Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật
(Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh)
Hán dịch: Đông Tấn Thiên Trúc Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 3/2013-2014

 

QUYỂN THỨ HAI MƯƠI SÁU

Phần bốn thứ hai mươi hai Phẩm Mười Bậc.

Vua Tha Hóa Tự Tại. Các Trời và Bồ Tát.

Nghe nói hạnh cao này. Tâm đều rất vui mừng.

Rắc hương hoa đẹp nhất. Phướn lọng chuỗi ngọc quý.

Ngọc Như ý thực đẹp. Rắc lên Phật, Đại chúng.

Nữ Trời trong khoảng không. Làm đủ loại âm nhạc.

Cúng dưỡng cho Như Lai. Gồm cả các Bồ Tát.

Cùng dùng âm vi diệu. Ca ngợi công Đức Phật.

Người Tất cả Trí tuệ. Quý nhất trong chúng sinh.

Do thương xót Thế gian. Hiện các lực Thần thông.

Các hoa hương châu báu. Đều sinh âm như thế.

Ở trong một bụi trần. Đều tỏ rõ mười triệu.

Vô lượng số các Phật. Ở trong mà nói Pháp.

Ở trong một bụi trần. Thấy vô lượng Nước Phật.

Tu Di, Kim Cương Vi. Không bức bách Thế gian.

Ở trong một bụi trần. Thấy có ba Đạo ác.

Người Trời, A Tu La. Từng loại nhận Nghiệp báo.

Nghe trong các Nước Phật. Âm hay tất cả Phật.

Chuyển vầng Pháp Bình Đẳng. Tùy theo tâm chúng sinh.

Trong các Thế giới Phật. Đủ loại thân chúng sinh.

Tùy chúng sinh Đất nước. Tỏ rõ đủ loại thân.

Tất cả các người Trời. Đều cùng nhau dừng ở.

Phật trước đã quan sát. Sau đó vì nói Pháp.

Chúng sinh đều Thấy biết. Nước Phật trong bụi trần.

Cũng xem Nước rộng lớn. Do vì uy Thần Phật.

Phật hiện ra như thế. Đủ loại lực Thần thông.

Nếu vì chúng sinh nói. Việc đó không thể hết.

Dùng tiếng vi diệu đó. Đọc ca ngợi Thế Tôn.

Tâm đều rất vui mừng. Im lặng mà nhìn Phật.

Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát. Cầu Kim Cương nói rằng.

Nguyện Phật Tử diễn thuyết. Nhập vào hạnh Bậc tám.

Kim Cương Tạng Bồ Tát nói rằng : Phật Tử ! Bồ Tát Bồ Tát lớn đã luyện tập Trí tuệ hạnh vi diệu của  Bậc bảy. Đạo Phương tiện Thanh tịnh. Dễ tập hợp trợ giúp Đạo Pháp. Đủ lực nguyện lớn. Được Thần lực của các Phật giúp đỡ. Từ Căn thiện được lực. Thường nhớ thuận theo lực Như Lai, không sợ, không cùng Pháp, tâm ngay thẳng, tâm sâu, Thanh tịnh. Thành công Phúc Đức Trí tuệ. Đại Từ Đại Bi. Không bỏ chúng sinh. Tu hành vô lượng Đạo Trí tuệ. Nhập vào các Pháp trước nay không sinh, không nổi lên, không thành, không hỏng, không tới, không đi, không đầu, không giữa, không cuối. Nhập vào Trí tuệ Như Lai. Tất cả tâm ý thức ghi nhớ phân biệt. Không đâu tham nương nhờ. Tính tất cả Pháp như khoảng không. Tên là Bồ Tát được Pháp nhẫn Không sinh. Nhập vào Bậc thứ tám. Nhập vào Bậc Không Động. Tên là Bồ Tát thực hành sâu. Tất cả Thế gian do không thể đo lường. Ly rời tất cả hình tướng. Ly rời tất cả tưởng nhớ, tất cả tham nương nhờ. Tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật không thể phá hỏng. Rời xa lớn sâu mà hiện ra phía trước. Ví như Tì Kheo. Được Thần thông đó. Tâm được Tự do. Lần lượt lại nhập vào yên định mất hết. Tất cả tâm động. Tưởng nhớ phân biệt đều cùng mất hết.

Bồ Tát cũng lại như thế. Bồ Tát dừng ở Bậc đó. Các hạnh Thân miệng ý Phương tiện siêng. Đều cùng nghỉ diệt mất. Dừng ở rời xa lớn. Như người trong mộng muốn vượt qua nước sâu. Phát ra Tinh tiến lớn. Làm Phương tiện lớn. Thời gian chưa vượt qua. Đột nhiên liền tỉnh giấc. Các việc Phương tiện. Đều cùng buông bỏ. Bồ Tát cũng như thế. Từ ban đầu tới nay. Phát Tinh tiến lớn. Rộng tu hạnh Đạo. Tới Bậc Không Động. Tất cả đều vứt bỏ. Không làm hai tâm. Các tưởng nhớ không trở về hiện ra.

Ví như sinh ở Thế giới Phạm. Phiền não Cõi Tham muốn không hiện ra phía trước. Bồ Tát cũng như thế. Dừng ở Bậc Không Động. Tất cả tâm ý thức không hiện ra phía trước. Thậm chí tâm Phật, tâm Bồ Đề, tâm Niết Bàn còn không hiện ra. Huống chi đang sinh tâm các Thế gian.

Phật Tử ! Bồ Tát đó thuận theo Bậc như thế. Do dùng lực nguyện trước kia. Mới lại các Phật hiện ra thân họ. Dừng ở các Bậc trong giòng chảy của Pháp. Cùng với Trí tuệ Như Lai giúp làm Nhân duyên. Các Phật đều làm lời nói như thế. Thiện thay ! Thiện thay ! Người nam thiện ! Ngài được Nhẫn bậc nhất đó. Thuận theo tất cả Pháp Phật.

Người nam thiện ! Ta có mười lực, bốn không đâu sợ, mười tám không cùng Pháp. Ngài nay chưa được giúp cho được. Vì thế siêng tăng thêm Tinh tiến. Cũng đừng bỏ môn Nhẫn này. Người nam thiện ! Ngài tuy được Giải thoát Vắng lặng rất sâu bậc nhất này. Tất cả người Phàm trần ly rời Pháp Vắng lặng. Thường bị giác quan Phiền não gây hại. Ngài nên thương xót tất cả chúng sinh này.

Mới lại người nam thiện ! Ngài cần nhớ nguyện trước kia. Muốn lợi ích chúng sinh. Muốn được môn Trí tuệ không thể nghĩ bàn. Mới lại người nam thiện ! Tất cả tính Pháp, tất cả tướng Pháp, có Phật, không có Phật. Thường dừng ở không khác. Do tất cả Như Lai không vì được Pháp này. Nói tên là Phật. Thanh Văn, Bích Chi Phật cũng được Pháp không phân biệt Vắng lặng này.

Người nam thiện ! Ngài xem chúng ta. Vô lượng thân tướng Thanh tịnh, vô lượng Trí tuệ, vô lượng Đất nước Thanh tịnh. Vô lượng Phương tiện, vô lượng vầng sáng, vô lượng tiếng Thanh tịnh. Ngài nay cần bắt đầu như thế cùng với việc. Mới lại người nam thiện ! Ngài nay vừa được một Pháp sáng này. Gọi là tất cả Pháp. Vắng lặng không phân biệt. Chúng ta do được vô lượng vô biên. Ngài phải tinh siêng phát ra các Pháp này.

