KINH KHỔNG TƯỚC VƯƠNG CHÚ

KINH SỐ 984

Hán dịch: Đời Lương_ Phù Nam Tam Tạng TĂNG GIÀ BÀ LA (Saṃghavarman, hoặc Saṅghapāla)
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

 

QUYỂN THƯỢNG

Lễ Phật Pháp Tăng

Lễ bảy Đức Chánh Biến Tri với Thanh Văn: La Hán, ba Quả, bốn Hướng

Lễ Bồ Tát của nhóm Di Lặc (Maitreya) với Thành Tựu Chánh Hạnh

Tôi sẽ nói Khổng Tước Vương Chú. Nguyện xin các chúng Thần lắng nghe lời tôi đã nói.

Có hàng đi trên mặt đất (địa hành), hàng đi trên hư không (hư không hành), hàng đi trong nước (thủy hành), Trời (Deva), Rồng (Nāga), A Tu La (Asura), Ma Lâu Đa (Maruta), Già Lâu Bà (Garuḍa), Càn Thát Bà (Gandharva), Khẩn Na La

(Kiṃnara), Ma Hầu La Già (Mahoraga), Dạ Xoa (Yakṣa), La Sát Sa (Rākṣasa), Ti

Ly Đa (Preta), Bỉ Xả Già (Piśāca), Bộ Đa (Bhūta), Cưu Bàn Trà (Kuṃbhaṇḍa), Phú Đa Na (Putana), Kha Tra Phú Đa Na (Kaṭaputana), Sa Can Đà (Skanda), Uất Ma Đà (Unmāda), Xa Gia (Chāya), A Bát Sa Ma La (Apasmara), Uất Ta La Kha  (Ostaraka). Nguyện nghe tôi nói:

Ổ Tà Ha La (Ūrjāhārā: Đời Lương nói là thâu nhiếp ăn nuốt. Theo người dịch là loài ăn tinh khí), Bộ Đa Già Na (Bhūta-gaṇa: Đời Lương nói là chúng Thần), Già Phá Ha La (Garbhāhārā: Đời Lương nói là ăn sữa. Theo người dịch là loài ăn bào thai), Nại Đá La Ha La (Rudhirāhārā: Đời Lương nói là uống máu), Bà Sa Ha La (Vaśāhārā: Đời Lương nói là ăn dầu mỡ. Theo người dịch là loài ăn đồ dơ của sự sinh sản), Võng Sa Ha La (Maṃṣāhārā: Đời Lương nói là ăn thịt), Nhĩ Đà Ha La (Medāhārā: Đời Lương nói là ăn màng bọc thai. Theo người dịch là loài ăn thảo mộc có chất như mỡ), Xã Đa Ha La (Jatāhārā: Đời Lương nói là ăn sự sống), Thị Tỳ Đa Ha La (Jīvitāhārā: Đời Lương nói là ăn Thọ Mệnh), Bạt Lợi Ha La (Balyāhārā: Đời Lương nói là ăn bụi cây. Theo người dịch là loài ăn sức lực), Ma Lá Ha La (Malyāhārā: Đời Lương nói là ăn búi tóc), Kiền Tha Ha La (Gandhāhārā: Đời Lương nói là ăn mùi thơm), Phất Bà Ha La (Puṣpāhārā: Đời Lương nói là ăn bông hoa), Pha La Ha La (Phalāhārā: Đời Lương nói là ăn quả trái), Tát Tả Ha La (Sasyāhārā: Đời Lương nói là ăn hạt giống), A Huất Để Ha La (Ahutehārā: Đời Lương nói là ăn thứ do lửa thiêu đốt. Theo người dịch là loài ăn vật cúng). Nhóm như vậy siểm ác, đáng sợ, lấy thọ mệnh của người khác.

Nay tôi nói Đại Khổng Tước Vương Chú. Nguyện trừ bỏ sự siểm ác, các điều đáng sợ…. Nay cho hoa, hương, hương xoa bôi, Ổ Tà Ha La (Ūrjāhārā:ăn sinh khí)…Nguyện nghe lời tôi nên Thiện Ái, Từ Bi, tin Phật Pháp Tăng. Nguyện nghe tôi nói

“Kha Lý, Kha La Lý, Cưu Bàn Trì, Thương Dĩ Ni, Kha Ma La Khởi Ni, Ha Lợi Để, Ha Lợi Chỉ Thí, Ha Lê, Băng Già Ly”.

Dùng Tâm Từ Bi Tín Thiện. Nguyện nghe tôi nói, như vậy tin Phật Pháp Tăng

Kha Lý, Kha La Lý, Cưu Bàn Trì, Thương Dĩ Ni, Kha Ma Khởi Ni, Ha Lê Để, Ha Lê Chỉ Thí, Ha Lê Băng Già Ly, Lam Tì, Ba La Lam Tì, Kha La Ba Thỉ, Dạ Ma Đầu Để, Dạ Ma Lạc Xoa, Tự Bộ Sa Ni.

Nguyện nhận lấy hương, hương xoa bôi, thức ăn uống.

Nguyện thủ hộ tôi (họ tên…)

Nguyện Chú Pháp thành tựu, sa ha

[Kāli karali, kumbhaṇḍi, śaṃkhini, kamalākṣi, hārīti, hari-keśi, hari-piṅgale

Dùng Tâm Từ Bi Tín Thiện. Nguyện nghe tôi nói, như vậy tin Phật Pháp Tăng

Kāli karali, kumbhaṇḍi, śaṃkhini, kamalākṣi, hārīti, hari-keśi, śrì- hari-piṅgale, lambe, prālambe, lambodari, kāla-pāśe, yamaduṭi, mahā-rākṣase, bhūta-grasani Nguyện nhận lấy hương, hương xoa bôi, thức ăn uống.

Nguyện thủ hộ tôi (họ tên…) Nguyện Chú Pháp thành tựu, sa ha]

_ Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật trụ ở nước Xá Vệ (Śrāvastya), rừng cây Kỳ Đà (Jeṭavaṇa), vườn Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍadasyārāma). Thời có vị Tỳ Kheo tên là Sa Để (Svati), tưởi nhỏ với xuất gia, thọ Cụ Túc (Purṇaka: Cụ Túc Giới) chưa lâu, mới bắt đầu học Tỳ Ni (Vinaya: Luật Tạng), vì Chúng (Saṃgha) phá cây làm chỗ tắm gội, bị con rắn đen trong lỗ cây cắn vào ngón cái của chân phải, chất độc lan ngấm khiến thân té xuống đất, nôn ra bọt, mắt trợn ngược.

A Nan (Ānanda) thấy vị ấy bị đau khổ nên đi đến chỗ của Đức Phật, bạch Phật rằng: “Làm thế nào mới cứu chữa được?”

Đức Phật bảo A Nan: “Ông đem lời của Ta, dùng Đại Khổng Tước Vương Chú để trừ ác độc, đi đến nơi ấy nhiếp thọ thủ hộ khiến cho thân của Tỳ Kheo Sa Để được an lạc.

Ông nên kết Giới từ Trời, Rồng, A Tu La, Già Lâu Đa, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Dạ Xoa, La Sát Sa, Ti Ly Đa, Tỳ Xá Trà, Bộ Đa, Cưu Bàn Trà, Phú Đa Na, Sa Can Đà, Uất Ma Đà, Xa Da, A Bát Ma La, Uất Đa La Dĩ Trĩ Kha

Nhược Đà, Ưu Dĩ La, Tỉ Đa La, Bất Khả Sứ, Thực Bất Điều Thích, Ác Thóa, Ác Ảnh, Ác Kiến, Ác Thư, Ác Độ, Ác Phún…Một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc phút chốc, hoặc lâu dài. Chợt lạnh, chợt nóng, gió lạnh, Đàm Ẩm. Hoặc bị ba bệnh: nóng, lạnh, đau đầu…đều nguyện trừ khỏi.

Hoặc đau nửa đầu với chẳng ăn được, đau mắt, đau mũi, đau tai, đau miệng, đau tim, đau gò má, đau cổ họng, xỉ phong, tâm phong, hung hiếp phong, bối phúc phong, tỳ hĩnh phong, thủ túc phong, cốt tiết phong…Dùng Thần Lực của Đức Phật, nguyện trừ bệnh khổ trên thân thể của tôi (họ tên…) ngày đêm an ổn khoái lạc.

Nói Chú như vầy:

“Y trí, tì trí, ky trí, hy lợi, bà trí, ni trí, a trí da trí, đầu già trí, a lê sa cầu trí, bảng tu bỉ sa chi ni, a lũ ha ni, ba la lũ ha ni, thân lũ ha ni, ê ly trí ly để lý, mĩ ly mĩ ly, để mĩ, đầu mĩ, đầu đầu mĩ, nhất để mật để tất đam tì, tỳ ma ly, hống lựu hống lựu, a du mẫu khí cả lê, ma ha cả lê, bà la khẩn na chỉ thí, cẩu lậu cẩu lậu, đát bất lậu lê, câu ha lậu, câu lậu, đỗ sa đảm bà, đỗ đảm bà, đầu ma đảm bà,

cồ la dạ, tả la dạ, hi thú hi lợi hi lợi, nhĩ lợi nhĩ lợi trưng, để lợi để lợi, châu lậu châu lậu, mẫu lậu mẫu lậu mẫu lậu mẫu lậu mẫu lậu, hưu hưu hưu hưu hưu hưu hưu hưu hưu hưu, bà bà bà bà bà bà bà bà bà bà, xà la xà la xà la xà la xà la, đà ma đà ma ni, đa ba đa ba nê, đà ha đà ha ni, tọa la ni, đà đầu tì, kiệt xã ni, ba lý sa ni, sa phổ đa ni, đa ba ni, ba già ni, ha lý ni, cam ba ni, mạt đà ni, mạn trĩ ni, ca ma ca lý, thương ca lý, tát kha lý tát kha lý, tát kha lý tọa la ni, đầu ma đầu ma lợi, bà cẩu tu di, cồ la xoa, ba lợi tỳ la dạ, bà lý bà đẩu, đề bà, sa mạn để na, y lợi, cơ lợi, bà ha”

[Iḍi, viḍi, kiḍi, hiḍi, maḍi, niḍi, me.di, dodumbā, āḍe, ghāḍe, dugghāte, hariṇi, catuni, harivogāḍi, vaguḍi, pānsu piśācini, ārohini, ḍorohini, elā melā, ele mele, kele, tili, mele mele, time time, dume dume, dudume, iṭṭi miṭṭi, viṣṭaddhe, capale, vimale, huru huru, aśvamukhi, kāli kāli, mahākāli, karāli, prakīrnakeśi, kulu kulu, vappgulu vapphulu, kolu kolu, huru huru, vahuru vahuru, vāsādumbā, dodumbā, dumadumbā, gorāyā, velāyā, parivelāyā, piśu piśu, hili hili hili hili hili hili hili hili hili hili, mili mili mili mili mili mili mili mili mili mili, tili tili tili tili tili tili tili tili tili tili, culu culu culu culu culu culu culu culu culu culu, muhu muhu muhu muhu muhu muhu muhu muhu muhu muhu, mulu mulu mulu mulu mulu mulu mulu mulu mulu mulu, hulu hulu hulu hulu hulu hulu hulu hulu hulu hulu, hu hu hu hu hu hu hu hu hu hu, vā vā vā vā vā vā vā vā vā vā, pā pā pā pā pā pā pā pā pā pā, jāla jālajāla jāla jāla jāla jāla jāla jāla jāla, dama damani, tapani tapani, jvala jvalani, paca pacani, duṃbubi, garjani, varṣaṇi, sphoṭani, tapani tāpani pacani, hāriṇi kāriṇi, kampani, marddanī, maṇḍitike, kṣemaṃkari, makari śakari, sarkari, karkari, śavari, śaṃkari, jvalani, duma, dumbani, sukusame, golāyā, velāyā, parivalāya, varṣatu devaḥ samantena, irikisi svāhā]

_ Từ Ngã (Hãy yêu thương giúp đỡ cho tôi) Tỳ Lưu Lại Xoa (Dhṛtarāṣṭra)

Từ Ngã Ê La Bà Na Tượng (Airavaṇa)

Từ Ngã Tỳ Lưu Bác Xoa (Virūpakṣa)

Từ Ngã với Hắc Cồ Đàm (Kṛṣṇa-gautamaka)

Từ Ngã Ma Ni Long Vương (Maṇi– nāgarāja)

Từ Ngã Bà Tu Dĩ Long Vương (Vasuki)

Từ Ngã Trượng Túc Long Vương (Daṇḍa-pāda)

Từ Ngã Mãn Nguyệt Long Vương (Pūrṇa-candra)

Từ Ngã Nan Đà (Nanda), Ưu Bà Nan Đà Long Vương (Upananda)

[Đều có sắc đẹp, có danh tiếng cùng với hàng Trời, A Tu La chiến đấu…thời hiện Đại Thần Thông]

Từ Ngã A Nậu Đạt Đa Long Vương (Anavatapta)

Từ Ngã Bà Lâu Na Long Vương (Varuṇa)

Từ Ngã Mạn Xà Lợi Kha Long Vương (Manjuruka)

Từ Ngã Đắc Xoa Đa Long Vương (Takṣa)

Từ Ngã A Nan Đa Long Vương (Ananta)

Từ Ngã như vậy, Bà Tu Mộc Hà Long Vương (Vāsu-mukha)

Từ Ngã A Ba La Thị Đa Long Vương (Aparājita)

Từ Ngã Trầm Bà Tu Đa Long Vương (Chitvāsta)

Từ Ngã Ma Ha Ma Kì Tuy Long Vương (Mahā-manasvī)

Từ Ngã như vậy, Ma Na Tuy Long Vương (Upa-manasvī)

Từ Ngã Kha Đa Cao Long Vương (Kālaka)

Từ Ngã A Ba La Long Vương (Apalāla)

Từ Ngã Phu Già Bàn Long Vương (Bhogava)

Từ Ngã Sa Di Long Vương (Śravaṇeraka)

Từ Ngã Đà Địa Mẫu Kha Long Vương (Dadhi-mukha)

Từ Ngã Ma Ni Phân Đà Lợi Long Vương (Maṇi-puṇḍarīka)

Từ Ngã Tì Sam Ba Để Long Vương (Diśaṃ-pati)

Từ Ngã Cát Trĩ Đa Kha Long Vương (Karkkoṭaka)

Từ Ngã Thương Kha Ba Đà Long Vương (Śaṃkha-pāla)

Từ Ngã Cam Bà La Long Vương (Kambala)

Từ Ngã Sa Đa La Long Vương (Aśvatara)

Từ Ngã Ư Bỉ Long Vương

Từ Ngã Bà Ki Đa Chiên Long Vương (Śākeṭaka)

Từ Ngã Châm Mao Long Vương (Suciroma)

Từ Ngã Hung Hành Chủ Long Vương (Uraga)

Từ Ngã Chủ Long Vương (? Kumbīra)

Từ Ngã Lý Bà Kha Long Vương (Ṛṣika)

Từ Ngã như vậy Mãn Nhĩ Long Vương (Pūrṇa-karṇa)

Từ Ngã Tù Mâu Diện Long Vương (Śakaṭa-mukha)

Từ Ngã Cổ La Kha Long Vương (Kolaka)

Từ Ngã Tu Nan Đà (Sunanda), Bạt Tử Phí Đa La Thường (Vatsīputra) Long Vương

Từ Ngã Ỷ La Cụ Đa La Long Vương (Erapatra)

Từ Ngã Lam Phù La Kha Long Vương (Lamburuka)

Từ Ngã Phi Nhân Long Vương (Amanuṣa)

Từ Ngã Thượng Nhân Long Vương (Uttara-manuṣa)

Từ Ngã Lý Kì La Long Vương (Mṛgila)

Từ Ngã Mẫu Chi Lân Đà Long Vương (Mucilinda)

Từ Ngã Địa Hành Long Vương

Như vậy y theo nước, y theo hư không, y theo núi Tu Di (Sumeru): một đầu, hai đầu. Vị ấy thường yêu thương giúp đỡ cho tôi (từ ngã). Tất cả Thần Long không có chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân…đều đừng gây hại, yêu thương giúp đỡ cho tôi

(từ ngã), bốn Trụ Địa với tất cả chúng sanh

Hoặc động, chẳng động đều nguyện an lạc, tất cả không có bệnh tật. Tất cả nhìn thấy hiền thiện đừng khởi Tâm ác, nghĩ nhớ yêu thương tôi, diệt độc nhiếp thọ, như vậy thủ hộ.

Lễ Phật Bồ Tát

Lễ Tịch Diệt Giải Thoát

Lễ xong, giải thoát

Bà La Môn muốn trừ Pháp ác đều nên làm lễ. Nguyện rũ thương thủ hộ tất cả sự đáng sợ hoang loạn, tất cả tai hại bệnh tật. Nguyện đoạn trừ tất cả sự độc ác, tất cả điều chẳng nhiêu ích, thường hiện điều nhiêu ích.

Này A Nan! Thời trước, ở phía Nam núi Tuyết có Khổng Tước Vương (Mayūra-rāja) tên là Kim Quang Minh (Suvarṇāvabhāsa) trú ngụ tại đấy. Sáng sớm đọc tụng Đại Khổng Tước Vương Chú thì ban ngày đều an lạc, khi mặt trời lặn thời đọc tụng nên ban đêm đều an lạc Nói Chú như vầy:

“Hống hống hống hống hống hống, na già ly ly ly, đạm bà ly ly ly, tỳ ma ly ly ly, hống hư hống hư, tì xà tỳ xà, thâu tuần cầu lâu, ỷ la di la, y lợi nhĩ la, chí lợi nhĩ la, chí lợi nhĩ la, y lợi mật đế lệ, để lợi mật đế lệ, hỉ lợi để lợi để mật đế lệ, đàm tì tẩu tì đổ tẩu đổ cồ la, chi la, già ba la, tỳ la già, y để lợi, tất để lợi, lật để lợi.

Nam mô phật đà nam, chỉ lợi dĩ tử cồ đồ hi ni. Nam mô a la hán đa nam, ha la tha la. Nguyện tuôn mưa ở mười phương. Nam mô phật đà nam”

 

Khổng Tước Vương ấy có lúc do chẳng tác Chú Đại Khổng Tước Minh Vương này tụng ủng hộ an lạc, mà cùng với nhiều Khổng Tước Nữ trong rừng, từ vườn cây này đến vườn cây khác, từ vườn hoa này đến vườn hoa khác, từ ngọn núi này đến ngọn núi khác…tham đắm chốn ham muốn, kiêu mạn, lầm lạc, nhiều ngu si phiền muộn…cùng nhau dạo chơi, phóng đãng, tự kiêu…vào một hang núi. Ở chỗ ấy: Oan Gia, Oán Hữu (bạn mang oán hận) ngày đêm thường rình tìm dịp thuận tiện, dùng sợi dây bắt chim công (khổng tước thằng) cột trói.

