PHẬT NÓI KINH KIM CƯƠNG HƯƠNG BỒ TÁT
ĐẠI MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ

Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triều Tán Đại Phu Thí Hồng Lô Khanh_ Truyền Pháp Đại Sư (kẻ bầy tôi là) THI HỘ phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

QUYỂN THƯỢNG

_Bấy giờ Đức Thế Tôn ngự tại cõi Trời Đô Sử Đa (Tuṣita) cùng với vô số trăm ngàn câu chi na do tha Bồ Tát cùng tụ họp chung một chỗ

Thời có vô số trăm ngàn câu chi na do tha vị Trời là: Sa Đa Nghĩ Lý (Śatagirī), Hứ Ma Phộc Đa (Hemavanta), Nan Nễ Chỉ Thấp Phộc La (Nāndikeśvara), Ma Ha Ca La (Mahā-kāla), Ma Ê Thấp Phộc La (Maheśvara), Phệ Nhạ Diễn Đa (Vijayāṃta), Na La Diên (Nārāyaṇa)….

Lại có vô số Trời (Deva), Rồng (Nāga), A Tô La (Asura), Nga Lỗ Noa (Garuḍa), Hiến Đạt Lý Phộc (Gandharva), Khẩn Na La (Kiṃnara), Ma Hộ La Nga  (Mahoraga), Dược Xoa (Yakṣa), La Xoa Sa (Rākṣasa) với các Tinh Diệu (các vì sao) Chúng của nhóm như vậy thảy đều đi đến, tụ tập ở Phật Hội.

_Khi ấy Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-pāṇi) bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay có tất cả La Sát (Rākṣasa) đi trong Thế Gian, gây sự sợ hãi lớn. Nguyện xin Đức Thế Tôn thương xót Thế Gian, trừ bỏ sự sợ hãi, nói Kim Cương Hương Bồ Tát Đại Minh khiến cho La Sát ấy với tất cả tám Bộ Trời Rồng cho đến tất cả Tinh Diệu (các vì sao), loài thực hành điều chẳng nhiêu ích…thấy Đại Minh ấy thảy đều mê man, sợ hãi, bỏ chạy, đối với chúng sinh chẳng thể gây hại.

Thế Tôn! Há chỉ có Chúng của nhóm như vậy nhìn thấy rồi sợ hãi, cho đến Đế Thích (Indra) cũng bị mất uy lực. Tất cả Ma Chướng ấy, loài hiện các tướng ác rất phẫn nộ thảy đều bị phá hoại, đối với các hữu tình chẳng thể xâm hại”

_Lúc đó Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay chính là lúc. Tại sao thế? Vì tất cả nhóm Ma nhìn thấy tại Hội này. Nguyện xin Đức Thế Tôn tuyên nói Kim Cương Hương Bồ Tát Đại Minh”

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nhập vào Tam Ma Địa (Samādhi) tên là Phổ Biến Xí Thịnh Quang Đại Phẫn Nộ. Vào Tam Ma Địa này xong, liền ở trong mắt phóng ra ánh sáng lớn, tạo ra mọi loại màu sắc; ánh sáng ấy chiếu khắp tất cả Thế Giới. Chiếu xong, xoay trở lại, đứng ở trước mặt Đức Phật như đám lửa lớn. Liền ở trong ánh sáng hóa ra thân Đại Phẫn Nộ (Mahā-krodha-kāya) tỏa lửa sáng rực rỡ, trụ ở trước mặt Đức Phật, hiện tướng đại ác khiến người nhìn thấy đều sợ hãi. Hết thảy uy lực của hết thảy tất cả hàng Trời (Deva), Rồng (Nāga), Dược Xoa (Yakṣa), La Xoa Sa (Rākṣasa), Hiến Đạt Lý Phộc (Gandharva), A Tô La (Asura), Nga Lỗ Noa (Garuḍa), Khẩn Na La (Kiṃnara), Ma Hộ La Nga (Mahoraga) với tất cả Bộ Đa (Bhūta)… thảy đều bị phá hoại”

_Lại nữa, Kim Cương Thủ Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như con đã thỉnh cầu, nguyện hãy vì con tuyên nói, cũng khiến cho người hành trì tụng ở đương lai đều được thành tựu tất cả chỗ đã làm, thảy đều giáng phục tất cả Bộ Đa. Phàm có điều đã mong cầu, đều đến cung cấp cho, cho đến thảy đều đạt được kho tàng bị chôn dấu (phục tàng) trong lòng đất.

Thế Tôn! Sức uy đức của Đại Minh này giáng phục, gia lâm (?) tất cả hàng Người (Manuṣya), Phi Nhân (Amanuṣya) khiến cho hàng ấy nhập ngụ, khiến làm ca múa, với vâng theo sự sai khiến không có gì chẳng tùy theo Ý, cho đến phá tan thân phần của hàng ấy để ăn nuốt thời cũng chẳng dám trái nghịch.

Thế Tôn! Sức của Đại Minh này cho đến gia lâm, núi, đá, loài vô tình…thời cũng có thể chấn động, hiện tướng nhập ngụ…huống chi là tất cả hàng tám Bộ Trời Rồng, Người, Phi Nhân…Chúng của nhóm như vậy nếu có điều trái nghịch, đều khiến cho cái đầu bị phá vỡ”

_Khi ấy tượng Hóa Phẫn Nộ (Nirmāṇa-krodha) ở khoảng sát na, hiện thân tỏa ánh sáng như mặt trời chiếu sáng, đứng ở trước mặt Kim Cương Thủ Bồ Tát, liền nói Kim Cương Hương Đại Minh (Vajra-gandhāri-mahā-vidya) là:

“Nẵng ma thất-chiến noa (1) phộc nhật-la bá noa duệ (2) ma hạ dược khấtxoa tỉ nẵng bát đa duệ (3) Án, nẵng mô bà nga phộc đế (4) a lý-dã (5) phộc nhật-la hiến đà lý (6) a nễ ca, la thấp-di (7) thiết đa, sa hạ sa-la (8) bát-la nhập-phộc lễ đa (9) niệp bát-đa, đế nhạ duệ (10) ốc ngật-la tỳ ma (11) bà dã, nẵng ca duệ (12) lao nại-la, na lý-xá nẵng duệ (13) vĩ ca la, la duệ (14) tán noa duệ (15) tạt ba la duệ (16) dụ nghệ thấp-phộc lý duệ (17) tỳ sắt-ma bà dã nẵng ca duệ (18) sa trá mục khư duệ (19) nột-phộc na xá phổ nhạ duệ (20) nột-phộc na xá nễ đát-la duệ (21) vĩ chỉ la-noa kế xá duệ (22) a nễ ca lỗ ba (23) vĩ vĩ đà phệ xá, đà lý nê duệ (24) ế hứduệ hứ, bà nga phộc để (25) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý, đát-la dã nam (26) la đát-nẵng nam, tát đế-duệ nẵng (27) đát nễ-dã tha (28) án (29) a ca trà dã, a ca trà dã (30) phộc la nỉ phược, ma hứ thấp-phộc lam (31) nga lỗ noa-giang (32) vĩ sắt nữ án (33) câu ma lam (34) một-la hám-ma nam (35) ấn nại-lam (36) tán nại-lam, a nỉ để-dạng (37) dược sám, lạc khất-xoa tăng (38) phổ đang (39) tất-lý đang (40) bế xá thần (41) củ bạn nam (42) a ngật-ninh (43) phộc dũng (44) dã mãng (45) phược lỗ nam (46) đà nẵng năng (47) củ phệ lam (48) bát-la nhạ bát để (49) địa-lý đa la sắt tra lam (50) vĩ lỗ trà kiếm (51 )vĩ lỗ bá khất sạn (52) phệ thất-la ma nam (53) thương củ ca la-nam (54) nột-vĩ ca la-nam (55) đát-lý ca la-nam (56) vĩ ca lanam (57) một-lý hạ ca la-nam (58) kiện tra ca la-nam (59) nột-lỗ noa ca la-nam (60) ngu ca la-nam (61) ma hạ ca la-nam (62) ma hạ ca lãng (63) nan nễ kế thấpphộc lam (64) bột-lăng nghĩ lý tri-doanh (65) nẵng dã kiếm (66) vĩ nẵng dã kiếm (67) bán tức kiếm (68) na ma kiếm (69) lộ hạ kiếm (70) mô hạ kiếm (71) sa sắt-sỉ nỉ phệ-dựng (72) án (73) ca lăng (74) củ tri-doanh (75) nghĩ lý kiếm (76) nột lýnga, kiều ma lý (78) ca để-dã dĩ ninh (79) tán noa ca để-dã dĩ ninh (80) ma hạ ca để-dã dĩ-ninh (81) dã xá thấp-di ninh (82) ái xá ninh (83) nãi lý để-dạng (84) ca lễ (85) ma hạ ca lễ (86) khất-sô nại-la, ca lễ (87) phộc nhật-la ca lễ (88) bạt nại-la ca lễ (89) tổ la ca lễ (90) a nghĩ-nễ dạng (91) phộc dã vĩ-diệm (92) xá lễ, xá lễ, ca phộc lý-để (93) la đát-lý (94) phiến để-doanh (95) thước cật-đảnh (96) thiết đa khất-sái (97) ma hạ thiết đa khất-sái, ấn nại-la nê (98) một-la hám-ma nê (99) kiều ma lý (100) ma hứ thấp-phộc lý (101) phệ sắt-noa vĩ (102) tô bà nga (103) tả môn nê (104) lao nại-lý (105) phộc la hứ (106) kiều phệ lý (107) duệ tả nễ-duệ, ma ma (108) tam ma duệ nẵng để sắt-xá-diễn để (109) đảm, tát lý-võng, a phược hạ (110) dĩ sa-dã di (111) thi già-lam, già-lý hận-noa, già-lý hận-noa (112) ngật-lý hận-noa bả dã, ngật-lý hận-noa bả dã (113) la la la la la (114) án (115) ngu lỗ, ngu lỗ (116) hổ lỗ, hổ lỗ (117) tổ lỗ, tổ lỗ (118) mẫu lỗ, mẫu lỗ (119) độ nỗ, độ nỗ (120) phộc ma, phộc ma (121) đạt ma, đạt ma (122) đà la, đà la (123) ma la, ma la (124) đà ca, đà ca (125) la hổ, la hổ (126) lam nga, lam nga (127) lam nga bả dã (128) nhạ lạp-ba, nhạ lạp-ba (129) nhạ lạp-bá bả dã, nhạ lạp-bá bả dã (130) bố la, bố la (131) bố la dã, bố la dã (132) bố la bả dã, bố la bả dã (133) la hổ, la hổ (134) a nẵng dã, a nẵng dã (135) a vĩ xá, a vĩ xá (136) a phệ xá dã, a phệ xá dã (137) án (138) nẵng mô bà nga phộc đế (139) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (140) a nễ ca, la thấp-di (141) thiết đa, sa hạ tát-la, bát-la nhập-phộc lễ đa (142) niệp bát-đa, đế nhạ tẩy (143) tất đà, thất-tán noa, phộc nhật-la bá nê (144) la nghê-dã bả dã để (145) án (146) hột-lý (147) hứ (148) hác hác hác hác hác (149) hộc (150) hột-lý (151) hồng (152) phát tra (153) lam lam lam lam (154) sa-phộc hạ (155)”

_Lúc đó, tượng Hóa Phẫn Nộ nói Đại Minh này xong, lại nói các Pháp thành tựu của Kim Cương Hương Bồ Tát Đại Minh

Nếu dùng Minh này gia trì vào An Tức Hương rồi thiêu đốt, sẽ hay khiến cho tất cả nhập ngụ, đều hay trừ giải được hết thảy nơi chấp giữ của Trời, Người, Dược Xoa cho đến nhóm Si Mỵ

_Lại nữa, Hành Giả ở trước tượng Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara) tụng Minh này. Lại dùng tướng phẫn nộ, quán tượng của vị Trời (Thiên tượng) này. Lại dùng nước ngũ tịnh tắm gội Thiên Tượng này. Lại dùng hương xoa bôi, xoa bôi thân của Thiên Tượng. Đem các hương hoa để làm cúng dường. Xong dùng hai bàn tay đè lên Tượng, tụng Đại Minh, từ đầu đêm cho đến sáng sớm, chẳng tạm dừng tiếng tụng thời vị Đại Tự Tại Thiên ấy quyết định hóa Thân làm hình tướng Ngoại Đạo, đi đến trước mặt người tụng, yên lặng mà đứng. Người tụng nhìn thấy, liền lễ bái rồi nói rằng: “Thánh Giả khéo đến!”. Hóa Tượng ấy báo rằng: “Khéo đến! Khéo đến!” Người tụng liền đem ước nguyện của mình ra cầu khẩn, vị Trời liền cho Nguyện, tất cả đều được. Tượng vị Trời ban Nguyện cho Hành Giả xong thì ẩn mất chẳng hiện. Hành Giả được Tất Địa xong, sau đó tất cả chỗ làm đều được toại ý.

