PHẬT NÓI KINH MA LỢI CHI BỒ TÁT ĐÀ LA NI

Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc (Jeṭavaṇe’nāthapiṇḍadasyārāma) trong nước Xá Vệ (Śrāvastya) cùng với Đại A La Hán (Mahā-śrāvaka: Đại Thanh Văn) gồm 1250 người đến dự. Lại có vô lượng chúng Đại Bồ Tát do Di Lặc Bồ Tát (Maitreya-bodhisatva), Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát (Maṃjuśrī-bodhisatva), Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara-bodhisatva) làm bậc Thượng Thủ (Pramukha), cùng với hàng Ma Lợi Chi (Marīcī), tám Bộ Trời Rồng trước sau vây quanh”.

Bấy giờ Xá Lợi Phất (Śāriputra) liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng Phật rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Chúng sinh ở đời vị lại phải làm Pháp của nhóm nào để được thoát các nạn?”

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: “Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Nay Ta vì ông mà nói việc này”

Khi ấy Hội Chúng vui mừng hớn hở, khuyến thỉnh Đức Phật lần nữa.

Lúc đó Đức Thế Tôn bảo: “Này các Tỳ Khưu (Bhikṣu)! Phía trước mặt trời có một vị Trời tên là Ma Lợi Chi (Marīcī) có Pháp Đại Thần Thông Tự Tại, thường đi trước mặt trời mà mặt trời chẳng thấy vị ấy, còn vị ấy nhìn thấy mặt trời. Không người nào có thể nhìn thấy, không người nào có thể biết, không người nào có thể đuổi bắt được, không người nào có thể hại, không người nào có thể bịa chuyện dối trá, không người nào có thể trói buộc, không người nào có thể nợ nần tài vật của vị ấy, không người nào có thể phạt, chẳng sợ Oan Gia (Śatrū) được dịp thuận tiện hãm hại”.

Đức Phật bảo: ”Này các Tỳ Khưu! Nếu có người biết tên của vị Trời Ma Lợi Chi kia thì người ấy cũng chẳng thể bị nhìn thấy, cũng chẳng thể biết, cũng chẳng thể đuổi bắt được, cũng chẳng thể hại, cũng chẳng bị người bịa chuyện dối trá, cũng chẳng bị người trói buộc , cũng chẳng bị người nợ nần tài vật, cũng chẳng bị người trách phạt, cũng chẳng bị Oan Gia có dịp thuận tiện hãm hại”

Đức Phật bảo các Tỳ Khưu: “Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện biết tên của Ma Lợi Chi Thiên ấy thì nên nói lời này: “Con, Đệ Tử (họ tên…) biết tên của Ma Lợi Chi Thiên cho nên không người nào có thể nhìn thấy con, không người nào có thể biết con, không người nào có thể đuổi bắt được con, không người nào có thể hại con, không người nào có thể bịa chuyện dối trá con, không người nào có thể trói buộc con, không người nào có thể nợ nần tài vật của con, không người nào có thể trách phạt con, cũng chẳng bị Oan Gia có dịp hãm hại con”

Chú này có Đại Thần Lực, thành tựu chỗ làm, phá tất cả ác. Nếu dùng Kết Giới

(Sīmā-bandha) thì trong vòng 100 Do Tuần, tất cả các ác không dám đi vào”

Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói Chú là:

“Nam mô phật đà gia (1) Nam mô đạt ma gia (2) Nam mô tăng già gia (3) Đát điệt tha (4) át la ca mạt tư (5) ma la ca mạt tư (6) tô đồ mạt tư (7) chi bát la mạt tư (8) ma ha chi bát la mạt tư (9) ma lợi chi dạ mạt tư (10) an đát đà na dạ mạt tư (11) na mô tuý đô để (12) toá ha (13)”

 