Khổng Tước Vương kia vừa đến chỗ oán hận ấy thì Tâm tự tác niệm: “Chỉ Đại Khổng Tước Minh Vương này có Chú như vậy”

“Hống hống hống hống hống hống, na già ly ly ly, đạm bà ly ly ly, tỳ ma ly ly ly, hống dã hống dã, tì xà tỳ xà, thâu tu cầu lâu, ỷ la di la, y lợi di ly, chí lợi di la, y lợi mật đế lệ, để lợi mật đế lệ, hỉ lợi để lợi để mật đế lệ, đảm tì tu đảm tì đổ tẩu đổ, cồ la chi la, già ba la, tỳ la già, nhất trưng lợi, tất để lợi, lật để lợi.

Nam mô phật đà nam, chỉ lợi dĩ tử cồ đồ hi ni. Nam mô a la hán đa nam, ha lợi na lợi. Nguyện ở mười phương tuôn mưa. Nam mô phật đà nam”

 

_ Khi đó, từ khổ được thoát, an ổn đến cảnh giới ấy Nói câu Chú này như vầy:

“Tất đề hề, tẩu tất đề hề, vũ già ni, vũ xoa ni, mộc để, tì mộc để, a ma ly, tỳ ma ly, ni ma ly, mạn đà ly, vong già ly, hỉ lan nhĩ trì bạt tì, lại na già tì hề, ma dũ lý bạt đà ly, tu bạt đà ly, bà tu bạt đà ly, sa mãn đa bạt đà ly, tát bà tha sa đà ni, ba la mạt tha sa đà ni, ma na tử , ma ha ma na tử, yến bộ để, yến triết bộ để, yến trửu để, a la thị, tỳ la thị, a ma lý để, a ma lệ, bà la di, bà la sa ly, phu la nại, phu la na, ma nỗ chi di lý đa, tam thị bà để, tử lý bạt đà lệ, chiên đà lệ, chiên đà la ba la thí, tu ly dịch, tu la na can đế, tì đa phả dịch tu, bạt nê, bà la ma cồ tỉ, bà la ma thuật để, tát bà, ba la để ha để, sa ha”

 

Lễ tất cả chư Phật. Nguyện thủ hộ con khiến được an ổn.

Chỉ cữu chỉ cữu, xú chỉ, mẫu chỉ, sa ha

 

_ Lại nữa A Nan! Ngoài ra, Kim Quang Minh Khổng Tước Vương

(Suvarṇābhāsasya mayūra-rājñaḥ) thời trước, do nhân gì mà chẳng ai có thể biết sao? Này A Nan! Chỉ có Ta, thời trước tên là Kim Quang Khổng Tước Vương

A Nan! Đại Khổng Tước Minh Vương này, nay Ta sẽ nói Tâm ấy, Chú ấy như vầy:

“Y để, mật để, để lý, bỉ lý mật để, để lý mật để nhĩ, tu đàm bà, đàm ba, tu bà, chỉ lý chỉ tử, tất cả la di lý

Nam mô phật đà nam, chỉ lý chỉ tử, ba lan đa mẫu ly, y để ha la, lô hỉ đa mẫu la, đam bà, yểm bà, cẩu để, cẩu nại để, cúc cẩu nại để, để la quân xã nại để, a trách bạn xỉ diêm

Tháng chín, tháng mười. Nguyện Trời tuôn mưa

Y lý, nhĩ lý, chỉ lý, nhĩ lý, chỉ la, nhĩ lý, chỉ đẩu mẫu ly, đầu đầu ma, tu đầu di trĩ, đà lý di tán, đẩu bạt đế, bộ sa bạt đế, bộ sa la, bộ đa la, ỷ đa, bạt sa đa, la cả, chiếu cả la nặc ma lý nhĩ, la kha la ma khởi ly, y để tát xà ly, đam tỳ đam tỳ, a nại đế, bà la nại đế, a na na nại đế

Vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp. Nguyện Trời tuôn mưa, rưới nước mới.

Na la da ni, ba la da ni, ha lý đa lý, quân đa lý, mật tử để, dĩ để lý, mật tử để, y lý nhĩ, tất đà, lao đẩu đà la di đà, mạn đa la. Ta (họ tên…) sa bà ha”

 

Vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp, vòng khắp. Nguyện Trời tuôn mưa, rưới nước mới.

_ A Nan! Đại Khổng Tước Vương Tâm này. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú, nếu vào quốc giới đến A La Nhã (Araṇya), đường chánh, đường rẽ đến cung điện vua, gặp: giặc cướp, đấu tranh, nước, lửa, oán ác với ở Đại Chúng, rắn rít, uống chất độc. Đối với tất cả chỗ sợ hãi, nên nhớ niệm Chú này.

Hoặc phong đàm, lạnh nóng hòa hợp. Đối với 404 bệnh, nếu bị mỗi một bệnh chạm đến thì cũng nên nhớ niệm

Nếu chẳng phải Ý khổ đến thì cũng nên nhớ niệm. Tại sao thế ? Này A Nan! Nếu người đáng bị tù tội cột trói thì chỉ bị đánh phạt mà được giải thoát. Nếu đáng bị roi sắt phạt thì chỉ dùng cây gậy đánh nhẹ mà được giải thoát. Nếu đáng bị cây gậy đánh nhẹ thì chỉ bị bợp tai mà được giải thoát. Nếu đáng bị bợp tai thì chỉ bị chửi mắng mà được giải thoát. Nếu đáng bị chửi mắng thì chỉ bị răn bảo mà được giải thoát. Nếu đáng bị răn bảo thì chỉ bị nói qua loa mà được giải thoát. Như vậy giải thoát, lìa tất cả bệnh.

_ Này A Nan! Ta chẳng thấy hàng Trời (Deva), Người (Manuṣa), Ma (Māra), Phạm (Brahma) với Sa Môn (Śrāmaṇa), Bà La Môn (Brāhmaṇa) nào chẳng dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này để nhiếp hộ, thản nhiên, an ổn, tiêu trừ phạt độc. Kết Giới, kết Địa thì không có ai dám đến gây sự khủng bố. Hoặc Trời, cha mẹ của Trời, chúng Trời, Nữ Chúng

Hoặc Rồng, cha mẹ con trai con gái của Rồng, chúng Rồng, Nữ Chúng

Hoặc A Tu La, hoặc cha mẹ con trai con gái của A Tu La, chúng A Tu La, Nữ Chúng

Hoặc Già Lâu Đà, hoặc chúng cha mẹ con trai con gái của Già Lâu Đà

Hoặc Càn Thát Bà, hoặc chúng cha mẹ con trai con gái của Càn Thát Bà

Hoặc Yểm Quỷ, hoặc chúng cha mẹ con trai con gái của Yểm Quỷ

Hoặc Khẩn Na La, hoặc Ma Hầu La Già, hoặc Dạ Xoa, hoặc Lạc Xoa Sa, hoặc Ti Li Đa. Hoặc Tỳ Xá Trà, Bộ Đa, Câu Bàn Trà, Phú Đa Na, Kha Đa Phú Đa Na, Sa Can Đà, Ôn Ma Đà, Thân Da, A Bát Sa Ma La… đều cũng như vậy. Thường tìm kiếm phương tiện hại người, tụng niệm Chú này thì cuối cùng chẳng thể hại được.

Nếu hàng Trời được phương tiện hại người thì cuối cùng chẳng thể hại được mà quay trở lại hiện bày nơi chúng Trời ấy. Cho nên cần phải nhớ niệm. Chú ấy như vầy:

Hi lợi, hi lợi, cơ lợi, my lợi, cấm độc đệ hề, mộc đế, tu mộc đế, a đa, na đa, tu na đa, tu na đa, đề phù, bà lý bà đấu, ba la ma, a bàn đa diễm, a la, bà la cồ đỗ hỉ đa, y lý, nhĩ lý, tất thị lý cả, liễu đầu kha, liễu đầu kha, y lý, di lý, y lý, di lý, sa mạn đa đố, dĩ lật đoả, hống lậu hống lậu, hi lý hi lý, dĩ lợi dĩ lợi, thức ỷ na, mẫu sam, phụ lậu phụ lậu, già la già la, chỉ lợi chỉ lợi, trửu lậu trửu lậu, tì để tì để, thỉ khí thỉ khí, y trí y trí, khí khí khí khí khí, hống thọ hống thọ hống thọ hống thọ hống thọ hống thọ hống thọ hống thọ hống thọ hống thọ, ha la ha la, ha la nê, diệm bì hề

Tất cả siểm ác, tôi đều hàng phục. Tôi hộ giúp cho người (họ tên) cứu tế nhiếp thọ khiến được an ổn khoái lạc, trừ sự trị phạt, trừ chất độc, kết Giới kết

Địa chất đa ly, chất đa la ma ly, ha ly, ha la, ma ly, phả ly, pha la ma ly, khấu

lậu khấu lậu, ba la ba lậu na, tì lợi, a lậu mẫu lậu, y di, ha đam, tì đa

Tất cả siểm ác, chất độc của răng nanh, chất độc của rễ cây, chất độc của thức ăn. Dùng sức của Đức Phật, tất cả tiêu diệt

Tu lậu, tu lộc, bà la bà lạc chỉ, bà lãng chỉ tì lợi hỉ lợi

Dùng sức của bảy Đức Chánh Giác với chúng Thanh Văn diệt chất độc của răng nanh, chất độc của rễ cây, chất độc của thức ăn.  ỷ ly, nhĩ ly, y lý, nhĩ ly, để lý để lý, di ly, để ma đầu ma đầu ma, tẩu cẩu bà, tống bà đam bà, ha trí, na trí, đẩu la quân xà na trí, bà lý sở đẩu đề bạc, y lợi dĩ tử

Tất cả tháng chín, tháng mười yêu thương giúp đỡ cho tôi (từ ngã) với tất cả chúng sanh bao tu trí, bao đà la ni, bao đà la ni, chỉ bà đà, chỉ bà đà cả mẫu ly, y để, xa

bà ly, đẩu tì đẩu tì, bà lý dương cả ly, a bạt trí, ba lý bạt trí Nam mô Thế Tôn. Nguyện Trời tuôn mưa, rưới nước mới

nhân đà la, cồ nhĩ mẫu kha da, nhất chất đa da, cồ đỗ hỉ giá da, bà lăng già

lý kha da, a ly đa ly, cư đa ly, a sa nê, ba sa nê, ba đa ni câu ly”.

Tất cả siểm ác, tôi đều hàng phục. Tôi hộ giúp cho người (họ tên) cứu tế nhiếp thọ khiến được an ổn khoái lạc, trừ sự trị phạt, trừ chất độc, kết Giới kết Địa

Tất cả siểm ác, chất độc của răng nanh, chất độc của rễ cây, chất độc của thức ăn. Dùng sức của Đức Phật, tất cả tiêu diệt suru suruke, vara varake, varakke, viri hiri

Dùng sức của bảy Đức Chánh Giác với chúng Thanh Văn diệt chất độc của răng nanh, chất độc của rễ cây, chất độc của thức ăn.

Tất cả tháng chín, tháng mười yêu thương giúp đỡ cho tôi (từ ngã) với tất cả chúng sanh

Nam mô Thế Tôn. Nguyện Trời tuôn mưa, rưới nước mới

 

_ Nam mô chư Phật Thế Tôn

Tỳ Bối Thi Phật (Vipa’syìn-buddha) ngồi dưới cây Vô Ưu (Aśoka)

Thi Khí Phật (Śikhìn-buddha) ngồi dưới cây Phân Đà Lợi (Puṇḍarī)

Tì Du Phật (Vi’svabhū-buddha) ngồi dưới cây Đa La (Śāla)

Câu Tôn Mâu Ni Phật (Krakucchanda-buddha) ngồi dưới cây Thi Lê Sa (Śirīṣa)

Kha Na Kha Phật (Kanakamunïi-buddha) ngồi dưới cây Ưu Đàm Bà La (Udumbara)

Ca Diếp Phật (Kaøśyapa-buddha) ngồi dưới cây Nhược Già A Nậu Lâu Đà (Nyagrodha)

Cồ Đàm (Gautāma) Thích Ca Mâu Ni Phật (‘Saøkyamunïi-buddha) ngồi dưới cây Bồ Đề (Bodhi-vṛkṣa), được Bồ Đề (Bodhi).

Nơi Đại Thần Thông của chư Phật ban cho chư Thiên có niềm tin thời chư Thiên ấy đều rất hoan hỷ, thường nguyện an ổn. Chú ấy như vầy:

“Y lý, nhĩ lý, dĩ lý, tì lý, chỉ lý, bồ lý, ưu đầu la, tu đầu mưu đệ, bộ đa la, hống hống, cả la cả la thị, cả la thị, cả la đỗ mẫu ly, y để, xả già đa, cẩu đẩu lý, na tỉ la ni, bát xả để, bát xả, bát xả để, kha tỉ la mạt sa đẩu, y lý bà, tất đà lao đẩu, đà la my đà, mạn đa la bà đa, sa ha”

 

_ Này A Nan! Nếu có người tụng tên gọi của Đại Dược Xoa (Mahā-yakṣa) này.

Giả sử kẻ có Tâm ác muốn gây não hại thì cái đầu bị phá làm bảy phần như La Tì Phù Nói lời như vầy:

“Cát để mẫu ly, ỷ lâu mẫu ly, sa mạn đa mẫu ly, a trí na trí, cẩu tẩu na trí, nhất thế, mật thế, ba lậu, a la tra cá, ma la tra cá, y lợi dĩ lợi, chỉ lợi, cồ đầu đầu ha, đàn đà, mão huấn đầu huấn ma, tần na bãi đa”

[Kīrtti mūle, eru mūle, samanta mūle, āḍenāḍe, kuśa naṭṭe, iṭṭe miṭṭe, paru, araḍakā, ilikisi cili, godohikā, naḍā, uddundhumā, bhinnameḍa]

Lễ chư Phật Lưỡng Túc Tôn. Nguyện các ngươi an ổn, ra đi rồi quay về, không không có buồn đau.

Tất cả chư Phật có Đại Thần Thông

Tất cả các La Hán không còn phiền não (Anāsrava:vô lậu)

Dùng lời chân thật này, nguyền đều an ổn

Đại Khổng Tước Vương Chú này là điều mà Đức Như Lai đã nói. Nguyện làm cứu tế, nhiếp thọ, thủ hộ, tịch lạc, an ổn, trừ các sự trị phạt chất độc. Kết Giới, kết Địa. Nguyện sống trăm tuổi, thấy trăm mùa Thu.

_ Này A Nan! Các Đại Dược Xoa hoặc ở trong biển, hoặc ở núi Tu Di. Hoặc nơi núi cao, rừng rậm, rừng lớn. Hoặc ở sông lớn, sông nhỏ, kênh, rạch, ao, hồ, nghĩa địa trong núi, ngã tư đường, đất nước, thôn, vườn cây, vườn hoa, đường lớn, đường nhỏ, các chỗ vui chơi.

A Nan! Dược Xoa trụ ở chỗ của quốc vương A Lan Bàn Đa. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện thấy thủ hộ, sống trăm mùa Thu.

Nói Chú như vầy:

“Ha lợi, ha lợi ni, già lợi, già lợi ni, ba la ma ni, mẫu ha ni, sa đàm bà ni, diệm bà ni, bà viêm, sa ha”

_A Nan! Đề Đầu Lại Tra (Dhṛta-rāṣṭra) ở phương Đông thống lãnh chúng Càn Thát Bà Vương (Gandharva-rāja) số nhiều hơn một ngàn vạn, trước sau vây quanh thủ hộ Đông PhươngThiên Vương. Lại có con cháu, anh em với Đại Thần, Quân Chủ, Quan Lại, thứ dân, Đại Chúng. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này ủng hộ, nhìn ngó giúp đỡ khiến cho được an ổn, trăm tuổi khoái lạc Nói Chú như vầy:

“Thọ thọ lậu, thọ thọ lậu, thọ thọ lậu, thọ thọ lậu, thọ lậu thọ lậu, thị, sa ha”

 

_A Nan! Tỳ Lâu Lược (Virūḍhaka) ở phương Nam thống lãnh chúng Cưu Bàn Trà Vương (Kuṃbhaṇḍa-rāja) số nhiều hơn một ngàn vạn, trước sau vây quanh thủ hộ Nam Phương Thiên Vương. Lại có con cháu, anh em với Đại Thần, Quân Chủ, Quan Lại, thứ dân, Đại Chúng. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này ủng hộ, nhìn ngó giúp đỡ đều thấy trăm mùa Thu.

Nói Chú như vầy:

“Tỳ lậu sí, tỳ lậu sí, a mật đa la già đa ni, ba lâu na bà để, tì nhữu bà lý ni, tì lợi na, phất đa la sí, chủ chú tì chú, sa ha”

 

_A Nan! Tỳ Lâu Bác Xoa (Virūpākṣa) ở phương Tây thống lãnh chúng Long Vương (Nāga-rāja) số nhiều hơn một ngàn vạn, trước sau vây quanh thủ hộ Tây Phương Thiên Vương. Lại có con cháu, anh em với Đại Thần, Quân Chủ, Quan Lại, thứ dân, Đại Chúng. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này ủng hộ, thủ vệ, khiến sống được trăm mùa Xuân.

Nói Chú như vầy:

“Bãi bộ lợi, bãi bộ lợi, mạt để trí, mạt để trí, câu chí câu chí, bật đầu ma để, lâu lâu lâu lâu lâu lâu lâu lâu, châu châu châu châu châu châu châu châu, già già già già già già già già, sa ha”

 

_A Nan! Tên gọi Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa) ở phương Bắc thống lãnh chúng Dược Xoa Vương (Yakṣa-rāja) số nhiều hơn một ngàn vạn, trước sau vây quanh thủ hộ Bắc Phương Thiên Vương. Lại có con cháu, anh em với Đại Thần, Quân Chủ, Quan Lại, thứ dân, Đại Chúng. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này ủng hộ, thủ vệ chúng tôi (họ tên…) khiến thấy trăm mùa Xuân.

