KINH HOA THỦ

Quyển VIII

27 – Phẩm Tạp thứ hai mươi bảy

Phật bảo Xá Lợi Phất rằng có bốn pháp cứu độ. Những gì là bốn?

1) Chúng sanh sợ hãi Như Lai cứu độ

2) Kẻ rơi vào đường tà, bậc Thánh cứu độ

3) Những người tạo nghiệp ác nhờ bốn niệm xứ để cứu dộ

4) Những người ở trong tám nạn, Bồ Tát có thể cứu độ. Ðó là bốn pháp.

Xá Lợi Phất có bốn pháp an lạc. Những gì là bốn?

1) Sanh ra đời được gặp Phật

2) Sanh ra nơi không các chướng nạn

3) Chánh tín Phật pháp

4) Ðủ chánh kiến thánh thiện. Ðó là bốn pháp.

Xá Lợi Phất, lại còn bốn pháp có thể tạo nên sự nghiệp. Những gì là bốn?

1) Bốn đại điều hòa làm cho thân thể an lạc

2) Có chánh kiến nên tâm được thanh tịnh chất trực

3) Thấy Phật phát niệm tin, vì người tạo nhân an lạc

4) Phát tâm vô thượng nên trừ được các phiền não của vô số chúng sanh. Ðó là bốn pháp có thể thành sự nghiệp.

Lại này Xá Lợi Phất, ở đời có bốn điều nguyện ước. Những gì là bốn?

1) Người bịnh héo hắt (lo sầu) mong được khỏi

2) Ðói khát dằn vặt mong được ăn uống

3) Khổ não bức ngặt mong muốn thoát ra

4) Kẻ đi đường xa mong được an ổn. Ðó là bốn điều mong ước.

Này Xá Lợi Phất, trong thế giới có bốn chỗ tham chấp, do tham chấp nên đọa vào đường ác. Những gì là bốn?

1) Một là tiếc thân mạng

2) Hai là muốn sống lâu

3) Ba là tham tư lợi, tài sản

4) Bốn là đắm mê sắc dục.

Ðó là bốn tham chấp.

Này Xá Lợi Phất, có bảy chỗ chứa gọi là chứa hơi, chứa sống, chứa chín, chứa lạnh, chứa nóng, chứa thấy, chứa dục; trong các chỗ chứa ấy, chứa dục là sâu thẳm hơn hết. Dục này nương vào gì? Dục đây nương nước mắt, nước bọt, đờm, dãi, mũ, máu, gân, xương, da, thịt, tim, gan, ngũ tạng, ruột già, bao tử, bàng quang (bọng đái)…

Lúc bấy giờ trong chúng có một người cư sĩ tên là Tuyển Trạch, có vợ tên là Diệu Sắc, diện mạo đẹp đẽ, hình dung đĩnh đạc. Cư sĩ luôn luôn yêu mến vợ nên phiền não dẫy đầy. Khi nghe Phật nói thế, liền bạch Phật rằng, bạch đức Thế Tôn: đừng nói thế. Tâm dục chỉ khởi ở đường bàng quang. Tại sao? Vì vợ con đẹp đẽ không một vết nhơ nào cả. Phật biết ông cư sĩ tham đắm dục tình sâu nặng, tức thì hóa thành một phụ nữ đẹp đẽ nhan sắc giống như Diệu Sắc, khoan thai từ từ bước vào nhập chúng. Cư sĩ trông thấy nghĩ rằng, vợ ta tại sao vào trong chúng đây? Nghĩ xong bèn hỏi: có việc gì em lại tới đây? Ðáp rằng: muốn nghe đức Thế Tôn thuyết pháp. Cư sĩ liền vén y ngồi xuống. Phật dùng thần lực khiến cho người đàn bà vẩy phẩn dơ vào áo cư sĩ, làm ông ta không thể chịu nổi được mùi hôi thối, nên dùng tay bịt mũi ngoáy nhìn sang bên phải. Hỏi: người này là ai? Lúc đó ngài Bạt Nan Ðà ngồi bên phải, hỏi cư sĩ: tại sao ông bịt mũi nhìn tôi là nổi gì? Cư sĩ đáp: chỗ này thật là bất tịnh.

Phật dùng thần lực làm cho Bạt Nan Ðà và đại chúng trông thấy người đàn bà trây phẩn dơ trên áo cư sĩ. Lúc đó Bạt Nan Ðà bảo cư sĩ rằng, ông hãy xem vợ ông đang trây mùi hôi hám kìa! Cư sĩ đáp: tôi không tin điều đó. Vợ tôi sạch sẽ, thân thể không hề dơ bẩn. Nếu người nào nghi nên tự xét lấy; báo cho Bạt Nan Ðà biết, theo ý tôi thì chính ông làm dơ uế đó.

Lúc đó Bạt Nan Ðà phát cáu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bảo Tuyển Trạch: ông không biết hổ thẹn, ai cho tên ông là cư sĩ đa? Phải gọi ông là cư sĩ đái mế mới đúng! Tại sao không lấy tay lột áo trên của vợ ông ra? Lúc vợ ông ngồi đã có mùi phẩn xông lên rồi. Ông ngồi tiểu dải ra đó dơ dáy đã không biết xấu hổ, lại còn muốn vu khống cho người ta. Lúc đó trong chúng đồng hô to lên: ông cư sĩ đái mế này nên dan ra khỏi chúng. Họ chỉ vào ông mà bảo: người nhơ nhớp không nên ở trong chúng, rồi lấy tay lôi ông ra khỏi. Lúc đó Tuyển Trạch càng ngờ vực bảo vợ: tôi thương mến bà nên cho mặc y pháp. Bà là pháp của bậc đại nhân có xứng đáng làm vậy không? Vợ liền đáp: ông đại tiện ra đấy thì phải nhận chớ?

