SỐ 245
KINH PHẬT THUYẾT NHÂN VƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT
Dịch Phạn ra Hán: Đời Diêu Tần, Tam tạng Cưu-ma-la-thập
Dịch Hán ra Việt: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN HẠ

Phẩm 5: HỘ QUỐC

Bấy giờ, Phật bảo:

–Đại vương! Ông hãy lắng nghe, giờ đây ta chính thức nói về công dụng của pháp Hộ quốc. Ông nên thọ trì Bát nhã ba-la-mật, khi giặc cướp đến tàn phá đất nước, ông nên thỉnh trăm tượng Phật, trăm tượng Bồ-tát, trăm tượng La-hán, trăm vị Tỳ-kheo, bốn chúng, bảy chúng, trăm vị Pháp sư giảng Bát-nhã ba-la-mật, thỉnh trăm vị Sư tử hống ở trước tòa cao, đốt trăm đèn thiêu trăm thứ hoa hương, hoa trăm màu sắc để cúng dường Tam bảo. Cúng dường ba y và các thứ cần dùng dâng lên Pháp sư. Trong bữa tiểu thực và bữa ngọ cũng nên đúng thời.

Đại vương! Ông nên thỉnh Pháp sư một ngày hai thời giảng đọc kinh này. Trong cõi nước của ông có tám bộ quỷ thần, mỗi bộ lại có trăm bộ ưa nghe kinh này, họ sẽ che chở giữ gìn cõi nước của ông.

Đại vương! Khi cõi nước có loạn, trước tiên là quỷ thần nổi loạn, đạo tặc đến cướp nước. Nhân dân ly loạn, quan thần, thái tử, vương tử bá quan đều sinh điều thị phi. Trời đất có nhiều sự quái lạ, hai mươi tám vị sao và đường đi của các ngôi sao, mặt trời, mặt trăng vận hành không đúng lúc, có nhiều giặc cướp nổi loạn.

Đại vương! Nếu bị các tai nạn: nạn lửa, nạn nước, nạn gió… thì ông nên thỉnh Pháp sư giảng đọc kinh này chắc chắn sẽ được công dụng như trên đã nói.

Đại vương! Kinh này không chỉ che chở giữ gìn đất nước mà còn bảo hộ phước báu, cầu giàu sang, quan vị bảy báu sẽ được như ý. Muốn cầu con trai, con gái, cầu trí tuệ sáng suốt, học rộng, cầu

quả báo ở sáu tầng trời, quả báo loài người, quả báo trong chín phẩm thì cũng nên giảng kinh này sẽ được công đức như trên.

Đại vương! Kinh này chẳng những để cầu phước mà còn để che chở các tai nạn, bệnh tật, khổ não, gông cùm, xiềng xích trói buộc thân thể. Muốn diệt bốn trọng tội, năm tội nghịch, tám nạn tội và vô lượng khổ não trong sáu đường cũng nên giảng kinh này thì sẽ được công dụng như trên.

Đại vương! Ngày xưa có vị vua Đảnh Sinh muốn đến phá hoại tầng trời của vua Thích Đề-hoàn Nhân. Khi ấy, trời Đế Thích liền y theo lời dạy của bảy Đức Phật, sửa soạn trăm tòa cao, thỉnh trăm vị Pháp sư, giảng Bát-nhã ba-la-mật, Đảnh Sinh liền rút lui, giống như đã nói trong kinh Diệt Tội.

Đại vương! Ngày xưa quốc vương Thiên La có một vị thái tử tên là Ban Túc sắp lên ngôi. Thái tử đến thọ giáo với sư La-đà thuộc phái ngoại đạo. Ban Túc y theo lời dạy của ngoại đạo, lấy một ngàn đầu vua cúng lễ quỷ thần, để lên ngôi vua. Khi đã được chín trăm chín mươi chín đầu vua, còn thiếu một đầu nữa, Ban Túc bèn đi về phía Bắc khoảng vạn dặm, liền gặp vua Phổ Minh. Phổ Minh xin Ban Túc: “Cho tôi được một ngày cúng dường cơm cho Sa-môn, đảnh lễ Tam bảo”. Vua Ban Túc bằng lòng.

Lúc bấy giờ, vua Phổ Minh, y theo pháp của bảy Đức Phật thời quá khứ, thỉnh trăm vị Pháp sư, sửa soạn trăm tòa cao, một ngày hai lần giảng Bát-nhã ba-la-mật đến tám ngàn ức bài kệ.