Người nam thiện ! Vô lượng Đất nước mười phương, vô lượng chúng sinh, vô lượng các Pháp khác biệt. Ngài cần thông suốt việc đó như thực. Thuận theo Trí tuệ như thế. Bồ Tát đó các Phật đều như thế cùng với vô lượng vô biên nổi lên Nhân duyên môn Trí tuệ. Do dùng vô lượng môn này. Bồ Tát đó có thể phát ra vô lượng Nghiệp Trí. Đều cùng thành công.

Các Phật Tử ! Nếu các Phật không cùng với Bồ Tát phát ra môn Trí tuệ đó. Bồ Tát đó thành quả lấy được Niết Bàn. Vứt bỏ lợi ích tất cả chúng sinh. Do vì các Phật ban cho vô lượng vô biên môn Trí tuệ phát ra này. Ở trong một nghĩ nhớ sinh ra Trí tuệ. So với từ Bậc đầu tiên tới nay thậm chí Bậc bảy. Không bằng một phần trăm. Không bằng một phần vô lượng vô biên A tăng kì. Thậm chí tính toán ví dụ không thể bằng được.

Sở dĩ thế nào ? Trước kia do dùng một thân tu gom công Đức. Nay trong Bậc này được vô lượng thân.

Tu Đạo Bồ Tát. Dùng vô lượng âm thanh, vô lượng Trí tuệ, vô lượng nơi sinh. Vô lượng Đất nước Thanh tịnh, vô lượng giáo hóa chúng sinh. Cúng dưỡng cung cấp trợ giúp vô lượng các Phật. Thuận theo vô lượng Pháp Phật, vô lượng lực Thần thông. Vô lượng hội lớn khác biệt, vô lượng Nghiệp Thân miệng ý. Tập hợp Đạo hạnh của tất cả Bồ Tát. Do dùng Pháp Không Động. Phật Tử ! Ví như người ngồi trên thuyền. Muốn vượt qua biển lớn. Chưa tới biển lớn. Dùng nhiều sức lực. Vào biển do gió. Không trở lại gian nan trở ngại. Đi của một ngày. Vượt quá sức lực trước kia. Với trăm nghìn năm không thể theo kịp.

Bồ Tát cũng như thế. Tập hợp nhiều Căn thiện. Ngồi vào thuyền Bậc Phật. Nhập vào biển Trí tuệ lớn hạnh Bồ Tát. Không dùng sức lực. Có thể gần Trí tuệ của tất cả các Phật. So với làm được trước kia. Nếu một Kiếp, hay trăm nghìn vạn Kiếp không thể theo kịp.

Phật Tử ! Bồ Tát Bồ Tát lớn tới Bậc thứ tám. Sinh từ Trí tuệ Phương tiện lớn. Tâm không sử dụng công sức. Ở Đạo Bồ Tát. Suy nghĩ thế lực Trí tuệ các Phật. Biết Thế giới sinh, Thế giới mất, Thế giới thành, Thế giới hỏng. Biết do tập hợp Nhân duyên Nghiệp gì cho nên Thế giới thành. Nhân duyên Nghiệp gì mất cho nên Thế giới hỏng. Bồ Tát đó biết tính của Đất nước lửa gió. Tướng nhỏ, tướng vừa, tướng vô lượng, tướng sai khác. Biết tướng nhỏ bé của bụi trần. Biết tướng khác biệt của bụi trần. Ở trong một Thế giới tất cả bụi trần khác biệt. Đều cùng có thể biết. Toàn bộ Nước đất lửa gió của một Thế giới này. Bao nhiêu bụi trần. Đều cùng có thể biết. Biết vật báu bao nhiêu bụi trần. Thân chúng sinh bao nhiêu bụi trần. Trong thế giới vạn vật bụi trần khác biệt. Phân biệt thân lớn, thân nhỏ của chúng sinh. Dùng bao nhiêu bụi trần hình thành thân Địa ngục, thân Súc sinh, thân Quỷ đói. Dùng bao nhiêu bụi trần thành thân A Tu La, thân Trời. Dùng bao nhiêu bụi trần hình thành. Đều cùng biết rõ.

Bồ Tát đó nhập vào Trí tuệ, phân biệt bụi trần như thế. Biết Cõi Tham muốn, Cõi Sắc thân, Cõi không có Sắc thân hỏng. Biết Cõi Tham muốn, Cõi Sắc thân, Cõi không có Sắc thân thành. Biết Cõi Tham muốn, Cõi Sắc thân, Cõi không có Sắc thân thành hỏng. Biết tướng nhỏ, tướng vừa, tướng vô lượng của Cõi Tham muốn, Cõi Sắc thân, Cõi không có Sắc thân. Biết tướng sai khác của Cõi Tham muốn, Cõi Sắc thân, Cõi không có Sắc thân. Biết Ba Cõi như thế. Tên là Bồ Tát giáo hóa chúng sinh. Trợ giúp phần Trí sáng. Dễ phân biệt thân chúng sinh. Dễ quan sát được nơi cần sinh. Sinh nơi thuận theo chúng sinh. Tùy theo thân chúng sinh mà được nhận thân. Bồ Tát đó hiện ra thân tràn đầy Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Thuận theo thân chúng sinh. Từng loại sai khác. Ví như mặt Trời mặt Trăng. Đều hiện ra hình tượng của nó ở tất cả nơi có nước. Nếu hai hoặc ba. Thậm chí vô lượng vô biên Ba nghìn Đại thiên Thế giới không thể nghĩ bàn không thể nói. Thân biến khắp trong nó. Thuận theo thân chúng sinh khác biệt mà được nhận thân.

Bồ Tát đó thành công Trí tuệ như thế. Ở một Thế giới thân không dao động. Thậm chí các Thế giới Phật không thể nói. Thuận theo thân chúng sinh. Thuận theo tin ham thích. Ở trong hội lớn của Phật mà hiện ra hình tượng thân. Nếu ở trong Sa Môn, tỏ ra hình Sắc Sa Môn. Ở trong Bà La Môn tỏ rõ hình Sắc Bà La Môn. Ở trong họ Đế Vương tỏ rõ hình Sắc Đế Vương. Ở trong Cư Sĩ tỏ rõ hình Sắc Cư Sĩ. Ở trong bốn Vua Trời, ở trong Đế Thích, ở trong Ma, ở trong Trời Phạm tỏ rõ hình Sắc Trời Phạm. Thậm chí ở trong Trời A Ca Ni Tra tỏ rõ hình Sắc A Ca Ni Tra. Dùng Bậc Thanh Văn độ thoát tỏ rõ hình Sắc Thanh Văn. Dùng Bậc Bích Chi Phật độ thoát tỏ rõ hình Sắc Bích Chi Phật. Dùng Bậc Bồ Tát độ thoát tỏ rõ hình Sắc Bồ Tát. Dùng thân Phật độ thoát tỏ rõ hình Sắc thân Phật. Ở trong tất cả các Nước Phật không thể nói. Thuận theo thân chúng sinh. Tin ham thích khác biệt. Hiện ra được nhận thân. Mà thực rời xa thân tướng khác biệt. Thường dừng ở bình đẳng. Bồ Tát đó biết thân chúng sinh, biết thân Đất nước, biết thân Nghiệp báo, biết thân Thanh Văn, biết thân Bích Chi Phật, biết thân Bồ Tát, biết thân Như Lai, biết thân Trí tuệ, biết Thân Pháp, biết thân trống rỗng.

Bồ Tát đó biết tâm ham thích sâu của chúng sinh như thế. Nếu lấy thân chúng sinh làm thân của mình, nếu lấy thân chúng sinh làm thân Đất nước, thân Nghiệp báo, thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, thân Bồ Tát, thân Như Lai, thân Trí tuệ, thân Pháp, thân trống rỗng. Nếu lấy thân Đất nước làm thân của mình, thân Nghiệp báo, thậm chí thân trống rỗng. Nếu lấy thân Nghiệp báo làm thân của mình, thậm chí thân trống rỗng. Nếu với thân của mình làm thân chúng sinh, thân Đất nước, thân Nghiệp báo, thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, thân Bồ Tát, thân Như Lai, thân Trí tuệ, thân Pháp, thân trống rỗng.