Lúc đó cư sĩ phát chán nãn muốn cởi bỏ áo dính phẩn để khỏi bẩn thân thể. Cư sĩ hỏi ngài Bạt Nan Ðà: có cách gì làm cho hết mùi hôi thối không? Bạt Nan Ðà nói: phẩn dãi không trực tiếp làm dơ uế thân ông mà có những thứ làm cho suy não từng phần thân thể. Nếu muốn xa lìa thì nên đi xa, vì vợ ông trây trắc phẩn làm cho đại chúng nhức đầu, phiền toái. Cư sĩ đáp rằng, các Ngài dòng họ Thích nên dũ lòng lân mẫn, các vị nở nào nặng lời như thế sao? Bạt Nan Ðà nói: như ông làm sao có thể thương xót được, lời Phật nói còn dám trái nghịch; ông cho vợ ông đẹp, không có điểm xấu nào. Nay ông nên tự xét việc tinh khiết không nên chê bai ta. Lúc đó cư sĩ gọi vợ bảo rằng, bà nên trở về đi, rồi xoay qua nói với Bạt Nan Ðà: tôi thấy rõ ràng, người đàn bà này ưa nịnh hót có quá nhiều lỗi lầm, bất tịnh không thể tưởng, nên tôi quyết lánh xa muốn theo Phật xuất gia làm đạo. Bạt Nan Ðà nói: hình thể ông đang nhơ nhớp thế kia, nếu dùng dầu thơm xoa phải trong nhiều năm, may ra mới có thể kham nổi việc xuất gia được. Cư sĩ trả lời rằng, nếu tôi bôi dầu thơm trong nhiều năm, cái thân vô thường hoặc Phật diệt độ mất có phải làm hỏng nhân duyên xuất gia cầu đạo của tôi không? Nay nếu thấy nghe mà được xuất gia tôi quyết không trở lại thành ấp, xóm làng nữa. Lấy tăng phòng, tịnh xá làm chỗ tịnh tu, đi xin ăn, mặc áo nạp (1), ở nơi vắng vẽ ai nghe biết tiếng xấu của tôi đâu.

Phật nghe thế bảo: này cư sĩ, ông muốn xuất gia theo giáo pháp của ta, phải không?

– Mong thay, đức Thế Tôn!

– Phật bảo: lành thay! ông muốn làm sa môn tu hành giới hạnh thanh tịnh, tức thì râu tóc cư sĩ tự nhiên trụi nhẵn, thân mặc áo ca sa (2), mang bình bát như hình dáng các thầy tỳ kheo.

Phật vì ông nói pháp: khổ, tập, diệt, đạo. Nghe được pháp tứ thánh đế cư sĩ được pháp nhãn thanh tịnh, chứng quả Tu Ðà Hoàn. Phật vì ông thuyết pháp giáo hóa, dần dần ông được quả Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, trãi qua đêm đó, ông mang y, cầm bình bát vào thành Vương Xá theo thứ lớp đi khất thực. Khi đến cổng chính, ông đứng bên ngoài. Lúc đó bà vợ Diệu Sắc trông thấy chồng mình cạo đầu, mặc áo tu, bà liền hỏi: ông theo đúng pháp xã bỏ tất cả để làm sa môn chăng? Tuyển Trạch đáp: hôm qua bà trây trét trên áo tôi đồ dơ uế làm bẩn cả thân tôi. Diệu Sắc nói: ông làm tỳ kheo mà đi vu khống người ta hả? Tôi từ nhà thân phụ đến nhà ông chưa thấy cửa ngoài huống gì đi tới Trúc Viên vào chỗ đại chúng?

Lúc bấy giờ tỳ kheo bảo Diệu Sắc rằng, có Bạt Nan Ðà là người trong đại chúng thấy và đuổi ta ra khỏi. Lúc đó có một ác ma theo sát Tuyển Trạch và bảo rằng, người ông thấy hôm qua đó không phải là Diệu Sắc đâu mà do sự biến hóa ra để mê hoặc tâm ông đấy, nay thì ông có thể trở lại vui trong ngũ dục. Sa môn Cù Ðàm (3) khinh dễ ông đến thế sao! Ông chỉ giả dối không phải là tỳ kheo thật. Sa môn Cù Ðàm thường dùng thuật này làm mê hoặc nhiều người, khiến người xuất gia như nay đang dối gạt ông đây. Tuyển Trạch tỳ kheo chứng được chân pháp nên biết ma hiện ra, liền bảo ác ma: ngươi biến hóa, ta cũng biến hóa, Diệu Sắc đây cũng đều biến hóa. Phật thuyết pháp không có biến hóa.

Lúc bấy giờ Diệu Sắc nghe pháp xong liền xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, dứt hết nghi ngờ, không tin theo lời khác, ở nơi Phật pháp được sức vô úy, nói với Tuyển Trạch: thật lành thay! Nay đối với Phật pháp, muốn tu phạm hạnh, nên tôi cũng muốn xuất gia hành đạo.

Phật bảo Xá Lợi Phất rằng, nếu người phát tâm cầu đạo Bồ Ðề phải xa lìa bốn pháp. Những gì là bốn?

1) Xa lánh bạn bè phe nhóm ác, và những người ác tri thức, không có hạnh lành. Ðó là pháp đầu tiên phải nên xa lánh.

