Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật
(Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh)
Hán dịch: Đông Tấn Thiên Trúc Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 3/2013-2014

 

QUYỂN THỨ TƯ

Phần ba thứ hai Phẩm Lô Xá La Phật.

Ở giữa sông hương đó tất cả bằng phẳng. Các cây báu đẹp dùng để trang nghiêm. Màn báu đủ loại hỗn tạp che khắp lên trên nó. Phát ra lực nguyện của tất cả Bồ Tát. Được Phật nhớ giúp, Ba Đời trang nghiêm mà trang nghiêm. Khi đó Phổ Hiền Bồ Tát dùng bài kệ ca ngợi nói rằng :

Lô Xá La Phật khắp mười phương. Sinh tất cả hóa thân trang nghiêm.

Phật cũng không đến cũng không đi. Vì lực nguyện Phật đều cùng thấy.

Trong bụi trần tất cả Nước Phật. Vô lượng Con Phật tu các hạnh.

Đều nhận nhớ Đất nước Thanh tịnh. Thấy Nước nghiêm sạch nói hạnh trước.

Phật Tử ! Cần biết trong biển Thế giới Liên Hoa Tạng này. Mỗi một cảnh giới có trang nghiêm Thanh tịnh bằng số bụi trần của biển Thế giới. Các Phật Tử ! Trên biển nước hoa này có tính loại Thế giới dừng ở bằng số bụi trần của Nước Phật không thể nói. Hoặc có tính loại Thế giới dừng ở trên hoa Sen. Hoặc dừng ở tại trên hoa Sen vô lượng sắc. Hoặc dừng ở dựa vào trân châu báu. Hoặc dừng ở dựa vào các võng báu. Hoặc dừng ở dựa vào thân của đủ loại chúng sinh. Hoặc dừng dựa vào ngọc Như ý quý nhất của Phật. Hoặc hình núi Tu Di. Hoặc hình sông. Hoặc hình vận chuyển. Hoặc hình chảy vòng tròn. Hoặc hình vòng tròn. Hoặc hình lầu quán. Hoặc hình mây. Hoặc hình võng. Khi đó Phổ Hiền Bồ Tát dùng bài kệ ca ngợi nói rằng :

Các Nước Phật kiên cố Thanh tịnh. Tạng Quang sáng Giải thoát rời bẩn.

Dựa dừng ở biển ngọc Như ý. Hoặc có dựa dừng ở biển hương.

Hoặc dựa ở đủ loại Phương tiện. Hoặc dựa ở các sắc trang nghiêm.

Hoặc lại Tu Di, cây, hình tròn. Nước Phật ở đủ các nơi, loài.

Hoặc các tạng hoa thân Quang sáng. Mây báu đều phóng Quang sáng sạch.

Quang sáng tràn đầy cả Thế giới. Tạng biển đất báu không thể hỏng.

Hoặc vô lượng sắc Nước Phật sạch. Mây lửa Quang sáng nhiều loại sắc.

Hoặc có các Thế giới tiếng hay. Tiếng thường tự nhiên không nghĩ bàn.

Vô số nguyện vui, đủ loại thân. Mây hạnh Tự do thân âm thanh.

Vô lượng thân tiếng Đức chúng sinh. Thân tiếng Đức cao hơn tất cả.

Đủ loại môn vào các Nước Phật. Dần tới không hết không nghĩ bàn.

Vô số tất cả đầy mười phương. Vô tận vô lượng đều Tự do.

Tất cả Nước Như Lai các phương. Phương tiện rộng lớn vào Cõi Phật.

Lần lượt tới thấy Nước mười phương. Đất nước không tăng cũng không giảm.

Dùng một Đất nước đầy mười phương. Mười phương vào một cũng không thừa.

Tướng Thế giới trước cũng không hỏng. Công Đức không sánh nên hay thế.

Trong bụi trần tất cả Nước Phật. Thấy lực Tự do Lô Xá Na.

Biển thệ nguyện lớn rung âm thanh. Điều phục tất cả loại chúng sinh.

Thân Phật tràn đầy tất cả Nước. Vô số Bồ Tát cũng như thế.

Giáo hóa chúng sinh không có lượng. Phật hiện Tự do không coi thường.

Khi đó Phổ Hiền Bồ Tát bảo với các Bồ Tát nói rằng : Phật Tử ! Trong các biển nước hoa đó có một biển nước hoa. Tên là Lạc Quang Minh. Có tất cả hoa Sen trang nghiêm Như ý hương quý nhất. Bên trên có Thế giới. Tên là Thanh Tịnh Bảo Võng Quang Minh. Tên hiệu Phật là Ly Cấu Tịnh Nhãn Quảng Nhập.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần Nước Phật. Có Nước Phật tên là Tạp Hương Liên Hoa Thắng Diệu Trang Nghiêm. Dựa dừng ở võng báu. Hình như tòa Sư Tử. Tên hiệu của Phật là Sư Tử Tòa Quang Minh Thắng Chiếu.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Bảo Trang Nghiêm Phổ Quang Minh. Dựa dừng ở các hoa. Hình như mây vầng mặt Trời. Tên hiệu Phật là Quảng Đại Quang Minh Trí Thắng.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Tạp Quang Liên Hoa. Tên hiệu Phật là Kim Cương Quang Minh Phổ Tinh Tiến Thiện Khởi.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Vô Úy Nghiêm Tịnh. Tên hiệu Phật là Bình Đẳng Trang Nghiêm Diệu Âm Tràng Vương.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Hoa Khai Tịnh Diệm. Tên hiệu Phật là Ái Hải Công Đức Xưng Vương.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Tổng Trì. Tên hiệu của Phật là Tịnh Trí Tuệ Hải.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Giải Thoát Thanh. Tên hiệu Phật là Thiện Tướng Tràng.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Thắng Khởi. Tên hiệu Phật là Liên Hoa Tạng Quang.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Thiện Trụ Kim Cương Bất Khả Phá Hoại. Tên hiệu Phật là Na La Diên Bất Khả Phá Hoại.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Hoa Lâm Xích Liên Hoa. Tên hiệu Phật là Tạp Bảo Hoa Man Trí Vương.

Bên trên Thế giới đó. Qua Thế giới bằng số bụi trần của Nước Phật. Có Nước Phật tên là Tịnh Quang Thắng Điện Như Lai Tạng. Tên hiệu Phật là Năng Khởi Nhất Thiết Sở Nguyện Công Đức.

Bên trên Thế giới đó. Có biển nước hoa. Tên là Tịnh Quang Diệm Khởi. Trong có tính loại Thế giới. Tên là Thiện Trụ.

Tiếp theo bên trên lại có biển nước hoa. Tên là Kim Cương Nhãn Quang Minh. Trong có tính loại Thế giới. Tên là Pháp Giới Đẳng Khởi.

Tiếp theo bên trên lại có biển nước hoa. Tên là Liên Hoa Bình Chính. Trong có tính loại Thế giới. Tên là Xuất Thập Phương Hóa Thân.

Tiếp theo bên trên lại có biển nước hoa. Tên là Bảo Địa Trang Nghiêm Quang Minh. Trong  có tính Thế giới. Tên là Bảo Chi Trang Nghiêm.

Tiếp theo bên trên lại có biển nước hoa. Tên là Hóa Hương Diệm. Trong có tính loại Thế giới. Tên là Thanh Tịnh Hóa.

Tiếp theo bên trên lại có biển nước hoa. Tên là Bảo Tràng. Trong có tính loại Thế giới. Tên là Phật Hộ Niệm.

Tiếp theo bên trên lại có tính loại Thế giới. Tên là Chúng Sắc Phổ Quang. Như thế tiếp theo bên trên lại có biển nước hoa và tính loại Thế giới bằng số bụi trần của Thế giới. Như một phương mười phương cũng như thế. Nơi Lô Xá La Phật thường chuyển vầng Pháp. Khi đó Phổ Hiền Bồ Tát dùng bài kệ ca ngợi nói rằng :

Cõi Pháp không thể hỏng. Biển Thế giới Liên Hoa.

Rộng trang nghiêm rời bẩn. Yên ở nơi khoảng không.

Trong biển Thế giới này. Tính Nước khó nghĩ bàn.

Hay ở không tạp loạn. Từng loại đều Tự do.

Bằng phẳng dừng trang nghiêm. Dừng dựa đủ loại sắc.

Biển Thế giới Như Lai. Cùng thuận theo Nước Phật.

Đủ loại âm thanh thân. Tất cả Phật Tự do.

