KINH MỤC LIÊN VẤN GIỚI LUẬT TRUNG NGŨ BÁCH KHINH TRỌNG SỰ

(Bản Tương Đương Với Số 1483)
Hán dịch: Mất tên người dịch, nay xếp vào dịch phẩm đời Đông Tấn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: NĂM THIÊN Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Thế Tôn ở tại khu vườn trúc Ca-lan-đà thuộc thành Vương Xá. Lúc ấy, tôn giả Mục Liên từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay, con có điều muốn thưa hỏi, nguyện xin Đức Thế Tôn giảng nói cho con.

Đức Phật dạy:

– Lành thay! Những điều ông thưa hỏi có thể làm lợi ích lớn lao cho vô lượng chúng sanh. Ông hãy thưa hỏi tùy ý.

Tôn giả Mục Liên bạch Phật :

– Bạch đức Thế Tôn! Tỳ kheo ở đời mạt pháp, khinh chê lời dạy của đức Phật thì phạm giới Chúng học, dùng lẫn lộn vật của Tam bảo, sẽ bị đọa vào chốn nào?

Đức Phật bảo Tôn giả Mục Liên:

– Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Như Lai sẽ giảng nói cho ông. Nếu Tỳ-kheo không biết hổ thẹn, khinh mạn lời Phật phạm giới chúng học, bị đọa vào địa ngục bằng năm trăm năm ở cõi trời Tứ Thiên Vương, tương đương chín trăm ngàn năm ở nhân gian; phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni thì bị bị đọa địa ngục bằng một ngàn năm ở cõi trời ba-mươi ba, tương đương ba ức sáu mươi ngàn năm ở nhân gian; phạm Ba-dật-đề thì bị đọa vào địa ngục bằng hai ngàn năm, tương đương hai mươi ức ngàn năm ở nhân gian; phạm Thâu-lan-giá thì bị đọa vào địa ngục bằng bốn ngàn năm ở cõi trời Đâu Suất, tương đương năm mươi ức sáu mươi ngàn năm ở nhân gian; phạm Tăng-già-bà-thi-sa thì bị đọa vào địa ngục bằng tám ngàn năm ở cõi trời Bất Kiêu Lạc, tương đương hai trăm ba mươi ức bốn mươi ngàn năm ở nhân gian; phạm Ba-la-di thì bị đọa địa ngục bằng mười sáu ngàn năm ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại, tương đương chín trăm hai mươi mốt ức sáu mươi ngàn năm ở nhân gian.

Phẩm 2: THƯA HỎI VỀ PHẬT

Hỏi: Vật của Phật trước đây để ở chỗ này, có Tỳ-kheo lấy làm Phật sự chỗ khác, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Khí. Tất cả vật của Phật không được di chuyển, nếu có nạn, chúng Tăng đi hết phải bạch chúng, nếu chúng chấp nhận thì được chuyển đi chỗ khác, không phạm tội.

Hỏi: Vật của Phật, được mua để cúng dường không?

Đáp: Được.

Hỏi: Vật của Phật đem làm nhà, cho thuê được không?

Đáp: Tất cả các vật của Phật chỉ được mua, không được cho thuê.

Hỏi: Tỳ-kheo làm Phật sự, được sai người giúp việc trong chùa đi mượn bò, lừa, ngựa… không?

Đáp: Nếu biết vốn là vật của Phật thì không được, không biết thì được, vì phi pháp nên được

Hỏi: Đất của Tăng đang xây tháp, dùng vật của Phật xây cất, bày vẽ bên trong, có thể ở không?

Đáp: Nếu biết mà vào ở phạm tội Đọa, không biết thì không phạm, nếu biết mà ở, can gián hơn ba lần, phạm Quyết đoán, can gián hơn bốn lần thì tội càng tăng thêm, phạm tội nặng.

Hỏi: Trước đây chùa chiền bị hư nát, người chủ nhân xuất tiền của xây cất lại, dùng tiền đó cúng cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo có thể nhận không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Đất của Tăng, vật củaPhật lấy xây cất, bày vẽ, ở đất ấy trước đây có giếng, có hoa quả, rau trái có thể ăn không?

Đáp: Không được ăn. Nếu vật của đàn việt làm Phật sự, trước đây họ dùng hoa quả rau trái cúng cho Tăng thì được ăn, họ không cúng thì không được ăn, nếu mua hơn năm tiền, nếu biết lại không mua mà ăn, tính theo số tiền nhiều hay ít đều phạm tội.

Hỏi: Mắc nợ vật của Phật thì trả thế nào?

Đáp: Phải trả lại bằng giá trị vật cũ, vì vật của Phật không được xuất ra, nhập vào, cho nên không trả thêm, tuy vậy vẫn bị đọa vào trong địa ngục. Thuở xưa, sau khi Phật diệt độ, có một Tỳ-kheo tinh tấn thông minh, có một Bà-la-môn thấy Tỳ-kheo tinh tấn thông minh nên đem con gái đến chỗ Tỳ-kheo, xin được làm Tỳ-kheo ni, Tỳ-kheo liền nhận. Cô gái ấy rất xinh đẹp. Sau đó, Tỳ-kheo sanh tâm ái nhiễm làm hạnh bất tịnh, cùng sống chung với cô ta, sử dụng vật của Phật, Pháp và Tăng, mỗi ngày lấy một ngàn vạn tiền để mua sắm y phục, thức ăn. Vị Tỳkheo ấy rất thông minh, có khả năng thuyết pháp làm cho người khác chứng đắc đạo Bốn quả, tự suy nghĩ: “Tội này rất nặng!”, liền muốn đền trả số tiền và vật dụng ấy. Tỳ-kheo liền đến nước Sa-khư để khất thực, được rất nhiều tiền, vật, muốn trở lại để đền trả. Đến giữa đường, trong hang núi cách bảy bước là chỗ rắn độc ở, Tỳ-kheo biết đi thêm bảy bước sẽ chết, nên mới đi được sáu bước liền quay nói với đệ tử: “Hãy đến chỗ ấy để trả lại!” Liền sai trở về nước, dặn: “Ngươi đem vật này về trả lại, rồi trở lại, ta sẽ đợi ngươi!” Đệ tử đem trả vật rồi, trở lại báo tin. Tỳ-kheo đi thêm bảy bước liền bị chết, đọa vào trong địa ngục A tỳ, đầu tiên vào địa ngục nóng bức, chưa hết lại đến ngục cực nóng, gọi là ngục nóng. Thấy vậy vị ấy liền lớn tiếng đọc kinh chú nguyện, các tội nhân và quỷ trong ngục nghe tiếng tụng kinh, vô số ngàn người được độ thoát. Ngục tốt rất giận dữ, liền cầm chĩa ba đánh vị ấy. Tỳkheo kia liền qua đời được sanh lên cõi trời Ba Mươi Ba. Do việc này nên biết, mắc nợ vật của Phật, Pháp, Tăng thì không thể không trả lại, tuy vẫn chịu tội, nhưng có lúc cũng được thoát khỏi.

Hỏi: Quét trên tháp Phật, có được bỏ đất và có tội không?

Đáp: Được bỏ, không được dùng làm việc khác.

Hỏi: Vật của Phật lấy cho người khác, lấy cho con và tự sử dụng thì phạm tội không?

Đáp: Người cho vật của Phật thì đồng một loại với phạm tội nặng, dù đem con dâng cho Phật còn không có phước, vì đã hủy hoại pháp thân, nên còn bị hình phạt.

Hỏi: Vật của Phật, người chủ tính toán, phân phát cho người giúp việc trong chùa và trẻ con, Tỳ-kheo có thể sử dụng không?

Đáp: Không được sử dụng vì là vật của Phật.

Hỏi: Tỳ-kheo làm việc cho Phật, được thức ăn của Phật thì được ăn không?

Đáp: Không được, Tỳ-kheo không lẽ làm người khác, huống chi lấy vật của Phật như y phục, thức ăn để dùng sao!

Hỏi: Bạch y làm việc cho Phật, được vật của Phật, họ dùng vật này làm thức ăn thỉnh mời Tăng, Tăng được ăn không?

Đáp: Không được ăn.

Hỏi: Làm việc của Phật, việc của pháp được phép cầm giữ vàng, bạc và tiền không?

Đáp: Không được. Nếu cất giữ thì phạm tội Xả đọa.

Hỏi: Người cúng cho Phật bò, lừa, ngựa, nô tỳ để làm việc Phật, việc pháp có nhận không?

Đáp: Được nhận để sử dụng, nhưng không được bán cung tên, vũ khí, một vật không được nhận.

Hỏi: Người cúng nhà cho Phật, chưa sử dụng, được ở không?

Đáp: Không được, vì vật của Phật.

Hỏi: Thắp đèn cho Phật, ban ngày có thể tắt không?

Đáp: Không được, nếu tắt phạm tội Đọa, tuy Phật không có sáng tối, nhưng người cúng được phước, nên tắt thì phạm tội.

Hỏi: Chẳng phải nơi thờ Phật mà thờ tượng Phật ở trong, có thể để trước chỗ ăn, chỗ nằm nghỉ không?

Đáp: Được. Nếu Phật ở đời cũng ở phía trước chỗ ăn, chỗ nằm nghỉ, huống chi tượng Phật mà không được! Nhưng nằm phải lấy bức ngăn lại, nếu có đèn sáng, không được dùng trong chỗ ở, nếu mình có đèn thì được.

Hỏi: Nhìn ngắm Phật trên tranh, Phật trên tháp, Phật trên vách tường, phạm tội gì?

Đáp: Không biết thì không phạm, nếu việc gấp hoặc nạn thì cũng không phạm.Nếu biết mà nhìn ngắm phạm Xả Đọa, can gián hơn ba lần phạm Quyết đoán, can gián hơn bốn lần phạm tội Khí.

Hỏi: Đã có vật để làm Kinh Phật, lại nhận vật của người khác, không dùng vật trước, có được không?

Đáp: Không được. Vì đã chấp nhận vật ấy rồi.

Hỏi: Được phép mua hình tượng Phật trên tấm vải may áo không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Khen chê hình tướng tượng Phật, phạm tội gì?

Đáp: Tất cả tượng Phật không hỏi xấu đẹp, không được khen chê, tội ấy rất nặng, nhất định không nên làm.

Hỏi: Người tạc tượng Phật nhưng không làm lỗ mũi, người sau được làm không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Vách tường nơi thờ Phật, được cầm vật dựa vào không?

Đáp: Không được, phạm tội Đọa. Xưa, có một Tỳ-kheo, muốn vào chùa, lễ Phật có một Bà-la-môn biết xem tướng, thấy vị Tỳ-kheo ấy có tướng Thiên tử, liền nói với Tỳ-kheo: “Ta có một đứa con gái, sẽ gả cho ông”, Tỳ-kheo nói: “Sau khi lễ Phật về”. Tỳ-kheo cầm gậy thiếc dựa vào vách tường điện Phật rồi vào trong chùa lễ Phật. Khi trở ra, Bà-la-môn lại nói không gả con gái nữa. Tỳ-kheo hỏi: “Sao không đem con gái gả cho tôi?” Bà-la-môn nói: “Không gả”. Vì sao không gả? Bà-la-môn nói: “Vừa rồi, thấy ông có tướng tôn quý nên tôi nói gả, bây giờ không còn tướng ấy, vì vậy không cho. Vì sao? Vì ông đã diệt mất công đức kia”. Vì vậy, không được để vật dựa vào vách tường điện Phật và vách tháp, đã phạm giới lại còn mất hết vô lượng công đức.

Hỏi: Vật của Phật được làm tượng trời, người và súc sanh không?

Đáp: Làm để hầu bên Phật thì được.

Hỏi: Tỳ-kheo độ người không hỏi rõ đầu đuôi mà độ người ấy, sau đó mới biết là người giúp việc trong chùa, nếu không đuổi đi, phạm vào tội gì?

Đáp: Biết mà độ thì phạm tội nặng. Nếu trước không biết, khi biết liền đuổi, nếu không đuổi, phạm tội nặng.

Hỏi: Người ấy là người tu Đại đạo phải không?

Đáp: Không phải.

Hỏi: Có của cải riêng đưa cho Tỳ-kheo làm tượng Phật, người làm được lấy vật không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Lá phướn trước tượng Phật, được lấy làm Phật sự không?

Đáp: Phật sự thì được dùng,hoặc đàn việt không cho không được.

Hỏi: Được đảnh lễ bảy đức Phật ở quá khứ?

Đáp: Được. Vì đồng là pháp thân.

Hỏi: Nếu người trước đây hứa với Phật làm ba hội, nhưng sau đó làm một hội, hoặc ba hành hương, hoặc ba bố thí, được không?

Đáp: Không được, vì sai lời hứa nên phạm tội.

Hỏi: Tỳ-kheo phạm tội Quyết đoán được ở trong đất Phật sám hối không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Ngôi chùa quá cũ kỹ lâu đời, không còn tường vách ngăn che, không biết đất Phật gần hay xa, nếu người muốn làm, làm sao biết được bờ nào bằng phẳng?

Đáp: Không biết, mà có ý muốn làm bờ bằng phẳng, vì không biết nên càng tăng thêm sự tổn hại chứ không có tội.

Hỏi: Vật của Phật lấy làm nhà cho mẹ con của quỷ và làm tượng có tội không?

Đáp: Có tội, vì lấy vật của Phật cho người khác.