2) Người phát tâm cầu đạo Bồ Ðề phải nên xa lánh không nên đắm mê nữ sắc, không làm việc chung đụng với người đời. Ðó là pháp thứ hai phải nên xa lánh

3) Người phát tâm Bồ Ðề phải xa lánh sách luận ngoại đạo, sách về lõa thể, sách của phái Lộ Già Da (4), Mạt Già Lợi… không phải là những lời Phật nói, không nên gần gủi, nghe nhận, đọc tụng. Ðó là pháp thứ ba cần phải xa lánh.

4) Nếu người phát tâm cầu đạo vô thượng không nên gần gủi tà kiến, ác kiến. Ðó là pháp thứ tư cần phải xa lánh.

Này Xá Lợi Phất, Như Lai không thấy có pháp nào khác ngăn trở lớn Phật đạo bằng bốn pháp này. Vì thế Bồ Tát phải nên xa lià. Xá Lợi Phất, nếu muốn chóng đạt được đạo vô thượng Bồ Ðề phải tu bốn pháp. Những gì là bốn?

1) Bồ Tát nên theo thiện tri thức, vì bậc thiện tri thức ấy chính là chư Phật. Nếu Thanh Văn làm cho Bồ Tát trụ trong pháp thâm sâu của trí huệ, cũng là thiện tri thức của Bồ Tát, nên gần gủi, kính lễ.

2) Bồ Tát nên thân cận người xuất gia, cũng như nên gần gủi pháp vắng lặng

3) Nên lìa xa nữ sắc

4) Phải nên thân cận tu tập pháp không, chánh kiến, xa lìa tà kiến.

Xá Lợi Phất, nếu chư Bồ Tát muốn chóng đạt được vô thượng Bồ Ðề phải thân cận bốn pháp như thế.

Lúc đó đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Xa lánh hẳn người nữ
Và cả tri thức dữ
cũng xa luận ngoại đạo
Tà kiến tránh xa ráo.
Nếu gần gủi người nữ
và kẻ tri thức dữ
Xét luận ngoại đạo nữa
tà kiến hẳn tăng trưởng.
Vì tà kiến bám vướng
đọa ác nạn lẽ thường
Tám nạn (5) khó lìa được
cũng khó tin Phật pháp.
Như người ưa làm ác
nên chuyên tạo ác hạnh
thì ác thú chuyển sanh.
Người cầu đạo hiểu rành
nữ sắc chớ có gần
phải xa lánh thì hơn;
Quán xét như chuồng heo.
Ác tri thức chớ theo
rơi vào nơi phi pháp.
Nếu làm điều xấu ác
khiến niềm tin người mất.
Nếu ngoại đạo ưa gần
bọn Ni Kiền luận sư
lời lẽ tuy nghiêm từ;
nhưng chứa bao ác sự.
Quyết xa lìa chúng dữ
thì tránh khỏi tà sư.
Ta nói bốn pháp như
lại qua bờ sanh tử
đoạn lìa pháp tệ hư.
Tập gần hạnh khiêm từ
như ta trong quá khứ
thực hành pháp chân như.
Xuất gia phạm hạnh giữ
thiện tri thức gần gũi.
Chư đệ tử, Phật lực
khiến ta nương Phật đức
thường tu hạnh “không nhàn”
trống vắng và rãnh rang.
Tuy thực hành pháp không
mà chẳng chút bận tâm
như pháp và sở đắc
cả hai chẳng phải không
ấy thật là “chân không”
Thế gian khó đo cùng
ta vì Phật đạo dùng
các pháp thông tu tập.
Pháp thông thật tinh vi
trí phàm phu khó bì.
Lúc ta cầu Bồ Ðề
kinh pháp đều được nghe
trong tâm tự nghĩ suy
chẳng theo tà thuyết khác.
Ta tự hiểu thấu đạt
diễn nói nhiều người khác
ấy là đạo chánh chân.
Không, vô ngại, tịnh thanh
trong không, chẳng có sanh
và già cũng không thành.
Trong không cũng chẳng tử
ấy là tướng thường trụ
và là pháp thật tướng
đạo mầu thấu triệt được
dẹp phá chúng ma binh
được đạo quả vô sanh
Ðem chỗ ta đắc pháp
ra diễn nói cho người
chứng đạo vô thượng rồi,
thì không còn chuyển tướng.
Nếu muốn đạt Phật hướng
và ngồi tòa đạo tràng
phá dẹp chúng ma vương
tu pháp quán “không” thường.
Nếu có người muốn chuyển
pháp luân vô thượng truyền
Ðộ chúng sanh vô biên
nên học pháp không huyền.
Muốn nương mười lực Phật
vô sở úy bốn bậc
như tiếng sư tử rống
phải học các pháp không.
Muốn nghe nhiều hiểu rộng
truyền bá khắp mười phương
chính tâm tu tập thường
hiểu rõ pháp không nương
Chư Bồ Tát bậc trí
theo học pháp không tướng
đạt Bồ Ðề vô thượng
bậc trí tuệ cao vọi,
Tỳ kheo ni, tỳ kheo
nếu theo học hạnh ta
cũng chứng đắc đạo quả,
như ta chẳng lạ xa.
Chẳng phải hai chúng đây
tu hành pháp ‘không’ nầy
mà tất cả chúng sanh
Phật đạo được viên thành.
Ta vào thẳng đạo tràng
tu tập pháp không nhàn
hiểu rõ tướng thế gian.
Chứng vô thượng chánh giác
nhờ tu hành đúng pháp
nên được trí vô ngại
Chư Phật chứng chân đạo
do tập hạnh ‘pháp không’
Chư Bồ Tát một lòng
vì lợi ích chúng sanh
nên phải học pháp tông
gọi là các ‘Pháp Không’

Này Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát còn có bốn pháp đời đời chuyển thân sanh ra không mất chánh niệm theo đúng pháp tu hành. Ðối với các pháp có tâm quyết định được biện tài vô ngại, luận giỏi, luận sâu và biện bác tuyệt luân. Chư Phật biết rõ nên gia trì thần thông lực cho đời sau được ủng hộ Phật pháp. Những gì là bốn?