Pháp sư thứ nhất vì ngài Phổ Minh mà nói kệ rằng:

Thời cuối của kiếp thiêu
Cháy khắp cả trời đất
Tu-di và biển lớn
Đều cháy thành tro tàn
Trời, rồng phước đã hết
Tan xác ở trong đó
Thế giới chịu điêu tàn
Đất nước có thường đâu
Sinh, già và bệnh chết
Xoay lăn không bờ mé
Việc làm trái với nguyện
Bị lo buồn làm hại
Dục sâu, tai họa lớn
Đau đớn không gì hơn
Ba cõi đều khổ não
Đất nước biết nương đâu
Căn bản vốn là không
Chỉ do duyên tạo thành
Thịnh rồi thì đến suy
Có thật thì có hư
Chúng sinh do vô minh
Đều sống trong huyễn mộng
Âm thanh tiếng dội không
Đất nước cũng như vậy
Thần thức vô hình tướng
Như xe ngựa bốn con
Voi vô minh bảo vệ
Giữ gìn chiếc xe ấy
Người lái xe vô thường
Thức vô thường là nhà
Thân tâm đều chưa lìa
Đâu có đất nước ư?

Pháp sư nói kệ xong, quyến thuộc vua Phổ Minh và đắc Pháp nhãn không, vua chứng đắc định Hư không đẳng. Nghe pháp được ngộ giải, vua trở về nước Thiên la… ở trong hội chúng của vua Ban Túc, vua Phổ Minh bảo chín trăm chín mươi chín vị vua rằng: Khi mạng sống sắp hết, mỗi vị nên tụng các câu kệ trong kinh Nhân Vương Vấn Bát-nhã Ba-la-mật của bảy Đức Phật thời quá khứ.

Khi ấy, vua Ban Túc hỏi các vua:

–Pháp gì mà tất cả đều phải tụng?

Phổ Minh dùng bài kệ trên đáp lại. Vua nghe pháp đắc Tammuội không, chín trăm chín mươi chín vị vua nghe pháp cũng chứng định Tam-muội không.

Bấy giờ vua Ban Túc rất vui mừng bảo các vua rằng:

–Tôi bị tà sư ngoại đạo làm cho mê lầm, gây nhiều tội lỗi chẳng xứng đáng một vị vua. Các ông hãy trở về đất nước mình, mỗi vị nên thỉnh Pháp sư giảng Bát-nhã ba-la-mật vị cú.

Khi ấy vua Ban Túc giao nước lại cho người em, xuất gia hành đạo, chứng Vô sinh pháp nhẫn. Như kinh Thập Vương đã nói, năm ngàn vị quốc vương thường tụng kinh này được pháp báu ngay hiện tại.

Đại vương! Mười sáu vị đại quốc vương tu pháp Hộ quốc cũng nên tụng kinh này, các ông đều phải thọ trì. Chúng sinh ở cõi trời, cõi người và chúng sinh trong sáu đường đều nên thọ trì danh vị cú của bảy Đức Phật. Ở đời vị lai, có vô lượng tiểu quốc vương muốn giữ gìn đất nước cũng nên làm như vậy, nên thỉnh pháp giảng nói Bát-nhã ba-la-mật.

Bấy giờ, khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng nói Bát-nhã bala-mật, trong chúng có năm trăm ức người được vào Sơ địa. Tám mươi vạn vị Thiên tử ở sáu tầng trời cõi Dục đắc tánh không địa.

Lại có mười tám vị Phạm thiên đắc Vô sinh pháp nhẫn. Lại có các vị trước đã hành đạo Bồ-tát, chứng một Địa, hai Địa, ba Địa, cho đến mười Địa.

Lại có tám bộ chúng A-tu-la vương được một Tam-muội, hai Tam-muội được chuyển thân quỷ sinh lên cõi trời. Trong hội chúng ấy đều đạt được tự tánh tín cho đến vô lượng không tín. Nay ta nói lược các công đức ở cõi trời không thể nói hết.

 

