KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI

Hán dịch: Đời Cao Tề, Tam tạng Na-liên-đề-da-xá, người nước Thiên Trúc
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 6

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Đồng tử Nguyệt Quang:

–Đại Bồ-tát cần phải thành tựu phương tiện quyền xảo. Này Đồng tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo?

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát này đối với tất cả chúng sinh nên khởi tưởng thân quyến. Các chúng sinh này có bao nhiêu điều thiện thì đều sinh tâm tùy hỷ. Ngày đêm sáu thời, đối với phước đức của họ nên sinh tâm tùy hỷ nhờ duyên Nhất thiết trí, duyên Nhất thiết trí nên sinh ra phước đức ở nơi tất cả chúng sinh. Vị Bồ-tát này nhờ căn lành này nên mau được Tam-muội này, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ Đức Phật liền nói bài kệ:

Xem các chúng sinh là thân quyến
Nếu có tất cả các phước đức
Ngày đêm sáu thời với việc thiện
Thường khởi tâm tùy hỷ với họ.
Ta tùy hỷ thọ trì giới tịnh
Cho đến mạng chung không làm ác
Bồ-tát đầy đủ thanh tịnh tín
Bao nhiêu phước đức đều tùy hỷ.
Tùy hỷ tin thích các Đức Phật
Đối với Pháp, Tăng tin cũng vậy
Tùy hỷ hay thờ kính Như Lai
Vì cầu Vô thượng Bồ-đề vậy.
Tùy hỷ họ không có ngã kiến
Không chúng sinh kiến và thọ mạng
Tùy hỷ người không khởi ác kiến
Nghe pháp thắng không thêm yêu thích.
Ở trong Phật pháp sinh tùy hỷ
Được xuất gia rồi thọ cụ giới
Ít muốn, biết đủ, sống giữa rừng
Ôm lòng từ mẫn như cây kiếm.
Tùy hỷ độc nhất, không bạn lữ
Ở rừng giống như đao trong vỏ
Tịnh mạng thường hay ít mong cầu
Không có lừa dối với bạn thân.
Tùy hỷ nơi tịnh, lìa huyên náo
Không có ái luyến với thân thuộc
Ở trong ba cõi thường sợ hãi
Du hành thế gian không nhiễm trước.
Tùy hỷ xa lìa người hý luận
Nhàm chán tất cả sự sinh tử
Không có tranh cãi, hành tịch tĩnh
Được Tam-muội này đâu có khó.
Tùy hỷ sự biết người thiện, ác
Thường lìa tất cả việc tranh luận
Đi đến rừng cây chỗ không nhàn
Cầu Thánh giải thoát, chân Phật tử.
Tùy hỷ thường ở chỗ không nhàn
Không tự khen mình, chê kẻ khác
Tùy hỷ ưa thích sự công đức
Ở trong Phật pháp không phóng dật.
Nếu có các công đức trợ đạo
Nhờ không phóng dật làm căn bản
Nếu có Bồ-tát lìa phóng dật Được
Tam-muội này sẽ không khó.
Được gặp Phật pháp Tạng thứ nhất
Và được xuất gia Tạng thứ hai
Tịnh tín không uế, Tạng thứ ba
Được Tam-muội này tạng thứ tư.
Nghe nơi cảnh giới Phật Đại Không
.Nghe không hủy báng là Thắng tạng
Nếu được biện tài là Đắc tạng
Được Tam-muội này cũng Thắng tạng.
Ta đã nói các thiện pháp ấy
Là Giới, Văn, Xả và Nhẫn nhục
Nhờ không phóng dật làm căn bản
Phật nói đó là Tạng tối thắng.
Nếu có Bồ-tát không phóng dật
Liền được đầy đủ các biện tài
Với trí tuệ Phật, không nghi hoặc
Được Tam-muội này sẽ không khó.

Này Đồng tử! Vì nghĩa này cho nên ông phải trụ nơi hạnh không phóng dật, các Bồ-tát này nên tu học. Vì sao? Vì người không phóng dật sẽ chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, huống gì Tam-muội này.

Này Đồng tử! Vì sao Bồ-tát trụ không phóng dật? Này Đồng tử! Bồ-tát này thành tựu tụ Thiện tịnh giới.

Này Đồng tử! Vì sao thành tựu tụ Thiện tịnh giới? Này Đồng tử! Bồ-tát này không bỏ tâm Nhất thiết trí, học sáu pháp Ba-la-mật.

Này Đồng tử! Nếu Bồ-tát không bỏ tâm Nhất thiết trí, hành sáu pháp Ba-la-mật sẽ được các lợi ích, ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.

Này Đồng tử! Bồ-tát tin thích Bố thí ba-la-mật, được mười lợi ích. Những gì là mười?

  1. Hàng phục phiền não keo kiết.
  2. Tu tập tâm xả liên tục.
  3. Cùng với chúng sinh đồng hưởng tài sản và của cải, nhiếp thọ kiên cố cho đến diệt độ.
  4. Sinh nhà giàu có.
  5. Dù sinh ở đâu vẫn có tâm thí hiện tiền.
  6. Thường được bốn chúng yêu thích.
  7. Đối với bốn chúng không khiếp, không sợ.
  8. Tiếng tốt lan khắp mọi nơi.
  9. Tay chân mềm mại, lòng bàn chân bằng phẳng.
  10. Cho đến cây đạo (thành đạo) không lìa Thiện tri thức. Là đệ tử Thanh văn, Bồ-tát của chư Phật.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát tin thích bố thí được mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Hàng phục sự keo kiết
Tăng trưởng tâm bố thí
Giữ tâm thí kiên cố
Sinh vào nhà giàu có.
Ngay tại chỗ sinh ra
Hay phát khởi tâm xả
Bỏ nhà đi xuất gia
Các chúng sinh yêu mến.
Nếu vào trong đại chúng
Không sợ không khiếp nhược
Tiếng tốt lan khắp nơi
Khắp thành ấp, tụ lạc.
Tay chân thường mềm mại
Thành tựu tướng đầy đủ
Gặp được Thiện tri thức
Thanh văn, Bồ-tát, Phật.
Thường ôm lòng tuệ thí
Chưa bao giờ tiếc lẫn
Được chúng sinh kính yêu
Đó là bỏ lợi dưỡng.
Sinh vào nhà giàu có
Tâm thường ưa bố thí
Nhiếp thọ xả kiên cố
Là vui nơi bố thí.
Ở trong các đại chúng
Tiếng tốt lan khắp nơi
Tay chân đẹp, mềm mại
Là lợi ích lạc thí.
Được gặp Thiện tri thức
Là Phật và Bồ-tát
Thấy rồi đến cúng dường
Là lợi lạc bố thí.

Này Đồng tử! Bồ-tát giữ tịnh giới có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. Đầy đủ Nhất thiết trí.
  2. Học theo những điều chư Phật đã học.
  3. Không bị người trí hủy báng.
  4. Không thoái lui thệ nguyện.
  5. An trụ tu hành.
  6. Vất bỏ sinh tử.
  7. Ưa thích Niết-bàn.
  8. Được tâm không trói buộc.
  9. Được thắng Tam-muội.
  10. Không thiếu tài sản tín tâm.