1) Thường ưa xuất gia đời đời tu tập pháp xuất thế, vì lợi ích chúng sanh. Tâm cầu pháp không chán, thuyết pháp không hề mỏi mệt. Tu pháp không nương vào các tướng hoại diệt. Thường tinh tấn tu niệm Phật tam muội, ở trong mọi duyên mà không tranh luận. Ðó là pháp thứ nhất không mất chánh niệm.

2) Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát tự cầu Phật đạo, nhiếp hóa chúng sanh khiến trụ trong giáo pháp, thường hay tán dương công đức chư Phật. Ðó là pháp thứ hai không mất chánh niệm.

3) Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát đạt được pháp vô sanh vi diệu. Ðó là pháp thứ ba không mất chánh niệm.

4) Bồ Tát lúc mạng chung tâm không tán loạn, thường niệm Phật và các pháp nhiệm mầu. Ðó là pháp thứ tư được pháp nhẫn vi diệu không mất chánh niệm.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Bồ Tát hằng cầu pháp
pháp bố thí rộng khắp.
Vì thế trong các pháp
chánh niệm trọn không mất.
Vô số chúng độ tận
khiến trụ nơi đạo Phật.
Ðời đời lúc chuyển thân
chánh niệm thường chẳng mất
xưng tán được gần Phật
vắng lặng pháp thậm thâm.
Vì thế Bồ Tát chúng
được pháp ‘vô sanh nhẫn’;
cũng chẳng tưởng ‘vô sanh’
Vô sanh tức không sanh
do tu pháp ‘nhẫn’ thành
nên chẳng mất niệm chánh
Hàng Bồ Tát bậc trí
chẳng tán tâm lúc mất
thường chuyên niệm hiệu Phật.
Nhiệm mầu trong Phật pháp
người kia lúc hối hấp
tâm tư không lui sụt;
đời đời chuyển đổi thân
chánh niệm vẫn hằng còn.
Vì thế nếu có người
muốn thành đạo chánh chân
tu tập phải nhất tâm
như bốn pháp trên đây
là pháp hay bậc nhất
xưng tán từ chư Phật.
ta cũng ngợi khen thật.
Các vị phải tu tập
là niệm Như Lai pháp.
Tất cả vì lợi ích
đại chúng Phật diễn thuyết
chẳng riêng diễn cho ai.
Nếu ông cầu Phật trí
phải tu pháp Như Lai.
Tu học đạo nhiệm mầu
từ đây sanh Phật tuệ.
Người nào tâm biếng trễ
ý định lui ngưng trệ
trọn chẳng nên Phật đạo
phải tránh xa việc hão…
Nương tâm ta người nào
không theo chúng sanh tưởng.
Nếu dựa pháp bám nương
thành Phật khó mong được.
Phải lìa tâm kia trước
Tu tập pháp không tướng
diệt hết thảy loạn tưởng
trí sâu muốn đạt được
cũng chớ có dựa nương
nương tức loạn động vướng.
Vì ưa pháp như thế
qua lại trong tử sanh.

28 – Phẩm THẦN DIỆU thứ hai mươi tám

Phật bảo Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp có thể đạt được tất cả pháp vi diệu. Những gì là bốn?

1) Như người phát tâm Ðại Thừa, thấy pháp sắp diệt, vì muốn cho tồn tại lâu dài nên phải có sự nỗ lực tinh tấn cầu pháp không biết mỏi mệt. Hoặc thấy chùa tháp Phật bị hư hại cần nên sửa sang lại để được lâu dài. Vì mến giáo pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Thấy chúng sanh đau khổ sanh lòng đại bi, thực hành tinh tấn, phát nguyện thế này: lúc nào còn tu tập Phật đạo phải thuyết pháp để trừ diệt mọi nổi thống khổ.

2) Ðại Bồ Tát cầu pháp không chán. Vì cầu pháp nên phát tâm sâu xa để đạt được điều nguyện mong muốn. Ðại Bồ Tát vì cầu đại trí nên có uy đức vô cùng, phá tâm kiêu mạn. Ðại Bồ Tát ở trong chúng sanh làm hạnh từ tâm. Vì muốn làm lợi ích nên nghĩ rằng: những chúng sanh này không ai cứu giúp, duy chỉ một mình ta. Ðại Bồ Tát vì không sân hận, nên tu pháp đại bi. Ðại Bồ Tát vì không ganh ghét, làm cho chúng sanh được chân trí huệ. Ðại Bồ Tát, vì không keo kiệt nên thường đem pháp hóa độ chúng sanh. Ðại Bồ Tát là người đại thí nên đem thâm tâm vui trong Phật đạo. Ðại Bồ Tát đối với các pháp tâm không tham chấp. Ðại Bồ Tát là người khéo nói, nét mặt hòa vui, thường hay mỉm cười, nên thấy chúng sanh đau khổ lại càng tinh tấn hơn. Ðại Bồ Tát mến ưa Phật pháp. Ðại Bồ Tát không hề sợ sệt, trong đại chúng oai như sư tử gầm. Ðại Bồ Tát vì không khiếp hãi nên duy trì được Phật pháp. Ðại Bồ Tát thường cần tinh tấn, tu tập các căn lành. Ðại Bồ Tát trong các xứ sở, thành ấp, xóm làng không bị vướng buộc. Ðại Bồ Tát thường phải giáo hóa tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới. Ðại Bồ Tát thông minh trí tuệ, thấu triệt các pháp. Ðại Bồ Tát cầu nghĩa chân thật để suy lường vạn pháp. Ðại Bồ Tát trong Phật pháp muốn thấu rõ nghĩa chân thật để tự cầu chứng vô thượng Bồ Ðề. Ðại Bồ Tát là người giác ngộ, khéo biết thời cơ giáo hóa chúng sanh.