*)NAMO BUDDHĀYA _ NAMO DHARMĀYA _ NAMO SAṂGHĀYA

TADYATHĀ: ARKA MAṢI, MARKA MAṢI, SUDHĀ MAṢI, JVALA

MAṢI, MAHĀ-JVALA MAṢI, ANTARDHĀNA MAṢI NAMO STUTE _ SVĀHĀ

_ Trong nạn vua chúa, hộ giúp con. Trong nạn giặc cướp, hộ giúp con. Trong đường đi, hộ giúp con. Bị lạc lối trong nơi hoang vắng, hộ giúp con. Ban ngày hộ giúp con, ban đêm hộ giúp con. Trong nạn nước cuốn, hộ giúp con. Trong nạn lửa đốt, hộ giúp con. Trong nạn La Sát (Rākṣasa), hộ giúp con. Trong nạn Quỷ Trà Chỉ Nễ (Ḍākiṇī), hộ giúp con. Trong nạn thuốc độc, hộ giúp con. Lời thật của Phật, hộ giúp con. Lời thật của Pháp, hộ giúp con. Lời thật của Tăng, hộ giúp con. Lời thật của hàng Trời, hộ giúp con. Lời thật của người Tiên, hộ giúp con.

“Đát điệt tha (1) A la câu lệ (2) a la câu lệ(3) kê lật để (4) tát bà ca la hề tế (5) tát bồ bả đột sắt-xỉ tế (6) tát bà y đô ba đạt la tỳ tế (7) la xoa la xoa ( Tự xưng tên gọi) (8) toá ha (9)”

 

*)TADYATHĀ: ARAKOLE ARAKOLE KĪRTTI _ SARVA GRAHEBHYAḤ, SARVA UTPĀDUṢṬEBHYAḤ, SARVA ITI

UPADRAVEBHYAḤ, RAKṢA RAKṢA MĀṂ (Họ tên… ) SVĀHĀ

_ Phụng Thỉnh Ma Lợi Chi Thiên Chú. Một tên gọi là: Ma Lợi Chi Thiên Thân Chú.

Chú là:

“Ná mô la đá-na đá-la dạ gia (1) ma lợi chi lợi đà gia (2) ma bà đế di sa di, đá điệt tha (4) Bà la lê (5) bà đà lê (6) bà la ha mục khê (7) tát bà đồ sắt-thệ (8) bàn đà bàn đà (9) sa bà ha (10)”

 

*)NAMO RATNA-TRAYĀYA _ MARĪCĪ-HṚDAYAM- ĀVARTEṢYĀMI

TADYATHĀ: VARĀRE VANTĀRE VARĀHA-MUKHE, SARVA DUṢṬAṂ BANDHA BANDHA _ SVĀHĀ

Đức Phật bảo: “Này các Tỳ Khưu! Nếu có người nhận biết Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát ấy sẽ trừ bỏ được tất cả chướng nạn, nạn vua chúa, nạn giặc cướp, nạn mãnh thu trùng độc, nạn nước lửa….

Nếu có người muốn hành Pháp này thì Pháp này là tối thắng trong tất cả Pháp. Người trì Chú hướng mặt về Bách Du Xà Na thì tất cả Quỷ Thần, người ác không thể được dịp thuận tiện hãm hại.

Nếu lúc đi ở trong nạn thời sáng sớm thức dậy tụng Thân Chú lúc trước, chú vào một bụm nước, rưới vảy bốn phương với rưới vảy thân của mình. Hoặc cúc áo, hoặc tay áo, hoặc góc áo cà sa… cứ một lần Chú thì kết một lần, tổng cộng là ba kết . liền đi qua Nạn. Tụng liên tiếp hai Đại Chú lúc trước rồi đi ắt hết thảy tất cả việc nạn, quân phòng chủ… thảy đều mê say , đều không hay biết…

Đức Phật nói Kinh này xong liền bảo các Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Quốc Vương, Đại Thần với các người dân… “Nghe Phật nói Ma Lợi Chi Thiên Đà La Ni mà một lòng phụng trì thì người ấy chẳng bị tất cả các ác gây hại.

Này các Tỳ Khưu! Nếu có người hay viết chép đọc tụng thọ trì, hoặc giắt trong búi tóc, hoặc đeo trong áo… tùy thân mà đi thì tất cả ác thảy đều lui tan không dám đương cự”.

_Lúc ấy, bốn Chúng, tám Bộ Trời Rồng lễ Phật rồi lui ra, vui vẻ phụng hành.