Hoặc làm Tức Tai (Śāntika), Tăng Ích (Puṣṭika), Kính Ái Vaśikaraṇa), Giáng Phục (Abhicāruka) với Câu Triệu (Ākarṣaṇa) … đều quyết định thành tựu

Nếu làm Tức Tai, nên dùng Cồ Ma Di (Gomayī: phân bò) chưa rơi xuống đất xoa bôi Tứ Phương Mạn Noa La. Thành xong, dùng một cái bát bằng bạc, trước tiên mài Bạch Đàn làm hương xoa bôi, xoa bôi khắp cả bên trong bên ngoài cái bát, liền chứa đầy nước sạch rồi an trong Mạn Noa La, tụng Đại Minh 108 biến gia trì vào cái bát ấy, thì cái bát liền nhập ngụ. Hoặc trổi dậy lìa Đàn, hoặc lay động, hoặc run rẩy thì biết Pháp thành tựu. Tức đem nước này rưới ở đỉnh đầu của người hoặc khiến người uống thời tất cả tai nạn đều được tiêu diệt. Nếu dùng nước này rưới vảy ở thành, ấp, thôn xóm thì tai nạn của người dân trong ấy đều ngưng dứt, tất cả hữu tình đều được lợi ích.

_Lại nữa, nếu vì quốc vương với đại quân chúng làm Tức Tai, nên dùng váng sữa đặc (lạc), hạt mè trắng, gạo tẻ, sữa bò hòa chung với nhau làm Hộ Ma, một lần tụng Đại Minh thì một lần xưng tên của vị vua, một lần làm Hộ Ma. Đến một ngàn lần thì tai nạn của vị vua với quân chúng đều ngưng dứt

_Lại có Pháp. Hoặc vẽ Kim Cương Hương Bồ Tát (Vajra-gandha bodhisatva) thân màu trắng, tạo làm tướng vì chúng sinh tuôn Cam Lộ (Amṛta) xuống. Ở trước tượng này, ngày ba thời tụng Đại Minh. Lại quán tưởng tượng này được hiện trước mắt xong, sau đó tụng Đại Minh thì tất cả tai nạn không có gì chẳng ngưng diệt được.

Hoặc có Oan Gia đi đến lấn ép, nên dùng sữa bò làm Hộ Ma, tụng Đại Minh một ngàn biến thì Oan Gia tự lui tan, tai nạn ngưng diệt hết

Hoặc dùng An Tất Hương, hạt mè trắng kèm với bơ, đồng làm Hộ Ma liền ngưng dứt tất cả tai vạ.

_Lại có Pháp. Hoặc làm Tăng Ích, nên vẽ Đại La Sát: thân màu vàng, có 16 cánh tay, trong tay đều có vật cầm nắm, tất cả thứ thù diệu nghiêm sức thân ấy. Vẽ tượng thành xong, dùng các hương, hoa mà làm cúng dường. Ở trước tượng này, tụng Đại Minh chẳng nghỉ, d9e61nkhi La Sát Nữ tự hiện ra thì có thể khiến câu triệu tất cả Dạ

Xoa, La Sát vá các quyến thuộc, hay mãn tất cả sự mong cầu, tiền của, lúa đậu của Hành Giả. Cũng hay lấy Phục Tàng ở trong lòng đất ra, rồi tùy tùy ý sử dụng

Lại nữa, vẽ tượng Dạ Xoa với thân màu trắng, lại dùng hương màu trắng làm hương xoa bôi xoa bôi thân tượng ấy xong. Ở trước mặt tượng, miệng tụng Đại Minh, tay cầm hoa trắng, một lần tụng thì một lần ném đánh thân tượng ấy, một ngày ba thời, đủ bảy ngày tụng Minh đủ số 1008 biến thì Dạ Xoa kia hiện ra, làm tôi tớ cho người tụng, tất cả việc sai khiến đều chẳng dám trái nghịch. Hoặc có lúc tự đưa tất cả tài bảo, hoặc lấy Phục Tàng trong lòng đất ra, sẽ khiến cho người tụng được giàu có thịnh vượng lớn.

_Lại nữa, làm Pháp Kính Ái (Vaśikaraṇa). Vẽ tượng Kim Cương Hương Bồ Tát (Vajra-gandha) với thân màu đỏ, có 12 cánh tay đều cầm nắm (khí trượng). dùng áo Trời màu nhiệm trang nghiêm thân ấy. Vẽ tượng thành xong, Hành Nhân ở trước mặt tượng làm Quán Tưởng, quán thân tượng vẽ phóng ra ánh sáng đỏ lớn, trong khoảng sát na chiếu khắp ba cõi. Trong ấy tất cả Thiên Nhân, La Sát cho đến tất cả hàng người, Phi Nhân thảy đều kính yêu. Tác Quán thành xong mới có thể cầu việc

Hành Nhân muốn cầu Kính Ái. Trước tiên tụng Đại Minh đủ một ngàn biến, rồi dùng cây Xích Đàn làm hình tượng ấy, an ở trước mặt tượng Kim Cương Hương Bồ Tát, một lần tụng thì một lần xưng tên ấy, một lần ném vào tượng ấy, tụng đủ bảy biến, quyết định được vị ấy kính yêu.

Lại có Pháp. Dùng cây Cát Tường làm tượng nam nữ. Hoặc làm tượng đồng nam, đồng nữ. Xưng tên ấy dùng hạt cải trắng ném lên tượng ấy, đến bảy ngày đêm ắt được kính yêu.

Lại có Pháp. Dùng hạt cải trắng hòa chung với Bạch Đàn Hương, tụng Đại Minh

80 vạn biến, khiến tất cả người đī trên đỉnh đầu sẽ được tất cả kính yêu

_Lại có Pháp. Nếu muốn khiến Oan Gia đánh mất Tâm bị cuồng loạn. Dùng xương người làm cây cọc Kim Cương dài tám ngón tay. Lấy An Tức Hương với thịt bò đồng thiêu đốt xông ướp cây cọc rồi chôn trước cửa nhà Oan Gia. Tức nội trong ba ngày, kẻ kia đánh mất Tâm, lìa khỏi nhà chạy điên cuồng

Hoặc dùng thịt bò, thịt chó, nước tiểu bò hòa chung với nhau làm bùn, làm tượng Oan Gia để trong rừng Thi Đà (Śiṭa-vana) thì kẻ ấy liền cùng với quyến thuộc bỏ đi xa ngoài một ngàn do tuần

Lại có Pháp. Muốn khiến Oan Gia rời khỏi nước của mình. Cũng dùng xương người làm cây cọc Kim Cương, dùng máu người nhuộm sợi dây rồi cột ràng cây cọc, đánh trên đầu Ma Ê Thấp Phộc La (Maheśvara). Hành Nhân dùng bàn chân trái đạp lên Ma Ê Thấp Phộc La Thiên (Maheśvara) dùng ngày 14 hoặc dùng ngày 8 Hành Nhân tụng Đại Minh chẳng nghỉ, thẳng đến khi vị Trời kia phát ra tiếng khổ lớn thì Oan Gia ấy đánh mất Tâm bị cuồng loạn kèm với các quyến thuộc đi ra chỗ hoang vắng giống như bầy thú.

Lại có Pháp. Muốn cực phá Oan Gia. Nên vẽ Kim Cương Hương Bồ Tát làm tướng phẫn nộ với thân màu đen có 100 cánh tay, tay cầm phan, chày Kim Cương, chùy Kim Cương, sợi dây, cây kiếm, cung, tên, búa nhỏ, búa lớn, cốt đóa, móc câu Kim Cương, thây khô, đầu người, đầu lâu… mọi loại khí trượng với trăm ngàn loại tốt đẹp nghiêm sức thân ấy, phóng ánh sáng lớn, dạo nơi mặt trời, mặt trăng, làm tướng phá tất cả oan gia. Tất cả Dược Xoa, La Sát Sa với tất cả Quỷ Thần đại ác thảy đều bị phá hoại, kinh sợ, chạy tan

Nếu muốn phá hoại oan gia đến chết. Trước tiên Hành Giả tụng Đại Minh tám ngàn biến, sau đó dùng xương người làm cây cọc Kim Cương dài hai ngón tay, tác Tâm phẫn nộ, ngày đêm chẳng nghỉ tụng Đại Minh tám ngàn biến gia trì vào cây cọc xong. Dùng thịt bò làm bùn làm hình tượng oan gia dài tám ngón tay. Dùng cây cọc lúc trước đóng vào đỉnh đầu hình tượng ấy, hoặc niệng, hông sườn, lỗ tai, rṇ. Hoặc chỗ kín với chỗ của đấu gối, bàn chân…Trải qua bảy ngày thì thân của oan gia kia quyết định bị phá hoại như cành A Lê, cho đến đều hay phá hoại tất cả đại ác

Lại có Pháp. Muốn phá hoại oan gia đến cùng cực. Dùng nước tiểu của bò kèm với muối, dấm đồng nấu sắc thành vật xoa bôi, cùng với bùn sạch, Cồ Ma Di (phân bò) hoặc cỏ Cát Tường hòa chung với nhau, làm tượng oan gia. Lại dùng hạt cải trắng xoa bôi khắp tượng ấy rồi dùng lửa nướng… đṇ khi oan gia bị bệnh thì quyết định đến cái chết.

_Lại có Pháp. Dùng cây Khư Nễ La (Khadira) làm cây cọc dài tám ngón tay, gia trì 108 biến, xưng tên của oan gia rồi đóng vào hình tượng ấy, ở khoảng sát na thì kẻ kia tự bị cấm phộc. Hoặc dùng tro của xác chết làm tượng oan gia, dùng xương người làm cây cọc Kim Cương rồi đóng lên thân phần ấy thì Oan gia kia sẽ bị bệnh nóng sốt, cho đến chết mất.

Lại có Pháp. Dùng sắt làm cây cọc dài hai ngón tay, gia trì một trăm biến rồi đem chôn bên ngoài cửa nhà oan gia, nội trong ba ngày (thì oan gia kia) quyết định lìa khỏi nhà của mình. Hoặc đem cây cọc lúc trước chôn ở trong miếu Đại Tự Tại Thiên, khi chôn thì xưng tên của oan gia, tức kẻ ấy liền bị Đại Tự Tại Thiên Mỵ (Maheśvaragrahā). Hoặc xưng tên chôn ở trong nhà trống vắng tức kẻ kia bị Tất Xá Tả Mỵ (Piśca-grahā). Hoặc lấy nước bọt trong miệng con rắn xoa bôi bên trong vật khí bằng gạch chưa nung, khiến cho oan gia ăn thì phút chốc liền bị chết.

Lại có Pháp. Hoặc dùng sắt làm Cốt Đóa dài sáu ngón tay, trước tiên xưng tên của oan gia, tụng Đại Minh bảy biến gia trì vào An Tức Hương, dùng thiêu đốt xông ướp Cốt Đóa rồi chôn trong nhà của oan gia thì kẻ kia liền bị khổ não lớn. Nếu lấy Cốt Đóa ra thì khổ não liền giải hết.

Lại có Pháp. Dùng cây Ninh Ma làm cây cọc dài 12 ngón tay, đánh vào ba chỗ:

đầu, cánh tay, hông sườn với xưng tên. Lại dùng lông bò làm hương, xưng tên rồi thiêu đốt thì kẻ kia bị Mẫu Quỷ làm cho mê hoặc (mỵ)

Lại có Pháp. Dùng cây A Lật Ca làm hình tượng oan gia, ở trong bụng viết tên của người đó (bản danh), dùng xương người làm cây đinh đóng vào ba nơi: đầu, cánh tay, hông sườn thì kẻ kia liền bị khổ não. Nếu nhổ cây đinh lên sẽ trở lại như cũ.

_Lại có Pháp. Dùng Cồ Ma Di (phân bò) làm hình tượng oan gia. Dùng hạt cải trắng xoa khắp thân tượng, miệng tụng Đại Minh cho đến khi tượng khô ráo xong rồi chôn ở trong rừng Thi Đà. Ở bên trên tụng Đại Minh tám trăm biến gia trì vào hạt cải trắng rồi rải ném ở bên trên thì điều mà Hành Giả đã mong cầu đều được thành tựu.

Lại có Pháp. Đồng làm tượng lúc trước. Lấy ba loại thịt: người, bò, chó kèm với hạt cải trắng xoa bôi tượng rồi an trong nhà chính của oan gia thì kẻ kia liền bị mê man té ngã, vĩnh viễn chẳng vào nhà được.

_Lại nữa, nếu Hành Nhân muốn cầu hiện Nữ Quỷ thì đi vào trong rừng Thi Đà, dùng thuốc độc, muối với máu hòa chung với nhau. Tụng Đại Minh làm Hộ Ma (Homa), một ngày ba thời, đủ bảy ngày. Đṇ đêm ở bên trong lò Hộ Ma hiện một nữ Quỷ tướng mạo đoan chính chiếu sáng đứng trước mặt Hành Giả. Hành Gả liền chuẩn bị thức ăn màu trắng, Xuất Sinh (thực phẩm để cúng tế) để với Át Già (Argha). Lúc đó, nữ Quỷ nói: “Tôi rất đói”. Hành Giả liền bảo rằng: “Ta đã vì ngươi chuẩn bị xong”, liền đưa ra thức ăn với nhóm Át Già đem cho rồi nói rằng: “Đây y theo Đức Phật răn dạy, ngươi nhận tùy theo ý”. Nữ Quỷ được ăn xong, bảo Hành Giả rằng: “Việc Ngài đã mong cầu đū khiến cho Ngài đều được thành tựu” Nữ Quỷ nói xong liền ẩn thân chẳng hiện.

