KINH HOẰNG ĐẠO QUẢNG HIỂN TAM-MUỘI

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 1

 

Phẩm 1: ĐƯỢC TRÍ TÂM RỘNG LỚN

Nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa tại đỉnh núi Thứu sơn, thuộc nước Vương xá, cùng chúng đại Tỳ-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị, cùng với tám ngàn Bồ-tát.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì vô số trăm ngàn đồ chúng vây quanh mà thuyết pháp.

Khi ấy, có vị Long vương tên là A-nậu-đạt (nhà Tấn gọi là Vô Nhiệt), đời trước đã tạo gốc đức, tu hạnh Bồ-tát, vững trụ nơi Đại thừa, thực hành đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, dùng tướng đủ đầy, siêng năng cứu giúp chúng sinh, hóa độ vô cùng; đã từng hầu hạ chín mươi sáu ức các Đức Phật, chứa nhóm công đức, không sao kể xiết; dùng phương tiện quyền xảo, hiện khắp ở năm đường, trừ các ngu tối, khiến cho họ tu hạnh vô dục của Bồ-tát; ôm lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả, cứu giúp tất cả; vì xót thương các loại tội ác, nên hiện làm loài rồng hóa độ loài rồng đến vô số hằng ức, khiến chúng thoát khỏi hành động tai ương; vị này tự sống dưới ao, dẫn dắt các quyến thuộc có tới tám ngàn vạn chúng, lại dẫn mười bốn vạn thể nữ vây quanh cùng đi theo để ca hát, âm thanh hòa nhã, làm loài rồng cảm động, giúp thêm oai đức, thần thông biến hóa tự do…. Lúc này, vị Long vương ấy mang các thứ hoa, hương tốt đẹp nhất, cầm cờ phướn, lọng đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Khi đến nơi cúi đầu, đảnh lễ, cung kính, hỏi thăm Đức Như Lai, xong rồi, cầm đủ các loại hương hoa quý báu, phướn lọng năm màu, lại tấu cả âm nhạc, với lòng sung sướng, ý cung kính, cùng với quyến thuộc và các thể nữ cùng đến trước Đức Phật, quỳ dài, chắp tay ngay thẳng, bạch Đức Phật:

–Chúng con muốn hỏi Như Lai, là Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Tối Chánh Giác, về việc Bồ-tát nên hành đạo như thế nào? Nếu Thế Tôn cho phép, con mới dám hỏi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Long vương:

–Tùy ý ông muốn hỏi gì thì hỏi, chớ ngại. Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ giải thích.

Bấy giờ A-nậu-đạt được sức oai thần của Thế Tôn chấp thuận cho hỏi, trong lòng hân hoan, liền bạch Đức Phật:

–Thưa Thiên Sư Tối Tôn! Bậc Thánh dẫn đường trong loài người, mạnh như sư tử, cảm biến vô lượng; con hỏi Như Lai và cùng khắp chúng sinh; cũng vì Đại sĩ Bồ-tát làm thầy thế gian, vượt qua pháp thế tục, chí hạnh thanh tịnh, biết rõ nhân duyên, tế độ quần sinh, làm người bạn không thưa thỉnh; tâm Như Lai cứu độ tất cả, để được an ổn; dụ dẫn, vỗ về để được an lập; Như Lai nắm giữ vô úy, mười lực, hàng phục các ma, hàng phục ngoại đạo; tâm không có hạnh ô uế, mặc áo giáp đại đức, kim cang vững bền, chí không mệt mỏi, nhân duyên tích đức, không thể kể lường; Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ đã đầy đủ; tâm bình đẳng với tất cả, đoạn trừ tưởng vô uế, vứt bỏ hai kiến, dùng trí siêu việt, hiểu pháp nhân duyên đã nhập pháp yếu thâm áo khó vào, xa lìa Thanh văn, Duyên giác, một niệm cũng không bỏ Đại thừa, tâm Nhất thiết trí; ý hạnh kiên cường, thường được tự tại, thân sạch không nhơ, xán lạn rực rỡ, chí như hư không, vô số các kiếp, tâm không mệt mỏi, đạt được Tổng trì, từ bỏ tham nhơ, cao ngạo, xem thường, bình đẳng như Thiện Thệ, Không, Vô tướng, Vô nguyện, xem việc đã qua như mộng ảo, như bóng, như tiếng vang, như ngựa hoang, như trăng dưới nước; đối với các pháp ấy đều hiểu như nhau, không động, coi trọng lời dạy Tam bảo, tôn thờ, kính trọng, chuyển bánh xe pháp, không chỗ chướng ngại, vui mừng, tin thích, đều tự đạt được; như hoa Ưuđàm, hằng ức năm mới nở, chí Như Lai thanh tịnh, an nhiên sống một mình, đầy đủ các tướng; thuở xưa, Như Lai đã cung kính, các Đại sĩ Hiền minh, Như Lai huân tu thượng nghĩa, trụ pháp mới được như vậy nên Long vương vì các vị Chánh sĩ ấy xin hỏi Như Lai. Cúi mong, Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, giải nói các việc làm của Bồ-tát Đại sĩ, được pháp môn du hý, nhập Kim cang đức, đạt được quả sâu xa, khiến cho người tu chứng được Tổng trì. Dùng hạnh bốn Đế mà tùy thuận, hóa độ, hàng Thanh văn, làm cho họ hiểu được chân lý cốt yếu, dắt dẫn chứng Duyên giác trong sạch khởi nhân duyên, khen cho một lòng mà được Đẳng chánh giác. Muốn đạt được các pháp, phải đi vào Đại thừa. Nhờ vào được Đại thừa, mới có thể hàng phục ma oán, làm tiêu tan những nghi ngờ những phiền não, vượt qua những tội khổ. Biết mọi ý chí hành động của tất cả chúng sinh, chứa nhóm biện tài tối thượng, tung rải diễn giảng các pháp, tùy tất cả những mong ước mà hóa hiện đều họ ưa thích.