Rộng thấy các Thế giới. Đủ loại Nghiệp trang nghiêm.

Lưới thành núi Tu Di. Vầng nước xoay hình tròn.

Hoa Sen sắc Thanh tịnh. Đều vây quanh từng cái.

Cờ Thi La hình bồn. Sắc hình chuyển thuận theo.

Khó nghĩ bàn như thế. Hình các Đất nước Phật.

Thế giới khó nghĩ bàn. Dừng dựa ở hoa Sen.

Phóng lưới Quang sáng lớn. Rộng chiếu sáng tất cả.

Mỗi một Nước Như Lai. Phóng các lưới Quang sáng.

Chiếu tất cả Nước Phật. Tràn đầy biển mười phương.

Tất cả các Nước Phật. Tất cả môn cảnh giới.

Vào tất cả Phương tiện. Đều cùng thấy vô lượng.

Nước Phật không nghĩ bàn. Không hỏng không thể hết.

Vô lượng sạch trang nghiêm. Lực uy Thần Tiên lớn.

Đỉnh Nước Như Lai đó. Thế giới không nghĩ bàn.

Hoặc thành hoặc có bại. Không sinh cũng không mất.

Ví như các rừng cây. Hoa lá hoặc sinh rơi.

Các Nước Phật như thế. Thành bại cũng lại thế.

Như dựa đủ loại cây. Có sinh đủ loại quả.

Đủ loại Nước như thế. Có đủ loại chúng sinh.

Do hạt giống sai khác. Hoa quả sinh khác nhau.

Do làm bao nhiêu Nghiệp. Nước Phật đủ loại khác.

Như ngọc quý Như ý. Tùy ý hiện các màu.

Do bỏ các ảo tưởng. Đều thấy Nước Thanh tịnh.

Ví như mây trong Rỗng. Hay hiện lực Vua Rồng.

Lực nguyện Phật như thế. Nổi tất cả Nước Phật.

Giống như nhà ảo thuật. Hay hiện đủ loại Chúng.

Nghiệp chúng sinh như thế. Nước Phật không nghĩ bàn.

Như thấy tượng vẽ đẹp. Biết là thợ vẽ làm.

Thấy Nước Phật như thế. Thành do tâm thầy vẽ.

Tâm chúng sinh khác nhau. Nổi theo các ảo tưởng.

Các Nước Phật như thế. Tất cả đều như hóa.

Giống như thấy Thầy dẫn. Đủ loại vô lượng Sắc.

Làm theo tâm chúng sinh. Thấy Nước Phật cũng thế.

Vô lượng châu báu đẹp. Đều che các Nước Phật.

Sắc hiện đều khác nhau. Hiện trang nghiêm rời bẩn.

Trong lưới hoa Sen đó. Dừng dựa lưới Nước Phật.

Đủ loại đẹp trang nghiêm. Nơi chúng sinh dựa vào.

Hoặc có đất Nước Phật. Cáu bẩn không bằng phẳng.

Do Phiền não chúng sinh. Nổi Nước Phật như thế.

Thanh tịnh không Thanh tịnh. Nước Phật không nghĩ bàn.

Chúng sinh nổi hi vọng. Được Bồ Tát giữ lấy.

Thanh tịnh không Thanh tịnh. Vô lượng các Nước Phật.

Nổi Nhân duyên biển Nghiệp. Được Bồ Tát cảm hóa.

Hoặc phóng quang Thanh tịnh. Các thể báu rời bẩn.

Đủ loại đẹp trang nghiêm. Các Phật giúp Thanh tịnh.

Trong tất cả Đất nước. Nạn lửa không nghĩ bàn.

Tỏ rõ không Thanh tịnh. Và Nước thường kiên cố.

Hoặc dựa ở vầng gió. Hoặc lại dựa vầng nước.

Vô lượng Nước thành bại. Do Nghiệp làm chúng sinh.

Thấy vô lượng Nước Phật. Hoặc thành hoặc có bại.

Nó cũng không có thành. Cũng lại không có bại.

Trong mỗi một nghĩ nhớ. Nổi vô lượng Nước Phật.

Vì được các Phật giữ. Nước Thanh tịnh rời bẩn.

Hoặc có Nước Phật nổi. Bùn đất không Thanh tịnh.

Rời sáng thường đen tối. Nơi ở chúng sinh tội.

Hoặc có Nước đất bùn. Phiền não hoảng sợ lớn.

Vui ít buồn khổ nhiều. Phúc mỏng được nơi ở.

Hoặc có Thế giới thép. Hoặc có Nước đồng đỏ.

Các núi đá bẩn ác. Do Nghiệp chúng sinh nổi.

Hoặc có Nước đất bùn. Chúng sinh thường khổ não.

Rời Quang sáng tối dài. Biển Quang sáng hay chiếu.

Trong hướng các Súc sinh. Nhận vô lượng loại thân.

Do theo Nghiệp làm trước. Tăng nhận vô lượng khổ.

Trong Cõi Vua Diêm La. Đói khát khổ thường bức.

Lên trên núi lửa lớn. Tăng nhận vô lượng khổ.

Hoặc có Nước bảy báu. Bằng phẳng dừng trang nghiêm.

Lực Nghiệp Thanh tịnh nổi. Yên ổn thiện vi diệu.

Trong đất Nước Phật đó. Chỉ thấy hướng Trời Người.

Thành công quả công Đức. Thường nhận các vui sướng.

Trong mỗi một lỗ lông. Trăm triệu Nước không nghĩ bàn.

Vô lượng hình trang nghiêm. Nổi do đủ loại Nghiệp.

Nổi theo tự Nghiệp họ. Cõi chúng sinh khó bàn.

Đã lấy đủ loại tướng. Hoặc nhận sướng nhận khổ.

Hoặc Nước sáng vô lượng. Tất cả báu là đất.

Hoa Kim cương che khắp. Sạch trang nghiêm rời bẩn.

Hoặc Nước loại Quang sáng. Yên ở vầng Quang sáng.

Hương Chiên đàn sắc vàng. Mây Quang sáng thường chiếu.

Hoặc Nước loại vầng Dương. Rải các áo báu thơm.

Hoặc trong một hoa Sen. Bồ Tát đều tràn đầy.

Hoặc có vô lượng Sắc. Nước Phật báu rời bẩn.

Lưới Quang sáng tía báu. Lưới Quang sáng điện chiếu.

Hoặc có Đất nước Phật. Hoa Kim cương là thể.

Hoặc rải các hoa quý. Quan sát rất Thanh tịnh.

Nguyện Phổ Hiền Bồ Tát. Do được Nước Thanh tịnh.

Nước trang nghiêm Ba Đời. Đều hiện ở trong này.

Các Phật Tử Ngài xem. Thế giới Phật Tự do.

Tất cả Nước Tương lai. Cùng thấy đều như mộng.

Tất cả Nước mười phương. Biển Nước Phật Quá khứ.

Thấy ở một Thế giới. Tất cả Nước như hóa.

Tất cả Phật Ba Đời. Gồm tất cả đất Phật.

Thấy ở một Thế giới. Phật Ba Đời và Nước.

Xem Nước trên bụi trần. Tất cả Phật Tự do.

Vô lượng đẹp trang nghiêm. Đều cùng như ánh điện.

Hoặc vô lượng đất Phật. Hình nó giống như biển.

Có như núi Tu Di. Thế giới khó nghĩ bàn.

Có Nước như vòng châu. Dừng dựa lưới báu tía.

Hoặc dựa cây trang nghiêm. Tất cả Phật tràn đầy.

Hoặc dựa vầng Như ý. Hoặc dừng dựa hoa Sen.

Tám cạnh tạp trang nghiêm. Đủ loại sắc rời bẩn.

Hoặc như tòa Sư Tử. Hoặc có Nước như vàng.

Hoặc như các hình báu. Hoặc như ở đời Phạm.

Hoặc hình Trăng chúa Trời. Lại hình như mặt Trời.

Hoặc giống ngọc Như ý. Hương Chiên đàn trang nghiêm.

Hoặc như búi tóc thơm. Thế giới Phật yên ở.

Hoặc như vầng Quang sáng. Đủ loại sắc trang nghiêm.

Hoặc thọ mệnh một Kiếp. Hoặc lại thọ trăm Kiếp.

Hoặc lại có thọ mệnh. Bằng bụi trần Nước Phật.

Hoặc ở trong một Kiếp. Thấy nổi vô lượng Nước.

Vô lượng không thể đếm. Nước hỏng không nghĩ bàn.