_Lại nữa, nói Pháp Cấm Phộc. Dùng Thư Hoàng làm hình tượng oan gia, lấy tro của xác chết xoa bôi khắp thân tượng với xoa bôi chày Kim Cương. Hành Nhân dùng bàn chân trái đạp lên chày Kim Cương, bàn chân phải đạp lên tượng ấy, tụng Đại Minh thì phúc chốc oan gia với quyến thuộc bị đánh mất Tâm, cuồng loạn đi lìa khỏi nơi chốn của mình

_Lại nữa, nói Pháp Phát khiển oan gia. Hành Giả trước tiên trì tụng Đại Minh 108 biến, sau đó quán tưởng chữ vi diệu căn bản hóa thành con Lạc Đà. Lại quán chữ lúc trước ở trên con Lạc Đà kia. Lại tưởng một người dùng Cốt Đóa đánh oan gia ấy rồi tưởng thân của mình ở ngay bên trong Phong Luân, ngồi hướng mặt về phương Nam, tụng chữ Phổ (Bhūḥ) phát khiển, tiếng tụng chẳng nghỉ cho đến khi oan gia ẩn mất chẳng hiện. Pháp quán tưởng này cũng có thể phát khiển được Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-catva) huống chi là oan gia.

Nếu dùng hạt cải trắng, An Tức Hương hòa chung với nhau, gia trì 108 biến làm Hộ Ma thì tất cả oan gia mau lìa khỏi nơi chốn của mình.

_Lại nữa, nói Pháp thành tựu. Hành Giả trước tiên ở trên tấm lụa hoặc trên đầu lâu vẽ Kim Cương Hương Bồ Tát có thân màu đỏ, ở dưới bàn chân vẽ tượng oan gia bị đạo lên. Hành Giả làm tướng phẫn nộ tụng Đại Minh chẳng nghỉ. Lại dùng củi gai hạt cải trắng, muối làm Hộ Ma thì oan gia mau bị đánh mất Tâm, cuồng loạn

_Lại có Pháp. Ở trên vải lụa màu xanh, dùng máu người điều hòa màu xanh rồi vẽ hình tượng oan gia. Hành Giả vào ngày 8 hoặc ngày 7: lúc giữa ngày (giờ Ngọ) thời Xuất Sinh thức ăn cúng tế. Có hàng nào đó đi đến nhận thức ăn này rồi bảo Hành Giả rằng: “Sai tôi làm việc gì?”. Thời Hành Giả báo rõ vì oan gia, lại dùng tướng phẫn nộ xưng tên của oan gia, tụng Đại Minh làm Hộ Ma, đến 7 ngày thì người kia bị phá hoại chết.

_Lại có Pháp. Dùng cây Ninh Ma làm tượng oan gia, rồi mỗi mỗi chặt đứt đoạn, dùng riêng cây Ninh Ma làm củi cùng đồng với thân tượng làm Hộ Ma, tụng Đại Minh một lần thì thiêu đốt oan gia kia thì thân của kẻ ấy bị phá hoại.

_Lại nữa, ở trong rừng Thi Đà thu lấy vòng hoa, đốt An Tức Hương, tụng Đại Minh tám trăm biến gia trì vòng hoa ấy rồi rải tán ở nhà của oan gia thời quyến thuộc của kẻ ấy đều bị tai vạ, sốt rét ba ngày. Hoặc đem vòng hoa chôn ở trước cửa nhà oan gia thì oan gia ấy mau bị chết.

_Hoặc thiêu đốt An Tức Hương xông ướp thịt bò rồi đem thịt này làm Hộ Ma, một lần tụng Đại Minh thì một lần xưng tên của oan gia, một lần ném trong lửa… đến ba đêm thì oan gia kia liền bị tai vạ, sốt rét bốn ngày. Nếu muốn giải trừ, dùng nước cốt sữa làm Hộ Ma tức thuyên giảm, có thể như cũ.

_Lại có Pháp. Dùng tro của xác chết xoa bôi Mạn Noa La. Lại dùng tro của xác chết làm tượng oan gia rồn an trong Mạn Noa La, dùng hoa màu hồng đánh tượng ấy, một lần tụng thì một lần ném, đến ba ngày thì ném tượng vào trong lửa, ắt thân của oan gia kia liền bị phá hoại

 

QUYỂN TRUNG

_Lại nữa, làm Pháp Cấm Phục. Trước tiên vẽ Kim Cương Hương Bồ Tát, làm tướng viên mãn, thân màu vàng, phóng ánh sáng lớn chiếu hư không giới, trụ trên đỉnh núi lớn, bàn chân đạp lên tượng Oan Gia. Hành Giả ở trước tượng này tác Quán Tưởng. Được hiện trước mặt xong thì tất cả Oan Gia đều bị Cấm Phộc (giam cầm cột trói)

_Lại có Pháp. Ở trên tấm vải, đồng với lúc trước vẽ Kim Cương Hương Bồ Tát. Dùng hương hoa thượng diệu mà làm cúng dường. Dùng Thư Hoàng với đất sạch hòa chung với nước làm bùn rồi làm tượng Oan Gia. Hành Giả ở trước tranh vẽ Bồ Tát, tay cầm chày Kim Cương năm chấu (ngũ cổ Kim Cương) làm tướng phẫn nộ thì tất cả Oan Gia đều bị Cấm Phộc

_Lại có Pháp. Dùng sáp màu vàng làm tượng Oan Gia. Hành Giả dùng bàn chân trái đạp lên, lại tác Quán Tưởng: Oan Gia ấy ở bên trong trăm ngàn Do Tuần, lại quán Thánh Hiền tràn đầy khắp hư không. Được Quán này hiện trước mặt xong thì Oan Gia kia tự nhiên như si mê, chẳng thể gây hại

Thành tựu Pháp này, nếu hướng về chư Phật làm thì chư Phật cũng chẳng muốn trái ngược, huống chi là tất cả Thánh Hiền với hàng Người, Phi Nhân _Liền nói Giáng Phục Đại Minh là:

“Án (1) nẵng mô bà nga phộc đế (2) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý, ma hạ mạt la (3) tắc nễ-dã, sa-đảm bà nễ (4) la la la la, sa-đảm bà dã, tát lý-phộc thiết đốt-lung (5) nẵng xá tát dã (6) sa-phổ tra dã (7) vĩ nại-la bát dã (8) tát lý-phộc nẵng xá dã (9) tát lý-phộc nột sắt-tra, nễ dà đát dã (10) ma ma, tát lý-phộc ca lýdã nê (11) củ lỗ (12) củ lỗ (13) hổ lô (14) hổ lô (15) tổ lô (16) tổ lô (17) mẫu lô (18) mẫu lô (19) đạt ma (20) đạt ma (21) lãm nga (22) lãm nga (23) vĩ nại-la bát dã (24) vĩ nại-la bát dã (25) tát lý-phộc ca lý-dã nê, di (26) nỉ-lý trà, củ lỗ (27) tát lý-phộc tất địa-dựng di (28) bát-la dã tha (29) y hứ duệ-hứ, bà nga phộc đế (30) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (31) hác hác hác hác, hồng, phát tra, sa-phộc hạ (32)”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE MAHĀ-VAJRA-GANDHĀRI MAHĀ-BALA SATYA STAMBHAṆE RARA RARA, STAMBHĀYA_ SARVA ŚATRŪṂ

NĀŚA ĀSĀYA SPHOṬĀYA, VIDRĀPAYA VIDRĀPAYA_ SARVA NĀŚAYA, SARVA DUṢTA NIRGHATĀYA_ MAMA SARVA KĀRYAṆI, KURU KURU,

HURU HURU, CURU CURU, MURU MURU, DHAMA DHAMA, RAṄGA RAṄGA, VIDRĀPAYA VIDRĀPAYA_ SARVA KĀRYAṆI ME, DṚḌHA KURU_ SARVA SIDDHYAṂ ME PRAYĀCCHA_ EHYEHI BHAGAVATE

MAHĀ-VAJRA-GANDHĀRI, HAḤ HAḤ HAḤ HAḤ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

Do tụng Minh (Vidya) này hay thành tựu tất cả việc, hay phá tất cả oan gia.

_Lại nói Pháp thành tựu. Vào ngày mồng một, hoặc ngày 7, ngày 8 trong tháng. Hành Giả ăn thức ăn màu đỏ, mặc áo sạch mới, tụng Đại Minh một ngàn biến, hoặc một trăm biến. Nếu được lông trên thân dựng đứng lên, hoặc ở nửa đêm được thấy mọi loại mộng tốt xong. Từ đây về sau nên y theo Kim Cương Bồ Tát làm Pháp thì tất cả đều được thành tựu.

Muốn khiến Bà La Môn (Brāhmaṇa) kính yêu. Nên dùng bơ sống làm tượng Bà La Môn, rồi tụng Đại Minh 108 biến gia trì vào hạt cải trắng, xưng tên của Bà La Môn, dùng hạt cải trắng đánh lên tượng thì người kia liền kính yêu

Lại có Pháp. Dùng muối gia trì 108 biến, nên xưng tên của Tỳ Xá (Vaiśya), mỗi một lần xưng tên thì tụng Đại Minh một lần, dùng muối đánh vào tượng ấy một lần thì Tỳ Xá kia liền kính yêu

Lại có Pháp. Dùng đậu đen tụng Đại Minh gia trì 108 biến, dùng tro than làm tượng Thủ Đà (Śūdra), sau đó một lần tụng Đãi Minh thì một lần xưng tên kẻ kia, dùng đậu ném vào tượng ấy một lần, đủ 108 lần thì kẻ kia tự đến kính yêu

_Lại nữa, nói Kim Cương Bồ Tát Thành Tựu Căn Bản Đại Minh Ấn. Hai tay đều nắm Kim Cương Quyền, hai ngón út cài chéo nhau, hai ngón trỏ cài chéo nhau như móc câu, giương duỗi hai ngón cái thì thành Ấn.

Ấn này có uy lực lớn, hay thành tựu tất cả việc tối thượng, hay phá tất cả oan gia. Tất cả Thiên Nhân cho đến Tú Diệu thấy Ấn này xong thì kinh sợ muốn chết, chỉ xưng niệm Phật để cầu che giúp.

Liền nói Căn Bản Đại Minh là:

“Án, nẵng mô bà nga phộc đế (1) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (2) nhậpphộc la (3) nhập-phộc la (4) a ca lý-sa dã (5) a ca lý-sa dã (6) sa-đảm bà dã (7) sađảm bà dã (8) tất đà lộ tả ninh (9) hồng, phát tra (10)”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE MAHĀ-VAJRA-GHADHĀRI, JVALA JVALA, ĀKARṢAYA ĀKARṢĀYA, STAMBHAYA STAMBHAYA, SIDDHA LOCANE HŪṂ PHAṬ

_Lại nói Câu Triệu Ấn. Chẳng giải Ấn trước, đem hai ngón trỏ như móc câu dao động thì thành Ấn.

Ấn này hay câu triệu tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, La Xoa Sa với tất cả Quỷ Thần, Tinh Tú, Diệu… đều đi đền có thể làm nô bộc, cho đến hoặc có các Bồ Tát nghe Đại Minh Câu Triệu này, ở khoảng sát na liền đi đến.

Liền nói Câu Triệu Đại Minh là:

“Án, nẵng mô bà nga phộc đế (1) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (2) y hứ duệhứ, a nga-tha (3) a nga-tha (4) ma ma, tam ma dã (5) ma nậu bá la dã (6) tất đà, thất-tán noa phộc nhật-la bá nê (7) la nghê bát dã để (8) hột-lý (9) hác hác hác hác hác (10) la la la la hộc (11)”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE MAHĀ-VAJRA-GANDHĀRI EHYEHI AGĀCCHA AGĀCCHA, MAMA SAMAYAM ANUPĀLAYA SIDDHA SCAṆḌA-VAJRA-PĀṆI RĀGE PAYATI, HRĪḤ HAḤ HAḤ HAḤ HAḤ HAḤ, RA RA RA RA HOḤ

_Nếu có Hành Nhân vì làm mọi loại nhiêu ích. Làm Mạn Noa La (Maṇḍala) xong. Muốn thỉnh Kim Cương Hương Bồ Tát thì nên tụng Minh này, kết Ấn câu triệu Bồ Tát. Hành Nhân lại ở trước Mạn Noa La, mắt sáng tỏ tác Quán Tưởng Bồ Tát, ở khoảng sát na thì Bồ Tát liền đi đến. Khi Bồ Tát đến thời hiện tướng phẫn nộ, có sáu mặt ló nanh bén ra ngoài, mọi loại nghiêm thân, lửa sáng rực rỡ như mặt trời mới mọc, thân có một trăm cánh tay, trong tay mỗi mỗi đều cầm khí trượng, tướng muốn phá tất cả oan gia. Hành Nhân xem xét biết Bồ Tát đến xong, liền tưởng dâng lên tòa hoa sen bằng mọi vật báu. Bồ Tát ngồi xong, quán biết Hành Nhân có đủ ý chân thật. Tức thời liền vì Hành Nhân nói Tam Muội vi diệu của chư Phật. Hành Nhân nghe xong, vui vẻ lễ tạ.