Bồ Tát đó biết thân Nghiệp tập hợp của chúng sinh, thân quả báo, thân Phiền não, thân hình Sắc, thân không có hình Sắc. Đất nước các Phật. Hình tướng nhỏ, hình tướng vừa, hình tướng vô lượng, hình tướng bẩn, hình tướng sạch, hình tướng rộng khắp, hình tướng đảo ngược, hình tướng ngang bằng, hình tướng hướng khác biệt. Biết thân Nghiệp báo tên giả khác biệt, thân Thanh Văn tên giả khác biệt,

thân Bích Chi Phật tên giả khác biệt, thân Bồ Tát tên giả khác biệt. Biết thân Như Lai, thân Bồ Đề, thân nguyện, thân biến hóa, thân giữ ở, thân Tướng Hảo trang nghiêm, thân thế lực, thân như ý, thân Phúc Đức, thân Trí tuệ, Thân Pháp. Biết thân Trí tuệ hay phân biệt như thực. Biết Thân Pháp bình đẳng tướng không phá hỏng. Biết hình tướng vô lượng của thân trống rỗng, hình tướng tràn đầy khắp, hình tướng không có.

Bồ Tát đó dễ biết phát ra các thân như thế. Chắc được mệnh Tự do, tâm Tự do, tiền tài Tự do, Nghiệp Tự do, sinh Tự do, nguyện Tự do, tin hiểu Tự do, như ý Tự do, Trí tuệ Tự do, Pháp Tự do. Bồ Tát đó được mười Tự do. Là Trí tuệ không thể nghĩ bàn, Trí tuệ vô lượng, Trí tuệ rộng, Trí tuệ không thể phá hỏng. Bồ Tát thuận theo Trí tuệ như thế. Kết quả thường phát ra Nghiệp thân, Nghiệp miệng, Nghiệp ý không có tội. Nghiệp thân làm thuận theo Trí tuệ. Nghiệp miệng làm thuận theo Trí tuệ. Nghiệp ý làm thuận theo Trí tuệ. Trí tuệ tới Niết Bàn tăng cao. Đại Bi là hàng đầu. Dễ tu Phương tiện. Dễ phát ra các nguyện. Dễ được Thần thông của các Phật giúp đỡ. Thường không vứt bỏ làm lợi ích Trí tuệ của chúng sinh. Đều biết việc khác biệt trong Thế giới không có giới hạn. Chủ yếu nói là. Bồ Tát dừng ở Bậc Không Động. Làm được Thân miệng ý. Đều có thể tập hợp tất cả Pháp Phật.

Bồ Tát đó dừng ở Bậc này. Do ly rời tất cả Phiền não. Dễ dừng ở lực tâm Thanh tịnh. Do tâm thường không ly rời Đạo. Dễ dừng ở lực tâm sâu. Do không vứt bỏ chúng sinh. Dễ dừng ở lực Đại Bi. Do cứu giúp tất cả Thế gian. Dễ dừng ở lực Đại Từ. Do nghe được Pháp không quên. Dễ dừng ở lực nhận giữ nhớ không quên. Do phân biệt quan sát tất cả Pháp Phật. Dễ dừng ở lực tất cả ham thích nói. Do thực hành Thế giới không giới hạn sai khác. Dễ dừng ở lực Thần thông. Do không vứt bỏ hạnh của tất cả Bồ Tát. Dễ dừng ở lực nguyện. Do tu tập hợp tất cả Pháp Phật. Dễ dừng ở lực Pháp tới Niết Bàn. Do hay phát ra Tất cả loại Trí tuệ. Dễ dừng ở lực của Như Lai. Bồ Tát đó được lực Trí tuệ như thế. Tỏ rõ làm được tất cả không có tội cũ.

Các Phật Tử ! Do Bậc này của Bồ Tát không thể phá hỏng. Tên là Bậc Không Động. Do Trí tuệ không chuyển rời. Tên là Bậc Không chuyển. Do biết tất cả Thế gian không thể so lường. Tên là Bậc uy Đức.

Do muốn không có Sắc thân. Tên là Bậc chất phác. Do tùy ý nhận sinh. Tên là Bậc Tự do. Do không làm thay đổi. Tên là Bậc thành lập. Do biết quyết định. Tên là Bậc kết quả. Do dễ phát nguyện lớn. Tên là Bậc biến hóa. Do không thể phá hỏng. Tên là Bậc dừng giữ. Do trước tu Căn thiện. Tên là Bậc không có công lực. Bồ Tát được Trí tuệ như thế. Tên là nhập vào cảnh giới Phật. Tên là được công Đức của Phật chiếu sáng. Tên là thuận theo thực hành uy nghi của Phật. Thích hướng về Pháp Phật. Thường được Thần lực của các Phật giúp đỡ. Thường được bốn Vua Trời, Ngọc Hoàng Đế Thích, các bậc Vua Phạm cung kính đón tiếp. Thần Mật Tích Kim Cương thường đi theo bảo vệ. Dễ có thể sinh ra các Tam muội Thiền. Có thể làm vô lượng các thân khác biệt. Ở trong các thân đều có thế lực. Được lực Thần thông quả báo lớn. Ở trong vô biên Tam muội được Tự do. Có thể nhận vô lượng ghi nhớ. Thuận theo chúng sinh thành công nơi ở. Tỏ rõ thành Bình Đẳng Chính Đẳng Giác.

Bồ Tát đó nhập vào Trí tuệ lớn như thế. Dễ thông suốt các Pháp. Thường phóng Quang sáng Trí tuệ lớn. Vượt qua Đạo Cõi Pháp không có trở ngại. Hay biết Đạo Cõi Pháp khác biệt. Có thể tỏ rõ tất cả các công Đức. Tùy ý Tự do. Dễ hiểu thời trước thời sau. Có thể nhập vào chuyển rời Trí tuệ của Đạo Ma. Nhập vào cảnh giới của hạnh Như Lai. Có thể ở Thế giới không có giới hạn, thực hành Đạo Bồ Tát. Do vì hình tướng không chuyển rời. Bậc này tên là Không Động.

Phật Tử ! Bồ Tát ở Bậc Không Động. Do hay sinh lực Thiền định. Thường thấy các Phật không có giới hạn. Không bỏ cúng dưỡng, cung cấp cho các Phật. Bồ Tát đó với mỗi một Kiếp, trong mỗi một Thế giới. Số lượng trăm nghìn vạn trăm triệu Na do tha vô lượng vô biên A tăng kì Phật. Cung kính cúng dưỡng. Tôn trọng ca ngợi. Thân thiết các Phật. Từ các Phật nhận Thế giới khác biệt cùng với các Pháp sáng. Bồ Tát đó chuyển sang nhập sâu vào tạng Pháp Như Lai. Hỏi việc khác biệt của Thế giới. Không thể hết tận. Thậm chí trăm nghìn vạn trăm triệu Kiếp. Nói không thể hết. Mới lại các Căn thiện. Chuyển thành sáng sạch tốt hơn. Ví như vàng mười. Ở giữa các báu vật. Làm chuỗi ngọc đeo của Vua Chuyển Luân. Tất cả nhân dân không thể đoạt được.

Bồ Tát Bồ Tát lớn cũng như thế. Dừng ở Bậc Không Động. Căn thiện chuyển thành Thanh tịnh. Tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật. Thậm chí Bồ Tát Bậc bảy không thể phá hỏng được.

