÁT

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát giữ gìn hạnh Thập địa nên tu hành thế nào? Giáo hóa chúng sinh thế nào? Và lại dùng tướng gì để quán sát?

Đức Phật dạy:

–Này đại vương! Các Đại Bồ-tát nương vào năm pháp nhẫn để tu hành, đó là: Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô sinh nhẫn đều có thượng, trung, hạ. Còn đối với Tịch tịnh nhẫn thì có thượng, hạ. Đó gọi là Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này thiện nam! Mới vào địa Phục nhẫn bắt đầu huân tập chủng tánh tu hạnh Thập trụ. Tướng mới phát tâm có hằng hà sa chúng sinh, thấy Phật, Pháp, Tăng phát mười Tín, đó là: Tín tâm, Niệm tâm, Tinh tấn tâm, Tuệ tâm, Định tâm, Bất thoái tâm, Giới tâm, Nguyện tâm, Hộ pháp tâm và Hồi hướng tâm. Nếu đầy đủ mười tâm này thì có thể giáo hóa chúng sinh được phần nhỏ, vượt qua tất cả địa thiện của hàng Nhị thừa. Đó là Bồ-tát mới nuôi lớn tâm, là Thánh thai.

Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi tánh chủng tánh tu hành mười loại Bala-mật-đa, phát sinh mười thứ đối trị, nghĩa là quán sát thân, thọ, tâm, pháp là bất tịnh, các khổ, vô thường, vô ngã, trị ba căn bất thiện: tham, sân, si; phát sinh ba thiện căn: bố thí, từ bi, trí tuệ; quán sát ba đời nhân nhẫn ở quá khứ, nhân quả nhẫn ở hiện tại, quả nhẫn ở vị lai. Bồ-tát ở địa vị này làm lợi lạc cho chúng sinh, vượt qua các tư tưởng ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh…, tư tưởng điên đảo của ngoại đạo không thể nào làm hại được.

Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi đạo chủng tính tu Thập hồi hướng, phát mười tâm nhẫn, nghĩa là quán năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì đắc được Giới nhẫn, Định nhẫn, Tuệ nhẫn, Giải thoát nhẫn và Giải thoát tri kiến nhẫn. Quán nhân quả ba cõi thì đắc được Không nhẫn, Vô tưởng nhẫn và Vô nguyện nhẫn. Quán các pháp giả thực của nhị đế là vô thường thì đắc Vô thường nhẫn. Quán tất cả pháp là không thì đắc Vô sinh nhẫn. Bồ-tát ở ngôi này làm Chuyển luân vương, có năng lực giáo hóa rộng khắp làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi Tín nhẫn, nghĩa là ở địa Hoan hỷ. Địa Ly cấu và địa Phát quang có thể đoạn trừ ba chướng và đoạn trừ phiền não của sắc, hành bốn Nhiếp pháp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự; tu bốn Tâm vô lượng: tâm Từ vô lượng, tâm Bi vô lượng, tâm Hỷ vô lượng và tâm Xả vô lượng; đầy đủ bốn hoằng nguyện, đoạn trừ các triền cái, luôn giáo hóa chúng sinh, tu tri kiến Phật, chứng thành Vô thượng giác, trụ vào ba môn giải thoát: Không giải thoát môn, Vô tướng giải thoát môn, Vô nguyện giải thoát môn. Đây là các hạnh căn bản của Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến khi đạt trí Nhất thiết, làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh.

Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi Thuận nhẫn, nghĩa là ở địa Diệm tuệ, địa Nan thắng và địa Hiện tiền có thể đoạn trừ ba chướng và dây phiền não thuộc tâm. Một thân có thể đi khắp cả ức cõi Phật ở mười phương, hiện thần thông biến hóa không thể diễn tả, để làm lợi ích an lạc chúng sinh.

Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi Vô sinh nhẫn, nghĩa là ở địa Viễn hành, địa Bất động và địa Thiện tuệ có thể đoạn trừ ba chướng, tập khí của sắc tâm, thị hiện thân nhiều không thể tính, tùy theo từng loại mà làm lợi ích tất cả chúng sinh.

Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi Tịch diệt nhẫn, Phật và Bồ-tát đều nương nhờ vào nhẫn này. Với định Kim cang, nếu trụ vị Hạ nhẫn thì gọi là Bồ-tát, còn trụ Thượng nhẫn thì gọi là trí Nhất thiết. Quán đế Thắng nghĩa đoạn trừ tướng vô minh, đó là Đẳng giác. Một tướng và vô tướng đều bình đẳng không có hai, là trí địa Nhất thiết thứ mười một phi hữu phi vô, lắng trong thanh tịnh, không đến không đi, thường trụ bất biến, đồng với chân tế bình đẳng với pháp tánh, dùng vô duyên đại Bi luôn giáo hóa chúng sinh, ngồi xe trí Nhất thiết để đến hóa độ ba cõi.

Này thiện nam! Tất cả phiền não của các loài chúng sinh, nghiệp quả dị thục, hai mươi hai căn không ra ngoài ba cõi. Chư Phật chỉ dạy dẫn dắt bằng Ứng hóa, Pháp thân cũng không ngoài cõi này. Nếu nói rằng ngoài ba cõi còn có một cảnh giới của chúng sinh thì đó là kinh Đại hữu của ngoại đạo nói.

Này đại vương! Ta thường dạy chúng sinh chỉ đoạn trừ hết sinh tử vô minh trong ba cõi, đó tức là Phật. Tự tánh thanh tịnh gọi là tánh bản giác, tức là trí Nhất thiết trí của chư Phật, nhờ đó mà đắc, là căn bản được của chúng sinh, cũng là bản hạnh của chư Phật và Bồ-tát. Đó là sự tu hành của Bồ-tát, là mười bốn nhẫn trong năm pháp nhẫn.

Đức Phật dạy:

–Này đại vương! Trước đây ông hỏi về vấn đề Bồ-tát làm thế nào để giáo hóa chúng sinh? Đại Bồ-tát nên giáo hóa như vầy: Từ địa đầu tiên cho đến địa cuối cùng phải hiểu biết tất cả việc làm của chính mình và việc làm của Phật. Hoặc Đại Bồ-tát trụ trong trăm cõi Phật làm Chuyển luân thánh vương ở Thiệm bộ châu, tu tập minh đạt cả trăm pháp môn, dùng Bố thí ba-la-mật trụ nơi tâm bình đẳng để giáo hóa chúng sinh cả bốn thiên hạ. Hoặc Đại Bồ-tát trụ một ngàn cõi Phật, làm vua trong cõi trời Đao-lợi, tu tập minh đạt cả ngàn pháp minh môn, giảng nói mười thiện đạo, hóa độ tất cả chúng sinh.

Hoặc Đại Bồ-tát trụ vạn cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Dạma, tu tập minh đạt vạn pháp môn, nương vào bốn Thiền định mà giáo hóa tất cả chúng sinh.

Hoặc Đại Bồ-tát trụ ức cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Đổsử-đa, tu tập minh đạt ức pháp môn, tu hành pháp phần Bồ-đề để giáo hóa tất cả chúng sinh.

Hoặc Đại Bồ-tát trụ trong trăm ức cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Hóa lạc, tu tập minh đạt trăm ức pháp môn, dùng hai Đế, bốn Đế để giáo hóa chúng sinh.

Hoặc Đại Bồ-tát trụ trong ngàn ức cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Tha hóa tự tại, tu tập minh đạt ngàn ức pháp môn, dùng trí chứng mười hai nhân duyên để giáo hóa tất cả chúng sinh.

Hoặc Đại Bồ-tát trụ trong vạn ức cõi Phật, làm Phạm vương ở cõi Sơ thiền, tu tập minh đạt vạn ức pháp môn, dùng trí phương tiện thiện xảo để giáo hóa tất cả chúng sinh.

Hoặc Đại Bồ-tát trụ trong trăm vạn ức cõi Phật như số vi trần làm Phạm vương ở cõi Nhị thiền, tu tập minh đạt trăm vạn số vi trần pháp môn song chiếu bình đẳng, dùng trí nguyện thần thông để giáo hóa tất cả chúng sinh.