_Lại nữa, nói Tam Muội Gia Ấn. Hai tay tác Kim Cương Hợp Chưởng, duỗi hai ngón cái, hai ngón út cài chéo nhau, hai ngón trỏ như cái vòng thì thành Ấn. Nếu kết Ấn này thì Tam Muội hiện trước mặt.

_Lại nói Mộc Dục Ấn. Chắp hai tay lại, co hai ngón trỏ, đem hai ngón cái vịn móng ngón trỏ như cái vòng thì thành Ấn.

Mỗi khi tắm gội (mộc dục) cho chư Phật, Hiền Thánh thì kết Ấn này.

Liền tụng Minh là:

“Án, nẵng mô bà nga phộc đế (1) tô lỗ (2) tô lỗ (3) nại-la phộc (4) nại-la phộc  (5) sa-phộc hạ”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE, SURU SURU, DRAVA DRAVA, SVĀHĀ

_Lại nói Hiến Hương Ấn. Chắp hai tay lại, co hai ngón trỏ như mặt trăng, dựng hai ngón cái thì thành Ấn. Mỗi lần hiến hương thì kết Ấn này.

Liền tụng Minh là:

“Án, nẵng mô bà nga phộc đế (1) ma ha phộc nhật-la hiến đà lý (2) sa la (3) sa la (4) vĩ sa la (5) vĩ sa la (6) vĩ nại-du đa dã 97) vĩ nãi-du đa dã (8) sa ma ca xá phộc để, sa-phộc hạ (9)”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE MAHĀ-VAJRA-GANDHĀRI SARA SARA, VISARA VISARA, VIDYOTĀYA VIDYOTĀYA SAMA-ĀKĀŚA-VATI SVĀHĀ

_Lại nói Hiến Hoa Ấn. Chắp hai tay lại, duỗi hai ngón cái, đảo duỗi hai ngón vô danh như cây kim thì thành Ấn. Mỗi lần hiến hoa thì kết Ấn này.

Lại tụng Minh là:

“Án, nẵng mô bà nga phộc đế (1) ma ha phộc nhật-la hiến đà lý (2) hổ lô (3) hổ lô (4) tổ lỗ (5) tổ lỗ (6) mẫu lô (7) mẫu lô (8) bổ sắt-ba phộc để, sa-phộc hạ”

*)NAMO BHAGAVATE MAHĀ-VAJRA-GANDHĀRI HURU HURU, CURU CURU, MURU MURU PUṢPA-VATI SVĀHĀ

_Lại nói Hiến Đăng Ấn. Hai tay đều nắm quyền, dựng hai ngón cái thì thành Ấn.

Mỗi lần hiến đèn thì kết Ấn này.

Liền tụng Minh là:

“Án, nẵng mô bà nga phộc đế, ma ha phộc nhật-la hiến đà lý,nhập-phộc la, nhập-phộc la, tức trí tức trí, sa-phộc hạ”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE MAHĀ-VAJRA-GANDHĀRI JVALA JVALA, CIṬI CIṬI SVĀHĀ

_Lại nói Đồ Hương Ấn. Hai tay tác Kiên Cố Hợp Chưởng, Hai ngón trỏ, hai ngón giữa cài chéo nhau ở lóng giữa, đem hai ngón cái đè lên lóng của ngón trỏ thì thành Ấn. Mỗi lần hiến hương xoa bôi thì kết Ấn này.

Lại tụng Minh là:

“Án, nẵng mô bà nga phộc đế (1) tam mãn đa hiến đà, sa-phộc hạ (2)”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE SAMANTA-GANDHA SVĀHĀ

_Lại nói Xuất Sinh Ấn. Hai tay tác Kim Cương Phộc, dựng hai ngón giữa như cây kim, co hai ngón trỏ, đem hai ngón cái cùng đè nhau, hai ngón trỏ phụ ngón giữa thì thành Ấn. Mỗi lần Xuất Sinh thì kết Ấn này Lại tụng Minh là:

“Án, nẵng mô bà nga phộc đế (1) ma ha phộc nhật-la hiến đà lý (2) sa la (3) sa la (4) vĩ sa la (5) vĩ sa la (6) nại khư (7) nại khư (8) bà khất-xoa bát dã (9) bà khất-xoa bát dã (10) lao nại-la (10) lao nại-la (11) nẵng nẵng sa-phộc hạ”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE MAHĀ-VAJRA-GANDHĀRI SARA SARA, VISARA VISARA, DHĀKA DHĀKA, BHAKṢA APĀYA, BHAKṢA APĀYA, RAUDRA NĀNĀ SVĀHĀ

_Lại nói Đại Kim Cương Hương Bồ Tát Thành Tựu Đại Minh là:

“Án, nẵng mô bà nga phộc đế (1) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (2) a nễ ca, la thấp-di (3) thiết đa, tát hạ sa-la (4) bát-la nhập phộc lệ đa (5) nỉ bát-đa đế nhạ duệ (6) ốc nga-la tỳ ma (7) bạt dã nẵng ca duệ (8) tỳ sáp-ma bạt dã, nễ ca duệ (9) ma hạ du nghệ thấp-phộc lý duệ (10) sa tra-mục khư duệ (11) nột-phộc nại xá, bộ nhạ (12) nột-phộc nại xá nễ, đát-la duệ (13) vĩ chỉ lan-noa, kế xá duệ (14) a nễ ca, lỗ ba (15) vĩ vĩ đà phệ sa, đà lý ni duệ (16) ê hứ-duệ hứ, bà nga phộc để (17) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (18) đát-la dạ, hác, la đát-nẵng nam (19) tát đế-duệ nẵng (20) Đát nễ-dã tha (21) Án, a yết-trà (22) a yết trà (23) mạt lăng nỉ tông (24) ma hứ thấp-phộc lam (25) nga lỗ nông (26) vĩ sắt nùng (27) câu ma lam (28) một-la hámma noản (29) ấn nại-lam (30) tán nại-lam (31) a nỉ đát-dạng (32) dược sạn (33) la khiết-xoa lăng (34) hiến đạt lý-vãn (35) bộ đán (36) tất-lý đát (37) tất xá tán (38) cung bạn noản (39) a tô lam (40) A ngật-ninh (41) da mãng (42) phộc lỡ noản (43) phộc dũng (44) câu phệ lam (45) đạt nẵng nan (46) đặc-lý đa la sắt tra-lam (47) vĩ lỗ đồ kiếm (48) vĩ lỗ bá sạn (49) thương câu la lan-noản (50) vĩ ca lan-noản (51) để-lý ca la noản (52) một-lý ha đát ca lan-noản (53) kiện tra ca lan-noản (54) nộtlỗ noa ca lan-noản (55) hạ tất-để ca lan-noản (56) ngỗ ca lan-noản (57) tát-thố la ca lan-noản (58) ma hạ ca lãng (59) nan nỉ kế thấp-phộc lam (60) bột-lăng nghĩ-lý tri-dựng (61) nẵng dã kiếm (62) vĩ nẵng dã kiếm (63) bát tức kiếm (64) na ma kiếm (65) lộ hạ kiếm (66) mô hạ kiếm (67) sa sắt-sỉ nỉ phộc câu trí (68) nghĩ lý kiếm (69) Án, ca lý (70) nột lý-nga ca đát-dã dĩ ninh (71) tán noa ca đát-dã dĩ ninh (72) nãi lý đát-dạng (73) ca lăng (74) ma hạ ca lăng (75) phộc nhật-la ca lăng (76) yệ xá thú ninh (77) y xá ninh (78) tô ca lăng (79) bạt nại-la ca lăng (80) tổ la ca lăng (81) a ngật-nễ dạ-dạng (82) phộc dã ma-dạng (83) xá lê ca phộc lý-để (84) [hiến đỉnh (85) la để-lăng (86) thước cật đỉnh (87) thiết đa xưng (88) ma hạ thiết đa nễ (89) ấn nại-la ni (90) một-la hám-ma ni (91) kiêu phệ linh (92) ma hạ kiêu phệ linh (93) ma hạ ma hệ thấp-phộc lý 994) phệ sắt-noa vi (95) tô bà nga (96) nộtlý bà nga (97) tá môn noa (98) lao nại-lý (99) phộc la hứ (100) kiêu phệ lệ (101) ái xá nễ (102) nãi lý đát-dạng (103) duệ tá nẵng-duệ (104) ma ma, tam ma duệ (105) nẵng để sắt-xá để (106) đán tát lý-tông (107) a phộc hạ dĩ sa dã di (108) thi giàlam (109) khất-lý hận-noa (110) ngật-lý hận-noa (111) ngật-lý hận-noa bát dã (112) ngật-lý hận-noa bát dã (113) Án, la la la la (114) Án, hổ lô (115) hổ lô (116) mẫu lô (117) mẫu lô (118) tổ lô (119) tổ lô (120) đạt ma (121) đạt ma (122) độ ma (123) độ ma (124) đạt nẵng (125) đạt nẵng (126) đạt la (127) đạt la (128) la ma (129) la ma (130) lam nga (131) lam nga (132) lam nga bát dã (133) lam nga bát dã (134) nhạ la ba (135) nhạ la ba (136) nhạ la-bá bát dã (137) nhạ la-bá bát dã (138) bố la (139) bố la (140) bố la dã (141) bố la dã (142) la cụ (143) la cũ (144) a nẵng dã (145) a nẵng dã (146) a vĩ xá (147) a vĩ xá (148) a phệ xá dã (149) a phệ xá dã (150) Án, nẵng mô bà nga phộc để (151) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (152) tất đà, thất-tán noa (153) phộc nhật-la bá ni (154) la nghê-dã bát dã để (155) đát nễdã tha (156) Án, hột-lý (157) hệ, hạ hạ, hác hác hác hác (158) lam lam lam lam (159) y hộ (160) hồng hồng hồng, phát tra, sa-phộc hạ (161) nẵng mô bà nga phộc để (162) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (163) a nễ ca, la thấp-di (164) thiết đa, tát hạ sa nhật-la, bát-la để mạn ni đa (165) thiết lệ lý (166) tất đà, thất-tán noa (167) phộc nhật-la bá ni (168) la nghê-dã bát dã để (169) Án, hột-lý (170) hệ, hạ hạ hạ hạ (171) hộ hộ hộ hộ (172) hồng, hác (173) hồng hồng hồng (174) phát tra (175) la la la la (176) hồng, hác, sa-phộc hạ (177) Án, sa-đảm bà nễ (178) sa-đảm bà nễ (179) sa-phộc hạ (180) Án, tát lý-phộc lỗ sa (181) bát-la thiết ma nễ, sa-phộc hạ (182) Án, hồng hồng hồng, sa-phộc hạ (183) Án, hồng, hác, sa-phộc hạ (184) Án, hột-lý (185) hạ, hệ, hộ, hồng, phát tra, sa-phộc hạ (186) Án, hột-lý (187) A yết lýsa ni duệ, sa-phộc hạ (188) Án, tả la (189) tả la (190) sa-phộc hạ (191) Án, a hổ la (192) a hổ la (193) hột-lý, sa-phộc hạ (194) Án, nhạ la-ba (195) nhạ la-ba (196) saphộc hạ (197) Án, đường đường đường (198) đường ca lý noa, nễ-lý đát-dã, bát dã, sa-phộc hạ (199) Án, nhạ nhạ nhạ nhạ (200) nhạ bà nễ duệ, sa-phộc hạ (201) Án, sa-đang, sa-đang sa-đang (202) sa-đang bà nễ duệ, sa-phộc hạ (203) y hàm, tát-lý phộc nột sắt-tra nam, sa-phộc hạ (204) Án, át tra tra, hạ sa (205) môn tả, môn tả (206) ma hạ môn tả, sa-phộc hạ (207) Án, độ nẵng (208) dộ nẵng (209) bộtlung (210) bạn nhạ (211) bạn nhạ (212) đát-lại lộ chỉ-dã vĩ nại-la bát ni, sa-phộc hạ (213)”

Đại Minh như vậy ở trong Phật Tộc (Buddha-kulāya) giống như mặt trăng sáng, hay phá tất cả các hắc ám ác, lại hay ủng hộ Phật Pháp lìa các chướng nạn.

_Lại nữa, nói Pháp Đại Kim Cương Hương Bồ Tát Thành Tựu Nghi. Như lúc trước trì tụng Đại Minh tám ngàn biến cho tinh thục xong, sau đó tụng Minh gia trì vào An Tức Hương rồi thiêu đốt, phàm người tiếp chạm với khói của hương này đều được nhập ngụ khiến nói thiện ác. Nếu có người bị Thiên Nhân với hàng Dược Xoa làm cho mê muội thì đều hay giải trừ được. Cho đến người bị nhóm Quỷ bất tịnh với quỷ gây bệnh nóng sốt bệnh sốt rét, mỗi một Tiểu Quỷ… nắm giữ, vừa mới tụng Đại Minh này thì mau được trừ giải.