Phẩm 6: TÁN HOA

Bấy giờ, mười sáu vị đại quốc vương nghe Phật nói mười vạn ức bài kệ Bát-nhã ba-la-mật tâm sinh vui mừng vô lượng liền tung rải trăm vạn ức thứ hoa biến thành một tòa hoa ở giữa hư không. Chư Phật mười phương đều ngồi trên tòa này giảng nói Bát-nhã ba-lamật, vô lượng đại chúng cùng ngồi trên một tòa, tung hoa Kim la, tung lên cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tạo thành vạn lọng hoa, che trên đại chúng, lại tung tám mươi bốn ngàn hoa Bát-nhã bala-mật lên hư không, biến thành đài hoa trắng. Trong đài hoa đó, Đức Phật Quang Minh Vương giảng nói Bát-nhã ba-la-mật cho vô lượng đại chúng nghe. Trong đài hoa đó, đại chúng tung hoa Lôi hống lên cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và các đại chúng. Lại tung hoa Diệu giác lên hư không, biến thành tòa thành Kim cang. Trong thành đó, Phật Sư Tử Hống Vương cùng chư Phật mười phương, Bồ-tát bàn luận về Đệ nhất nghĩa đế. Trong thành đó, Bồtát Quang Minh tung gấm hoa lên cúng dường Phật Thích-ca, hoa đó tạo thành đài hoa. Trong đài hoa, chư Phật mười phương, chư Thiên, loài người tung hoa trời cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni. Hoa được tung lên giữa hư không biến thành lọng mây tím, che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Trong lọng chư Thiên, loài người tung rải hằng hà sa các loài hoa rơi xuống như mưa.

Bấy giờ, các quốc vương tung hoa cúng dường xong, lại mong chư Phật ba đời thường giảng nói Bát-nhã ba-la-mật. Nguyện tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Tín nam, Tín nữ có những điều mong cầu đều được như ý, thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật.

Phật bảo đại vương:

–Đúng thế, đúng thế, đúng như lời vua nói! Bát-nhã ba-la-mật nên giảng nói, nên thọ trì. Là mẹ của chư Phật, mẹ của Bồ-tát, là chỗ sinh ra thần thông.

Bấy giờ, Đức Phật vì nhà vua hiện ra năm pháp thần thông không thể nghĩ bàn. Một hoa vào trong vô lượng hoa, vô lượng hoa vào trong một hoa. Một cõi Phật vào trong vô lượng cõi Phật; vô lượng cõi Phật nhập vào trong một cõi nước bằng lỗ chân lông, một cõi nước bằng lỗ chân lông nhập vào vô lượng cõi nước bằng lỗ chân lông. Vô lượng núi Tu-di, vô lượng biển lớn nhập vào một hạt cải. Một thân Phật nhập vào vô lượng thân chúng sinh, vô lượng thân chúng sinh nhập vào một thân Phật, nhập vào thân sáu đường, nhập vào thân bốn đại. Thân Phật, thân chúng sinh và thế giới không thể suy nghĩ, luận bàn. Khi Phật hiện thần thông chư Thiên, loài người trong mười phương đều đắc Tam-muội Phật hoa, mười phương hằng hà sa Bồ-tát hiện thân thành Phật. Ba hằng hà sa, tám bộ quốc vương thành đạo Bồ-tát. Mười ngàn tín nữ hiện thân được thần thông Tam-muội.

Này thiện nam! Bát-nhã ba-la-mật lợi ích trong ba đời. Quá khứ Đức Phật đã nói, hiện tại đang nói, vị lai sẽ nói. Hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ, đúng như pháp tu hành.

 

Phẩm 7: THỌ TRÌ

Lúc bấy giờ, vua Nguyệt Quang tâm nghĩ, miệng nói:

–Con đã thấy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện vô lượng thần lực, cũng thấy trên ngàn đài hoa có vô số Đức Phật, đó là Chủ hóa thân của tất cả Phật. Lại thấy các cõi Phật ở trong ngàn cánh hoa, chư Phật ở trong các cõi nước ấy đều giảng nói Bát-nhã ba-la-mật.

Bạch Thế Tôn! Vô lượng Bát-nhã ba-la-mật không thể giảng nói, không thể giải thích, không thể dùng thức để hiểu biết thì làm sao các thiện nam đối với kinh này hiểu biết rõ ràng để đúng như pháp khai thông pháp đạo cho tất cả chúng sinh?

Đức Phật dạy:

–Có người tu hành mười ba pháp quán, các thiện nam này là đại quốc vương tử tu tập nhẫn cho đến Kim cang đảnh, đều là Pháp vương, nương giữ kiến lập của đại chúng. Các vị nên cúng dường các vị ấy như cúng dường Phật, nên dùng trăm vạn ức hoa trời, hương trời để cúng dường.

Này thiện nam! Pháp sư ấy là Bồ-tát Tập chủng tánh. Nếu có Tín nam, Tín nữ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tu hành mười điều lành, tự quán, từng phần, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức của thân mình đều là bất tịnh. Lại quán mười bốn Căn, đó là: năm Tình, năm Thọ, Ý, Mạng của nam nữ… đã tạo vô lượng tội lỗi cho nên phải phát tâm vô thượng Bồ-đề thường tu ba cõi, trong mỗi niệm niệm đều quán ba cõi là bất tịnh, nên đạt được pháp quán Bất tịnh nhẫn, ở trong nhà Phật tu sáu phép hòa kỉnh, đó là ba nghiệp đồng giới, đồng kiến, đồng học, tu tám mươi bốn ngàn Ba-la-mật đạo.