Đó là mười loại lợi ích của tịnh giới.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Đầy đủ Nhất thiết trí
Như Phật đã tu học
Người trí tuệ không chê
Thường không có sợ hãi.
Thệ nguyện không thoái chuyển
Hay an trụ Thắng hạnh
Tránh khỏi chỗ sinh tử
Ưa thích đến Niết-bàn.
An trụ không chướng ngại
Mau được Thắng Tam-muội
Trụ nơi tịnh giới tụ
Xa lìa sự bần cùng.
Trí ấy thường thanh tịnh
Tu tập sở học Phật
Không bị Thánh quở trách
Nhờ giới thanh tịnh vậy.
Người trí thề không lui
Dũng mãnh trụ Thiện hạnh
Thấy đời các thứ lỗi
Tránh đời, hướng diệt đạo.
Tâm ấy không chướng ngại
Nhờ sức trụ tịnh giới
Mau được định, lìa não
Đó là lợi tịnh giới.

Này Đồng tử! Bồ-tát trụ nơi Từ nhẫn có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. Lửa không thể đốt.
  2. Dao không thể cắt.
  3. Độc không thể trúng.
  4. Nước không thể trôi.
  5. Được phi nhân che chở.
  6. Được thân tướng trang nghiêm.
  7. Đóng kín các ác đạo.
  8. Tùy theo sự ưa thích, sinh nơi Phạm thiên.
  9. Ngày đêm thường an ổn.
  10. Thân thể luôn luôn hỷ lạc.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát thành tựu mười thứ lợi ích của Từ nhẫn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Người này lửa không đốt
Dao gậy không tổn thương
Thuốc độc không thể trúng
Nước lớn không thể trôi.
Phi nhân thường hộ vệ
Đủ ba hai tướng tốt
Đóng kín các đường ác
Đều là lợi Từ nhẫn.
Đế Thích và Phạm thiên
Muốn được đâu có khó
Thường ở chỗ an lạc
Hoan hỷ khó nghĩ bàn.
Dao, gậy, lửa không hại
Nước độc chẳng tổn hại
Thiên, Long, Dạ-xoa giúp
Trú Nhẫn được lợi này.
Thân ba hai tướng tốt
Không sợ nơi ác đạo
Chết được sinh Phạm thiên
Lợi lạc trú Từ nhẫn.
Ngày đêm thường an ổn
Toàn thân được vui vẻ
Nơi chúng, thân thanh tịnh
Không có các chướng nạn.

Này Đồng tử! Bồ-tát tinh tấn có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. Người khác không thể chiết phục.
  2. Được Phật nhiếp thọ.
  3. Được phi nhân hộ vệ.
  4. Nghe pháp không quên.
  5. Điều chưa nghe được nghe.
  6. Tăng trưởng biện tài.
  7. Được tánh Tam-muội.
  8. Ít bệnh ít não.
  9. Ở đâu cũng được ăn uống, ăn xong tiêu hóa tốt.
  10. Như hoa Ưu-bát-la hiếm có.

Này Đồng tử! Đó là mười thứ lợi ích của sự Tinh tấn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Thành tựu khó chiết phục
Tâm ấy không hối nhiệt
Được phi nhân hộ vệ
Thường nhìn thấy chư Phật.
Tăng trưởng Thắng biện tài
Đạt đến trí vô tận
Đạt được tánh Tam-muội
Không còn các bệnh não.
Ăn uống các ẩm thực
Vào bụng tiêu hóa tốt
Như hoa sen dưới nước
Cứ tăng trưởng dần dần.
Pháp được nghe như vậy
Nghe rồi được tăng trưởng
Đêm ngày thường nhớ nghĩ
Không bao giờ bỏ qua.
Như Lai luôn dũng mãnh
Nhiều kiếp luôn tinh tấn
Hàng phục chúng ma quân
Chứng đạo, trừ lo sợ.
Bồ-tát cứu các cõi
Không luyến tiếc thân mạng
Tinh tấn khởi Pháp tạng
Ta hiển bày đức ấy.
Tinh tấn khó hàng phục
Được chư Phật nhiếp thọ
Nếu ai được lợi này
Sẽ mau được chứng đạo.
Không quên mất điều nghe
Được nghe điều chưa nghe
Tăng trưởng sức biện tài
Là lợi ích tinh tấn.
Mau được Tam-muội này
Không có các bệnh não
Tùy theo sự ăn uống
Tiêu hóa được an lạc.
Ngày đêm tăng thiện pháp
Thường siêng không giải đãi
Không lâu được Bồ-đề
Nhờ vững tâm tinh tấn.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tương ưng với thiền có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. An trụ nghi thức.
  2. Thực hành cảnh giới Từ.
  3. Không có các nhiệt não.
  4. Thủ hộ các căn.
  5. Được hỷ lạc vô tham.
  6. Xa lìa ái dục.
  7. Tu thiền bất không.
  8. Giải thoát lưới ma.
  9. An trụ cảnh Phật.
  10. Hoàn toàn giải thoát.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát tương ưng với thiền định có mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Họ không sống phi pháp
An trụ nơi nghi thức
Du hành cảnh phương tiện
Xa lìa phi cảnh giới.
Trong tâm không nóng bức
Khéo điều phục các căn
Thọ thiền định thắng lạc
An tọa lìa các duyên.
Xa lìa dục khát ái
Ăn món ăn thiền định
Giải thoát cảnh giới ma
An chỉ hành xứ Phật.
Thích sống giữa rừng cây
Cho là phương tiện tốt
Tu giải thoát chân thật
Diệt trừ các khổ não.
An tâm, pháp thanh tịnh
Xa lìa không nghi thức
Trụ cảnh, lìa phi cảnh
Sống Thiền được lợi lạc.
Tâm không sinh nóng bức
Chứng Thánh lạc vô thực
Thân tâm thường mát mẻ
Thiền tương ưng lợi lạc.
Nơi “không”, căn vắng lặng
Trong tâm lìa tạp loạn
Đạt được thiện hơn người
Nhờ phương tiện lìa dục.
Tâm không dục nhiễm tạp
Thường xa cảnh giới ma
An chỉ hành xứ Phật
Họ hoàn toàn giải thoát.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. Tất cả đều xả, không thủ giữ tưởng bố thí.
  2. Trì giới không thiếu sót, nhưng không chấp mê vào giới.
  3. Trụ nơi sức nhẫn, nhưng không trụ tưởng chúng sinh.
  4. Thực hành tinh tấn, nhưng lìa thân tâm.
  5. Tu thiền nhưng không chỗ trụ.
  6. Ma vương Ba-tuần không thể nhiễu loạn.
  7. Đối với ngôn luận người khác, tâm không lay động.
  8. Có thể ra khỏi biển sinh tử.
  9. Đối với chúng sinh, tăng khởi lòng thương.
  10. Không thích đạo Thanh văn, Bích-chi-phật.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thành tựu mười thứ lợi ích như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Dũng mãnh bỏ tất cả
Nhưng không chấp tưởng thí
Hộ trì giới không khuyết
Cũng không có câu nệ.
Trí tuệ, tu nhẫn nhục
Nhưng không thấy chúng sinh
Dũng mãnh siêng tinh tấn
Xa lìa nơi thân tâm.
Tu tập thắng Thiền định
Không nương vào ba cõi
Chế ngự các ma mị
Công đức của tín tuệ.
Đối với các ngoại đạo
Trong tâm không lay động
Đến tận cùng sinh tử
Công năng của tín tuệ.
Với chỗ các chúng sinh
Thường khởi tâm đại Bi
Bâc Thanh văn, Duyên giác
Tâm chưa từng ưa thích.
Với xả tâm không chấp
Trì giới cũng không thủ
Nhẫn nhục lìa tưởng sinh
Là công năng tín tuệ.
Tinh tấn, mà xa lìa
Tu thiền không đắm trước
Không bị ma chế ngự
Là công năng tín tuệ
Không động ngôn luận người
Đạt tận cùng sinh tử
Thương chúng sinh vô hạn
Là công năng tín tuệ.
Đạo Thanh văn, Duyên giác
Không khởi tâm ưa thích
Là công đức học Phật
Là công năng tín tuệ.