_Nếu muốn khiến cho kẻ kia được tất cả nhập ngụ. Cũng nên Kết Giới ủng hộ thân của mình với ủng hộ người nhập ngụ thời hết thảy các vì sao ác (ác tinh) gây tai hại, tụng Đại Minh này cũng mau giải thoát, hay thành việc của mình, hay chặt đứt Chú khác. Hết thảy việc khó khăn đều được thành tựu là sức của Đại Minh này đều được tùy theo ý.

_Lại nữa, nếu có Hành Nhân muốn làm các Pháp hành tựu. Hành Nhân trong sạch thường ăn thức ăn uống màu đỏ, sau đó chuẩn bị mọi loại hương, hoa cúng dường Đức Phật với Bản Tôn. Dùng ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt bắt đầu ra công, đủ bảy ngày đêm tụng Đại Minh đủ tám ngàn biến. Làm Tiên Hành xong, từ đây về sau tất cả chỗ làm đều được thành tựu.

_Nếu người muốn làm Kính Ái (Vaśikaraṇa) nên xưng tên kẻ kia, tụng Đại Minh liền được kính yêu

Nếu tụng Đại Minh tám ngàn biến gia trì vào hạt cải trắng, dùng hạt cải trắng tiếp xúc với người, đều được kính yêu

Nếu tụng Đại Minh tám ngàn biến gia trì vào lúa mạch rồi tiếp xúc với Sát Đế Lợi, đều được kính yêu

Nếu muốn Bà La Môn kính yêu. Tụng Đại Minh tám ngàn biến gia trì vào tro than rồi rải lên Bà La Môn thì người kia tự kính yêu

Nếu tụng Đại Minh tám ngàn biến gia trì vào dầu rồi đem cho Tỳ Xá Già thì kẻ kia tự kính yêu

Nếu tụng Đại Minh tám ngàn biến gia trì vào muối rồi đem cho Thủ Đà thì kẻ kia tự kính yêu

Nếu có vợ chồng quý tộc chẳng hòa thuận. Tụng Đại Minh tám ngàn biến gia trì vào hạt cải trắng dùng tiếp chạm với thân, liền được thuận hòa, kính yêu lẫn nhau

Nếu tụng Đại Minh gia trì xong, làm xỉ mộc dùng đến một năm, liền được tất cả nơi nói chuyện thành thật, lời nói không có ngôn từ nào chẳng tốt lành.

Nếu người lính (quân nhân) tụng Đại Minh bảy biến gia trì vào đầu tóc thì vào trận được thắng

Nếu tụng Đại Minh gia trì vào hạt cải trắng, làm Hộ Ma thì được tất cả kính yêu

Nếu tụng Đại Minh gia trì vào , làm Hộ Ma thì được tất cả Tăng Ích (Puṣṭika)

Nếu tụng Đại Minh gia trì vào , làm Hộ Ma thì sẽ ngưng diệt được tất cả tai họa

Nếu tụng Đại Minh gia trì vào sữa , làm Hộ Ma thì sẽ khiến cho bò, ngựa với các loại súc vật không có các chướng dịch

_Lại nữa, nói tướng Ấn của Ma Ma Chỉ Bồ Tát (Māmakī bodhisatva):

Nếu có tất cả (Nakṣatra) Diệu (Grahā) gây tai hại cho các chúng sinh. Người hành trì tụng đứng thẳng thân, tưởng làm thế múa, như đóng cây cọc Kim Cương. Đem tay phải cầm chày Kim Cương an ở bên cạnh eo thì thành Ấn. Khi tất cả Tú Diệu thấy Ấn này thì mọi tai hại đã làm thảy đều lui tan.

_Lại chẳng sửa thế múa lúc trước, đem hai ngón trỏ làm móc câu, duỗi bàn chân trái. Đây gọi là Nhất Thiết Xoa Ấn. Ấn này hay thành tựu tất cả việc.

_Lại nữa, nói quán tưởng tướng chữ trong Căn Bản Đại Minh của Kim Cương Bồ Tát an ở các thân phần. Nếu Hành Nhân muốn quán tướng chữ, trước tiên đứng thẳng thân làm thế múa theo bên phải, Tâm trụ Tam Muội (Samādhi), đem hai tay làm móc câu Kim Cương an ở trên trái tim. Đây là Kim Cương Hương Bồ Tát Thường Tướng Ấn

Nếu muốn quán chữ của Căn Bản Đại Minh trang nghiêm, nên quán Kim Cương Hương Bồ Tát, hoặc quán thân của mình như Kim Cương Bồ Tát ấy. Thân được hiện trước mặt xong.

Liền quán hai chữ Hạ (HA) Hạ (HĀ) hiện ở hai bàn chân

Tiếp theo quán hai chữ Hệ (HI) Hệ (HĪ) hiện ở hai đầu gối

Tiếp theo quán hai chữ Hồng (HU) Hồng (HŪṂ, HŪ) hiện ở trên trái tim

Tiếp theo quán hai chữ Hứ (HE) Hứ (HAI) hiện ở cửa miệng (khẩu môn)

Tiếp theo quán hai chữ Hộ (HO) Hào (HAU) hiện ở trên đỉnh đầu

Tiếp theo quán hai chữ Ham (HAṂ) Hắc (HAḤ) hiện ở hai bàn tay

Tiếp theo quán hai chữ Hám (HAṂ) Hạ (HĀ) làm dung mạo mặt tươi cười

Tiếp theo quán hai chữ Hồng (HUṂ) Hồng (HŪṂ) hay khiến cho người khác đi đến làm Thừa Sự

Tiếp theo quán hai chữ Hộ (HO) Hào (HAU) hay hóa làm mọi loại hình tướng xong. Lại tụng Căn Bản Đại Minh là:

“Án, hồng hồng hồng hồng hồng, hác, nẵng mạc”

*)OṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ HAḤ NAMAḤ

_Lại Pháp Quán Trí:

Quán hai chữ Hộ (HO) Hào (HAU) hiện ở trái tim

Quán một chữ Hám (HAṂ) hiện ở hai con mắt

Quán một chữ Hệ (HI) hiện ở trên đầu

Quán một chữ Hồng (HŪṂ) hiện ở trên đỉnh đầu

Lại quán một chữ Hám (HAṂ) làm giáp trụ

Quán một chữ Hác (HAḤ) làm khí trượng

Đây là Pháp Môn Quán Trí

_Phàm các người hành trì tụng, mốn trì tụng cầu các thành tựu. Trước tiên nên ở hai loại Quán Trí này tập khiến cho thành thục, rồi tụng căn Bản Đại Minh đủ một Lạc Xoa (10 vạn biến) để làm Tiên Hành. Tụng đủ số xong, sau đó mới có thể làm mọi loại Pháp thành tựu

_Nếu muốn thành tựu tất cả việc. Làm hộ Ma (Homa) dùng cây Ca La Vĩ La làm củi nhóm lửa. Dùng tám trăm biến hợp tụng Đại Minh làm nơi Hộ Ma, thì chỗ làm thành tựu. Pháp này có thể khiến cho tất cả ở bên trong ba cõi đều khiến nhập ngụ, đi đến trụ trong hư không, nói việc ở quá khứ, vị lai, hiện tại.

_Hoặc dùng Cồ Ma Di (phân bò) xoa bôi Mạn Noa La vuông vức. Ở bốn góc an tám xuất Sinh.Ở chính giữa Đàn an các hình tượng, hoặc bình Át Già với nhóm chuông … Dùng Xích Đàn xoa bôi thân tượng với nhóm chuông xong, sau đó đốt An Tức Hương tụng Đại Minh một ngàn biến thì nhóm chuông ấy liền Nhập Ngụ. Sau đó, lại kết Kim Cương Ấn làm tướng phẫn nộ, cao giọng tụng chữ Hồng (HŪṂ), tức thời trong hư không có tiếng nói việc của ba đời.

_Nêu thiêu đốt hương Đổ Lỗ Sắt Ca, tụng Đại Minh một ngàn biến, đến nơi sông lớn, sông nhỏ, núi lớn cũng có thể chấn động, rung lắc… hiện tướng Nhập Ngụ

_Nếu ở trong Mạn Noa La an cái đầu lâu. Hành Nhân tụng Đại Minh đủ một ngàn biến, thiêu đốt An Tức Hương, làm tướng phẫn nộ, cao giọng tụng chữ Hồng (HŪṂ) thì cái đầu lâu liền nhập ngụ, khởi dậy lìa Mạn Noa La, trụ ở hư không, nói việc thiện ác.

_Lại ở nơi có Phục Tàng. Dùng Cồ Ma Di (phân bò) chưa rơi xuống đất, xoa bôi Mạn Noa La. Ở chính giữa của mặt bên trên, thiêu đốt An Tức Hương, tụng Đại Minh đủ một ngàn biến. Hành Nhân làm tướng phẫn nộ, kết Phẫn Nộ Ấn, dùng chày Kim Cương đâm vào đất của phục tàng thì phục tàng (kho tàng bị che lấp) tự hiện ra.

 

QUYỂN HẠ

_Lại nữa, Hành Nhân muốn làm Tối Thượng Mạn Noa La Chuyển Pháp Luân Tướng. Trước tiên Hành Nhân nên tự vận Tâm chí thành, hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi), sau đó chọn lấy Thắng Địa. Thắng địa là nơi Thánh Hiền cư trú, hoặc đất có dấu vết xa xưa của Thánh Hiền, hoặc chùa cổ xưa, miếu thờ Trời, hoặc gần nơi có vật báu hoặc bên sông lớn, hoặc bên cạnh ao… là các đất thanh tịnh.

Được đất đó xong, phát Tâm vui vẻ, liền đối với A Xà Lê khởi tưởng như Đức Phật, làm lễ cúng dường thỉnh. Ở nơi dựng lập Mạn Noa La, tụng Minh kết Gới xong, sau đó có thể ở đất này làm Mạn Noa La.

Ở trong Mạn Noa La, vẽ Bản Tôn Kim Cương Hương Bồ Tát, làm tướng phẫn nộ hoặc tướng Đại Tiếu, có bốn mặt, mặt có ba con mắt, mắt phóng ánh sáng lớn như Kiếp Hỏa (Kalpāgni). Có 12 cánh tay, dùng tám vị Đại Long Vương với mọi áo báu trang nghiêm thân ấy, lửa sang rực rỡ hiện tướng Đại ác, hoặc tướng Đại Tiếu. Hai tay dựng thẳng ngón trỏ an ngay trái tim, các tay còn lại cầm nắm khí trượng là: chày Kim Cương, móc cây, cây thương, cây kiếm, cung, tên, cái bình báu, cây giáo có ba chia (tam xoa), đầu lâu, sợi dây… Như vậy vẽ tướng Hàng Tam Giới

Ở bên phía Đông của Bồ Tát vẽ Ma Ê Thấp Phộc La Thiên (Maheśvara: Đại Tự Tại Thiên), bên phía Nam vẽ Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa), bên phía Tây vẽ Ca Lý Để Chỉ Dã Thiên, bên phía Bắc vẽ Ô Ma Nữ Thiên (Ūma)

Ở bốn góc bên trong vẽ Đại Phạm Thiên (Mahāa-brahma), Cát Tường Thiên (Śrī-deva) Thiên Đế Thích (Śakra-devānāṃ-indra) với Bộ Đa Chủ (Bhūtādhipati) Ở bốn góc bên ngoàn Mạn Noa La vẽ bảy Mẫu Quỷ (Sapta-mātṛka) với Nẵng Trí Thấp Phộc Lam (Naṭīśvaraṃ), Ma Hạ Ca La (Mahā-kāla), Vĩ Nẵng Dã Ca (Vināyaka). Lại vẽ Bộ Đa (Bhūta) với Rồng (Nāga), Dạ Xoa (Yakṣa), Tất Xá Tả (Piśāca), Phệ Đa Noa (Vetāḍa), Tắc Kiến Độ (Skandha), Ô Ma Nại (Unmānda), A Bát Sa Ma La (Apasmara), Nga Lỗ Noa (Garuḍa)

Như vậy y theo Pháp, thứ tự vẽ Mạn Noa La với Bồ Tát xong. Tức Hành Nhân tự giữ cho trong sạch, mặc áo màu đỏ, vào Mạn Noa La thỉnh Bản Tôn với các Hiền Thánh. Trước tiên, kết Kim Cương Hương Bồ Tát Ấn với tụng Đại Minh, thỉnh Bồ Tát giáng đến Mạn Noa La. Tiếp theo, câu triệu chư Thiên với nhóm Hiền Thánh bên trong Mạn Noa La. Tưởng giáng đến xong, liền phụng hiến Át Già với nhóm hương, hoa. Sau đó nói việc mong cầu để cầu thành tựu Sơ Đắc Thắng Địa Kết Giới Đại Minh là:

Án nẵng mô bà nga phộc để (1) phộc nhật-la, hiến đà lý (2) lạc xoa (3) lạc xoa (4) ma hạ lạc xoa (5) ô lý-đà, mãn đã (6) át đường mãn đà (7) nỉ xá mãn đà (8) sa la (9) sa la (10) phộc nhật-la, nhập phộc la, ma lý nỉ (11) hồng, phát tra (12)”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE VAJRA-GANDHĀRI RAKṢA RAKṢA MAHĀ-RAKṢA, ŪRDHA BANDHA, ARTHAṂ BANDHA, DEŚA BANDHA,

SARA SARA, JVALA JVALA, PĀLINI HŪṂ PHAṬ

kết giới tác mạn nã la họa tượng dĩ 。hành nhân sơ nhập mạn nã

la tụng thử Đại Minh 。thử minh diệc danh cú triệu minh 。 Kết Giới, làm Mạn Noa La, vẽ tượng xong.