3) Ðại Bồ Tát vì pháp phá vỡ những luận thuyết ngoại đạo. Ðại Bồ Tát trong tất cả các pháp là nghĩa quyết định. Ðại Bồ Tát vì Phật pháp. Ðại Bồ Tát vì ruộng phước để phát sanh pháp bảo. Ðại Bồ Tát như đại dương dung nhận được hết mọi vật. Ðại Bồ Tát như núi Thiết Vi ngăn che gió phiền não của vô số chúng sanh. Ðại Bồ Tát như nước đại dương, nói pháp không cùng tận. Tâm Ðại Bồ Tát thuần tịnh bao la như hư không. Ðại Bồ Tát là người vô tận sánh bằng hư không. Ðại Bồ Tát như núi Tu Di chứa các pháp lành. Ðại Bồ Tát như đất bằng nhận hết mọi ghét thương. Ðại Bồ Tát như ruộng tốt chứa hạt giống lành không để rơi rớt. Ðại Bồ Tát như mặt trời cho chúng sanh ánh sáng Phật pháp. Ðại Bồ Tát như ánh trăng thanh quét sạch hết mọi tối tăm. Ðại Bồ Tát như cây dù lớn che chở các sự dâm, giận, si, phiền não của chúng sanh. Ðại Bồ Tát như mây phủ làm an ổn hơi thở chúng sanh. Ðại Bồ Tát như cây đại thọ làm chỗ hướng về của chúng sanh. Ðại Bồ Tát làm người cứu độ thế giới, kẻ nương về, chỗ nương tựa, người thí không sợ. Ðại Bồ Tát là thầy của thế giới, trong mọi kỹ thuật đều thông suốt hết. Ðại Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh nên ban cho Niết Bàn an lạc đời này và đời sau. Ðại Bồ Tát vì thế mà tất cả chúng sanh đều nên kính lễ.

4) Nếu chúng sanh biết Bồ Tát vì các hạnh khổ khó làm như thế mà thay cho để gánh vác, vì nhân duyên cầu được an lạc. Như ta biết các chúng sanh ấy đáng được đội trên đầu hoặc vác trên vai. Từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, trong thời gian đó, tất cả chư thiên các cõi và loài người có những đồ dùng tốt nên đem cúng dường; cũng như thường đội họ trên đầu, không để đi dưới đất. Hoặc Bồ Tát ấy lúc đến đạo tràng nên đem đồ mặc tuyệt đẹp, hoặc dùng thiên y hình hoa sen rực rỡ trãi lên tòa cao cho tới đỉnh đầu, hoặc lấy áo thiên bảo che chở nắng gió. Khi đạt được đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, dùng hương hoa, tràng phan, ca nhạc, cũng như tự đích thân hầu hạ cung phụng. Những chúng sanh như thế đều đáng tôn kính cúng dường, vì không thể nào báo ân Bồ Tát hết được. Tại sao thế? Vì Bồ Tát ban cho chúng sanh đạo vô thượng an lạc, vô lậu thanh tịnh.

Này Xá Lợi Phất, đem cái dục lạc thế gian sánh với cái vui này trăm phần nghìn phần, trăm nghìn vạn phần không bằng một phần, cho đến dùng thí dụ cũng không thể sánh kịp. Tại sao? Vì chúng sanh cung cấp cho Bồ Tát những đồ dùng đều là của thế gian hữu lậu, hư dối, vô thường, biến hoại. Bồ Tát đã ban cho chúng sanh cái vui xuất thế vô lậu chân thật, không giận, không phiền, vô lượng, vô hạn rốt ráo thường lạc. Vì thế, Xá Lợi Phất, ông nên biết, chúng sanh đem tất cả đồ ưa thích cúng dường Bồ Tát cũng không thể báo ân được. Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát trong đám người ngủ mê mà làm kẻ giác ngộ; chỗ bọn phóng đảng làm người tinh tấn, nơi bọn cuồng loạn thường tu chánh niệm. Ở chỗ đám mù tối cho ánh sáng, giữa những người bịnh hoạn làm bậc đại y vương, trong bọn tà kiến, làm người chỉ rõ con đường ngay, nên đối với những chúng sanh chưa khởi thiện pháp làm cho phát khởi pháp lành. Ðối với những chúng sanh chưa tăng thiện pháp làm tăng pháp lành.

Xá Lợi Phất, nói một cách vắn gọn, không người nào có thể vì chúng sanh làm kẻ để chúng hướng về, kẻ cứu độ; người dẫn tới con đường cứu cánh. Chỉ có chư Phật, Phật pháp, pháp Như Lai, pháp tự nhiên không thể từ bên ngoài mà có, mà tất cả đều do Bồ Tát đạo phát sanh.