Lành thay! Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai, Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Chánh Giác; vì các bậc Đại sĩ Hiền minh, nên diễn nói cùng khắp; làm cho các Bồ-tát, đạt được trí lực, hàng phục tâm tự đại của mình, được pháp thượng lực, hiểu rõ hành động tai ương nên không tạo tác; làm cho các vị được sức mạnh bố thí, không tham tiếc vật mình có được, cho mà không mong báo đáp; lại làm cho các vị được sức mạnh trì giới, trừ hết các tội, vượt qua các nguyện; làm cho có được sức mạnh nhẫn nhục đối với các pháp khổ, ở nơi thọ sinh, không tiếc thân mạng, làm cho được sức mạnh tinh tấn, gom chứa các gốc đức, chí thường không mỏi. Làm cho được sức mạnh của định, khéo ở chỗ vắng vẻ, hiểu rõ yếu hạnh của định. Làm cho được sức mạnh của tuệ mà vượt qua tà kiến, nghi hoặc mờ mịt; biết dùng phương tiện quyền xảo để tế độ chúng sinh, khuyến trợ rõ ràng, đạt năm thông đầy đủ, Thiên nhãn không giới hạn, biết tâm, nghe suốt, thần túc, biết được kiếp quá khứ. Nhờ đó, việc du hóa đạt quả vui đại Biện tài. Biện tài về nghĩa của câu, nói không bao giờ cùng tận, khiến được Tổng trì, tâm không hoảng hốt, làm cho mau đạt được chánh định Hải ấn Tam-muội, tiến tới, tùy theo quả Phổ trí, đồng một vị, được chí định của Phật, đời sống an vui, vĩnh viễn phụng thờ bậc tôn quý, mà không bị ngăn che, chướng ngại, mau đạt được định pháp chí, tinh tấn định ý, nghe pháp lâu dài, hoàn toàn không hạn chế và chướng ngại. Tôn sùng ý định mọi người, khiến cho tất cả chúng sinh tôn thờ sự không thoái lui, được chí định thí, pháp thí, của cải thế tục, không có tiếc nuối, đầy đủ về giới, thực hành nhớ nghĩ vắng lặng, để mau thành Phật, tâm không hề quên chí định sinh lên trời, thường nhớ đến cõi trời Đâu-suất, Nhất sinh bổ xứ, lòng thích thú hạnh thanh cao cho Bồ-tát.

Long vương đã hỏi xong các nghi vấn, trong lòng vui mừng hớn hở, lại dùng bài tán tụng để hỏi tiếp Đức Thế Tôn:

Xin Đại nhân nói nghĩa hiện thế
Đức hạnh mà Bồ-tát đã nhập
Chí khí nội tánh, chỗ cần tu
Hưng phát đạo gì, làm sao hành?
Thuận theo lòng Từ, hành nhập Bi
Ý nghĩ luôn cứu độ chúng sinh
Định trí hằng hóa, khiến trong sạch
Mong ngài xót thương, mà rộng nói?
Dạy chúng con ngưng và dứt ý
Căn, Lực, Thần túc hành như vậy,
Nói đạo Thất giác, chỉ mọi người
Xin nói đức ấy để phụng trì.
Bố thí, trì giới, đầy đủ đức
Nhẫn lực, hành thiện và tinh tấn
Nhân duyên, trí tuệ, chuyển vô lượng
Làm sao độ chúng, mong Phật nói?
Biện tài thông đạt, khỏi ngu tối
Chí hạnh xét rõ, thường thanh tịnh
Các việc khởi sinh, liền biết rõ
Mong Phật nói cho các Bồ-tát
Đức tánh hân hoan, báo niềm vui
Bảy thứ Thánh tài là hạnh cao
Thích sự ở nhàn và tu tịnh
Cúi mong từ tôn, rộng nói cho.
Hạnh biện tài đủ, làm sao được
Tổng trì sâu xa, mãi an trụ
Hoằng dương chánh pháp không hề dứt
Nghe xong phụng hành mãi không quên
Niết-bàn trong sạch mà hành quán
Ý hiểu sâu xa, trí rộng lớn
Trí tuệ khó đầy, đức vô biên
Hiểu làm thế nào, hợp Bồ-tát.
Chế ngự ma lực cùng ý oán
Hủy hoại ngoại đạo, các loại tà
Đức dũng khó động như núi lớn
Trăng sáng cùng tột, rộng thuyết pháp
Hiểu không, Vô tướng, tánh sở tại
Hiểu rõ ngựa hoang và pháp huyễn
Thể hình mộng tưởng cho là không
Cúi mong Thế Tôn nói cho con.

Bấy giờ Đức Thế Tôn mới bảo Long vương:

–Lành thay, lành thay! Thật vui không gì bằng, nên mới tự phát tâm, hỏi Đức Như Lai những nghi ngờ. Nay ông đã thưa hỏi được, là nhờ công đức đời trước, đã hiện rõ lòng Từ bi, vì các bạn hữu thân thiết, không sợ sinh tử, chẳng đoạn Tam bảo; mối nghi của Long vương là như thế! Vậy hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ nói rộng, về những việc, Bồ-tát Đại sĩ cần phải tu hành, bên này bên kia vô hạn, được quả pháp tối quan trọng.

Khi ấy Long vương thưa:

–Hết sức tốt đẹp, thưa Thế Tôn! Con rất thích nghe, nghe xong, suy nghĩ, rồi thọ trì, tuyên bố cho mười phương, khuyên nhau tinh tấn, không hề mệt mỏi.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Long vương:

–Có một hạnh pháp, Bồ-tát thực hành thì đầy đủ tướng tốt, được các Phật pháp.

Những gì là một? Đó là khởi lên ý đạo, không bỏ chúng sinh, gọi đó là một hạnh, đạt được các Phật pháp.

Lại có ba mươi hai việc tâm trí được cùng khắp, cần phải siêng năng, ưa thích tu hành, chuyên ý mà thực tập. Sao gọi là ba mươi hai việc? Đó là tu tập, chế ngự nội tánh, giữ chí cao tột, thực hành lòng đại Từ, tâm đại Bi vững chắc, chí nguyện không nhàm chán, phát khởi tinh tấn, đầy đủ sức mạnh, đạo đức to lớn, lại có thế lực vượt cao, yên lặng không phiền, nhẫn nhục, vì chúng sinh, tập gần bạn lành, chuyên làm việc pháp, chế ngự quyền hóa, thực hành đức nhẫn đầy dủ, thích việc giữ giới, không có ý tưởng dua nịnh, dứt sạch, giả dối, lời nói và hành động tương ưng nhau, tâm biết báo đền, thường có sắc xấu hổ, tự biết thẹn thùng, đã điều hòa được sự vui mừng hân hoan, căn hạnh cho đến niềm tin, đã chế ngự ý, gìn giữ công đức, chí xa lìa con đường nhỏ, thích hoằng dương hạnh Đại thừa, quán xem tất cả việc Tam bảo, khiến không đoạn mất.

Này Long vương! Đó gọi là ba mươi hai pháp, Bồ-tát làm vậy, sẽ được tâm trí rộng lớn.

Lại nữa, này Long vương! Có mười sáu việc, làm tăng tiến trí lực rộng lớn. Sao gọi là có mười sáu việc làm tăng tiến trí lực rộng lớn? Đó là thi hành các sự ban cho cứu tế, đầy đủ giới không khuyết, nhẫn nhịn điều đáng nhẫn, tinh tấn đối với quả cao cả, đặt thiền định trong các hành, đã đầy trí tuệ, tín hạnh đầy đủ, cúng dường hầu hạ Như Lai, vui chơi chỗ an tịnh, thích nhàn hạ, đầy đủ sáu pháp kiên cố. Có mười điều thiện tối thượng, trang nghiêm thân khẩu ý, đức đầy đủ, hạnh tiết thao, biết đủ, thích vắng vẻ, ba thân khuyên người, tu định quán cao tột, đầy đủ các đức. Đó gọi là mười sáu việc để thực hành pháp, làm ứng hiện tướng tốt đẹp và phước lành, diễn nói tâm đại trí, hiện ra giữ gìn Phật ở đời, tự do lưu truyền, hóa độ.