PHẬT NÓI KINH MA LỢI CHI THIÊN BỒ TÁT ĐÀ LA NI

_Hết_

Hiệu chỉnh xong vào ngày 08/07/2011

————————————————————————————

PHẬT NÓI KINH MA LỢI CHI THIÊN

Hán dịch: Đời Đường_Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Sưu tập Thủ Ấn, phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm (Bhagavaṃ: Thế Tôn) ngự ở vườn Cấp Cô Độc (Nāthapiṇḍadasyārāma) trong rừng Thệ Đa (Jeṭavaṇe) tại thành Thất La Phiệt (Śrāvastya)

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo: “Này các Bật Sô (Bhiṣu: Tỳ Khưu)! Có một vị Trời tên là Ma Lợi Chi (Marīcī) có sức Đại Thần Thông Tự Tại, thường đi trước mặt trời mà Nhật Thiên (Āditya-deva) Nguyệt Thiên (Candra-deva) chẳng thể nhìn thấy vị ấy, còn vị ấy nhìn thấy mặt trời. Không người nào có thể nhìn thấy, không người nào có thể biết, không người nào có thể đuổi bắt được, không người nào có thể trói buộc, không người nào có thể hại được, không người nào có thể bịa chuyện dối trá, không người nào có thể nợ nần tài vật của vị ấy, không người nào có thể trách phạt, chẳng sợ Oan Gia (Śatrū) được dịp thuận tiện hãm hại”.

Đức Phật bảo: “Này các Tỳ Khưu! Nếu có người biết tên của vị Trời Ma Lợi Chi ấy, thường ghi nhớ thì người ấy cũng chẳng thể bị nhìn thấy, cũng chẳng thể biết, cũng chẳng thể đuổi bắt được, cũng chẳng thể trói buộc, cũng chẳng thể hại, cũng chẳng thể bịa chuyện dối trá, cũng chẳng bị người nợ nần tài vật, cũng chẳng bị người trách phạt, cũng chẳng bị oan gia được dịp thuận tiện hãm hại.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện biết tên của vị Trời Ma Lợi Chi ấy, cầu xin gia hộ thì nên nói lời này: “Con (Họ tên…) biết Thiên Mẫu Ma Lợi Chi có Đại Thần Lực. Nay con quy mệnh, nguyện hãy hộ giúp thân của con, không người nào có thể nhìn thấy con, không người nào có thể biết, không người nào có thể đuổi bắt được con, không người nào có thể trói buộc con, không người nào có thể hại con, không người nào có thể bịa chuyện lừa dối con, không người nào có thể nợ nần tài vật của con, không người nào có thể trách phạt con, cũng không bị oan gia được dịp thuận tiện hãm hại con”

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói Đà La Ni là:

“Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã (1) đát nễ-dã tha (2) At ca ma tỷ (3) mạt ca ma tỷ(4) a độ ma tỷ (5) tử bát la ma tỷ (6) ma ha tử bát la ma tỷ (7) át đát đà nẵng ma tỷ (8) ma lý tử dã ma tỷ (9) nẵng mô sa-đổ đế (10) la khất-sái, la khất-sái hàm (11) tát phộc tát đát phộc nan tả (12) tát phộc đát-la (13) tát phộc bà dụ bát nại-la phệ tỳ-dược, sa-phộc hạ (14)””

*)NAMO RATNA-TRAYĀYA

TADYATHĀ: ARKA MAṢI, MARKA MAṢI, ADHU (?SUDHĀ) MAṢI, JVALA MAṢI, MAHĀ-JVALA MAṢI, ANTARDHĀNA MAṢI, MARĪCĪYA

MAṢI, NAMO STUTE _ RAKṢA RAKṢA MĀṂ, SARVA-SATTVĀNĀṂCA, SARVATRĀ SARVA PĀYA-UPADRAVEBHYAḤ SVĀHĀ

_ Tâm Chân Ngôn là:

“Ná mạc tam mạn đa một đà nam (1) Án, ma lý tức (2) sa-phộc hạ (3)”

*)NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ MARĪCĪ _ SVĀHĀ

Khi Đức Thế Tôn nói Đà La Ni này xong liền bảo các Tỳ Khưu: “Nếu có người thọ trì Kinh Pháp này thì nên tác Nguyện là: “Trong nạn vua chúa, hộ giúp con. Trong nạn giặc cướp, hộ giúp con. Trong nạn đi đường, hộ giúp con. Bị lạc lối trong chốn hoang vắng, hộ giúp con. Trong nạn nước lửa, hộ giúp con. Trong nạn quân trận binh đao, hộ giúp con. Trong nạn Quỷ Thần, hộ giúp con. Trong nạn thuốc độc, hộ giúp con. Trong nạn ác thú, hộ giúp con. Trong nạn trùng độc, hộ giúp con. Trong nạn tất cả oan gia người ác, hộ giúp con. Lời thật của Phật, hộ giúp con. Lời thật của Pháp, hộ giúp con. Lời thật của Tăng, hộ giúp con. Lời thật của chư Thiên, hộ giúp con. Lời thật của người Tiên, hộ giúp con. Tất cả xứ tất cả thời, nguyện thường hộ giúp con, Đệ Tử (Họ tên là…) sa-phộc hạ”