_Hành Nhân bắt đầu vào Mạn Noa La, tụng Đại Minh. Minh này cũng có tên là Câu Triệu Minh

Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã, ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (1) a mô già, y hệ-duệ hứ (2) a bát-la để hạ đa, y hứ (3) a nga tha, bà nga phộc để, thi giàlam (4) a vĩ xá, a vĩ xá (5) bát-la vĩ xá, bát-la vĩ xá (6) nhược, hồng, phát tra, saphộc hạ (7)”

*)NAMO RATNA-TRAYĀYA MAHĀ-VAJRA-GHANDHĀRI AMOGHA EHYEHI APRATIHATA_ EHI AGĀCCHA BHAGAVATE ŚĪGHRAṂ _ ĀVIŚA ĀVIŚA PRAVIŚA PRAVIŚA_ HŪṂ JAḤ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

_Tụng Minh này xong, lại tụng Căn Bản Đại Minh là:

Án (1) hột-lý (2) hồng (3)”

*)OṂ_ HRĪḤ HŪṂ

_Tụng Minh này xong, lại tụng Căn Bản Tâm Minh là:

Án (1) hồng (2) a hồng (3)”

*)OṂ HŪṂ ĀḤ HŪṂ

_Tụng Minh này xong, lại tụng Câu Triệu Đại Minh là:

Án, nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã (1) nẵng mạc thất-tán noa, phộc nhật-la bá noa duệ (2) ma hạ dược xoa tỉ nẵng bát đa duệ (3) Án, a mô già câu xá duệ (4) a bát-la để hạ đa xá sa nẵng duệ (5) hột-lý (6) yết la (7) yết la (8) yết la (9) yết la (10) hồng, nhược, hồng, phát tra (11)”

*)OṂ _ NAMO RATNA-TRAYĀYA

NAMAḤ ŚCAṆḌA-VAJRA-PĀṆĀYE MAHĀ-YAKṢA-SENĀPATAYE

OṂ_ AMOGHĀṂKUŚAYE APRATIHATA ŚASANĀYE _ HRĪḤ KARA KARA KARA KARA, HŪṂ JAḤ HŪṂ PHAṬ

_Tụng Minh này xong, tưởng Bồ Tát giáng đến Mạn Noa La xong. Lại tưởng Bồ

Tát có mọi loại Tự Luân (vòng chữ) trang nghiêm thân ấy. Bắt đầu tưởng “Án, bột-lý tra, sa-phộc hạ” [OṂ_ VṚṬA SVĀHĀ] tại đỉnh đầu của Bồ Tát Tiếp theo, tưởng chữ “Hồng, phát tra” [HŪṂ PHAṬ] tại cái đầu của Bồ Tát

Tiếp theo, tưởng chữ “Án, sa-phổ lỗ, sa-phộc hạ” [OṂ_ SPHURU SVĀHĀ] tại hai con mắt của Bồ Tát

Tiếp theo, tưởng chữ “Hột-lý, nẵng mạc, sa-phộc hạ” [HRĪ NAMAḤ SVĀHĀ] tại trái tim của Bồ Tát

Tiếp theo, tưởng chữ  “Đế khất-xoa-noa, vĩ nhạ duệ, hác”

[TIKṢṆA VIJAYĪ HAḤ] làm mọi loại áo giáp nghiêm thân của Bồ Tát

Tiếp theo, tưởng chữ “Án, hồng, phát tra” [OṂ HUṂ PHAṬ] làm mọi loại khí trượng mà Bồ Tát đã cầm nắm

Tiếp theo, tưởng  “Án, yết bá la, ma lý nễ, hồng, phát tra”

[OṂ_ KAPĀLANI HŪṂ PHAṬ] làm tướng phẫn nộ đầu tiên của Bồ Tát

Tiếp theo, tưởng chữ của Đại Minh “Hồng, phát tra” [HUṂ PHAṬ] làm tướng Đại Phẫn Nộ của Bồ Tát

Tiếp theo, tưởng chữ của Đại Minh này “Án, bátla tán noa, phệ nga, đà lý nê, hột-lý, hồng, hác” [OṂ_ PRACAṆḌA VEGA DHĀRIṆI HRĪḤ HUṂ HAḤ] làm tướng rất phẫn nộ căn bản của Bồ Tát

_Tiếp theo, tưởng Bồ Tát tụng vi Diệu Đại Minh là:

Án, nhạ-lung, hồng”

*)OṂ_ AṂ JRĀṂ HŪṂ

_Tiếp theo, tưởng Bồ Tát tụng Năng Phá Hoại Nhất Thiết Đại Minh là:

Án, nhạ-lung, sa-phộc”

*)OṂ_ JRĀṂ SVAḤ

Như vậy, làm Quán Trí.

_Được tất cả hiện trước mặt xong, Hành Nhân thân tâm vui vẻ, cúi đầu mặt làm lễ, liền nâng Át Già hiến Bồ Tát. Hiến Át Già Minh là:

Án, tát lý-phộc tất đề tỳ-du, nẵng mạc, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ SARVA SIDDHEBHYU NAMAḤ SVĀHĀ

_Thiêu Hương Hiến Bồ Tát Minh là:

Án, nẵng mô bà nga phộc để (1) độ bán, ngật-lý hận-noa (2) tất đà, tam ma duệ (3) hồng, nẵng mạc, sa-phộc hạ (4)”

*)OṂ NAMO BHAGAVATE DHŪPAṂ GṚHṆA SIDDHA-SAMAYE HŪṂ NAMAḤ SVĀHĀ

_Hiến Hoa Minh là:

Án, thất-lý, la sát-di (1) bát-la để ngật-lý hận-noa, hàm (2) du bát nễ đảm (3) bổ sáp-ba, sa-phộc hạ (4)”

*)OṂ_ ŚRĪ RAŚMI PRATIGṚHṆA MĀṂ_ ŚUBHA-NĪTAṂ PUṢPA SVĀHĀ

_Hiến Đăng Minh là:

Án, nhập-phộc la, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ JVALA SVĀHĀ

_Hiến Đồ Hương Minh là:

Án, thú tỳ (1) thú tỳ (2) hiến đà phộc tất nễ (3) hiến đà lý (4) tất-lý duệ, saphộc hạ”

*)OṂ_ ŚUBHE ŚUBHE GANDHA-VĀSINI GANDHĀRI PRIYE SVĀHĀ

_Hiến Thực Minh là:

Án, nỉ ma-dã mạt lệ, la nhạ dã (1) nỉ hứ, nỉ hứ (2) sa-phộc hạ (3)”

*)OṂ_ DĪPYA-BALI-RĀJA_ DEHĪ DEHĪ SVĀHĀ

Như vậy, mọi loại phụng hiến, cúng dường xong

_Tiếp theo, cầu Bồ Tát ban cho vui vẻ. Tụng Minh là:

Án, nẵng mô phộc nhật-la hiến đà lý (1) hổ lô (2) hổ lô (3) để sắt-xá 94) để sắt-xá (5) hồng, phát tra (6)”

*)OṂ NAMO VAJRA-GANDHĀRI, HURU HURU, TIṢṬA TIṢṬA, HŪṂ PHAṬ

Tụng Minh này xong, tưởng được Bồ Tát ban cho vui vẻ, Sau đó Hành Nhân tùy ý làm Pháp thì ý nguyện đã mong cầu đū được thành tựu

_Lại nói Năng Điều Nan Điều Đại Phẫn Nộ Ấn Tướng

.)Đỉnh Ấn: Hai tay để lòng bàn tay bằng phẳng, hai ngón giữa như cái bát, an hai ngón vô danh ở lóng thứ ba của ngón giữa, co hai ngón cái vào làng bàn tay nắm quyền thì thành Ấn. Khi kết Ấn này thời tưởng tướng của chữ Đại Minh ở tại đỉnh đầu của Bồ Tát

.)Nhãn Ấn: Chẳng sửa Ấn lúc trước, duỗi hai ngón trỏ thì thành Ấn. Khi kết Ấn này thời tưởng tướng của chữ Đại Minh ở tại hai con mắt của Bồ Tát

.)Khải Giáp Ấn: Hai tay nắm quyền, tưởng như cánh của con ngỗng thì thành Ấn. Khi kết Ấn này thời tưởng Đại Minh thành áo giáp khoác lên thân Bổn Tôn để làm trang nghiêm.

.) Khí Trượng Ấn: Tay phải nắm quyền, đem ngón cái vịn móng ngón trỏ thì thành Ấn. Khi kết Ấn này tười tưởng Đại Minh thành các khí trượng tại tay của Bản Tôn. Đây cũng gọi là Tâm Ấn, cũng gọi là Căn Bản Phẫn Nộ Ấn.

.)Quyết Định Kim Cương Câu ấn: Hai tay nắm quyền, hai ngón út cùng kết với nhau, giương duỗi hai ngón giữa cài chéo nhau, co đầu ngón trỏ như móc câu thì thành Ấn.

.)Kim Cương Sách Ấn: Đem ngón vô danh cùng với ngón trỏ làm thể sợi dây thì thành Ấn

.)Kim Cương Linh Ấn: Tay phải nắm quyền làm thế dao động thì thành Ấn.

.)Hiến Át Già Ấn: Chắp hai tay lại như thế nâng vật thì thành Ấn.

.)Hiến Hoa Ấn: Chắp hai tay lại, co hai ngón trỏ vào bên trong lòng bàn tay thì thành Ấn.

.)Hiến Hương Ấn: Chẳng sửa Ấn trướci, cùng co đầu của hai ngón trỏ thì thành Ấn.

.)Hiến Đồ Hương Ấn: Để lòng bàn tay trái bằng phẳng rồi giương duỗi thì thành Ấn.

.)Hiến Đăng Ấn: Hai tay co các ngón tay, giương duỗi hai ngón út thì thành Ấn.

.)Hiến Hoa Man Ấn: Hai tay ngửa lòng bàn tay như hoa sen mới mọc thì thành Ấn

.)Phá Hoại Nhất Thiết Ma Chướng Ấn: Hai tay để ngang trái tim đều nắm quyền. Lại đem ngón cái trái vịn móng ngón út, giương duỗi các ngón còn lại thì thành Ấn.

.)Căn Bản Phẫn Nộ Ấn: Thân đứng như thế múa. Tay trái đem ngón cái vịn ngón út làm như tướng Quân Trì an ở trên trái tim. Tay phải dựng thẳng giương ngón tay làm nưu tướng cành cây, miệng tụng chữ Hồng (HŪṂ) thì thành Ấn. Ấn này hay trừ Đại Ma cũng hay cậu triệu, hay mở hang A Tu La, hay làm cho các Rồng kinh sợ, cũng hay đầy lùi quân phương khác, hay chặt đứt Chú khác.

.)Đại Phẫn Nộ Ấn: Thân đứng như thế múa. Hai tay đều nắm quyền, giao chéo hai cánh tay, dựng quyền trái an trên trái tim, cũng dựng đứng quyền phải làm tướng phẫn nộ, miệng tụng chữ Hồng (HŪṂ) thì thành Ấn. Ấn này làm Đại Giáng Phục thì dùng, hay khủng bố tất cả Đại Ma với hàng Đại Dạ Xoa, La Xoa (La Sát).