Lại nữa, này Long vương! Tâm trí rộng lớn ấy, nhờ hai mươi hai việc mà trừ tà chấp được nhanh chóng, rồi dùng chí Đại thừa ấy, để tu trí rộng lớn. Sao gọi là hai mươi hai việc? Đó là vượt qua tâm ý của Thanh văn, Duyên giác, hạ thấp lòng cống cao, vô ngã, tự đại, tiêu trừ việc dua nịnh, chận đứng đủ loại lời nói thế tục; xa lìa, vứt bỏ không phải giới; nhổ gốc giận dữ, thoát khỏi việc của ma; trừ bỏ sự ngăn che, trở ngại; không quên lời thầy dạy, để diệt trừ tội lỗi; tự xét mình, thêm tình thương, không bàn việc quấy của người, tập xa lìa bạn ác, xa kẻ nghịch, thương người thiện, bỏ những gì không phải Lục độ; lại vứt bỏ tâm tham tiếc; thanh tịnh các giới cấm, trừ bỏ mọi tranh tụng, xa lìa sự lười biếng, với mê mờ, tự làm cho ngay thẳng, xả bỏ các sự vô tri, vứt bỏ sự không tiện lợi, vứt bỏ ác hạnh. Đó gọi là Bồ-tát trí rộng, trừ bỏ hai mươi hai tà chấp, mau đạt được sự quyền biến của trí tuệ, vĩnh viễn không còn lười biếng, thoái lui.

Lại nữa, này Long vương! Có hai mươi hai việc hăng hái; nếu siêng năng tùy thuận làm theo, sẽ được tâm trí rộng lớn, không gì hơn được, làm cho các ma Ba-tuần và quen thuộc của ma, cùng ngoại đạo, đều bị hàng phục. Sao gọi là hai mươi hai việc hăng hái? Vượt qua giới, hăng hái để đạt định; cũng hăng hái vượt qua trí, mà được tuệ hành; hăng hái vượt qua quyền hóa, cũng vượt qua tâm đại Từ, hăng hái vượt qua đại Bi. Nói tóm lại, vượt qua không, tướng, nguyện, ngã, nhân, thọ, mạng; vượt qua, những xa lìa các kiến chấp và nhân duyên phát sinh; vượt qua tâm tự tịnh, nhờ sự giác ngộ của Thần thánh; vượt qua sự nhớ nghĩ của thức là nên thấy hay không nên thấy; vượt qua hạnh vững chắc của Đại Kim cang. Này Long vương! Đó là hai mươi hai pháp hăng hái để tâm trí rộng lớn, làm cho tất cả chúng ma và thân quyến của chúng, cùng ngoại đạo tà vạy, không còn được tự tại, đều bị hàng phục, không dám chống lại.

Lại nữa, này Long vương! Trí tâm rộng lớn ấy phải nương vào hai hành xứ, mới đạt đến tâm trí rộng lớn.

Những gì là hai? Như lời đã nói, tu đúng hành xứ; các gốc công đức, quán đạo hành xứ. Đó là hai hành xứ, làm cho tâm trí rộng lớn.

Lại có hai việc làm tâm rộng lớn, không thể hủy hoại.

Những gì là hai? Đối với chúng sinh không có tâm đổi khác; đối với các tai ương, cứu giúp bằng tâm đại Bi. Đó là hai việc, làm trí rộng lớn, không thể hủy hoại.

Lại nữa, này Long vương! Tâm trí rộng lớn ấy, có hai thứ pháp, mà không có gì vượt qua; bè đảng của sinh tử và chúng Thanh văn, cùng với các Duyên giác, không thể vượt hơn.

Những gì là hai? Nắm giữ quyền biến phương tiện, đi sâu vào trí tuệ. Đó là hai việc, hai pháp, làm trí rộng lớn.

Lại nữa có hai việc, ngăn chận trí tâm rộng lớn.

Những gì là hai? Xử sự không có tâm nghi ngờ, ngưng trệ; nơi nơi không an vui, muốn các an vui của thế tục. Đó là hai việc, ngăn chận tâm trí rộng lớn.

Lại có hai việc, giúp đạt được trí tâm rộng lớn.

Những gì là hai? Không lưu ý địa vị tu hành của Thanh văn, Duyên giác; chỉ quán sát cái đức vô cùng tốt đẹp của Đại thừa. Đó là hai việc, giúp đạt được tâm trí rộng lớn.

Lại có hai việc, làm tổn hại trí rộng lớn.

Những gì là hai? Tâm thường cho mình có nhiều tài nhưng lại ôm lòng nịnh hót bên trong. Đó là hai việc, làm tổn hại tâm trí rộng lớn.

Lại có hai việc, không làm tổn hại trí rộng lớn.

Những gì là hai? Chuyên tu tín tâm ngay thẳng; hành động dua nịnh. Đó là hai việc, không làm tổn hại trí rộng lớn.

Lại có bốn việc, ngăn che trí tâm rộng lớn.

Những gì là bốn? Thường làm loạn chánh pháp; đối với các Bồ-tát, Đại sĩ Hiền minh, không có lòng tôn thờ; thường không biết sự cung kính, không hiểu được việc của ma. Đó là bốn việc, làm ngăn che trí tâm rộng lớn.

Lại có bốn việc, không ngăn che được tâm trí rộng lớn.

Những gì là bốn? Giữ gìn chánh pháp; nghe pháp rồi cung kính thọ trì; tôn trọng Bồ-tát như là Thế Tôn; thường biết được việc của ma. Đó là bốn việc, không làm ngăn che tâm trí.

Lại có năm việc, đưa đến trí tâm rộng lớn.

Những gì là năm? Việc mình làm không có mong cầu; với sinh tử và hữu lậu thì dùng giới đức; không xả bỏ tất cả mà luôn có lòng đại Bi; ghét và yêu không hai, ban cho cả thân mạng; đem tài – lợi – tuệ ban cho khắp, lấy đó làm pháp cúng dường. Đó là năm việc, để được trí rộng lớn.

Lại có năm việc, để làm tiến triển trí tâm rộng lớn.

Những gì là năm? Bắt chước Thiện tri thức; không sợ sinh tử; chí cao xa, không bị ngăn che; bỏ tâm phi thời; cầu trí chư Phật. Đó là năm việc, phát triển trí tâm rộng lớn.

Lại có năm việc, làm tồn tại trí tâm rộng lớn, vượt qua sự nhớ nghĩ của các Thanh văn, Duyên giác.