Này thiện nam! Bồ-tát tu pháp Tập nhẫn trở xuống, thực hành mười điều lành, có tiến, có lùi. Ví như sợi lông nhẹ theo gió bay khắp nơi, các vị Bồ-tát này cũng giống như vậy. Tuy đã mười ngàn kiếp thực hành mười Chánh đạo, phát tâm Bồ-đề mới vào địa vị Tập nhẫn nhưng các vị vẫn thường học ba pháp phục nhẫn, không thể gọi tên là hạng người bất định. Hạng người bất định này nhập vào sinh không vị, là tánh của bậc Thánh. Chắc chắn họ không gây năm tội nghịch, sáu tội trọng, hai mươi tám tội khinh. Kinh sách Phật pháp nói gây tội phản nghịch mà nói chẳng phải Phật thuyết thì không bao giờ có sự ấy. Trong một a-tăng-kỳ kiếp, tu phục đạo nhẫn hành mới được nhập vào địa vị Tăng-già-đà.

Lại nữa, Tánh chủng tánh thực hành mười Tuệ quán, diệt mười điên đảo và ngã, nhân, tri kiến, mỗi phần đều là giả ngụy. Chỉ có danh và thọ, chỉ có pháp không thật có. Vì vô định tướng, vô tự tha tướng nên tu không quán, vừa quán vừa hành trăm vạn Ba-la-mật. Mỗi niệm không rời tâm, với hai a-tăng-kỳ kiếp thực hành mười pháp Chánh đạo, trụ ở địa vị Ba-la-đà.

Lại nữa, Đạo chủng tánh, trụ ở kiên nhẫn, quán tất cả pháp vô sinh, vô trụ, vô diệt. Cái gọi là năm thọ, ba cõi, hai đế không có tướng tự tha. Như thật tánh không thật có nên thường vào Đệ nhất nghĩa đế, tâm, tâm vắng lặng, nên thọ sinh trong ba cõi. Vì sao? Vì nghiệp tập, quả báo chưa hoại diệt hết nên thuận đạo sinh. Lại với ba a-tăng-kỳ kiếp tu tám muôn ức Ba-la-mật sẽ được bình đẳng Thánh nhân địa, an trụ giác vị không lui sụt.

Lại nữa, Đại thiện giác trụ ở bình đẳng nhẫn, tu hành bốn nhiếp pháp, niệm niệm không rời, tâm nhập vào vô tướng xả diệt phiền não tham trong ba cõi. Đối với Đệ nhất nghĩa đế không hai là pháp tánh vô vi, nương vào chân lý mà diệt tất cả tướng nên gọi là Trí duyên diệt vô tướng vô vi, khi trụ ở Sơ nhẫn, vô lượng sinh tử ở vị lai không do Trí duyên diệt mà diệt nên gọi là phi Trí duyên diệt, vô tướng vô vi, vô tự tha tướng. Vì vô tướng nên vô lượng phương tiện đều hiện tiền. Quán thật tướng phương tiện đối với Đệ nhất nghĩa đế chẳng đắm, chẳng xuất, chẳng chuyển, chẳng điên đảo. Học khắp phương tiện mà không chứng, chẳng phải không chứng, nhưng học tất cả. Hồi hướng phương tiện là chẳng trụ quả, chẳng phải không trụ quả, nên hướng đến Nhất thiết trí. Ma tự tại phương tiện là đối với phi đạo mà hành Phật đạo, bốn thứ ma không làm xao động. Nhất thừa phương tiện là đối với tướng không hai thông đạt tất cả hành của chúng sinh. Biến hóa phương tiện là dùng nguyện lực tự tại sinh về tất cả cõi nước Phật thanh tịnh.

Như thế, này thiện nam! Giác trí ban đầu này đối với tướng hữu, vô là không hai, thật trí này soi chiếu công dụng mà không chứng không đắm, không xuất, không điên đảo là phương tiện quán. Ví như nước và sóng chẳng phải một, chẳng phải khác, cho đến tất cả hành Ba-la-mật, Thiền định, Đà-la-ni chẳng phải một, chẳng phải hai nên mỗi một hành thành tựu. Có thể với bốn a-tăngkỳ kiếp tu hành, nhập vào công đức tạng môn này không còn nghiệp tập sinh trong ba cõi, cho nên đã xong không còn gây tạo nghiệp mới. Nhờ nguyện lực nên tự tại sinh về các cõi Tịnh độ. Vì thường tu xả quán nên chứng giác vị Cưu-ma-la-già, thường đem bốn Đại bảo tạng dạy cho người khác.