.)Trì Sổ Châu Ấn: Hai tay đều đem ngón cái với ngón trỏ cùng vịn nhau thì thành Ấn. Khi kết Ấn này thời tụng Căn Bản Tâm Minh đồng dụng, hay khiến cho hàng Phạm Thiên (Brahma), hoặc Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa), hoặc Ma Ê Thấp Phộc La Thiên (Maheśvara) hiện ra, hoặc khiến nhập ngụ

Pháp Mạn Noa La tối thượng với Năng Điều Nan Điều chư Ấn Tướng như vậy là nơi mà A Xà Lê muốn truyền thọ, đều nên xem xét kỹ lưỡng. Chẳng hứa trao cho kẻ bất trung, bất hiếu, chẳng kính Tam Bảo, chẳng tu mọi Thiện với người có bệnh ác. Nhóm người như vậy cũng chẳng hứa khiến được nghe. Tại sao thế? Vì nghiệp ác cho nên nếu nghe Pháp này thì trở ngược lại sinh kinh chê, ở đời đương lai chịu khổ báo lớn

_Lại nói Pháp Kim Cương Hương Tam Muội Thành Tựu Liền nói Tam Muội Đại Minh là:

“Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã (1) nẵng mạc thất-tán noa phộc nhật-la bá noa duệ (2) ma hạ dược xoa, tỉ nẵng bát đa duệ (3) tổ la tổ la (4) nga tha nga tha (5) ma hạ mạt lê, sa-phộc hạ (6) bố nẵng la nga ma nẵng dã (7) câu lỗ câu lỗ (8) nga tha nga tha, sa-phộc (9) ma hạ mạt lê, sa-phộc hạ (10) Phộc nẵng, a yết lýsa dã (11) a ca lý-sa dã (12) ngật-lý hận-noa, ngật-lý hận-noa (13) thi già-lam, a vĩ xá (14) a xĩ xá, sa-phộc hạ (15) ma ma, phộc la nỉ tông (15) a nga tha, a nga tha (17) mẫu một-nga lý noa (18) a9a noa dã (19) một-la hám-ma noản (20) A phệ xá (21) a phệ xá (22) ác khất-xoa, tô để-lý noa (23) phiến để, câu lỗ (24) ma hệ thấpphộc lam (25) để-lý thú lê nẵng (26) hột-lý na diệm, vĩ na la dã (27) a nậu la nghê noa (28) tát lý-phộc tát đát-tông, phộc thi, câu lỗ (29) ca la câu tra vĩ thí noa (30) mô hạ dã (31) mô hạ dã (32) ma la dã (33) ma la dã (34) câu ma lý noản đổ (35) la nga dã (36) la nga dã (37) ấn nại-lý noa (38) đạt nỗ phộc nột-vĩ ba dã (39) tán nạilý noa, yết lô sa (40) chỉ la-vĩ sa (41) nẵng xá dã, nẵng xá dã (42) a nỉ đế-duệ nẵng (43) tát lý-phộc lỗ ngang, bát-la hạ nẵng dã (44) bát-la hạ nẵng dã, dược khất-sất noa (45) tát lý-phộc tất-lệ đa nẵng (46) ma lý-na dã (47) ma lý-na (48) la sát tỉ nẵng (49) tát lý-phộc nại-la ma-dã noa (50) bạt khất-xoa dã (51) bạt khất-xoa dã (52) tất xá tả nam (53) nại hứ-dã ma nẵng (54) tát lý-phộc ô để sắt-xá (55) ngật-lý hận-noa, ngật-lý hận-noa (56) tất phộc tất phộc (57) cung bạn noa (58) tát lý-phộc cật-lệ xá, bát đà nẵng dã (59) a ngật-nễ, tát lý-phộc hổ đỉnh (60) tát lý-la bộ đa (61) tát lý-phộc suất-lỗ đỉnh (62) nẵng xá dã (63) nẵng xá dã (64) dã mãng, tát lýphộc ma la, bà phộc nẵng (65) a mật-lý đán, đà la dã (66) đà la dã (67) phộc dũng, tát-lý phộc đế nhạ (68) đà la dã (69) đà la dã (70) câu phệ lam, tát lý-phộc la ngang, đổ sa dã (71) đổ sa dã (72) đạt nẵng năng, tát lý-phộc phộc lý-sam (73) tát lý-phộc la đát-nẵng, phộc lý-sa dã (74) phộc lý-sa dã (75) đặc-lý đa la sắt-tra-lam (66) nại sắt-tra-la, yết la lệ nẵng (67) tát lý-phộc nột sắt-tra (78) bạt khất-xoa dã (79) bạt khất-xoa dã (80) vĩ lỗ bá khất-xoa (81) nễ lỗ ba địa thi thí noa (82) đổ sa dã (83) đổ sa dã (84) ma hạ lệ nẵng (85) tát lý-phộc nhập-phộc lý noa (86) ngật-lý hận-noa, ngật-lý hận-noa (87) nan nỉ kế thấp-phộc la (88) tát lý-phộc khư noanga, sa-đảm bà dã (89) vĩ nẵng dã kế nẵng (90) tát lý-phộc vĩ cận-nẵng, vĩ nẵng xá dã 991) vĩ nẵng xá dã (92) bát thể kiếm, tát lý-phộc bát hạ la (93) thất-táo la noản (94) ma lý-na dã (95) ma lý-na dã (96) na ma kiếm, tát lý-phộc thiết đốt-lung (97) nẵng xá dã (98) nẵng xá dã (99) lộ hạ kiếm (100) Tát lý-phộc nại-la phộc dã (101) nại-la phộc dã (102) sa sắt-trí nỉ vĩ, a yết lý-sa dã (103) a yết lý-sa dã (104) Án, ca lý (105) tát lý-phộc nga đán, tá la dã (106) tá la dã (107) câu trí nghĩ lý (108) ca ma, bạn nhạ dã (109) bạn nhạ dã (110) nột lý-nga ca đát-dã dĩ nễ (111) ma hứ-dận nại-lam, bạt khất-xoa dã (112) bạt khất-xoa dã (113) tán noa ca đát-dã dĩ nễ (114) toa bà phộc nẵng (115) a nẵng dã (116) a nẵng dã (117) ca lăng (118) ma hạ ca la, đá noa dã (119) đá noa dã (120) ma hạ ca lăng (121) ma hạ nẵng ngang đổ sa dã (122) đổ sa dã (123) phộc nhật-la ca lăng (124) phộc dụ phệ nghệ nẵng (125) a phệ xá dã (126) a phậ xá dã (127) uệ xá thú nễ (128) nột lý-bà nga, đá noa dã (129) đa noa dã (130) Tô ca lăng (131) nột lý-bật khất-bình phộc lý-sa đà lãm, môn tả (132) môn tả (133) tô ca lăng (134) tát lý-phộc tát đỏa lý-tha (135) tô khư bát-la na bát dã (136) bát-la na bát dã (137) bạt nại-la ca lăng (138) tát lý-phộc đổ (139) bạt nại-la ma nẵng dã (140) ma nẵng dã (141) tổ la ca la9ng (142) tát lý-phộc vĩ cậnnẵng (143) tổ kan-noa dã (144) tổ lan-noa dã (145) a ngật-nễ dạng (146) tát lýphộc tát đỏa lý-tha, a ha-la nại nẵng (147) yết lý duệ, sa-phộc hạ (148) xá lê kiếm (149) tát lý-phộc đạt nẵng (150) đà nễ-dã phộc lý-đạt nễ duệ, sa-phộc hạ (151) phiến để kiếm (152) tát lý-phộc la nga nột-phệ sa (153) mô hạ thế na nẵng (154) yết lý duệ, sa-phộc hạ (155) thiết cật-để (156) tát lý-phộc dục đà, nẵng xá dã, saphộc hạ (1157) thiết đá xưng (158) tát lý-phộc đát-lam (159) tát lý-phộc ma-dã đề (160) môn tả (161) môn tả (162) sa-phộc hạ (163) ma hạ thiết đa xưng (164) ế đátdu bát nại-la tông (165) nẵng xá dã (166) nẵng xá dã, sa-phộc hạ (167) ấn nại-la nê (168) vĩ cận-nẵng, câu lỗ, sa-phộc hạ (169) một-la hám-ma ni (170) một-la hámma, vĩ cận-nẵng dã, sa-phộc hạ (171) kiêu ma lý (172) kiến nễ-dã, ma ca lý sa dã, sa-phộc hạ (173) ma hạ kiêu ma lý (174) ngạo bát thú (175) ma tứ sam (176) tát lýphộc lỗ ngang, nẵng xá dã (177) nẵng xá dã, sa-phộc hạ (178) ma hứ thấp-phộc lý (179) tát lý-phộc để lật-thể ca, nột sắt-diệm (180) bạt khất-xoa dã (181) bạt khấtxoa dã (182) phệ sắt-noa vi (183) nột lý-bà ngang (184) đát lý-nhạ dã (185) đát lýnhạ dã (186) tô bà ngang (187) mạo địa tức đán (188) bát-la môn tả dã (189) bát-la môn tả dã (190) Tá môn noa (191) tát lý-phộc lao nại-la, la cật-đang (192) tất phộc (193) tất phộc (194) la để-lăng (195) để lý tán đình-dạ, la khất-xoa dã (196) la khất-xoa dã (197) ái xá nễ (198) la khất-xoa dã (199) la khất-xoa dã (200) nãi lý đế  (201) nãi la lam ma-dã, bá la dã (202) bá la dã (203)” Tam Muội Đại Minh như vậy hay thành tựu tất cả việc.

_Nếu có người muốn làm mọi loại Pháp thành tựu. Trước tiên, nên thọ nhận Tam Muội này, như Pháp tu tập xong, tức vào ngày 14 trì Trai Giới tinh khiết xong, đến ban đêm thời ở trước tháp Xá Lợi tụng Đại Minh một ngàn biến, sau đó làm mọi loại Pháp đều được thành tựu.

_Nếu có Hành Nhân muốn dựng lập Mạn Noa La. Trước tiên, nên chọn lực nơi thanh tịnh, hoặc trước cái tháp, hoặc trong rừng Thi Đà, hoặc dưới cái gây lớn, hoặc trong ngã tư đường… dùng Cồ Ma Di (phân bò) xoa bôi Mạn Noa La, dùng phấn năm màu làm lối đi giới hạn (giới đạo) thành bốn phương, mở bốn cửa, y theo Nghi của Kim Cương Hương Bồ Tát an bày vị trí của Hiền Thánh. Ở cỗ của vị trí Hiến Thánh đều an vật tiêu biểu (tiêu xí). An bày vị trí xong, tùy theo sức xếp bày mọi loại hương, hoa để làm cúng dường. Ở bên ngoài bốn cửa đều an cái bình báu tại mỗi một chỗ, trong bình chứa đầy nước thơm. Lại chuẩn bị thức ăn uống thù diệu. Ở bên ngoài bốn cửa đều để một phần để làm cúng dường.

Mọi loại như vậy an bày ổn định xong. Hành Nhân liền ở vị trí Đông Nam ở phía trước Mạn Noa La, quỳ gối phải sát đất, kết Kim Cương Câu Ấn, tụng Tâm Minh 108 biến thì Đại Tự Tại Thiên kia với tất cả hàng Trời tùy theo sự câu triệu ấy mau chóng đi đến, vào trong Mạn Noa La, vui vẻ mà trụ.

Kim Cương Câu Ấn ấy là: Giương duỗi tay trái, co ngón trỏ như móc câu, an bên cạnh eo thì thành Ấn. Liền tụng Câu Triệu Tâm Minh là:

“Án, nẵng mô phộc nhật-la bá noa duệ (1) Án, y hệ-duệ hứ (2) đổ lỗ đổ lỗ (3) phộc nhật-lam câu thủy, sa-phộc hạ (4) hệ hàm câu thủy, sa-phộc hạ (5)”

*)OṂ NAMO VAJRA-PĀṆĀYE_ OṂ EHYEHI DHURU DHRU, VAJRĀṂKUŚE SVĀHĀ_ HE AṂKUŚE SVĀHĀ

Khi tụng Minh này thời nên kết Ấn lúc trước, kèm gia thêm chữ Hồng (HŪṂ), gia trì ở cổ với đầu của Đồng Nam, Đồng Nữ thì nam nữ ấy liền nhập ngụ

Nếu đem cái bát an trong Mạn Noa La, ở trước mặt các Hiền Thánh, bày các hương hoa để làm cúng dường. Nếu muốn khiến Nột lý nga Thiên Nữ (Dūrga-devī) đi vào trong cái bát. Hành Nhân đứng thẳng thân như thế múa, đốt An Tức Hương, tụng Tâm Minh với kết Câu Triệu Ấn thì Thiên Nữ ấy mau đi đến vào trong cái bát, nói việc đã mong cầu

_Nấu cầu Bản Tôn Kim Cương Hương Bồ Tát giáng đến. Như trước, kết Ấn tụng Minh chuyên chú, Tâm chẳng tán loạn, quán tưởng Bồ Tát. Trong phút chốc, Bồ Tát đi đến giáng xuống trong cái bát, thân màu đỏ, tướng mặt viên mãn, mọi loại trang nghiêm, làm tướng vui vẻ, quán sát Hành Nhân chẳng dời mắt. Người hành trì tụng được Bồ Tát giáng lâm như vậy, vui vẻ xong liền bày riêng hương hoa thượng diệu để làm cúng dường, nói việc đã mong cầu ắt được thành tựu.

