Phật Thuyết Ngũ Uẩn Giai Không Kinh
Phật nói Kinh Năm Uẫn (kết hợp) Đều Không(thật)
Hán dịch: Đời nhà Đường, Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh vâng chiếu dịch từ chữ Phạn( sanskrit) sang tiếng Hoa
Việt dịch: Quảng Lượng, Lý Hồng Nhựt cẩn dịch. Canada, Toronto August 18, 2009

 

Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Bạc Già Phạm, ở tại Bà la nhiếp tư (Ba la nại) thành; trong vườn Tiên nhân Đọa (Vườn Tiên- Rishipatana) (Lộc uyển). Lúc bấy giờ đức Thế tôn nói với năm vị tỳ kheo( Kiều Trần Như ) rằng:

Các Ông nên biết; sắc(uẩn) thì không phải là cái Ta(ngã); vì nếu như(sắc uẫn) mà là cái Ta (ngã)! thì Sắc(uẫn) sẽ không bị bịnh cùng không bị đau khổ hay phiền não.. Lòng ham muốn của chúng ta giống như là Sắc(uẫn); mà lòng không ham muốn cũng giống như là sắc(uẫn).

Nếu đã không phải như hai điều nêu trên; vậy thì tùy theo trạng thái của điều mong cầu. Cho nên cần phải biết, Sắc(uẫn) không phải là cái Ta( ngã). Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều không phải là cái Ta(ngã) vậy! Lại nữa nầy các thầy Tỳ kheo ; các Ông nghỉ như thế nào?
Sắc là thường (còn) hay Sắc là không thường (còn)? Các vị Tỳ kheo thưa rằng: Sắc là không thường(còn).

Phât nói: Sắc(uẫn) đã là vô thường ; thì chính nó tức là khổ(khổ có ba thứ): (1) là khổ khổ( khổ chồng chất lên nhau); (2) là hoại khổ( khổ do bị hư hoại); (3) là Hành khổ(trong tâm buồn khổ). Nhưng mà hàng Thanh văn, những người đệ tử học rộng của Phật; lại chấp cho là có cái Ta(ngã) chăng?
Sắc(uẫn) chính là cái Ta; trong cái Ta có các phần của Sắc. Sắc hợp lại chính là cái Ta. vậy thì cái ta ở trong Sắc chăng?

Bạch đức Thế tôn không phải như thế! Nên biết Thọ(cảm nhận), Tưởng(suy nghỉ), Hành(động), Thức(hiểu biết); thường(còn); hay không thường (còn); tất cả cũng đều như vậy!(cũng đều không có cái ta)

Thường cái gì thuộc về Sắc; như quá khứ, vị lai, hiện tại, trong, ngoài, to, nhuyễn hoặc mạnh, hoặc yếu, hoặc xa, hoặc gần; tất cả đều là không có cái Ta( vô ngã ). Các Ông nên biết như vậy!

Nên dùng sự hiểu biết đúng và khéo mà xem xét. Cũng như vậy đối với Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Quá khứ, vi lai, hiện tại; tất cả đều như trên, hãy lấy sự hiểu biết đúng mà xem xét.

Nếu như những Thanh văn chứng thánh trong hàng đệ tử của Ta(Phật); xem xét năm uẫn đã nói trên; liền biết là không có cái Ta(trong năm uẫn) và cũng không có những gì thuộc về cái Ta.
Như đây mà xem xét xong rồi; thì liền biết thế gian không thể nào (thủ) nắm giữ(được một điều gì) và cũng không có điều gì để mà phải nắm gữi. Vì tất cả đều thay đổi. Nhưng cũng do đây mà tự hiểu rõ(cái ta) mới được giải thoát. Nguồn gốc phát sinh ra cái Ta đã dứt,và những việc làm thanh tịnh đã thành.

Những điều cần đã nói xong; không cần phải nói đến những phần sau. Khi Phật nói kinh nầy. Năm thầy Tỳ kheo ( Kiều Trần Như )… Ở nơi các phiền não mà tâm được giãi thoát; tin nhận và thực hành.

Phật Thuyết Ngũ Uẩn Giai Không Kinh


PHẬT NÓI KINH NĂM UẨN ĐỀU KHÔNG
Hán dịch: Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh

 

Như vầy tôi nghe.

Một thời Đức Thế Tôn ở rừng Thi lộc, Tiên nhân đọa xứ, thuộc Ba-la-nê-tư.

Bấy giờ Thế Tôn bảo năm vị Bí-sô:

–Sắc không phải là ta, nếu sắc là ta thì sắc không thể bị bệnh và chịu đau khổ. Ta muốn sắc như thế này, ta không muốn sắc như thế kia, nhưng sắc không thể tùy thuận ý muốn như vậy. Thế nên biết rằng, sắc không phải là ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Này các Bí-sô, các thầy nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?

Đáp:

–Bạch Đại đức, sắc là vô thường.

Phật dạy:

–Sắc đã là vô thường, thì chính là khổ: Khổ khổ, hành khổ, hoại khổ. Như vậy, bậc Thanh văn đệ tử đa văn có cho rằng có ta không?

Có cho rằng sắc tức là ta, ta có các sắc, sắc thuộc về ta, ta ở trong sắc không?

Đáp:

–Bạch Thế Tôn, không!

–Này các Bí-sô, phải biết thọ, tưởng, hành, thức thường hay vô thường cũng như vậy. Phàm là sắc gì ở quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ngoài, thô tế, đẹp xấu, xa gần đều không phải là ta. Các thầy nên biết như vậy, cần phải dùng chánh trí để quan sát thật kỹ. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức gì ở quá khứ, vị lai, hiện tại… đều phải dung chánh trí quán sát như trên. Chúng Thánh đệ tử Thanh văn của Ta nếu quán sát Năm thủ uẩn này thì biết không có ta và của ta. Đã quán sát như vậy thì biết rõ thế gian, không còn chấp trước vào ta hay của ta, được an trú như vậy nên tự giác ngộ, chứng Niết-bàn:

“Thọ sanh của ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, chỗ làm đã xong, không còn thọ hậu hữu”.

Khi Phật thuyết pháp này, năm vị Bí-sô đoạn trừ phiền não, đắc tâm giải thoát, tín thọ phụng hành.