Này Đồng tử! Bồ-tát Đa văn có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. Biết sự tiếp tay của phiền não.
  2. Biết sự trợ lực của thanh tịnh.
  3. Xa lìa nghi hoặc.
  4. Sự thấy ngay thẳng.
  5. Xa lìa phi đạo.
  6. An trụ đường chánh.
  7. Mở cửa cam lồ.
  8. Gần Bồ-đề Phật.
  9. Làm ánh sáng cho các chúng sinh.
  10. Không sợ ác đạo.

Này Đồng tử! Đó là mười thứ lợi ích của Đa văn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Đồng tử! Mười lợi này
Hiển bày nơi Đa văn
Là chư Phật Thế Tôn
Đã rõ biết như thật.
Phiền não và thanh tịnh
Thật biết hai trợ lực
Hay vứt bỏ phiền não
An trụ trong thanh tịnh.
Trí tuệ trừ nghi hoặc
Thấy tâm họ chánh trực
Thường xa lìa ác đạo
Dừng chân nơi đường chánh.
Khai mở cửa cam lồ
Gần nơi Bồ-đề Phật
Làm ánh sáng chúng sinh
Mà không sợ ác đạo.
Biết các phiền não giúp
Và thanh tịnh hỗ trợ
Dũng mãnh lìa phiền não
Nương vào pháp thanh tịnh.
Trừ các thứ nghi hoặc
Làm người khác chánh kiến
Vất bỏ đường hiểm ác
Đa văn trụ đường thiện.
Hay mở cửa cam lồ
Kiên cố gần Bồ-đề
Như ánh sáng chúng sinh
Mãi không sợ ác đạo.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát thực hành Pháp thí có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. Vứt bỏ việc ác.
  2. Hay làm việc thiện.
  3. Trụ pháp thiện nhân.
  4. Thanh tịnh cõi Phật.
  5. Đi đến đạo tràng.
  6. Bỏ việc tham ái.
  7. Hàng phục phiền não.
  8. Đối với chúng sinh thí phần phước đức.
  9. Tu tập tâm Từ đối với các chúng sinh.
  10. Thấy pháp, được sự hỷ lạc.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát thực hành pháp thí có mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Thực hành Thí tối thắng
Với pháp không tham tiếc
Mười thứ lợi lạc ấy
Đạo Sư đã nói rõ.
Vứt bỏ các việc ác
Thường thực hành nghiệp thiện
An trụ pháp thiện nhân
Tâm tu hành bố thí.
Hay tịnh các cõi Phật
Như Đức Phật đã nói
Đi đến nơi đạo tràng
Là kết quả Pháp thí.
Vất bỏ tất cả việc
Tu học với Pháp vương
Hàng phục các phiền não
Họ được đạo không khó.
Lòng Từ cho chúng sinh
Tất cả phần phước đức
Không khởi kết ganh ghét
Được niềm vui hơn người.
Bậc Trí lìa việc ác
Dũng mãnh làm việc thiện
Trụ pháp Thiện trượng phu
Bậc Pháp thí đạt được.
Thanh tịnh quốc độ Phật
Khởi thiện pháp trợ đạo
Đi gần đến đạo tràng
Đó là lợi pháp thí.
Với việc không tham ghét
Hay rõ việc tự tướng
Giải thoát các chấp trước
Việc ái không chướng ngại.
Bậc Trí phát tâm này
Khiến chúng sinh có phước
Lòng Từ không ganh ghét
Được vui trong thiện pháp.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát, an trụ nơi không, được mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. Đứng nơi chỗ Phật đứng.
  2. Tu thiền không chấp trước.
  3. Không thích tất cả sự thọ sinh.
  4. Đối với giới không chấp thủ.
  5. Không hủy báng Hiền thánh.
  6. Không tranh cãi đối với tất cả chúng sinh.
  7. Không làm việc chúng sinh.
  8. Trụ vào sự xa lìa tất cả việc ác.
  9. Không hủy báng chư Phật.
  10. Nhiếp thủ tất cả pháp bạch tịnh.

Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào Không nên được mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Chỗ trụ Bậc Thiên Nhân
Là Đạo Sư Thế Thân
Dũng mãnh hay an trụ
Đó là không thọ mạng.
Đạt được vui thiền định
Không đắm trước thế gian
Tâm không mong thọ sinh
Nhờ biết được pháp tánh.
Với giới nếu không chấp
Thành tựu giới vô lậu
Không sinh trong ác đạo
Thường an trụ dòng Thánh.
Trụ nơi không đấu tranh
Nhu nhuyến với thế gian
Biết rõ tất cả việc
Đúng thể tánh như thật.
Cho đến bỏ thân mạng
Không bài báng Như Lai
Quyết định nơi không pháp
Thân chủng không sợ hãi.
Thân tất cả thế gian
Phật đạo khó nghĩ bàn
Hay giữ nơi Phật đạo
Không nghi ngờ pháp Không.
Là chỗ Nhân Tôn trụ
Không phải chỗ ngoại đạo
Không nương thiền định lạc,
Không chúng sinh, thọ mạng.
Chưa bao giờ dừng nghỉ
Không y vào Thiền lạc
Biết pháp không thọ mạng
Luôn có tâm vô nguyện.
Khéo biết tự tánh pháp
Không nương các phiền não
Tin thích Phật Thắng Nhân
Tâm chưa từng chấp trước.
Thường không có đấu tranh
Quán việc, tu hành xả
An trụ đạo Chánh giác
Thọ trì pháp Như Lai.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát trụ nơi an tọa có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. Tâm không ô trược.
  2. Trụ nơi không phóng dật.
  3. Được chư Phật thương nhớ.
  4. Tin giác hạnh chân chánh.
  5. Không nghi trí Phật.
  6. Biết ân.
  7. Không hủy báng chánh pháp.
  8. Khéo hay phòng hộ giới cấm.
  9. Đạt đến địa vị điều phục.
  10. Chứng bốn vô ngại.

Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát trụ nơi an tọa có mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Trong tâm không uế, loạn
Xa lìa các phóng dật
Giữ hạnh không phóng dật
Cảnh giới của an tọa.
Niệm sáng chiếu soi đời
Tăng trưởng sự tin thích
Trí Phật khó nghĩ bàn
Phương tiện không nghi hoặc.
Hay biết ân chư Phật
Không bài báng chánh pháp
An trụ Thiện luật nghi
Đạt đến chỗ điều phục.
Được biện tài vô ngại
Thích sống ở giữa rừng,
Bỏ lợi dưỡng cung kính
Cảnh giới của an tọa.
Tâm họ không uế, loạn
Chưa bao giờ phóng dật
Kẻ trí thường cẩn thận
Đó là lợi tịch tĩnh.
Vô úy, thường ái niệm
Tin nơi việc Phật làm
Không nghi ngờ trí Phật
Đó là lợi tịch tĩnh.
Thường nhớ ân Như Lai
Không bài báng chánh pháp
Trụ phương tiện Luật nghi
Đó là lợi tịch tịnh.
Họ đã được điều phục
Mau chứng vô ngại biện
Diễn thuyết trăm ngàn kinh
Thường hành không trì trệ.
Mau được Bồ-đề Phật
Hộ trì các Phật pháp
Hàng phục các tà luận
Rộng làm Bồ-đề Phật.
Bồ-tát khi mạng chung
Vãng sinh nước Cực lạc
Phật Di-đà thuyết pháp
Mau được Nhẫn vô sinh.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát ưa thích sự không nhàm chán có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

  1. Thức tỉnh việc đời.
  2. Xa lìa các huyên náo.
  3. Không có tranh cãi.
  4. Sống chỗ không phiền não.
  5. Không tăng hữu lậu.
  6. Không sinh sự tranh tụng.
  7. An trụ sự yên lặng.
  8. Tùy thuận giải thoát tương tục.
  9. Mau chứng giải thoát.
  10. Ra sức tu hành để được Tam-muội.

Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát ưa thích sự không nhàn nên được mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Phật liền nói bài kệ:

Thành tựu sự ít việc
Xa lìa các huyên náo
Thành tựu không tranh cãi
Độc tịnh vui thanh nhàn.
Trong lòng không sân não
Không tăng trưởng hữu lậu
Thường hòa, không tranh tụng
Là lợi sống thanh nhàn.
Tâm an, sống tịch diệt
Thường ưa hạnh xa lìa
Tùy thuận không hệ lụy
Mau chứng đạo giải thoát.
Nơi rừng, tập thiền định
Vứt bỏ lỗi huyên náo
Lại không khởi tranh cãi
Là lợi sống núi rừng.
Thường xa lìa hữu vi
Thế gian, không ưa thích
Các lậu không tăng trưởng
Sống trong rừng có lợi.
Không sinh lỗi đấu tranh
Tâm thường thích tịch tĩnh
Khéo giữ thân, khẩu, ý
Trụ không, có lợi này.
Tùy thuận sự giải thoát
Mau được không chướng ngại
Thường ưa sống điềm tịnh
Là lợi ích thanh nhàn.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát ưa sống Đầu-đà, thường đi khất thực, có mười thứ lợi. Những gì là mười?

  1. Xô cờ ngã mạn.
  2. Không cầu thân ái.
  3. Không mong danh tiếng.
  4. Ở trong dòng Thánh.
  5. Không dua nịnh, không lừa dối, không hiện tướng lạ lại không kích động.
  6. Không tự cao.
  7. Không hủy báng người khác.
  8. Đoạn trừ yêu, giận.
  9. Nếu vào nhà người, không phải vì ăn uống, nhưng vì hành pháp thí.
  10. Người tu hành đầu-đà, nếu khi thuyết pháp được người tin thọ.

Này Đồng tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát thích tu hạnh Đầu-đà, đi khất thực có mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Người ấy không ngã mạn
Không mong cầu thân hữu
Lợi, suy, tâm bình đẳng
Nhờ sống hạnh Đầu-đà.
Không hoại hạt giống Thánh
Không lừa cũng không dối
Tự thân không cống cao
Cũng không khinh khi người.
Vất bỏ tâm yêu, giận
Thuyết pháp không mong cầu
Khi nói người tín thọ
Là lợi lạc khất thực.
Không cầu thân danh lợi
An trụ trong dòng Thánh
Ngay thẳng, không dua nịnh
Là lợi lạc Đầu-đà.
Không khen mình, chê người
Được khen không vui mừng
Nghe chê không áo não
Là lợi vui Đầu-đà.
Thí pháp không vì ăn
Vì không cầu cung kính
Lời nói, người tín thọ
Là lợi lạc Đầu-đà.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát an trụ các công đức lợi ích như vậy, ở chỗ không nhàn được thấy Phật tạng, đạt được Pháp tạng, đạt được Trí tạng, được tạng trí tuệ quá khứ, vị lai, hiện tại.

Này Đồng tử! Thế nào là được Phật tạng?

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát thích hạnh viễn ly, trụ nơi không nhàn, được năm thần thông. Những gì là năm?

  1. Thiên nhãn.
  2. Thiên nhĩ.
  3. Biết tâm người khác.
  4. Biết được đời trước.
  5. Cảnh giới thần thông.

Bồ-tát này dùng Thiên nhãn giới, thanh tịnh hơn người thường, vô lượng vô số các Đức Phật Thế Tôn ở phương Đông. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc cũng thế, bốn phương phụ, phương trên và dưới, cũng thấy vô lượng vô số chư Phật, thường được nhìn thấy, chưa từng xa lìa.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát được thấy Phật tạng.

Này Đồng tử! Sao là Đại Bồ-tát đạt được Pháp tạng?

Này Đồng tử! Đó là Đức Phật Như Lai nếu có thuyết pháp, vị Bồ-tát ấy dùng Thiên nhĩ giới thanh tịnh hơn người thường nghe được. Tất cả Bồ-tát này thường được nghe pháp, mà không xa lìa. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát đạt được Pháp tạng.

Này Đồng tử! Sao là Bồ-tát đạt được Trí tạng?

Này Đồng tử! Nhờ trí tuệ này, có thể thọ trì các pháp, đối với tất cả chúng sinh lấy tâm đại Bi làm đầu, dùng tâm không si mê mà thuyết pháp, biết được Pháp tạng. Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát đạt được Trí tạng.

Này Đồng tử! Sao là Đại Bồ-tát đạt được Trí tạng của quá khứ, vị lai và hiện tại?

Này Đồng tử! Bồ-tát này biết như thật tâm hạnh của các chúng sinh, chỉ do tâm hành thứ lớp khởi lên, quán pháp tự tâm để không loạn tưởng, tu tập phương tiện, như tự tâm hành. Các loại khác cũng vậy, tùy theo sắc được thấy, tiếng được nghe, có tâm ưa thích, hay không ưa thích đều biết như thật.

Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát được Trí tạng của quá khứ, hiện tại và vị lai.