Hoặc Đất nước không Phật. Hoặc Đất nước có Phật.

Hoặc Đất nước một Phật. Hoặc có vô lượng Phật.

Nếu Đất nước không Phật. Phương khác Thế giới khác.

Có các hóa Phật tới. Tỏ rõ dạy Tự do.

Từ Đâu Suất bỏ thọ. Giáng Thần ở trong thai.

Ma thua thành Chính Giác. Chuyển vầng Pháp Bình Đẳng.

Tùy chúng sinh được vui. Tỏ rõ đủ loại sắc.

Tất cả thời không hỏng. Chuyển vầng Pháp Thanh tịnh.

Nếu chúng sinh khí sai. Giúp cho thấy Phật thực.

Chướng ngại của Phiền não. Không thấy ý Như Lai.

Hoặc Nước bẩn đục nhất. Thường nghe tiếng tệ ác.

Tiếng ngang ngạnh thô ác. Không thích hoảng sợ lớn.

Địa ngục Súc sinh đó. Hướng Quỷ đói nhận khổ.

Nước Phật bẩn đục đó. Biển lo buồn chúng sinh.

Hoặc Nước tiếng Cam Lộ. Thường nghe tiếng mềm mại.

Tiếng Đạo Nghiệp Thanh tịnh. Rộng nghe tất cả Nước.

Hoặc có Nước Phật nghe. Tiếng Ngọc Hoàng Đế Thích.

Tiếng hay Vua Trời Phạm. Tiếng chủ các Thế giới.

Tiếng Quang sáng quay về. Hóa thân Phật không hết.

Tiếng của các Bồ Tát. Thường nghe biển Nước Phật.

Hoặc Nước không nghĩ bàn. Nghe tiếng chuyển vầng Pháp.

Tiếng nguyện không thể hết. Do tu hành tiếng nói.

Nghe các Phật Ba đời. Đầy đủ tên hiệu Phật.

Tùy Duyên nổi Nước Phật. Tiếng nói không thể hết.

Các Phật Tử ! Lại tới xa xưa qua Kiếp bằng số bụi trần của biển Thế giới. Lại vượt quá số đó. Thời đó có biển Thế giới. Tên là Tịnh Quang Phổ Nhãn. Trong có tính Thế giới. Tên là Thắng Diệu Âm.      Dừng dựa vào biển lưới hoa Như ý. Thanh tịnh không bẩn. Có Thế giới dùng làm quyến thuộc bằng số bụi trần của núi Tu Di. Vô lượng vật báu trang nghiêm, đất có ba trăm lớp. Các vật báu vây quanh núi cao rộng nghiêm sạch. Vây vòng xung quanh. Tính hình của Thế giới đó như núi Tu Di, cung điện Trời trang nghiêm. Dùng nghĩ nhớ làm thức ăn. Trong tính Thế giới đó. Có biển nước hoa. Tên là Thanh Tịnh Quang. Trong biển hương đó. Có núi Tu Di. Tên là Đại Diệm Hoa Trang Nghiêm Tràng. Dùng mười loại lan can báu vây quanh. Núi Tu Di đó có rừng quán. Tên là Bảo Hoa Chi. Dùng vô lượng lầu gác hoa. Vô lượng lầu gác cờ báu. Vô lượng lưới báu tía. Hoa đủ loại màu sắc mà trang nghiêm nó. Vô lượng mây hương che khắp lên trên. Mười trăm triệu trăm nghìn thành bao vây xung quanh.

Phía Đông rừng đó. Có một thành lớn. Tên là Diệm Quang. Toàn bộ do hương tạo thành. Mỗi bên hai mươi nghìn cây số. Bảy vật báu là tường thành. Bao vây xung quanh. Thành này xem động. Vật báu hỗn tạp trang nghiêm. Lại dùng hoa hỗn tạp và các lưới báu. Gió nhẹ lay động. Phát ra âm thanh vi diệu. Thành này có một vạn hai nghìn cửa. Làm bằng cờ báu hỗn tạp mà trang nghiêm nó. Mười trăm triệu vườn rừng bao vây xung quanh. Chúng sinh trong thành đều cùng thành công. Hạnh Thần túc Nghiệp báo cùng như các Trời. Tất cả yêu cầu, nghĩ nhớ tức thời tới.

Ở phía Nam rừng đó. Có một thành trên Trời. Tên là Thụ Hoa Trang Nghiêm. Tiếp theo có thành của Rồng. Tên là Cứu Cánh. Tiếp theo có thành của Dạ Xoa. Tên là Kim Cương Thắng Diệu Trang Nghiêm Tràng. Tiếp theo có thành của Càn Thát Bà. Tên là Ly Cấu Thiện. Tiếp theo có thành của A Tu La. Tên là Bảo Luân Địa. Tiếp theo có thành của Ca Lâu La. Tên là Chúng Bảo Trang Nghiêm Thiện Quang. Tiếp theo có thành của Khẩn Na La. Tên là Ngu Lạc Trang Nghiêm. Tiếp theo có thành của Ma Hầu La Già. Tên là Bảo Kim Cương Tràng.

Trong rừng đó có một Đạo tràng. Tên là Bảo Hoa Trang Nghiêm. Phía trước Đạo tràng đó có hoa Sen lớn. Tên là Hoa Diệm Cụ Túc. Dài rộng chừng trăm trăm triệu Do tuần. Mười trăm triệu hoa Sen vây quanh. Thời Thế giới đó đã qua một trăm năm. Có Phật xuất hiện ở đời. Như thế lần lượt. Có Như Lai xuất hiện ở đời bằng số bụi trần của mười Núi Tu Di. Phật đầu tiên này. Tên là Nhất Thiết Công Đức Bản Thắng Tu Di Sơn Vân. Thời Phật ở trên hoa Sen lớn đó. Hào quang sáng giữa mi phóng Quang sáng lớn. Tên là Hiểu tất cả công Đức.

Có Quang sáng dùng làm quyến thuộc bằng số bụi trần của mười Thế giới Phật. Quang đó bỏ mất tất cả vòng chướng ngại Phiền não của chúng sinh. Giúp được tâm Thanh tịnh. Nổi lên biển công Đức. Vĩnh rời xa các hướng tới Địa ngục Quỷ đói Súc sinh, tám nạn. Phát tâm Bồ Đề. Các Phật Tử ! Thời trong thành Diệm Quang đó.

Có Vua tên là Ái Kiến Thiện Tuệ. Vua đó thống lĩnh vạn trăm triệu các thành. Có ba vạn bảy nghìn phu nhân cung nữ. Hai vạn năm nghìn con trai. Con trai thứ nhất tên là Công Đức Thắng. Tên tiếp theo là Cậu bé Phổ Trang Nghiêm.

Thời Cậu bé đó do thấy vô lượng Nhân duyên Căn thiện công Đức Tự do của Phật. Tức thời được mười loại Tam muội. Tên là Tam muội đầy đủ công Đức của các Phật. Tam muội Phương tiện môn rộng khắp. Tam muội mây Phương tiện sạch. Tam muội giáo hóa chúng sinh. Tam muội tràn đầy tất cả âm thanh. Tam muội chân thành hướng về vô lượng công Đức. Tam muội như thực biết các Pháp. Tam muội biển Phương tiện đất rộng. Tam muội Được Giải thoát. Tam muội quang Tất cả Trí tuệ. Khi đó Cậu bé Phổ Trang Nghiêm dùng bài kệ ca ngợi nói rằng :

Như nghìn mặt Trời mọc. Đều cùng chiếu khoảng không.

Ngồi Đạo tràng rời bẩn. Quang sáng cũng như thế.

Nhiều vạn trăm triệu Kiếp. Khó gặp Thầy dẫn đường.

Sinh ra ở Thế gian. Tất cả thấy Thế Tôn.

Quan sát Quang sáng Phật. Như mây khó nghĩ bàn.

Đều thấy tất cả nơi. Như hiện ngay trước mắt.

Lỗ lông phóng Quang sáng. Như mây không thể hết.

Theo tiếng các chúng sinh. Khen vô lượng Đức Phật.

Chúng sinh gặp Quang Phật. Vĩnh Vắng lặng rời khổ.

Đều yên ổn vui sướng. Vui mừng tràn đầy khắp.

Quan sát các Bồ Tát. Tràn đầy Cõi mười phương.

Phóng mây báu Như ý. Ca ngợi các Thế Tôn.

Thường nghe ở Đạo tràng. Biển tiếng sâu vi diệu.

Mất khổ các chúng sinh. Thấy lực Tự do Phật.