Hoặc Đại Bồ-tát trụ trong trăm vạn ức vô số kiếp số cõi Phật như vi trần, làm Phạm vương ở cõi Tam thiền, tu tập minh đạt trăm vạn ức vô số pháp môn, dùng trí bốn vô ngại để giáo hóa tất cả chúng sinh.

Hoặc Đại Bồ-tát trụ trong các cõi Phật nhiều không thể nói, không thể tả, làm Đại Phạm thiên vương ở cõi Tứ thiền, tu tập minh đạt các pháp môn nhiều không thể nói, không thể tả hết được, đạt được Tam-muội Tận lý đồng với hành xứ của Phật, rõ tận căn nguyên của ba cõi, làm lợi ích cho khắp chúng sinh giống như cảnh giới của Đức Phật. Đó là việc Đại Bồ-tát thị hiện thân vua để giáo hóa, dẫn dắt chúng sinh.

Chư Như Lai ở mười phương cũng giống như vậy, chứng đắc Vô thượng giác, thường ở khắp pháp giới để làm lợi lạc cho chúng sinh.

Bấy giờ, tất cả đại chúng đều đứng dậy, rải hoa nhiều không thể kể xiết, đốt hương nhiều không thể tính kể, cúng dường cung kính khen ngợi Như Lai.

Khi ấy, ở trước Phật, vua Ba-tư-nặc nói kệ khen:

Đạo Sư Thế Tôn thể Kim cang
Chuyển pháp luân tâm hành tịch diệt
Giảng nói bằng tám loại viên âm
Người đắc đạo cả trăm vạn ức
Trời, người đều tu hạnh xuất ly
Tu tập tất cả đạo Bồ-tát
Công đức năm nhẫn môn diệu pháp
Vì mười bốn, Bồ-tát hiểu rõ
Hành trong nhẫn tam Hiền thập Thánh
Chỉ có Phật hiểu tận nguồn căn
Biển Phật, Pháp, Tăng kho Tam bảo
Vô lượng công đức gồm trong đó
Bồ-tát thập thiện phát tâm lớn
Luôn ở ba cõi biển luân hồi
Thiện bậc trung, hạ làm vua nhỏ
Thiện bậc thượng làm Thiết luân vương
Tập chủng Đồng luân, hai thiên hạ
Tánh chủng tánh Ngân luân, gồm ba
Đạo chủng đức vững Chuyển luân vương
Bảy báu, Kim luân, bốn thiên hạ
Phục nhẫn Thánh thai ba mươi vị
Thập trụ, thập hành, thập hồi hướng,
Là pháp chư Phật ba đời học
Đều nhờ Phục nhẫn này sinh ra
Làm căn bản các hạnh Bồ-tát
Nên khó phát tâm và tín tâm.
Nếu được tín tâm ắt không lùi
Tiến vào đạo Sơ địa vô sinh
Làm lợi người mình đều bình đẳng
Nên gọi Bồ-tát mới phát tâm.
Bồ-tát Hoan hỷ: Chuyển luân vương
Làm sáng lý bình đẳng hai Đế
Đến trăm cõi giáo hóa hữu tình
Bố thí thanh tịnh lợi quần sinh
Thể nhập lý Bát-nhã là trụ
Trụ sinh đức hạnh gọi là địa
Sơ trụ nhất tâm đủ các đức
Ở trong thắng nghĩa không lay động.
Bồ-tát Ly cấu: Đao-lợi vương
Hiện thân ngàn cõi trong sáu đường
Giữ giới thanh tịnh tròn đầy đủ
Dứt hẳn các lỗi lầm đã phạm
Không tướng, không duyên, tánh chân thật
Không thể, không sinh, không chiếu hai.
Bồ-tát Phát quang: Dạ-ma thiên
Hiện thân đi đến vạn cõi Phật
Hoàn toàn thông đạt Tam-ma-địa
Ẩn hiện tự tại, đủ ba minh
Hoan hỷ, Ly cấu và Phát quang
Diệt trừ dây sắc và phiền não
Quán đủ tất cả nghiệp thân, khẩu
Pháp tánh thanh tịnh sáng tròn đầy.
Bồ-tát Diễm tuệ rất tinh tấn
Đâu-suất Thiên vương du ức cõi
Thật trí tịch diệt, trí phương tiện
Đạt lý vô sinh chiếu không, hữu.
Bồ-tát Nan thắng: Hóa lạc vương
Đắc bình đẳng đi trăm ức cõi
Không, không đế, quán không hai tướng
Hiện thân đi khắp cùng sáu cõi.
Bồ-tát Hiện tiền: Tự Tại Vương
Thấy rõ tướng duyên sinh là một
Trí thắng nghĩa sáng khắp mọi nơi
Đến độ chúng sinh ngàn ức cõi
Địa Diệm tuệ, Nan thắng, Hiện tiền
Đoạn trừ ba chướng tâm mê hoặc
Không tuệ tịch nhiên vô duyên quán
Chiếu lại tâm không, vô lượng cảnh.
Bồ-tát Viễn hành: Sơ thiền vương
Trụ vào nhẫn vô sinh, vô tướng
Phương tiện thiện xảo đều bình đẳng
Đến vạn ức cõi độ chúng sinh
Nhập vào địa pháp lưu bất động
Không còn phần đoạn, vượt các hữu
Thường quán thắng nghĩa rõ không hai
Vị hai mươi mốt hành không tịch
Đại sĩ Viễn hành thuận đạo pháp
Chỉ đoạn trừ tập ái vô minh.
Bồ-tát Bất động: Nhị thiền vương
Được thân biến hóa luôn tự tại
Đi đến trăm vạn vi trần cõi
Tùy loại biến hóa độ chúng sinh
Biết rõ ba đời vô lượng kiếp
Với Đệ nhất nghĩa không lay động.
Bồ-tát Thiện tuệ: Tam thiền vương
Một lúc hiện quả ngàn ức cõi
Luôn hành không tịch tại vô vi
Một niệm hiểu hằng sa Phật tạng.
Bồ-tát Pháp vân: Tứ thiền vương
Ức hằng sa cõi độ chúng sinh
Mới nhập Kim cang biết tất cả
Đã vượt khỏi hai mươi chín cõi
Trong Tịch diệt nhẫn không quán nhẫn
Liền chuyển Diệu giác Vô đẳng đẳng
Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân địa
Trừ tập khí vô minh ở trước
Tập khí vô minh, thức cùng chuyển
Lý nhị đế đều hiểu tận cùng
Chánh giác tỏ tường khắp pháp giới
Ba mươi sinh tận trí viên minh
Tịch chiếu vô vi chân giải thoát
Đại Bi ứng hiện không ai bằng
Lắng trong, bất động, luôn an ổn
Ánh sáng chiếu khắp, không chướng ngại
Ba Hiền, mười Thánh còn quả báo
Chỉ duy nhất Phật nơi cõi tịnh
Tất cả hữu tình đều tạm ở
Chứng Kim cang vốn không lay động
Ba nghiệp Như Lai đức vô lượng
Bình đẳng thương yêu các chúng sinh
Pháp Vương vô thượng trong cõi người
Ánh sáng không cùng che đại chúng
Luôn nói pháp đúng với thật nghĩa
Tâm trí tịch diệt rõ vô duyên
Sư tử trong loài người giảng nói
Cú nghĩa thâm sâu chưa từng có
Làm chấn động cả trần sa cõi
Đại chúng vui mừng được lợi ích
Thế Tôn nói cho mười bốn vua
Nay con cúi đầu xin đảnh lễ.

Bấy giờ nghe Đức Phật Thế Tôn và vua Ba-tư-nặc nói vô lượng công đức của mười bốn nhẫn, trăm vạn ức hằng sa đại chúng đạt được pháp lợi lớn và nhờ nghe pháp được giác ngộ, chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn.