Nói Chú như vầy:

“Tu lợi tu lợi, thất lợi, thất lợi ma để, hi lợi hi lợi ma để, dĩ lý lợi, ha lý lợi, bỉ lậu bỉ lậu, băng già ly, châu lậu châu lậu, đoàn đầu ma để, ha đa tì sam, thản đầu ma để, sa ha”

 

_ Đông Phương Đế Đầu Lại Tra, Nam Phương Tỳ Lâu Lược, Tây Phương Tỳ Lâu Bác Xoa, Bắc Phương Cưu Tỳ La (Kubera, hay Kuvera). Bốn Đại Thiên Vương này thủ hộ Thế Gian, có danh tiếng lớn, só sức Thần Thông lớn, hay hàng phục Oán Địch. Thế Gian không có ai dám mạo phạm, không ai hơn được, chiến đấu với A Tu La. Dùng Đại Khổng Tước Minh Vương Chú này, ủng hộ chúng tôi, nguyện thấy trăm mùa Xuân.

Nói Chú như vầy:

“Đa bà ly, ma bà ly, già ly, di li, để la nhĩ ly, y thí tỳ thí, đam tỳ đam tỳ

Nguyện Trời tuôn mưa khắp nơi

Hỉ lợi, nhĩ lợi, đam tỳ, đẩu đẩu tỳ, át trí bạt trí, ba la ma đầu, nại trí

Nguyện Trời tuôn mưa

Cữu lậu già lan đa, an đệ, nan đệ, đẩu đẩu nan đệ, bàn đàn đệ, chúc sí mộc sí, y lý để, ni lý để, hỉ lý hỉ lý, hống lậu hống lậu, ha lợi nhĩ lý, đẩu ly, đa đa ly, sa ha”

Nguyện Trời tuôn mưa khắp nơi

_ Này A Nan! Ông nên tụng lấy tên gọi của Đại Dược Xoa Quân Chủ Kệ như vầy:

Con trai lớn (đại nhi) của Cưu Tỳ La (Kuvera) tên là Tiên Xà Da (Saṃjaya) phòng giữ con người, trụ tại nước Di Y La (Mithilā), thường xin lời chân thật của hàng Trời. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này ủng hộ tôi, nguyện thấy trăm mùa Xuân.

Nói Chú như vầy:

“Ba ly, cụ la kha trí, ma đăng kì, chiên đà lợi, phú lâu sa nị, chỉ chỉ lý ni, cồ lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đăng kì, ma lý ni, hỉ lợi hỉ lợi, a già để, già để, càn đà lợi, câu đá kha la, kha la y trí ha để, hỉ lợi hỉ lợi, châm, sa ha”

[Vale, valkale, mātaṅgi, caṇḍali, puruṣaṇi, vicilini, gauri gandhāri, caṇḍali, mātaṅgi, mālini, hili hili, agati gati, gandhāri, koṣṭikāvacali, vihāri, hili hili, kumme svāhā]

Dạ Xoa Câu Câu Tôn Đà (Krakucchanda) ở nước Phất Ba Đa Lợi (Pātari-putra)

Dạ Xoa A Nan Ba Thật Đa (Aparājita: Đời Lương nói là Bất Xưng. Theo người dịch là Vô Năng Thắng) ở nước Trụ Thâu Na (Sphurā)

Dược Xoa tên Thế La (Śola) ở nước Bạt Đà (Bhadrapura)

Dạ Xoa Na Bà (Maṇāva) ở nước Uất Đan Việt (Uttarā)

Dạ Xoa Bỉ Châu La Ba Ni (Vajra-pāṇi:Đời Lương nói là Kim Cương Thủ) ở núi Kỳ Xà Quật (Gṛdhrakūṭa)

Dạ Xoa Già Lâu Đà (Garuḍa) ở nước Tỳ Phú La (Vipūla)

Dạ Xoa Chất Đa La Quật Đa (Citra-gupta) ở nước Để Quý Để Mộc Kha (Citemukha)

Dạ Xoa Bạc Câu La (Vakula) có đại quân đại lực, Dạ Xoa Kha Đa (Kālakau), Dạ Xoa Ưu Ba Kha Đa (Upakālakau) đều ở nơi sanh của giòng họ Thích Ca (Śākya) trong nước Ca Tỳ La (Kapila)

Dạ Xoa Kha Ma Lý Ba Đà Ban Túc (Kalmāṣapāda) ở nước Tỳ La (Vairāyā)

Dạ Xoa Ma Hề Thủ La (Maheśvara) ở nước Tỳ La Đa (Virāta)

Dạ Xoa Ma Hề Thốc La (Mahā-śukla: Đời Lương nói là Thái Bạch) ở nướcChỉ La Đa (?Kirāta)

Dạ Xoa Tỳ Lý Hại Ba Để (Bṛhaspati) ở nước Xá Vệ (Śrāvastī)

Dạ Xoa Sa Già La (Sāgara) ở nước Sa Chỉ Đa (Sāketa)

Dạ Xoa Phát Xà La Dũ Tha (Vajra-yudha:Đời Lương nói là Kim Cương Trượng) ở nước Tỳ Đa La (Virāta?Vaisālī)

Dạ Xoa Ha Lê Già La (Haripiṅgala: Đời Lương nói là Sư Tử Thanh Sắc. Theo người dịch là Sư Tử Hoàng Sắc) ở nước Mạt La (Malla)

Dạ Xoa Ma Ha Cả La (Mahā-kāla) ở nước Bà La Na (Bārānaṣī)

Dạ Xoa Tu Đà Lý Xá Na (Sudarśaṇa: Đời Lương nói là Thiện Kiến) ở nước Chiêm Ba (Campā)

Dạ Xoa Tỳ Phục Trừu (Viṣṇu) ở nước Đọa La Cá (Dhvārakā)

Dạ Xoa Đà La Tần Trì (Dhāraṇī) ở nước Đọa La Ba Lợi (Dhvārapāli)

Dạ Xoa Tì Bì Lý Xá Na (Vibhīgaṇa: Đời Lương nói là Khả Úy) ở nước Đam La Bạt Ma Thục Đồng Sắc (Tāmraparṇṇī)

Dạ Xoa Mạt Đà Na Dạ (Marddana) ở nước Sa Da (?Uragā)

Dạ Xoa A Đa Bà (Āṭavaka) ở trong rừng

Dạ Xoa Ca Tỳ La (Kapila) ở nước Đa Cốc (Bahudhānyaka)

Xoa Bà Tu Đa La (Vasutrāta) ở nước Uất Xà Da Ni (Urjjayanī)

Xoa Bà Bộ Để (Vasubhuti) ở nước Bà Lan Để (Aravanti)

Dạ Xoa Cừu Lâu Cá (Bharuka) ở nước Bà Lâu Cát Xa (Bharukaccha)

Dạ Xoa Nan Đà (Nanda) ở nước A Nan Đà Phú La (Ānandapura? Nandapura)

Dạ Xoa Mạt Ly Tha La (Mālya-dhara: Đời Lương nói là Trì Hoa Man), Dạ Xoa Đà Cồ Lũ Đà () đều ở nước Thắng Thủy (Agrodaka)

Dạ Xoa A Nan Đà (Ānanda: Đời Lương nói là Bạch Nha. Theo người dịch là Hoan Hỷ, Khánh Hỷ), ở nước Ba La Bát Đa (Maraparvaṭa)

Dạ Xoa Thúc Kha La Đãng Tỉ Đa La (Śukra-daṃṣṭra) ở nước Tu Bạt Thăng Nan (Suvāstu: Đời Lương nói là Thiện Xứ). Dạ Xoa như vậy đi theo Đức Phật du hóa

Dạ Xoa Địa Lý Đà Na Nam (Dṛdha-nāma: Đời Lương nói là Kiên Danh. Theo người dịch là Kiên Cố Danh) ở nước Mạt Tử Để Kha (Manasvi)

Dạ Xoa Ma Ha Kì Lợi (Mahāgiri: Đời Lương nói là Đại Sơn) ở thành Kì Lợi  Na Già La Sơn (Girinagara)

Dạ Xoa Bà Ta Bà (Vāsava) ở nước Tỳ Trì Xá (Vaidiśa)

Dạ Xoa Kha Chỉ Để (Kārttikaya) ở nước Lỗ Hỉ Đa Cá (Rohitaka)

Dạ Xoa Câu Ma La Đồng Tử (Kumāra) ở đời có danh tiếng (Đời Lương nói là trăm cái vai), Dạ Xoa Sa Đa Bà Hống (Śatabāhu) đều ở nước Xiển Đà Cả La  (?Bhinda-kāra)

Dạ Xoa Tì Lê Hại La Tha (Bṛhadratha) ở nước Ca Lăng Già (Kaliṅga)

Dạ Xoa Đầu Lậu Dữu Đà Na (Duryodhana: Đời Lương nói là cỗ xe lớn chẳng thể cột trói. Theo bản dịch khác là Năng Chinh Chiến) ở nước Át Kì Nại (Śrughna)

Dạ Xoa Át Thọ Na (Arjuna) ở rừng Át Thọ La (Arjunāvana)

Dạ Xoa Mạt Đà Nại (Maṇḍapa) ở nước Mạn Đà Bà (Marddana)

Dạ Xoa Sơn Đảnh Giả Lợi Cẩu Đa (Girikuṭa) ở nước Ma La Bà (Mārava)

Dạ Xoa Tần Đà La (Bhadra) ở nước Lũ Hỉ Đa (Rohitaka)

Dạ Xoa Tát Bà Bạt Đà La (Sarvabhadra) ở nước Xa Kha La (Śālaka)

Dạ Xoa Ba Lợi Đa Kha (Pālitaka) ở nước Du Để La Kha (Sautīraka)

Dạ Xoa Tát Tha Bà Ha (Sārthavāha), Dược Xoa Đà Ni Bà La (Dhaneśvara) đều ở nước A Thị Đan Xà Da (Ajitaṃjaya)

Dạ Xoa Cẩu Đa Đãng Sa Đa La (Kūṭa-daṃṣṭra), Dạ Xoa Bà Tu Bạt Đà La

(Vasubhadra) đều ở nước Bà Bà Để (Vasanti)

Dạ Xoa Thỉ Bà (Śiva) ở nước Thỉ Bà Phú La Ha La (Śivapura)

Dạ Xoa Thỉ Bà Bạt Đà La (Śiva-bhadra) ở nước Thỉ Sa Na (Bhīṣaṇa)

Dạ Xoa Nhân Đà La (Indra) ở nước Nhân Đà La Bà Đà (Indrapura)

Dạ Xoa Phất Sa Ba Chi Đẩu (Puṣpa-ketu) ở nước Thi La Bất La (Silāpura)

Dạ Xoa Đà La Kha (Dāruka) ở nước Đà La Bất La (Dārukapura)

Dạ Xoa Kha Tỳ La (Kapila) ở nước Bạt Na (Valla)

Dạ Xoa Ma Ni Bạt Đà La (Maṇibhadra), Dạ Xoa Phần Ni Bạt Đà

(Pūrṇabhadra). Hai anh em này đều ở nước Bà La Ma Để Dã (Brahmavatī) Dạ Xoa Ba La Mạt Đà Na (Pramardana) ở nước Kiền Đà La (Gandhāra)

Dạ Xoa Ba La Bàn Xà Na (Prabhañjana) ở nước Trác Xoa Thi La (Takṣa-śilā)

Dạ Xoa Kha La Lưu Ma Dạ (Kharaposta) ở nước Xế Đà Thế La (Daśa-śaila)

Dạ Xoa Để Lý Quật Đa (Trigupta) ở nước A Nậu Na Để La (Hanumātīra)

Dạ Xoa Ba La Bằng Cả La (Prabhrkara) ở nước Lỗ Lâu Cá (Raurka)

Dạ Xoa Nan Đề Xích Bạt Tha Na (Nandivardana) ở nước Hưng Cữu Bạt Tha Na

Dạ Xoa Bà Bỉ La (Vāpīla) ở nước Bà Các Ha Bộ Nhĩ (Vāpibhūmi)

Xoa Cả La Ha Bỉ Lý Dã (Kalahapriya) ở nước Bà Cả (Lampāka)

Xoa Kiệt Thí Bà Cả (Gardabhaka) ở nước Ma Thâu La (Mathurā) Dạ Xoa Cả Du Đà La (Kalaśodara) ở nước Lãng Kha (Laṃka)

Dạ Xoa Tu Lý Da Ba La Bà (Sūrya-prabhā) ở nước Tu Na (Sūna)

Dạ Xoa Kỳ Lê Vẫn Đà (Girimuṇḍa) ở nước Thâu La Ha (Kośala)

Dạ Xoa Tỳ Xà Gia (Vijaya) với Tỳ Xà Duyên Đa (Vaijayanta) ở nước Bạn Đầu Ma Thâu La (Paṇḍamāthura)

Dạ Xoa Phần Na Kha (Pūrṇaka) ở núi Ma La Da (Malaya)

Dạ Xoa Khẩn Na La (Kinnara) ở nước Kê La Cả (Kerala)

Dạ Xoa Nhĩ Kha Ba Ni (Meghapāli) ở nước Bàn Đà (Pauṇḍa)

Dạ Xoa Khán Đà Cả (Kaṇḍaka) ở nước Ba Để Thí Na (Pratiṣṭhana)

Dạ Xoa Tăng Cả Lợi (Saṃkāri) ở nước Bỉ Đẳng Già La (Pitaṅgari)

Dạ Xoa Tốc Khả Bà Ha (Sukhāvaha) ở nước Đa Lang Già Để (Taraṅgavatī)

Dạ Xoa Tôn Đà La (Sundara) ở nước Na Tử Kha (Nāsikya)

Dạ Xoa A Tăng Già (Asaṅga), Dạ Xoa Ba Lâu Cát Đán (Bharukacchaka), Dạ Xoa Nan Đề Cả (Nandika), Dạ Xoa Bỉ Đa Nan Đề (Pitānandī), Dạ Xoa Tỳ La (vīra) đều ở nước Cả La Ha Đa Cá (Karahātaka)

Dạ Xoa Lam Phù Thí La (Lambodara) ở nước Già Lăng Già (Kaliṅga)

Dạ Xoa Ma Ha Bộ Xà Dạ (Mahābhuja) ở nước Câu Bà La (Kauśalī)

Dạ Xoa Tát Để Cá (Svastika) ở nước Tát Để Cá Tra (Svastikaṭaka)

Dạ Xoa Ba La Cá (Pāraka) ở nước Bà Na Bà Tử

Dạ Xoa Bạt Đà La Thiên Đà (Bhadra-karṇa) ở nước Đa Chí Bà Can Đà (Taḍiskandha)

Dạ Xoa Thí Na Ha La (Dhanāpaha) ở nước Bà Đà Phú La (? Ṣaḍa-purṇa)

Dạ Xoa Bà La (Bala) ở nước Tỳ La Ma Cá (Vairāmaka)

Dạ Xoa Bỉ Lý Da Đà Lý Xá Na (Priya-darśana) ở nước A Bàn Để (Avantī)

Dạ Xoa Thỉ Khán Địa (Śikhaṇḍī) ở nước Cồ Kiệt Đà Na (Gomardana)

Dạ Xoa A Xà Na Bỉ Lý Da (Añjalipriya) ở nước Tỳ Trĩ Xá (Vaidiśa)

Dạ Xoa Bãi Thỉ Thể Đa Cá (Veṣṭhitaka) ở nước Xế Đa La Già La  (Chatrākāla)

Dạ Xoa Ma Kha Lam Đà Ma (Makarandaka) ở nước Để Lý Bất La (Tripūri)

Dạ Xoa Tỉ Xa Dục (Viśālākṣa) ở nước Ỷ Cả Giác Xoa (Erakakṣa)

Dạ Xoa A Lam Bà (?Guḍaka) ở nước Già Lậu Đảm Bà La (?Udumbara)

Dạ Xoa Ma Ha Phả Già (?Anāgha) ở nước Cưu Bà Lợi (?Kauśāmbi)

Dạ Xoa Tỳ Lũ Già La (Virocana) ở nước Kha Ma Để (?Śāntivastī)

Dạ Xoa Già La Để Cả (Caritaka) ở nước A Hỉ Xế Đa La (Ahiccatra)

Dạ Xoa Bạc Cưu La (Vakkula), Dạ Xoa Mạn Đà Bà (Maṇḍavī), Dạ Xoa Phần

Na Kha (Pūrṇaka) đều ở nước Loại Thị Ha Na (Urjjihānā)

Dạ Xoa Nê Già Nhĩ Bà (Naigameśa) ở nước Bát Già Lợi (Paṃcālī)

Dạ Xoa Ba La Bà (Prasabha) ở nước Già Xà (Gajasā)

Dạ Xoa Đà Lý Đà Ha Đà (Dṛdha-dhanu) ở nước Ba Na (Varuṇā)

Dạ Xoa Bất Lam Xà Na (Puñjaya) ở nước Dao Tha (Yudha)

Hai Dạ Xoa Vương [? Thiếu Đát Lạc Ca (Taraka)], Câu Bà La Cá (Kutaraka) ở nước Cẩu Lộc Ỷ Đa La (Kurukṣetra)

Hai Dạ Xoa Nữ Ma Hô Lâu Khả (Maholūkhala), Nhĩ Khả La (Mekhala) có

Đại Danh Xưng, cũng ở chốn ấy (Kurukṣetra)

Dạ Xoa Bãi Để Ha Ni Nại (Vyatipāta), Dạ Xoa Tất Đạt Dạ (Siddhārtha) đều ở nước A Da Để Ba Da (Āyati)

Xoa Tất Đà Phất Đa La (Siddhapātra) ở nước Bà Lộc Kha Na (Śrughna)

Xoa Bà Thâu Na (Sthūla) ở nước Bà Thâu Na (Sthūla)

Hai Dạ Xoa Tăng Già Ba La [Đời Lương nói là Sư Tử Lực Hổ Lực.Theo người dịch là Siṃha-vyaghra-bala (Hổ Lực Sư Tử Lực) và Mahā-siṃha-bala (Đại Sư Tử Lực)] ở nước Câu Để Ba Lý Sa (Koṭivarṣa)

Dạ Xoa Ma Ha Tiên Na (Mahā-sena) ở nước A Ma La Bất Lam Xà Da (Parapurañjaya)

Dạ Xoa Phất Ba Đàn Đa (Puṣpa-danta) ở nước Chiêm Ba (Caṃpā)

Dạ Xoa Ma Già Đa (Māgada) ở Ngũ Sơn (?Giribhraja)