Hỏi: Được đảnh lễ Tỳ-kheo trước tháp Phật không,?

Đáp: Không được, nếu đảnh lễ phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo buôn bán tượng Phật có tội gì?

Đáp: Giống với tội buôn bán cha mẹ

Hỏi: Tỳ-kheo tự tay đốn chặt cây, đào đất, xây cất chùa, tháp Phật và làm hình tượng có phước không?

Đáp: Còn không tránh khỏi địa ngục, chịu tội khổ lớn, huống là có phước, vì đã phạm giới.

Phẩm 3: THƯA HỎI VỀ PHÁP

Hỏi: Ngồi trên tòa cao thuyết pháp trước mọi người, mặc y phục thế tục, có thể cho thuyết pháp không?

Đáp: Cả người nghe và người thuyết pháp đều phạm, nhiều người đã can gián hơn ba lần mà không sửa đổi thì phạm Đột-cát-la, can gián hơn ba lần phạm tội Đọa, can gián hơn ba lần mà vẫn làm thì phạm Quyết đoán, phải can gián hơn ba lần khiến cho bỏ, giả sử không nghe lời can gián, qua ba lần thuyết giới thì tội càng tăng thêm.

Hỏi: Người thuyết đúng như pháp, còn người nghe pháp không đúng như pháp, có được thuyết pháp không?

Đáp: Giống như trên.

Hỏi: Thỉnh người thuyết pháp trước đây che màn trên cao, là vật cúng dường Phật, được mời để ngồi dưới thấp không?

Đáp: Không biết thì không phạm, biết thì không được ngồi.

Hỏi: Chỗ Tăng ngồi trước đây có thờ Phật, sau đó Tăng có thể ngồi thuyết pháp không?

Đáp:Phật ngồi thì được, trước đây là Tăng ngồi thì không được.

Hỏi: Nếu người thỉnh Tỳ-kheo đến tụng kinh và thuyết pháp, họ cúng vật, có được nhận không?

Đáp: Nếu có tâm mong cầu mà nhận thì phạm tội Xả đọa, nếu không có tâm tham mà nhận thì không phạm, nếu không có y bát mà nhận thì không phạm.

Hỏi: Ngồi trên tòa cao thuyết pháp ở trong chúng Tăng, được ngồi ghế dựa, cầm phất trần không?

Đáp: Bệnh được ngồi ghế dựa, cầm quạt có đuôi thì phạm tội Đọa.

Nếu không phải quạt có đuôi thì được.

Hỏi: Cất kỹ kinh điển và giới luật có phạm không?

Đáp: Phạm Xả Đọa.

Hỏi: Thầy mặc y phục thế tục được đảnh lễ và thuyết pháp không?

Đáp: Được, không bệnh thì không được thuyết pháp.

Hỏi: Cư sĩ đội mũ trên đầu, có được thuyết pháp không?

Đáp: Trừ có bệnh phải đội trên đầu, ngoài ra thì không được.

Hỏi: Trên kinh có bụi đất cỏ lá dơ bẩn được thổi xuống không?

Đáp: Không được thổi.

Hỏi: Tỳ-kheo chép kinh có được cầm vật khác không? Đáp: Không được, nếu cầm thì phạm tội Xả Đọa Hỏi: Để thức ăn trên kinh phạm tội gì?

Đáp: Nếu có tâm xem thường thì phạm Quyết đoán, không có tâm xem thường thì phạm tội Đọa.

Hỏi: Giới luật không sử dụng, để rơi rớt có thể đốt không?

Đáp: Không được, không biết đốt có tội mà đốt thì phạm Xả Đọa. Nếu biết đốt có tội mà đốt thì phạm tội Quyết đoán, Vì như dùng phương tiện phá hoại Tăng chúng, cũng như thiêu đốt cha mẹ.

Phẩm 4: THƯA HỎI VỀ KIẾT CƯƠNG GIỚI

Hỏi: Kết cương giới là gì?

Đáp: Pháp kết cương giới là nơi hang núi, trong ao đầm, chỗ không có người, tùy ý xa hay gần, nếu ở trong thành ấp, xóm làng thì không được kết cương giới quá xa, cũng không được kết cương giới ban đêm. Khi kết cương giới, Tỳ-kheo cần phải đứng ở đầu bốn góc, không cho người bên ngoài vào, nếu người bên ngoài vào thì kết cương giới không thành. Trước hết kết giới trường, tất cả con cháu trong chùa, cư sĩ, nô tỳ phải ra khỏi giới trường, sau đó mới quy định bốn hướng. Khi kết cương giới phải trừ ra bốn chỗ: Một là xóm làng; hai là bên ngoài xóm làng, ruộng đất của người đời thường làm việc; ba là chỗ thanh vắng, trong núi, ao đầm, sợ lúc thuyết giới yết ma, gặp nhiều nạn, Tăng không thể đến được. Phải bạch chúng cầu xin kết tiểu giới riêng, nếu chúng chấp nhận, chỗ đó Chúng không đủ năm người, nên sai Tăng đến kết cương giới riêng, đây gọi là chỗ an cư của khu già lam; bốn là Thọ giới trường, trước khi kết cương giới phải trừ để kết giới trường, trừ xong mới kết cương giới, hoặc làm như vậy, hoặc kết đại giới trước, sau đó kết cương giới làm chỗ thọ giới. Như Giới Công đã nói: Sợ không thể đắc giới, nhưng lại nói: không biết, thì đồng với lúc chưa chế định, nhưng điều này có thể chấp nhận được. Có người nói: Nếu Tỳ-kheo bị bệnh, không thể đến được trong chúng Tăng, cầu xin kết giới riêng trong một phòng, Tăng cũng nên chấp nhận, trước hết giải đại giới cho kết cương giới riêng, sau đó trở lại kết đại giới, tất cả Tỳ-kheo ban đêm không được đem y cũng không được vào nơi ấy. Trong một trú xứ có cương giới riêng, một Tỳ-kheo có thể đánh kiền chùy, thuyết giới, trước hết phải hướng đến Tăng bốn phương để sám hối, sau đó cũng nói ba lần. Tam ngữ là: Nói ba lần.

Hỏi: Kết cương giới được thông qua đất Phật để kết không?

Đáp: Không được. Nếu cho thọ giới trong đây, nếu trước đây không biết pháp, đã thọ và đắc giới rồi, nếu sư tăng biết mà cố ý làm sai thì có tội.

Hỏi: Đi trên thuyền được kết cương giới không?

Đáp: Được, nếu có Sa di, cư sĩ thì bảo họ lên bờ, sau đó kết cương giới, nếu không bảo họ đi ra, phải ngăn chia ra một chỗ, sau đó kết cương giới, sau khi kết cương giới, ban đêm Tỳ-kheo không được cầm y, lội xuống nước.

Hỏi: Chúng Tăng đi hết, chỉ còn Sa di ở trong cương giới có được không?

Đáp: Dù chỉ một Ưu bà tắc thanh tịnh, thì cương giới cũng không bị mất, huống chi là còn Sa di, suốt một đêm cương giới không bị mất. Nếu Tăng đi hết không trở lại, cũng không cần giải.

Hỏi: Giặc cướp đến trong cương giới, giết Tỳ-kheo, cương giới ấy có bị mất không?

Đáp: Không bị mất.

Hỏi: Một, hai, ba, bốn người đi trên đường hoặc ở trong nhà bạch y, được kết cương giới không?

Đáp: Không được. Năm người trở lên mới được kết cương giới.

Hỏi: Kết cương giới được thông qua sông ao để kiết không?

Đáp: Tất cả những nơi dòng nước ngưng đọng thì đều được, nếu nước chảy thì không được, vì không biết bờ ở đâu.

Hỏi: Sau khi kết cương giới, không đánh kiền chùy thì cương giới có bị mất không?

Đáp: Không bị mất.

Hỏi: Kết cương giới được thông qua con đường lớn để kiết không?

Đáp: Được. Khi kết cương giới phải sai người đứng ở hai đầu đường để ngăn người đi, sau đó kết cương giới.

Hỏi: Đất không có chủ, có thể kết cương giới được không?

Đáp: Được. Như phép của Uất-đơn-việt.

Hỏi: Kết cương giới trước rồi, sau đó có nước lớn, hoặc đào hầmdài mười lăm bước, hoặc hành dục trong đó, cương giới này có bị mất không?

Đáp: Hoàn toàn không bị mất. Có người nói rằng: giả sử đào hầm hố lớn sâu, rộng một do tuần thì cương giới vẫn không mất, huống gì những cái hầm nhỏ!

Hỏi: Tỳ-kheo được ở cách đêm chỗ cương giới của ni không?

Đáp: Được, cũng không được rời y, nhưng không được vào trong phòng.

Hỏi: Tăng kết cương giới xong, sau đó có tăng đến ở chung, không đem theo y có mất y không?

Đáp: Không mất, vì khi kết cương giới, đã thông qua Tăng ba lần.

Hỏi: Tăng tập hợp chưa đủ được kiết cương giới không?

Đáp: Nếu có việc dăn lại thì được, không có việc thì không được.

Hỏi: Một lần kết cương giới được ở bao lâu?

Đáp: Không có nhất định về thời gian, nếu thí chủ cúng thêm đất mới kết cương giới lại.

Hỏi: Trước đây Tăng kết cương giới không giải mà bỏ đi, sau đó chúng Tăng lại đến kết cương giới có được không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Khi kết giới trường, cần phải tập hợp tất cả chúng Tăng là nhiều ít hay tùy ý?

Đáp: Năm người trở lên thì được, vì không có đại giới, chúng không tập hợp thì không phạm.

Hỏi: Kết giới trường cần phải đến giới trường, cũng được kết từ xa không?

Đáp: Cần phải đến giới trường mới được kết.

Hỏi: Hai chúng kết cương giới được qua lại để kết không?

Đáp: Không được qua lại, chỉ được kết thông giới.

Hỏi: Trong một số cương giới được đánh hai lần kiền chùy không?

Đáp: Được, nhưng không được chia hai trú xứ để thuyết giới, yết ma làm các việc Tăng, chỉ được thắp hương, ăn uống mà thôi.

Hỏi: Đại Tăng được kết thông giới cùng ni không? Đáp: Được.

Phẩm 5: HỎI VỀ TUỔI HẠ AN CƯ

Hỏi: Vào mùa hạ, ngày nào được kết an cư?

Đáp: Từ ngày mười sáu tháng tư đến hết ngày mười lăm tháng năm ngày nào cũng có thể kết hạ, đây gọi là ngày đầu an cư. Nếu có nạn không thể kết hạ hoặc năm, bốn, ba ngày cho đến hết một tháng, không mất tiền an cư đây gọi là ba mươi ngày kết hạ một ngày thọ tuổi hạ; còn người hậu an cư, chỉ có một ngày được kết hạ an cư, qua ngày mười lăm tháng bảy, có nạn thì ngày nào cũng có thể thọ tuổi hạ cho đến hết ngày mười lăm tháng tám, đây gọi là một ngày kết hạ an cư, ba mươi ngày thọ tuổi hạ.

Hỏi: Kết hạ an cư thọ pháp bảy ngày, thọ từ ngày đầu an cư, hay đến lúc đi mới thọ?

Đáp: Nếu thọ từ ngày đầu an cư thì tốt, đến ngày đầu an cư không được thọ thì lúc sắp đi thọ cũng được. Luận về thọ phép bảy ngày, nhưng đi không đủ bảy ngày mà trở về sau đó đi lại thì không được thọ, phải tính đủ bảy ngày, mới được thọ, nếu quên mất thì có thể thọ lại.

Hỏi: Ở trong hạ an cư, không nhận mười hai vật như giường nằm, nhà ở… được an cư không?

Đáp: Không cần phải nhận.

Hỏi: Kết hạ an cư mà không an cư, được tuổi hạ không?

Đáp: Nếu trước đây không biết phép an cư thì được thọ tuổi hạ, còn biết mà làm trái thì không được.

Hỏi: Không kết hạ không an cư thọ tuổi hạ được không?

Đáp: Nếu trước đây không biết có phép kết hạ, không biết có phép an cư thì được thọ tuổi hạ, nên hướng về chúng Tăng sám hối. Nếu trước đây biết phép mà cố ý làm trái thì không được.

Hỏi: Không kết hạ mà an cư, được tuổi hạ không?

Đáp: Giống như việc trên.

Hỏi: Trong hạ an cư được vào sông ao nước tắm rửa không?

Đáp: Thuộc cương giới thì được, hoặc thọ bảy ngày nên đi qua sông cũng được.

Hỏi: Ở trong hạ phạm Quyết đoán nhưng không sám hối, thọ tuổi hạ được không?

Đáp: Tuy có tội nhưng không được thọ tuổi hạ, vì sao? Vì là Tỳkheo.

Hỏi: Thọ tuổi hạ nhưng không hòa hợp được tuổi hạ không?

Đáp: Trước hết phải sám hối, sau đó thọ tuổi hạ, nếu người ấy không sám hối, chúng phải tẩn xuất mới được thọ tuổi hạ, nếu người ấy không chịu ra khỏi Chúng phải can gián ba lần, can gián hơn ba lần vẫn không chấp nhận thì phạm tội Quyết đoán, can gián hơn bốn lần phạm tội trọng, hoặc dùng sức mạnh để đuổi, hoặc bức ép đuổi ra khỏi cương giới thì tốt, nếu người kia không chịu ra, phải đóng chặt cửa cho ở trong một phòng, sau đó Chúng thọ tuổi hạ, vì người đó không phải là Tỳkheo. Nếu có nhiều người xấu, chúng đã không tẩn xuất thì phải tách ra khỏi cương giới, nếu cùng họ thọ tuổi hạ, thì không được tuổi hạ.