Những gì là năm? Vượt qua sự giải thoát của Thanh văn; vượt qua sự giải thoát của Duyên giác; vượt qua trí tâm mọi người; vượt qua các chấp ngã; vượt qua sự trói buộc của tập. Đó là năm việc, vượt qua các pháp hành.

Lại có năm việc, làm cho trí tâm rộng lớn có sự vui mừng.

Những gì là năm? Vui mừng vượt qua ác đạo; vui mừng suy xét trí rộng lớn; vui mừng đầy đủ giác tuệ; vui mừng giữ giới không nhàm chán; vui mừng hiểu các hạnh. Đó là năm sự vui mừng của trí tuệ rộng lớn.

Lại có năm việc, phát khởi trí tâm rộng lớn, được năm Lực giúp đỡ, không chìm đắm trong sinh tử.

Những gì là năm? Đó là: Dùng nhẫn lực để không có sự oán hận; nhờ đức lực để có thể đầy đủ các nguyện; nhờ trí lực để hàng phục tánh tự tại của mình; nhờ tuệ lực để siêng năng nghe nhiều; nhờ vô úy lực để vượt qua các sự kiếp nhược. Đó là năm việc, nhờ các lực chưa đến giúp đỡ.

Lại có năm việc, làm cho trí tâm rộng lớn được ngay năm sự trong sạch.

Những gì là năm? Xa lìa cho hạnh ô uế, được trong sạch; các người đọa lạc, nhờ các căn không mê hoặc, nên được trong sạch; tùy thuận vào mọi lúc, mà quán trong sạch; thực hành cho được bình đẳng, quyền biến đạo trong sạch; chuyển hóa được tất cả các pháp, trở thành trong sạch. Đó là năm việc trong sạch của trí rộng lớn.

Lại có năm việc, để được trí sáng rộng lớn.

Những gì là năm? Đó là: Hiểu rõ vô dục; hiểu rõ tâm mình, tâm người; hiểu rõ năm cú; hiểu rõ được tuệ hành; mắt sáng vô ngại.

Đó là năm việc đưa đến trí sáng rộng lớn.

Lại có năm việc, làm cho trí tâm rộng khắp.

Những gì là năm? Đó là: Năm giống, năm gốc, năm cành, năm nhánh, năm lá, năm hoa, năm quả.

–Sao gọi là năm giống?

Đó là nhật tu, chí tu; để tịnh nội tâm; bình đẳng quán sát người và vật; cầu tập hạnh giải thoát; quyền biến rộng rãi. Đó là năm giống.

–Sao gọi là năm gốc?

Đó là nhờ đại Từ bi, nên đối với gốc đức không nhàm chán, khuyên chúng sinh tiến tới, khiến họ thoát khỏi tiểu thừa, tâm chí không rơi vào các đường khác. Đó là gốc.

–Sao gọi là năm cành?

Đó là hiểu phương tiện quyền xảo, trí tuệ cứu giúp vô cùng, dẫn đường chỉ nẻo mọi người, giữ gìn chánh pháp, bình đẳng quán sát sự mừng và giận. Đó là năm cành.

–Sao gọi là năm nhánh?

Đó là Bố thí rốt ráo, Trì giới rốt ráo, Nhẫn nhục rốt ráo, Tinh tấn rốt ráo, Thiền định rốt ráo, đó là năm nhánh.

–Sao gọi là năm lá?

Ưa thích nghe giới, mong cầu ở chỗ sạch không, ý muốn xuất gia, tâm theo giống Phật, vui trong vô ngại. Đó là năm lá.

–Sao gọi là năm hoa?

Được đầy đủ tướng tốt, nhờ chứa đầy công đức; đầy đủ các vẻ đẹp nhờ bố thí tất cả; đầy đủ bảy Giác tài vì tâm không xen tạp; có biện tài hiển lộ, vì không che giấu pháp; thấu đạt Tổng trì, nhờ nghe mà không quên. Đó là năm hoa.

–Sao gọi là năm quả?

Đạt được giới quả; được độ quả; đạt Duyên giác quả; lại được quả không thoái chuyển của Bồ-tát; được quả Phật pháp. Đó là năm quả.

Này Long vương! Đó là ba mươi lăm việc, làm cho trí rộng lớn, cây đạo của Bồ-tát tươi tốt. Nếu ai tu được như vậy, thành Phật không khó.

Đức Phật bảo Long vương:

–Nếu có Bồ-tát, muốn thọ trì trí tâm rộng lớn này; muốn trồng cây thâm diệu, hiển hiện rõ câu yếu hạnh; cần phải siêng năng tăng sự tu tập về cây báu trí rộng lớn này. Như vậy, này Long vương! Ta thấy tất cả các pháp công đức, không cái nào mà không có nghĩa, của cấy báu này cả! Các vị phát tâm với đạo Vô thượng chánh chân, đều nhờ câu chủ yếu của cây báu trí rộng này. Ví như Long vương muốn lựa chọn trồng giống cây thì nên biết gốc, cành, nhánh, lá, hoa, quả của cây có sinh trưởng tốt hay không. Cũng như vậy, này Long vương! Nếu có người có thể thọ trì giống trí tâm rộng lớn này, họ sẽ đạt được ba mươi bảy phẩm, pháp tối thượng tuệ của chư Phật, Hiền thánh. Cho nên, này Long vương! Muốn nhập vào trí rộng lớn, phải thực hành công đức; muốn chuyển pháp luân, phải thọ trì nó, siêng tu, đọc tụng, chuyên tâm thực tập, rộng vì tất cả chúng sinh mà trình bày cho rõ.

Như vậy, Long vương! Nên siêng năng, thọ học, pháp môn này.

Ngay khi Đức Phật thuyết phẩm Pháp ngữ, của trí tâm rộng lớn này; có bảy vạn hai ngàn chúng loài rồng, đều phát tâm với đạo Vô thượng chánh chân. Thái tử của Long vương, cùng với một vạn bốn ngàn các thể nữ, cũng đều được pháp Nhẫn nhu thuận; năm ngàn vị Bồ-tát, nương theo gốc công đức có ở đời trước đều được pháp nhẫn.

Bấy giờ A-nậu-đạt, cùng các Long vương khác, cùng các quyến thuộc, nương vào thần lực chính mình, bay lên hư không, làm thành đám mây hương, phút chốc lan tỏa khắp, hương thơm hòa cùng với bột chiên-đàn, tạo thành cơn mưa nhỏ, mưa hương trên Đức Như Lai và chúng hội; và lại hóa làm các châu ngọc quý lạ, che kín các giao lộ, rồi tiếp tục che khắp cảnh giới cả nước Vương xá, làm cho mọi người đều vui mừng; ở trên hư không lúc này có đủ lời ca tụng Đức Như Lai Chí Chân; người đã chứa nhóm vô số điều tốt đẹp, Thánh đức vô lượng; người đứng riêng trên trời mây, hiện nữa thân, rực sáng cả hư không. Tất cả chúng hội, không ai mà không thấy điều ấy.