Bồ Tát dừng ở Bậc đó. Do vì dễ phân biệt môn Trí tuệ. Quang sáng Trí tuệ. Bỏ mất nóng giận của tất cả chúng sinh. Ví như Chủ của nghìn Thế giới Vua Trời Phạm lớn. Có thể với một thời khắc. Tâm Từ lưu truyền đầy khắp nghìn Thế giới. Cũng có thể phóng quang. Chiếu sáng khắp trong đó. Bồ Tát Bồ Tát lớn cũng như thế. Dừng ở Bậc Không Động. Có thể phóng ánh quang của thân. Chiếu sáng Thế giới như bụi trần của mười vạn Nước Phật. Bỏ mất các nóng Phiền não của chúng sinh. Giúp cho được sạch mát.

Các Phật Tử ! Tên là nói sơ lược Bậc Không Động của Bồ Tát.  Nếu rộng mở nói. Vô lượng trăm triệu Kiếp do không thể hết. Bồ Tát dừng ở Bậc đó. Đa phần làm Vua Trời Phạm lớn. Chủ nghìn Thế giới. Các Căn mạnh sắc xảo. Với các chúng sinh, Thanh Văn Bích Chi Phật, Đạo tới Niết Bàn của Bồ Tát. Không có tận cùng. Nói Thế giới khác biệt. Không thể phá hỏng. Làm được Nghiệp thiện. Bố thí, lời nói nhân ái, lợi ích, cùng làm việc. Đều không ly rời nhớ Phật. Không ly rời nhớ Pháp. Thậm chí không ly rời nhớ Tất cả loại Trí tuệ. Thường sinh tâm đó. Con đang với chúng sinh là đứng hàng đầu, là tốt hơn. Thậm chí với tất cả chúng sinh là dừng dựa vào.

Bồ Tát đó nếu muốn siêng thực hành Tinh tiến. Với thời gian ngắn được Tam muội bằng số bụi trần của trăm vạn Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Thậm chí có thể tỏ rõ Bồ Tát bằng số bụi trần của trăm vạn Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng lực nguyện Thần thông Tự do. Có thể vượt qua rất nhiều số đó. Trăm nghìn vạn trăm triệu Kiếp không thể tính biết.

Thời Kim Cương Tạng Bồ Tát muốn sáng lại nghĩa này. Dùng bài kệ ca ngợi nói rằng :

Bồ Tát ở Bậc bảy. Tuệ Phương tiện đã sạch.

Dễ gom Pháp trợ Đạo. Lực nguyện lớn ràng buộc.

Thần lực các Phật giúp. Căn thiện đều thành công.

Cầu được Trí tuệ tốt. Hay vào Bậc thứ tám.

Hay tập hợp Phúc Tuệ. Mà có Từ Bi sâu.

Rời các tâm có hạn. Tâm bằng như khoảng không.

Như nói ở trong Pháp. Tâm được lực quyết định.

Được Vắng lặng như thế. Nhẫn Không sinh vi diệu.

Các Pháp từ trước nay. Không sinh cũng không rời.

Không tướng không có được. Nghĩa đi tới cũng không.

Các Pháp cao giữa thấp. Cũng thế không phân biệt.

Tâm ý làm không có. Cùng bằng như khoảng không.

Thành công Nhẫn như thế. Không có các nói đùa.

Được Bậc Không Động đó. Hạnh Vắng lặng rất sâu.

Tất cả các Thế gian. Không thể đo lường được.

Tất cả các tướng tâm. Đều cùng đã mất hết.

Bồ Tát ở Bậc đó. Tâm hiểu không phân biệt.

Như vào Định mất hết. Nghĩ ghi nhớ không về.

Giống như người trong mộng. Phương tiện muốn qua nước.

Tỉnh chắc ý bỗng không. Ngưng nghỉ các làm được.

Đã được Nhẫn sâu đó. Mất tất cả tưởng nhớ.

Như sinh ở Trời Phạm. Không có Phiền Cõi Tham.

Do vì lực nguyện trước. Và Phật nay khuyên dẫn.

Nhẫn bậc nhất như thế. Chức vụ của các Phật.

Lực Trí sâu chúng con. Không cùng Pháp không sợ.

Ngài nay không có nó. Cần tăng siêng Tinh tiến.

Ngài tuy được bỏ mất. Tất cả lửa Phiền não.

Cần xem các Thế gian. Phiền não thường cháy mạnh.

Cần nhớ nguyện trước kia. Muốn lợi các chúng sinh.

Cùng biết khắp các Pháp. Rộng độ thoát tất cả.

Tính Tướng thực các Pháp. Thường ở không biến khác.

Duyên Giác cũng được nó. Mà không tên là Phật.

Chỉ vì được không ngại. Trí vi diệu rất sâu.

Do thông suốt Ba Đời. Mới được tên là Phật.

Các bậc không sánh bằng. Được người Trời cung kính.

Mở môn Trí nổi đó. Giúp vào các Pháp Phật.

Thành công không hạn chế. Vô lượng Trí tuệ hay.

Trước làm được các Pháp. Không bằng nay một nhớ.

Các Bồ Tát như thế. Được Bậc Trí tuệ hay.

Hay ở trong một nhớ. Thân ở khắp mười phương.

Vào môn Trí tuệ đó. Hành Đạo nhanh không vướng.

Như đi lại trong biển. Được lực gió lớn giúp.

Tâm rời dùng sức lực. Chỉ ở trong Nghiệp Trí.

Xem Thế giới mười phương. Thành hỏng cùng với dừng.

Hay biết bốn Lớn nhất. Cũng biết các khác biệt.

Nhỏ vừa và vô lượng. Đủ loại tướng khác biệt.

Hay tính biết Ba nghìn. Bụi Thế giới Đại thiên.

Cũng biết thân chúng sinh. Số bụi trần bốn Lớn.

Thân các Trời vật báu. Số bụi trần khác biệt.

Đều cùng biết rõ khắp. Khác cũng biết như thế.

Do Trí tuệ Nhân duyên. Tâm chuyển được hòa mềm.

Vì lợi các chúng sinh. Thân khắp các Thế giới.

Hay lấy thân chúng sinh. Mà tự làm thân mình.

Cùng lấy các Nước Phật. Các thân đủ loại khác.

Như Nhật Nguyệt trong Rỗng. Ảnh hiện tất cả nước.

Bồ Tát cũng như thế. Đầy khắp cõi Đại thiên.

Thường ở trong Thân Pháp. Trong sáng không di động.

Chúng sinh với tâm sạch. Đều hiện hình thân họ.

Theo các tâm ham thích. Mà hiện vì nhận sinh.

Ở hội các người Trời. Đều cùng tỏ thân đó.

Bồ Tát với Nhân duyên. Tự do trong hòa hợp.

Thậm chí hay tùy ý. Vì hiện ra thân Phật.

Thân Đất nước chúng sinh. Thân Thánh Hiền Nghiệp báo.

Thân Trí và Thân Pháp. Biết đều cùng bằng nhau.

Do vì Nhân duyên đó. Được Thần thông như ý.

Vì giúp đời vui mừng. Mà hiện đủ loại thân.

Hay được với mười loại. Trí Tự do lớn hay.

Làm được theo hạnh Trí. Thuận theo tâm Từ Bi.

Tất cả Pháp các Phật. Đều hay dễ tu luyện.

Ở trong Giới ba sạch. Không Động như Tu Di.

Bồ Tát lớn hay được. Toàn bộ mười loại lực.

Tất cả các chúng Ma. Đều không thể rời chuyển.

Thường được các Phật giúp. Được Thích Phạm kính lễ.

Thần Mật Tích Kim Cương. Thường theo mà bảo vệ.

Bồ Tát được Bậc đó. Công Đức không có hạn.

Trăm nghìn vạn trăm triệu Kiếp. Nói không thể hết tận.