Thế rồi Đức Thế Tôn dạy đại chúng:

–Vua Ba-tư-nặc này đã trải qua mười ngàn kiếp trong quá khứ ở trong pháp của Phật Long Quang Vương làm Bồ-tát ở Tứ địa. Còn ta làm Bồ-tát ở Bát địa. Hôm nay ở trước ta, ông ta rống tiếng Đại sư tử. Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời các ông đã nói, đạt được nghĩa chân thật, nghĩa chẳng thể nghĩ bàn. Chỉ có Phật và Phật mới biết được điều này.

Này thiện nam! Mười bốn nhẫn này, các Pháp thân của chư Phật, các hành của Bồ-tát không thể nghĩ bàn, không thể tính kể. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều từ trong Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra, từ trong Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hóa, từ trong Bát-nhã ba-lamật-đa mà diệt, nhưng thật ra chư Phật sinh mà không có chỗ sinh, hóa mà không chỗ hóa, diệt mà không chỗ diệt, là Đệ nhất không có hai, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, không có tự, không có tha, không đến không đi, vì như hư không.

Này thiện nam! Tánh của tất cả chúng sinh tánh không sinh diệt, do các pháp nhóm họp huyễn hóa mà có tướng uẩn, xứ, giới, không hợp không tan, pháp đồng với pháp tánh vì tịch không. Tự tánh của tất cả chúng sinh là thanh tịnh, các hành động tạo ra không trói, không mở, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải không nhân quả, các hành thọ khổ là do biết của các phiền não. Tướng ngã, tướng nhân, tri kiến, thọ giả. Tất cả đều là không, cho nên cảnh giới của pháp không; không, vô tướng, vô tác, không thuận với điên đảo, không thuận với huyễn hóa, không có tướng của sáu cõi, không có tướng của bốn sinh, không có tướng của bậc Thánh, không có tướng Tam bảo, vì như hư không.

Này thiện nam! Bát-nhã thâm sâu không biết, không thấy, không hành, không duyên, không xả, không thọ, chánh trụ quán sát nhưng không có tướng chiếu sáng. Ai hành đạo như vậy là như hư không. Như vậy, đối với tướng của pháp đối với tâm có sở đắc hay tâm không có sở đắc đều không thể nắm bắt được. Vì thế Bát-nhã chẳng phải là năm uẩn, chẳng phải lìa năm uẩn, chẳng phải chúng sinh, chẳng phải lìa chúng sinh, chẳng phải cảnh giới, chẳng phải lìa cảnh giới, chẳng phải hành giải, chẳng phải lìa hành giải. Các tướng như vậy không thể nghĩ lường. Cho nên tất cả các hạnh của Bồ-tát tu tập chưa đạt đến cứu cánh nhưng vẫn có hành trong đó. Tất cả chư Phật biết như huyễn hóa, dù đắc tướng vô trụ nhưng lại ở trong đó hóa hiện. Cho nên mười bốn nhẫn không thể nghĩ lường.

Này thiện nam! Hôm nay các ông đã nói về tạng công đức này có lợi ích rất lớn cho tất cả chúng sinh. Giả sử vô lượng hằng hà sa số Bồ-tát hàng Thập địa nói công đức này cả trăm ngàn ức phần thì như một giọt nước trong biển. Chư Phật ba đời biết một cách như thật, tất cả Hiền thánh đều khen ngợi, cho nên nay ta nói sơ về chút phần công đức.

Này thiện nam! Mười bốn nhẫn này được tất cả Bồ-tát ở quá khứ, hiện tại trong mười phương thế giới tu hành. Tất cả chư Phật hiển bày và các Đại Bồ-tát đời vị lai cũng vậy. Nếu Phật và Bồ-tát không nhờ môn này mà đắc trí Nhất thiết thì việc này không thể xảy ra. Vì sao? Vì chư Phật và Bồ-tát không có con đường nào khác.

Này thiện nam! Nếu người nào nghe Trụ nhẫn, Hành nhẫn, Hồi hướng nhẫn, Hoan hỷ nhẫn, Ly cấu nhẫn, Phát quang nhẫn, Diễm tuệ nhẫn, Nan thắng nhẫn, Hiện tiền nhẫn, Viễn hành nhẫn, Bất động nhẫn, Thiện tuệ nhẫn, Pháp vân nhẫn, Chánh giác nhẫn này mà nhất niệm có lòng tin thanh tịnh thì người ấy vượt qua tất cả khổ nạn trong trăm kiếp, ngàn kiếp, vô lượng, vô biên hằng hà sa kiếp không sinh vào cõi ác, không bao lâu sẽ đắc Vô thượng Bồ-đề.