29 – Phẩm thuận nghịch thứ hai mươi chín

Lúc bấy giờ Xá Lợi Phất bạch Phật rằng, hy hữu thay Thế Tôn! Bồ Tát đạo vi diệu vô cùng, nên có thể tự thanh tịnh và làm cho chúng sanh thanh tịnh. Như đức Thế Tôn ở cung trời Ðao Lợi cùng với những cây ba lợi chất đa, cây câu tỳ la nở hoa thoảng hương thơm đẹp, cũng như làm đẹp cho chư thiên cõi Ðao Lợi. Bồ Tát cũng như thế, đầy đủ Phật pháp, vì chứng được vô thượng Bồ Ðề nên tự trang nghiêm, cũng như làm chỗ nương tựa hướng về cho vô số chúng sanh, chứng quả Thanh Văn được năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chánh đạo, thiền định, nhờ đó được an lạc, giải thoát. Cũng như các cây kia trổ hoa trãi khắp chư thiên cõi trời Ðao Lợi để tự làm tươi đẹp.

Bạch đức Thế Tôn, tại sao có những người trí không nương theo thừa này? Chỉ vì chúng giải đãi (lười biếng) tin theo lời lẽ ngoại đạo, nên lúc nghe pháp sanh tâm an lạc rồi tự cho là đã được an lạc. Nay biết ra họ không có năng lực có thể làm cho một người ở trong trung đạo (6). Bạch đức Thế Tôn, con từ nay đã có chỗ thuyết pháp, trước nói Bồ Tát thừa, rồi sau nói các thừa Thanh Văn khác. Tại sao? Vì như thế là con muốn báo ân Phật, có thể làm cho một người phát tâm vô thượng mau thành chánh giác.

Phật bảo Xá Lợi Phất, lành thay, lành thay! Nay ông phát tâm như thế là muốn nói pháp Ðại Thừa giáo hóa hàng Bồ Tát. Tại sao? Vì trong đời vị lai phần nhiều người hay khinh thường pháp Ðại Thừa này. Như thế không có người tin nhận các kinh điển. Này Xá Lợi Phất, lúc bấy giờ trong đời, nếu có người thiện nam thiện nữ nào muốn cầu thiện pháp phải suy nghĩ chân chánh, y nghĩa, y giáo pháp, chớ y theo người. Tại sao thế? Vì lúc bấy giờ trong đại chúng không có người hành đạo, chỉ có chúng Thanh Văn tu hành, không khinh hủy pháp Ðại Thừa, huống gì là còn sanh tâm phản nghịch kinh pháp vi diệu, là những lời chư Phật nói. Tại sao? Nếu phản nghịch thị phi là tạo nghiệp, mà đã tạo nghiệp thị phi là nghiệp của phàm phu, không phải nghiệp của kẻ trí. Xá Lợi Phất, vì thế ông nên học cách tạo nghiệp của người trí; xa lánh nghiệp của phàm phu. Nếu có tỳ kheo lấy ta làm thầy thì nên làm theo như thế. Xá Lợi Phất, nếu ở đời sau có người cầu Phật đạo, thâm tín tu hành nhứt tâm tinh tấn, biết hổ thẹn, muốn cầu thiện pháp, hoặc bị người khinh chê nói rằng: ông là kẻ lười biếng không làm nên được trò gì. Trong hiện đời không thể làm được sa môn,vì thọ năm món dục nên làm được quốc vương, hiện thực hành pháp môn tự cho là Bồ Tát, nhận kẻ khác tán dương cung phụng. Những kinh pháp Ðại thừa như thế, Phật không cho đây là của người hành đạo.

Này Xá Lợi Phất, xét về người ngu đem chuyện nhỏ nhặt khinh hủy ta, ta cho kẻ ấy là chân hành giả, vì y lấy phải làm trái. Như Như Lai nói, người có hạnh tối thắng thì được giải thoát cũng tối thắng; còn người lấy thị phi làm điều thì không thể nào giải thoát được. Xá Lợi Phất, lúc đó có một người cư sĩ, vì đệ tử hắn tin theo lời Phật dạy, thấy chư Bồ Tát, tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đọc tụng, tu tập các kinh điển nên sanh tâm thù oán. Xá Lợi Phất, người ngu ấy thì làm sao có thể giữ giới được. Như trong kinh ta đã nói, thấy cây cao vòi vọi như người không nên sân, huống gì là người hiểu biết. Người ác như thế ưa ôm lòng sân giận. Xá Lợi Phất, ông chớ xét thời thế đảo điên rồi tưởng pháp là phi pháp, hoặc phi pháp là pháp; thiện cho chẳng thiện, chẳng thiện cho là thiện. Trong khi thực hành tưởng chẳng thực hành; chẳng thực hành tưởng là thực hành. Trong giải thoát tưởng chẳng giải thoát, chẳng giải thoát tưởng được giải thoát. Nên biết rằng kẻ ấy không thể gọi là hành giả, cũng không thể gọi là người giải thoát. Vì không hiểu pháp, cũng như không biết điều thiện, nên không thể theo kịp những lời Phật dạy. Người si mê như thế bị sân hận làm mờ tối, bị tham lam, ganh ghét ngăn che, tự đề cao mình mà nhục mạ người. Bị tham giận, ngu si làm hại, nhiễm sâu điều ác, xa lià việc thiện.