Hỏi: Ở trong hạ an cư được trốn Thầy làm phước không?

Đáp: Được, nhưng không được tự tay làm việc.

Hỏi: Ở trong hạ được cầm quạt, phất trần không?

Đáp: Tất cả loại quạt có đuôi thì không được cầm, quạt đan bằng tre thì được.

Hỏi: Người hậu an cư, đến ngày mười lăm tháng bảy, được thọ tuổi hạ rồi đi không?

Đáp: Không được, nếu trước đây không biết mà thọ tuổi hạ thì được, nếu biết phép mà cố ý làm trái thì không được. Nếu chúng đã hòa hợp, Tăng đã nhận thể rồi, nếu khi người hậu an cư thọ tuổi hạ, thì người tiền an cư cũng vậy.

Hỏi: Hai người đồng tuổi hạ, người nhỏ tiền an cư, người lớn hậu an cư, người tiền an cư thọ tuổi hạ, người hậu an cư chưa thọ tuổi hạ, ở trong một tháng người nào lớn?

Đáp: Trước người đó đã lớn hơn nên làm lớn vì tính theo ngày cũ.

Hỏi: Ở trong hạ không thọ phép bảy ngày, có một vài việc nhỏ ra khỏi cương giới, được an cư không?

Đáp: Sám hối thì được.

Hỏi: Ở trong hạ có một nhân duyên được thọ bảy ngày ba lần không?

Đáp: Được.

Hỏi: Ở trong hạ có người không an cư, hoặc mười người đến mười lăm người muốn đến ở nhờ, cùng thọ tuổi hạ không?

Đáp: Nếu kịp lúc hậu an cư thì phải kết giới, nếu không kịp hậu an cư thì không được, nến người này hoàn tòan không biết phép an cư thì được thu nhận, nếu biết có mà làm trái thì không được.

Hỏi: Ở trong lúc hạ an cư vì việc Tam bảo, hoặc bệnh tật,và gặp những tai nạn được dời chỗ an cư không?

Đáp: Được, phải bạch chúng, thọ pháp ba mươi chín ngày, thọ pháp ba mươi chín ngày rồi có một việc liền ra khỏi cương giới ba mươi chín ngày, đủ ba mươi chín ngày trở lại được thì tốt, nếu không được, cũng có thể ở chỗ ấy thọ tuổi hạ không phạm. Nếu ngày đầu an cư không thọ đến lúc sắp đi thọ cũng được. Nếu an cư đã đủ ba mươi chín ngày, có việc cần ra khỏi cương giới thì không cần thọ lại, nếu có việc không trở lại cũng có thể ở khác thọ tuổi hạ.

Hỏi: Không kiết hạ an cư hoặc không thọ phép bảy ngày có được hạ lạp không?

Đáp: Không biết phép an cư thì được ha lạp, không được hạ an cư, nếu đã hạ an cư Tăng can gián một lần trở lại nhận thì tốt, can gián hơn ba lần không nhận thì phạm tội Quyết đoán phải Sám hối trở lại; nhận thì được, khi nhận phải bạch chúng mới có thể được nhận.

Hỏi: Tỳ-kheo không thọ tuổi hạ phạm tội gì?

Đáp: Nếu một Tỳ-kheo không thọ tuổi hạ, chúng nên can gián khiến cho thọ, can gián lần thứ nhất cho đến lần thứ ba mà thọ thì tốt, nếu can gián hơn ba lần vẫn không thọ thì phạm Quyết đoán, can gián hơn bốn lần vẫn không thọ thì chẳng phải Sa môn, vì không chịu thọ phép ấy.

Hỏi: Người mới thọ giới hạ an cư, cùng trong ngày, nhưng kết hạ an cư, sau đó được tuổi hạ không?

Đáp: Được, nếu sau một đêm thì không được.

Hỏi: Ở trong hạ an cư quên không thọ phép bảy ngày, ra khỏi cương giới một ngày được an cư không?

Đáp: Nhớ liền sám hối thì được, trong một ngày an cư, không được sám hối ba lần, sám hối quá hai ba lần thì không được tuổi hạ.

Hỏi: Khi thọ tuổi hạ, nếu trời mưa được vào nhà thọ tuổi hạ không?

Đáp: Được.

Hỏi: Đi đến nơi nào đó để kết hạ an cư, vì có chướng ngại nên không thể đến được, được đổi chỗ an cư kết hạ không?

Đáp: Không được. Giả sử đến chỗ khác, để hậu an cư, nếu trên đường đi, có trú xứ của Tăng, phải tập hợp để kết hạ an cư, phải ở lại hai, ba ngày, sau đó thọ pháp ba mươi chín ngày thì được đi. Nếu không có trú xứ của tăng, năm người trở lên cùng kết giới an cư, sau đó một hoặc hai người ở lại để giữ cương giới, đủ ba mươi chín ngày mới được đi, nếu người đi sau không đủ ba mươi chín ngày mà bỏ đi, người đi trước không biết nên không mất an cư, người đi sau thì bị mất.

Hỏi: Một người cho đến bốn người được ở trong nhà cư sĩ kết hạ an cư không?

Đáp: Không được, năm người trở lên mới được.

Hỏi: Một người ở chỗ thanh vắng được kết hạ an cư không?

Đáp: Trước đây có kết cương giới, hai người trở lên thì được, một người không thể được, vì không có người cùng thọ an cư, không có cương giới nên hoàn toàn không được, nếu muốn an cư riêng, phải thỉnh tăng kết cương giới, sau đó an cư thì được.

Hỏi: Tỳ-kheo trong hạ an cư nhận lời người khác thỉnh và nhận đồ vật của người khác gởi, hoặc trải qua mười ngày cho đến ba tháng, được như vậy không?

Đáp: Không tác ý tham mà nhận thì không giới hạn thời gian.

Hỏi: Ở trong hạ an cư trong cương giới có làm công việc, được an cư không?

Đáp: Việc phước thì được làm, ngoài ra thì không được.

Hỏi: Văn thọ hạ an cư nói : “Phòng nhà bị hư hoại phải tu sửa lại” .Vậy làm lúc mới an cư hay an cư xong?

Đáp: Trong ba tháng, nếu nhà bị hư thì nên sửa chữa.

Hỏi: Khi thọ tuổi hạ, ni chúng đến trong cương giới cầu xin thọ tuổi hạ, nên cho thọ tuổi hạ không?

Đáp: Hai vị ni trở lên thì được, một người thì không được. Vì sao? Vì ni một mình đi ra khỏi cương giới phạm tội nặng.

Phẩm 6: HỎI VỀ VIỆC ĐỘ NGƯỜI

Hỏi về việc độ người

Hỏi: Một người được độ Sa di không?

Đáp: Hai người mới được độ.

Hỏi: Độ Sa di được thỉnh Hòa Thượng từ xa không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Chưa đủ năm hạ lạp độ người phạm tội gì? Đệ tử kia đắc giới không?

Đáp: Nếu biết phi pháp mà độ, phạm tội Đọa; can gián hơn ba lần không dừng, phạm Quyết đoán; nếu đệ tử không biết phi pháp thì đắc giới, nếu biết thì không đắc giới.

Hỏi: Tỳ-kheo không thông hiểu giới, lại không biết các việc Tăng, độ nhiều người xuất gia, hoặc làm Tam Sư (Hòa Thượng, Yết ma sư, Giáo thọ sư), có phạm không?

Đáp: Người ấy còn không nên ăn thức ăn của tín thí, huống gì là độ người.

Hỏi: Nếu người có cha, mẹ phép Vua không chấp nhận, Tỳ-kheo lén dẫn về độ, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội nặng, nếu quân lính tìm bắt, người ấy theo Tỳ-kheo xin xuất gia nếu Tỳ-kheo biết mà cho ở, dù chưa độ cũng phạm tội nặng.

Hỏi: Con xuất gia trước, cha mẹ xuất gia sau nên đến chỗ con mình để xuất gia, người con được độ không?

Đáp: Được.

Hỏi: Tỳ-kheo phạm giới được độ người không?

Đáp: Phạm tội nặng, không có lý nào lại độ người; nếu phạm tội Quyết đoán cũng giống như trên vì chưa đủ năm hạlạp; nếu phạm giới nhẹ, phải làm phép sám hối, sau đó được độ.

Hỏi: Cư sĩ xin một Tỳ-kheo để xuất gia, Tỳ-kheo liền độ, bèn thỉnh Hòa Thượng làm giới sư ,Tỳ-kheo đó là thầy phải không?

Đáp: Không phải thầy, nếu sau theo vị đó thọ pháp, vị đó có thể làm pháp sư, nếu muốn nương theo thì vị đó có thể làm y chỉ sư.

Hỏi: Tỳ-kheo độ nhiều đệ tử, hoặc làm Tam Sư mà không dạy bảo, phạm vào tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa. Thuở xưa, thời đức Phật Ca Diếp, có một Tỳkheo độ đệ tử nhưng không dạy bảo, đệ tử làm nhiều điều phi pháp. Khi họ qua đời, sanh trong loài rồng, phép của rồng bảy ngày bị một ngọn lửa, đốt cháy thân thể đến tận xương, chết rồi sanh trở lại, trở lại bị thiêu cháy tiếp, không thể chịu nổi khổ đau, liền suy nghĩ: “Trước đây, ta có tội gì mà nay khổ như vậy”, liền quan sát mạng sống đời trước, thấy mình xưa làm Sa môn, không giữ giới cấm, thầy cũng không dạy, liền nghĩ ác độc, tức giận thầy mình, càng nghĩ càng muốn làm hại. Biết sau này vị thầy đó cùng năm trăm người đi trên thuyền vượt qua biển cả, rồng liền phun nước làm chìm thuyền, mọi người liền hỏi: “Ngươi là ai?”

Đáp: “Nếu các ngươi thả Tỳ-kheo này xuống biển, thì ta sẽ thả các ngươi đi”.

Hỏi: “Tỳ-kheo này vì sao can dự vào việc của ngươi, sao không cần người khác, chỉ cần Tỳ-kheo này làm gì?”.

Rồng nói: “Tỳ-kheo này vốn là thầy của tôi, do không dạy dỗ tôi, khiến tôi hôm nay phải chịu đau khổ thế này, nên tôi chỉ cần vị ấy, mọi người không được ngăn cản, việc này.” Thấy Rồng sắp nhấn chìm mình xuống nước, nên Tỳ-kheo nói: “Ta tự nhảy vào biển, không cần ngươi nhận chìm.” Tỳ-kheo ấy liền nhảy xuống nước tan thân mất mạng, sanh vào các nơi khổ đau chịu vô lượng tội. Lấy việc này chứng minh, độ người, không thể không chỉ dạy.

Phẩm 7: HỎI VỀ VIỆC THỌ GIỚI

Hỏi: Sa-di phạm mười giới, hoặc một, hai, ba giới mà không sám hối, thọ đại giới có đắc giới không?

Đáp: Nếu nhớ mà không sám hối thì không đắc giới, không nhớ, lại không biết pháp, đã thọ trì thì đắc giới, luận về phép thọ giới, Thầy phải hỏi Sa-di: “Ngươi phạm giới không?” Nếu Sa-di nói phạm, liền dạy phải sám hối, nếu Bổn sư không hỏi thì khi đăng đàn Thầy phải hỏi; nếu không ai hỏi, Thầy phạm Xả-đọa.

Hỏi: Đã thọ đại giới, sám hối lỗi đã phạm khi còn Sa-di không?

Đáp: Được sám hối, giống như pháp sám hối của Sa-di.

Hỏi: Sa-di đăng đàn sắp thọ đại giới hoặc mặc áo thế tục, chân mang giầy, hoặc y, bình bát không đủ, lúc ấy đi mượn thì đắc giới không?

Đáp: Tuy mặc áo thế tục, Thầy không hỏi thì không đắc giới, ngoài ra đều đắc giới, sư Tăng phạm tội Đọa.

Hỏi: Nếu có Tỳ-kheo không xả giới, mà làm Sa-di, hoặc làm người tu Đại đạo, được thọ giới lại không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Nếu không đắc giới, trước đã thọ giới nên cho ở không?

Đáp: Cho ở.

Hỏi: Về sau người ấy có gọi là Thầy không?

Đáp: Không thể được.

Hỏi: Nhiều người thọ giới, lại thỉnh một người làm thầy, có thể mười người hoặc năm người thọ giới một lúc không?

Đáp: Không có lẽ đó.

Hỏi: Sa-di thọ đại giới, thỉnh một Tỳ-kheo làm Đại giới Sư, mà Tỳ-kheo này không biết yết ma và phép thọ giới, liền thỉnh một vị khác cho thọ giới, vậy ai là Thầy?

Đáp: Vị cho thọ giới là Thầy, người không trao giới pháp thì chẳng phải Thầy.

Hỏi: Sư Tăng đăng đàn hoặc mặc áo thế tục, hoặc phạm giới cấm, người thọ giới có đắc giới không?

Đáp: Nếu người thọ giới biết là phi pháp thì không đắc giới, không biết thì đắc giới.