Lúc ấy, mười ức Đại Bồ-tát đều cùng một tên là Hư Không Tạng cùng vô lượng, vô số đại chúng từ nơi khác đến, hoan hỷ và nhờ oai thần của Phật được thấy hằng sa chư Phật ở mười phương, các Ngài đều ở trong đạo tràng nói mười bốn nhẫn giống y như những lời Thế Tôn đã nói. Tất cả rất vui mừng, như lời dạy mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Thế Tôn nói với vua Ba-tư-nặc:

–Trước Đại vương đã hỏi lấy tướng gì để trụ quán sát. Đại Bồtát nên quán như vầy: Dùng thân huyễn hóa mà thấy huyễn hóa, trụ chân chánh bình đẳng không còn có người và ta. Quán sát như vậy để giáo hóa làm lợi ích cho chúng sinh. Nhưng với kiếp lâu xa các hữu tình ở sát-na đầu tiên thì thức khác với gỗ đá. Sinh ra có nhiễm tịnh đều tự chính mình làm ra. Vô lượng, vô số thức sẵn có nhiễm tịnh từ sát-na đầu tiên ở nhiều kiếp không thể nói, đến Kim cang là sát-na cuối cùng, có thức nhiều không thể nói, không thể tả, sinh ra thì các hữu tình có hai pháp là: sắc và tâm. Sắc là sắc uẩn, tâm là bốn uẩn, đều là tánh chứa nhóm, làm che lấp chân thật.

Này đại vương! Một sắc pháp này phát sinh vô lượng sắc. Nhãn hợp với sắc, nhĩ hợp với thanh, tỷ hợp với hương, thiệt hợp với vị, thân hợp với xúc. Cứng chắc gọi là địa, ẩm ướt gọi là thủy, tánh nóng ấm gọi là hỏa, nhẹ động gọi là phong, chỗ sinh năm thức gọi là năm sắc căn. Như vậy, lần lượt một tâm một sắc, vô lượng sinh sắc tâm không thể kể xiết, nhưng đều như huyễn.

Này thiện nam! Sự thọ nhận của hữu tình là đứng trên mặt thế tục mà lập, dù có hay không cũng do vọng tưởng của hữu tình sinh ra, nhớ nghĩ rồi tạo nghiệp, thọ quả, đều gọi là thế đế. Tất cả hữu tình trong sáu đường ba cõi, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Tỳ-xá, Thủ-đà, ngã, nhân, tri kiến, sắc pháp, tâm pháp như cảnh thấy trong mộng.

Này thiện nam! Tất cả các tên đều giả đặt ra. Khi Đức Phật chưa xuất hiện nơi đời thì pháp huyễn thế đế không có tên, không có nghĩa, cũng không có thể tướng, không có tên của ba cõi, không có tên sáu đường, quả báo thiện ác. Khi chư Phật ra đời, vì các hữu tình mà Ngài nói vô lượng danh từ ba cõi, sáu đường, nhiễm tịnh. Như vậy, tất cả giống như tiếng vang, các pháp tương tục mỗi niệm mỗi niệm không dừng, từng sát-na… từng sát-na chẳng phải một, chẳng phải khác, vừa khởi lên là diệt ngay, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, vì các pháp hữu vi như sóng nắng. Các pháp đối đãi nhau gọi là sắc giới, nhãn giới, nhãn thức giới, cho đến pháp giới, ý giới, ý thức giới, giống như điện chớp, không nhất định, đối đãi nhau, có, không, một, khác giống như vầng trăng thứ hai, các pháp do nhân duyên mà thành. Pháp uẩn, xứ, giới như bọt trên nước, các pháp do nhân duyên mà thành. Tất cả nhân quả cùng thời, nhân quả khác thời của các hữu tình và thiện ác ba đời giống như mây giữa hư không.

Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ vào vô phân biệt, không còn tướng bỉ, thử, không có tướng tự tha, luôn hành tướng lợi ích. Cho nên biết kẻ phàm phu ngu si với thức dơ xấu nhiễm trước vào hư vọng, bị tướng trói buộc. Bồ-tát nhìn thấy biết nó như nhà ảo thuật, không có thể tướng, chỉ như hoa đốm giữa hư không. Đó là Đại Bồtát sống tự lợi, lợi tha, quán sát một cách như thật.

Khi Đức Phật nói pháp này, trong chúng hội có vô lượng trời, người đắc được Phục nhẫn không, Vô sinh nhẫn, địa thứ nhất, địa thứ hai, cho đến địa thứ mười. Vô lượng Bồ-tát đắc Nhất sinh bổ xứ.

 

Phẩm 4: NHỊ ĐẾ

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trong Thắng nghĩa đế có Thế tục đế không? Nếu nói không thì trí ấy không phải hai. Còn nếu nói có thì trí ấy không phải một. Nghĩa một và hai, việc ấy như thế nào?

Phật dạy:

–Này đại vương! Trong pháp của Phật Long Quang Vương ở quá khứ, ông đã hỏi nghĩa này. Nay ta không nói thì Đại vương không nghe. Vậy không nói không nghe tức là một nghĩa, hai nghĩa. Ông hãy lắng nghe cho kỹ, vì ông ta sẽ nói.

Thế rồi Thế Tôn nói kệ:

Thắng nghĩa đế vô tướng
Thể chẳng tự tha làm
Nhân duyên có như huyễn
Cũng chẳng tự tha làm
Phá tánh vốn vô tánh
Thắng nghĩa đế không như
Có pháp là có huyễn
Hợp ba giả mà có
Không, không đế thật không
Tịch tĩnh thắng nghĩa không
Các pháp do duyên có
Nghĩa hữu, vô như vậy
Hữu, vô vốn là hai
Như trâu có hai sừng
Hiểu rõ thấy không hai
Nhị đế thường không vậy
Tâm hiểu thấy không hai
Cầu hai không thể được
Không nói hai là một
Một cũng không thể đắc
Hiểu rõ luôn là một
Với đế luôn là hai
Thấu đạt một, hai này
Thể nhập Thắng nghĩa đế
Thế đế huyễn hóa sinh
Ví như hoa hư không
Như ảnh, vòng tròn ảo
Do duyên nên huyễn có
Huyễn hóa thấy huyễn hóa
Ngu gọi huyễn là thật
Huyễn gia thấy pháp huyễn
Thật huyễn đều không có
Nếu hiểu pháp như vậy
Là hiểu nghĩa một, hai
Với tất cả các pháp
Nên quán sát như vậy.

Này đại vương! Đại Bồ-tát trụ vào Thắng nghĩa đế để giáo hóa các hữu tình. Hữu tình và Phật là một không hai. Vì sao? Vì hữu tình và Bồ-đề, cả hai đều là không. Vì hữu tình không, nên chứng đắc Bồ-đề cũng không. Vì Bồ-đề không, nên hữu tình không. Vì tất cả pháp không, nên không là không. Vì sao? Vì Bát-nhã là vô tướng, hai đế đều không. Nghĩa là từ vô minh đến trí Nhất thiết không có tướng tự, không có tướng tha. Đối với Đệ nhất nghĩa, thấy không chỗ thấy. Nếu có tu hành cũng không chấp trước, mà không tu hành cũng không chấp trước, chẳng tu hành, chẳng phải không tu hành cũng không chấp trước. Đối với tất cả pháp đều không chấp trước. Khi Bồ-tát chưa thành Phật thì cho Bồ-đề là phiền não. Khi Bồ-tát thành Phật thì phiền não là Bồ-đề. Vì sao? Vì Đệ nhất nghĩa không có hai. Chư Phật Như Lai và tất cả pháp đều như vậy.

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

–Chư Phật và tất cả Bồ-tất cả mười phương vì sao không lìa văn tự để hành thật tướng?