Này Đồng tử! Nay ta lược nói trụ công đức như vậy, Đại Bồ-tát được tất cả Phật pháp, không phải địa vị của các Thanh văn và Bíchchi-phật, huống chi tất cả dị luận của ngoại đạo. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ta nhớ vô lượng kiếp quá khứ,
Có Phật Như Lai đại danh xưng
Hiệu là Phật Oai Đức Chúng Vương
Được các trời, người đến cúng dường.
Mười ức Tỳ-kheo đủ thần thông
Đạt được biện tài, được tự tại
Sống hạnh Đầu-đà, tâm điều phục
Phật ấy đầy đủ chúng như vậy.
Có bảy ức sáu ngàn vạn thành
Thành ấy chu vi hai ngàn dặm
Bấy giờ thế giới Diêm-phù-đề
Được làm bằng bảy báu tối thắng.
Thành ấy vi diệu rất mỹ lệ
Trăm vườn, nhà đẹp, được trang nghiêm
Khu vườn rừng ấy rất trùng điệp
Thường có các thứ hoa và quả.
Sinh trưởng các loại rừng cây lạ
Cây xoài và cây chuối Diêm-phù
Ca-ni, Chiêm-ba, Tất-lạc-xoa
Ni-câu, Tất-bát, các chim đậu.
Tần-già, Câu sí và Khổng tước
Nga vương, Xá-lợi rất hoan lạc
Các thứ tiếng chim rất kỳ lạ
Ca hót vui chơi trong trăm vườn.
Đề-đầu lại-tra, Thắng Võ vương
Tiếng chim Na-la, Câu phong, Hạc
Lông chim đẹp muôn màu muôn vẻ
Ở trên hoa sen, hót tiếng hay.
Có các loại khác sinh bằng trứng
Hót tiếng hòa nhã làm người vui
Nô đùa trong vườn tự vui chơi
Cùng nhau vui mừng kêu gọi nhau.
Hoa Mục-đa-bà-sư, Thâu-ca
Ba-lợi-da-đa Câu-la-bà
Cây Ta-ha-ca như mây phủ
Bát-đầu, Phân-đà, Câu-mâu-đầu.
Trong nước có nhiều các loại hoa
Trang điểm cho ao đẹp vi diệu
Các hoa hương lạ cùng trang sức
Khu vườn rừng ấy rất khả ái.
Ở Diêm-phù-đề có vị vua
Hiệu Kiên Cố Đức, chủ loài người
Nhà vua có đủ năm trăm con
Nhu nhuyến, đoan chánh học đủ nghề.
Quốc gia giàu có rất an ổn
Không có các lỗi thường hoan lạc
Mặt đất trải bằng các hương hoa
So với Thiên cung nào sai khác.
Vào lúc ấy, Pháp vương Mâu-ni
Tuyên xướng, định tịch diệt như vậy
Nói đạo các cõi như mộng huyễn
Không có sinh ra và kết thúc.
Thọ mạng chúng sinh bất khả đắc
Tất cả các pháp đều hư vọng
Như điện chớp trong không huyễn hóa
Lại như ngựa hoang, trăng trong nước.
Không có pháp sinh diệt đời này
Cũng không hướng đến việc đời sau
Nghiệp đã tạo ra không hoại mất
Quả trắng, đen ba đời không mất.
Không có đoạn, thường nơi các hành…
Không tập nơi nghiệp, không trụ hữu
Không tự tạo nghiệp đến tự thọ
Cũng không tự tác người khác thọ.
Không có đến cũng không có đi
Chúng sinh chẳng có cũng chẳng không
Không kiến thủ và ác kiến tụ
Cũng không chúng sinh và tịnh hạnh.
Vô tướng cú tịch diệt, vô sinh
Cảnh giới Phật, công Đức Như Lai
Đà-la-ni, mười Lực, biện tài
Là chỗ Thắng hạnh Phật Như Lai
Toàn pháp bạch tịnh công đức tụ
Lực Tổng trì trí đức tối thắng.
Thần túc biến hiện sức vô biên
Sáu Thông, biện tài nhờ đó có
Nơi tự tánh ấy chưa từng giảm
Hành cái vô hành, chẳng pháp hành.
Trong pháp giới này chẳng có đi
Hạnh này chẳng hành, chân pháp hành
Tánh chẳng âm thanh nhập tự tánh
Về nơi tự tánh Vô sở trụ.
Tự tánh hành không trụ, không y
Cảnh giới Phật ly trần tịch diệt
Định tối thắng định hành thắng định
Có chỗ trụ chắng hành tự tánh.
Thường có tự tánh, thường tùy thuận
Vi tế khó thấy câu bất động
Nó thường an rú, mà bất động
Trú vô sở trú, trú pháp tánh.
Không thể nói được trụ tự tánh
Là hành bất động trụ nơi pháp
Dùng âm thanh nói đạo không lời
Thể đạo âm thanh là pháp đạo.
Chẳng phân biệt tiếng có chỗ trụ
Tánh hạnh như vậy là pháp hạnh
Âm thanh nói ra, chẳng sinh hạnh
Thể tánh pháp ấy chân nghĩa hạnh.
Dùng âm thanh nói hạnh chúng sinh
Âm thanh chúng sinh hạnh vốn không
Trong đó văn tự không chỗ nhập
Trí tuệ rộng lớn, nghĩa cũng vậy.
Theo đạo Phật khen mà tu hành
Pháp lý sáng rạng, hạnh vi tế
Lìa hết trần cấu, tạng trí tuệ
Nếu có thể trụ không gì hơn.
Thường rưới mưa pháp thí thắng diệu
Là đạo chân nghĩa đệ nhất không
Xa trần, thanh tịnh, câu thứ nhất
Tịch diệt, thắng tịnh, lìa cấu nhiễm.
Không thủ, phân biệt và hý luận
Là câu tịch diệt Phật đã nói
Chẳng trụ đầu, giữa và sau cùng
Chẳng có, chẳng không, chẳng nơi chốn.
Đã biết tự tánh hành như vậy.
Là pháp vô đẳng Phật đã nói
Vua Kiên Cố Đức lúc ấy nghe
Lưỡng Túc Thế Tôn nói pháp định.
Cùng tám mươi ức na-do chúng
Hoan hỷ, kính tín đến chỗ phật
Nhà vua cúi lạy Nhân Trung Hùng
Với hết lòng tin cung kính Phật.
Thọ giáo rồi lui về một chỗ
Kính tâm chiêm ngưỡng chắp hai tay
Phật biết đức vua hạnh thuần tịnh
Căn, thức tự tại đến rốt ráo.
Thế Tôn biết tâm vua ưa thích
Nên nói Thắng Tam-muội như vậy
Đức vua nghe nói Đệ nhất nghĩa
Liền phát tâm tin vui vào Thánh đạo.
Vất bỏ tất cả bốn thiên hạ
Lìa vui ngũ dục để xuất gia
Đức vua nhờ đó xuất gia rồi
Thâm tín chắc chắn nơi Phật đạo
Tất cả mọi người Diêm-phù-đề
Thảy đều lìa dục đi xuất gia
Tỳ-kheo tăng, ni thích tập định
Đồ chúng Như Lai nhiều vô lượng.
Tất cả tự nhiên từ đất lên
Chư Thiên đều đến để hầu hạ
Pháp phục ca-sa từ cây sinh
Thanh tịnh vô cấu thật khả ái.
Cắt may, chằm vá đúng theo pháp
Là nhờ oai lực công Đức Phật
Đồng tử! Người nên xem vua ấy
Bỏ nhà xuất gia, bỏ thiên hạ.
Xem ba cõi này như cái máy
Để cầu vui lớn đại Bồ-đề
Vào đời vị lai, thời mạt pháp
Không thể bỏ nhà nghèo hèn ấy.
Gông cùm kèm kẹp khổ vô cùng
Nơi Thắng pháp này không niềm tin
Tuy bị phạt gông cùm, roi, gậy
Chửi mắng, hủy nhục, trăm ngàn cách.
Bị vua bức bách đều nhẫn chịu
Khốn khổ bần cùng, không bỏ nhà
Tiền của thiếu thốn, thọ mạng yểu
Uổng công cay đắng không phước báo.
Ngu si không học các nghề nghiệp
Người ấy thường sống nơi phàm tục
Bức bách vô nghĩa, hung, bạo ác
Tham lam giàu có đoạt của người.
Vui đùa, cười giỡn chê người thiện
Tự xưng đã phát tâm Bồ-đề
Yêu vợ người ta, đoạt của người
Xan tham, tật đố, nhiều phóng dật.
Lìa tâm thương xót, hướng ác đạo
Cũng tự cho rằng: Ta làm Phật
Thấy người khổ não sinh vui thích
Phá giới, bạo ngược, ôm lòng ác.
Không nhớ báo ân, phá hoại người
Đại đức vì ta nói pháp hạnh
Nghe người nói họ hành Bồ-đề
Lại đối vị ấy sinh sân hận.
Nếu thấy Pháp sư ít lỗi lầm
Phóng đại nói thêm trăm ngàn thứ
Đồng tử! Nay ngươi nghe ta nói
Với hạng người ấy chớ thân cận.
Nếu muốn cầu chứng đạo Bồ-đề
Cho đến trong mộng chớ gần chúng
Trong hạnh Đầu-đà vô lượng đức
Nơi vô biên kiếp mà diễn thuyết.
Với đức như vậy không an trụ
Không bao giờ chứng đạo Bồ-đề
Tâm ấy thanh tịnh luôn khéo nói
Tịnh giới, tâm hòa, lời thiện diệu.
Chỗ chư tôn trưởng thường tịnh tâm
Không lâu liền được Tam-muội này
Không theo ngã mạn sinh uế ác
Tâm ấy thanh tịnh thường thành tựu.
Vứt bỏ kiêu mạn và sân nhuế
Hay được Thắng Tam-muội như vậy
Thường nhớ công đức tụ chư Phật
Da Phật sắc vàng, vô lượng đức.
Các tướng tự trang nghiêm thân Phật
Như các sao đêm thu yên tĩnh
Tràng phan, dù lọng và trướng đẹp
Hương xoa, hương bột và vòng hoa
Cúng dường tối thắng Bậc Vô Đẳng
Không lâu sẽ được Tam-muội này
Chiên-đàn trầm thủy và hương bột
Đèn dầu tô lạc, vô lượng thứ.
Đem cúng hằng sa tháp miếu Phật
Không lâu sẽ được Tam-muội này
Tỳ-bà, không hầu, tiếng trống hay
Sáo, địch tấu lên cùng tán thán.
Vô số tiếng hay trăm ngàn vạn
Cúng dường Bậc Tối Thắng lìa ác
Tạo tác vô lượng hình tượng Phật
Điêu khắc thật đẹp các thứ báu.
Bậc Tối Thắng đoan chánh mỹ diệu
Không lâu sẽ được Tam-muội này
Thường sống giữa rừng, thích tịch tĩnh
Vứt bỏ tụ lạc, lìa tâm đắm.
Thích sống một mình giống như kiếm
Không lâu sẽ được Tam-muội này
Ta là Pháp vương, ngươi con ta
Tùy thuận học ta hạnh Tam-muội.
Xưa ta được Bậc Đại Danh Xưng
Danh hiệu ngài là Kiên Cố Vương
Xưa ta cúng dường vô lượng Phật
Hằng mong hộ trì giới thanh tịnh.
Ở chỗ Thập Lực lòng cung kính
Để cầu được thắng định như vậy
Ngày xưa ta từng bỏ vợ con
Bỏ đầu, tay chân, mắt và tai.
Chưa từng khởi sinh tâm hạ liệt
Để cầu Tam-muội thắng tịch này
Voi ngựa xe cỡi vô lượng thứ
Châu báu nhà cửa thí tất cả.
Trong tâm không hề có hối tiếc