Hỏi: Thọ giới, khi chúng tăng không hòa hợp hoặc đánh mắng nhau có đắc giới không?

Đáp: Nếu lúc đăng đàn, Tăng hòa hợp thì đắc giới, không hòa hợp thì không đắc giới.

Hỏi: Thọ giới có hạn chế thời gian không?

Đáp: Cách đêm thì không được, đầu đêm, giữa đêm không thắp đèn nến thì không được, cần phải thấy thân hình màu sắc thì được.

Hỏi: Khi thọ giới, hoặc gặp trời mưa nên chuyển đổi giới trường, xuống dưới nhà thọ giới có đắc không?

Đáp: Nếu muốn chuyển giới trường, trước phải giải đại giới rồi kết giới trường, mới được thọ giới, không như vậy thì không được.

Hỏi: Khi thọ giới, hoặc có nạn, không được hoàn hảo, người này có phải là đại Tỳ-kheo không?

Đáp: Chỉ ba lần yết ma xong là đủ.

Hỏi: Thọ giới đủ mười ba việc, sau đó các giới sư, Hòa Thương không dạy bảo tiếp, có được đầy đủ giới không?

Đáp: Nếu Thầy không dạy giới đến ngày mười lăm thuyết giới chú tâm lắng nghe thọ nhận thì được đầy đủ.

Hỏi: Thọ giới ba y không đủ, có cầm tiền may y, hoặc y đã nhuộm hoặc không nhuộm hoặc cắt may hoặc không cắt may được xem là y không?

Đáp: Hoàn toàn không được.

Hỏi: Khi thọ giới, chúng Tăng hiếm có và giới hạn, có bao nhiêu Tăng được thọ đại giới?

Đáp: Trừ Tam Sư, từ năm Tăng trở lên thì được.

Hỏi: Sa-di đã từng giả làm người tu Đại đạo, nhận đại Tỳ-kheo đảnh lễ, sau đó được thọ đại giới không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Sa-di từ tạ thầy ra đi, gặp sự khó khăn trở lại không được, đích thân đi đến chỗ khác thỉnh y chỉ sư để thọ giới, có đắc giới không?

Đáp: Đắc giới.

Hỏi: Nếu Tỳ-kheo dụ dỗ Sa-di của người khác, dẫn đến chúng khác, cho thọ đại giới, phạm tội gì? Chúng kia biết nên chấp nhận không?

Đáp: Nếu vị thầy kia có việc phi pháp, Sa-di và người dắt đi không có tội; nếu vị Thầy kia không phải phi pháp, thì người dẫn đi phạm tội nặng, khi đăng đàn thọ giới, Sư Tăng phạm tội Đọa. Xưa có một Tỳkheo trưởng lão, chỉ có một Sa-di theo hầu hạ, có một Tỳ-kheo khác đến dụ dỗ dẫn Sa-di đi, Tỳ-kheo trưởng lão này không có người hầu hạ, nên không bao lâu liền qua đời, nhân đó chế giới này, không được dụ dỗ Sa-di của người khác, nếu dụ dỗ Sa-di của người khác thì phạm tội nặng, nếu Tỳ-kheo thấy Sa-di của người khác chăm sóc người già,

bệnh, mà bảo họ bỏ đi, nếu Sa-di này bỏ đi thì Tỳ-kheo này phạm tội nặng.

Phẩm 8: HỎI VIỆC NHẬN VẬT CÚNG DƯỜNG

Hỏi: Tỳ-kheo nhận lời mời của đàn việt, đã nhận bốn vật phẩm cúng dường, được chia cho người không?

Đáp: Được.

Hỏi: Đã nhận bốn loại vật dụng suốt đời rồi, có một vài duyên sự đi ra ngoài, được ăn thức ăn ở bên ngoài, uống thuốc bên ngoài không?

Đáp: Thí chủ đồng ý thì được nhận.

Hỏi: Người khác muốn cúng vật cho Tỳ-kheo trước hết hỏi Tỳkheo có hay không, Tỳ-kheo thật sự đã có, vì tâm tham nên lừa dối nói với người kia là không có, người kia liền đem vật cúng, phạm tội gì?

Đáp: Vì tham mà lấy nên phạm tội Xả-đọa, nói dối phạm tội Đọa.

Hỏi: Nếu thức ăn của Chúng Tăng, để dành cho Thượng Tòa, Thượng Tòa được ăn không?

Đáp: Thượng Tòa ăn với tâm tham thì phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo không bệnh tự nói có bệnh khổ, vì muốn xin thức ăn ngon, nếu có được và ăn, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội nặng.

Hỏi: Không măc ba y nhận thức ăn, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Đàn việt đến thỉnh hai, ba người, cần Tăng Chúng xướng không?

Đáp: Phải xướng.

Hỏi: Khi Đại Tỳ-kheo yết ma phân chia đồ vật, ni đến trong cương giới, được chia không?

Đáp: Được.

Hỏi: Có người gửi đồ vật đến cúng cho một trú xứ Tăng, vật đến sau, có thêm một Tỳ-kheo đến trước, chia theo an cư, Tỳ-kheo này có được phần không?

Đáp: Đánh kiền chùy thì được, không đánh thì không được.

Hỏi: Tỳ-kheo đi giữa đường, người phụ nữ cúng vật được nhận không?

Đáp: Nếu là bà con, hoặc quen biết nhau thì được nhận.

Hỏi: Gạo cúng tăng, Tăng đã đi, thí chủ cúng cho người sau, người đến sau được ăn không?

Đáp: Đánh kiền chùy được ăn, nếu không đánh kiền chùy, ăn một bữa no thì phạm tội khí.

Hỏi: Ngày mùng tám tháng tư thì phải cúng vật, ngày mười lăm tháng bảy Tăng ở trước đã đi, chủ chùa lấy cho Tăng đến sau, Tăng đến sau lấy để chia, phạm tội gì?

Đáp: Đánh kiền chùy cùng phân chia cho Tăng hiện tiền thì không có tội, nếu không đánh kiền chùy mà chia thì phạm tội trộm.

Hỏi: Cư sĩ có cúng vật, người đã nhận đi khỏi, Cư sĩ lấy cho người đến sau, người đến sau được lấy không?

Đáp: Được lấy.

Đáp: Phải hỏi người đã nhận có trở lại không?

Nếu họ đáp: “không đến nữa, liền chú nguyện rồi lấy, nếu nói người kia sẽ đến thì không được lấy, nếu lấy để dùng phạm tội Xả-đọa, biết mà lấy phạm tội khí, vì đó là vật của Tăng.

Hỏi: Tỳ-kheo lo liệu đời sống, nhận được vật cúng cho Tỳ-kheo như: y phục, thức ăn được nhận không?

Đáp: Lấy vải thì phạm Xả-đọa, nếu ở nơi nghèo cùng không có thức ăn, người khác sai cư sĩ làm thức ăn thì có thể ăn, người quản lý đời sống phải bạch chúng: “Vật này không phải là vật của tôi, là vật của tôi sai người làm”, thì có thể ăn, nếu chủ nhân cúng cho người khác, người khác nói: “ Đây là vật của tôi” thì có thể ăn.

Hỏi: Tỳ-kheo được bỏ đồ vật không?

Đáp: Không được, nếu bỏ phạm Xả-đọa.

Hỏi: Nhận lâu dài đến một trăm ngày, nửa chừng được nhận ăn một bữa, hai bữa của người khác không?

Đáp: Thí chủ chấp nhận thì được, không chấp nhận thì không được.

Hỏi: Tỳ-kheo ăn hoặc nhai một miệng cơm nhả ra, lấy bỏ chừng một miếng, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo khất thực dư cho người không?

Đáp: Trước tâm không tham mà lấy, nhiều thì được cho chúng sanh, nếu không có chúng sanh thì để nơi cây, có chúng sanh ăn thì tốt, nếu không có chúng sanh, sáng mai trở lại lấy nước rửa rồi ăn, không được bỏ vì của tín thí rất nặng, sở dĩ trở lại được lấy là vì không có chủ, như phép tự lấy ăn ở Uất-đơn-việt.

Hỏi: Chủ nhân thỉnh cầu, được nhận suốt đời không?

Đáp: Nếu chỗ ấy hành đạo được, không có các nạn, không có thiếu thốn thì được đến.

Hỏi: Người chủ mời ăn, được sai người đi thay không?

Đáp: Nếu người chủ đồng ý, thì được, nếu chủ nhân không thích đổi, người đi thì phạm tội Đọa.

Hỏi: Thức ăn của mẹ con quỷ có thể ăn không?

Đáp: Phải chú nguyện sau mới được ăn.

Hỏi: Người chủ cúng cho Tỳ-kheo bò, ngựa, nô tỳ, thức ăn, được nhận trực tiếp không?

Đáp: Được lấy dùng, không được bán, nếu tất cả các loại binh khí, cũng không được nhận.

Hỏi: Người đem vật ra cúng tế, cúng xong bỏ đi để vật lại Tăng đến sau được ăn không?

Đáp: Đánh kiền chùy được ăn, không đánh kiền chùy mà ăn thì phạm tội trộm.

Hỏi: Tỳ-kheo cầm mâm thức ăn chia cho người khác phạm tội gì?

Đáp: Nếu đã hỏi, và được cho phép thì không có tội, không được phép mà lấy ăn, phạm tội Đọa, nếu không hỏi cũng phạm tội Đọa, sở dĩ không phạm tội trộm, vì cùng lấy tay nhận thức ăn.

Hỏi: Tỳ-kheo khất thực, trước họ có hỏi tốt không?” Tỳ-kheo không đáp đúng sự thật, nếu nhận vật này, phạm tội gì?

Đáp: Thật là tốt nói tốt phạm tội Đọa, không tốt nói tốt phạm tội khí.

Hỏi: Tất cả vật dùng trọn đời của Tỳ-kheo đem đưa cho người khác, nói: “Về sau tôi sẽ trở lại lấy”, được như vậy không?

Đáp: Được, có thể gởi cho người đáng tin. Sau đó lại nói với người khác tôi đem vật cúng cho Tỳ-kheo kia rồi, nói là trở lại thì không được đích thân đi lấy.

Phẩm 9: HỎI VIỆC BỆNH TẬT

Hỏi: Khi Tỳ-kheo bệnh được bỏ bát ăn hay không?

Đáp: Bệnh nặng thì được, bệnh nhẹ thì không được.

Hỏi: Tỳ-kheo bị bệnh, không giữ ba y phạm tội gì?

Đáp: Nếu rất mệt nhọc lại không tỉnh táo thì được, còn biết rõ thì không được.

Hỏi: Thăm người bệnh không nói với người bệnh, tự đem tiền cho người bệnh khác, mua thức ăn, uống thuốc phạm tội gì?

Đáp: Nếu dùng năm tiền, phạm tội khí, sau đó nói với người bệnh, người bệnh vui vẻ thì không phạm, nếu người bệnh tức giận, không trả lại cũng phạm tội khí.

Hỏi: Vì bệnh nên người chủ cúng mỗi ngày một trăm tiền, chỉ cần năm mươi tiền là đủ, số tiền dư được cho người bệnh khác mua thức ăn không?

Đáp: Người bệnh tự cho thì được.

Hỏi: Tỳ-kheo bệnh không có người chăm sóc, được cho Tỳ-kheo làm thức ăn không?

Đáp: Trong núi, chỗ không có người, đến vẫn không khất thực được, trở lại thì được làm, trong bảy ngày, trước phải tịnh thí củi, gạo rồi nhận lại mới được làm.

Hỏi: Người bệnh cần một, hai lít rượu đổ vào trong thuốc, có thể cho không?

Đáp: Nếu thầy thuốc nói hòa với thuốc để uống mới được lành thì được, không được không uống.

Hỏi: Tỳ-kheo bệnh được mặc áo lạnh không?

Đáp: Không được, vì giống với ngoại đạo.

Hỏi: Tỳ-kheo bệnh ung nhọt được sai người hút nhổ ra không?

Đáp: Được.

Hỏi: Tỳ-kheo bệnh ngặt nghèo, hoặc thiếu y bát do cúng chúng nên bán để làm phước, nếu nhận phạm tội gì?

Đáp: Nếu bị hư rách thì được nhận, không phải thì phạm Xả-đọa.

Phẩm 10: HỎI VỀ VIỆC TỲ KHEO QUA ĐỜI

Hỏi: Vật của Tỳ-kheo qua đời, không đánh kiền chùy, không yết ma mà chia, phạm tội gì?

Đáp: Thuộc trong cương giới một người trở lên, đều được đánh kiền chùy mà yết ma, nếu không đánh kiền chùy mà yết ma, hoặc đánh kiền chùy mà không yết ma, hoàn toàn phạm tội khí. Vì sao? Vì vật của Tỳ-kheo qua đời đều thuộc Tăng bốn phương, không được đích thân chia, nếu ở ngoài cương giới thì năm người trở lên, được yết ma chia, không cần đánh kiền chùy, vì không có cương giới, bốn người trở xuống không được yết ma để chia, nếu chia thì phạm tội khí, phải đem đến trong Chúng tăng, nếu tự lấy đem đến Chúng khác, mới vào trong cương giới thì không phạm, khi ra khỏi thì phạm tội khí, như vậy lại đến Chúng khác, ra khỏi một cương giới phạm thêm một tội khí. Đệ tử đem vật của thầy đi cũng vậy.