Lại nữa, Bồ-tát Đức Tuệ dùng bốn Tâm vô lượng diệt các phiền não sân… trong ba cõi trụ trong Trung nhẫn thực hành tất cả công đức. Có thể với năm a-tăng-kỳ kiếp thực hành đại Bi quán, tâm tâm thường hiện tiền, nhập giai vị vô tướng Xà-đà-ba-la, giáo hóa tất cả chúng sinh.

Lại nữa, người hành đạo có trí tuệ sáng suốt, thường dùng vô tướng nhẫn thực hành ba minh quán. Biết các pháp trong ba đời, không đến, không đi, không có trú xứ. Tâm tâm vắng lặng, dứt bỏ phiền não si trong ba cõi, được ba minh tất cả công đức quán. Với sáu a-tăng-kỳ kiếp tu tập vô nguyện, thường sinh về tất cả Tịnh độ. Vạn a-tăng-kỳ kiếp tu tập vô lượng Phật quang Tam-muội có khả năng hiện trăm vạn hằng hà sa thần lực chư Phật, trụ vào địa vị Bạcgià-phạm, cũng thường nhập vào Tam-muội Phật hoa.

Lại nữa, quán Phật Bồ-tát, trụ trong Tịch diệt nhẫn, kể từ khi mới phát tâm cho đến nay trải qua trăm muôn a-tăng-kỳ kiếp, tu trăm muôn a-tăng-kỳ công đức, chứng đạt tất cả pháp giải thoát, an trụ trên đài Kim cang.

Này thiện nam! Từ Tập nhẫn cho đến Đảnh Tam-muội đều gọi là hàng phục tất cả phiền não, tin vô tướng, diệt tất cả phiền não, sinh trí giải thoát, thấu rõ Đệ nhất nghĩa đế không gọi là kiến. Kiến là Nhất thiết trí, cho nên ta từ xưa đến nay đều nói chỉ có sự thấy biết của Phật là giác ngộ. Từ Đảnh Tam-muội trở xuống cho đến Tập nhẫn đều là chẳng thấy, chẳng biết, chẳng giác ngộ. Chỉ có Phật mới hiểu hoàn toàn, nên không gọi là Tín. Ở Tiệm tiệm phục thì tuệ tuy sinh diệt nhưng vì năng lực vô sinh diệt nên nếu tâm này diệt thì càng vô bất diệt. Vô sinh, vô diệt nhập vào lý tận Kim cang Tammuội, đồng với mé chân, bình đẳng với pháp tánh, nhưng chưa thể bình đẳng với vô đẳng đẳng. Ví như có người ở trên tòa cao nhìn xuống thì thấy tất cả. An trụ lý tận Tam-muội cũng giống như vậy. Thường tu tất cả hạnh, đầy đủ công đức tạng, nhập vào địa vị Bàgià-độ, thường trụ Phật tuệ Tam-muội.

Này thiện nam! Các Bồ-tát này đều có khả năm giáo hóa chúng sinh, giảng nói chánh nghĩa, thọ trì, đọc tụng, giải thích thật tướng trong cõi nước của tất cả Như Lai trong mười phương, nói cũng như ta ngày nay không khác.

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

–Sau khi ta diệt độ, lúc giáo pháp sắp diệt, thọ trì Bát-nhã bala-mật này là làm Phật sự lớn. Tất cả cõi nước an lập, an lạc nhân dân, cho nên ta phó chúc cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Tín nam, Tín nữ, người không có thế lực của vua thì không nên phó chúc. Các ông phải thọ trì, đọc tụng giải thích nghĩa lý.

Đại vương! Nay ta đã giáo hóa trăm ức núi Tu-di, trăm ức mặt trời, mặt trăng. Mỗi núi Tu-di có bốn châu thiên hạ. Cõi Diêm-phùđề ở phía Nam có mười sáu nước lớn, năm trăm nước vừa, mười ngàn nước nhỏ. Trong mỗi cõi nước xảy ra bảy tai nạn, tất cả quốc vương bị tai nạn nên thỉnh Pháp sư giảng đọc Bát-nhã ba-la-mật, bảy tai nạn liền tiêu diệt, bảy phước liền sinh, dân chúng an vui. Đế vương hoan hỷ.

Bảy tai nạn đó là gì?