Dạ Xoa Cồ Du Cồ (Goyoga), Dạ Xoa Cụ Bà Đô (?Parvata), Dạ Xoa Tu Đồ Na

(Suṣana) ở nước Già La (Nāgara: Đời Lương nói là Na Kiệt) Dạ Xoa Tỳ La Bà Ha (Vīra-bāhu) ở nước Bà Chỉ Đa(Sāketa)

Dạ Xoa Tu Khả Bà Ha (Sukhāvaha) ở nước Cả Để (Kākandī)

Dạ Xoa A Na Phất A Na Da Bà Dạ () ở nước Cao Sam Tì (Kauśāmbi)

Dạ Xoa Bạt Đà Lợi Kha (Bhadrika) ở nước Bạt Đà Lợi Kha (Bhadrikā)

Dạ Xoa Bộ Đa Mộc Kha (Bhūta-mukha) ở nước Ba Đa Lợi Phất Đa La (Pāṭaliputra)

Dạ Xoa A Thâu Kha (Aśoka) ở nước Ỷ Cả Giả (Kāṃli)

Dạ Xoa Kha Diêm Kha Đa (Kaṭaṃkaṭa) ở nước Am Bà Đa (Ambaṣṭha)

Dạ Xoa Tất Thái (Siddhārtha) ở nước A La Kha (?Bharukaccha)

Dạ Xoa Nhĩ Lý Đầu Cá (?Mandaka) ở nước Thị Đan Xà Da (Ajitaṃjaya)

Dạ Xoa Vẫn Xà Chỉ Xá (Muñja-keśa) ở nước Ác Già Lũ Đà Giới (Agrodaka)

Dạ Xoa Ma Ni Kha Ma Na (Maṇi-kānana) ở nước Tiên Phả Bà (Saindhava)

Dạ Xoa Tì Cả Đa Cả Đa (Maṇi-kānana), Dược Xoa Kha Bỉ La (Kapila) đều ở nước Bạt Bà Thăng (Vastu)

Dạ Xoa Kiền Tha La Giới (Gāndhāra) ở nước Tì Dĩ Lý Để Giới (Naikṛtika)

Dạ Xoa Đọa La Giới (Dvāraka), Dạ Xoa Ni La Da (Nilaya), Dạ Xoa Phụ Lâu Bà (?Vairaṭaka), Dạ Xoa Vị Trà Ma (?Madhyema), Dạ Xoa Dĩ Da Tao (Khyata), Dạ

Xoa Bạt Đà La Trì (Bhadreya), Dạ Xoa Ma Ha Da Xá (Mahāyaśa) đều ở nước Đầu La Bất La (?Sālapura)

Dạ Xoa Diệm Bà Giới (Jambhaka) ở nước Ma Lâu Bộ Nhĩ (Marubhūmi)

Dạ Xoa Tì Cả Đa (Vikaṭa) ở nước Tần Đà Kha Đa (Vṛndakaṭa)

Dạ Xoa Đề Bà Sam Ma (Devaśarma) ở nước Tỳ Ma Ni Giới (Vaimānika)

Dạ Xoa Mạn Đà La (Mandara) ở nước Ưu Đà La Đà (Udarada)

Dạ Xoa Ba La Bằng Cả (Prabhaṃkara) ở nước Kiếp Tân (Kaṣmīra)

Dạ Xoa Chiêm Ba Kha (Candaka) ở nước Xà Đa Tu La (Jaṭāpūra)

Dạ Xoa Bát Chi Giới (Pāñcika) ở nước Kiếp Tân (Kaṣmīra) có 500 người con có đại quân đại lực. Vị đứng đầu hếtt tên là Bát Chỉ Giới (Pāñcika) ở đất Chỉ Na (Cīna-bhūmi) [Chỉ Na tức đất bậc trung bậc hạ]

Dạ Xoa Sa Can Dã (Skandākṣa: Đời Lương nói là Vô Biệt Đầu Tính Cao Thức.

Theo bản dịch khác là Kiên Mục) ở đất Tu Đa La

Uất Đa Ba Đà (Đời Lương nói là Lạc Đà Túc) ở nước Cưu Trần Đà

Dạ Xoa Mạn Đà La (Maṇḍala) ở nước Mạn Đà La Bà Na (Maṇḍalāsana)

Lãng Chỉ Bà La (Laṅkeśvara: Đời Lương nói là Kiên Tự Tại) ở nước Ca Tì Ni (Kāpiśī)

Ma Lý Chỉ (Mārīcī: Đời Lương nói là Quang Minh. Theo người dịch là Dương Diễm, Uy Quang, Tích Quang) ở nước La Ma Khởi La (Rāmakākṣī)

Thát Ma Ba Ma (Dharmapāla: Đời Lương nói là Thủ Pháp. Theo người dịch là

Hộ Pháp) ở nước Ca Xá (Khāsa)

Dạ Xoa Ma Ha Bộ Xã (Mahābhuja: Đời Lương nói là Đại Kiên. Theo người dịch là Đại Tý) ở nước Ca Xá (Khāsa)

Tỳ Sa Môn Vương Tử Đỗ Na Lý Đa Bà (Đời Lương nói là Hữu Cát) có một ức Dạ Xoa vây quanh, ở nước Khả La

Dạ Xoa Bà Đa Kì Lê (Sātāgiri), Dạ Xoa Hề Ma Bà Đa (Haimavata) đều ở nước Tân Đầu Bà Già Ly (Sindhu-sāgara)

Dạ Xoa Để Lý Thủ La Ba Ni (Triśulapāla) ở nước Để Lý Phu Na (Tripura)

Dạ Xoa Ba La Mạt Đà Na (Pramardana) ở nước Ca Lăng Già (Kaliṅga)

Dạ Xoa Bát Già La Chiên Đà (Pañcālagaṇḍa) ở nước Đà La Mĩ Đà (Dramida)

Dạ Xoa Đà Ly Xa La (Dhaneśvara: Đời Lương nói là Tài Vật Tự Tại) ở nước Sư Tử (Siṃhala)

Dạ Xoa Thúc Ca La Mộc Kha (Śukra-mukha: Đời Lương nói là Bạch Diện) ở trong rừng

Dạ Xoa Căng Ca La (Kiṅkara: Đời Lương nói là Hà Sở Tác) ở nước Ba Đa La (Pātala)

Dạ Xoa Ba La Phả Bà La (Prabhāsvara: Đời Lương nói là Tối Quang MinhTheo người dịch là Quang Âm) ở nước Đà Lợi (Puṇḍarīka: Đời Lương nói là Phân Đà Lợi)

Dạ Xoa Tô My La (Śamila) ở nước Già Ma La

Dạ Xoa Ba La Bạng Cả La (Prabhakara: Đời Lương nói là Tác Quang Minh) ở nước Ưu La Xá

Dạ Xoa Băng Già La (Piṅgala) ở nước A Ma Lợi Ma (Ambulima) Dạ Xoa Bạt Loa Xã (Vaccaḍa) ở rừng Bà Lô Đọa (Vaccaḍādhāna)

Dạ Xoa Ma Đa Lợi (Mātali) ở nước Ca Ba Đà (Kāmada)

Dạ Xoa Tẩu Ba La Phật Đà (Prabuddha: Đời Lương nói là Thiện Kiến. Theo bản khác là Cực Giác) ở nước Phất Để Lợi Ba Trí (Putrīvaṭa)

Dạ Xoa Na La Cưu Bà La (Nalakūvala) ở nước Kha Tì Thi (Kamiśi)

[? Thiếu Dạ Xoa Bát La Thiết La (Pāraśara)] ở nước Ba La Đa (Pārata)

Dạ Xoa Thương Kha La (Śaṃkara) ở nước Bà Hà Bà Tha Na (Śakasahāna)

Dạ Xoa Tỳ Ma Chất Đa La (Vimacitra) ở nước Ba La Bà (Vāhlīka)

Dạ Xoa Băng Già La (Piṅgala) ở nước Cả Đa Kha (Ketaka)

Dạ Xoa Giới Na Mộc Kha (Pūrṇa-mukha: Đời Lương nói là Mãn Diện) ở nước

Phần Na Bạt Tha Na (Puṇḍavarddhana)

Dạ Xoa Cả La Đa (Karāḍa) ở nước Ô Triền (Uḍuyānaka)

Dạ Xoa Mạn Đầu Đà La (Kumbhodana) ở nước Cao Bà La (Kośala)

Dạ Xoa Ma Kha La Đọa Xà (Makara-dhvaja) ở nước Ma Lâu (Maru)

Dạ Xoa Chất Đa La Tiên Na (Citrasena: Đời Lương nói là Chủng Chủng Quân) ở nước Bộc Kha Na (Vokkāṇa)

Dạ Xoa La Bà Na (Rāvaṇa: Đời Lương nói là Bích Sắc) ở nước La Ma Tha  (Ramatha)

Dạ Xoa Băng Gia La (Piṅgala) ở nước Bà La Tử Da (Rāsīna)

Dạ Xoa Ba Lý Da Trì Lý Xá Na (Priya-darśana: Đời Lương nói là Lạc Kiến) ở nước Tất Để Da (Patnīya)

Dạ Xoa Kim Tỳ La (Kumbhīra) có ức vạn Dạ Xoa vây quanh, ở thành Vương  (Rājagṛha)

Dạ Xoa Cồ Ba La (Gopāla), ở nước A Để Kha Bất La (Ahicchatra)

Dạ Xoa Nan Đề (Nandī: Đời Lương nói là Hoan Hỷ) ở nước Nan Đề (Nandinagara)

Dạ Xoa Bà Lợi Dạ (Prīya), ở nước Già Lam Cồ Sa (Saṃghārāma-ghoṣa)

Dạ Xoa Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa) có một ức quân Dạ Xoa vây quanh, ở nước Đề Bà Bà Đa La Na, thường ở tại thành A Đa Bàn Đa (Aḍakavatī). Các Thần Thông Quân Chủ Đại Lực Dạ Xoa này thường hay hàng phục Oán Địch, không ai có thể thắng được, có tiếng tăm lớn, thường cùng với chư Thiên chiến đấu với A Tu La. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này thường gia hộ, nguyện sống trăm tuổi.

Nói Chú như vầy:

“A kha trí, tì kha trí, ha la ni, ha la ni, tha la ni, tha la ni, húc sí húc sí, bộc sí bộc sí, ha na, ha na, ha na, ha na, ha na, ha na, ha na, ha na, ha na, ha na

Oan Gia của tôi (họ tên…) đà ha, đà ha, đà ha, đà ha, đà ha, đà ha, đà ha, đà ha, đà ha, đà ha

Chẳng nhiêu ích cho tôi: ba già, ba già, ba già, ba già, ba già, ba già, ba già, ba già, ba già, ba già

Cừu thù của tôi: đầu đầu đầu đầu đầu đầu đầu đầu đầu đầu Chẳng nhiêu ích cho tôi: ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha xà trí, xà trí, xà trí, xà trí, xà trí, xà trí, xà trí, xà trí, xà trí, xà trí

Nguyện trừ Oan Gia của tôi: trửu lậu, trửu lậu, trửu lậu, trửu lậu, trửu lậu, trửu lậu, trửu lậu, trửu lậu, trửu lậu, trửu lậu hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi di lợi, nhĩ lợi, nhĩ lợi, nhĩ lợi, nhĩ lợi, nhĩ lợi, nhĩ lợi, nhĩ lợi, nhĩ lợi, nhĩ lợi phẩu lậu, phẩu lậu, phẩu lậu, phẩu lậu, phẩu lậu, phẩu lậu, phẩu lậu, phẩu

lậu, phẩu lậu, phẩu lậu chỉ để, chỉ để, chỉ để, chỉ để, chỉ để, chỉ để, chỉ để, chỉ để, chỉ để, chỉ để

Thích sí, mật sí, chức sí, bạc sí, thỉ lý bạt đà ly, vong già ly, tam mạn đà bạt đà ly, tát bà la tha bà tha nị, kha ma ly, tỳ ma ly, chiên đà la ba la thí, tu lợi can trí, đàm tỳ, đồ đàm, ba la dưỡng kha

 

Nguyện hộ giúp tôi (họ tên…) với quyến thuộc của tôi. Nguyện sống trăm tuổi

 

KINH KHỔNG TƯỚC VƯƠNG CHÚ

_QUYỂN THƯỢNG (Hết)_

QUYỂN HẠ

_ Này A Nan! Ông nên chọn lấy tên gọi của 28 vị Dạ Xoa Đại Quân Chủ, thủ hộ mười phương quốc thổ.

A Nan! Phương Đông có bốn vị Dạ Xoa Đại Quân Chủ trụ ở phương Đông, thường thủ hộ phương Đông. Các vị ấy tên là:

Địa Ha (Dīrgha: Đời Lương nói là Trường. Bản khác nói là Đại TrườngTu Niết Đa La (Sunetra: Đời Lương nói là Thiện Căn. Bản khác nói là Diệu Mục)

Giới Na Kha (Pūrṇaka: Đời Lương nói là Mãn. Bản khác nói là Viên MãnCa Tì La (Kapila: Đời Lương nói là Hoàng Sắc)

Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, ủng hộ tôi (họ tên…). Nguyện sống trăm tuổi

A Nan! Phương Nam có bốn vị Dạ Xoa Đại Quân Chủ trụ ở phương Nam, thường thủ hộ phương Nam. Các vị ấy tên là: Tăng Già (Siṃha: Đời Lương nói là Sư TửƯu Ba Tăng Già (Upasiṃha: Đời Lương nói là Sư Tử Tử. Bản khác nói là Tiểu Sư Tử)

Thường Khởi La (Śañkhara: Đời Lương nói là Loa)

Chiên Đà Na (Candana: Đời Lương nói là Chiên Đàn)

Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường ủng hộ tôi. Nguyện sống trăm tuổi

A Nan! Phương Tây có bốn vị Dạ Xoa Đại Quân Chủ trụ ở phương Tây, thường thủ hộ phương Tây. Các vị ấy tên là:

Ha Lợi (Hari: Đời Lương nói là Sư TửHa Lợi Chỉ Xá (Upasiṃha: Đời Lương nói là Sư Tử Phát. Bản khác nói là Sư Tử Kế)

Ba La Phó (Prabhū: Đời Lương nói là Tự Tại)

Băng Già La (Piṅgala: Đời Lương nói là Thương Sắc tức màu cỏ xanh biếc. Bản khác nói là Thanh Sắc)

Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường ủng hộ tôi. Nguyện sống trăm tuổi

A Nan! Phương Bắc có bốn vị Dạ Xoa Đại Quân Chủ trụ ở phương Bắc, thường thủ hộ phương Bắc. Các vị ấy tên là:

Đà La Na (Dharaṇa: Đời Lương nói là Trì. Bản khác nói là Năng Trì)

Đà La Nan Đà (Dharananda: Đời Lương nói là Hoan Hỷ. Bản khác nói là Trì Hỷ)

Uất Dữu Già Ba La (Udyogapāla: Đời Lương nói là Cần Thủ. Bản khác nói là Cần Hộ)

Biệt Già Na (Viṣṇu: Đời Lương nói là Vi. Bản khác nói là Thiên Danh)

Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường ủng hộ tôi. Nguyện sống trăm tuổi

A Nan! Bốn góc có bốn vị Dạ Xoa Đại Quân Chủ trụ ở bốn góc, thường thủ hộ bốn góc. Các vị ấy tên là:

Bát Chỉ Kha (Pāñcika: Đời Lương nói là Ngũ. Bản khác nói là Hữu Ngũ)

Bát Già La Chiên Đàn (Pāñcālagaṇḍa: Đời Lương nói là Ngũ Khả Úy. Bản khác nói là Ngũ Xứ)

Bà Đa Kì Lê (Sātāgiri: Đời Lương nói là Thất Sơn Chủ. Bản khác nói là Bình Sơn)

Hề Già Bà Đa (Haimavata: Đời Lương nói là Tuyết Sơn Chủ. Bản khác nói là Tuyết Sơn)

Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường ủng hộ tôi. Nguyện sống trăm tuổi

A Nan! Bốn phương dưới có bốn vị Dạ Xoa Đại Quân Chủ trụ ở bốn phương dưới, thường thủ hộ bốn phương dưới. Các vị ấy tên là:

Bộ Ma (Bhūma: Đời Lương nói là Địa)

Tu Bộ Địa (Subhūma: Đời Lương nói là Thiện Địa. Bản khác nói là Diệu Địa)

Kha La (Kāla: Đời Lương nói là Hắc)

Ưu Ba Kha La (Upakāla: Đời Lương nói là Tiểu Hắc)

Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường ủng hộ tôi. Nguyện sống trăm tuổi

A Nan! Bốn phương trên có bốn vị Dạ Xoa Đại Quân Chủ trụ ở bốn phương trên, thường thủ hộ bốn phương trên. Các vị ấy tên là:

Tô Ma (Soma: Đời Lương nói là Nguyệt. Bản khác nói là Nguyệt Thần)

Tu Lợi (Sūrya: Đời Lương nói là Nhật. Bản khác nói là Nhật Thần)

Ác Kì Ni (Agni: Đời Lương nói là Hỏa. Bản khác nói là Hỏa Thần)

Bà Dũ (Vāyu: Đời Lương nói là Phong. Bản khác nói là Phong Thần)

Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường ủng hộ tôi. Nguyện sống trăm tuổi

_ Này A Nan nên chọn lấy tên gọi của Thiên Quân Chủ là các anh em của Tỳ Sa Vương (Vaiśravaṇa-rāja), thường thủ hộ chúng sanh, trừ bỏ tai hại tất cả não loạn của Thế Gian, vì nhiếp thọ Thế Gian mà đi vòng khắp Thế Gian. Các vị ấy tên là:

Nhân Đà La (Indra: Đời Lương nói là Đế Thích)

Tô Ma (Soma: Đời Lương nói là Nguyệt)

Bà Lâu Na (Varuṇa: Đời Lương nói là Long.Theo người dịch là Thủy Thiên )

La Xà Ba Để (Prajāpati: Đời Lương nói là Chủ Thế)

Pha La Đọa Xà (Bharadvāja: là Tính)

Y Xa Na (Īśaṇa: Đời Lương nói là Tự Tại)

Chiên Đà Na (Candana: Đời Lương nói là Chiên Đàn)

Kha Ma Thí Ly Sa Đa (Kāma-śreṣṭha: Đời Lương nói là Thắng Dục)

Dĩ Ni Diên Xoa (Kunikaṇṭha: Đời Lương nói là Linh Thanh, tiếng chuông)

Ni Diên Tha Kha (Nikaṇṭhaka: Đời Lương nói là Vô Oán)