_Hành Nhân liền tụng Kim Cương Tỏa Minh để cầu an trụ. Kim Cương Tỏa Minh là:

“Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã (1) nẵng mạc thất-chiến noa (2) phộc nhật-la bá noa duệ (3) ma hạ dược khất-xoa tỉ nẵng, bát đa duệ (5) câu lỗ câu lỗ (6) tạt tra tạt tra (70 tạt la tạt la (8) sa la sa sa (9) để sắt-tra, để sắt-tra (10) ma hạ phộc nhật-la (11) tam ma duệ mãn nậu sa-ma la (12) tất đà thất-chiến noa (13)

phộc nhật-la bá ni (14) la nghê-dã bát dã nễ, sa-phộc hạ (15)”

*)NAMO RATNA-TRAYĀYA

NAMAḤ ŚCAṆDA-VAJRA-PĀṆĀYE MAHĀ-YAKṢASENAPATAYE

KURU KURU, CAṬA CAṬA, CARA CARA, SARA SARA, TIṢṬA TIṢṬA,

MAHĀ-VARA SAMAYAM ANUSMARA SIDDHA ŚCAṆḌA-VAJRA-PĀṆI

RĀGEYA PĀYANI SVĀHĀ

Nếu dùng Minh này gia trì vào An Tức Hương, làm ba viên như hạt sen, đem viên này thấm dầu hạt cải rồi ném vào trong lửa làm Hộ Ma thì được tất cả thành tựu. Được thành tựu xong, sau đó lễ tạ Bồ Tát, y theo Pháp phát khiển phụng tống

_Lại nữa, đem Minh này gia trì vào hoa với nước rồi rưới vảy lên Tú Diệu (các vì sao) liền mau cấm phộc (ngăn cấm cột trói). Lại nói Đại Minh là:

“Nẵng mô phộc nhật-la bá nê (1) la la, hạ tỉ (2) hạ (3) phộc nhật-lý ni (4) lỗ la, lỗ la (5) kiếm ba kiếm ba (6) tả la tả la (7) nhạ la-ba, nhạ la-ba (8) sa-phộc hạ”

*)NAMO VAJRA-PĀṆI, RA RA, HĀSIN HĀ_ VAJRIṆI RŪRA RŪRA, KAṂPA KAṂPA, CARA CARA, JĀLAVAT JĀLAVAT SVĀHĀ

_Nếu muốn khiến cái bát nói tất cả việc, tụng Đại Minh bảy biến gia trì vài nước thơm rồi rưới vảy cái bát thì cái bát liền có tiếng nói tất cả việc. Hoặc bị Tú Diệu nắm giữ chẳng nói việc, liền lại gia trì, tụng Minh này ắt có tiếng nói việc.

Minh là:

“Án, phộc nhật-la địa bá đát-la, đát-la tra”

*)OṂ_ VAJRA ADHIPATRA TRAṬ

Khi tụng Minh này thời kèm dùng Ấn. Hai tay nắm Kim Cương Quyền đánh vào cái bát thì Tú Diệu nắm giữ kia do uy lực của Đại Minh liền mau hiện thân. Được hiện ra xong, lại dùng hai tay nắm Kim Cương Quyền để ngang trái tim, làm tướng phẫn nộ như thế muốn đánh, lại bảo rằng: “Ngươi nên nhảy múa, sau đó nói việc” thì hàng kia liền nhảy múa xong rồi thông báo việc

_Lại dùng Băng Nga La Đại Minh (Piṅgala-mahā-vidya) gia trì vào nước ba lần rưới vảy lên thân của Tú Diệu, liền được giải thoát. Lại dùng hoa màu nhiệm hiến cho Tú Diệu ấy, lại dùng Băng Nga La Đại Minh phát khiển khiến quay về cung của mình.

Băng Nga La Đại Minh là:

“Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã (1) nẵng mạc thất-chiến noa,phộc nhật-la bá noa duệ (2) ma hạ dược khất-xoa tỉ nẵng, bát đa duệ (3) tổ lỗ tổ lỗ (4) nga tha nga tha (5) ma hạ tá la, sa-phộc hạ (6) bố nẵng la nga ma nẵng dã (7) câu lỗ câu lỗ  (8) nga tha nga nga, sa-phộc hạ (9)”

*)NAMO RATNA-TRAYĀYA

NAMAḤ ŚCAṆḌA-VAJRA-PĀNĀYE MAHĀ-YAKṢASENAPATAYE

CURU CURU, GACCHA GACCHA, MAHĀ-CALA SVĀHĀ

PUNARĀGAMANĀYA, KURU KURU, GACCHA GACCHA SVĀHĀ

Tụng Minh này bảy biến gia trì vào Trầm Hương thiêu đốt, đồng dùng Phát Khiển

_Lại nói Kim Cương Hương Tốc Hành Đại Minh là:

“Nẵng mô phộc nhật-la bá noa duệ (1) bát dã bát dã (2) nga tha nga tha 93) bà nga phộc để (4) dược xoa địa bát để (5) vĩ lý 96) tức lý tức lý (7) hứ lý hứ lý (8) a vĩ cận-nẵng câu lỗ, sa-phộc hạ”

*)NAMO VAJRA-PĀṆĀYE, PAYA PAYA, GACCHA GACCHA, BHAGAVATE MAHĀ-YAKṢĀDHIPATE _ VĪRI, CIRI CIRI, HIRI HIRI, AVIGHNA KURU SVĀHĀ

_Lại nói Đại Minh là:

“Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã (1) nẵng mạc thất-chiến noa (2) phộc nhật-la bá noa duệ (3) ma hạ dược xoa tỳ nẵng bát đá duệ (4) nẵng mô bà nga phộc đát-duệ (5) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý-duệ (6) a nễ ca la thấp-di (7) thiết đa, sa hạ sa-la (8) bát-la nhập-phộc la lệ đa (9) nỉ bát-đa đế nhạ duệ (10) lao nạila, nại lý-sa nẵng duệ (11) vĩ ca la la duệ 912) tán noa duệ (13) tạt ba la duệ (14) ma hạ du nghệ thấp-phộc lý duệ (15) ốc ngật-la tỳ ma (16) bà dã nẵng duệ (17) sa tra-mục khư duệ (18) nột-phộc nại xá bộ nhạ duệ (19) nột-phộc nại xá, nễ đát-la duệ (20) vĩ chỉ lan-noa kế xá duệ (21) a nễ ca, lỗ ba, vĩ vĩ đà (22) vĩ tức đát-la phậ, sa đà lý nê duệ (23) nẵng mô tốt-đổ đế (24) bà nga phộc đế (25) đát-la dạ noản, la đát-nẵng nam (26) tát đế-duệ nẵng, a yết trà dã (27) a yết trà dã (28) [hộc la nỉ phộc (29) ma hứ thấp-phộc la (30) nga lỗ nông (31) vĩ sắt-nùng (32) câu ma lam (33) một-la hám-ma noản (34) ấn nại-lam (35) tán nại lam (36) a nễ đát-dạng (37) a ngật-ninh (38) phộc lỗ noản (39) phộc dũng (40) câu phệ lam 941) dược sạn (42) la khất-xoa tăng (43) bộ đán (44) tất la đán (45) tất xá đán (46) cung bạn noản (47) đặc-lý để la sắt-tra-lam (48) vĩ lô trà kiếm 949) vĩ lỗ bá sạn (50) thương câu yết lan-noản (51) để-lý yết la noản 952) tát thỏ la yết lan-noản 953) ma hạ ca lãng 954) nan nỉ chỉ thấp-phộc lam (55) bột-lăng nghĩ lý tri dựng (56) nẵng dã kiếm (57) vĩ nẵng dã kiếm (58) na ma kiếm (59) lộ hạ kiếm (60) sa sắt-sỉ nỉ vĩ câu chi 961) nghĩ lý ca 962) nột lý-nga ca đát-dã dã nễ (63) ma hạ ca đát-dã dã nễ (64) ái xá nễ (65) nãi lý đế (66) ca lệ (67) ma ha ca lệ (68) bạt nại-la ca lệ (69) lỗ nại-la ca lệ (70) Tổ la ca lý (71) tô ca lệ (72) duệ thú nễ (73) a ngật-ninh dạ (74) phộc dã madã (75) xá lệ ca phộc lý-để, thiết cật-để (76) ma hạ thiết thiết-để (77) thiết đa xưng (78) ma hạ thiết đa xưng (79) ấn nại-la nê (80) một-la hám-ma nê (81) kiêu phệ lý (82) ma hạ kiêu phệ lý (83) ma hứ thấp-phộc lý (84) phệ sắt-noa vi (85) tô bà ngang (86) tá môn noa (87) lao nại-lý (88) phộc ha hứ (89) duệ tá nễ-duệ (90) tam ma duệ (91) nẵng để sắt-xá để (92) đán tát-lý tông (93) a phộc hạ dã (94) tam ma dã (95) tát-tha bát dã (96) hỗ lô hổ lô (97) tổ lô tổ lô (98) tả la tả la 999) độ ma độ ma (100) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (101) vĩ nễ-dã la nghẹ bát dã để, sa-phộc hạ (102)”

Sức của Đại Minh này chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có Hành Nhân muốn làm các thành tựu. Vào ngày mồng một của tháng thì bắt đầu làm Pháp, ăn thức ăn màu đỏ. Lại dùng hương, hoa cúng dường Đức Phật, tụng Đại Minh đến ngày mồng tám, trì tụng

Đại Minh đủ 1008 biến. Nếu chí Tâm chuyên chú thì tất cả chỗ làm đều được thành tựu

Hoặc có người bị Tú Diệu nắm giữ, tụng Minh này gia trì vào người ấy liền được giải thoát

_Nếu muốn khiến Tu Diệu đi đến giáng Nhập Ngụ. Hành Nhân như lúc trước, chuyên chú trì tụng đủ số. Lại thân đứng như thế múa, kết Kim Cương Câu ấn, quán tưởng chữ Hồng (HŪṂ) biến làm chảy Kim Cương rực lửa tràn khắp xong, thiêu đốt An Tức Hương, tụng Đại Minh. Tú Diệu kia ở bên ngoài trăm ngàn do tuần, nghe triệu liền đến. Liền tụng Kim Cương Tỏa Đại Minh khiến cho trụ, sau đó khiến nhập ngụ nói các thiện ác. Nói việc xong, liền đốt Trầm Hương, tụng Băng Nga La Đại Minh gia trì vào nước rưới vảy lên thân Tú Diệu, tức cởi bỏ sự cột trói, khiến cho đi.

_Lại nữa, nếu lại có người bị Tinh Diệu nắm giữ làm cho mê muội. Hành Nhân đứng thẳng thân như thế múa, tay phải cầm chày Kim Cương trước tiên an trên trái tim, tưởng trái tim của minh như vành mặt trời chiếu sáng rực rỡ, làm tướng phẫn nộ, lại dời chày Kim Cương an bên cạnh eo, tức miệng tụng Môn Tả Môn Tức (MUÑCA MUÑCAḤ) thì nơi bị Tinh Diệu kia nắm giữ liền tự cởi bỏ được.

_Lại nói Phá Nhất Thiết Sở Chấp Mỵ Đại Minh là:

Nan nỉ chỉ thấp-phộc lam (1) bột-lăng nghĩ lý (2) nẵng dã ca 93) vĩ nẵng dã ca (4) na ma ca (5) mô hạ ca (6) mô hạ ca (7) sa sắt-sỉ nỉ vi (8) câu ma lý câu trí nghĩ lý ca (9) nột lý-nga ca đát-dã dã nễ (10) tán noa ca đát-dã dã nễ (11) ca lệ (12) ma ha ca lệ (13) phộc nhật-la ca lệ (14) duệ xá thú nễ (15) tô ca lệ 916) tổ la ca lệ (17) a ngật-ninh dạ (18) phiến để ca phộc lý để (19) thiết cật-để (20) thiết đa xưng 921) ấn nại-la nê (21) một-la hám-ma nê (22) kiêu ma lý (24) ma hứ thấp-phộc lý (25) phệ sắt-noa vi (26) tô bà nga (27) tá môn noa (28) lao nại-lý (29) phộc la hứ (30) kiêu phệ lý (31) ái xá nễ (32) nãi lý đế (33) duệ tá nễ duệ (34) tam ma duệ nẵng, để sắt-tra để (35) đá, a phộc hạ dĩ sa-dã di (36) thi già-lam, ngật-lý hận-noa, ngật-lý hận-noa (37) án, hổ lô hổ lô (38) la la la la (39) ngu lô ngu lô (40) tổ lô tổ lô (41) mẫu lô mẫu lô (42) dụ lô dụ lô (43) đạt la đạt la (44) độ ma độ ma (45) bát la bát la (46) lam nga lam nga 947) lam nga bát dã 948) lam nga bát dã (49) nhạ la ba, nhạ la ba (50) nhạ la ba bát dã (51) nhạ la ba bát dã (52) bố la bố la (53) bố la dã, bố la dã (54) la cụ la cụ (55) a nẵng dã (56) a nẵng dã (57) a vĩ xá (58) a vĩ xá (59) a phệ xá dã (60) a phệ xá dã (61) bà nga phộc để (62) ma hạ phộc nhật-la hiến đà lý (63) tất đà, thất-chiến noa (64) phộc nhật-la bá nê, la nghe bát dã để (65) hột-lý 966) hác hác hác hác (67) hồng hồng hồng, phát tra, phát tra, phát tra (68) la la la la, sa-phộc hạ”

Đại Minh như vậy có uy lực lớn. Nếu có Hành Nhân muốn làm các Pháp thành tựu, chỉ cần chuyên chú trì tụng, y theo Pháp tu tập đều được thành tựu.

_Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Kim Cương Hương Bồ Tát Thành Tựu Nghi Quỹ này xong thời Kim Cương Thủ Bồ Tát với vô số câu chi Bồ Tát Ma Ha Tát, vô số hàng Trời, Rồng, A Tô La, Nga Lỗ Noa, Hiến Đạt Lý Phộc, Khẩn Na La, Ma Hộ La Nga, Dược Xoa, La Xoa sa với Tú Diệu… nghe điều Đức Phật đã nói, đều tuân phụng lời dạy bảo, tin nhận, làm lễ rồi lui ra.

 

PHẬT NÓI KINH KIM CƯƠNG HƯƠNG BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ

_Hế)_

Dịch xong một Bộ gồm ba quyển vào ngày 19/04/2015