Phật dạy:

–Này đại vương! Văn tự nghĩa là Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Duyên khởi, Thí dụ, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Hy hữu và Luận nghị. Tất cả chương cú, văn tự, ngôn ngữ, âm thanh từ các kinh trên nói ra đều Như, không phải phi thật. Nếu chấp lấy tướng văn tự tức là tướng phi thật.

Này đại vương! Người tu thật tướng như tu văn tự. Thật tướng tức là mẹ trí của chư Phật, là mẹ trí căn bản của tất cả hữu tình. Như vậy gọi là thể của trí Nhất thiết. Chư Phật chưa thành Phật và Phật hiện tại là mẹ trí. Chư Phật đã thành Phật tức là trí Nhất thiết. Khi chưa đắc là tánh, mà đắc rồi là trí. Bát-nhã của ba thừa không sinh, cũng không diệt, tự tánh thường trụ. Đây là giác tánh của tất cả hữu tình. Nếu Bồ-tát không chấp trước văn tự, không lìa văn tự, không có tướng văn tự, chẳng phải không văn tự, có thể tu như vậy mà không thấy tướng tu. Thì đó gọi là người tu văn tự mà có thể đắc chân tánh Bát-nhã. Đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này đại vương! Đại Bồ-tát hộ trì quả Phật, hộ trì hạnh Thập địa, hộ trì giáo hóa hữu tình là như vậy.

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

–Chân tánh là một nhưng căn hạnh, phẩm loại hữu tình lại có vô lượng. Vậy pháp môn là một hay vô lượng?

Đức Phật dạy:

–Này đại vương! Pháp môn chẳng phải một, cũng chẳng phải

vô lượng. Vì sao? Vì sắc pháp và tâm pháp, tướng ngũ thủ uẩn, ngã nhân tri kiến của các hữu tình có nhiều căn hạnh và vô biên phẩm loại. Pháp môn tùy theo căn hạnh cũng có vô lượng. Tánh của các pháp này chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng và chẳng phải vô lượng. Nếu Bồ-tát theo các hữu tình mà thấy một thấy hai tức là không thấy nghĩa một và hai. Nếu hiểu rõ một, hai chẳng phải một, chẳng phải hai tức là Thắng nghĩa đế. Nếu chấp lấy một và hai là có hoặc không tức là Tục đế, cho nên pháp môn chẳng phải một, chẳng phải hai.

Này đại vương! Tất cả chư Phật giảng nói Bát-nhã ba-la-mậtđa và hôm nay ta giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không có hai, không khác. Đại chúng các ông nên thọ trì đọc tụng, như thuyết tu hành, tức là thọ trì pháp của chư Phật.

Này đại vương! Bát-nhã ba-la-mật-đa này có vô lượng công đức. Nếu có hằng hà sa bất khả thuyết chư Phật mà mỗi mỗi Đức Phật ấy giáo hóa vô lượng bất khả thuyết hữu tình và tất cả hữu tình ấy đều chứng thành Phật. Chư Phật này lại giáo hóa vô lượng bất khả thuyết hữu tình cũng đều thành Phật. Thì Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chư Phật ấy giảng nói có vô lượng bất khả thuyết triệu ức kệ, nói không cùng tận. Trong các bài kệ lại lấy một bài kệ chia ra ngàn phần, lại trong ngàn phần ấy chỉ nói một phần, thì công đức ý nghĩa trong một câu ấy còn vô cùng tận, huống chi công đức ý nghĩa vô lượng câu như vậy. Nếu có người nào đối với kinh này mà sinh một tâm niệm thanh tịnh tin tưởng thì người này liền vượt ra khỏi khổ nạn sinh tử trong trăm kiếp ngàn kiếp, trăm ngàn vạn kiếp, huống chi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người thì công đức đạt được sánh bằng tất cả chư Phật trong mười phương không khác. Nên biết, người này được chư Phật hộ niệm, không bao lâu sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề.

Khi Đức Phật nói pháp này, có mười ức người đắc Tam không nhẫn, một trăm vạn ức người đắc Đại không nhẫn, vô lượng Bồ-tát được trụ vào mười Địa.

Pages: 1 2