 

Phẩm 2: THANH TỊNH ĐẠO

Bấy giờ Long vương, lại bạch Đức Phật:

–Thật chưa từng có! Đúng vậy, thưa Thế Tôn, nếu Đức Như Lai, rộng vì chúng sinh, nói về tâm đạo thế tục và tâm trí rộng lớn hành đức sở ưng. Lại nữa, thưa Thế Tôn, Như Lai là Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Chánh Giác; xin Thế Tôn diễn nói về hạnh của Bồ-tát tu hành thuần tịnh, hiền minh, là do đâu mà được đạo thanh tịnh, khiến cho kết cuộc, mãi mãi không ô uế, không có sự biếng lười, không mệt mỏi, không thoái chí; đến khi đạt được mười Lực, bốn Vô sở úy, được đầy đủ pháp của chư Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo A-nậu-đạt:

–Lành thay, Long vương! Hãy suy nghĩ cho kỹ, ta sẽ rộng nói về đạo phẩm thanh tịnh của Bồ-tát Đại sĩ.

Long vương A-nậu-đạt thưa:

–Hết sức tốt, thưa Thế Tôn, Rất mong được chỉ dạy; xin Thế Tôn nói cho.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Long vương:

–Bồ-tát tu hành, có tám con đường ngay thẳng, cần phải thọ trì.

Những gì là tám? Đó là:

  1. Con đường Lục độ vô cực.
  2. Con đường thực hành việc báo ân.
  3. Con đường ngũ thông.
  4. Con đường Tứ đẳng.
  5. Con đường tám Chánh.
  6. Con đường bình đẳng với chúng sinh.
  7. Con đường ba giải thoát.
  8. Con đường nhập pháp Nhẫn.

Như vậy, này Long vương! Đó là tám con đường chánh hạnh của Bồ-tát.

Sao gọi là con đường Độ vô cực của Bồ-tát?

Con đường Độ vô cực là, khi bố thí khuyên người đó mở trí rộng lớn. Vì sao phải như vậy? Không phải không khuyên bố thí mà thành trí rộng lớn; kỳ thật nhờ khuyến trợ ở gốc đức mà được tên gọi là Bố thí độ rốt ráo. Vả lại, thực hành Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ, cũng là để khuyến trợ tâm rộng lớn này, mới được tên gọi là Trí tuệ độ rốt ráo. Đó gọi là con đường Độ vô cực của Bồ-tát.

Ân của người hành đạo, bao gồm sự thọ nhận của tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy diễn giải, chỉ bày pháp độ. Bồ-tát thi ân bao trùm tất cả; lại dùng bốn ân mà thuyết pháp rộng rãi, khiến cho chúng sinh tùy thuận lãnh thọ các giới. Đó là con đường bốn ân.

Con đường Thần túc là, thấy khắp các cõi Phật, với Thiên nhãn thấy suốt đến hết tất cả loài chúng sinh. Lại thấy chư Phật Thế Tôn ở mười phương, có đệ tử vây quanh. Đều thấy được như vậy. Đối với các cõi Phật, dùng Thiên nhãn, những điều cần đạt được ta đã đạt được. Lại nữa, dùng Thiên nhĩ, nghe những lời của chư Phật, nghe xong thì thọ trì. Ở chỗ chúng sinh và các loại người đều hiểu rõ, đều biết hết, rồi tùy thuận mà thuyết pháp, biết được đời trước. Không quên công đức mà đời trước đã tạo. Lại có đầy đủ Thần túc, vượt qua vô số cõi nước của chư Phật. Người nào cần thần túc để được cứu độ, liền dùng tần túc rộng lớn mà độ thoát cho họ. Đó là con đường cảm ứng của thần túc.

Lại nữa, sao gọi là con đường Tứ đẳng phải đi?

Đó là, tùy theo ý chí tu hành phạm hạnh trong sạch, hợp cùng các sắc tướng khác Thiên tử, biết ý hạnh của họ, mà tùy thuận giáo hóa; đó chính là Từ, Bi, Hỷ, Hộ (xả), dùng đạo để tạo dựng, khiến cho chúng sinh được độ. Đó gọi là con đường Tứ đẳng hành của Bồtát. Với tám Chánh đạo đều phải làm tất cả, Thanh văn cũng từ đó, Duyên giác nương vào đó, Đại thừa cũng vậy. Đó gọi là con đường ngay thẳng tám nhánh của Hiền thánh.

Sao gọi là con đường giữ tâm bình đẳng với các chúng sinh?

Đối với các suy nghĩ: Làm vậy thì tốt hay không làm vậy là tốt? Làm thế kia thì được, làm thế này thì không nên? Người này có đức hiền, người kia không phải là kẻ có phước? Điều đó rất nên làm, điều này lại không nên? Bồ-tát thực hành bình đẳng, nên trừ hết những ý ấy. Đó gọi là con đường giữ tâm bình đẳng đối với các chúng sinh.

Sao gọi là con đường ba cửa giải thoát của Bồ-tát?

Nhờ đạt được Không, mà đoạn trừ được các vọng kiến. Nhờ được Vô tướng mà trừ bỏ được các niệm tưởng nên hay không nên. Nhờ Vô nguyện mà vĩnh viễn xa lìa ba cõi. Đó gọi là con đường ba cửa giải thoát của Bồ-tát.

Sao gọi là con đường đưa đến pháp nhẫn?

Đó là: Bồ-tát thọ lãnh lễ bái; Bồ-tát phải tự giác hành động tương ưng với nhẫn; để được chư Phật Thế Tôn quyết định thọ ký, để được đạo ý Vô thượng chánh chân.

Đó gọi là Bồ-tát không khởi còn đường nhẫn; Bồ-tát đạt được tám con đường ngay thẳng này; thì sự hoằng hóa, lưu truyền, ban cho phương tiện dẫn dắt chúng sinh sẽ không ngại.

Khi Đức Phật nói tám Chánh đạo xong; có hai vạn bốn ngàn Trời, Rồng và Người đều đạt được tám đạo hạnh này.

Do đó, này Long vương! Bồ-tát nhờ tám con đường chánh trực này, nên cùng về một chỗ. Không ai bằng được, không ai có thể so sánh với Bồ-tát này, cũng không có ai làm bạn; một mình đi trong ba cõi, nhờ giữ tâm trong sạch, tu hạnh trí tuệ, nên tự mình sẽ chứng được đạo quả, sáng suốt đạt các pháp, nhưng vẫn biết nó vốn là không. Đó gọi là Như Lai.