Hỏi: Tỳ-kheo qua đời, đệ tử không lấy vật của thầy đưa cho Chúng Tăng, đích thân phân chia cúng dường chúng Tăng, Tăng có thể ăn không?

Đáp: Đệ tử ấy trước đây biết pháp thì có tội, Tăng không đánh kiền chùy không yết ma mà ăn, phạm Xả-đọa.

Hỏi: Nếu Thầy qua đời, Tăng yết ma chia vật, đệ tử được chia không?

Đáp: Được, vì đệ tử là Tăng Chúng.

Hỏi: Thầy qua đời, không có tăng khác, chỉ có đệ tử, hoặc năm hoặc mười, được yết ma chia vật không?

Đáp: Được chia vì đệ tử tức là Tăng nên được chia, phải đánh kiền chùy và yết ma, không làm như vậy thì không được.

Hỏi: Người bệnh qua đời, vật của thí chủ cúng cho người bệnh còn lại, người sau được lấy cho người bệnh khác không?

Đáp: Đây là vật của Tăng, không được đích thân cho, nếu lấy bằng với trị giá năm tiền, phạm tội khí.

Hỏi: Thầy đưa đám cha, mẹ, anh em chết được khóc không?

Đáp: Không được, khóc một tiếng phạm tội Đoạ, chỉ có thể rơi vài giọt nước mắt thôi.

Hỏi: Khi Tỳ-kheo qua đời thì có mặt, khi yết ma không có mặt; hoặc khi chết không có mặt, khi yết ma thì có mặt được chia phần cho vị ấy không?

Đáp: Kịp lúc yết ma thì đều được, khi chết thì có mặt, khi yết ma không có mặt thì không được chia.

Hỏi: Tỳ-kheo qua đời, người khác mua quan tài, y phục cho để mai táng, phạm tội gì?

Đáp: Bạch Tăng, Tăng cho Nê-hoàn-Tăng, cho Tăng-kỳ-chi để che thân, ngoài ra đều thuộc của Tăng, tất cả không được chôn, chôn đủ năm tiền phạm tội khí, nếu vật riêng của đệ tử thì được, nếu người mất biết pháp, lấy vật đã được chia thì không có tội.

Hỏi: Cha mẹ bà con chết, Tỳ-kheo được lo liệu áo quần, quan tài để chôn cất không?

Đáp: Đều không được. Nếu ngày cha mẹ mất, hoặc bệnh không có người cung cấp, đi khất thực được chia cho một nửa, nếu họ có khả năng, thì không được cho thực phẩm, nếu cho thì phạm Xả Đoạ, cho vải cũng phạm Xả-đọa, huống chi mua quan tài để chôn cất!

Hỏi: Người bệnh qua đời, y bát trước hết cho người nuôi bệnh, nhưng không yết ma, người nuôi bệnh lấy bán làm cơm cúng Tăng, Tăng ăn được không?

Đáp: Chúng chưa yết ma mà ăn, phạm Xả-đọa, nếu người bệnh không biết pháp, làm xong mới yết ma thì được ăn, nếu chưa tác pháp thì chúng nên tác pháp.

Hỏi: Tỳ-kheo mượn vật của người Tỳ-kheo đã chết, được lấy vật để trả không?

Đáp: Tất cả đều không được tự lấy, nếu lấy phạm Đột cát la, phải bạch chúng, Chúng trả thì được lấy, nếu chúng không cho mà lấy phạm Xả Đoạ.

Hỏi: Thầy qua đời Tỳ-kheo được xây tháp không?

Đáp: Vật của mình được dùng, vật của Thầy thì không được.

Hỏi: Tỳ-kheo được hướng về mồ mả của thầy đảnh lễ không?

Đáp: Được. Có người vấn nạn: “Sống là thầy của mình, đã chết rồi chẳng phải là Tỳ-kheo, chỉ là bộ xương khô mà thôi, vì sao phải đảnh lễ?”

Đáp: Nếu Phật ở đời nên cung kính cúng dường, sau khi ngài nhập Niết bàn cũng chỉ là bộ xương khô mà thôi, vì sao lại cúng dường!? Vì lúc Thầy lúc còn sống đã đem giáo pháp làm lợi ích cho mọi người, sau khi Thầy chết đảnh lễ có lỗi gì?

Hỏi: Khi chia vật yết ma xong, lại có Tăng đến, được chia phần cho vị ấy không?

Đáp: Nếu yết ma xong, không chia thì không lỗi, nếu đến kịp lần yết ma, cũng được chia phần.

 

KINH MỤC LIÊN VẤN GIỚI LUẬT TRUNG NGŨ BÁCH KHINH TRỌNG SỰ

QUYỂN HẠ

Phẩm 11: HỎI VỀ BA Y

Hỏi: Việc giặt ba y có cần xả cho không?

Đáp: Cần xả. Nếu không xả phạm Đọa, đem cho người khác, họ trả lại mới được nhận.

Hỏi: Ba y đã rách hết được may chậm chậm không?

Đáp: Y đại thì được. Y trung và y tiểu thì không được.

Hỏi: Y tiểu được mặc lên giảng đường thắp hương được không?

Đáp: Không có y trung thì được, nếu không như vậy thì thân thể phải sạch sẽ tinh khiết mới được.

Hỏi: Giặt y xong, đem đổi thành vải được dùng để đổi gạo không?

Đáp: Không được, nếu đổi phạm tội Xả-đọa, phải nhận từ Sa-di bạch y mới được mặc.

Hỏi: Có ba y rồi may nội y nữa không?

Đáp: Nội y may hay không may cũng được.

Hỏi: Được mặc y đại lên giảng đường lễ bái không?

Đáp: Không có y trung thì được.

Hỏi: Ba y được dùng lụa sống để may không?

Đáp: Tất cả vải lụa sống mà không nhìn thấy thân thì được mặc.

Hỏi: Tỳ-kheo tức giận, tự phá y, bình bát, tích trượng phạm tội gì?

Đáp: Tức giận, phiền não tự phá ba y, bình bát, phạm Xả đoạ, phá vật của người khác thì tính theo số tiền mà phạm tội.

Hỏi: Ba y được cho người mượn không?

Đáp: Không được ra khỏi cương giới qua đêm. Nếu trong nội giới thì được, không có giới hạn về thời gian mượn.

Hỏi: Vào trong làng xóm không mặc y đại phạm tội gì?

Đáp: Mang trên vai đi không, không phạm. Nếu Tăng sai hoặc vì người bệnh mà đem đi không phạm.

Hỏi: Ba y rách vá lại được dùng cần cúng lại người khác được không?

Đáp: Rách khoảng bằng chân con mèo, nên cho người khác họ trả lại mới được vá lại dùng, nếu vá trước cho người sau cũng được.

Phẩm 12: CÁC VIỆC VỀ BÌNH BÁT

Hỏi: Như thế nào là mất bát?

Đáp: Hoặc sứt mẻ, hoặc thủng lỗ, hoặc bể nát, hoặc dính dơ không rửa được đều bị mất; nếu bị sứt, mẻ, thủng lỗthì không thể dùng được; hoặc bị bể hàn bịt lại rồi cho người khác, người khác trả lại thì được dùng, dính dơ không rửa được cũng vậy, nếu bỏ ra ngoài cương giới qua đêm thì không mất.

Hỏi: Bát được treo móc trên vách không?

Đáp: Nếu khăn bao lại thì được, nhưng phải để chỗ sạch sẽ, hoặc đựng trong túi rồi treo lên vách thì tốt, không được chỉ đậy rồi treo lên vách.

Xưa kia nhóm sáu Tỳ-kheo treo bát trên vách, bát rơi xuống đất liền bị vỡ, Đức Phật nhân việc này chế giới: Từ hôm nay về sau không được treo bát lên vách, treo bát lên vách là phạm tội Xả; làm rớt xuống đất là phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo sáng sớm được dùng bát ăn hay không, nếu dùng có phạm lỗi gì không?

Đáp: An bất cứ thức ăn gì cũng đều phải dùng bát. Nếu một ngày không dùng bát thì phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo ăn cơm muốn cho hết, được nghiêng bát lại để vét cơm không?

Đáp: Được.

Hỏi: Sau khi ăn xong lại ăn trái cây, được bỏ bát xuống không?

Đáp: Được. Nếu ăn chưa xong, cũng được bỏ xuống chốc lát.

Hỏi: Tỳ-kheo ăn bưng bát giơ cao lên có được để dưới đất không?

Đáp: Nên bưng cao lên. Nếu để dưới đất cũng không phạm giới.

Hỏi: Tỳ-kheo lấy đồ đựng đầy cơm, bỏ trong bát một nửa, có được dùng bát ăn không?

Đáp: Không được, nếu dùng để ăn phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Bát được lấy nấu thức ăn không?

Đáp: Không được, nấu phạm tội Xả đoạ.

Phẩm 13: HỎI VỀ CÁC VIỆC KHÁC

Hỏi: Tỳ-kheo bị cướp lấy trộm vật chưa đem ra khỏi cương giới người chủ thấy vật ấy của mình nhưng không biết ai lấy, vật ấy được lấy lại không?

Đáp: Được lấy để dùng, tức giống giới tương tự vật báu trong chín mươi Ba-dật- đề.Trước hết phải suy nghĩ, nếu có người nhận thì không được lấy, không có người nhận thì phải bạch chúng mới được lấy, nếu không có chúng mà vật trong cương giới thì được lấy nhưng không được lấy làm vật của mình.

Hỏi: Chúng Tăng đánh kiền chùy báo giờ ăn, Tăng bên ngoài đến không cho thức ăn là phạm tội gì?

Đáp: Vì sợ mất lợi dưỡng phạm tội Đột cát la.

Hỏi: Trước đây Tỳ-kheo giáo hóa thí chủ cúng cho một trăm người ăn, nhưng nhiều hơn một người trở lên có được ăn không, Tỳ-kheo giáo hóa có phạm không?

Đáp: Nếu đánh kiền chùy để ăn thì nên nhận người giáo hóa không phạm. Vì sao? Vì đánh kiền chùy để thỉnh Tăng, Tăng đến nhiều hơn thì có lỗi gì! Pháp đánh kiền chùy là cần tác ý thỉnh Tăng bốn phương, Tăng đến hoặc nhiều hoặc ít nên chia đều tất cả của cải, thức ăn uống… cho họ thì không phạm lỗi.

Hỏi: Tỳ-kheo giáo hóa nên cư sĩ cúng dường chúng Tăng, nếu có người ngoài đến xin hết, được cho một đến năm thăng không?

Đáp: Không được. Nếu biết là phi pháp mà cho quá năm tiền thì phạm tội Khí, nếu bạch chúng chấp nhận thì được.

Hỏi: Người chủ cúng dường chư tăng, thỉnh suốt đời mỗi ngày cúng một trăm tiền, chúng chỉ dùng năm mươi tiền của họ cúng, số tiền còn lại được dùng vào việc khác được không?

Đáp: Đánh kiền chùy thì được. Nếu không có y bát, không đánh kiền chùy, chúng hòa hợp được giảm tiêu dùng, nếu tự bớt mà cúng khách Tăng thì rất tốt.

Hỏi: Người chủ thỉnh Tỳ-kheo cúng ăn thức ăn trong mười ngày nhưng dồn lại còn năm, ba ngày để ăn cho ngon thì phạm tội gì?

Đáp: Không phạm. Nhưng không được xin nữa, nếu xin thì phạm tội Xả-đọa, nếu không đủ mười ngày mà bỏ đi thì cũng phạm tội Xả đoạ.

Hỏi: Người chủ mời cúng thức ăn trong mười ngày tự chia làm thức ăn một tháng được không?

Đáp: Đánh kiền chùy là được. Nếu không đánh kiền chùy, nếu Tăng đi khỏi, nếu họ không cúng cho người đến ăn sau, người đếnăn sau phần của mình ăn hết phần của người khác, nếu ăn một bữa thì phạm tội khí; không no thì phạm tội Xả đoạ.

Hỏi: Cha mẹ anh em bị phá sản được đi xin vật để chuộc lại không?

Đáp: Được. Nhưng không được nói xin cho mình, phải nói xin cho cha mẹ anh em thì được, nếu dùng xong còn dư thì không được tự dùng, phải đưa cho người được chuộc, nếu họ nói cho dùng thì phạm tội Đọa, không cho dùng mà dùng thì phạm tội khí.

Hỏi: Đến nhà bán rượu xin của cải không? Không có việc được ngồi nói chuyện không?

Đáp: Tất cả các cửa bán rượu đều không được vào, nếu vào phạm tội Đọa, có cửa khác thì được vào, nếu Tỳ-kheo được thỉnh nên hỏi: “Có thể giữ một ngày trai giới không?”. Nếu họ nói có thể, cho họ thọ giới thì đến, nếu họ không thể thọ thì dù chỉ một ngày, cũng không được ở trong quán rượu, hoặc ở nhà mổ giết cũng vậy.

Hỏi: Khuyên người uống rượu phạm tội gì?

Đáp: Cưỡng ép mà họ không uống phạm Đột-cát-la, nếu họ uống phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo gởi vật cho cư sĩ quá thời hạn Tỳ-kheo không đến lấy, cư sĩ đem cho Tỳ-kheo khác, được lấy không?

Đáp: Không được lấy. Nếu Tỳ-kheo còn sống là vật có chủ, nếu chết là vật của Tăng.

Hỏi: Tỳ-kheo ban đêm được cầm đuốc đi không?