Này Xá Lợi Phất như ta đã nói, lỗi lầm của người này cứ tiếp tục gia tăng nghiệp tội không thể cứu chữa được. Phải xa lánh người ngu như tránh trâu điên vậy. Xá Lợi Phất, Như Lai là thầy kẻ nào biết tàm quí, không phải kẻ không biết hổ thẹn; thầy người tin thọ, không phải với kẻ không tin. Thầy thuận giáo pháp, không phải kẻ phá hoại Phật pháp; thầy của người tinh tấn, không phải của kẻ biếng lười. Thầy kẻ nhiếp tâm, không phải của người loạn tưởng, thầy kẻ trí, không phải của người ngu si…

Xá Lợi Phất, người ngu si như thế chẳng phải đệ tử ta, ta cũng không là thầy hắn. Ông xem người ấy đối với Phật quả – trí tuệ Như Lai – phải tu trong bao nhiêu lâu? Phải tu học dài lâu mới đạt đại trí huệ, thành đạo vô thượng, tức là đem pháp này giảng cho Bồ Tát, nghĩ thế này: nếu có Bồ Tát theo học pháp ấy, tu tập trí huệ Phật, nên chóng đạt được đạo vô thượng Bồ Ðề để cứu độ chúng sanh thoát ly sanh tử, không đoạn mất Phật chủng. Như Lai cũng tôn trọng pháp này, còn người ngu khinh hủy không tin, thật là điều bất thiện trong những bất thiện. Ðó là điều khó nên các thầy phải nương pháp thực hành, chớ nương tựa vào người mà nên tự nương mình, đừng dựa vào kẻ khác. Xá Lợi Phất, đó là giáo pháp của Như Lai. Tại sao tỳ kheo phải y pháp thực hành mà không y người? Phải tự nương mình, không nên dựa vào người khác. Xá Lợi Phất, tỳ kheo phải biết xa lià, tùy thuận Niết Bàn, tu bốn niệm xứ. Sao gọi là niệm xứ? Vì thân thọ nhận, tâm nghĩ tưởng không xa lìa. Lại này Xá Lợi Phất, như thật thấy pháp thì không có tánh sở hữu. Trong các pháp giữ chánh niệm không sai lầm nên gọi là niệm xứ. Ấy là tỳ kheo nương theo pháp tu hành mà không dựa vào người khác; thường tự nương mình, chứ không dựa vào người. Xá Lợi Phất, nếu tu tập pháp niệm xứ như thế thì dứt trừ được tham chấp, gọi là bậc A La Hán, bậc lậu tận, kẻ không còn phiền não; người làm ruộng phước cho đời. Kẻ tự tại, người không nhiễm ô, gọi là bậc trí, kẻ tới bờ giác ngộ, là thầy dẫn đường, là Bà La Môn… Xá Lợi Phất, bậc A La Hán lìa tất cả ác, những pháp bất thiện, không ưa pháp hữu vi, diệt trừ ác nghiệp không cho phát sanh. Xá Lợi Phất, nếu A La Hán tạo nghiệp tội phước thì không có lẽ đó. Tại sao? Vì A La Hán đã xả ba món tham cầu (7) đổi thành chín việc thiện (8), nên đối với các pháp tâm không chấp trước; vượt khỏi cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, không khát ái, không giận, không phiền, tâm thanh tịnh như hư không, gọi là A La Hán. Xá Lợi Phất, gọi là kẻ lậu tận. Trong các pháp những phiền não đã dứt sạch không còn sót lại, đạt được rốt ráo không còn bị kết buộc. Tâm bậc A La Hán bản lai vốn không, vô cấu thanh tịnh, không bị nhiễm ô. Ở trong sáu trần (9) hoặc tốt, xấu, chê, khen, tâm không đổi khác, vì đã dứt trừ mọi hý luận. Kẻ làm ruộng phước cho đời, vì đã trừ hết phiền giận hay ban cho người pháp thanh tịnh bậc nhất. Gọi là người tự tại, vì thấy được mọi pháp đều không, không sở hữu. Trong pháp không ấy mà đạt đến giác ngộ, lìa mọi luận bàn hư vọng. Gọi là người Bà La Môn tự tại ngăn che các pháp ác, lìa tất cả mọi pháp không bị nhiễm ô. Là bậc đạo sư hay vì người mà thuyết pháp, dứt trừ sanh tử. Là kẻ trí, người biết nghiệp duyên, quả báo cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc đều do hư vọng, phân biệt mà sanh; ở trong đó mà được giải thoát. Là kẻ trí, người đến bờ kia, phá trừ ma chướng và, các kết buộc, đạt đến các pháp giải thoát, ra khỏi bùn lầy, yên ổn trên đất bằng, vì thế nên gọi là người đã đến bờ giác ngộ. Xá Lợi Phất, Như Lai có thể theo chỗ lậu tận của A La Hán có phước đức mà nói pháp không tăng không giảm, làm ruộng phước cho A La Hán, không còn xấu ác, cũng không bị hoạn họa và các chướng nạn. Xá Lợi Phất, nếu có người hủy báng bậc lậu tận A La Hán cũng không khởi nghĩ rằng, người này mắng ta; hay có kẻ xưng tán cũng không nghĩ, người này khen ta. Không còn niệm phân biệt, không có điểm nghi ngờ, khéo nhiếp phục sáu căn, trụ trong thiền định. Nương theo pháp thực hành, không nương theo người; nên tự nương mình, không nên dựa vào người khác. Vì thế Xá Lợi Phất, người thực hành như thế quyết không đi ngược lại đạo giác ngộ chư Phật, cũng không phải là người tạo nghiệp. Như thế chẳng là chỗ chê trách của người tu phạm hạnh, cũng như ra sức ủng hộ đạo pháp của chư Phật làm cho tồn tại lâu dài. Xá Lợi Phất, bậc A La Hán trong các pháp, tâm không nghi ngờ. Những việc làm đã xong, trụ trong chánh đạo. Xá Lợi Phất bạch Phật, bạch đức Thế Tôn: bậc A La Hán không đi ngược lại mà trụ trong Phật pháp. Vì sao? Vì nếu kẻ đi ngược lại là chỗ làm của phàm phu, không phải của bậc A La Hán.