Thân thiết vô số Phật. Tăng ích các Căn thiện.

Như vàng mười báu tạp. Trang nghiêm chuỗi ngọc Vua.

Bồ Tát ở Bậc đó. Nhiều làm Vua Phạm lớn.

Thống lĩnh nghìn Đất nước. Công Đức không có hạn.

Hay dùng Pháp Ba Bậc. Mà không có tận cùng.

Quang tâm Từ rộng chiếu. Mất các nóng Phiền não.

Hay với thời gian ngắn. Được trăm vạn Ba nghìn.

Số Đại thiên Thế giới. Các Tam muội bụi trần.

Hay thấy Phật mười phương. Số đó cũng như thế.

Nếu dùng lực nguyện đó. Quá không có hạn đó.

Nay đã giảng giải qua. Tướng hay Bậc thứ tám.

Nếu rộng mở diễn thuyết. Nghìn trăm triệu Kiếp không hết.

 

Bậc thứ chín.

 

Phật Tử diễn thuyết nó. Thời nghĩa hay Bậc tám.

Do vì Thần lực Phật. Chấn động vô lượng Nước.

Thân Tất cả Trí sinh. Vô lượng quang vi diệu.

Chiếu khắp Cõi mười phương. Chúng sinh được yên vui.

Trăm nghìn vạn Bồ Tát. Dừng ở trong khoảng không.

Làm các cúng dưỡng hay. Các Trời do không có.

Trời Tự Tại, Phạm lớn. Gồm cả Vua Tha Hóa.

Vui mừng làm cúng hay. Phật công Đức biển lớn.

Nghìn vạn các nữ Trời. Đều cung kính vui mừng.

Cùng dùng tiếng vi diệu. Ca ngợi công Đức Phật.

Do vì Thần lực Phật. Sinh Pháp hay như thế.

Dễ thực hành Vắng lặng. Không có các tâm ác.

Đều ở nơi Bậc đó. Dễ tu hạnh Bồ Tát.

Do lợi ích Thế gian. Đi khắp tới mười phương.

Tỏ Chúng vì Đạo Phật. Tâm như Rỗng không vướng.

Thần lực các Bồ Tát. Đồ cúng dưỡng đẹp nhất.

Hơn Trời Người mười phương. Do Phúc Đức đem tới.

Phật Tử thích Trí tuệ. Dùng nó tỏ lực Phật.

Ở một Nước không động. Mà hiện tất cả nơi.

Lợi ích nơi Thế gian. Như Trăng rằm sáng sạch.

Mất tất cả âm thanh. Lời nói các nghi nhớ.

Mà dùng các âm thanh. Nói Pháp như tiếng vang.

Nếu chúng sinh hèn kém. Tâm họ chán nổi chìm.

Tỏ dùng Đạo Thanh Văn. Giúp ra khỏi các khổ.

Nếu lại có chúng sinh. Các Căn ít sáng sắc.

Thích với Pháp Nhân duyên. Vì nói Bích Chi Phật.

Nếu người Căn sáng sắc. Lợi ích cho chúng sinh.

Có tâm Đại Từ Bi. Vì nói Đạo Bồ Tát.

Nếu có tâm Bình Đẳng. Quyết định thích việc lớn.

Vì tỏ rõ thân Phật. Nói vô lượng Pháp Phật.

Ví như nhà ảo thuật. Tỏ đủ loại Sắc thân.

Các tướng thân như thế. Đều thực sự không có.

Như thế các Phật Tử. Dễ biết thuật Trí tuệ.

Hay tỏ tất cả hạnh. Tâm rời với Có Không.

Nghìn vạn các nữ Trời. Cùng dùng tiếng vi diệu.

Ca ngợi như thế xong. Im lặng mà nhìn Phật.

Giải Thoát Nguyệt lại nói. Phật Tử ! Hội sạch lớn.

Nhất tâm nguyện thích nghe. Vào hạnh lớn Bậc chín.

Kim Cương Tạng Bồ Tát nói rằng : Phật Tử ! Bồ Tát Bồ Tát lớn dùng vô lượng Trí tuệ như thế dễ quan sát Đạo Phật. Muốn cầu chuyển biến tốt hơn Giải thoát Vắng lặng. Muốn chuyển biến suy nghĩ tốt hơn Trí tuệ Như Lai. Muốn nhập vào tạng Pháp bí mật sâu của Như Lai. Muốn quan sát Trí tuệ lớn không thể nghĩ bàn. Muốn quan sát các Tam muội Đà La Ni, lại muốn làm cho Thanh tịnh. Muốn làm cho Thần thông rộng lớn. Muốn phân biệt Thế giới khác biệt. Muốn tu lực không đâu sợ của các Phật, mười tám không cùng Pháp, không thể phá hỏng. Muốn thực hành thuận theo lực chuyển vầng Pháp của các Phật. Muốn không vứt bỏ do nhận lấy nguyện lớn Đại Bi.

Bồ Tát suy nghĩ như thế được vào Bậc thứ chín. Bồ Tát dừng ở Bậc này. Biết như thực hạnh Pháp thiện không thiện không nhớ, biết hạnh Pháp Phiền não hết Phiền não, hạnh Pháp Thế gian ra ngoài Thế gian, hạnh Pháp nghĩ bàn không nghĩ bàn, hạnh Pháp yên định không yên định, hạnh Pháp Thanh Văn Bích Chi Phật, hạnh Pháp Đạo Bồ Tát, hạnh Pháp Bậc Như Lai, hạnh Pháp Có làm Không có làm. Thuận theo Trí tuệ như thế. Biết khó thực hành của tâm Bồ Đề. Biết nạn Phiền não, nạn Nghiệp, nạn các Căn. Nạn tham muốn, nạn tính, nạn tâm ngay thẳng, nạn sinh, nạn thói quen, nạn ba tích chứa khác biệt. Biết các tướng tâm khác biệt của chúng sinh, tướng tâm trang sức đời, tướng tâm chuyển biến nhanh, tướng tâm hỏng không hỏng, tướng tâm không hình, tướng tâm Tự do vô biên, tướng tâm Thanh tịnh khác biệt, tướng tâm bẩn không bẩn, tướng tâm buộc tháo, tướng tâm siểm nịnh chất trực, tướng tâm thuận theo Đạo. Đều biết như thực.

Bồ Tát đó biết tướng sâu, tướng thiển cận của Phiền não, biết tâm cùng tướng, không tướng ly rời tướng, biết tướng sai khiến ràng buộc khác biệt, biết tướng tâm đó tương ứng, không tương ứng, tùy theo sinh đó thời được tướng quả báo, biết tướng khác biệt ở trong Ba Cõi, biết tướng yêu ngu si, thấy nhập sâu vào như tướng mũi tên, biết tướng kiêu mạn ngu si tội nặng, biết tướng không cắt bỏ của Nhân duyên Ba Nghiệp đó, thậm chí như thực biết tướng thực hành khác biệt của tám vạn bốn nghìn Phiền não.

Bồ Tát đó biết tướng không ghi nhớ, thiện không thiện của các Nghiệp, tướng phân biệt không thể phân biệt, tâm cùng tướng, không tướng ly rời tướng, tướng tự nhiên hết, tướng hành Đạo hết, tướng tập hợp đủ loại, không mất tướng quả báo, tướng lần lượt, tướng có báo ứng, tướng không có báo ứng, tướng báo ứng đen tối, Tướng báo ứng sáng trắng, tướng báo ứng đen tối sáng tối, tướng Nghiệp sáng sai, tối sai, có thể hết, biết tướng Nghiệp phát ra, nhận tướng khác biệt của Pháp Nghiệp, biết vô lượng Nhân duyên phát ra tướng Nghiệp, biết tướng Nghiệp Thế gian Nghiệp ra ngoài Thế gian sai khác, hiện ra tướng báo ứng, tướng báo ứng sinh, tướng báo ứng đời sau, theo các Bậc tướng yên định, tướng không yên định, Thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn các Nghiệp.