Đáp: Mùa đông thì được, mùa hè đốt đuốc cũng được, nếu cầm lửa thì phạm tội Đọa.

Hỏi: Vật chỉ có giá trị một cái, đi đến nơi khác bán được giá bằng năm, ba cái có thể lấy không?

Đáp: Không được, nếu lấy phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Tất cả vì đùa giỡn lấy vật của người khác, không trả lại thì phạm tội gì?

Đáp: Vì đùa giỡn lấy vật cho hết thì phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo nếm thức ăn được không?

Đáp: Không được, biết mà ăn phạm tội Xả-đọa, nếm thức ăn của người khác cũng phạm tội Đọa, nếu không sám hối liền tội người ấy ngày càng tăng thêm.

Thuở xưa có một vị Tỳ-kheo làm việc cho chúng Tăng, thường phân chia thức ăn, luôn chỉ tay vào đồ vật nói: “Lấy vật này dùng vật này!” Ngày nào cũng như vậy, không chịu sám hối, sau khi qua đời bị đọa trong ngạ qủy, có một Tỳ-kheo đắc A la hán, ban đêm nghe tiếng kêu rên rỉ ở trong nhà xí nên hỏi:

– Ngươi là ai?

Đáp: Tôi là ngạ quỷ.

Hỏi: Vốn làm điều gì mà đọa trong ngạ quỷ.

Đáp: Ở trong chùa này làm việc cho chúng Tăng.

Hỏi: Ngươi vốn siêng năng vì sao lại đọa làm ngạ quỷ?

Đáp: Vì đem thức ăn không thanh tịnh cho chúng Tăng ăn.

Vị A-la-hán hỏi: Thế nào là bất tịnh?

Đáp: Chúng Tăng có nhiều đồ vật đựng đầy thức ăn, do thấy rồi dùng tay chỉ vào đồ đựng bảo người lấy vật này dùng vật này nên phạm tội Đọa, qua ba lần thuyết giới mà không chịu sám hối, nên tội tăng thêm thành tội nặng. Vì thế bị đọa trong ngạ quỷ, hai tay phanh xé ngực, lột da, xẻ thịt, hơi thở yếu ớt.

Hỏi: Vì sao phanh xé ngực?

Đáp: Vì trùng ăn nên thân thể đau đớn.

Hỏi: Vì sao hơi thở yếu ớt?

Đáp: Vì trong miệng có trùng.

Lại hỏi: vì sao kêu rên?

Đáp: Vì đói khát sắp chết.

Hỏi: Muốn ăn vật gì?

Đáp: Ý muốn ăn phân, mà không thể được.

Hỏi: Vì sao không được?

Đáp: Do các ngạ quỷ đuổi đi nên không ăn được, vị A-la-hán nói:

Ta biết làm sao?

Quỷ nói: Xin cho chư Tăng biết mà chú nguyện.

Đáp: Được rồi! Vị A-la-hán liền trở về trong chúng nói: Người kia bị đọa làm ngạ quỷ.

Chúng Tăng hỏi: Vị ấy vốn rất siêng năng sao lại bị đọa nơi đường ác?

Đáp: Vì dùng thức ăn không thanh tịnh cho chúng Tăng ăn mà không sám hối, xin Tăng chú nguyện. Quỷ liền được ăn phân, không còn kêu rên. Do đó lấy việc này chứng minh, Đại Tỳ-kheo không được tự tay làm thức ăn và chỉ vào đồ vật đựng thức ăn của Tăng, nếu không phải vật dụng của Tăng, tự tay nhận để làm cho Tăng thì không phạm.

Hỏi: Thầy sai đệ tử buôn bán, làm các việc không đúng pháp, có được rời bỏ Thầy không?

Đáp: Được bỏ. Có bốn nhân duyên nên ở: Một là cho pháp cho thức ăn; hai là cho pháp cho y bát; không cho thức ăn nên ở; ba là cho pháp, cho y bát, cho thức ăn nên ở; bốn là cho pháp không cho y bát, không cho thức ăn thì nên đi.

Hỏi: Luận về tác tịnh. Tác tịnh như thế nào? Tác tịnh có mấy việc?

Đáp: Rau quả phải tác tịnh bằng dao, tay, lửa, lúa gạo cần lửa để tác tịnh, quả đã tác tịnh thì ăn hạt không đắng.

Hỏi: Lễ bái được mang giày dép không?

Đáp: Sạch là được.

Hỏi: Vẽ hoa, làm phướn để bán phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo dạy người buôn bán, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo nuôi súc sinh, nô tỳ, trâu, lừa, chim… phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Xả-đọa, không sám hối thì tội càng tăng thêm.

Hỏi: Tỳ-kheo nhận người vào đạo, chưa xuất gia người ấy được ăn đồ ăn của Tăng không?

Đáp: Bạch Tăng thì được, không bạch Tăng mà ăn phạm tội đọa.

Hỏi: Là Tỳ-kheo khất thực cho Tăng trên đường được ăn thức ăn ấy không?

Đáp: Nếu trước khi đi có thưa Tăng, Tăng cho thì tốt, nếu không thưa rồi trở lại thưa, Tăng chấp nhận thì tốt, nếu Tăng không chấp nhận thì phải trả lại, nếu không trả thì phạm tội nặng.

Hỏi: Nếu người khác đem thức ăn cất trong phòng để qua đêm có phạm không?

Đáp: Không phạm.

Hỏi: Thắp đèn liên tục được lấy một lít, hai lít dầu để cất trong phòng mình không?

Đáp: Được.

Hỏi: Rượu thuốc được cất trong phòng mình không?

Đáp: Bệnh thì được cất bảy ngày.

Hỏi: Không dùng nhành dương có phạm không? Đáp: Phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Chưa sáng được dùng nhành dương không?

Đáp: Khi sao Mai mọc thì được, nếu dùng sớm hơn thì phạm Xảđọa.

Hỏi: Sau khi ăn, được dùng nhành dương không?

Đáp: Được dùng. Nếu không, nên dùng tro, bồ kết, nếu đều không dùng thì phạm tội Đọa, quá giờ ngọ cũng phạm tội Đọa. Sau giờ ngọ trừ thuốc ra, còn tất cả cây có mùi, vị, màu sắc, đều không được đưa vào miệng nếu đưa vào phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Nếu không có nhành dương, được dùng tất cả các loại cây khác để súc miệng không?

Đáp: Cũng được.

Hỏi: Thiếu thốn được vào chợ xin không?

Đáp: Trước giờ ngọ thì được, sau giờ ngọ thì không được, cũng không được xin tiền, nếu muốn xin tiền, phải dẫn theo một cư sĩ hoặc Sa-di đi thì được.

Hỏi: Có người bắt Tỳ-kheo để bán, có được bỏ chạy không?

Đáp: Lúc đầu được, qua chủ khác thì không được.

Hỏi: Tỳ-kheo nói đùa, lại nhận được vật lấy làm thức ăn, mời Tỳkheo được ăn không?

Đáp: Không được, nếu ăn phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo ni không siêng năng, có thể khuyên thôi tu đạo không?

Đáp: Không có lý như thế.

Hỏi: Hoà thuốc cho người bị chết phạm tội gì?

Đáp: Có tâm tốt thì không phạm, có tâm ác thì phạm tội nặng.

Hỏi: Tỳ-kheo mười hạ lạp hay năm hạ lạp, mà không tụng giới, thì phạm tội gì?

Đáp: Nếu không tụng giới mà ăn thức ăn của tín thí hàng ngày thì phạm tội trộm, nếu trước không biết thì được sám hối.

Hỏi: Tất cả miếu của các quỷ thần ở, có thể ở lại đêm không?

Đáp: Đi đường thì được ở. Nếu có ý quấy rối mà ở thì phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo ăn thịt sống phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa.

Hỏi: Hai người nam hành dục chưa xong, phạm tội gì?

Đáp: Phạm Quyết đoán.

Hỏi: Hai người nam dâm dục muốn đùa giỡn ở miệng liền dừng phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa. Nếu thành thì phạm Quyết đoán.

Hỏi: Giường chiếu của người khác đã hành dâm trên đó chỗ đó có thể nằm được không?

Đáp: Thấy chỗ đó rửa sạch thì có thể nằm.

Hỏi: Tăng đã xướng Tăng bạt, Thượng tòa chưa ăn, hạ tòa ăn trước, phạm tội gì?

Đáp: Nghe xướng rồi ăn thì không phạm.

Hỏi: Tỳ-kheo không đầy đủ sáu vật phạm tội gì?

Đáp: Không xin để làm, phạm tội Xả-đọa. Nếu xin không thể được, không phạm.

Hỏi: Tỳ-kheo quá lạnh được trải y nằm không?

Đáp: Mặc y thì được.

Hỏi: Tỳ-kheo tự xưng tên họ và giữ giới dùng sức nài ép, xin được thì phạm tội gì?

Đáp: Phạm Xả-đọa.

Hỏi: Người nữ có bệnh nhọt, hoặc có chỗ đau đớn, Tỳ-kheo lấy tay đè chỗ này để chữa trị, phạm tội gì?

Đáp: Nếu khởi tâm, thì phạm Quyết đoán, không khởi tâm thì phạm Xả-đọa.

Hỏi: Phụ nữ không có con, nói Tỳ-kheo: “Dạy cho tôi phương pháp, Tỳ-kheo liền dạy, phạm tội gì?

Đáp: Phạm Quyết đoán.

Hỏi: Nhờ Tỳ-kheo đem vật cho người nhưng không đưa cho họ phạm tội gì?

Đáp: Tự lấy không đưa thì phạm tội năng, cất cho hư rồi trả lại tính giá trị để biết tội nhẹ hay nặng.

Hỏi: Vào trong xóm làng không mặc y, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo reo hò phạm tội gì?

Đáp: Nếu ở xóm làng, trong chúng can gián một lần thì phạm Xảđọa, can ba lần không bỏ thì phạm Quyết đoán.

Hỏi: Vào trong xóm làng, cầm cung tên, dao để xem phạm tội gì?

Đáp: Trước không biết pháp thì không phạm, nếu biết thì phạm tội Đột-cát-la.

Hỏi: Tỳ-kheo đi xe ngựa phạm tội gì?

Đáp: Con đực chở một lần thì phạm lỗi, can ba lần không bỏ thì phạm Quyết đoán, con cái chở một lần phạm Quyết đoán.

Hỏi: Vào xóm làng, Tỳ-kheo coi người đời đánh nhau, phạm tội gì?

Đáp: Phạm Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo cầm cờ năm màu treo lên cây đùa giỡn, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa.

Hỏi: Vào trong xóm làng, bế trẻ con ba tuổi, trẻ con la khóc phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa.

Hỏi: Vào trong xóm làng đánh nhau với người đời, phạm tội gì?

Đáp: Phạm Đột-cát-la.

Hỏi: Vào trong xóm làng coi người đời cho súc sanh giao hợp, phạm tội gì?

Đáp: Biết phi pháp mà coi thì phạm tội Xả-đọa, không biết không phạm, trong tâm khởi dâm dục, miệng nói lời thô tục, phạm Quyết đoán.

Hỏi: Tỳ-kheo ăn không no, được nói với người chưa thọ Đại giới không?

Đáp: Được. Chỉ trừ Bà-la-môn.

Hỏi: Trong núi, trong đồng vắng, thấy vật không có chủ, có thể lấy dùng không?

Đáp: Được dùng. Nếu cần phải nói với vua, hoặc người trong cung vua, hoặc nói với người khác thì được dùng, nếu không nói không được cầm đi, nếu đem đi phạm Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo làm thuốc được lấy vật không?

Đáp: Nếu có tâm từ bi thì được làm, tâm ác thì không được; không có y bát người khác cho thì được lấy; hoặc có y bát, người khác ép để làm phước thì được lấy, nếu người không cho cũng không được làm phước mà xin. Nếu xin phạm Xả-đọa.

Hỏi: Khi ăn, khăn cỡ lớn, nhỏ, có tương, rau, cơm, canh đổ lên khăn, cần nên giặt không?

Đáp: Không dơ bẩn cũng phải giặt hàng ngày. Nếu có Sa-di và cư sĩ giao cho họ và nhận lại trong ngày đó, không phạm; nếu đã giao rồi họ để trong phòng không còn bỏ, nếu không giao cho ai, cũng không giặt thì phạm Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo ở trong phòng riêng vỗ tay cười giỡn phạm tội gì?

Đáp: Phạm Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo được đi quanh bên dòng nước nhỏ và hố nhỏ không?

Đáp: Không được, nếu đi quanh phạm tội Đọa.