Này Long vương! Đó là tám con đường ngay thẳng. Vì tất cả các phàm phu, tất cả hành động của chúng sinh mà khởi lên các ngôn thuyết, nói lời cốt yếu, bình đẳng bốn bề, không nói dối, nói lời chưa ai nói.

Sao gọi là đối với đạo này thanh tịnh?

Vì đạo quả không nhơ, không có bụi bặm. Đạo này không tì vết, vốn không nhớ nghĩ vậy. Đạo này trí tuệ luôn chiếu sáng vậy.

Đạo này không chìm đắm, vốn thanh tịnh vậy. Đạo luôn không sinh, vì không chỗ diệt vậy. Đạo vĩnh viễn vốn như không, vì không hiện hữu vậy. Đạo không nhơ bẩn, vì ba cõi trong sạch. Đạo này vắng lặng, vì vượt quá hạnh phàm phu vậy. Đạo không thể đến được, vì không có đi vậy. Đạo không có chỗ đến, vì không từ đâu lại. Đạo luôn luôn vô trụ, vì vượt qua các ham muốn. Đạo không có nơi chốn, vượt trên cái thấy mọi người. Đạo không ai hơn được, vì vượt qua các ma. Đạo lớn bao trùm tất cả, nên ngoại đạo không thể theo kịp. Đạo vĩnh viễn xa lìa vọng chấp, vì tự nó lớn vậy. Đạo không chỗ hình dung nên không vào được. Đạo này rất xa, nên hy vọng vậy. Đạo là xa lìa vĩnh viễn, vượt trên hạnh phàm phu. Đạo có thể đưa đến quả chứng, vì người tu hành. Đạo là vận hành, nên phải siêng năng tu học. Đạo rất bình thản, trụ nơi chánh kiến. Đạo không ngăn trở, đừng hủy phạm. Đạo này vô ngại, vì bình đẳng chánh hạnh. Đạo này không bẩn, vì sạch ba độc. Đạo này trong sạch, vì hoàn toàn không chìm đắm. Đó gọi là sự trong sạch của Bồ-tát đạo; nếu Bồ-tát này đối với đạo trong sạch, chuyên cần tinh tấn tu học, lại thực hành tương ưng, thì vị ấy, đối với pháp tánh, tất sẽ được trong sạch; ngã tánh cũng được trong sạch, cũng sẽ vượt qua; nhờ pháp tánh tịnh, nên số tánh tịnh; nhờ số tánh tịnh, nên vô số tánh tịnh; nhờ vô số tịnh, nên được tam giới tịnh; nhờ tam giới tịnh, nên tánh của nhãn thức tịnh; nhờ nhãn thức tịnh, nên tánh của ý thức tịnh; nhờ ý thức tịnh, nên tánh không tịnh; nhờ tánh không tịnh, nên các pháp tánh tịnh. Nhờ được thanh tịnh, nên các pháp thảy đều thanh tịnh như hư không. Nhờ không… thanh tịnh, nên chúng sinh thanh tịnh. Nhờ tất cả thanh tịnh nên liền thấy không có hai, cũng không chấp vào hai. Nhờ không có hai thanh tịnh nên đạo thanh tịnh. Vì vậy nên nói đó là đạo thanh tịnh.

Vị ấy không có các nhớ nghĩ, cũng không nhớ nghĩ về đạo; các nhớ nghĩ ấy đều thanh tịnh, giống như Niết-bàn; với vị ấy hoàn toàn, không có cái gọi là không nhớ nghĩ, nên không có chỗ nhớ nghĩ, không có người nhớ nghĩ về đạo, cũng không có ý thức nhớ nghĩ. Đạo này hoàn toàn không có hành động của tâm ý thức, do đó, nên nói đó là đạo thanh tịnh.

Khi nói pháp Đạo phẩm thanh tịnh này, có hai vạn trời và người đều được pháp Nhẫn.

Bấy giờ A-nậu-đạt, lại bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Đại sĩ tu sự thanh tịnh này như thế nào để hướng đến đạo?

Thánh tôn bảo:

–Này Long vương! Bồ-tát Đại sĩ muốn thực hành đạo ý thanh tịnh này, cần phải hiểu tịnh hạnh, phải khiến cho thân, khẩu, ý thanh tịnh.

Thế nào là thân thanh tịnh? Thân mình đã là không, nên hiểu các thân khác cũng là không. Thân mình vắng lặng, nên hiểu các thân khác cũng vắng lặng. Thân mình đã giải thoát, nên hiểu các thân khác cũng giải thoát. Thân biếng nhác kiêu ngạo; nên hiểu các thân khác cũng biếng nhác. Thân như bóng hình, nên biết các thân khác cũng như bóng hình. Đó gọi là đạo thanh tịnh của Bồ-tát.

Lại nữa, sao gọi là thân tịnh, thân hành vô sinh? Đó là vị ấy, vì có sinh tử quán với vô sinh. Tuy là vô sinh nhưng đồng với sinh tử. Như vậy, vị ấy biết thân thì cũng hiểu thân hành. Sao gọi là thân hành? Đó là pháp khứ lai sinh, pháp đến vô tận, pháp thấy tại ảnh, pháp hoàn toàn vô tận; cái vô tận ấy, gọi là thân hành.

Lại nữa, pháp của thân, do nhân duyên hội hợp. Cái nhân duyên ấy thì rỗng, không tướng, đương nhiên là không nhớ nghĩ.

Như vậy, này Long vương! Quán tượng pháp này, gọi là thân tịnh.

Lại nữa, nếu thân Như Lai vô lậu, không rơi vào ba cõi. Quán thân vô lậu, như như vốn không. Nhờ thân vô lậu, nên không rơi vào ba cõi. Thân vô lậu ấy hay nhập vào sinh tử, ngằn mé của vô lậu là không mệt mỏi, xả bỏ, thoái lui. Nhờ thân vô lậu mà hiện ra sắc thân. Hiện như vậy rồi, cũng không nhớ nghĩ pháp vốn diệt thân. Thanh tịnh như thân của Như Lai, nên thân của chúng sinh thanh tịnh, thân mình cũng thanh tịnh, giống như vốn là không vậy. Đó gọi là Bồ-tát hạnh cần phải thanh tịnh.

Thế nào là lời nói phải thanh tịnh? Lời nói của tất cả kẻ hiền hay ngu đều thanh tịnh. Vì sao? Vì tướng bình đẳng vậy. Phàm phu sức yếu, say đắm âm thanh; cái tin không thật chính xác buồn vui vô thường, thích nơi điên đảo; xem xét kỹ chúng sinh vốn không, hoàn toàn không có dâm, nộ, si, dục. Sao lại như vậy? Vì tạm dùng các chữ để nói, âm thanh có phát ra cũng đều là thanh tịnh. Không dục, nhuế, ngu, cũng không dính vào đó. Vì vậy, nên nói, tất cả lời nói đều thanh tịnh, dùng lời để mà nói.