Ba Lợi Ma Ni (Vadirm-maṇi: Đời Lương nói là Châu Lực, sức của viên ngọc)

Ma Ni Già La (Māṇicara: Đời Lương nói là Châu Hạnh)

Ba La Na Đà (Praṇāda: Đời Lương nói là Đại Thanh, tiếng lớn) Ưu Ba Bát Chỉ Cả (Upapañcika: Đời Lương nói là Tiểu Ngũ) Bà Đa Kì Lê (Sātāgiri: Đời Lương nói là Thất Sơn)

Hề Ma Bà Đa (Haimavata: Đời Lương nói là Tuyết Sơn Chủ)

Giới Na Kha (Pūrṇaka: Đời Lương nói là Mãn)

Kha Đà La Cổ Tì Đà (Khadira-kovida: Đời Lương nói là Thụ Danh, tên gọi của cái cây)

Cồ Ba La (Gopāla: Đời Lương nói là Thủ Địa. Theo người dịch là Hộ Ngưu)

A Đa Ba Kha (Āṭavaka: Đời Lương nói là Lâm, khu rừng. Theo người dịch là Khoáng Dã Thần)

Na La La Xà Xã Na Lý (Nārarāja-jinārgabha: Đời Lương nói là Chúng Ngưu Vương. Theo người dịch là Nhân Vương Thắng Chủ Tạng)

Bát Già La Chiên Đà (Pāñcālagaṇḍa: Đời Lương nói là Khả Úy)

Tu Mộc Kha (Sumukha: Đời Lương nói là Thiện Ý)

Chất Đa La Tiên Na Càn Thát Bà (Citrasena-gandharva: Đời Lương nói là Chủng Chủng Kỹ Nhạc)

Để Lê Phả Lý (Triphalī: Đời Lương nói là Tam Quả)

Để Lý Can Kha Đa (Catrikaṇṭhaka: Đời Lương nói là Tam Thứ)

Trì La Kha Thích Để Ma Đa Lợi (Dīrgha-śakti-mātali : Đời Lương nói là Điều Trường Sóc)

Đại Dạ Xoa này tổng lãnh các Quân, có sức Thần Thông, có quang minh, danh tiếng đều là anh em của Tì Sa Vương. Đức vua thường nhắc nhở dạy bảo các Dạ Xoa thường gây phiền não cho kẻ khác chẳng buông tha này. Anh em của Tì Sa Vương dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm năm. Nguyện thủ hộ khi tranh đấu đánh nhau. Nguyện thủ hộ khi bị Người, Trời thâu bắt Khi bị hàng Trời (Deva), Rồng (Nāga), A Tu La (Asura), Ma Lâu Đa

(Maruta), Già Lâu Đa (Garuḍa), Càn Thát Bà (Gandharva), Khẩn Na La (Kiṃnara),

Ma Hầu La Già (Mahoraga), Dạ Xoa (Yakṣa), La Sát Bà (Rākṣasa), Ba Ly Đa

(Preta), Tì Thiết Già (Piśāca), Bộ Đa (Bhūta), Cưu Bàn Trà (Kuṃbhaṇḍa), Phú Đa Na (Putana), Kha Đa Phú Đa Na (Kaṭaputana), Sa Vu Đà (Skanda), Oán Ma Đà (Unmāda), Xa Da (Chāya), A Cụ Bà Ma La (Apasmara), Uất Đa La (Ostakara), Nặc Khí Đa La (Nakṣatra), Ly Ba (Ripu) …thâu bắt. Nguyện thường ủng hộ.

Loài ăn hơi thở, loài ăn bào thai, loài ăn máu với màng mỡ ở ruột, loài ăn thịt. Loài ăn: Thọ Mạng, bụi cây, hương, hoa, tóc, mọi loại hoa quả với thứ thiêu đốt trong lửa. Nguyện xin thủ hộ.

Sự Nghiệp Kha Cô La Đà, Yểm Quỷ, Kị Nhân Quỷ, Hoán Nhân Quỷ, Khởi Phong Quỷ, Sứ Quỷ, Khởi Thi Quỷ, Dị Thanh Quỷ, Binh Quỷ, Ác Thực, Ác Thóa, Ác Ảnh, Ác Kiến, Ác Thư, Ác Độ. Từ sự kinh sợ này, giặc cướp, nước, lửa, quân cơ, chết không đúng thời, động đất, cọp, sói, oan gia…Nguyện đều tiêu trừ mọi sự đáng sợ như vậy.

Đau đầu, chẳng ăn được. Tai, mắt, lưỡi, miệng, răng nanh, răng, cổ, gò má, tim, ngực, cần cổ, hông sườn, bụng, lưng, bắp chân, bắp vế, bàn tay, bàn chân, thân thể, tất cả chi tiết…các chỗ đau nhức như vậy, nguyện đều tiêu trừ.

Hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, 15 ngày…ngày tháng Thiên Thời gây ra bệnh nóng lạnh với bệnh do Quỷ làm, bệnh do gió lạnh hòa hợp với Đàm Ẩm gây ra. Tất cả bệnh đau nhức với sự độc ác đáng sợ…. đấy là oán hờn của tôi, một thời nguyện đều tiêu diệt.

_ Này A Nan! Mười hai vị Đại Nữ Quỷ thường thủ hộ Bồ Tát khi vào bào thai, khi sanh ra, sau khi sanh ra. Thế nào là mười hai? Tên ấy như vầy: Lam Bà (Lambā), Tỳ Lam Bà (Vilambā), Bà La Lam Bà (Pralambā), Ưu Lam Bà (Olambā), Ha Lê Để (Hārīti), Ha Lê Chỉ Thỉ (Harikeśi), Ha Lê Băng Già La (Haripiṅgala), Kha Lê (Kāli), Kha La Lê (Karalī), Cam Bộc Kì Lê Bà (Kambugrīvā), Kha Dĩ (Kākī), Kha La Thu Đà Lợi (Kalaśodakī)

Mười hai vị Đại Nữ Quỷ này có ánh sáng, tiếng tăm, Thần Thông, có Đại Lực , thường cùng với Đề Bà (Deva: hàng Trời), A Tu La đánh nhau. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

_ Này A Nan! Lại có tám vị Đại Nữ Quỷ thường thủ hộ Bồ Tát khi vào bào thai, khi sanh ra, sau khi sanh ra. Thế nào là tám? Tên ấy như vầy: Ma Đà Ma Đà Na (Madā-madanā), Ma Thoát Kha Đa (Madotkaṭā), Ưu Ba Ma Đà (Upamadā), Ba Lê

Để (Pretī), Ưu Xà Ha Lê (Ojāhāri), Ưu Xà Ha Lê Ni (Ojāhārinī), A Xá Ni (Asanī), Già La Bà Ni (Girasanī)

Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

_ Này A Nan! Lại có bảy vị Đại Nữ Quỷ thường ăn máu thịt và tiếp chạm gây phiền não cho con người, thủ hộ Bồ Tát khi vào bào thai, khi sanh ra, sau khi sanh ra. Thế nào là bảy? Tên ấy như vầy: Ác Già Lô Trì Kha (Agroṭikā), Lạc Khởi Để Ca (Rakṣitika), Chất Đa La Tỳ Thiết Chỉ Kha (Citripiśācikā), Phần Na Bạt Trĩ Lý Kha (Pūrṇa-bhadrikā), Ác Kì Ni Lạc Khởi Đế Ca (Agni-rakṣitikā), Mật Đa La Kha (Mitra-kālikā), Lý Cá Lý Sử Khởi Để Ca (Ṛṣi-rakṣitikā)

Bảy vị Đại Nữ Quỷ này có ánh sáng, tiếng tăm, Thần Thông, thường cùng với Đề Bà (Deva: hàng Trời), A Tu La đánh nhau. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

_ Này A Nan! Lại có năm vị Đại Nữ Quỷ thường thủ hộ Bồ Tát khi vào bào thai, khi sanh ra, sau khi sanh ra. Thế nào là năm? Tên ấy như vầy: Quân Noa A (Kuṇṭhā), Để Quân Sỉ (Nikuṇṭhā), Nan Đà (Naṃdā), Tần Tế La (Viṣṇulā), Ca Tì (Kapilā)

Năm vị Đại Nữ Quỷ này có ánh sáng, tiếng tăm, Thần Thông. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

_ Này A Nan! Lại có tám vị Đại La Sát Nữ uống máu, ăn thịt, tiếp chạm gây phiền não cho con người, thường thủ hộ Bồ Tát khi vào bào thai, khi sanh ra, sau khi sanh ra. Thế nào là tám? Tên ấy như vầy: Mưu Ha (Mohā), A Thỉ Ma (Susīmā), Đẳng Cưu Thích Khí (Kuśākṣī), Chỉ Thỉ Ni (Keśanī), Cam Bồ Thị (Kambojī), A Mật Đa La (Sumītrā), Lỗ Hỉ Đa Đà (Lohitākṣī), Kha La La (Kātarā)

Quỷ này uống máu, ăn thịt, thường chọn lấy Đồng Nam Đồng Nữ với nhà có người mới sinh đẻ, luôn đi theo con người, hoặc vào nơi trống vắng, hoặc kên tên gọi của con người, luôn hút Tinh Khí của con người, không có Tâm Từ Bi, rất ư đáng sợ.

Tám vị Đại La Sát Nữ này có ánh sáng, Thần Thông. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

_ Này A Nan! Lại có mười vị Đại La Sát Nữ thường thủ hộ Bồ Tát khi vào bào thai, khi sanh ra, sau khi sanh ra. Thế nào là mười? Tên ấy như vầy: Ha Lê Để La Sát Nữ (Harītī-rākṣasī), Nan Đà La Sát Nữ (Nandā-rākṣasī), Sát Băng Già La La Sát Nữ (Piṅgalā-rākṣasī), Thường Khởi Ni La Sát Nữ (Saṃkhinī-rākṣasī), Kha Lý Cá La Sát Nữ (Kālikā-rākṣasī), Đề Bà Mật Đa La La Sát Nữ (Devamitrā-rākṣasī), Quân Đa La Sát Nữ (Kunta-rākṣasī ? Kuṃbhaṇḍā-rākṣasī), Quân Đa Đường Tỉ Đa La Sát Nữ (Kunta-daṃṣṭrā-rākṣasī: Đời Lương nói là Bạch Nha), Lam Tì Cá La Sát Nữ (Lambikā-rākṣasī), A Na La La Sát Nữ (Analā-rākṣasī).

Mười vị Đại La Sát Nữ này có ánh sáng, Thần Thông. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

_ Này A Nan! Lại có mười hai vị Đại La Sát Nữ. Thế nào là mười hai? Tên ấy như vầy: A Na Để Lý Cá La Sát Nữ (Anāsikā-rākṣasī), Tam Vật Đà La La Sát Nữ (Samudrā-rākṣasī), Lão Nại Lý La Sát Nữ (Raudrā-rākṣasī), Ba La Na Đà La Sát

Nữ (Prāṇahāriṇī-rākṣasī), Bật Đà Thí La La Sát Nữ (Vidyādharā-rākṣasī), Tha Thố Thí La La Sát Nữ (Dhanurdharā-rākṣasī), Xa La Đà La La Sát Nữ (Śaradharārākṣasī), Đà Tử Đà La La Sát Nữ (Aśidharā-rākṣasī), Chước Kha La Đà La La Sát Nữ (Cakradharā -rākṣasī), Chước Kha La Bà Đà La Sát Nữ (-Cakravāḍā-rākṣasī), Tì Bì Tỉ Na La Sát Nữ (Vibhīṣaṇā-rākṣasī:[Đan Bản ghi chú: thiếu một tên nữ nên dịch khác là Khả Úy La Sát Nữ). [Theo người dịch thì tên vị La Sát Nữ bị thiếu là Trì Lê La Sát Nữ (Haladharā-rākṣasī)]

Mười hai vị Đại La Sát Nữ này dùng Đại Khổng Tước Vương Chú, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

_ Này A Nan! Lại có mười hai vị Quỷ Mẫu thường tiêp chạm gây phiền não cho chúng sanh. Thế nào là mười hai? Tên ấy như vầy: Bà La Mĩ (Brāhmī), Lưu Trì Lợi (Raudrī), Cao Ma Lợi (Kaumārī), Tỳ Sa Na Tì (Vaiṣṇavī), Y Trì Lợi (Aindrī), Bà La Hỉ (Vārāhī), Cao Bà Lợi (Kauverī), Bà Lâu Ni (Vāruṇī), (Yamyā), Bà Diệp Bà Dạ (Vāyuvyā), Ni Kì Ni Dạ (Āgneyī), Ma Ha Kha Lợi (Māhā-kālī)

Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

– Này A Nan! Lại có một vị Đại Bỉ Sa Chỉ La Sát Phụ, trụ ở bên bờ biển, nghe mùi máu cách xa tám vạn dặm, một đêm đi vòng quanh, thường thủ hộ Bồ Tát khi vào bào thai, khi sanh ra, sau khi sanh ra. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

Tên vị ấy là: [?Nhất Kế (Ekajaṭā)]

“ Ha ly, kha ly, khâu ly, ma ly, nhĩ ly, mẫu ly, mạt trí, mạn trì để sí, hống lâu hống lâu hống lâu hống lâu, lậu lậu lậu lậu, nhĩ lợi nhĩ lợi nhĩ lợi, tát tử để tát tử để tát tử để. Hộ giúp tôi (họ tên…) với quyến thuộc, sa ha”

[Hare, khare, khure, male, mile, mule, matte, maṇḍintike, hulu hulu, hulu hulu, miḍi miḍi, miḍi miḍi, svasti, svasti, svasti, svasti. Hộ giúp tôi (họ tên…) với quyến thuộc svāhā]

_ Này A Nan! Ông nên chọn lấy tên gọi của Đại La Sát Nữ. Tên ấy như vầy:

1_ Ca Bỉ La (Kapilā)

2_ Ba Đầu La (Padumā)

3_ Ma Hi Sử (Mahiṣī)

4_ Mao Lợi Cá (Morikā)

5_ Đa Để Cá (Nāḍikā)

6_ Tọa La Na (Jvalanī)

7_ Tỳ Ma La (Vimalā)

8_ Đà La Ni (Dharaṇī)

9_ Ha Lý Chiên Đà La (Hariścandrā)

10_Lũ Hỉ Ni (Rohinī)

11_ Ma Lê Chỉ (Mārīcī)

12_Hống Đa Nê Ni (Hutāśanī)

13_Bà Lâu Ni (Vāruṇī)

14_Kha Lợi (Kalī)

15_ Kha Lôn Chí (Kuñjā)

16_ Bà La (Valā)

17_Già La Bà Ni (Grasanī)

18_Kha La Lợi (Karālī)

19_Ma Đăng Kì (Mataṅgī)

20_Băng Già La (Piṅgalā)

21_Bàn Thâu La (Vidurā)

22_Cồ Lợi (Gaurī)

23_Kiền Tha Lợi (Gandhārī)

24_ Cưu Mạn Địa (Kumbhaṇḍī)

25_Kha Lang Kí (Kāraṅgī)

26_Ba La Ni (Rāvaṇī)

27_Ma Đà Ni (Madanī)

28_A Xa Ni (Aśanī)

29_Yết Bà Ha Lê Ni (Garbhāhāriṇī)

30_Lâu Trì La Ha Lê Ni (Rudhirāhāraṇī)

31_Đàn Lâu La (Danturā)

32_Uất Đa La Bà Ni (Uttrāsanī)

33_Ha Bà Lý Kha ()

34_Bà La Mĩ (Brāhmī)

35_ Đa Đa Kha Ba Lợi (Taḍāgapālinī)

36_Bạt Xà La Đà La (Vajradharā)

37_ Bà Can Đà (Skandā)

38_Đa Mĩ La (Tapanī)

39_Bà Lợi Sa Ni (Varṣaṇī)

40_Yết Xà Ni (Garjjanī)

41_Bà Phủ Đa Ni (Sphoṭanī)

42_Bật Đệ Dữu Đa Ni (Vidyotanī)

43_Thưởng Già Ma (Jaṅgamā)

44_Uất La Kha Mẫu Khởi (Ulkāmukhī)

45_ Bà Tuyên La Tha (Vasudharā)

46_Cả La Lại Để Lý (Kālarātrī)

47_Dã Ma Đầu Để (Yamadūtī)

48_A Bà La (Amalā)

49_Xa Bà La (Acalā)

50_ Uất Nọa Ha Xà Đa (Urddhajaṭa)

51_Xả Đa Bà Hống (Śatabāhu)

52_Xả Đa Niết Đa La (śatanetrā)

53_Già Đa Ni (Ghātanī)

54_Mạt Đà Ni (Mardanī)

55_Mạt Xà Lợi (Mārjārī)

56_Tì Lạc Khởi

57_Ni Xả Già Lê (Niśacarā)

58_Địa Bà Sa Già Lợi (Divaśacarā)

59_Mạn Địa Để Cả (Maṇḍitikā)

60_Cả La Tha Na (Krodhanā)

61_Tì Hề Tha Ni (Viheṭhanī)

62_A Tử Mẫu Bà La Tha La (Aśimuṣaladharā)

63_Để Lý Thủ La Ba Ni (Triśūlapāṇī)

64_Đa Ma (Somā)

65_La (?Vanta)

66_Cả La Đàn Để (Karāla-dantī)

67_Ma Nộ La Ma (Manoramā)

68_Đàn Đà (Caṇḍā)

69_Hi Trầm Ba (Hitimbā)

70_Ni La (Nīlā)

71_Chất Đa La (Citrā)

Bảy mươi mốt vị Đại La Sát Nữ này có tiếng ăm, ánh sáng, sắc đẹp, Thần Thông, thường cùng với Đại Lực Đề Bà, A Tu La chiến đấu. Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này, thường thủ hộ tôi, nguyện sống trăm tuổi.