Tai nạn thứ nhất là mặt trời, mặt trăng vận hành không đúng quy luật. Thời tiết trái ngược, hoặc xuất hiện mặt trời màu đỏ, mặt trời mầu đen, hoặc hai, ba, bốn, năm mặt trời xuất hiện, hoặc mặt trời bị nhật thực không chiếu sáng, hoặc vòng mặt trời xuất hiện một, hai, ba, bốn, năm lớp. Khi những việc quái lạ xuất hiện thì nên đọc tụng, giảng nói kinh này.

Nạn thứ hai là hai mươi tám vì sao vận hành không đúng độ. Kim tinh, Tuệ tinh, Luân tinh, Quỷ tinh, Hỏa tinh, Thủy tinh, Phong tinh, Đao tinh, Nam đẩu, Bắc đẩu, Ngũ trấn đại tinh, Nhất thiết quốc chủ tinh, Tam công tinh, Bách quan tinh, các ngôi sao như vậy thay nhau biến hiện. Khi những việc như vậy xảy ra cũng nên đọc tụng, giảng nói kinh này.

Nạn thứ ba là lửa lớn đốt cháy cõi nước, nhân dân bị thiêu chết, hoặc lửa quỷ, lửa rồng, lửa trời, lửa thần núi, lửa người, lửa cây cối, lửa đạo tặc biến hiện quái dị như thế thì nên đọc tụng, giảng nói kinh này.

Nạn thứ tư là nước lớn cuốn trôi nhân dân, thời tiết trái ngược. Mùa đông thì mưa, mùa hạ tuyết rơi, mùa đông sấm sét nổi lên. Tháng sáu mưa đá, mưa đỏ, mưa đen, mưa xanh, mưa đất đá, mưa cát sỏi. Nước sông chảy ngược, đá trôi, núi lở. Khi những sự biến quái như vậy xảy ra thì nên đọc tụng, giảng nói kinh này.

Nạn thứ năm là gió lớn thổi mạnh, giết hại nhân dân, đất nước, sông núi, cây cối, cùng lúc đều bị tiêu diệt, phi thời có gió lớn, gió đen, gió đỏ, gió xanh, gió trời, gió đất, gió lửa. Khi những tai biến như thế xảy ra thì cũng nên đọc tụng kinh này.

Nạn thứ sáu là khắp các cõi nước nhiệt độ rất cao, thiêu đốt cỏ cây, hạn hán làm ngũ cốc không thu hoạch được. Mặt đất bị thiêu đốt, nhân dân bị tiêu diệt. Khi những tai biến như thế xảy ra thì cũng nên đọc tụng kinh này.

Nạn thứ bảy là giặc bốn phương đến xâm chiếm. Trong nước giặc loạn nổi lên; giặc lửa, giặc nước, giặc gió, giặc quỷ làm cho nhân dân ly loạn, chiến tranh nổi lên. Khi các tai biến như thế xảy ra thì nên đọc tụng kinh này.

Đại vương! Bát-nhã ba-la-mật này là căn bản tinh thần của chư Phật, Bồ-tát và tất cả chúng sinh, là cha mẹ của tất cả quốc vương, là phù lệnh của nhà vua, là hạt châu diệt quỷ, là hạt châu như ý, là châu hộ quốc, là tấm gương chiếu soi trời đất, là vật báu của Long vương.

Phật lại bảo:

–Đại vương nên làm lá phướn chín màu, dài chín trượng, với hoa chín màu, cao hai trượng, ngàn cây đèn đều cao năm trượng, chín cái rương ngọc, chín cái khăn ngọc, làm cái án bằng bảy báu để đăt kinh này.

Nếu khi vua đi thì ngay ở trước vua cách một trăm bước, kinh này thường phát ra ánh sáng. Trong phạm vi một ngàn dặm, bảy tai nạn không sinh khởi, tội lỗi không sinh ra. Nếu khi vua đứng thì có trướng bảy báu che mát, trong đó có tòa cao bằng bảy báu dùng để kinh, ngày ngày cúng dường, rải hoa, đốt hương, như cúng dường cha mẹ, như thờ Đế Thích.

Đại vương! Ta dùng năm loại mắt thấy rõ ba đời, tất cả quốc vương đều do thời quá khứ đã theo hầu năm trăm Đức Phật, nên được làm đế vương, quốc chủ, vì thế các bậc Thánh, La-hán đều sinh ở cõi nước kia làm nhiều lợi ích. Khi vua hết thuốc thì bậc Thánh, La-hán không còn nữa, bảy tai nạn lại khởi lên.