Đức Phật bảo: “Này các Tỳ Khưu! Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện, Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Bá Sách Ca, Ô Bà Tư Ca, Quốc Vương, Đại Thần, Tất cả hàng người… lúc có các nạn thời thường nên chí tâm tụng Ma Lợi Chi Đà La Ni này, chẳng đợi gia công, tùy tụng tùy thành, xa lìa các nạn, trừ kẻ chẳng chí tâm.

Khi trì tụng thời kèm kết Bản Ấn. Dùng hương xoa tay. Trước tiên kết Tam Bộ Tâm Ấn.

Hai tay cài chéo các ngón bên trong rồi nắm lại thành quyền, kèm dựng song song hai ngón cái là Nhất Thiết Như Lai Tâm Ấn

Chân Ngôn là:

“Án (1) nhĩ nẵng nhĩ ca (2)”

*)OṂ _ JINA JIK

_ Tiếp kết Liên Hoa Bộ Tâm Ấn: Tức Ấn lúc trước, co ngón cái trái vào trong lòng bàn tay, dựng thẳng ngón cái phải.

Chân Ngôn là:

“Án (1) a lỗ lực ca (2)” 

*)OṂ_ AROLIK

_ Tiếp kết Kim Cương Bộ Tâm Ấn: Tức Ấn lúc trước, co ngón cái phải vào trong lòng bàn tay, dựng thẳng ngón cái trái.

Chân Ngôn là:

“Ấn (1) phộc nhật-la địa lực ca (2)”

*)OṂ _ VAJRA DHṚK

_ Tiếp kết Hộ Thân Như Lai Quyền Ấn: Tay phải, co ngón cái nằm ngang trong lòng bàn tay, 4 ngón còn lại nắm ngón cái thành quyền.

Đem Quyền Ấn này gia trì 5 nơi trên thân của mình. Trước tiên là vầng trán, vai phải, vai trái, trái tim, cổ họng , mỗi một nơi đều tụng Chân Ngôn một biến.

Chân Ngôn là:

“Án (1) bộ, nhập-phộc la, hồng (2)”

*)OṂ_ BHUḤ JVALA HŪṂ

_ Tiếp kết Ma Lợi Chi Bồ Tát Căn Bản Ấn: 2 ngón út, 2 ngón vô danh, bên phải đè bên trái cùng cài chéo nhau bên nhau, dựng thẳng 2 ngón trỏ cùng vịn nhau, 2 ngón giữa đều đặt ở lưng ngón trỏ hướng về phía trước mặt sao cho đầu ngón vịn nhau, kèm dựng song song 2 ngón cái liền thành.

Kết Ấn để ngang trái tim, tụng Ma Lợi Chi Thân Đà La Ni với Tâm lúc trước, mỗi Chân Ngôn đều tụng bảy biến, mỗi biến co 2 ngón cái triệu mời, cũng gọi là Nghinh Thỉnh Ấn. Kèm dùng Ấn này, gia trì 5 nơi trên thân rồi bung Ấn trên đỉnh đầu.

_ Tiếp kết Đại Tam Muội Gia Ấn, Tịch Trừ Kết Giới: Tay phải đem ngón cái vịn trên móng ngón út, dựng thẳng 3 ngón còn lại như hình chày Tam Cổ. Tay trái nắm Kim Cương Quyền án ở trên trái tim.

Tùy tụng Chân Ngôn, đem tay phải ấn ở trên đỉnh đầu, chuyển bên trái 3 vòng tịch trừ tất cả loài gây chướng nạn, liền chuyển bên phải 3 vòng và quơ bên trên bên dưới tức thành kết Thập Phương Giới. Tất cả hàng Trời, Rồng, Người, Phi Nhân chẳng thể đến gần.