Tên ấy như vầy:

“Hi lợi hi lợi, nhĩ lợi, đát đa đa bạt trí, bác sí bác sí, hô ly hô ly, đà la đà la, ha la ha la, già la già la, trửu lâu trửu lâu, sa ha

Na mạc tát bà phật đà na, sa ha

Bích Chi Phật Đà Nam, sa ha

A La Hán Đa Nam, sa ha

Mễ tỉ át tử dã (tức Di Lặc vậy) bồ đà tát-phạ, sa ha

Tát bà bộ địa tát đỏa nam, sa ha

A na kiềm mĩ nam, sa ha

Bà dĩ lê đa kiềm nhĩ nam, sa ha

Du lô đa bán na nam, sa ha

Tam miệu già đa nam, sa ha

Tam miệu ba la để bán na nam, sa ha

Bà la ma da, sa ha

Ba la xà ba đa dịch, sa ha

Y sa na da, sa ha

Ác gia na dịch, sa ha

Ba dã tì, sa ha

Bà lũ na da, sa ha

Dã ma da, sa ha

Ưu biên đà la da, sa ha

Tỳ sa la bà da, dược xoa địa ba đa dịch, sa ha

Đà lý đa lại đa la da, càn thát bà địa ba đa dịch, sa ha

Tì lâu tha kha da, cưu bàn trà địa ba đa dịch, sa ha

Tì lũ bác xoa gia, na già địa ba đa dịch, sa ha

Đề bà nam, sa ha

Na già nam, sa ha

A tu la nam, sa ha

Ma lâu đa nam, sa ha

Già lâu đa nam, sa ha

Càn thát bà nam, sa ha

Khẩn na la nam, sa ha

Ma hầu la già nam, sa ha

Dược xoa nam, sa ha

Lạc xoa na nam, sa ha

Bỉ ly đa nam, sa ha

Bỉ xá tra nam, sa ha

Bộ đa nam, sa ha

Cưu bàn trà nam, sa ha

Phú đa na nam, sa ha

Kha đa phú đa na nam, sa ha

Sa can đà nam, sa ha

Uần ma đà nam, sa ha

Xa Da nam, sa ha

A bối bà ma la nam, sa ha

Uất đa la kha na nam, sa ha

Chiên đà la, tu lý dụ nam, sa ha

Nặc sát đa la nam, sa ha

Già la ha na nam, sa ha

Thọ để sa nam, sa ha

Tì sa nam, sa ha

Lý sử nam, sa ha

Tất tha nam, sa ha

Tất tha bà la đa nam, sa ha

Tất tha bật đà da nam, sa ha

Cồ lý dịch, sa ha

Càn tha lý dịch, sa ha

Thưởng cầu lê dịch, sa ha

A nhĩ lý đa da, sa ha Già bỉ để dịch, sa ha

Đà la nhĩ địa dịch, sa ha

Xa bà lý dịch, sa ha

A xà bà na da, sa ha

Chiên đà lý dịch, sa ha

Ma đương kì dịch, sa ha

Na già hỉ lý đà da dã, sa ha

Già lâu đà hỉ lý đà da dã, sa ha

Ma nại tuy ni dịch, sa ha

Ma ha ma nại tuy ni dịch, sa ha

Xà đà xoa lê dịch, sa ha

Ma ni bạt đà la da, sa ha

Sa mạn đa la bạt đà la da, sa ha

Ma ha sa ma đà da, sa ha

Ma ha ba la để sa la na da, sa ha

Thỉ đa bà na da, sa ha

Ma ha thỉ đa bà na da, sa ha

Đàn đà đà la ni dịch, sa ha

Ma ha đàn đà đà la ni dịch, sa ha

Mẫu chỉ ly na la da, sa ha

Ma ha mẫu chỉ ly na la da, sa ha

Xà diên để dịch, sa ha

Tiềm để dịch, sa ha

A xá cả lý đa da, sa ha

Ma ha dụ lợi bật đà da la xà, sa ha”

 

Dùng Đại Minh Đại Chú Đại Hành Đại Hộ này khiến cho tôi (hẹ tên…) diệt sự nghiệp ác. Trừ Yểm Quỷ, Khởi Thi Quỷ, Tác Thanh Quỷ, Binh Quỷ, Vô Đầu Quỷ, Điên Giản Quỷ, Bố Nhân Quỷ, Tiêu Độc Hấp Khí, Ác Thực, Ác Thóa, Ác Ảnh, Ác Kiến, Ác Thư, Ác Độ, Tịch Huyện Quan

Trừ nóng lạnh: một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, nửa tháng, một tháng. Hoặc việc do Thiên Thời gây ra, Quỷ gây ra, gió lạnh, Đàm Ẩm, tất cả hòa hợp chợt nóng chợt lạnh.

Trừ đau đầu, chẳng ăn được. Mắt, lưỡi, gò má, răng, cổ, hàm răng, cần cổ, tai, tim, hông sườn, lưng, bụng, đầu gối..bị cảm gió. Tay, chân, thân thể, chi tiết bị đau buốt

Trừ các Chấp Lục, tất cả bệnh độc

Nguyện ngày đêm an ổn. Nguyện Phật rũ thương ban cho

“Na mỗ tử đẩu phật đà da

Na mỗ tử đẩu bồ đà da

Na mô tử đẩu san đa da

Na mỗ tử đẩu san đa dã

Na mỗ tì mộc đa da

Na mỗ tì mộc đa dã

Na mỗ tử đẩu mộc đa da

Na mỗ tử đẩu mộc đa dã

 

Bà la ma na, bà hỉ đa, ba bán đạt ma đê anh na ma, na ma cơ lật đỏa, sa tử để sa tử để

Nguyện hộ giúp tôi (họ tên… ) khi vào bào thai”

_ Này A Nan! Ông nên chọn lấy tên gọi của các vị Long Vương (Nāga-rāja). Tên ấy như vầy:

Phật Thế Tôn Long Vương (Buddho-bhagavān-nāgarāja: vị Rồng chọn lấy Phật Thế Tôn làm tên gọi. Bên dưới phần lớn như vậy) Phạm Long Vương (Brahmā), Đế Thích Long Vương (Indra), Hải Long Vương (Samudra), Hải Tử Long Vương (Samudra-putra), Sa Già La Long Vương (Sāgara), Kình Long Vương (Makara), Nan Đà Long Vương (Nanda), Ưu Ba Nan Đà Long Vương (Upananda), Na La Long

Vương (Nala), Ưu Ba Na Già Long Vương (Upa-nala), Thiện Kiến Long Vương (Sudarśana), Bà Tu Dĩ Long Vương (Vāsuki), Đắc Giải Tỉ Long Vương (Takṣa), A

Lâu Na Long Vương (Aruṇa), Bà Lâu Na Long Vương (Varuṇa), Lục Thể Long Vương (?Siṃha), Hữu Cát Long Vương (Śrīmā), Cát Dương Mao Long Vương (Śrīkaṇṭha), Cát Tăng Trưởng Long Vương (Śrīvarddhana), Cát Hiền Long Vương (Śrībhadra), Đại Lực Long Vương (Mahā-bala), Ban Lan Sắc Long Vương (Śalabha), Thiện Kiên Long Vương (Sabāhu), Tu Di Sơn Long Vương (Sumeru), Nhật Quang Long Vương (Sūrya-prabha), Nguyệt Quang Long Vương (Candra-prabha), Long Vương (Nṛtye), Thanh Long Vương (Gargaja), Điện Long Vương (Vidyotana), Phá Long Vương (Sphoṭana), Giáng Vũ Long Vương (Varṣana), Vô Cấu Long Vương (Vimala), A Lực Kha Long Vương (Alaka), A Thỉ Sa Long Vương (Aśīrṣa), Bà Lý Long Vương (Valaka), Kha Thỉ Sa Long Vương (Khaśīrṣa), Mã Đầu Long Vương (Aśva-śirṣa), Ngưu Đầu Long Vương (Gavaya-śirṣa), Lộc Đầu Long Vương (Mṛgaśīrṣa), Tượng Đầu Long Vương (Hasti-śīrṣa), Bán Bạch Lộ Long Vương (), Nhân Thanh Long Vương (Nāraśabda), Chủng Chủng Long Vương (Citra), Chủng Chủng Quân Long Vương (Citra-sena), Chủng Chủng Nhãn Long Vương (Citrākṣa), Na Mẫu Chỉ Long Vương (Namuci), Mẫu Chỉ Long Vương (Muci), Mẫu Chỉ Lân Đà Long Vương (Mucilinda), Thanh Long Vương (Śabda), Đế Thích Long Vương (Indra), Sơn Long Vương (Girika), Đại Sơn Long Vương (Mahā-girika), La Bộ La Long Vương (Lamburu), Trùng Long Vương (Krimi), Vô Biên Long Vương (Ananta), Kim Long Vương (Suvarṇa), Cát Đán Long Vương (Kataka), Thanh Sắc Long Vương (Nīla), Hoàng Sắc Long Vương (Pīta), Ỷ La Bối Đa La Long Vương (Elapatra), Loa Long Vương (Śaṃkha), Vô Bán Long Vương (Aparāla), Hắc Long Vương (Kāla), Tiểu Hắc Long Vương (Upakāla), Thiên Lực Long Vương (Baladeva), Tỳ Nậu Long Vương (Viṣṇu), Mao Bị Long Vương (), Khả Úy Long Vương (Vibhīṣaṇā), La Sát Long Vương (Rākṣasa), Sơn Kiên Long Vương (Śaula-bāhu), Hằng Long Vương (Gaṅga), Tân Đầu Long Vương (Sindhu), Bạc Khâu Long Vương (Vakṣu), Tử Đa Long Vương (Śīlā), Ích Cát Long Vương (Maṃgalya), A Nậu Đạt Đa Long Vương (Anavatapta), Thiện Tích Long Vương (Supratiṣtha), Ê La Long Vương (Airāvaṇa), Trì Địa Long Vương (Dharaṇīndhar), Trì Sơn Long Vương (Nimindhara), Trì Quang Minh Long Vương (Yutiṃdhara), Hiền Long Vương (Bhadra), Thiện Hiền Long Vương (Subhadra), Bảo Hiền Long Vương (Vasubhadra), Lực Hiền Long Vương (Bala-bhadra), Châu Long Vương (Maṇi), Châu Đảnh Long Vương (Maṇi-kaṇṭha), Vũ Hắc Long Vương (Kālaka), Vũ Hoàng Long Vương (Pītaka), Vũ Xích Long Vương (Lohitaka), Vũ Bạch Long Vương (Śvetaka), Mạn Hoa Long Vương (Māli), Xích Mạn Long Vương (Rakta-māli), Độc Tử Long Vương (Vatsā), Hiền Y Long Vương (Bhadrapada), Cổ Long Vương (Duṇḍubhi), Cổ Thanh Long Vương (Duṇḍubhisvara), A Lạc Chử Long Vương (Āmratīrthaka), Hí Nhi Long Vương (Maṇisuta), Tì Đầu Lại Tra Long Vương (Dhṛtarāṣṭra), Tỳ Đầu Lược Long

Vương (Virūḍhaka), Tỳ Lâu Bác Xoa Long Vương (Virūpakṣa), Tỳ Sa Môn Long Vương (Vaiśravaṇa), Xa Diện Long Vương (Śakaṭa-mukha), Khả Úy Long Vương (?Cāmpeyaka), Cồ Đàm Long Vương (Gautāma), Ngũ Long Vương (Pañcāla), Ngũ Kế Khởi Long Vương (Pañca-cuḍa), Tích Long Vương (Vindu), Tiểu Tích Long Vương (Upavindu), A Tu Cả Long Vương (Alika), Kha La cả Long Vương (Kalika), Bà Lý Cá Long Vương (Valika), Ma Ni Đắc Kha La Long Vương (), Kim Chỉ Ni Long Vương (Kincanī), Kim Giả Na Kha Long Vương (Kincaḍaka), Xỉ Bàng Cá Long Vương (Kiccaka), Hắc Cồ Đàm Long Vương (Kṛṣṇa-gautama), Phi Nhân Long Vương (Amanuṣa), Nhân Long Vương (Manuṣa), Căn Nhân Long Vương (Mūlamanuṣa), Thượng Nhân Long Vương (Uttara-manuṣa), Ma Đẳng Già La Long Vương (Mataṅga), Bát Tha Cả Long Vương (Aḍaka), Thượng Long Vương (Uttama), Lam Phù La Long Vương (Lampūra), Thắng Long Vương (Jaya), Hương

Long Vương (Gandha), Hương Sắc Long Vương (Gandha-rūpa), A La Bà Đà Long Vương (Aravāla), Ma La Bà Đà Long Vương (Maravāla), Hữu Ý Long Vương (Manasvi), Đại Hữu Ý Long Vương (Mahā-manasvi), Cát Trĩ Đa Cả Long Vương (Karkoṭaka), Hoan Hỷ Long Vương (Pramudita), Ca Bỉ La Thế La Bà Long Vương (Kapīla- Śaivalaka), Uất Ba La Long Vương (Utpalaka), Na Kha Kha Long Vương (Nakkhaka), Bạt Tha Ma Na Long Vương (Varddhana), Mộc Xoa Cá Long Vương (Mokṣaka), Bột Địa Cả Long Vương (Buddhika), Mộc Xoa Bột Địa Long Vương (Mokṣa-buddhi), Ba La Mộc Xoa Na Long Vương (Pramokṣa), hai vị Long Vương Cam Bà La Tỏa Đa Lao (Kambara-aśvatara), hai vị Long Vương Ỷ Đà Nhĩ Đào (Ela

Mela), hai vị Long Vương Nan Thổ Ba Nan Đà (Nandopananda), Ái thỉ Đa Long Vương (akṣila), Ma Ha Tu Đà Lý Sa Na Long Vương (Mahā-sudarśana), Ba Đà La Kha Long Vương (), Sư Tử Long Vương (Siṃhala), A Đà Lý Sa Na Mộc Kha Long Vương (Adarśana-mukha), Ba Lý Giá Đa Long Vương (), Tu Mộc Kha Long Vương (Sumukha), Đà La Ni Đà Long Vương (Dramiḍa), Vũ Hắc Long Vương (Kṛṣṇaka), Vũ Bạch Long Vương (Śuklaka), Thanh Bạch Long Vương (Nīla-śukla), Vũ Tiểu Bạch Long Vương (Upaśuklaka),

Các vị Long Vương này với các Long Vương ở trên đất này, hoặc khi phát ra tiếng, hoặc khi phóng ánh sáng, hoặc khi tuôn mưa, hoặc khi lúa chín. Các vị ấy thường thấy Phật, thọ Tam Quy Ngũ Giới, giải thoát được sự sợ hãi Kim Sí Điểu, giải thoát sự sợ hãi vì cát nóng, giải thoát sự sợ hãi vua chúa. Thường giữ gìn nơi đất, trụ cung điện báu to lớn, thọ mạng dài lâu, có sức Đại Thần Thông, phú quý tự tại cùng các quyến thuộc thường trừ oán tặc, danh tiếng vang xa, cùng với hàng Trời A Tu La chiến đấu. Các vị Long Vương ấy với con cháu, anh em, đại thần, quân chủ, tôi tớ, quần chúng dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện thường ủng hộ khiến cho tôi an ổn.

Hoặc ăn thức ăn dư thừa, chẳng ăn thức ăn dư thừa. Hoặc say, chẳng say. Đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, tỉnh, di, lại. Hoặc từ nơi vua chúa, giặc loạn lạc, phóng túng, đói khổ, chết chẳng đúng thời, động đất, sư tử, cọp, sói…Tất cả sự đáng sợ, đều được an ổn.

Từ hàng Trời, Rồng, A Tu La, Ma Hầu Đa, Già Lâu Đa, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Dược Xoa, Lạc Xoa, Ba Ly Đa, Bỉ Sa Giả, Bộ Đa, Cưu Bàn Trà, Phú Đa Na, Kha Đa Phú Đa Na, Sa Can Đà, Uẩn Ma Đà, Xa Da, A Bối Ma La, Uất Sa Đa La, La Cả …Tất cả sự nghiệp đáng sợ, đều được an ổn.

Kha Nhược La Đà Dĩ La Na, Khởi Tử Quỷ, Tác Thanh Quỷ, Sứ Quỷ, Ác Thực, Ác Thóa, Ác Ảnh, Ác Kiến, Ác Thư, Ác Độ, Chấp Lục…đáng sợ, đều được an ổn.

Các bệnh thuộc nhóm ệnh hắc lào, ghẻ lở, mụn độc, cùi hủi, bứu cổ, khối u…thảy đều trừ khỏi, ngày đêm an ổn.

Nguyện xin tất cả chư Phật thường ban bố cho con được an ổn.

“Na mỗ tử đẩu phật đà da

Na mỗ tử đẩu bồ đà da

Na mô sa đẩu tiềm đa da

Na mỗ sa đẩu tiềm đa dã

Na mỗ tì mộc đa da

Na mỗ tì mộc đa dã

Na mô tử đẩu mộc đa da

Na mô tử mẫu mộc đa dã

 

Bà la ma na, bà hỉ đa, ba bán đạt ma đê sam na ma, na ma cơ túc đỏa

Nguyện thủ hộ (họ tên… ) với quyến thuộc của tôi”

_ Này A Nan! Đại Khổng Tước Minh Vương này là điều mà Đức Tỳ Bà Thi Phật Chánh Biến Tri Giác (Vipa’syìn) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“A la trí, kha la trí, ma đề, ma đà bạt la đề, a bà ly, sa bà ly, đẩu ly đẩu ly, thủ ly thủ ly, bộ ly bộ ly, sa bà ly, ba la na la, hống chỉ hống chỉ hống chỉ hống chỉ hống chỉ, mẫu chỉ mẫu chỉ mẫu chỉ, sa ha”

A Nan! Đại Khổng Tước Minh Vương này là điều mà Đức Thi Khí Phật Chánh Biến Tri Giác (Śikhìn) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“Nhất trí, mật trí, khẩu đề, tì đề, hỉ lợi, nhĩ lợi, chỉ đẩu mẫu ly, am bà ly, am bà la ba để, đàm tỳ, độ đàm tỳ, hỉ lợi hỉ lợi hỉ lợi, cẩu chỉ cẩu chỉ, mẫu chỉ mẫu chỉ, sa ha”

A Nan! Đại Khổng Tước Minh Vương này là điều mà Đức Tỳ Thủ Phủ Phật Chánh Biến Tri Giác (Vi’svabhū) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“Vũ lợi, vũ lợi sí, ma địa, mạn địa ni chỉ, ha ly ha ly, già ly kha ly, phả ly phả lý thi đàn để, đàn để, đàn để ly, xa kha để, ma kha để, na trí, na để ni, thỉ lợi thỉ lợi thỉ lợi thỉ lợi, sa ha”

A Nan! Đại Khổng Tước Minh Vương này là điều mà Đức Câu Lưu Tôn Phật Chánh Biến Tri Giác (Krakucchanda) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“Hỉ để, bà để, cưu để, mẫu để, đẩu để, tu trí, đàn đế, đàn đới đàn để ly, xa nhĩ lý, già ma lợi, tha già lợi, già già lợi can già ni, can già na bà để, bà ly bà ly bà ly bà ly bà ly, đàn đế tất tha, sa ha”

A Nan! Đại Khổng Tước Minh Vương này là điều mà Đức Kha Na Cung Phật Chánh Biến Tri Giác (Kanakamunïi) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“Đàn đa ly, đa ba ly, đa la ly, đa la đô đa ly, đa ly đa ly, tì ly tì xà dịch, bật thọ bà ly, tỳ la đề tỳ la đề, tỳ la xà tỳ la xà ma tử, ma để, ma lợi, ma lý ni, vẫn đề kì ly vẫn đề, tọa ly tọa ly tọa ly tọa ly tọa ly, bạt đà la ba để, tất địa, sa ha”

A Nan! Đại Khổng Tước Minh Vương này là điều mà Đức Ca Diếp Phật Chánh Biến Tri Giác (Kaøśyapa) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“An đà ly, can đà ly, mạn đà ly, khán đà ly, diệm phù diệm phù na địa, diệm phù bà để, mạt đế mạt đế ni sí, a ma ly tăng hí, ha la ha la ha la ha la, ba thủ ba thủ ba thủ ba thủ ba thủ, ba để tất địa, sa ha”

A Nan! Đại Khổng Tước Minh Vương này là điều mà nay Ta, Thích Ca Mâu Ni Phật Chánh Biến Tri Giác (Śākya-muṇi) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“Hỉ lợi, nhĩ lợi, dĩ lợi nhĩ lợi, y lý ly, đa la vũ ly, a na hỉ, đạp phó đà đạp phó, ỷ tha kha cả bà đề, na la cẩu đa, dĩ để lợi, bồ địa lý sí, cam bộ ưu đà lý ni, bà ta bà, lãng kì đa la đầu nghĩa, bà la nê, phù hu la ni, ba la dĩ lý trí, đạt sát trí, nhĩ lợi đa lợi, y trí ha tư, a bà lệ, ma cơ lệ, bạt trí, bạt đa, bạt trí bà la, đam tì bà lâu sa đẩu đê bộ, sa đắc kha la đẩu, tam mạn để na, da tha, tu khái thí xa tu, địa xa tu, đa vô đà cám, bà bà đẩu.