Tất cả nổi cung kính. Tâm vui mừng vô lượng.

Đi tới nơi Vua Pháp. Chiêm ngưỡng lễ cúng dưỡng.

Thời Cậu bé đó nói bài kệ, âm thanh đều cùng rộng nghe ở Thế giới kia. Khi đó Vua Ái Kiến Thiện Tuệ nghe đọc bài kệ như thế. Vui mừng vô lượng. Dùng bài kệ ca ngợi nói rằng :

Hợp thời rộng nói đọc. Các Vua các đại thần.

Giúp biết cảnh yên lành. Đều nhanh tới Như Lai.

Trang sức tất cả thành. Nên giúp đều Thanh tịnh.

Làm các cờ phướn đẹp. Đủ loại quý trang nghiêm.

Làm các trướng báu đẹp. Che phủ khắp lên nó.

Nổi mây tiếng âm nhạc. Giúp đầy khắp khoảng không.

Quét sạch các phố ngõ. Giáng xuống mưa báu tạp.

Trang nghiêm các xe báu. Cần tới thấy Thế Tôn.

Đều ở trong trướng này. Tưới đủ loại mây mưa.

Tất cả mây trang nghiêm. Lưu hành trong khoảng không.

Mây sáng hoa Sen thơm. Vành hoa khó nghĩ bàn.

Mây nửa Trăng chuỗi ngọc. Rơi các áo báu đẹp.

Nước hoa núi Tu Di. Như ý báu trang nghiêm.

Các báu tạp Thanh tịnh. Hiện rõ trong khoảng không.

Hoa man Như ý báu. Các Man quý rời bẩn.

Mây đèn báu Như ý. Ngưng chiếu dừng khoảng không.

Ngắm nghĩ đều nhớ Phật. Sinh vô lượng vui mừng.

Vợ con quyến thuộc đều. Cần tới thấy Thế Tôn.

Khi đó Vua Ái Kiến Thiện Tuệ cùng với bảy mươi bảy trăm triệu Na do tha quyến thuộc đi theo. Đi tới nơi ở của Nhất Thiết Công Đức Bản Thắng Tu Di Sơn Vân Phật. Tới rồi phục đất đỉnh lễ chân. Ngồi ở một bên. Có vô lượng các Trời. Rồng. Dạ Xoa. Càn Thát Bà. A Tu La. Ca Lâu La. Khẩn Na La. Ma Hầu La Già. Đi tới nơi ở của Phật. Phục đất đỉnh lễ chân. Dừng ở một bên.

Khi đó Như Lai vì giáo hóa tất cả các chúng sinh. Ở trong biển Đại chúng đó nói Kinh. Tên là Hiện ra tập hợp tất cả các Phật Ba Đời. Kinh Pháp bằng số bụi trần của Thế giới dùng làm quyến thuộc. Do tùy theo các chúng sinh cần hiểu. Khi đó Cậu bé Phổ Trang Nghiêm nghe Kinh đó xong. Do công Đức Nhân duyên đời trước. Được tất cả Pháp, đầy đủ Tam muội. Tất cả Pháp tới nhập vào, yên ở Tam muội tâm Bồ Đề. Tam muội Phương tiện ánh quang Sư Tử Cõi Pháp. Tam muội Thanh tịnh mắt Pháp. Lúc đó Cậu bé dùng bài kệ ca ngợi nói rằng :

Con nghe Pháp tốt nhất. Mở mắt Tuệ Thanh tịnh.

Hay thấy tất cả Phật. Biển công Đức Quá khứ.

Con thấy tất cả Sinh. Đầy đủ như Sắc trước.

Theo tên Nghiệp thân trước. Cúng dưỡng tất cả Phật.

Nơi các Phật Quá khứ. Vô lượng biển Kiếp làm.

Con thấy các biển Phật. Biển Nước Phật Thanh tịnh.

Ở trong biển sinh chết. Bỏ vô lượng tự thân.

Tu hạnh tốt Bồ Tát. Biển Nước Phật nghiêm sạch.

Bỏ vô lượng tai mũi. Đầu mắt và chân tay.

Thân Vua thân đại thần. Tu Nước sạch đầy đủ.

Trong mỗi một Nước Phật. Trăm triệu Kiếp khó nghĩ bàn.

Tu hành Đạo Bồ Tát. Giúp sạch biển Nước Phật.

Nguyện Phổ Hiền Bồ Tát. Tu luyện các biển hạnh.

Trong tất cả biển Nước. Giúp Thanh tịnh đất Phật.

Sạch như ánh Thái dương. Đều thấy đầy đủ Sắc.

Ánh Trí Phật chiếu xong. Thấy tu trước của con.

Thấy vô lượng các Phật. Nước Thanh tịnh rời bẩn.

Thành tiếng Đẳng Chính Giác. Đều tràn đầy Cõi Pháp.

Như tu Thanh tịnh đó. Đầy đủ biển Nước Phật.

Thần lực tất cả Phật. Cần tu hạnh Bồ Tát.

Khi nói bài kệ đó. Chúng sinh bằng số bụi trần của núi Tu Di đều phát tâm Đạo Bình Đẳng. Thời Như Lai đó vì Cậu bé này mà đọc bài tụng nói rằng :

Thiện thay Phổ Trang Nghiêm. Tạng Đức nói tên lớn.

Do hay vì chúng sinh. Dũng mãnh cầu Bồ Đề.

Hay phát quang Trí tuệ. Đầy tất cả Cõi Pháp.

Mây Đức Đạo Bình Đẳng. Đang được biển Trí tuệ.

Tu hành trong một Nước. Kiếp bụi trần một Nước.

Đang được Trí tuệ đó. Như Ta được như thế.

Người lười nhác không thể. Hiểu sâu biển Phương tiện.

Thành công lực Tinh tiến. Hay sạch Thế giới Phật.

Tất cả số bụi trần. Biển Kiếp tu các hạnh.

Được sạch đó như thế. Như biển Nước Phật của Ta.

Vì mỗi một chúng sinh. Vô lượng Kiếp Hạnh khổ.

Không chán nạn sinh chết. Hay làm Thầy dẫn lớn.

Nguyện vô lượng vô biên. Tất cả các biển Phật.

Hay tới Đạo Bình Đẳng. Đầy đủ biển Phương tiện.

Cung kính cúng dưỡng Ta. Lực lớn Phổ Trang Nghiêm.

Thắng Tu Di Sơn Phật. Được Đạo Bình Đẳng của Ngài.

Phổ Hiền thường dũng mãnh. Nói đầy đủ tên lớn.

Đầy tất cả Cõi Pháp. Sạch các biển Nước Phật.

Khi đó Nhất Thiết Công Đức Bản Thắng Tu Di Sơn Vân Như Lai thọ năm mươi trăm triệu năm. Phật đó sau khi tạ thế. Có Phật xuất hiện ở đời, tên hiệu là Nhất Thiết Độ Ly Si Thanh Tịnh Nhãn Vương Như Lai.

Cậu bé Phổ Trang Nghiêm thấy Như Lai đó xong. Tức thời được Tam muội Nhớ Phật. Tam muội Tạng biển môn rộng khắp. Tam muội Vô lượng Trí tuệ giữ chuyển Pháp. Tam muội Vui Pháp rất sâu.

Thời Phật nói Kinh, tên là Tự tính tất cả Cõi Pháp trang nghiêm rời bẩn. Có Kinh Pháp dùng làm quyến thuộc bằng số bụi trần của Thế giới. Cậu bé Phổ Trang Nghiêm nghe Kinh đó xong. Tức thời được Tam muội. Tên là Tam muội Tạng vui mừng môn rộng khắp của tất cả Pháp. Nhập vào Tam muội biển Phương tiện tất cả Pháp.

 

Thứ ba Phẩm Tên hiệu của Như Lai, Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật.

 

Phật ở Đạo tràng Tịch Diệt Nước Ma Kiệt Đề. Mới bắt đầu được Phật. Phòng Pháp Phổ Quang. Ngồi trên tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Trí tuệ hiểu thiện không có hai nghĩ nhớ. Thông tỏ tính Pháp. Ở nơi ở của Phật. Cùng Các Như Lai Bình đẳng tới đầy đủ hướng tới không có trở ngại. Cảnh giới không phá hỏng của Pháp không lui. Dừng ở không nghĩ bàn cùng với thông suốt Ba Đời. Với Bồ Tát lớn đi theo bằng số bụi trần của mười Đất nước Phật. Hết cả là Bồ Tát một lần sinh thành Phật. Đều từ Thế giới phương khác tới tập hợp. Biết rõ tính chúng sinh. Nhập sâu vào Cõi Pháp. Thường hay suy xét Niết Bàn Thế gian. Sáng rõ Nghiệp báo, tâm thực hành của chúng sinh. Đều có thể hiểu biết vị nghĩa của các Pháp. Quan sát Pháp Thế gian, ly rời Thế gian. Thành quả phân biệt được tính của Pháp Không có hình. Quá khứ Tương lai Hiện tại đều cùng thông suốt.