Bồ Tát đó biết tướng sai khác cao giữa mềm mại của các Căn, biết tướng khác biệt không khác biệt thời trước thời sau, biết tướng cao giữa thấp, biết tướng cùng Phiền não, không tướng ly rời tướng, tùy theo các Bậc tướng yên định, tướng không yên định, tướng thuần thục, tướng chưa thuần thục, tùy theo tướng chuyển đổi Căn, tướng dễ hỏng, tướng cầm lấy hình tướng sâu, tướng tăng cao, tướng không thể phá hỏng, tướng chuyển đổi, tướng không chuyển đổi, tướng khác biệt của Ba Đời, tướng khác biệt xa xưa cùng sinh, thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn các Căn.

Bồ Tát đó biết tướng khác biệt cao, giữa, mềm mại của các tham muốn. Thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn các tham muốn. Bồ Tát đó biết tướng khác biệt cao giữa mềm mại của các tính. Thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn các tính. Bồ Tát đó biết tướng khác biệt cao, giữa, mềm mại của tâm ngay thẳng. Thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn tâm ngay thẳng. Bồ Tát đó biết các sai khiến sinh cùng tâm, sinh không cùng tâm. Tâm tương ứng, tâm không tương ứng. Xa xưa tới nay não loạn tướng chúng sinh, cùng với tướng tất cả Thần thông Giải thoát Thiền định, tướng ngược lại, hình tướng trói buộc của Ba Cõi, hình tướng không hiện ra của tâm vô lượng, hình tướng mở ra môn Phiền não, hình tướng không biết đối nghịch, hình tướng tất cả không có, hình tướng mở ra môn Pháp không có Đạo Thánh. Đều biết như thực.

Bồ Tát đó biết hình tướng khác biệt của các Sinh. Gọi là Địa ngục, Súc sinh, Quỷ đói. A Tu La, Người, Trời, Cõi Sắc thân, Cõi không có Sắc thân, có tưởng nhớ, không tưởng nhớ khác biệt. Nghiệp là ruộng. Yêu là nước. Ngu tối là che phủ. Biết là hạt giống. Thân đời sau là mầm. Danh Sắc cùng nhau sinh mà không cùng ly rời. Ngu Yêu liên tục. Muốn sinh, muốn làm, muốn nhận. Không thích Niết Bàn. Hình tướng liên tục khác biệt của Ba Cõi. Đều biết như thực.

Bồ Tát đó biết các tập quán có phát ra không phát ra. Tùy theo nơi sinh có thói quen. Tùy theo chúng sinh thực hành có thói quen. Tùy theo Nghiệp Phiền não có thói quen. Thiện không thiện không ghi nhớ có thói quen. Ly rời tham muốn có thói quen. Tùy theo thân đời sau có thói quen. Lần lượt tùy theo hướng tới có thói quen. Nghiệp Phiền não xa xưa giữ lấy không cắt đứt. Ly rời chắc là không có Pháp. Đều biết như thực.

Bồ Tát đó biết hình tướng yên định, không yên định của chúng sinh. Hình tướng yên định đúng. Hình tướng yên định sai. Hình tướng không yên định. Hình tướng yên định đúng trong Thấy đúng. Hình tướng yên định sai trong thấy sai. Ly rời hai hình tướng không yên định này. Mỗi một hình tướng yên định trái ngược. Hình tướng yên định đúng của năm Căn. Rời hai hình tướng không yên định này. Hình tướng yên định sai, vị trí sai. Hình tướng yên định đúng, vị trí đúng. Ly rời hai hình tướng không yên định này. Nhập sâu vào tụ tập sai, hình tướng khó chuyển đổi. Tu sửa hình tướng Nhân duyên Đạo Bình Đẳng. Hình tướng giúp bảo vệ chúng sinh không yên định. Đều biết như thực.

Phật Tử ! Bồ Tát Bồ Tát lớn thuận theo Trí tuệ như thế. Tên là yên ở Bậc Tuệ Thiện. Bồ Tát dừng ở Bậc này. Biết hình tướng khác biệt, các hạnh như thế của chúng sinh. Theo Giải thoát đó mà cùng với Nhân duyên. Pháp giáo hóa chúng sinh của Bồ Tát đó. Pháp độ thoát chúng sinh. Biết như thực mà vì nói Pháp. Hình tướng của Bậc Thanh Văn, hình tướng của Bậc Bích Chi Phật, hình tướng của Bậc Bồ Tát, hình tướng của Bậc Như Lai. Biết như thực theo Nhân duyên chúng sinh mà vì nói Pháp. Theo Căn, theo tâm, theo tham muốn khác biệt mà vì nói Pháp. Lại theo nơi làm, theo nơi Trí tuệ mà vì nói Pháp. Biết tất cả nơi đi mà vì nói Pháp. Tùy theo tính chúng sinh nhập sâu vào nơi khó mà vì nói Pháp. Theo hướng tới, theo sinh, theo Phiền não, theo chuyển đổi thói quen cho nên nói Pháp. Theo bậc Pháp giúp Giải thoát cho nên nói Pháp.

Bồ Tát đó dừng ở Bậc này. Là Thầy Pháp lớn bảo vệ tạng Pháp các Phật. Nhập vào nghĩa sâu vi diệu. Sử dụng vô lượng Phương tiện Trí tuệ. Lời nói bốn Trí tuệ không trở ngại giảng Pháp. Bồ Tát đó thường theo bốn Trí tuệ không trở ngại. Mà không thể phá hỏng. Thế nào là bốn ?

Một là không trở ngại của Pháp. Hai là không trở ngại của Nghĩa. Ba là không trở ngại của Từ ngữ. Bốn là không trở ngại của Ham thích nói.

Bồ Tát đó do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết tự hình tướng của các Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Biết nói các Pháp không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Biết nói các Pháp lần lượt không cắt đứt. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết hình thể tính không có của các Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết hình tướng sinh mất của các Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Biết tên giả của các Pháp, không cắt bỏ nói tên giả. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói.

Biết thuận theo tên giả, không phá hỏng, nói không có giới hạn. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết hình tướng khác biệt của các Pháp Hiện tại. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết tướng khác biệt của các Pháp Quá khứ Tương lai. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ.  Biết nói các Pháp Hiện tại Quá khứ Tương lai không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Với mỗi một đời được nói Pháp sáng không giới hạn.

Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết các Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết Nghĩa các Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Tùy theo các tiếng nói mà vì nói Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Tùy theo sở thích hiểu mà vì nói Pháp. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Do Pháp Trí tuệ Phương tiện. Biết các Pháp khác biệt không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Do so sánh Trí như thực biết các Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Dùng Trí tuệ Thế gian nói các Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Biết dễ nói Nghĩa không có hình tướng. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết một hình tướng của các Pháp không phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết Uẩn, Nhập, Cõi Giới, Pháp bốn Chân lý Nhân duyên. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ.  Do vì âm thanh vi diệu. Hướng tới trở về của tất cả Thế gian. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Nói được chuyển thành tốt hơn. Có thể giúp chúng sinh được Pháp sáng không có giới hạn.

Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết Pháp Bậc Phật thành quả hút lấy tất cả không khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết các Bậc Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Có thể nói các Bậc Pháp không khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói.  Dùng một môn Pháp nói Pháp sáng không có giới hạn.

Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Có thể nhập vào hạnh của tất cả Bồ Tát, hạnh Trí tuệ, hạnh Pháp, thuận theo hạnh Trí tuệ. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Có thể phân biệt nói nghĩa mười Bậc khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Nói thuận theo các Bậc, Đạo không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Nói hình tướng không có giới hạn của tất cả hành động. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết tất cả Phật ở trong một nghĩ nhớ được thành Bồ Đề. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết đủ loại thời khắc, đủ loại Nước Phật khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Thuận theo các Phật được Đạo nói việc khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Với một câu Pháp nói vô biên Kiếp mà không tận cùng. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết tất cả lời Phật, tất cả lực Phật, không sợ, không cùng Pháp, Đại Từ Đại Bi, Trí tuệ không trở ngại. Tất cả các loại Trí tuệ chuyển vầng Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết âm thanh của Như Lai. Nói tám vạn bốn nghìn tâm chúng sinh thuận theo, các Căn ham thích thực hành khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Do âm thanh của Như Lai. Nói tất cả các hạnh không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Do lực Trí tuệ các Phật. Thuận theo nói âm thanh được chúng sinh ham thích.

Bồ Tát Bồ Tát lớn dễ biết Trí tuệ không trở ngại như thế. Yên ở Bậc thứ chín. Tên là được tạng Pháp Phật. Là Thầy Pháp lớn. Được các nghĩa Nhận giữ nhớ không quên. Nhận giữ nhớ không quên các Pháp. Phát ra Trí tuệ Nhận giữ nhớ không quên. Nhận giữ nhớ không quên các sáng suốt. Nhận giữ nhớ không quên Tuệ Thiện. Nhận giữ nhớ không quên tiền tài. Tên là nghe Nhận giữ nhớ không quên. Nhận giữ nhớ không quên uy Đức. Nhận giữ nhớ không quên không trở ngại. Nhận giữ nhớ không quên trở về không có giới hạn. Nhận giữ nhớ không quên tạng nghĩa hỗn tạp. Được như thế cùng với trăm vạn A tăng kì Nhận giữ nhớ không quên. Tùy theo Phương tiện nói vô lượng ham thích, nói như thế, nói Pháp môn khác biệt.

Bồ Tát đó được vô lượng môn Nhận giữ nhớ không quên như thế. Có thể nghe Pháp ở nơi ở của vô lượng Phật. Nghe xong không quên. Như Pháp nghe được. Có thể dùng vô lượng môn khác biệt vì người diễn thuyết. Bồ Tát đó ở nơi ở của một Phật. Dùng trăm vạn A tăng kì Nhận giữ nhớ không quên. Nghe nhận Pháp đúng. Như từ một Phật. Vô lượng Phật khác cũng lại như thế. Bồ Tát đó khi làm lễ kính Phật. Do nghe Pháp sáng. Không phải Thanh Văn học nhiều được lực Nhận giữ nhớ không quên. Với mười vạn Kiếp có thể nhận giữ. Bồ Tát đó được lực Nhận giữ nhớ không quên như thế. Lực Ham thích nói Trí tuệ không trở ngại. Do vì nói Pháp. Ở trên tòa Pháp. Chúng sinh ở trong đầy khắp Đại thiên Thế giới. Tùy ý nói Pháp. Bồ Tát đó ở trên tòa Pháp. Chỉ ngoại trừ các Phật và Bồ Tát nhận chức vị. Ở trong tất cả là tốt đẹp cao nhất.

Bồ Tát đó ở trên tòa Pháp. Hoặc dùng một âm thanh. Muốn giúp cho tất cả đều cùng được hiểu rõ. Liền được hiểu rõ. Hoặc dùng đủ loại âm thanh. Muốn giúp cho tất cả đều được mở hiểu. Liền được mở hiểu. Hoặc dùng im lặng chỉ phóng Quang sáng. Muốn giúp tất cả đều được hiểu Pháp. Liền được hiểu Pháp. Hoặc tất cả lỗ chân lông. Đều phát ra tiếng Pháp. Hoặc tất cả vật có Sắc thân, không có Sắc thân của Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Đều phát ra tiếng Pháp. Hoặc dùng một âm thanh tràn khắp Cõi Pháp. Muốn làm cho được hiểu. Liền đều được hiểu. Tất cả chúng sinh ở Ba nghìn Đại thiên Thế giới của Bồ Tát đó. Dùng vô lượng âm thanh cùng một lúc hỏi khó. Do hỏi đều khác lạ.

Bồ Tát đó ở trong một nghĩ nhớ. Đều nhận tất cả hỏi khó như thế. Dùng một âm thanh trả lời đều giúp cho mở hiểu. Như thế hoặc hai hay ba. Hoặc trăm hay nghìn. Thậm chí chúng sinh ở trong đầy khắp Ba nghìn Đại thiên Thế giới không thể nói, không thể nói. Rộng vì nói Pháp. Dựa vào Thần lực của Phật. Có thể vì chúng sinh rộng làm việc Phật. Lại gấp bội siêng hút lấy. Trí sáng như thế. Ở trong một bụi trần có hội lớn bằng số bụi trần của Thế giới không thể nói, không thể nói. Phật ở trong nơi này. Tùy theo tâm chúng sinh mà vì nói Pháp. Giúp cho mỗi một tâm chúng sinh được rất nhiều vô lượng các Pháp. Như một Phật, tất cả các Phật cũng như thế. Như tất cả Thế giới mười phương ở một bụi trần. Cũng lại như thế. Ở trong đó sinh lực ghi nhớ lớn. Ở trong một nghĩ nhớ. Nhận được Pháp sáng từ tất cả Phật. Một câu không mất. Như hội lớn bên trên, chúng sinh tràn đầy bên trong. Vì Pháp sáng quyết định nói Pháp Thanh tịnh. Ở trong một nghĩ nhớ giúp cho chúng sinh được như thế. Đều được mở hiểu. Huống chi chúng sinh ở trong rất nhiều Thế giới.

Bồ Tát đó dừng ở Bậc như thế. Căn thiện chuyển thành tốt hơn. Nhập sâu vào nơi các hạnh Phật. Thường ở tất cả hội Phật. Nhập sâu vào Giải thoát của Bồ Tát. Bồ Tát thuận theo Trí tuệ như thế. Thường thấy các Phật. Ở trong mỗi một Kiếp vô lượng vô biên trăm nghìn vạn trăm triệu dùng đồ cúng tốt nhất, cúng dưỡng các Phật. Ở nơi ở của các Phật đủ loại hỏi khó. Thông suốt các Nhận giữ nhớ không quên. Tất cả Căn thiện chuyển thành sáng sạch tốt hơn.

Phật Tử ! Như luyện vàng mười. Trang nghiêm đầy đủ. Vì Vua Chuyển Luân nương nhờ mũ báu. Tất cả Vua nhỏ không thể đoạt được. Bồ Tát cũng như thế. Dừng ở Bậc Tuệ Thiện. Tất cả Căn thiện chuyển thành sáng sạch tốt hơn. Thanh Văn Bích Chi Phật, Bồ Tát các Bậc không thể phá hỏng. Căn thiện của Bồ Tát đó chuyển thành sáng. Có thể chiếu sáng nơi hoạn nạn Phiền não của chúng sinh. Như Vua Phạm lớn. Tất cả nơi hoạn nạn của Ba nghìn Thế giới. Đều cùng có thể chiếu sáng. Bồ Tát cũng như thế. Ở Bậc Tuệ Thiện. Căn thiện sáng sạch. Chiếu sáng nơi hoạn nạn Phiền não của các chúng sinh.