Nam mô phả bà đế, y lợi, để di, cồ đỗ hỉ kha dịch, thi lăng già lợi kha di, a lâu chỉ, na lâu chỉ, na trí na trí, bạt thị la na, bạt thị la, ưu đà na, tì lăng dịch, a la đa dịch, bà la đa dịch, na la na la, bát xa da ni, ba lê xa ni dịch, sa ha, tử đàn đẩu, mạn đa la ba đà, đà la ni đà da tha. Như ngươi cắn Tỳ Kheo Sa Để thường an ổn”.

Như ngươi cắn Tỳ Kheo Sa Để thường an ổn].

Như vậy, Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện an ổn hộ giúp, tất cả chúng sanh nguyện được an ổn.

_ Này A Nan! Đại Khổng Tước Vương Chú này là điều mà Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“Thi lợi thi lợi, thi lợi bạt đà, thọ đế, thọ đế bạt đà ly, ha lệ ha, ha lê ni, đàn để xa ba ly, thi nhĩ, thủ ba la ni, bồ đề bồ đề bồ đề bồ đề tát đỏa, bồ đề ba lợi già lê ni dịch”

Nguyện Đế Thích che chở cho cái đầu của tôi. Kim Cương Thủ với Ca Diếp, nguyện Đại Lực che chở cho cái đầu của tôi. Tỳ Sa Vương che chở cho cái bụng của tôi. Bác Xoa Vương che chở cho trái tim của tôi. Khiến cho tôi làm tất cả điều thiện lành.

“Kha la, tỳ xá già, địa hỉ ba đế, lặc xoa, lặc xoa phạm, bồ bà bộ để, sa ha”

_ Này A Nan! Đại Khổng Tước Vương Chú này là điều mà Phạm Nhất Thiên Thế Giới Chủ (Sāhaṃpati) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

Hỉ lợi hỉ lợi, ha lợi ha lợi, nhĩ lợi nhĩ lợi nhĩ lợi nhĩ lợi nhĩ lợi, ma lê ni bằng câu lợi, cơ lợi cơ lợi cơ lợi cơ lợi cơ lợi, ma lợi cơ lý để, bà la ma di, xoa la sí, tì đỗ ha, tì đỗ ha phó tỉ, phó lậu phó lậu phó lậu phó lậu, sa ha”

Yểm Sát Độc Hại. Phật lực, Duyên Giác lực, A La Hán lực, A Na Hàm lực, Tu Đà Hoàn lực Thật Ngữ, Phạm trượng (cây gậy), Đế Thích Kim Cương (chày Kim Cương), Tỳ Nữu thiết luân (bánh xe sắt), Hỏa Thiêu Long thằng (sợi dây), A Tu La Huyễn Long Điện, Ma Ê Thủ xoa (cây kích xoa), Sa Can Đà tích (thiếc, cây gậy tầm xích), Đại Khổng Tước Vương Chú…..Các độc giết hại, nguyện đều vào lòng đất, khiến cho chúng tôi (họ tên…) đều được an ổn

Chuyển dời tất cả nhóm Rồng độc, vật độc (Cổ), điều mà con người đã làm. Chất độc do răng cắn, điện, mưa, rắn, chuột, ung thư, loài sâu phun dãi độc, con rết, con ễnh ương, ruồi nhặng, muỗi, ong, bò cạp, Hiệt Liễm Phụ Cá Để Lý La, người, Phi Nhân, thuốc lạ…Nguyện đưa các chất độc đều vào trong lòng đất.

_ Này A Nan! Đại Khổng Tước Vương Chú này là điều mà Đế Thích Thiên Vương (Indra) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“Địa la, thiền đâu lệ, tác ti trí, thiền đâu lệ, ma ha ni, kha đa ni, già la sa ni, hỉ lợi, thỉ lợi, đà do để, thi lợi, đa lâu na tăng hỉ, ha ha ha ha ha ha, tăng hề, si để, tì si để, câu lậu câu lậu, ma la thứ, đâu đà đâu đà tử, bà đà bà đà tử, tử lợi tử lợi, ca bỉ lệ, ca tỳ la mẫu lệ, ha hỉ hống, tát bà đầu sử đa, bà la đầu sử đa nam, diệm bà nam, ca dậu nhĩ, sa ha đa lý đà thế, hỉ đề, tỳ hỉ, uất đặng kì lợi, tu la ba để, bạt để, bạt xà la bạt xà la bạt xà la bạt xà la bạt xà la ba đa dịch, sa ha”

_ Này A Nan! Đại Khổng Tước Vương Chú này là điều mà bốn vị Thiên Vương (catvāsraḥ mahā-rājikāḥ) đã nói, đã tùy hỷ. Chú ấy như vầy:

“Tọa la tọa la nại, đa ba đa ba nại, đà ma đà ma nại, bà la bà la nại, dĩ để dĩ để, bỉ trí bỉ trí, bà la bà la, ha la ha la, đa la để lý, đà đà đà đà đà, bà bà bà bà bà, ha la ha la ha la ha la ha la, tất địa hỉ tất địa hỉ tất địa hỉ tất địa hỉ tất địa hỉ, tát tử để tát tử để tát tử để tát tử để tát tử để

Tôi (họ tên…) từ sự trị phạt của tất cả Tróc Nhân Quỷ Binh, Ám Minh Dạ Tử, Trì Thằng Sở Phược Quỷ Tử trở xuống… đều dễ có trị phạt. Sự trị phạt của Phạm trượng, Đế Thích trượng, Tiên Nhân trượng, Thiên trượng, Long trượng, A Tu La trượng, Khẩn Na La trượng,Ma Hầu La Già, Dược Xoa, La Sát, Tỉ lễ Đa (Đời Lương nói là Ngạ Quỷ), Tỳ Xá Trà (Đời Lương nói là Nguyện Quỷ), Bộ Đa, Cưu Bàn Trà, Phú Đan Na, Kha Đa Phú Đan Na, Sa Can Đa, Oán Ma Tha, Xa Da, A Bát Sa Ma La, Uất Đa La Kha, Tỳ Đa La, La Xà (Rāja:vua chúa), nước, lửa, giặc cướp…Từ tất cả sự trách phạt, nguyện tôi với quyến thuộc thảy đều an ổn.

_Này A Nan! Ông nên chọn lấy tên gọi của các vị Hà Vương (Nadī-rājañī:Vua sông). Tên ấy như vầy: Tân Đầu Hà Vương (Sindhū-nadī-rājñī), Hằng Hà Vương (Gaṅgā-nadī-rājñī), Bạc Khâu Hà Vương (Vasū-nadī-rājñī), Tử Đa Hà Vương (Śīlā nadī-rājñī), Sa La Bộ Hà Vương (Sarabhū-nadī-rājñī), A Thị La Bà Để Hà Vương (Ajiravatī-nadī-rājñī), Diêm Mẫu Na Hà Vương (Yamunā-nadī-rājñī), Cẩu Ha Hà Vương (Kuhā-nadī-rājñī), Tì Đa Sa Đa Hà Vương (Vitastā-nadī-rājñī), Sa Đa Đà Lao Hà Vương (Śatadrū-nadī-rājñī), Tì Ba Sa Hà Vương (Vipāśā-nadī-rājñī), Y La Bà Để Hà Vương (Airavatī -nadī-rājñī), Chiên Đà Ba La Bà Hà Vương (Candrabhāg-nadī-rājñī), Sa Lại Bà Để Hà Vương (Sarasvatī -nadī-rājñī), Cát Xa Bỉ Hà Vương (Kacchapī -nadī-rājñī), Ba Lậu Sa Nậu Hà Vương (Payoṣṇī-nadī-rājñī), Kha Tì Lê Hà Vương (Kāverī -nadī-rājñī), Đa Ma La Bát Ni Hà Vương (Tāmraparṇī -nadī-rājñī), Ma Thâu Ma Để Hà Vương (Madhumatī-nadī-rājñī), Biệt Đa La Bà Để Hà Vương (Mitrāvatī-nadī-rājñī), Ức Khẩu Ma Để Hà Vương (Ikṣumatī-nadī-rājñī), Nại Ma Đà Hà Vương (Narmadā-nadī-rājñī), Tu Mật Đa La Hà Vương (Saumitrā-nadī-rājñī), Bật Sa Mật Đa La Hà Vương (Viśvamitrā-nadīrājñī), Đa Ma La Hà Vương (Tāmarā-nadī-rājñī), Bát Già La Hà Vương (Pañcālānadī-rājñī), Tu Bà Tử Đẩu Hà Vương (Suvastū-nadī-rājñī), Ba La Bạt Đặc Lợi Kha Hà Vương (Prabhadrikā-nadī-rājñī), Đa Bô Đà Hà Vương (Tapodā-nadī-rājñī), Tỳ Ma La Hà Vương (Vimalā-nadī-rājñī)

Các vị Hà Vương này với các dòng chảy khác, cho đến tất cả con sông trên mặt đất. Chư Thiên, Rồng, A Tu La, Ma Lâu Đa, Già Lâu Đà, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Dược Xoa, La Sát Sa, Tất Ly Đa, Bỉ Sa Già, Bộ Đa, Cưu Bàn Trà, Phú Đan Na, Kha Đa Phú Đan Na, Sa Can Đà, Oán Ma Đà, Xà Da, A Bát Sa Ma La, Uất Đa La Kha, loài hút tinh khí con người, ăn thịt, ăn bào thai, uống máu tủy. Ăn dầu mỡ, sinh khí, bụi cây, thọ mạng cho đến vòng hoa, hương, hoa, quả trái, mầm giống, thức ăn thiêu đốt trong lửa, thứ thối nát, phân, nước tiểu, nước bọt, nước mũi, nước dãi, thứ nhạt nhẽo dư thừa, thứ nôn mửa, thứ chẳng sạch. Mọi loại xấu ác của các Đạm Thực Quỷ, nguyện thủ hộ tôi, khiến sống trăm tuổi.

_Này A Nan! Ông nên chọn lấy tên gọi của các vị Sơn Vương (Parvatarāja:Vua núi). Tên ấy như vầy: Tu Di Sơn Vương (Sumeru-parvata-rāja), Tuyết Sơn Vương (Himavān-parvata-rāja), Càn Thát Ma Đà Na Sơn Vương (Gandhamādanaparvata-rāja), Bách Đảnh Sơn Vương (Śataṣṛṅga -parvata-rāja), Kha Đặc La Kha Sơn Vương (Khadiraka-parvata-rāja), Kim Sí Sơn Vương (Svarṇapārśva-parvatarāja), Trì Quang Minh Sơn Vương (Dyutin-dhara-parvata-rāja), Ni Mân Đà La Sơn Vương (Nimin-dhara-parvata-rāja), Chước Cả La Bà Đà Sơn Vương (Cakra-vāḍaparvata-rāja), Ma Ha Chước Cả La Bà Đà Sơn Vương (Mahā-cakra-vāḍa-parvatarāja), Bà La Ma Sơn Vương (Brahmā-parvata-rāja), Sao Phạm Ma Sơn Vương (Brahmālaya-parvata-rāja), Hữu Cát Sơn Vương (Śrīmanta-parvata-rāja), Thiện Kiến Sơn Vương (Sudarśana-parvata-rāja), Thiện Sí Sơn Vương (), Đại Sơn Vương (Vipula-parvata-rāja), Bảo Xứ Sơn Vương (Ratnākara-parvata-rāja), Dĩ Lý Mỹ Sa Sơn Vương (Krimila-parvata-rāja), Châu Cảnh Sơn Vương (Maṇikūṭa-parvata-rāja), Đế Thích Sơn Vương (Indraśaila-parvata-rāja), Bãi Ma Chất Đa La Sơn Vương (Vemacitra-parvata-rāja), Kim Cương Xứ Sơn Vương (Vajrākara-parvata-rāja), Khúc Tùy A Tu La Sơn Vương (Asuraprāgbhāra-parvata-rāja), Ha Nậu Ma Chất Đa La Sơn Vương (), Điện Quang Sơn Vương (Vidyunprabha-parvata-rāja), Sa Đà Na Sơn Vương (), Nguyệt Quang Sơn Vương (Candrakānta-parvata-rāja), Nhật Quang Sơn Vương (Sūryakānta-parvata-rāja), Tì Đầu Sơn Vương (), Tần Tha Da Sơn Vương (Viṃdhya-parvata-rāja), Hiền Thạch Sơn Vương (Bhadraśaila-parvatarāja), Chủng Chủng Đảnh Sơn Vương (Citrakūṭa-parvata-rāja), Ma La Da Sơn Vương (Malaya-parvata-rāja), Mã Nhĩ Sơn Vương (Aśvancha-parvata-rāja), Ba Lý Trị Đa La Sơn Vương (Parijāta-parvata-rāja), Thiện Kiên Sơn Vương (Subāhuparvata-rāja), Châu Mê Sơn Vương (Maṇimanta-parvata-rāja), Tu Tiên Na Sơn Vương (Suṣena-parvata-rāja), Phạm Uế Sơn Vương (Brahmatuṇḍa-parvata-rāja), Bì Lâu Cát Xa Sơn Vương (), Cồ Ha Na Sơn Vương (Gokarṇa-parvata-rāja), Ma La Chất Đa La Sơn Vương (Mālyacitra-parvata-rāja), Khát Già Sơn Vương (Khaṅgaparvata-rāja), Sa Đa Bà Na Sơn Vương (Tāpana-parvata-rāja), Vẫn Xà Sơn Vương (Añjena-parvata-rāja), Lâu Lâu Bà Tu Sơn Vương (Rurubha-parvata-rāja), Đạt Đà La Sơn Vương (Dardana-parvata-rāja), Kê La Bà Sơn Vương (Kailāsa-parvata-rāja), Ma Ê Đẩu Sơn Vương (Mahendra-parvata-rāja)

Các vị vua ấy trụ ở trên mặt đất. Nơi ấy: nhóm của của chư Thiên, Rồng, A Tu La, Ma Lâu Đa, Già Lâu Đà, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Dược Xoa, La Sát Sa, Bỉ Ly Đa, Bỉ Sa Già, Bộ Đa, Cưu Bàn Trà, Phú Đan Na, Kha Đa Phú Đan Na, Sa Can Đà, Oán Ma Đà, Xà Da, A Bát Sa Ma La, Uất Đa La Kha, Tất tha, bật đà tha la…với các quyến thuộc thường trụ ở chốn ấy.

Các vị ấy lại dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện thủ hộ tôi khiến sống trăm tuổi, trừ tất cả ác, nhận tất cả Thiện. Chư Phật hộ niệm ngày đêm an ổn, Sa Ha.

_Này A Nan! Ông nên chọn lấy tên gọi của các vị Tinh Thần (các vì sao) thường đi trên hư không. Tên ấy như vầy:

Cơ Lật Để Kha (Kṛttikā), Lỗ Hỉ Ni (Rohiṇī), Ma Lê Già Thi La (Mṛgaśirā), A Đà La (Ārdra), Bất Nại Na Bà Tu (Punarvasu), Phất Sa (Puṣya), A Sa Ly Sa (Āśleṣā). Bảy vì sao này thường ở cửa Đông, thủ hộ phương Đông, cũng dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện thủ hộ tôi, khiến sống trăm tuổi.

Ha Khả (Maghā), Vũ Phả (Pūrva-phalgunī), cầu Ni (Uttara-phalgunī), Ha Sa Đa (Hastā), Chất Đa La (Citrā), Bà Để (Svātī), Tì Thích Kha (Viśākhā). Bảy vì sao này thường ở cửa Nam, thủ hộ phương Nam, cũng dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện thủ hộ tôi, khiến sống trăm tuổi.

A Nậu La Tha (Anurādhā), Sách Sa Tha (Jyeṣṭhā), Mưu Lam (Mūla), Phất Bà Sa Tha (Pūrvāṣādhā), Uất Đa La Sa Tha (Uttarāṣādhā), A Tỳ Chỉ (Abhijit), Sa La Ba Na (Śravaṇā). Bảy vì sao này thường ở cửa Tây, thủ hộ phương Tây, cũng dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện thủ hộ tôi, khiến sống trăm tuổi.

A Trà Tha (Dhaniṣṭhā), Xả Đa Tì Sa (Śatabhiṣā), Phất Bà Bạt Đà La (Pūrvabhādrapadā), Uất Đa La Bạt Đà La (Uttara-bhādrapadā), Ly Bà Để (Revatī), A Ly Ni (Aśvinī), Bà La Ni (Bharaṇī). Bảy vì sao này thường ở cửa Bắc, thủ hộ phương Bắc, cũng dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện thủ hộ tôi, khiến sống trăm tuổi.