Thời các Bồ Tát đều làm nghĩ nhớ đó. Chỉ nguyện Thế Tôn thương xót chúng con. Theo ý chí được vui. Tỏ ra rõ Nước Phật. Tỏ rõ nơi ở của Phật. Tỏ rõ Nước Phật trang nghiêm. Tỏ rõ các Pháp Phật. Tỏ rõ Thanh tịnh đất Phật. Tỏ rõ Pháp được Phật nói. Tỏ rõ thể loại Nước Phật. Tỏ rõ thế lực công Đức của Phật. Tỏ rõ thuận theo nổi lên Nước Phật. Tỏ rõ thành Chính Giác. Mở rộng tỏ rõ nơi ở của tất cả Như Lai mười phương. Có thể phân biệt mười dừng, mười hạnh, mười hồi hướng, mười tạng, mười bậc, mười nguyện, mười Định, mười Tự do của Bồ Tát. Tâm vui theo của Bồ Tát mười đỉnh. Không cắt đứt tính Như Lai. Cứu giúp chúng sinh. Diệt mất Phiền não. Biết các hạnh. Hiểu các Pháp. Ly rời cáu bẩn. Rút bỏ các nạn. Bỏ lưới nghi hoặc. Khô hết yêu tham muốn. Bậc Phật Bình Đẳng. Cảnh giới của Phật. Phật dừng ở thọ. Hạnh của Phật. Lực của Phật. Không đâu sợ của Phật. Yên định của Phật. Thần túc của Phật. Pháp tốt của Phật. Không chuyển động của Phật. Sáu Tình sáu Căn của Phật. Ánh quang của Phật. Trí tuệ của Phật. Đầy đủ tất cả công Đức Bình Đẳng của Phật. Như thế cùng với việc. Đều vì Con hiện ra.

Khi đó Thế Tôn biết nghĩ nhớ nơi tâm của Bồ Tát. Liền như hình tượng đó. Hiện ra lực Thần thông. Hiện ra Thần lực xong. Phương Đông qua Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Kim Sắc. Tên hiệu Phật là Bất Động Trí. Có Bồ Tát tên chữ Văn Thù Sư Lợi. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương Đông hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Phương Nam qua Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Lạc Sắc. Tên hiệu Phật là Trí Hỏa. Có Bồ Tát tên chữ là Giác Thủ. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương Nam hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Phương Tây qua Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Hoa Sắc. Tên hiệu Phật là Tập Trí. Bồ Tát tên chữ là Tài Thủ. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương Tây hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Phương Bắc qua Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Đảm Bặc Hoa Sắc. Tên hiệu Phật là Hành Trí. Bồ Tát tên chữ là Bảo Thủ. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương Bắc hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Phương Đông Bắc qua Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Thanh Liên Hoa Sắc. Tên hiệu Phật là Minh Trí. Bồ Tát tên chữ là Đức Thủ. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương Đông Bắc hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Phương Đông Nam qua số Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Kim Sắc. Tên hiệu Phật là Cứu Cánh Trí. Bồ Tát tên chữ là Mục Thủ. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương Đông Nam hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Phương Tây Nam qua Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Bảo Sắc. Tên hiệu Phật là Thượng Trí. Bồ Tát tên chữ là Tiến Thủ. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương Tây Nam hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Phương Tây Bắc qua Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Kim Cương Sắc. Tên hiệu Phật là Tự Tại Trí. Bồ Tát tên chữ là Pháp Thủ. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương Tây Bắc hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Phương phía Dưới qua Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Pha Lê Sắc. Tên hiệu Phật là Phạm Trí. Bồ Tát tên chữ là Trí Thủ. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương phía Dưới hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Phương phía Trên qua Nước bằng số bụi trần của mười Nước Phật. Có Thế giới tên là Như Thực Sắc. Tên hiệu Phật là Phục Oán Trí. Bồ Tát tên chữ là Hiền Thủ. Cùng với Bồ Tát đi tới nơi ở của Phật bằng số bụi trần của mười đất Phật. Cung kính cúng dưỡng. Phục đỉnh lễ chân. Tức thời ở phương phía Trên hóa làm tòa Sư Tử tạng hoa Sen. Ngồi xếp bằng Kết già.

Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dựa vào Thần lực của Phật. Quan sát Đại chúng ca ngợi nói rằng : Vui thay ! Nay hội Bồ Tát là chưa từng có. Các Phật Tử ! Cần biết Nước Phật không thể nghĩ bàn. Phật dừng. Nước Phật. Pháp Phật. Thanh tịnh Nước Phật. Phật nói Pháp. Phật hiện ở đời. Nổi lên Nước Phật. Các Phật Như Lai Bình Đẳng Chính Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn. Cớ là sao ? Các Phật mười phương nói Pháp. Biết hạnh tâm của người đó. Tùy theo cảm hóa chúng sinh. Cùng với các Cõi Pháp khoảng không. Cớ là sao ? Trong Thế giới Sa Bà này. Các bốn Thiên hạ giáo hóa tất cả đủ các loại thân. Đủ các loại tên. Hình Sắc nơi ở. Thọ mệnh dài ngắn. Các được các nhập. Nơi sinh các Căn.

Nghiệp báo. Đủ các loại như thế. Chúng sinh không như nhau. Thấy được cũng khác nhau. Cớ là sao ? Các Phật Tử ! Bốn Thiên hạ này tên hiệu của Phật khác nhau. Hoặc gọi là Tất Đạt. Hoặc gọi là Trăng Rằm. Hoặc gọi là Sư Tử Gầm. Hoặc gọi là Thích Ca Mâu Ni. Hoặc gọi là Thần Tiên. Hoặc gọi là Lô Xá Na. Hoặc gọi là Cồ Đàm. Hoặc gọi là Sa Môn Lớn. Hoặc gọi là Tối Thắng. Hoặc gọi là Năng Độ. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo Phương Đông này có bốn Thiên hạ. Tên là Thiện Hộ. Họ gọi tên Như Lai. Hoặc tên hiệu Kim Cương. Hoặc tên hiệu Tôn Thắng. Hoặc tên hiệu Đại Trí. Hoặc tên hiệu Bất Hoại.

Hoặc tên hiệu Vân Vương. Hoặc tên hiệu Vô Tránh. Hoặc tên hiệu Bình Đẳng. Hoặc tên hiệu Hoan Hỉ. Hoặc tên hiệu Vô Tỉ. Hoặc tên hiệu Mặc Nhiên. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo phương Nam này có bốn Thiên hạ. Tên là Nan Dưỡng. Họ gọi Như Lai. Hoặc tên là Cam Lộ Quán. Hoặc tên là Thiện Danh Xưng. Hoặc tên là Ly Cấu. Hoặc tên là Thực Luận Sư. Hoặc tên là Điều Ngự. Hoặc tên là Lạc Tuệ. Hoặc tên là Đại Âm. Hoặc tên là Chúng Hữu. Hoặc tên là Vô Lượng. Hoặc tên là Thắng Tuệ. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo phương Tây này có bốn Thiên hạ. Tên là Phật Tuệ. Họ gọi Như Lai. Hoặc là Tính Tuệ. Hoặc là Ái Hiện. Hoặc là Vô Thượng Vương. Hoặc là Vô Khủng Bố. Hoặc là Thực Tuệ.Hoặc là Thường Hóa. Hoặc là Tri Túc. Hoặc là Pháp Tuệ. Hoặc là Cứu Cánh. Hoặc là Năng Nhẫn. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo phương Bắc này có bốn Thiên hạ. Tên là Sư Tử Ngôn. Họ gọi Như Lai. Hoặc gọi là Đại Mâu Ni. Hoặc gọi là Khổ Hạnh. Hoặc gọi là Bà Già Bà. Hoặc gọi là Phúc Điền. Hoặc gọi là Nhất Thiết Trí. Hoặc gọi là Thiện Ý. Hoặc gọi là Thanh Tịnh. Hoặc gọi là Y Na Bà Na. Hoặc gọi là Thắng Man. Hoặc gọi là Nguyện Hạnh Mãn. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo phương Đông Bắc này có bốn Thiên hạ. Tên là An Ninh. Họ gọi Như Lai. Hoặc tên hiệu là Pháp Vương. Hoặc tên hiệu là Đẳng Khởi. Hoặc tên hiệu là Tịch Tĩnh. Hoặc tên hiệu là Diệu Thiện. Hoặc tên hiệu là Ly Dục. Hoặc tên hiệu là Thắng Tuệ. Hoặc tên hiệu là Đẳng Tâm. Hoặc tên hiệu là Vô Hoại. Hoặc tên hiệu là Tuệ Âm. Hoặc tên hiệu là Viễn Lai. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo phương Đông Nam này có bốn Thiên hạ. Tên là Thiện Lạc. Họ gọi Như Lai.