Sao gọi là nói? Vì dục, nhuế, si mà nói chăng? Vì các ô nhiễm mà nói chăng? Người nói không dính mắc; không dính mắc ở mắt, tai, mũi, miệng, thân, tâm. Nói rằng hình tượng gió, khi nó động thì phát ra âm thanh. Nhân duyên hội hợp tai liền nghe âm thanh. Lời nói như tiếng vang; lời nói của người hiền, kẻ ngu đều như tiếng vang. Ai cũng có thể nói được, không phải trụ ở trong, cũng không phải phát ra ở ngoài, cũng chẳng phải ở giữa mà không thể được; nó vốn trụ nơi chỗ nhớ nghĩ niệm và chỗ của hành động. Người phát ra lời nói cùng với chỗ niệm tưởng là vô trụ, vô tưởng.

Do đó, này Long vương! Lời nói của Như Lai cũng với âm thanh của tất cả chúng sinh, đều là không, chẳng chân thật làm tổn hại pháp này vậy!

Long vương thưa:

–Bạch Thế Tôn! Lời nói của Như Lai là không chính xác sao?

Đức Phật bảo:

–Này Long vương! Như Lai biết rõ chân lý. Vì sao? Vì Như Lai là chân lý, hiểu biết các pháp chẳng chân, chẳng thật.

Lại nữa, này Long vương! Lời của Như Lai nói ra, âm thanh tùy theo văn tự, là để đáp lại tất cả âm thanh của thế gian. Cho nên chúng sinh cũng có thể chuyển xe pháp, mà cũng không biết tùy thuận nghĩa của pháp. Vì dùng để đáp ứng nên mới có hành động, tùy thuận vào việc, diệt hết các khổ, nên hiểu rõ các pháp. Hiểu được như vậy, âm thanh của chúng sinh đã là không chỗ trụ; tại các phiền não mà thường có sự nhàn tịnh, hiện ra lời muốn nói, đắm trước cái vô trước; tiếng nói thành lời, là giảng luận đàm thoại. Nếu người như pháp, không có sai phạm. Đó gọi là lời thanh tịnh của Bồ-tát.

Sao gọi là tâm Bồ-tát là thanh tịnh?

Tâm đó là gốc, không thể nhiễm ố. Vì sao? Vì tâm vốn thanh tịnh vậy. Cho nên nói lòng dục ô uế, xấu xa; Bồ-tát đối với tâm ấy không có chỗ dính mắc; hiểu rõ quyền biến của tâm đối với nó vốn thanh tịnh.

Lại nữa, tâm hành không chọn gốc đức, gốc đức ấy lại biết rõ gốc tâm; dùng tâm hành này thương yêu chúng sinh, rõ biết nó là không, vô ngã, vô nhân. Gốc đức của tâm ấy, giúp xem xét nơi đạo, biết đạo kia bình đẳng. Người xem xét như vậy, gọi là tâm tịnh. Đem tâm tịnh này, so cùng với các việc dâm, nhuế, ngu là đồng nhau, nhưng vĩnh viễn không nhận sự ô uế của dâm, nộ, si, đồng hành động mà không dính mắc vào các ô uế.

Đó gọi là ba sự thanh tịnh của thân Bồ-tát.

Khi Đức Phật nói Pháp đạo phẩm thanh tịnh này, có ba vạn các Bồ-tát đạt được Bổ sinh xứ.

 

Phẩm 3: ĐẠO VÔ TẬP

Lại nữa, này Long vương! Vị Bồ-tát ấy nhờ tâm sáng này, sinh nơi dục giới; nhưng tại hình giới, ở chung với chư Thiên, giữa chúng Phạm thiên cùng an nhiên tốt đẹp; ở tại đó, hoặc động hoặc tĩnh không ai hơn được.

Lại nữa, Bồ-tát ấy hay hàng phục chư Thiên, dùng phương tiện để hóa độ, hoặc sinh ở Sắc giới, mà ở tại Dục giới, như đang có gia đình, cùng chúng sinh vây quanh, hoặc ngồi hoặc đứng; vị ấy không ở chung với chúng sinh ngã mạn, lười biếng, cũng không tự xem thường. Vị ấy nhờ đó, tịnh các định, chánh thọ, hoàn toàn dùng định tự thân, không theo định bên ngoài. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy dùng phương tiện quyền xảo nên tâm thanh tịnh.

Này Long vương! Nếu Bồ-tát, hiểu biết hạnh thanh tịnh, phải tu hành thanh tịnh, rồi mới tập đạo. Như vậy, này Long vương! Bồtát không tập, để cầu đạo tập; nhờ không tập, vô tập, dùng tập tưởng đạo, cũng không tập; đối với sự tu tập, để mong cầu đạo, cũng không cầu tập; hiểu rõ đạo tập, không tập sở sinh, mong cầu đạo tập; không tập hành diệt, mà làm đạo tập, cũng không cầu tập, để làm đạo tập. Không tập vô tập làm đạo tập; không tập sự chấp hay xả đế, tập đạo tập. Không có ngã, nhân và thọ giả; không có thân vô thường; không có thân tánh khổ; không có thân hữu ngã; không có thân mộng, huyễn, ngựa hoang, như bóng nắng, tiếng vang; cũng không có thân Không, Vô tướng, Vô nguyện; không có thân, vì pháp vô dục, hành tập đạo. Nói tóm lại, thân tánh tốt của các hữu tình, cũng không hưng khởi mười hai nhân duyên, cho đến pháp vô dục, già, chết; không số vô số; đạo tập vô nhị; bất tục, vô tục; bất lậu, vô lậu; bất phạm, vô phạm; tập của không hai để cầu đạo tập.

Lại nữa, các pháp, tập của vô tập là đạo vô tập. Đó gọi là tập đạo tập, bất tập. Ví như hư không, vô tập cũng không là vô tập. Phải tập như vậy, gọi là đạo vô tập, vô tướng, vô nguyện. Vị ấy không tạo tập, cũng chẳng vô tập. Phải tập như vậy, không ngẫu nhiên, chẳng tình cờ, vì các pháp là vô trụ. Siêng tập như vậy mới đúng đạo tập.

Ngay khi Đức Phật Thế Tôn thuyết hạnh thanh tịnh này, là Pháp đạo phẩm vô sở tập; có ba vạn hai ngàn vị trời và người ở thế gian, đều được nhẫn của pháp lạc, không từ đau sinh ra; có năm vạn trời và người, từ xưa không phát tâm Bồ-tát nay đều phát tâm với đạo Vô thượng Chánh giác. Có bảy vạn Bồ-tát chứng được pháp Nhẫn.

