KINH LỤC MÔN ĐÀ LA NI

Hán dịch: Đời Đường _ Tam Tạng Pháp Sư HUYỀN TRANG phụng chiếu dịch
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm (Bhagavaṃ) ngự trên Trời Tĩnh Cư (Śuddhāvāsa), y theo hư không mà trụ ở Đạo Trường Chúng Diệu Thất Bảo Trang Nghiêm (Sapta-ratna pravibhakta-vicitra-ratna-vyūhe- mahā-maṇḍala) cùng với vô ương số Bồ Tát chúng (Bodhisatva-gaṇa) đến dự.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Bồ Tát rằng: “Này Thiện Nam Tử (Kula-putra)! Nếu muốn đem lại lợi ích an vui cho chúng sinh, các ông nên thọ trì Pháp Lục Môn Đà La Ni (Ṣaṇmukhī-dhāranī) này là: “Ta lưu chuyển ở trong sinh tử (Saṃsāra), chịu các khổ đau (Duḥkha), nên không muốn cho chúng sinh cùng chịu sự đau khổ ấy.

Mọi phú quý, vui thú của Thế Gian (Laukika) mà ta đã thọ hưởng trong các cõi. Nguyện cho chúng sinh cùng nhận sự vui thú ấy.

Bao nhiêu điều khổ ác mà ta đã làm, nếu trước tiên ta chưa sám hối thì rốt ráo chẳng phát ra lời nói tương xứng với Pháp Vô Thượng (Anuttarā-dharma).

Mọi nghiệp Ma (Māra-karmāṇi) mà ta đã làm, nếu trước tiên ta chưa giác (biết rõ) thì rốt ráo chẳng hưng tâm duyên với Pháp Vô Thượng.

Các môn Ba La Mật (Pāramitā) mà ta đã nhiếp được là tất cả căn lành (Kuśalamūla) rộng lớn về Thế Gian (Laukika) và Xuất Thế Gian (Lokottara). Nguyện cho các chúng sinh đều sẽ mau chóng chứng quả Vô Thượng Trí (Anuttarayā-parijñāya).

Ta có chứng Giải Thoát (Vimukti) cũng nguyện cho chúng sinh đều được giải thoát (Vimokṣaya), không để cho họ trụ dính trong Niết Bàn (Nirvāṇa), Sinh Tử (Saṃsāra)”

Đà La Ni là: “Sám mê, sám mê. Sạn đế, sạn đế. Bạt điệt lệ, bạt điệt lệ. Tô bạt điệt lệ, tô bạt điệt lệ.Đế thệ, đế thệ. Chiến điệt lệ, chiến điệt lệ. Chiết điệt la phạt để. Đê thù phiệt để. Đạt ma phiệt để. Tát phộc kiết lệ thước, tỳ thâu đạt nễ. Tát phộc a lạc thát, toá đạt nễ. Mạt nhược, tăng thâu đạt nễ, sa ha”

 

*)ŚAME ŚAME_ ŚĀNTI ŚĀNTI _BHADRE BHADRE _ SUBHADRE

SUBHADRE _ TEJE TEJE _ CANDRE CANDRE _ CANDRA-VATI _ TEJO VATI_ DHARMA VATI _ SARVA KLEŚA VIŚODHANI _ SARVA- ARTHA

SĀDHANI _ MANAḤ SAṂ-ŚODHANI _ SVĀHĀ

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện có niềm tin trong sạch (tịnh tín), ngày đêm 6 Thời hay đọc tụng Lục Môn Đà La Ni (Ṣaṇmukhī-dhāraṇī) như vậy thì tất cả nghiệp chướng của người này thảy đều tiêu diệt, mau chóng ngộ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyaksaṃbuddhi: Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác)”

Lúc Đức Bạc Già Phạm nói Kinh này xong thời tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát với các Thiên Chúng nghe lời Phật nói đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

_KINH LỤC MÔN ĐÀ LA NI (Hết)_

*)Ghi chú:

_Bản khác ghi nhận Lục Môn Đà La Ni như sau:

ŚAME ŚAME, ŚĀNTE ŚATE, BHADRE BHADRE, SUBHADRE

SUBHADRE, TEJE TEJE, CANDRE CANDRE, CANDRAVATI, TEJOVATI,

DHARMAVATI, SARVA KLEŚA VIŚODHANE, SARVA ARTHA SĀDHANE MANAḤ SAṂ-ŚODHANE SVĀHĀ

_Bản Nepal ṢAṆMUKHĪ-DHĀRAṆĪ ghi là:

OṂ_ KṢAME KṢAME _ KṢĀNTE KṢĀNTE _ DAME DAME _ DĀNTE DĀNTE _ BHADRE BHADRE _ SUBHADRE SUBHADRE _ CANDRE

CANDRE _ SUCANDRE SUCANDRE _ CANDRA KIRAṆE _ CANDRA-VATI _

TEJO-VATI _ DHANA-VATI _ DHARMA-VATI _ BRAHMA-VATI _ SARVA

KLEŚA VIŚODHANI _ SARVĀRTHA SĀDHANI _ SARVĀNARTHA-

PRAŚAMANI PARAMĀRTHA-SĀDHANI _ KĀYA-VIŚODHANI _ VĀGVIŚODHANI _ MANAḤ-SAṂŚODHANI SVĀHĀ

Hiệu chỉnh xong vào ngày 10/02/2009