Phật bảo: như thế Xá Lợi Phất, ngược lại giáo pháp chỉ có kẻ phàm phu làm vậy, còn người trí thì không làm thế. Như Lai vì đời sau có những tỳ kheo niên trưởng, hiểu biết nhiều, tâm được an trụ, xúc cảnh mà vẫn xa lánh, không gần gủi nữ sắc, nên tự cống cao cho rằng, ta là bậc A La Hán. Khiến trong đại chúng có nhiều người tin rằng, đó là A La Hán nên tôn kính cúng dường người ngu kia. Vì tham danh lợi nhận của cúng dường, tự dối cho rằng mình có phép A La Hán, không còn bị các kết sử (10) buộc nữa. Người kia chẳng biết, cũng không phân biệt được pháp, chỉ phân biệt theo niệm vui thích, lấy việc kết hợp hơi thở mà cho là đắc đạo. Như khi vào xóm làng giữ gìn oai nghi, còn ở chỗ chung đụng khác lại tự phóng túng (11), ỏ giữa đại chúng cũng làm bộ khác thường. Người kia thích trưởng dưỡng nhiều đệ tử, những kẻ có tri thức như quốc vương, đại thần đều muốn được họ cung phụng; tên tuổi đồn rộng được nhiều người nể kính. Các kết buộc dẫy đầy mà vẫn tự cho rằng không có ràng buộc kết chặt. Ðược nghe những kinh điển mầu nhiệm thích ứng giáo pháp như thế, những đệ tử quí của ta nên mến trọng chú ý lắng nghe thọ trì, mong thấu đạt nghĩa thú, rồi tôn kính tu hành pháp ấy. Còn người ngu thì ngược lại, không tin nhận lại cho rằng, đây không phải là lời Phật nói, chẳng phải của bậc đại sư dạy; không có pháp, chẳng có thiện. Ở trong giáo pháp mà cứ tưởng là phi pháp, trong phi pháp tưởng là pháp. Trong pháp bất thiện nghĩ là thiện, trong pháp thiện tưởng bất thiện.

Xá Lợi Phất, người ngu như thế theo chỗ hiểu pháp nên tự khen mình, chỗ không hiểu tự khinh rẽ, tự đại cống cao, khi dễ người khác. Người ngu như thế chỉ có trì giới nhiếp tâm một chỗ để dần dần nhiếp phục ác tâm thì nên đọc tụng, nghe nhiều… Nuôi nhiều đệ tử được người tôn trọng, khen ngợi, hết lòng kính phục lại sanh tâm kiêu mạn, ngã mạn, thượng mạn. Tùy chỗ nghe các kinh thâm diệu ấy mà khởi tạo các trọng tội.

Người ngu không biết mình có tội kiêu mạn sâu dày, tâm cứ ngu muội, đi ngược với kinh điển, nên khởi tạo các trọng tội (12) phải đọa vào đại địa ngục.

 

Chú thích

(1) Áo nạp: áo chắp nhiều mãnh vãi ráp lại. Chiếc áo (hậu) của thầy tỳ kheo do nhiều mãnh vãi kết thành để cho không còn đẹp xinh nữa, tức là làm áo biến màu đi cho dễ việc tu hành, không bị quấy rầy.

(2) Cà sa: áo cà sa của tăng sĩ Phật giáo. Có ba loại: tăng già lê hay đại y gồm có 9 điều, 12, 17, 21 và 25 điều, uất đa la tăng là y 7 điều và an đà hội hay còn gọi là hạ y, tức y 5 điều.

(3) Cù Ðàm: hay Cồ Ðàm là một tên khác của đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế, chúng đệ tử xưng Ngài là sa môn Cù Ðàm.

(4) Phái Lộ Già Da, dịch nghĩa là thuận thế, một phái ngoại đạo có từ thời đức Phật, có nghĩa là thuận theo thế tục, nên không được xuất thế giải thoát.

(5) Tám nạn: tám thứ nạn chẳng may rơi vào trong đó là: 1) địa ngục, 2) ngạ quỉ, 3) súc sanh, 4) Bắc Cu Lô châu (vì sung sướng quá nên không tu hành được), 5) Cõi trời trường thọ, 6) đui, điếc, câm ngọng (manh, lung, ám á), 7) thế trí biện thông (thông minh biện bác theo thế gian nên không thể tu hành được), 8) sanh ra đời trước và sau Phật (cả hai thời kỳ ấy đều khó tu hành).

(6) Trung đạo:  (midle way) là đạo lý trung dung không nghiêng lệch về một bên, nên không thái quá, chẳng bất cập. Chỉ có Phật giáo chủ trương như thế, là con đường đưa tới chân lý cứu cánh, giải thoát.

(7) Ba món tham cầu hay ba nhu cầu tất yếu của người đời là: ăn, mặc và chỗ ở. Người tu phải biết đủ về ba món này.

(8)  Chín việc thiện hay chín điều lành do ba nghiệp: thân, khẩu, ý phát khởi. Thân có ba: không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, khẩu có bốn: không nói dối, không nói lời trau chuốt, không nói đòn xóc nhọn hai đầu, không buông lời độc ác, chửi mắng, ý có hai: không sân và không si.

(9) Sáu trần: sáu cảnh sắc bên ngoài như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp hợp với 6 căn giúp ta phân biệt được sự vật dễ dàng.

(10) Kết sử hay kiết sử: những phiền não ràng rịt đan bện chặt lâu đời trong tâm tưởng chúng sanh khó mà cùng lúc dứt bỏ hết được.

(11)  Phóng túng: buông lung quá đà, chỉ người không giữ giới dễ bị lôi cuốn bởi đời sống vật chất hào nhoáng bên ngoài.

(12) Trọng tội: tội nặng, tội sâu dày khó có thể giải kết được.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10