Đại vương! Nếu đời vị lai có các quốc vương hộ trì Tam bảo thì ta sẽ sai năm vị Bồ-tát có sức mạnh đến ủng hộ vị quốc vương ấy. Bồ-tát Kim cang Hống tay cầm bánh xe ngàn báu đến che chở nước ấy, Bồ-tát Long Vương Hống tay cầm đèn Kim luân đến che chở nước ấy, Bồ-tát Vô Uy Thập Lực Hống tay cầm chày Kim cang đến che chở nước ấy, Bồ-tát Lôi Điện Hống tay cầm mành lưới ngàn báu đến che chở nước ấy, Bồ-tát Vô Lượng Lưc Hống tay cầm năm mươi luân kiếm đến che chở nước ấy, năm vị Bồ-tát này có năm ngàn vị đại thần vương, làm việc lợi ích lớn ở quốc độ đó, các ông nên lập tượng cúng dường.

Đại vương! Nay ta đem Tam bảo giao phó cho tất cả quốc vương các ông. Nước Kiều-tát-la, nước Xá-vệ, nước Ma-kiệt-đà, nước Ba-la-nại, nước Ca-tỳ-la-vệ, nước Cưu-thi-na, nước Cưu-diệmdi, nước Cưu-lưu, nước Kế tân, nước Di-đề, nước Già-la-càn, nước Càn-đà-vệ, nước Sa-đà, nước Tăng-già-đà, nước Kiến-nô-quật-xà, nước Ba-đề, tất cả các vị quốc vương này đều nên thọ trì Bát-nhã bala-mật.

Bấy giờ, các đại chúng và A-tu-la vương nghe Phật nói bảy điều đáng sợ ở đời vị lai thì khắp mình nổi ốc, lớn tiếng kêu than, nguyện không sinh về cõi nước ấy.

Bấy giờ, mười sáu vị quốc vương liền giao phó việc nước lại cho người em, rồi xuất gia tu đạo, quán bốn đại, bốn sắc là tướng thắng xuất; bốn đại, bốn sắc không dùng thức, không nhập vào hành tướng. Ba mươi nhẫn là tướng Sơ địa, vị quốc vương bỏ thân phàm phu nhập vào thân Lục trụ, bỏ thân bảy lần sinh tử nhập vào tám Pháp thân, chứng tất cả hành Bát-nhã ba-la-mật.

Mười tám Phạm thiên, A-tu-la vương, đắc ba thừa quán đồng với cảnh vô sinh. Các vị ấy lại rải hoa cúng dường: Không pháp tánh hoa, Thánh nhân hoa, Thuận hoa, Vô sinh hoa, Pháp lạc hoa, Kim cang hoa, Duyên quán trung đạo hoa, Tam thập thất phẩm hoa, để rải lên Phật và chín trăm ức Đại Bồ-tát. Các chúng sinh đã chứng đạo quả dùng tâm Không hoa, tâm Thọ hoa, lục Ba-la-mật hoa, Diệu giác hoa rải lên Phật và đại chúng. Mười ngàn vị Bồ-tát nhớ nghĩ chúng sinh ở vị lai liền chứng Tam-muội diệu giác, Tammuội viên minh, Tam-muội Kim cang, Tam-muội thế đế, Tam-muội chân đế, Tam-muội đệ nhất nghĩa đế. Tam đế Tam-muội này là Nhất thiết Tam-muội vương Tam-muội, cũng được Vô lượng Tammuội, Thất tài Tam-muội, hai mươi lăm hữu Tam-muội, Nhất thiết hành Tam-muội. Lại có mười ức vị Bồ-tát chứng Kim cang đảnh, thành Chánh giác.

 

Phẩm 8: CHÚC LỤY

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

–Ta đã dạy các ông sau khi ta diệt độ khoảng tám mươi năm, tám trăm năm, tám ngàn năm khi không có Phật, Pháp, Tăng, không có tín nam, tín nữ, kinh Tam bảo này giao phó cho các quốc vương và bốn đệ tử thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa, khai mở tuệ đạo cho chúng sinh trong ba cõi. Các vị tu bảy bậc hiền, hành mười điều lành, giáo hóa tất cả chúng sinh. Vào đời ngũ trược, sau này Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Tín nam, Tín nữ, tám bộ Thiên long, tất cả Thần vương, quốc vương, đại thần, thái tử, vương tử, tự ỷ dòng họ cao quý, phá hoại giáo pháp của ta, lập ra điều luật hạn chế không cho Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni xuất gia học đạo, cũng không cho tạo tượng Phật, xây tháp. Lập ra các chức quan quản lý, kiềm chế bốn chúng đệ tử Phật, ghi chép Tăng chúng vào sổ bộ. Tỳ-kheo đứng dưới đất, còn cư sĩ ngồi trên tòa cao. Binh nô làm Tỳ-kheo, thọ pháp thỉnh riêng. Các Tỳkheo tri thức cùng với các Tỳ-kheo thân thiện tổ chức trai hội, cầu phước như pháp ngoại đạo, chẳng đúng với giáo pháp của Phật; nên biết khi ấy Chánh pháp không bao lâu sẽ bị hoại diệt.