Để cầu được thắng định như vậy
Nô tỳ, lúa thóc nhiều vô số
Các thứ y phục và ẩm thực.
Đem cho tất cả người đến xin
Để cầu được thắng định như vậy
Ma-ni, trân châu và vàng bạc
Lưu ly kim cang, tiền, ngọc báu.
Tất cả sở hữu đều đem cho
Để cầu được thắng định như vậy
Ta bỏ châu báu điểm tô thân
Anh lạc, ấn tay, sư tử điều.
Mão trời lụa báu hơn trăm thứ
Để cầu được thắng định như vậy
Y phục vi diệu nhiều trăm ức
Lúc ấy ta hoan hỷ đem cho.
Vải trắng, bình bát, độc-câu-la
Để cầu Thắng Tam-muội như vậy
Xưa thấy kẻ bần cùng bế tắc
Tên Dịch Lực cầu mong thoát khổ.
Đối với người ấy ta rộng thí
Để cầu Thắng Tam-muội như vậy
Voi ngựa, trâu dê và nhà cửa
Vườn tược, xe cộ báu trang nghiêm.
Ta cho trăm ngàn kẻ nghèo khổ
Để cầu thắng Tam-muội như vậy
Ức na-do-tha rừng và vườn
Các báu trang nghiêm đều đem cho.
Khi thí vui mừng khởi lòng thương
Để cầu được thắng định như vậy
Thành ấp kinh đô và tụ lạc
Tất cả đất đai đều bỏ hết.
Cho xong, hay sinh vui tăng thượng
Để cầu được thắng tạng như vậy
Cứ mỗi kho báu như Tu-di
Y phục trên thân cũng như vậy.
Ta đều đem cho kẻ bần cùng
Để cầu được thắng định như vậy
Giàu có, vô lượng kẻ bần cùng
Đều đến nơi ta cầu che chở.
Chúng sinh khổ não được an lạc
Để cầu được thắng định như vậy
Xưa ta giàu nhất trên đời này
Thấy các thế gian rất khổ não.
Vứt bỏ ngôi vua, các sở hữu
Hết lòng thương yêu mong chúng vui
Đồng tử! Xưa ta làm việc này
Trong vô lượng kiếp, làm việc khó.
Ngôn ngữ có nói không thể hết
Ta nói ức kiếp khó cùng tận
Nếu ta nói ra, chúng mê hoặc
Với điều Phật làm không thể tin.
Trải đủ vô lượng các việc khổ
Để cầu được Tam-muội như vậy
Nay ta khuyên ông, này Đồng tử!
Ong hết lòng tin nơi lời ta.
Thiện Thệ hoàn toàn không nói dối
Phật Tối Thắng đại Bi, thật ngữ
Ngoài ra việc khổ trăm ngàn thứ
Xưa ta lãnh thọ thân khô kiệt.
Làm sao hay được Tam-muội này
Nếu giải thoát người trăm ngàn khổ
Ở trong sát-na chứng định này
Liền được đạo trí tuệ chân thật.
Ta gặp na-do-tha Đức Phật
Hơn cả mười phương cát sông Hằng
Đạt Thần túc thù thắng, như ý
Hay đến trăm ngàn các cõi Phật.
Đến đó thưa hỏi Bậc Tối Thắng
Luận hỏi trang nghiêm trăm ngàn loại
Khi Phật vì ta mà tuyên thuyết
Trả lời như điều ta thưa hỏi.
Ta đều có thể lãnh thọ hết
Cho đến không quên một câu, chữ
Đã được nghe pháp chân thật vậy
Rộng đặt vô lượng trăm điều hỏi.
Diễn nói câu tịch tĩnh lìa trần
An vô lượng chúng, trí tuệ đạo
Ta trụ thắng Tam-muội như vậy
Trong vô lượng kiếp học pháp này.
Ngày xưa vô lượng các chúng sinh
An trú đạo vô thượng, tối thắng
Nếu ai xưa nay không thấy Phật
Với thắng pháp này chưa từng nghe.
Kẻ ấy hoàn toàn không tin ưa
Định chân thật nghĩa không đệ nhất
Người trí nào có thể hiểu rõ
Đạt công đức chân thật, thậm thâm.
Nghe Đệ nhất nghĩa không sợ hãi
Nghe rồi sinh tâm rất hoan hỷ
Người ấy hay giữ đạo Bồ-đề
Tức là chân Phật tử Như Lai.
Hiếm có giống như hoa Ưu-đàm
Ta đã nhiều kiếp tu khổ hạnh
Người ấy không sợ đọa ác đạo
Thường được xa lìa nơi tám nạn.
Thường thấy vô lượng, vô số Phật
Có thể tin Thắng Tam-muội này
Cũng như Di-lặc không bạn lữ
Ở chỗ chúng sinh được tịnh trí.
Kinh Tam-muội này trong tay họ
Ta đã thọ ký như Di-lặc
Người ấy thành tựu niệm trí tuệ
Nghe, giữ rốt ráo đạo tăng thượng.
Biện tài tịch tĩnh không sầu não
Định này vì trong tay người ấy
Cho nên thường được trời cúng dường
Lại được mọi người đến lễ kính.
Luôn được quỷ thần đến hộ vệ
Bởi nhờ thọ trí Tam-muội này
Không bị lửa, độc làm thương tổn
Tất cả dao gậy không thể hại.
Vào trong nước lớn không bị chìm
Bởi nhờ thọ trì Tam-muội này
Người ấy hằng ở trong rừng núi
Được các chư Thiên đến hầu hạ.
Vô lượng Dạ-xoa đến cúng dường
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Trí tuệ rộng lớn như biển cả
Nói công đức Phật không chướng ngại.
Diễn xướng đức chân thật Như Lai
Nhờ thọ trì thắng định như vậy
Điều người ấy nghe vô cùng tận
Giống như hư không, không bờ mé.
Cầm đuốc trí tuệ trừ tối tăm
Nhờ người ấy trì định như vậy
Lời đúng nghĩa nhu nhuyến, mỹ diệu
Giữa chúng, diễn thuyết người trí thích.
Nói như nước chảy không cùng tận
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Giống như y vương cho thuốc hay
Lại cho chúng sinh nơi để ở.
Thường phóng ánh sáng cho chúng sinh
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Người ấy không có tâm ái dục
Ưa thích tịch tĩnh được thiền lạc.
Nói về tịch tĩnh lời hay đẹp
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Người ấy lìa tướng, ý không nhiễm
Nơi tất cả tướng đều lựa chọn.
Tâm thường tịch tĩnh mà kinh hành
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Người ấy được mắt lìa cấu uế
Có thể thấy vô lượng Như Lai.
Được mắt Trượng phu thấy vô biên
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Tiếng hay Khổng tước hợp tịch tĩnh
Tiếng Ca-lăng-tần-già vui lòng.
Các nhạc hòa hợp phát diệu âm
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Thành tựu tiếng sấm sét vang xa
Chim ngỗng, chuông, trống âm mỹ diệu.
Hòa hợp trăm thứ thắng kỹ nhạc
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Vô lượng, vô số tăng-kỳ kiếp
Thành tựu tiếng hòa nhã như vậy.
Những lời nói ra như cam lộ
Bởi do thọ trì Thắng Tam-muội
Đồ ăn ngon bổ không tham trước
Đối với y bát không đắm trước.
Ít muốn, biết đủ, khéo điều phục
Bởi nhờ thọ trì Tam-muội này
Đối với tự thân không cao mạn
Đối với người khác không khinh chê.
Tâm thường nhu nhuyến thích thiền định
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Thường tự quán sát việc mình làm
Không thấy lỗi lầm của người khác.
Vui với mọi người, không tranh cãi
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Tâm thường thích hành hạnh bố thí
Không thể ô nhiễm tánh keo kiệt.
Không bị cảnh giới làm nhiễu loạn
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Đoan chánh thù đặc người ưa thích
Da dẻ trong thân sắc vàng ròng
Ba mươi hai tướng để trang nghiêm
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Công đức sắc tướng đều vi diệu
Nhiều người kính yêu thường gìn giữ.
Nam nữ lớn nhỏ nhìn không chán
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Chư Thiên, Long thần, chúng
Dạ-xoa Đối với người này điều hoan hỷ.
Đi đến nơi đâu cũng hoan hỷ
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Phạm vương, Đế Thích, trời Tự tại
Cùng chư Thiên khác đến cúng dường.
Trong tâm hoàn toàn không ngã mạn
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Xa lìa tất cả các đường hiểm
Không có chướng nạn và ác đạo.
Giải thoát tất cả các sợ hãi
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Hay nghe Phật nói pháp vi diệu
Không còn tất cả các nghi hoặc.
Tùy thuận nhập vào pháp thậm thâm
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Nếu nghe pháp vi diệu Hiền thánh
Sẽ đều hiểu rõ được rốt ráo.
Do lực nhân duyên kiếp quá khứ
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Như Lai nói ra lời như vậy
Khéo được không khởi tâm lợi dưỡng.
Nhờ nhân duyên đó được Tổng trì
Bởi do đạt được Tam-muội này
Người ấy đến khi lúc mạng chung
Phật A-di-đà, tuệ dũng mãnh.
Phật vì người ấy hiện trước mặt
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Được thấy Thập Lực như cầu mong
Và các Thanh văn đứng ở trước.
Quyết định sinh về nước An dưỡng
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Giả như khiến tất cả chúng sinh
Một lúc thành Phật không biên tế.
Một người trong đó đều cúng dường
Lại qua hằng hà vô số kiếp
Nếu ở đời sau, thời mạt thế
Được nghe định này không ai khinh.
Thường nơi định này khởi tùy hỷ
Công đức hơn trước chẳng thể tính
Đồng tử nên biết, đạo tịch tĩnh
Là Tam-muội nghĩa không đệ nhất
Hoặc chép, đọc tụng và thọ trì
Người ấy gọi là trì Pháp tạng.