Bấy giờ tất cả hội chúng đồng lòng nói:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có tộc tánh nam và tộc tánh nữ được nghe pháp vô tập, đạo phẩm thanh tịnh này. Nếu nghe xong mà tâm ý không hoảng sợ, không bỏ, không thoái lui, tức họ đều thọ tập đạo Vô thượng chánh chân của Như Lai, họ sẽ chuyển được xe pháp mà chư Phật đã chuyển.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát ấy đều được đạo ý Vô thượng chánh chân; vì vô lượng người mà phân bố pháp này, cũng lại sẽ ngồi tòa Sư tử, ở nơi trên trời, dưới trời, trong nhân gian, rống lên thật lớn tiếng sư tử, giống như hiện nay Đức Như Lai đã làm, để hàng phục chúng ma, xô ngã ngoại đạo, hiển hiện cái lọng của cây pháp, thắp sáng đuốc pháp, trống pháp vang rền như sấm sét, làm tuôn mưa pháp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy các chúng sinh, rồng thần, người chẳng phải người và bốn chúng, nghe pháp được nói ra ấy, không ai mà không vui sướng. Do đó, Đức Như Lai vì A-nậu-đạt muốn diễn rộng lại nghĩa này, nên nói bài kệ:

Đạo chẳng tập mà được
Và không khởi tập tưởng
Hành đạo ấy thêm sức
Xa lìa tập – niệm – hành
Không mong cầu tập đạo
Trừ sạch các tưởng khác
Đạo hoàn toàn không tập
Trong sạch tựa trăng sáng.
Nếu ai khởi tập tưởng
Không xứ cũng không tập
Đã qua vô tập xứ
Chứng được đạo tối thượng.
Đạo là niệm vô ngã
Cũng không cùng rỗng, tập
Đạo này không có hai
An lành mà vô thượng.
Thọ mạng cũng như vậy
Không người và lời nói
Đạo này không có người
Không mạng, cũng không trụ.
Các người có tập đạo
Muốn trụ nơi trống không
Họ cánh xa đường Thánh
Vì không đúng đạo tập.
Đạo cũng không có không
Vì xa bỏ hữu tập
Như gốc đồng một tướng
Vốn không, không với không.
Đạo là không khởi tướng
Cũng không có diệt tướng
Không khởi cũng không diệt
Đó mới là đạo tập.
Giọng ta giống như huyễn
Hiểu tưởng, phải như vậy
Giữ tưởng, hành sở tập
Đạo từ đâu sinh ra?
Đạo là vượt khởi đời
Nó không có thân tập
Cũng không diệt thân hành
Mới đạt được ở tập.
Là nhà của thân căn
Vốn không chỗ rộng nói
Nó không có mong cầu
Chẳng gì, không đạt được.
Người thực tập đạo này
Nên như như gốc không
Như vốn biết gốc không
Đó là đúng đạo tập.
Các pháp vốn là không
Sự hiểu giống như huyễn
Hiểu, hành được như vậy
Mới đúng là tập đạo.
Nếu ai không đến đạo
Việc làm như chẳng trụ
Không thể dứt việc làm
Phật pháp không nhờ đạo.
Nếu như đã tập đạo
Cùng với sự không tập
Đã diễn nói như vậy
Nhờ trụ nơi gốc không.
Đạo khác có giới hạn
Là chỗ nương Tiểu thừa
Đây là đạo Vô thượng
Chỗ khởi ra Đại thừa.
Ai hưng khởi đạo này
Để đạt được không trụ
Đó là rõ hạnh đức
Có thể hợp đạo tập.
Đạo chánh mà không hiểm
Ngay thẳng lại bình thản
Cần làm gần đạo này
Vĩnh viễn lìa tà đạo.
Nếu như vậy, Long vương
Tự ở trong cung mình
Bất động nơi xứ sở
Trút mưa đầy biển cả.
Đại sĩ cũng như vậy
Tập đạo như đã làm
Pháp thân mà không động
Có thể đầy biển trí.
Lại như, này Long vương
Ở trên mặt đất rộng
Dùng mưa rưới đầy khắp
Mà thân không dính ướt
Đức Bồ-tát cũng vậy
Thực hành sở tập này
Rưới pháp khắp chúng sinh
Trong lòng không dính mắc.
Cũng vậy, A-nậu-đạt
Long vương! Đại thần biến
Đạo đức lớn như vậy
Cảm động khắp mười phương.
Chúng sinh đạo tà kiến
Tùy thuộc vào chấp kiến
Người trụ nơi đạo này
Tùy thuận độ vô vi.
Đã trụ nơi đạo này
Quả Bồ-tát to lớn
Hàng phục ma Ba-tuần
Cùng với tà ngoại đạo.
Đắc đạo như Chân Như
Như đạo không lay động
Vượt qua các pháp tục
Cũng giống như hoa sen.
Tâm đạo không có ngu
Là hành vi dừng trụ
Ngàn số các chúng sinh
Hóa độ lập nên đạo.
Vì thường ở đạo này
Cho đến được năm tuần
Thần túc các cảm động
Vì chúng, rộng nói pháp.
Các việc đều thanh tịnh
Thân, miệng, cùng với ý
Nên mong đường Hiền thánh
Nhân tánh không thể biết.
Hạnh nhẫn là không chấp
Ai làm sẽ đến đích
Sẽ đến chỗ Như Lai
Chỉ dẫn các chúng sinh.
Sinh tử đã chấm dứt
Chỗ ấy là Như Lai
Tương tự như đến đó
Thật ra không chỗ đến.
Chỗ chúng sinh đến được
Phải nhớ chỗ cao kia
Học đạo Phật, tối thượng
Rong chơi bằng pháp huyễn.
Làm vậy là tập đạo
Chỗ tập đúng như đạo
Là hạnh nghi các đức
Được chư Phật khen ngợi.
Đức ấy không cùng tận
Trọn, không bao giờ hết
Người tập đạo như vậy
Không tập, cũng không trụ.
Nơi ấy không ác ma
Hoàn toàn hành không chấp
Ai thuận theo đạo này
Không khởi cũng không diệt.
Đã được ý chí hạnh
Tổng trì đại biện tài
Tuệ trí và giới nhẫn
Mãi tăng tiến như biển.
Thân, miệng, uế không còn
Tâm sáng đến trong sạch
Uế tiêu sạch dấu vết
Người tu theo đạo ấy
Được chứng đắc trí đạt
Chỗ thực tập thâm diệu
Tuệ khó động, không khởi
Giữ tập, đó là đạo.
Các Bậc Tối Chánh Giác
Quá khứ và tương lai
Hiện tại cũng như vậy
Đạo đặt ra, đời tựa.
Ngài đã lìa các nạn
Gặp đời nhiều tai nạn
Mãi làm đệ tử Phật
Ai nghe được pháp này
Tốt thay! Các chúng sinh
Rất tốt nghe pháp này
Ứng Chân thờ Như Lai
Nên ưa thích kinh này.
Nếu hiểu đạo tập này
Hãy đoạn các tình thái
Đức đầy, các tướng đủ
Được làm tướng ba cõi.

Pages: 1 2 3 4