Hoặc tên là Liên Hoa. Hoặc tên là Tuệ Hỏa. Hoặc tên là Tri Nhân. Hoặc tên là Mật Giáo. Hoặc tên là Giải Thoát. Hoặc tên là Tự Nhiên An Trụ. Hoặc tên là Diệu Hạnh Thành Tựu. Hoặc tên là Thanh Tịnh Nhãn Vương. Hoặc tên là Thượng Dũng. Hoặc tên là Tinh Tiến Lực. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo phương Tây Nam này có bốn Thiên hạ. Tên là Kiên Cố. Họ gọi Như Lai. Hoặc gọi là Bất Động. Hoặc gọi là Tuệ Vương. Hoặc gọi là Mãn Tuệ. Hoặc gọi là Vô Động Tuệ. Hoặc gọi là Thường Bi. Hoặc gọi là Đỉnh Vương. Hoặc gọi là Thắng Âm. Hoặc gọi là Nhất Thiết Thí. Hoặc gọi là Trì Tiên. Hoặc gọi là Thắng Tu Di. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo phương Tây Bắc này có bốn Thiên hạ. Tên là Tu Bồ Đề. Họ gọi Như Lai. Hoặc tên hiệu là Phổ Tuệ. Hoặc tên hiệu là Quang Minh Thành Tựu. Hoặc tên hiệu là Bảo Kế. Hoặc tên hiệu là Ưng Kính Niệm. Hoặc tên hiệu là Vô Thượng Nghĩa. Hoặc tên hiệu là Duyệt Lạc. Hoặc tên hiệu là Bản Tính Thanh Tịnh. Hoặc tên hiệu là Quang Minh Mãn. Hoặc tên hiệu là Tu Tý. Hoặc tên hiệu là Bản Thiện Trụ. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo phương phía Dưới này có bốn Thiên hạ. Tên là Diệm Đạo. Họ gọi Như Lai. Hoặc tên là Trưởng Dưỡng Thiện Căn. Hoặc tên là Sư Tử Sắc. Hoặc tên là Lợi Trí. Hoặc tên là Chân Kim Diệm. Hoặc tên là Phổ Thân. Hoặc tên là Phạn Âm. Hoặc tên là Nhiêu Ích. Hoặc tên là Cứu Cánh Lai. Hoặc tên là Chân Thiên. Hoặc tên là Bình Đẳng Thí. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Các Phật Tử ! Tiếp theo phương phía Trên này có bốn Thiên hạ. Tên là Trì Địa. Họ gọi Như Lai. Hoặc gọi là Mãnh Tuệ. Hoặc gọi là Vô Lượng Thanh Tịnh. Hoặc gọi là Giác Tuệ. Hoặc gọi là Dũng Thủ. Hoặc gọi là Diệu Trang Nghiêm. Hoặc gọi là Năng Phát Hoan Hỉ. Hoặc gọi là Ý Thành Mãn. Hoặc gọi là Hỏa Quang. Hoặc gọi là Tinh Tiến. Hoặc gọi là Nhất Thừa. Các Phật Tử ! Như thế Trì Địa bốn Thiên hạ gọi tên hiệu Phật. Số này một vạn.

Thế giới Sa Bà này có như thế cùng với trăm trăm triệu bốn Thiên hạ. Họ gọi tên Như Lai cũng đều khác nhau. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Đông Sa Bà Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Mật Huấn. Họ gọi Như Lai. Hoặc gọi là Bình Đẳng. Hoặc gọi là Tối Dũng. Hoặc gọi là An Úy. Hoặc gọi là Điều Ý. Hoặc gọi là Văn Tuệ. Hoặc gọi là Nhất Thiết Xả. Hoặc gọi là Tự Tại. Hoặc gọi là Kiên Cố Thân. Hoặc gọi là Đại Siêu Việt. Hoặc gọi là Vô Tỉ Trí. Các Phật Tử ! Như thế Đất nước Mật Huấn gọi tên hiệu của Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Nam Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Tối Dũng. Họ gọi Như Lai.  Hoặc gọi là Tự Nhiên Thanh Tịnh. Hoặc gọi là Ý Chí Đáo. Hoặc gọi là Năng Nhân. Hoặc gọi là Giải Thoát Vương. Hoặc gọi là Trí Tuệ Vương. Hoặc gọi là Minh Hạnh Túc. Hoặc gọi là Thiện Thệ. Hoặc gọi là Năng Tịch Diệt. Hoặc gọi là Đại Từ. Hoặc gọi là Đại Bi. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Tây Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Ly Cấu. Họ gọi Như Lai. Hoặc gọi là Cụ Túc Trực Tâm. Hoặc gọi là Phân Biệt Đạo. Hoặc gọi là Thiện Trì. Hoặc gọi là Giải Thoát Chúng Loạn. Hoặc gọi là Luận Sư. Hoặc gọi là Phân Biệt Chúng Bảo. Hoặc gọi là Vô Thượng Hiện. Hoặc gọi là Lai Hóa. Hoặc gọi là Nhất Thiết Khổ Hạnh. Hoặc gọi là Cụ Túc Lực. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Bắc Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Bảo Cảnh Giới. Họ gọi Như Lai.

Hoặc gọi là Đảm Bặc Hoa Sắc. Hoặc gọi là Nhật Tạng. Hoặc gọi là Y Tinh Tiến Trụ. Hoặc gọi là Đẳng Khởi Trụ Thọ. Hoặc gọi là Siêu Thực. Hoặc gọi là Tuệ Nhật. Hoặc gọi là Vô Chướng Ngại. Hoặc gọi là Nguyệt Xuất. Hoặc gọi là Tuệ Hỏa Thế. Hoặc gọi là Thanh Tịnh Thân. Như thế cùng gọi tên hiệu Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Đông Bắc Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Ha Ni. Họ gọi Như Lai.  Hoặc tên hiệu là Ly Khổ. Hoặc tên hiệu là Nhất Thiết Giải Thoát. Hoặc tên hiệu là Nhân Duyên Cụ Túc. Hoặc tên hiệu là Giải Thoát Trí Tuệ. Hoặc tên hiệu là Quá Khứ Tạng. Hoặc tên hiệu là Bảo Quang. Hoặc tên hiệu là Ly Thế Gian. Hoặc tên hiệu là Chí Ly Thân Địa. Hoặc tên hiệu là Đoan Nghiêm Tạng. Hoặc tên hiệu là Ly Sân Khuể Tâm. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Đông Nam Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Nhiêu Ích. Họ gọi Như Lai. Hoặc tên hiệu là Nhân Duyên. Hoặc tên hiệu là Tận Trí. Hoặc tên hiệu là Mỹ Âm. Hoặc tên hiệu là Căn Thắng. Hoặc tên hiệu là Trang Nghiêm Cái. Hoặc tên hiệu là Tịnh Căn. Hoặc tên hiệu là Thù Đặc. Hoặc tên hiệu là Phân Biệt Đáo Bỉ Ngạn. Hoặc tên hiệu là Thắng Định. Hoặc tên hiệu là Từ Phụ.

Hoặc tên hiệu là Trí Hải. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Tây Nam Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Tiên Thiểu. Họ gọi Như Lai.