Hai mươi tám vì sao này, mỗi một phương có bảy vị. Bảy vì sao như vậy với mặt trời, mặt trăng ẩn hiện, tăng giảm, thường đi ở Thế Gian có đại quang minh, Thần Thông. Ta đã chí Tâm nguyện cũng tùy hỷ Đại Khổng Tước Vương Chú này.

Nguyện thủ hộ tôi, khiến sống trăm tuổi.

_Này A Nan! Ông nên chọn lấy tên gọi của các vị Tiên Nhân (Ṛṣī) thành tựu các Hạnh, Quang Minh Khổ Hạnh, thường trụ ở sông nhỏ, sông lớn, rừng, núi. Ngôn ngữ, Thuật Nghệ, đánh phạt, có Thần Thông, phi hành tự tại. Nay Ta sẽ nói tên các vị ấy như vầy: Ái Sa Đa Cả Ma Ha Lý Sử Đại Tiên Nhân (Aṣṭamaka-mahāṛṣī), Bà Ma Cá Đại Tiên Nhân (Vāmaka-mahāṛṣī), Bà Ma Đề Bà Đại Tiên Nhân (Vāmadevamahāṛṣī), Bà Lý Đại Tiên Nhân (Mārici-mahāṛṣī), Mạt Can Đà Da Đại Tiên Nhân (Mārkaṇḍeya-mahāṛṣī), Bật Sa Mật Đa La Đại Tiên Nhân (Viśvāmitra-mahāṛṣī), Bà Tất Tha Đại Tiên Nhân (Vasiṣṭha-mahāṛṣī), Ca Diếp Ba Đại Tiên Nhân (Kāśyapamahāṛṣī), Tỳ Lật Tha Ca Diếp Ba Đại Tiên Nhân (Vṛddha-kāśyapa-mahāṛṣī), Tì Lê Cữu Đại Tiên Nhân (Bhṛgu-mahāṛṣī), Ương Kỳ La Bà Đại Tiên Nhân (Aṅgirasamahāṛṣī), Ương Kỳ La Đại Tiên Nhân (Aṅgira-mahāṛṣī), Ương Kỳ La Sa Đại Tiên Nhân (Bhṛṅgirasa-mahāṛṣī), Bà La Kỳ La Tha Đại Tiên Nhân (Bhagirathamahāṛṣī), A Để Ly Đại Tiên Nhân (Ātreya-mahāṛṣī), Phú Lại Sa Tha Đại Tiên Nhân (Pulastya-mahāṛṣī), Tử Thâu La Thi La Đại Tiên Nhân (Mṛga-śirṣai-mahāṛṣī), Xà Ma Độ Già Ni Đại Tiên Nhân (Yamāgni-mahāṛṣī), Đề Huề Ba Da Na Đại Tiên Nhân (Vaisaṃpāya-mahāṛṣī), Dĩ Lật Sa Na Đề Ba Da Na Đại Tiên Nhân (Kṛṣṇavaisaṃpāya-mahāṛṣī), Ha Lý Để Đại Tiên Nhân (Hārīta-mahāṛṣī), Ha Lý Đa Da Na Đại Tiên Nhân (Hārītāya-mahāṛṣī), Sa Măng Kỳ La Đại Tiên Nhân (Samaṅgiramahāṛṣī), Sạn Để Bà Trì Đại Tiên Nhân (Kṣāntivādi-mahāṛṣī), Dĩ La Để Đại Tiên Nhân (Kīrtti-mahāṛṣī), A Dĩ La Để Đại Tiên Nhân (Sukīrtti-mahāṛṣī), Cầu Lâu Đại

Tiên Nhân (Guru-mahāṛṣī), Bổ Kha Đa Đại Tiên Nhân (Potalaka-mahāṛṣī), Kha Bổ Đa Kha Đại Tiên Nhân (), Ái Đa La Da Na Đại Tiên Nhân (Aśvalāya-mahāṛṣī), Hi Ma Bàn Đại Tiên Nhân (Himavān-mahāṛṣī), Lỗ Hỉ Trước Chỉ Đại Tiên Nhân (Lohitākṣa-mahāṛṣī), Đoạt Bà Sa Đại Tiên Nhân (Durvāsa-mahāṛṣī), Tỳ Sam Ba Da Na Đại Tiên Nhân (), Bàn Mễ Kha Đại Tiên Nhân (), Đà Na Đại Tiên Nhân (Dānamahāṛṣī), La Bộ Đại Tiên Nhân (), Đẩu Cô Lô Đà Na Đại Tiên Nhân (), Tì Lê Hại Sa Ba Để Đại Tiên Nhân (Vṛhaspati-mahāṛṣī), A La Niên Ni Đại Tiên Nhân (Aranemīni-mahāṛṣī), Sa Ni Già La Đại Tiên Nhân (Śanaiśvara-mahāṛṣī), Bộ Tha Đại Tiên Nhân (Budha-mahāṛṣī), Thượng Cầu Lê Đại Tiên Nhân (Jaṅguli-mahāṛṣī), Hàn Na Lý Đại Tiên Nhân (Gandhāra-mahāṛṣī), Ỷ Giới Ni Lăng Già Đại Tiên Nhân (Ekaśṛṅga-mahāṛṣī), Mi Lê Già Thi Lăng Già Đại Tiên Nhân (Ṛṣyaśṛṅga-mahāṛṣī), Kiệt La Già Đại Tiên Nhân (Garga-mahāṛṣī), Đán Đà Da Na Đại Tiên Nhân (), Vu Bà Da Na Đại Tiên Nhân (), Tỳ Ma Ma Đăng Già Đại Tiên Nhân (Mataṅgamahāṛṣī), Kiếp Tì La Đại Tiên Nhân (Kapila-mahāṛṣī), Cồ Đàm Đại Tiên Nhân (Gotama-mahāṛṣī), Lỗ Hỉ Đa Sa Đại Tiên Nhân (), Tu Niết Đa La Đại Tiên Nhân (Sunetra-mahāṛṣī), Bà Đà Cật La Đại Tiên Nhân (Citrākṣa -mahāṛṣī), Na La Đà Đại Tiên Nhân (Nārāyaṇa-mahāṛṣī), Cụ Bà Đa Đại Tiên Nhân (Parvata-mahāṛṣī), A Dĩ Lý Mễ Lỗ Đại Tiên Nhân (Krimilā-mahāṛṣī)

A Nan! Tiên Nhân trước kia tạo làm bốn a Vi Đà, thường nói Chú Thuật, hay khiến cho con người thành tựu Thiện Ác, Khổ Hạnh. Cũng dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện thủ hộ tôi, khiến sống trăm tuổi.

Tên ấy như vầy:

“Ha lê ha lê ha lê, khi lê, ni lê, tu lê tu lợi, hỉ lợi hỉ lợi, my lợi my lợi, đạp phó đà đạp phó, già la bà ni, ma tha ni, đà ha ni, kha đa ni, ba già ni, ba đa ni, ha na ni, đà ni, đà la ni, già la già la ni, ba đa ni, mưu ha ni, sa đam bà ni, diệm bà ni, sa ha”

_ Này A Nan! Ông nên chọn lấy tên gọi của Đại Độc. Tên ấy như vầy: An Đà La (Aṇḍarā), Bát Đà La (Paṇḍarā), Kha La La (Karalā), Chỉ Do La (Keyūra), Bộ

Đăng Già Ma (Bhūtaṅgamā), Bộ Đa Ba Để (Bhūtapati), Tần Đầu Ba Để

(Viṃdupati), Tử Lý Ba Để (Śiripati), Để Xà Ba Để (Tejapati), Để Xà Già La Ba Để

(Tejograpati), Da Xa Ba Để (Yaśopati), Da Xa Già La Ba Để (Yaśograpati), A La La (Araḍā) Đa La La (Taraḍā), Đa La Đoạt Đa La Đàn Đa (Tarataraḍadanta), Đà Ha (jahā), Thị La (jelā), Thị Lam (melā) Pha La (Phalā) Cầu (Guhā), Lưu Chi La (Rudhirā), Đàn Đâu La (dantulā), Y Lợi Dĩ Già Cơ Lê Dĩ (Irikicikākiri), Già Xa Đa (Kacikā), Đẩu La (Śatanturā), Tì Câu Lợi (Vipuli), Na Câu Lợi (Nakuli), Y Lợi Dĩ Lực Khởi (Irikicikā), Đa Lãng Già Lật Sa Tha (Taraṅgātiṣṭha), A La Ma Để (Āmramati), Diệm Phù Ma Để (Jambumati), Ma Mâu Ma Để (Madhumati), A Thâu Ma Tha Để (), Kha Ma Ly (Kamale), Tỳ Ma Ly (Vimale), Quân Đà Ly (Kuṇḍale), A Để Na Để (Aḍinaḍi), Bạc chỉ (Vakke), Bạc Cà Đầu Để (Vakkadūṭṭe), Bạt Sa Na Bí (Vastanābhe), Ma Ha Già Ly (Mahāgale), Đẩu Lâm Bì (Tulambe)

A Nan! Tên gọi của Đại Độc này, cũng dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nguyện thủ hộ tôi, khiến sống trăm tuổi.

_ Này A Nan! Đại Khổng Tước Vương Chú này đã được bảy Đức Chánh Biến Tri (Samyaksaṃbuddha) nói như vậy. Tỳ Bối Thi Chánh Biến Tri (Vipa’syìn- samyaksaṃbuddha), Thi Khí Phật (Śikhìn-buddha), Tất Sa Bộ (Vi’svabhū), Kha La Câu Tán (Krakucchanda), Kha Na Kha Lao Ni Phật (Kanakamunïi-buddha), [Thiếu Ca Diếp Phật (Kaøśyapa-buddha)]. Nay Ta Thích Ca Mâu Ni Chánh Biến Tri (Śākya-muṇi-samyaksaṃbuddha đã nói. Nhóm Đế Thích, bốn vị Thiên Vương, 28 vị Càn Thát Bà Quân Chủ, 28 vị Cưu Bàn Trà Quân Chủ, 28 vị Long Quân Chủ, 28 vị Dạ Xoa Quân Chủ, Bát Chỉ Kha Đại Dược Xoa Quân Chủ, Ha Lê Để Lạc Xoa Nữ với 500 người con…đã tùy hỷ.

A Nan! Đại Khổng Tước Vương Chú này. Hàng Trời, Rồng, A Tu La, Ma Lâu Đa, Già Lâu Đà, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Dược Xoa, La Sát Sa, Bỉ Ly Đa, Tì Thiết Già, Bộ Đa, Cưu Bàn Trà, Phú Đan Na, Kha Đa Phú Đan Na, Sa Can Đà, Oán Ma Đà, Xà Da, A Bối Ma La, Uất Đa Na…Tất cả chỗ đã bó buộc, chẳng thể được vượt qua.

Hoặc loài hút tinh khí con người, cho đến nhóm ăn thứ nôn mửa, ăn thứ chẳng sạch…chẳng thể vượt qua được sự việc. Với Khởi Tử Quỷ, Tác Thanh Quỷ, Binh Quỷ, Ác Thực, Ác Thóa, Ác Ảnh, Ác Kiến, Ác Thư, Ác Độ…Bệnh của nhóm một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, nửa tháng, một tháng, một thời, một năm thường luôn nóng lạnh, hơi nóng hơi lạnh, Quỷ Thần gây nóng lạnh, gió lạnh, đàm ẩm, hòa hợp nóng lạnh, ghẻ lở, cùi hủi, ung nhọt, rôm sảy, nổi cục, bứu cổ… Nhóm Cổ Độc gây sự sợ hãi, tai hại, não loạn, ôn dịch với tất cả bệnh khổ…có thể độ thoát.

_ Này A Nan! Dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này. Nếu người hay dùng tên gọi ấy để tự thủ hộ thì tất cả bệnh khổ chẳng thể đến gần xâm phạm được. Nếu người đáng bị cột trói thì chỉ bị phạt mà được giải thoát. Nếu đáng bị roi sắt đánh thì chỉ dùng cây gậy mà được giải thoát. Nếu đáng bị gậy đánh thì chỉ bị đánh hờ trên cao mà được giải thoát. Nếu đáng bị đánh hờ trên cao thì chỉ bị giận dữ mắng chửi mà được giải thoát. Nếu đáng bị giận dữ mắng chửi thì chỉ bị la rầy răn dạy mà được giải thoát. Nếu đáng bị la rầy răn dạy thì tự nhiên được giải thoát.

Không bị vua chúa gây sự sợ hãi, không bị giặc cướp gây sự sợ hãi, không bị nước lửa gây sự sợ hãi, chẳng bị chết vì nước cuốn chìm, chất độc chẳng hại được thân, khí trượng chẳng thể gây thương tích, thức giấc thường an ổn, ban đêm thấy mộng tốt lành, không có các khổ loạn, oan gia, bạn ác…tất cả đều được giải thoát, lại không có sự sợ hãi, trừ nghiệp mới bắt đầu báo ứng (sơ báo nghiệp)

_A Nan! Đại Khổng Tước Vương Chú này. Hoặc lúc mưa nhiều, hoặc lúc khô hạn thì cần nên đọc tụng. Các vị Rồng kinh sợ, hoặc tuôn mưa hoặc quang tạnh. Hoặc hạn hán liền tuôn mưa. Thiện Nam Tử tùy ý cầu nguyện.

A Nan! Nhớ Đại Khổng Tước Vương Chú này thì hay diệt tất cả sự sợ hãi, huống chi là hay thọ trì đọc tụng. Nếu làm trăm gút, cũng hay trừ diệt tất cả sự sợ hãi.

A Nan! Ông nên thọ trì Đại Khổng Tước Vương Chú này để thủ hộ cho bốn Chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di lìa tất cả sự sợ hãi.

Chú ấy như vầy:

“Da bà đàn để, da bàn để, tha để, tha lạc dĩ, đẩu lâu đẩu lâu nhĩ, sa ha”

[Yāvati, dhānati, varaki, kuru turu me svāhā]

_ Tham Dục (Rāga), Sân (Dveṣa), Si (moha) là ba độc ở đời. Đức Như Lai đã không có, là chỗ trừ bỏ của Đạo Đế (Mārga-satya). Tham Dục, Sân, Si là chỗ diệt của Pháp Đế (Dharma-satya). Như ba độc này, mọi Đế (Satya) hay giết chết, Phật Pháp tăng sức mạnh. Nguyện thủ hộ tôi, dùng Đại Khổng Tước Vương Chú để trừ diệt. Nguyện tôi an ổn.

Thế Tôn! A Nan nghe điều Đức Phật đã nói, cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng theo bên phải rồi đi đến chỗ của Tỳ Kheo Sa Để, kết Giới kết Địa, dùng Đại Khổng Tước Vương Chú này vì Tỳ Kheo Sa Để, cũng nói Chú nhiếp thọ thủ hộ, lìa các độc khổ, tịch nhiên an ổn.

A Nan làm cho Tỳ Kheo Sa Để nghe nói Chú xong liền có thể đi bộ. Thời Trưởng Lão A Nan với Tỳ Kheo Sa Để cùng đi đến chỗ của Đức Phật, cúi đầu mặt lễ bàn chân của Đức Phật, rồi lui về đứng một bên. Đầy đủ xong thì bạch với Đức Phật.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Trưởng Lão A Nan: “Thế nên A Nan! Ông nên nói

Đại Khổng Tước Vương Chú này cho bốn Chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc,

Ưu Bà Di”

A Nan bạch Phật: “Lành thay! Bạch Đức Thế Tôn!”

Bấy giờ Trưởng Lão A Nan nhận lời Phật dạy xong, liền nói cho bốn Chúng, Tỳ Kheo Sa Để cùng với chúng của tám Bộ Trời, Rồng, Dược Xoa…nghe điều Đức Phật đã nói, thảy đều vui vẻ.

KINH KHỔNG TƯỚC VƯƠNG CHÚ

_QUYỂN HẠ (Hết)_

(Trong hàng thứ tư bên trong 26 cuộn giấy, dựa theo bản dịch khác nên Kinh bị thiếu Đức Phật Ca Diếp. Bản Nam Bắc không có cho nên chẳng dám thêm vào)

Kết Chú Giới Pháp:

Bạch (tơ lụa) Thi Lê Mật nêu ra trước tiên (?). Dùng đá, tro, đất khô rải tán mặt đất, làm ba lớp phân chia Giới

Từ góc Đông Bắc đến góc Đông Nam. Đây là chỗ trú của Đông Phương Càn Thát Bà Vương

Đề Đầu Lại (Dhṛta-rāṣṭra) Tướng Soái, quan thuộc, Quỷ Thần, Đại Tướng Quân thủ hộ vách tường phía Đông

Từ góc Đông Nam đến góc Tây Nam. Đây là chỗ trú của Nam Phương Cưu Bàn Trà Vương

Tỳ Lâu Lặc (Virūḍhaka) Tướng Soái, quan thuộc, Quỷ Thần, Đại Tướng Quân thủ hộ vách tường phía Nam

Từ góc Tây Nam đến góc Tây Bắc. Đây là chỗ trú của Tây Phương Đại Long Vương

Tỳ Lâu Bác Xoa (Virūpākṣa) Tướng Soái, quan thuộc, Quỷ Thần, Đại Tướng Quân thủ hộ vách tường phía Tây

Từ góc Tây Bắc đến góc Đông Bắc. Đây là chỗ trú của Bắc Phương Dạ Xoa Vương

Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa) Tướng Soái, quan thuộc, Quỷ Thần, Đại Tướng Quân thủ hộ vách tường phía Bắc

Chú xong, giải Giới. “Các Quỷ Thần bị cột trói trong đây. Nay Ta giải Giới. Ngươi nghe xong, tùy ý đi”.

5 cây đao dài năm thước (5/3 m), 5 cây phan ngũ sắc, 21 mũi tên, 21 chén đèn, 5 mặt gương, An Tức Hương, Huân Lục Hương, nước nóng thơm, đất bùn. Đường bên ngoài (ngoại đạo) Chú vào nước đái bò bôi trát mặt đất, thiêu đốt hạt cải trong lửa, tức trên thân của Quỷ ác liền bốc lửa. Vẽ làm tượng Quỷ, dùng cây roi bằng cành Thạch Lựu đánh, thời trong miệng của Quỷ ác chảy máu.

ĐÀN PHÁP

cái gương soi, cây đèn, cây đao, Cây phan, lò hương

Hiệu chỉnh xong một Bộ gồm hai quyển vào ngày 03/11/2012