Này Đồng tử! Vì ý nghĩa này nên Đại Bồ-tát nếu muốn biết tất cả tiếng nói của chúng sinh và biết tất cả các căn sai biệt của chúng sinh, trước sau không đồng mà thuyết pháp cho phù hợp.

Này Đồng tử! Người đó đối với Tam-muội này nên phải thọ trì, đọc tụng, rộng nói cho người khác, lại vì nhiếp thọ tất cả chúng sinh, nên phải tu tập phương tiện tương ưng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nếu ai từng thấy vô lượng Phật
Cũng từng học hỏi Tam-muội này
Là người thắng trí trì định này
Trụ đệ nhất thiện mà không động.
Được Thượng diệu lạc trên trời, người
Thường được người khác Thắng cúng dường
Lại được vui thiền định, Niết-bàn
Nhờ không phóng dật, trì định vậy.
Nghe người khen mình, không hân hoan
Hoặc bị mắng chửi cũng không giận
Vào pháp bất động giống như núi
Thích cầu giải thoát nhờ trì định.
Miệng không hề nói lời vô nghĩa
Lìa sân, ngạo mạn và tranh luận
Nhẫn nhục điều phục, tâm hoan hỷ
Nhờ không phóng dật, trì định vậy.
Lời nói êm dịu và chắc thật
Nét mặt vui vẻ trước hỏi thăm
Thấy các chúng sinh thường mỉm cười
Nhờ trì Tam-muội thắng tịnh vậy.
Tâm thường điều phục, không phiền người,
Khéo nhiếp năm căn trì tịnh giới
Chân thật ít lời, lợi đáng yêu
Nhờ thọ trì Tam-muội thắng tịnh.
Thường bố thí rộng, tâm không tiếc
Khiến chúng sinh đói khát no đủ
Tự ăn không vui, cho người vui
Người thiện nghiệp nhờ trì định này.
Được nhiều trăm chư Thiên mến
Dạ-xoa, Tu-la, Rồng cung kính
Riêng ở trong rừng hằng gìn giữ
Nhờ dũng mãnh trì thắng định này.
Thích ở tịch tĩnh, lìa âm nhạc
Rồng, A-tu-la, thường thân cận
Tất cả không ai làm cho sợ
Nhờ trì định không phóng dật vậy.
Tiếng nói giống như tiếng Phạm thiên
Lại như Thiên nga, tiếng thật hay
Cũng như năm trăm tiếng mỹ diệu
Danh tiếng lan khắp các thế gian.
Tất cả các vi trần đại địa
Công đức nhiều hơn vi trần ấy,
Tạng công đức lợi ích chúng sinh
Nhờ tu tịch định như vậy đó.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tâm sinh ưa thích: “Ta đối với tất cả pháp tự tánh làm sao được biết.”