Hoặc tên hiệu là Mâu Ni Chủ. Hoặc tên hiệu là Lạc Bảo. Hoặc tên hiệu là Bất Nhị Quan. Hoặc tên hiệu là Tri Trí. Hoặc tên hiệu là Khiêm Ý. Hoặc tên hiệu là Hữu Duyên Kiến. Hoặc tên hiệu là Căn Chủ. Hoặc tên hiệu là Thiên Nhân Sư. Hoặc tên hiệu là Kiến Nghiệp. Hoặc tên hiệu là Kim Cương Hoa. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Tây Bắc Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Tri Túc. Họ gọi Như Lai.   Hoặc tên hiệu là Hoa Tụ. Hoặc tên hiệu là Chiên Đàn Cái. Hoặc tên hiệu là Liên Hoa Tạng. Hoặc tên hiệu là Siêu Việt Chư Pháp. Hoặc tên hiệu là Pháp Hiển. Hoặc tên hiệu là Thứ Khởi. Hoặc tên hiệu là Thiện Tịnh Cái. Hoặc tên hiệu là Ly Cấu Thiện Căn. Hoặc tên hiệu là Thiện Ngôn. Hoặc tên hiệu là Chuyên Niệm Pháp. Hoặc tên hiệu là Ngũ Pháp Tạng. Như thế cùng gọi với tên hiệu Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Dưới Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Ly Đoàn Thực. Họ gọi Như Lai.

Hoặc tên hiệu là Trân Châu Diệm. Hoặc tên hiệu là Phổ Hóa. Hoặc tên hiệu là Pháp Mệnh Chủ. Hoặc tên hiệu là Vô Vi. Hoặc tên hiệu là Giác Căn. Hoặc tên hiệu là Ly Trần. Hoặc tên hiệu là Phong Vô Ngại. Hoặc tên hiệu là Hân Thí. Hoặc tên hiệu là Phân Biệt Đạo. Hoặc tên hiệu là Kiến Tràng. Như thế cùng với gọi tên hiệu Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Các Phật Tử ! Phía Trên Thế giới này. Tiếp theo có Đất nước. Tên là Giải Thoát Âm. Họ gọi Như Lai.

Hoặc tên hiệu là Mãnh Tràng. Hoặc tên hiệu là Vô Lượng Bảo. Hoặc tên hiệu là Lạc Đại Thí. Hoặc tên hiệu là Thiên Quang. Hoặc tên hiệu là Cát Tường Hưng. Hoặc tên hiệu là Ly Tử Địa. Hoặc tên hiệu là Tối Thắng. Hoặc tên hiệu là Bất Thoái Luân. Hoặc tên hiệu là Ly Phi Pháp. Hoặc tên hiệu là Tu Nhất Thiết Trí. Các Phật Tử ! Thế giới Giải Thoát Âm này gọi tên hiệu của Phật. Có trăm trăm triệu vạn.

Như Đất nước Sa Bà và mười Thế giới. Như thế phương Đông trăm nghìn trăm triệu. Không thể so lường. Không thể tính. Không thể nghĩ bàn. Không thể gọi. Không bằng nhau. Vô biên. Không phân đều. Không thể nói khoảng không. Các Cõi Pháp trong Thế giới. Chúng sinh gọi tên hiệu của Phật từng người khác nhau. Phương Tây Nam Bắc bốn hướng Trên Dưới. Cũng lại như thế.

Đều do Như Lai khi là Bồ Tát. Có Nhân duyên do vì độ thoát nơi này. Đủ các loại Phương tiện. Âm thanh Nghiệp miệng. Làm Nghiệp quả báo. Môn Pháp quyền Đạo. Các Căn được vui. Giúp các chúng sinh biết Pháp của Như Lai.

 

Phần một thứ tư Phẩm Bốn Chân lý, Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật.

 

Khi đó Văn Thù Sư Lợi bảo với các Bồ Tát nói rằng : Phật Tử ! Nói về Chân lý Khổ. Ở Sa Bà Thế giới này. Hoặc nói là hại. Hoặc nói là bức bách. Hoặc nói là biến khác. Hoặc nói là cảnh giới. Hoặc nói là tụ tập. Hoặc nói là châm. Hoặc nói là dựa vào Căn. Hoặc nói là không thực. Hoặc nói là ung nhọt. Hoặc nói là trẻ nhỏ làm.

Nói về Chân lý tập hợp Khổ. Hoặc nói là lửa. Hoặc nói là có thể hỏng. Hoặc nói là nhận nghĩa. Hoặc nói là cảm giác. Hoặc nói là Phương tiện. Hoặc nói là quyết định. Hoặc nói là lưới. Hoặc nói là nhớ. Hoặc nói là thuận theo chúng sinh. Hoặc nói là Căn đảo lộn.

Nói về Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc nói là không có chướng ngại. Hoặc nói là sạch rời bẩn. Hoặc nói là Tĩnh lặng. Hoặc nói là Không có hình tướng. Hoặc nói là không chết. Hoặc nói là tất cả không có. Hoặc nói là cắt đứt Nhân duyên. Hoặc nói là diệt mất. Hoặc nói là chân thực. Hoặc nói là dừng ở tự nhiên.

Nói về Chân lý Đạo diệt mất Khổ. Hoặc nói là Bậc nhất. Hoặc nói là hướng tới Tĩnh lặng. Hoặc nói là dẫn dắt. Hoặc nói là hi vọng cuối cùng. Hoặc nói là thường không rời. Hoặc nói là có thể bỏ gánh vác. Hoặc nói là đến hướng tới sai. Hoặc nói là theo hạnh người Thánh. Hoặc nói là hạnh của người Tiên. Hoặc nói là mười tạng.

Các Phật Tử ! Trong Sa Bà Thế giới này. Như thế cùng với tên chữ của bốn Chân lý có bốn mươi trăm triệu trăm nghìn Na do tha. Tùy theo các chúng sinh cần điều phục. Làm nói như thế.

Các Phật Tử ! Như Sa Bà Thế giới gọi là Chân lý Khổ. Ở Mật Huấn Thế giới. Hoặc tên là cầu gốc.Hoặc tên là không thể sinh ra. Hoặc tên là không ràng buộc gốc. Hoặc tên là làm không nên làm.

Hoặc tên là tất cả không thực. Hoặc tên là phân biệt gầy yếu. Hoặc tên là thành công nơi ở. Hoặc tên là hại bậc nhất. Hoặc tên là động. Hoặc tên là việc của thân.

Được tên Chân lý tập hợp Khổ. Hoặc tên là nhận. Hoặc tên là cành nhánh. Hoặc tên là đốt thiêu. Hoặc tên là kiên cố. Hoặc tên là gốc hỏng. Hoặc tên là tiếp tục. Hoặc tên là làm hại. Hoặc tên là quên vui. Hoặc tên là nguồn sinh. Hoặc tên là phận.

Được tên là Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là chính nghĩa. Hoặc tên là kiên cố. Hoặc tên là ca ngợi. Hoặc tên là yên ổn. Hoặc tên là hướng tới thiện. Hoặc tên là điều phục. Hoặc tên là một đạo. Hoặc tên là rời Phiền não. Hoặc tên là không loạn. Hoặc tên là cuối cùng.

Được tên là Đạo Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là tướng dũng mãnh. Hoặc tên là không chìm. Hoặc tên là vượt qua. Hoặc tên là Phương tiện chuyên cần. Hoặc tên là mắt rộng khắp. Hoặc tên là rời giới hạn. Hoặc tên là giác ngộ. Hoặc tên là được vi diệu. Hoặc tên là mắt Bình Đẳng. Hoặc tên là xem phương hướng.

Các Phật Tử ! Mật Huấn Thế giới đó như thế cùng với tên chữ bốn Chân lý có bốn mươi trăm triệu trăm nghìn Na do tha. Tùy theo nơi các chúng sinh cần điều phục. Làm nói như thế.

Các Phật Tử ! Như Sa Bà Thế giới gọi tên là Chân lý Khổ. Ở Tối Dũng Thế giới. Hoặc tên là sợ hãi. Hoặc tên là cắt đứt Phúc. Hoặc tên là cần trách mắng. Hoặc tên là thường cung cấp. Hoặc tên là thô ráp. Hoặc tên là thường oán ghét. Hoặc tên là rời được. Hoặc tên là đoạt lợi. Hoặc tên là khó cùng việc. Hoặc tên là ảo vọng. Hoặc tên là thế lực.

Được tên là Chân lý tập hợp Khổ. Hoặc tên là Nhân duyên. Hoặc tên là ngu si lớn. Hoặc tên là rừng oán. Hoặc tên là chặt cành. Hoặc tên là mất mùi vị. Hoặc tên là đối địch. Hoặc tên là nhờ mùi vị. Hoặc tên là dẫn dắt. Hoặc tên là tăng thêm tối. Hoặc tên là hại lợi.

Được tên là Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là nghĩa lớn. Hoặc tên là phân lợi ích. Hoặc tên là nghĩa trong nghĩa. Hoặc tên là vô lượng. Hoặc tên là thấy. Hoặc tên là cắt đứt ảo vọng. Hoặc tên là tốt nhất. Hoặc tên là bình thường. Hoặc tên là dừng ở. Hoặc tên là Không có hình.