Thuở xưa có một Ưu-bà-tắc thỉnh một vị Tỳ-kheo đến, muốn cúng dường một cái áo đẹp, vị Tỳ-kheo liền đi theo, giữa đường đi có một dòng nước nhỏ, vị Tỳ-kheo ấy đi bên bờ, Ưu-bà-tắc đó liền sanh nghi ngờ, suy nghĩ: “Mình cho rằng vị Tỳ-kheo này tốt, nên muốn cúng dường một cái y đẹp, vậy mà vị này lại đi quanh quẩn bên hào, hố, trở về mình sẽ cúng bằng nửa cái y mà thôi”! Tỳ-kheo ấy là bậc vô nhiễm, nên biết suy nghĩ của người đó, nên đi trước, gặp dòng nước lại cố ý đi vòng quanh qua. Hiền giả lại nghĩ: “Trở về ta sẽ cúng một bữa ăn thôi”. Vị Tỳ-kheo đó là bậc vô nhiễm, nên biết suy nghĩ của người kia, nên đi trước, gặp dòng nước liền vén y lội qua. Hiền giả hỏi Tỳ-kheo: “Vì sao không đi vòng quanh qua?” Vị Tỳ-kheo nói: “Ông trước đó đã cúng cho tôi một cái y một lần tôi đi vòng quanh qua dòng nước, ông đã bớt chỉ còn lại nửa cái y thôi; lại đi quanh lần nữa thì chỉ còn được một tấm vải thô, đi thêm một lần nữa thì chỉ còn một bữa ăn, lần này tôi không đi quanh nữa, vì sợ mất luôn thức ăn!”. Nghe xong hiền giả mới biết đây là một bậc đắc đạo, liền sám hối và mời về nhà cúng dường đầy đủ. Lấy đó làm bằng chứng, nên biết Tỳ-kheo không được đi quanh qua dòng nước, hầm hố.

Hỏi: Tỳ-kheo chạy, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa. Có việc gấp thì không phạm.

Hỏi: Có người sau khi xuất gia trở về lén lấy vật trong nhà, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội khí. Vì sao? Vì lúc đầu xuất gia tất cả đều bỏ hết, không phải là vật của mình.

Hỏi: Lúc Tỳ-kheo còn tại gia, cất vật của cha mẹ, anh em. Sau đó xuất gia, người nhà chết hết, Tỳ-kheo trở về lấy vật cho mình phạm tội gì?

Đáp: Nếu tự lấy thì phạm tội khí. Nếu có cư sĩ thân quen, có thể nói họ lấy làm việc phước, phải chia một nửa cho quan. Vì sao? Vì vật này không có chủ, cho nên giao lại cho quan, không được lấy hết, nếu lấy hết thì phạm tội nặng.

Hỏi: Thầy thọ giới lại làm đệ tử, đệ tử được giảm bớt hạ lạp được giảm bớt giới và ngồi ở nơi thấp nhất không? Nếu không được làm như trên, có được đảnh lễ không?

Đáp: Hoàn toàn không có lý này.

Hỏi: Tỳ-kheo đi vào trong đám ruộng của người khác, hoặc có lúa non hoặc không có lúa non, vì có việc gấp thì phạm không?

Đáp: Có lúa non thì phạm tội Đọa, có việc gấp thì không phạm, không có lúa non thì đi được.

Hỏi: Người biết lỗi đã phát lồ, hoặc năm ba ngày, hoặc có nạn nên chúng Tăng phân tán, tội ấy có được giải quyết không?

Đáp: Phải cầu xin chúng Tăng mới được giải quyết.

Hỏi: Vua quan hỏi Tỳ-kheo việc tốt xấu Tỳ-kheo nói; sau đó được cúng dường phạm tội gì?

Đáp: Nếu được thức ăn thì phạm tội Đọa, được vải thì phạm Xả-đọa; nếu nói cho họ đánh nhau mà được cúng dường thì phạm tội nặng.

Hỏi: Tỳ-kheo có duyên sự đi vào trong đám ruộng của người đời được không?

Đáp: Được.

Hỏi: Tỳ-kheo không đủ năm tuổi hạ, không y chỉ phạm tội gì?

Đáp: Không có Thầy y chỉ, nếu uống nước, ăn cơm thì ngày nào cũng phạm tội trộm, nếu trước đây không biết pháp, được sám hối.

Hỏi: Tỳ-kheo mười tuổi hạ không tụng giới được không?

Đáp: Giống như việc y chỉ.

Hỏi: Tỳ-kheo buôn bán ở chợ, tự khoe vật của mình để bán giá đắt, người tin nên mua giá đắt phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội trộm.

Hỏi: Tỳ-kheo đi trên đường xa vắng vẻ có thức ăn mà không có người nhận, được ăn như thế nào?

Đáp: Chỉ được đưa một tay xuống lấy thức ăn vừa đủ nếu lấy nhiều quá thì phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo đi thuyền, nước lớn không xuống được, được tiểu tiện trong nước không?

Đáp: Được.

Hỏi: Tỳ-kheo chép kinh trên thẻ tre tụng xong lau bỏ, có phạm không?

Đáp: Phạm tội Đọa.

Hỏi: Chưa đủ năm tuổi hạ, được vào tụng luật không?

Đáp: Không được. Có thể giáo giới phần thô mà thôi, nếu tụng thì phạm Xả-đọa.

Hỏi: Xả Đại giới, không mất giới Sa-di là Sa-di phải không?

Đáp: Không phải?

Hỏi: Tỳ-kheo ngủ ban ngày phạm tội gì?

Đáp: Mở cửa thì không được, phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo được dựa vào vách nằm xuống đất không?

Đáp: Phòng riêng thì được, trong chúng thì không được, phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo ở trong phòng không mặc ba y phạm tội gì?

Đáp: Ngồi thiền, tụng kinh, không mặc phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo đi đường mặc Nê hoàn tăng, được buộc ống chân không?

Đáp: Quá lạnh thì được.

Hỏi: Tỳ-kheo giữ đồ để sơn phạm tội gì?

Đáp: Cây bằng gỗ để sơn hoàn toàn không được dùng, dùng thì phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo đã nhận thức ăn vào tay, hoặc trộn thức ăn làm dơ tay, được nhận thức ăn không?

Đáp: Được.

Hỏi: Tỳ-kheo vào trong phòng, không ngồi chỗ của mình phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo đi nhiễu quanh tháp, hoặc Tỳ-kheo ni, hay Ưu-bàtắc đi quanh theo sau có phạm không?

Đáp: Nếu có Ưu-bà-tắc thì không phạm.

Hỏi: Rau xanh đã tác tịnh, còn rễ, Tỳ-kheo có được ăn không?

Đáp: Được.

Hỏi: Đệ tử đi xa gởi vật cho Thầy, hoặc Thầy gởi cho đệ tử, quá hạn không về trải qua mấy năm, có thể lấy dùng không?

Đáp: Nếu khi đi không nói thì không được dùng, nên biết đây là vật có chủ, nếu người kia đã chết là vật của Tăng bốn phương.

Hỏi: Tỳ-kheo dạy cư sĩ không cúng tế những người đã mất, lý này đúng không?

Đáp: Không đúng. Giả sử cha mẹ không ăn được, nhưng tâm cung kính dâng cúng, cũng được phước vậy.

Hỏi: Trong chúng, được ngồi chung một chỗ với Thầy không?

Đáp: Không được ngồi gần, không được ngồi cùng bàn ăn cơm.

Hỏi: Tỳ-kheo không lạnh, mặc ba y lễ Phật phạm tội gì?

Đáp: Trong chúng thì phạm Đột-cát-la.

Hỏi: Tỳ-kheo tự tay pha chế thuốc được không?

Đáp: Lấy cỏ thanh tịnh thì được.

Hỏi: Tỳ-kheo có y bỏ đạo, đã mặc áo thế tục, lúc ấy hướng đến chỗ Thế Tôn lễ bái, sau đó trở lại theo chúng, xin tu lại nên chấp nhận không?

Đáp: Nếu chưa xả giới thì nên nhận.

Hỏi: Tỳ-kheo biết anh em, cha mẹ của mình bị phá sản mà không chuộc lại có tội không?

Đáp: Nếu vì hành đạo mà chuộc thì không có tội.

Hỏi: Nếu người đến thưa chúng Tăng tự xưng mình là Thánh chúng, được nhận không?

Đáp: Không nên nhận.

Hỏi: Nếu người đem vật cúng Tăng, nói cúng Thánh chúng, được nhận không?

Đáp: Nếu không nói được chia, được lấy, vì chúng chỉ hiểu theo phong tục.

Hỏi: Đi đường lội nước, sai người cõng qua phạm tội gì?

Đáp: Nếu không phải già, bệnh thì phạm tội Đọa.

Hỏi: Người làm việc cho chúng Tăng, Tỳ-kheo được sai làm việc lặt vặt không?

Đáp: Sai làm việc nhỏ thì được, việc lớn thì không được.

Hỏi: Tỳ-kheo để móng tay dài phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo, Thượng tòa chưa tắm, hạ tòa tắm trước có phạm không?

Đáp: Phạm tội Đọa.

Hỏi: Trong đồ đựng của Tỳ-kheo bỗng nhiên có vật khác hoặc đã che đậy, không biết ai cho, có thể lấy dùng không, có thể đem bỏ không?

Đáp: Đưa cho Tăng, không được dùng riêng.

Hỏi: Có một trú xứ Tăng đến đi rất nhiều, đã bỏ lại đồ vật hoặc là của thần, hoặc là áo cũ hoàn toàn không dùng nữa có thể lấy không?

Đáp: Cho chúng Tăng, chúng Tăng để một tháng, một năm, sau đó được dùng, nếu sau chủ đến, Tăng phải trả lại, nếu là vật châu báu quý giá, về sau chúng không thể đền, thì đừng dùng.

Hỏi: Tỳ-kheo biết có cư sĩ quen đến làm, nên nói với Hòa thượng, Duy na đem thức ăn của Tăng cho họ không?

Đáp: Tăng sai thì được, không sai thì không được.

Hỏi: Tỳ-kheo bỏ đạo về đời, sau đó lại xuất gia, Thầy trước phải cho là Thầy nữa không?

Đáp: Không phải.

Hỏi: Đến đàn giới, các Thầy, Tăng có thể gọi là Thầy không?

Đáp: Không có lý này, không theo người thọ pháp hoàn toàn không được làm Thầy.

Hỏi: Tất cả Thầy được gọi là Hòa thượng không? Được xưng là

30 đệ tử không?

Đáp: Không được. Giả sử kính trọng, thì cũng như tôn trọng theo thế tục.

Phẩm 14: HỎI VỀ TAM TỰ QUY

Hỏi: Ba quy y người nào được thọ nhận, người nào không được thọ nhận?

Đáp: Trừ năm tội nghịch thì còn lại đều được.

Hỏi: Tu Ba quy y nên thực hành như thế nào?

Đáp: Thân, miệng và ý không làm điều tà, không theo Thầy tà kiến.

Hỏi: Thế nào gọi là phạm Ba quy y?

Đáp: Ưa thích tà kiến, theo Thầy tà đạo.

Hỏi: Nếu phạm Ba quy y, sám hối như thế nào?

Đáp: Đến chỗ Bổn sư sám hối, nếu không còn bổn sư, thì đến Tỳkheo khác cũng được.

Hỏi: Nếu không thể giữ gìn, được xả không?

Đáp: Được.

Hỏi: Nếu xả phải xả như thế nào?

Đáp: Đến bổn sư hoặc Tỳ-kheo thưa: “Từ hôm nay trở về sau, con không thể quy y theo Phật, theo Pháp, theo Tăng được nữa!” Nói ba lần như vậy, nếu chưa đủ ba lần thì vẫn còn thọ trì Ba quy y.

Hỏi: Có người thọ Tam tự quy mới sám hối tội ác đời trước lý này đúng không?

Đáp: Không có lý này.

Hỏi: Thọ Ba quy y là thọ từ một người, được đến ba người mà chỉ thọ một quy y không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Pháp thọ Ba quy y là trọn đời, hay có thể được một năm, nửa năm, mười ngày, năm ngày không?

Đáp: Tùy theo ý muốn nhiều hay ít.

Hỏi: Nếu theo Thầy thọ Ba quy y một năm, nửa năm, sau khi đủ ngày rồi, được gọi là Thầy không?

Đáp: Theo thọ pháp suốt đời là Thầy.

Hỏi: Ba quy y được thọ một quy y, hoặc hai quy y không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Thọ Ba quy y hiện tại không có Thầy được theovăn để thọ không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Trước đây thọ Ba quy y phạm tội không sám hối, được thọ lại không?

Đáp: Không được. Cần phải sám hối, nếu muốn thọ, phải xả lần thọ trước, nếu không xả thọ lại thì không đắc giới.

Phẩm 15: HỎI VỀ NĂM GIỚI

Hỏi: Không thọ Ba quy y được thọ năm giới không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Nếu thọ Ba quy y phạm mà không sám hối được thọ năm giới không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Thọ năm giới có được thọ năm ngày, mười ngày, một năm, hai năm không?

Đáp: Tùy theo ý muốn nhiều hay ít.

Hỏi: Phạm năm giới không sám hối, được thọ lại không?

Đáp: Không xả giới trước thì không được thọ lại, không sám hối cũng không được xả.

Hỏi: Phạm hết năm giới được sám hối không?

Đáp: Nếu giết người, hành dâm với người tôn kính và Tỳ-kheo ni, trộm cướp tài sản của Tam bảo, đều không được sám hối, ngoài ra thì được sám hối.

Hỏi: Nếu không thể giữ năm giới được xả không?

Đáp: Được xả. Nếu muốn xả năm giới, hợp cả ba tự quy lại nói: “Từ hôm nay Phật không phải là Thầy của con, con chẳng phải là đệ tử Phật”. Nói ba lần như vậy, pháp và Tăng cũng nói như thế, nếu chỉ xả một, hai, ba, bốn giới thì chỉ nói: “Từ hôm nay con không thể giữ giới nào đó”. Nói như vậy ba lần nếu không đủ ba lần, giới vẫn không mất.