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát đối với Tam-muội này phải nên thọ trì đọc tụng, nói rộng cho người khác, phương tiện tương ưng để tu tập, vì nhiếp phục tất cả chúng sinh vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Người trí không giận, thương
Lại không khởi ngu si
Phiền não thêm sức mỏng
Nhờ biết pháp thắng tịch.
Giới Phật không khuyết phạm
Không buông lung nữ sắc
Kiên tâm cầu định này
Biết pháp lìa trần cấu.
Trí tuệ và thần thông
Thấy Phật đến nhiều cõi
Tổng trì đến bờ kia
Nhờ biết được định này.
Mau thành Bậc Lưỡng Túc
Dùng tịch trị phiền não
Khéo nhổ tên ác, độc
Nói câu không cấu tịch.
Nếu họ là lương y
Khéo biết nguyên nhân bệnh
Học trí quyết định này
Giải thoát hại chúng sinh.
Học lý được tự tại
Không đắm việc cúng dường
An lạc không mong cầu
Nhờ hiểu biết tịnh pháp.
Nhân sư tử nhẫn nhục
Đánh chửi không sân hận
Cắt đứt thân không sầu
Vì biết ấm là không.
Sức nhẫn như Tu-di
Vẫn không chấp nhẫn tưởng
Cho đến Phật không còn
Nhờ biết vô thường, không.
Ba cõi vô lượng tưởng
Ba đời đều hiểu rõ
Hay hiển lý vô lượng
Nhờ học pháp vô úy.
Nơi sự không thủ tưởng
Yêu, ghét đều không chấp
Biết pháp thường không tịch,
Nhờ được thắng tịch diệt.
Nếu nói thắng định này
Không lâu thấy Bồ-đề
Khéo liễu đạt cảnh Thánh
Bố thí quả báo nhiều.
Nói ức Tu-đa-la
Trình bày không trở ngại
Biện tài không đoạn tuyệt
Nhờ biết pháp rộng lớn.
Nếu ai vô số kiếp
Định tuệ như hư không
Thuyết pháp không cùng tận
Nhờ biết tịch định này.
Biện tài không nghĩ bàn
Cầu đạo nhất định được
Nói vô biên ức kinh
Biết danh tự pháp tướng.
Phật nói pháp vô thượng
Nghe, giữ khiến sung mãn
Trong đó không nghi hoặc
Biết pháp đều phi hữu.
Ái ngữ thường hành thí
Khéo xả, thích sống nghèo
Đời sống vẫn sung mãn
Vì thương xót thế gian.
Thường làm vua Diêm-phù
Thương chúng sinh, không giận
Mọi người khởi từ, kính
Vì nhờ biết pháp Không.
Đoan chánh, vợ, nam, nữ
Ngôi vua, thân đều bỏ
Quyết định không hối tiếc
Nhờ biết được không tịch.
Nếu ai cắt thân thể
Mộng mị cũng không sân
Từng cúng vô lượng Phật
Nhờ thọ trì pháp Không.
Cúng dường Mâu-ni Phật
Ba đời không mệt mỏi
Đại tín tâm bất động
Là biết pháp Không vậy.
Khéo giữ tạng Phật pháp
Trụ thắng Đà-la-ni
Không lâu được thành Phật
Nhờ trì thắng kinh vậy.
Đời đời không điếc đui
Nhiều kiếp các căn đủ
Thường xa lìa tám nạn
Hết lòng với kinh này.
Làm phước lìa ác đạo
Tướng đoan chánh trang nghiêm
Tâm tịnh trụ thần thông
Nhờ đó Phật hiện tiền.
Các thứ ứng hóa thân
Độ chúng sinh các cõi
Nếu được thấy vị ấy
Bồ-đề tâm quyết định.
Người trí nghĩ không buồn
Năng lực tinh tấn khởi
Cứu cánh trong thắng pháp
Mạt thế nhờ trì kinh.
Thân phóng ngàn ức sáng
Ánh sáng hơn trời, trăng
Nếu tu tập không định
Không lâu được thành Phật.
Ta cầu cảnh giới tịch
Ngàn ức tăng-kỳ kiếp
Không bỏ tâm tinh tấn
Được Nhiên Đăng thọ ký.
Kẻ trí trì kinh này
Nói Phật pháp tối thắng
Ngu si, ngoại đạo mất
Mạng chung, địa ngục đốt.
Thọ khổ rất kịch liệt
Vô số kiếp mới hết
Nhiều kiếp đã hết tội
Mới được nhận cam lồ.
Thời mạt thế đáng sợ
Gần với đạo Vô thượng
Hộ trì Pháp tạng ta
Thọ ký trì kinh này.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10