Chân Ngôn là:

“Án (1) thương ca lệ (2) ma ha tam ma diễm, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ ŚAṂKARE MAHĀ-SAMAYAṂ _ SVĀHĀ

_ Tiếp kết Ma Lợi Chi An Đát Đản Na Ấn (đây gọi là Ẩn Hình_ Antardhāna): Tay trái hư chưởng nắm quyền, ngón cái hơi vịn móng ngón trỏ như cái vòng, 3 ngón còn lại nắm quyền khiến cho kín đáo. Lại khiến làm lỗ hổng trong lòng bàn tay rồi đặt trước trái tim của mình. Tưởng thân mình nhập vào Tạng bên trong lỗ hổng của Ấn này. Tay phải để lòng bàn tay bẳng phẳng, chuyển bên phải mài Ấn này liền che trên lỗ hổng.

Tưởng Ấn này tức là Thân của Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát. Tự thân của Ta ẩn tàng ở trong trái tim của Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát. Một lòng chuyên chú chẳng gián đọan, tụng Căn Bản với Tâm Chân Ngôn lúc trước, chẳng hạn định biến số, chỉ kiền thành chí tâm ắt được Bồ Tát dùng uy thần gia hộ. Tất cả oan gia, người ác đều chẳng thể nhìn thấy. Tất cả tai nạn thảy đều được giải thoát.

_ Nếu muốn cùng dường Ma Lợi Chi Bồ Tát. Nên dùng vàng, hoặc bạc, hoặc đồng đỏ, hoặc gỗ cây Bạch Đàn Hương, hoặc gỗ cây Tử Đàn… khắc làm tượng Ma Lợi Chi Bồ Tát như hình Thiên Nữ , có thể dài nửa tấc, hoặc một tấc hai tấc trở xuống. Ở trên hoa sen hoặc đứng hoặc ngồi, đầu đội mão, đeo anh lạc, mọi thứ trang nghiêm khiến cho thật đoan chính. Tay trái nắm Thiên Phiến (cái quạt), cây quạt ấy như cây quạt của Thiên Nữ (Thiên Nữ Phiến) trước mặt Duy Ma Cật (Vimala-kirti: Tịnh Danh). Tay phải rũ xuống giương lòng bàn tay hướng ra bên ngoài, giương 5 ngón tay làm thế Dữ Nguyện. Có hai Thiên Nữ đều cầm Bạch Phất (Cây phất trần trắng) đứng hầu hai bên trái phải.

Làm Tượng này xong , đội ở trên đỉnh đầu hoặc đeo trên cánh tay, hoặc để trong áo. Dùng sức uy thần của Bồ Tát nên chẳng gặp tai nạn. Đối với nơi chốn của kẻ oan gia thì quyết định được thắng. Quỷ Thần, người ác không có dịp thuận tiện hãm hại.

_ Nếu muốn thành nghiệm, nguyện thấy Chân Thân của Ma Lợi Chi Thiên để cầu Thắng Nguyện thì tụng Đà La Ni này mãn 10 vạn biến, y theo Pháp kiến lập Mạn Trà La (Maṇḍala: Đàn Trường), vẽ tượng Ma Lợi Chi Bồ Tát đặt ở trong Đàn rồi đem mọi thứ cúng dường kèm làm Hỏa Đàn Hộ Ma thì Ma Lợi Chi Thiên Nữ sẽ hiện thân, Thắng Nguyện đã mong cầu quyết định thành tựu, chỉ trừ kẻ chẳng chí tâm”

Đức Phật bảo: “Này các Bật Sô! Ta vì nạn khổ đáng sợ của chúng Hữu Tình trong đời ác sau này, nên mới lược nói Pháp của Ma Lợi Chi Thiên. Vị Bồ Tát này có Nguyện Đại Bi thường ở nơi nạn khổ đáng sợ, hộ giúp các Hữu Tình chẳng để cho Trời, Rồng, Quỷ Thần, Người, Phi Nhân, oan gia, thú ác có thể gây hại. Các ông nên thọ trì, rộng nói lưu bày nhằm nhiêu ích cho các Hữu Tình”

_Các hàng Bật Sô, tám Bộ Trời Rồng, tất cả Đại Chúng nghe lời Phật dạy đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

PHẬT NÓI KINH MA LỢI CHI THIÊN

_Hết_

Hiệu chỉnh xong vào ngày 09/07/2011