Các Phật Tử ! Tên là nói sơ lược Bậc Tuệ Thiện của Bồ Tát. Nếu nói rộng khắp. Chắc là vô lượng vô biên Kiếp. Không thể tận cùng. Bồ Tát ở Bậc này. Đa phần làm Vua Phạm lớn. Thống lĩnh Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Không có thể hơn. Hiểu nghĩa như thực. Ở trong Tự do mà được Tự do. Dễ có thể đọc nói Thanh Văn Bích Chi Phật, Pháp tới Niết Bàn của Bồ Tát. Chúng sinh hỏi khó không thể tận cùng. Do làm Nghiệp thiện. Bố thí, lời nói nhân ái, lợi ích, cùng làm việc. Đều không ly rời nhớ Phật. Không ly rời nhớ Pháp. Thậm chí không ly rời nhớ Tất cả loại Trí tuệ. Thường sinh tâm đó. Con đang với tất cả chúng sinh là đứng hàng đầu là tốt hơn. Thậm chí với tất cả chúng sinh là dừng dựa vào. Bồ Tát đó nếu muốn siêng thực hành Tinh tiến như thế. Ở trong một nghĩ nhớ được trăm vạn A tăng kì Tam muội bằng số bụi trần của Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Thậm chí có thể tỏ rõ Bồ Tát bằng số bụi trần của trăm vạn A tăng kì Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng lực nguyện Thần thông Tự do. Lại vượt qua số đó. Trăm nghìn vạn trăm triệu Na do tha Kiếp không thể tính biết.

Khi đó Kim Cương Tạng Bồ Tát muốn sáng lại nghĩa này. Dùng bài kệ ca ngợi nói rằng :

Các Bồ Tát thuận theo. Vô lượng lực Trí sâu.

Vi diệu tối cao nhất. Tất cả đời khó biết.

Làm lợi ích chúng sinh. Hay tới Bậc thứ chín.

Được nhập vào các Phật. Tạng Pháp Phật bí mật.

Được vi diệu cao nhất. Tam muội Đà La Ni.

Lực Thần thông rộng lớn. Dễ vào tướng Thế giới.

Lực Trí tuệ quyết định. Hay xem các Pháp Phật.

Nguyện lớn tâm Bi sạch. Được vào Bậc thứ chín.

Thuận làm Bậc cao này. Giữ các tạng Pháp Phật.

Liền hay tỏ các Pháp. Không nhớ thiện không thiện.

Có Phiền và không Phiền. Thế gian ngoài Thế gian.

Pháp đó không nghĩ bàn. Nó không thể nghĩ bàn.

Biết Pháp yên không yên. Tướng ba Bậc đầy đủ.

Suy nghĩ phân biệt nó. Pháp Có làm, Không làm.

Nổi biết Pháp như thế. Mất các Ngu tối đen.

Thuận theo tâm Trí đó. Chắc là hay bậc nhất.

Đều biết tất cả nạn. Các tướng khác biệt tâm.

Dễ dàng trang sức đời. Tâm Tự do vô biên.

Tướng Phiền não nông sâu. Tâm cùng không rời tướng.

Biết khiến buộc khác biệt. Thuận theo có liên tục.

Biết Nghiệp đủ loại tạp. Tướng mỗi loại khác biệt.

Nhân mất quả không mất. Thông suốt việc như thế.

Lại biết được chúng sinh. Các Căn mềm cao giữa.

Rộng lớn các sai khác. Tướng thời trước thời sau.

Biết tham mềm cao giữa. Và các tính khác biệt.

Thậm chí đều hay biết. Tám vạn bốn nghìn loại.

Nơi nạn khiến Phiền não. Xưa tới nay không mất.

Đều cùng đi với tâm. Trói buộc không thể cắt.

Biết các khiến kết buộc. Chỉ ảo tưởng phân biệt.

Không có hướng nơi ở. Tướng việc cũng không yên.

Thường không rời nơi thân. Lại cũng khó biết được.

Hay che lực Thiền định. Đạo Kim Cương hay đứt.

Lại hay biết các Sinh. Vào sáu Đạo khác biệt.

Yêu đẫm Ngu tối che. Nghiệp ruộng, Biết hạt giống.

Sinh đời sau là mầm. Danh Sắc cùng tăng trưởng.

Sinh chết xưa tới nay. Liên tục ở Ba Cõi.

Biết hướng các Trời Rồng. Do tâm Nghiệp Phiền não.

Nếu ly rời Pháp này. Chắc là tất cả không.

Tất cả các chúng sinh. Đều trong ba Đạo ác.

Hoặc chìm do thấy sai. Hoặc ở trong Đạo Trí.

Bồ Tát ở Bậc đó. Đều biết tâm chúng sinh.

Các Căn và ham thích. Đủ loại nghĩa khác biệt.

Tâm sâu hay suy nghĩ. Tùy nghi mà nói Pháp.

Thông suốt Trí không ngại. Hay dùng từ ngữ nói.

Bồ Tát làm Thầy Pháp. Giống như Vua Sư Tử.

Vua Trâu, núi báu lớn. Yên ở không đâu sợ.

Khắp cả các Thế giới. Tưới vị Pháp Cam lộ.

Giống như Vua Rồng lớn. Hay mưa đầy biển lớn.

Bồ Tát đó hay biết. Từ Nghĩa Pháp không ngại.

Hay dễ làm thuận theo. Đủ lực Ham thích nói.

Hay được với trăm vạn. A tăng kì Tổng trì.

Hay nhận các Pháp Phật. Như biển nhận mưa Rồng.

Bồ Tát được như thế. Các Thanh tịnh hay sâu.

Vô lượng Đà La Ni. Do các lực Tam muội.

Hay trong một nghĩ nhớ. Được thấy vô lượng Phật.

Đã nghe tiếng Phạn sạch. Diễn thuyết Pháp báu hay.

Bồ Tát đó hoặc dạy. Chúng sinh Cõi Đại thiên.

Tùy theo tâm Căn tốt. Nói Pháp giúp vui mừng.

Như thế cùng vô lượng. Ba nghìn Nước Đại thiên.

Chuyển sâu siêng Tinh tiến. Mà làm suy nghĩ đó.

Ở trong một bụi trần. Vô lượng Phật nói Pháp.

Theo tâm tướng chúng sinh. Diễn thuyết nghĩa vi diệu.

Bồ Tát đó đều nhận. Như đất nhận hạt giống.

Lại làm nguyện như thế. Mười phương và tất cả.

Chúng sinh trong Đất nước. Đều hợp làm một hội.

Con trong một nghĩ nhớ. Đều cùng biết tâm đó.

Dùng một tiếng nói Pháp. Đều giúp cắt lưới nghi.

Bồ Tát ở Bậc đó. Vua Pháp trong Trời Người.

Làm Thầy Pháp nói lớn. Thuận theo tính chúng sinh.

Thường ở trong ngày đêm. Cùng hội với các Phật.

Hay ở hay rất sâu. Giải thoát Trí Vắng lặng.

Cúng dưỡng vô lượng Phật. Căn thiện chuyển sáng sạch.

Giống như Vua Chuyển Luân. Vàng mười trang nghiêm mũ.

Quang sáng chiếu chúng sinh. Nơi nạn các Phiền não.

Quang sáng các Vua Phạm. Chiếu sáng Cõi Đại thiên.

Bồ Tát ở Bậc đó. Ở Ba nghìn Thế giới.

Làm Vua Trời Phạm lớn. Các Căn đều mạnh sắc.

Hay dùng Pháp ba Bậc. Tỏ rõ các chúng sinh.

Do làm các Nghiệp thiện. Đều thuận theo Nhớ đúng.

Hay trong một nghĩ nhớ. Mà được không có hạn.

Bằng số bụi Thế giới. Các Tam muội sâu hay.

Được thấy Phật mười phương. Âm vi diệu nói Pháp.

Thấy Thần lực lớn Phật. Càng phát vô lượng nguyện.

Bậc thứ chín như thế. Nơi làm của Trí lớn.

Hay sâu khó Thấy biết. Nay nói qua đã xong.

Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, quyển thứ hai mươi sáu.