Đại vương! Các vị đó tự ỷ vào oai lực, phá hoại đạo pháp của ta, cấm chế bốn chúng đệ tử, làm cho nhân dân gặp nhiều khổ hoạn, bệnh tật, đó là nhân duyên phá nước. Nói về tội lỗi đời ngũ trược cho đến suốt kiếp cũng không hết được.

Đại vương! Đời mạt pháp ở vị lai có các Tỳ-kheo bốn bộ đệ tử cùng quốc vương, đại thần ngang ngược làm nhiều hành vi phi pháp, trói buộc Tỳ-kheo như pháp ngục tù, khi ấy nên biết giáo pháp diệt tận.

Đại vương! Sau khi ta diệt độ, bốn bộ đệ tử ở đời vị lai, các tiểu quốc vương, thái tử, vương tử vào chùa ủng hộ Tam bảo, lần lần cùng nhau phá hoại Tam bảo, giống như côn trùng ở trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, chẳng phải ngoại đạo đến phá. Người phá hoại Phật pháp mắc tội rất lớn, làm cho chánh pháp suy đồi, nhân dân không có chánh hạnh, do đó dần dần làm ác, mạng sống ngày một giảm dần cho đến một trăm năm. Người phá hoại Phật pháp sinh con bất hiếu, quyến thuộc bất hòa, Thiên thần không giúp đỡ. Bệnh truyền nhiễm và ác quỷ thường đến làm hại, tai họa thường xảy ra, chết đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh làm người mắc quả báo làm binh nô, như bóng theo hình, như người ngày đêm sống với lửa cháy. Quả báo trong ba cõi cũng giống như vậy.

Đại vương! Trong đời vị lai, quốc vương, thái tử, bốn bộ đệ tử, ngang ngược với đệ tử Phật, chế ra cấm giới như pháp cư sĩ, như pháp binh nô, hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ghi tên làm sứ giả cho quan lại, đều chẳng phải đệ tử của ta. Đó là pháp binh nô, hoặc lập sổ ghi tên quản lý Tăng chúng như pháp ngục tù, như pháp binh nô, nên biết khi ấy Phật pháp không còn bao lâu sẽ bị hoại diệt.

Đại vương! Ở đời vị lai, các tiểu quốc vương, bốn bộ đệ tử gây ra tội lỗi làm nhân duyên phá hoại đất nước, thân tự làm các việc chẳng phải Phật, Pháp, Tăng.

Đại vương! Trong đời vị lai việc truyền bá kinh này là pháp khí của bảy Đức Phật, là đạo thực hành của chư Phật mười phương. Các ác Tỳ-kheo thường cầu danh lợi, nói với quốc vương, thái tử, vương tử về nhân duyên phá hoại Phật pháp, phá hoại đất nước. Các vị quốc vương mê muội tin theo lời nói này, ngang ngược lập pháp chế không y theo giới Phật, đó là nhân duyên phá hoại Phật pháp, phá hoại đất nước. Khi ấy nên biết chánh pháp không còn bao lâu nữa sẽ bị hóa diệt.

Bấy giờ, khi nghe Đức Phật bảy lần răn dạy những việc ở đời vị lai, mười sáu vị đại quốc vương buồn rầu, than khóc động đến cả Tam thiên. Mặt trời, mặt trăng, năm ngôi sao, hai mươi tám tinh tú mất hẳn ánh sáng.

Bấy giờ, các quốc vương đều dốc lòng thọ trì lời Phật, không cấm chế bốn bộ đệ tử Phật xuất gia hành đạo. Bấy giờ, đại chúng mười tám vị Đại Phạm vương, các Thiên tử ở sáu tầng trời Lục dục đều khen ngợi. Khi ấy nên biết thế gian như hư không, không có Phật xuất hiện.

Khi Phật nói nhân duyên hộ trì Phật, hộ trì đất nước thì vô lượng đại chúng, trăm ức Bồ-tát Di-lặc, Sư Tử Nguyệt… trăm ức Xálợi-phất, Tu-bồ-đề… năm trăm ức, mười tám Phạm thiên, các thiên tử sáu tầng trời cõi Dục, ba cõi, sáu đường, A-tu-la… nghe như vậy hết sức vui mừng, lễ Phật, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật.

Pages: 1 2