Được tên là Đạo Chân lý diệt mất khổ. Hoặc tên là tắt lửa. Hoặc tên là cành tốt. Hoặc tên là định phân biệt. Hoặc tên là không lui. Hoặc tên là Phương tiện sâu. Hoặc tên là ra ngoài. Hoặc tên là cao nhất. Hoặc tên là đến hướng tới sai. Hoặc tên là Giải thoát. Hoặc tên là hay giúp Giải thoát.

Các Phật Tử ! Tối Dũng Thế giới đó như thế cùng với tên bốn Chân lý có bốn mươi trăm triệu trăm nghìn Na do tha. Tùy theo các chúng sinh cần điều phục. Làm nói như thế.

Các Phật Tử ! Như Sa Bà Thế giới gọi là Chân lý Khổ. Ở Ly Cấu Thế giới. Hoặc tên là hối hận. Hoặc tên là đợi của. Hoặc tên là phân biệt. Hoặc tên là luân hồi. Hoặc tên là đi trước. Hoặc tên là một mùi vị. Hoặc tên là Pháp sai. Hoặc tên là bậc hiện ra. Hoặc tên là sai lớn nhất. Hoặc tên là thấy sai. Hoặc tên là không thể nhịn.

Được tên là Chân lý tập hợp Khổ. Hoặc tên là khí lực giả. Hoặc tên là phận. Hoặc tên là chịu nhịn. Hoặc tên là đất sống. Hoặc tên là cầm lấy. Hoặc tên là vứt bỏ. Hoặc tên là tăng thêm. Hoặc tên là gánh vác. Hoặc tên là có thể sinh. Hoặc tên là buộc kiên cố.

Được tên là Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là đợi một chút. Hoặc tên là trống rỗng. Hoặc tên là không bẩn. Hoặc tên là Căn tốt. Hoặc tên là được ngang bằng. Hoặc tên là không làm. Hoặc tên là diệt sai khiến. Hoặc tên là cao nhất. Hoặc tên là cuối cùng. Hoặc tên là phá ấn.

Được tên là Đạo Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là thực kiên cố. Hoặc tên là phân biệt Phương tiện. Hoặc tên là nghĩa gốc. Hoặc tên là tính chân thực. Hoặc tên là rời yêu thích. Hoặc tên là được sạch. Hoặc tên là có giới hạn. Hoặc tên là nhờ toàn bộ. Hoặc tên là cuối cùng. Hoặc tên là sạch ảo vọng.

Các Phật Tử ! Ly Cấu Thế giới như thế cùng với tên bốn Chân lý có bốn mươi trăm triệu trăm nghìn Na do tha. Tùy theo các chúng sinh cần điều phục. Làm nói như thế.

Các Phật Tử ! Như Sa Bà Thế giới gọi là Chân lý Khổ. Ở Chân Thực Cảnh Thế giới. Hoặc tên là yêu tham muốn. Hoặc tên là gốc nguy hiểm. Hoặc tên là phận lớn. Hoặc tên là Phương tiện sai. Hoặc tên là phân biệt gốc. Hoặc tên là lưu chuyển. Hoặc tên mất sinh. Hoặc tên là chướng ngại. Hoặc tên là gốc đảo lộn. Hoặc tên là thường có.

Được tên Chân lý tập hợp Khổ. Hoặc tên là yêu thích. Hoặc tên là chìm hãm. Hoặc tên là không thể hết. Hoặc tên là duyên phận. Hoặc tên là hướng tới đúng. Hoặc tên là bến đò và cầu. Hoặc tên là việc. Hoặc tên là chướng ngại. Hoặc tên là khí lực. Hoặc tên là động.

Được tên là Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là đứt liên tục. Hoặc tên là giải tán. Hoặc tên là không tên. Hoặc tên là không làm. Hoặc tên là không hiện ra. Hoặc tên là làm không có. Hoặc tên là Sắc thân không có. Hoặc tên là không có thiêu đốt. Hoặc tên là sáng. Hoặc tên là sạch.

Được tên là Đạo Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là hạnh im lặng. Hoặc tên là Hạnh đúng. Hoặc tên là tu chứng. Hoặc tên là Đạo yên ổn. Hoặc tên là thọ vô lượng Hoặc tên là tu tới cùng. Hoặc tên là Đạo bình thường. Hoặc tên là khó được. Hoặc tên là Niết Bàn. Hoặc tên là vô địch.

Các Phật Tử ! Chân Thực Cảnh Thế giới như thế cùng với tên bốn Chân lý có bốn mươi trăm triệu trăm nghìn Na do tha. Tùy theo các chúng sinh cần điều phục. Làm nói như thế.

Các Phật Tử ! Như Sa Bà Thế giới gọi là Chân lý Khổ. Ở Ha Ni Thế giới. Hoặc tên là chiếm đoạt. Hoặc tên là bạn thiện sai. Hoặc tên là run rẩy. Hoặc tên là nhiều lời. Hoặc tên là Địa ngục thực. Hoặc tên là Pháp điều phục sai. Hoặc tên là gánh nặng. Hoặc tên là gốc hỏng. Hoặc tên là ảo vọng. Hoặc tên là gốc ảo vọng.

Được tên là Chân lý tập hợp Khổ. Hoặc tên là tham muốn. Hoặc tên là làm. Hoặc tên là ác. Hoặc tên là sinh. Hoặc tên là buộc chặt. Hoặc tên là tưởng nhớ. Hoặc tên là quả có. Hoặc tên là không yêu thích. Hoặc tên là không nên nói. Hoặc tên là chuyển trở về.

Được tên là Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là không chuyển đổi. Hoặc tên là Giải thoát. Hoặc tên là làm không có. Hoặc tên là rời yêu thích. Hoặc tên là kiên cố. Hoặc tên là chân thực. Hoặc tên là rời ngu si. Hoặc tên là Vắng lặng. Hoặc tên là Hiền Thánh. Hoặc tên là rời oán địch.

Được tên là Đạo Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là Nói đúng. Hoặc tên là không có tranh đấu. Hoặc tên là dạy dẫn đường. Hoặc tên là tâm hồi hướng. Hoặc tên là hay rộng. Hoặc tên là Phương tiện phân biệt. Hoặc tên là thường có. Hoặc tên là hướng tới Tĩnh lặng. Hoặc tên là được Trí tuệ. Hoặc tên là hiểu nghĩa thiện.

Các Phật Tử ! Hà Ni Thế giới như thế cùng với tên bốn Chân lý có bốn mươi trăm triệu trăm nghìn Na do tha. Tùy theo các chúng sinh cần điều phục. Làm nói như thế.

Các Phật Tử ! Như nơi Sa Bà Thế giới gọi là Chân lý Khổ. Ở Nhiêu Ích Thế giới. Hoặc tên là gánh nặng. Hoặc tên là giòn vỡ. Hoặc tên là bọn cướp. Hoặc tên là sinh chết. Hoặc tên là vui mừng sai. Hoặc tên là lưu chuyển. Hoặc tên là mệt mỏi. Hoặc tên là hình xấu. Hoặc tên là hay sinh. Hoặc tên là dao sắc.

Được tên gọi là Chân lý tập hợp Khổ. Hoặc tên là chảy tràn. Hoặc tên là nhiễu loạn. Hoặc tên là Phiền não. Hoặc tên là gầy xấu. Hoặc tên là phiêu dạt. Hoặc tên là rối loạn. Hoặc tên là Giải thoát sai. Hoặc tên là làm được. Hoặc tên là cầm lấy. Hoặc tên là ảo vọng.

Gọi là Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là rời ngục tối. Hoặc tên là chân thực. Hoặc tên là rời các nạn. Hoặc tên là che chở. Hoặc tên là do thiện. Hoặc tên là tùy theo tới. Hoặc tên là gốc. Hoặc tên là rời cành. Hoặc tên là Không có hình. Hoặc tên là lần lượt không có.

Gọi là Đạo Chân lý diệt mất Khổ. Hoặc tên là hiểu tất cả không có. Hoặc tên là do tất cả. Hoặc tên là vốn dĩ thiện. Hoặc tên là sáng tới. Hoặc tên là Pháp không chuyển vận. Hoặc tên là Có hết tận. Hoặc tên là Đạo lớn. Hoặc tên là hay điều phục. Hoặc tên là yên ổn. Hoặc tên là lưu chuyển sai.

Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, quyển thứ tư.