Hỏi: Đối với năm giới có thể theo năm Thầy thọ một giới không?

Đáp: Được.

Hỏi: Đã thọ thiên năm giới về giới trọng có thể xả bớt một hay hai giới không?

Đáp: được.

Hỏi: Năm giới có thể thọ một, hai, ba giới không?

Đáp: Được. Tùy theo ý muốn nhiều hay ít.

Hỏi: Tỳ-kheo phạm giới nặng hoặc phạm giới rượu cho thọ giới có đắc không?

Đáp: Không đắc giới.

Hỏi: Có tám giới bạch y không?

Đáp: Không. Chỉ có Tám giới quan trai.

Phẩm 16: HỎI VỀ MƯỜI GIỚI

Hỏi: Không thọ năm giới được thọ mười giới không?

Đáp: Nếu trước đây thọ ba quy y rồi thì được, vì trong mười giới đã có năm giới, không cần thọ lại năm giới.

Hỏi: Phạm năm giới không sám hối được thọ mười giới không?

Đáp: Không được. Nếu trước đây không biết sám hối mà thọ thì được, còn biết mà không sám hối thì không được.

Hỏi: Thầy phạm giới trọng theo thọ mười giới có đắc giới không?

Đáp: Không đắc giới.

Hỏi: Sa-di phạm mười giới được sám hối không? Đáp: Đồng như năm giới trên.

Phẩm 17: HỎI VỀ SA DI

Hỏi: Sám hối cần chúng không?

Đáp: Không cần chúng. Chỉ đến chỗ bổn sư là được rồi, nếu hiện tại không có Thầy, đến chỗ Tỳ-kheo khác sám hối cũng được.

Hỏi: Sa-di nửa tháng thuyết giới một lần được không?

Đáp: Không có lý này. Vì sao? Vì giới của Sa-di không bao hàm, nhưng mọi người đều có thể tụng giới, ngày mười lăm phải hợp lại một chỗ để tụng.

Hỏi: Sa-di phạm giới, được đến chỗ Sa-di khác sám hối không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Sa-di được mặc y phục thế tục không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Thầy có nhiều việc sai trái, Sa-di được bỏ đi cầu Thầy khác không?

Đáp: Được.

Hỏi: Sa-di phản Thầy, theo Thầy cư sĩ chạy theo thế tục nhưng không bỏ giới, trải qua nhiều năm, trở lại xin Thầy xuất gia, đó là Sa-di sai quấy, nhưng đã sám hối lỗi lầm, không cần thọ giới lại chăng?

Đáp: Vị Sa-di này, chỉ đến Thầy sám hối, vốn không bỏ giới, không cần thọ lại, thọ cũng không đắc giới.

Hỏi: Sa-di bị giặc cướp đi trải qua năm tháng, hoặc chuyển đến chủ khác được trốn chạy không?

Đáp: Chuyển đến người chủ khác thì không được.

Hỏi: Sa-di phạm giới cấm, Thầy và Tăng đã đuổi, được sám hối và xuất gia lại không?

Đáp: Nếu không xả giới, vẫn còn là Sa-di, có thể được sám hối.

Hỏi: Khi cư sĩ theo Sa-di thọ năm giới, nhưng sau đó xuất gia thọ đại giới, bổn sư vẫn là Sa-di, được gọi là Thầy không?

Đáp: Được gọi là Thầy nhưng không được đảnh lễ, Sa-di nên đảnh lễ khi còn cư sĩ theo bên ni thọ năm giới, nhưng sau đó xuất gia cũng vậy.

Hỏi: Tỳ-kheo tham vật riêng, tội ấy rất nặng. Xưa có một Tỳ-kheo tham một cái nạo bạc bằng đồng, sau khi chết làm ngạ quỷ, chúng Tăng chia vật xong đến nơi Tỳ-kheo ấy đã qua đời thấy hiện ra một vật lớn như đám mây đen, các Tỳ-kheo kinh ngạc “đây là vật gì?” Trong chúng có người đắc đạo nói: “Đây là Tỳ-kheo đã chết vì thamcái nạo bạc nên bị đọa trong loài ngạ quỷ hôm nay vì tham tiếc muốn đến xin lại”. Các Tỳ-kheo liền lấy cái nạo bạc trả lại ngạ quỷ cầm rồi, le lưỡi liếm bỏ xuống đất rồi đi. Các Tỳ-kheo trở lại lấy nhưng rất hôi thúi không thể đến gần, lại sai người lấy cái nạo bạc làm thành đồ vật, nhưng vẫn còn hôi thúi không thể dùng được. Lấy điều này để làm chứng minh, nên biết tham là tai họa lớn.

Tỳ-kheo tham tiếc y phục, mới có sự thảm khốc là tự đốt cháy thân mình. Xưa có một vị Tỳ-kheo thích may y, ngày đêm đắm nhiễm lúc bị bệnh nặng, biết mình sẽ chết, liền ngẩng đầu lên ngắm nhìn y, trong lòng khởi lên tư tưởng xấu ác. Nói: “Sau khi ta chết ai dám mặc y này của ta!”. Không bao lâu Tỳ-kheo ấy chết, hóa làm con rắn độc, trở lại quấn quanh bên y, chúng Tăng khiêng Tỳ-kheo đã chết đi chôn cất xong sai người về lấy y và vật dụng thấy có con rắn độc quấn quanh y

đang giương cổ để phun nọc độc nên không dám lấy trở lại thưa chúng, trình bày việc đã thấy. Các Tỳ-kheo cùng nhau đến xem đều không dám đến gần. Có một vị Tỳ-kheo đắc đạo, liền nhập vào bốn tâm vô lượng không thể trúng độc, liền đến gần nói: “Đây vốn là y của ngươi, hôm nay ngươi đã chết, vì sao lại giữ nó?”. Liền lấy quăng đi không xa vương vào một bụi cỏ, lửa độc phát ra đốt bụi cỏ, trở lại đốt cháy thân rắn và bị chết đọa vào trong địa ngục, lửa thiêu đốt trong một ngày, bị thiêu đốt hơn ba lần, đều do tham làm hại.

Nếu Tăng thuận theo pháp thọ tuổi hạ của Đức Như Lai thì Tỳkheo nên làm như vậy. Từ mùa hạ đầu tiên của Như Lai, nay đến hết 3 mùa hạ này, trong sáu tháng, Chúng đã có nhiều sự lỗi lầm, làm trái Giới luật, trừ hai việc sai làm trước, ngoài ra không trừ trường hợp nào nữa. Thế Tôn đã nhóm Tăng hòa hợp chỉ dạy sách tấn. Hôm nay, ta tư duy điều này, cùng các ông tỏ bày sám hối, nói về những việc đã sai lầm, mỗi người phải tự nhận. Nếu trong chín mươi ngày không có Định lực của Thế Tôn, không có Trí tuệ của Thế Tôn, không có Giới của Thế Tôn thì chúng ta sai phạm rất nhiều; vì không có trí tuệ của Thế Tôn, không có Giới của Thế Tôn nên phạm; vì không có Trí tuệ của Thế Tôn, nên phần nhiều không làm theo sự chỉ dạy; không có Định lực của Thế Tôn nên loạn tâm sai phạm nhiều, hoặc nghĩ đến các dục, hoặc không làm theo việc dục; hoặc nghĩ đến cách trộm cắp, mà không làm việc trộm cắp; hoặc nghĩ đến cách giết, nhưng không làm việc giết hại; hoặc nghĩ đến việc giả dối lại không làm việc giả dối; hoặc nghĩ đến pháp Tăng-già-bà-thi-sa nhưng không thực hành Tăng-già-bà-thisa, trong chín mươi ngày, đã phạm các việc thuộc oai nghi.

Hỏi: Cư sĩ muốn xuất gia. Tỳ-kheo liền nhận, có thỉnh Thầy khác, Tỳ-kheo trước là Thầy phải không?

Đáp: Không phải Thầy. Nếu theo người nào thọ pháp thì người ấy có thể làm Thầy, hoặc nương theo thì vị ấy có thể làm Thầy y chỉ.

Hỏi: Nếu có Tỳ-kheo không xả giới Sa-di, tức là người tu Đại đạo, nhưng lại thọ giới làm Tăng được không?

Đáp: Được.

Hỏi: Trước đây đã thọ giới nhưng không đắc giới, có cho ở không?

Đáp: Được cho ở

Hỏi: Về sau, người ấy làm Thầy, đúng hay sai?

Đáp: Sai

Hỏi: Nhiều người thọ giới, chỉ thỉnh một người làm Thầy, có thể mười người, năm người cùng thọ một lúc không?

Đáp: Không có lẽ đó.

Hỏi: Sa-di thọ Đại giới, thỉnh một Tỳ-kheo làm thầy để thọ Đại giới, nhưng Tỳ-kheo này không biết yết ma và pháp thọ giới, nên mời Thầy khác để truyền giới, như vậy ai là Thầy?

Đáp: Người truyền giới làm Thầy, nếu không truyền pháp thì không phải Thầy, Tỳ-kheo truyền năm giới, chỉ được truyền cho Bà-lamôn, đối với người ni khác, truyền cho Tỳ-kheo cũng không đắc Giới.

Hỏi: Người làm mai mối, phạm tội gì? Đáp: Phạm Tăng tàn

Hỏi: Tất cả vật của mình, vua quan không lấy hết, đem cho được không?

Đáp: Vua quan không nghi ngờ thì được.

Hỏi: Thấy người hành dục không quở trách, phạm tội gì?

Đáp: Người khác có thể can gián, nếu không can gián phạm tội Đọa, nếu không thể can gián nên đến Tỳ-kheo nói ra hết tội lỗi của mình.

Hỏi: Trước đây Tỳ-kheo phạm tội, thọ giới lại được ở chung không?

Đáp: Phạm tội nặng, không được thọ giới lại, phạm tội Quyết đoán, sám hối tội lỗi thì được thọ lại, nếu không sám hối thì không được thọ lại, huống chi được ở chung.

Hỏi: Có việc gấp, Tỳ-kheo đem cung tên lên thuyền, có thể đi theo không?

Đáp: Người cầm phạm tội nặng, còn người chở thì phạm Xả-đọa.

Hỏi: Tỳ-kheo bị quan bắt buộc làm việc phi pháp, phạm tội gì?

Đáp: Không được làm

Hỏi: Hai người nam cùng giỡn chỗ tiểu tiện, phạm tội gì?

Đáp: Nếu thành, phạm Quyết đoán.

Hỏi: Tỳ-kheo lén nghe hai người nam hành dục, phạm tội gì?

Đáp: Không có tâm dục mà nghe, phạm tội Đọa, có tâm dục mà nghe, thân không xuất tinh, phạm Đột-cát-la.

Hỏi: Tỳ-kheo bị bệnh không thể đi được, ngồi xe ngựa được không?

Đáp: Con đực thì được, không nghĩ là con cái thì phạm tội Đọa, nếu nghĩ thì phạm Quyết đoán, không biết là con cái thì không có tội.

Hỏi: Tỳ-kheo chê quyển kinh cũ, đem bán đi mua quyển mới, phạm tội gì?

Đáp: Bán kinh thì có tội như bán cha mẹ.

Hỏi: Hai người nam đánh nhau, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đọa.

Hỏi: Súc sanh hành dục, Tỳ-kheo tách chúng ra, phạm tội gì?

Đáp: Phạm tội Đoạ.

Hỏi: Mặc y tiểu để đi, cất y đại, được nhận người cúng dường không?

Đáp: Được.

Hỏi: Ở trong hạ, Tỳ-kheo được nhận vật của Tăng không?

Đáp: Nếu vật cúng cho Tăng, phải chia ra, không được cất đi.

Hỏi: Tỳ-kheo có quen biết nhà thí chủ, bận việc nên giao lại cho Tỳ-kheo khác đi đến đó khất thực được vật, phạm tội gì?

Đáp: Xem xét người chủ có tâm xấu không được nhận, nếu nhận phạm tội Đọa; biết người chủ có ý tốt thì được lấy.

Hỏi: Chim sẻ ở trong nhà người làm tổ, Tỳ-kheo phá, hoặc lấp bít hang chuột, phạm tội gì?

Đáp: Chim sẻ chưa có con thì được đuổi đi, có con thì không được; vì trong hang chuột chỉ có một cái lỗ nên không được lấp, nếu bên trong và bên ngoài đều có lỗ, thì được lấp bít lỗ bên trong.

Hỏi: Tỳ-kheo cùng Thầy và bạn đồng học, được đưa thư qua lại không?

Đáp: Ở nơi khác trong nước thì được thông tin qua lại, còn nước khác thì không được.

Hỏi: Người xuất gia, quốc pháp, cha mẹ không chấp nhận, được thọ giới không?

Đáp: Không được.

Bấy giờ, tôn giả Mục Liên từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật.

– Bạch Thế Tôn! Thật hoan hỷ khi Ngài nói Tỳ ni! Sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể thọ trì theo luật này?

Đức Phật dạy:

– Này tôn giả Mục Liên! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni phỉ báng luật này, nên biết người ấy là bạn của ma, không phải là đệ tử của Ta, những hạng người như vậy, suốt đời học đạo cũng không thành tựu, không ra khỏi ba cõi. Hôm nay, Ta rất thương xót chúng sanh.

Khi ấy, tôn giả Mục Liên nghe đức Phật giảng nói, hoan hỷ phụng hành.

 

Pages: 1 2