KINH DUY-MA-CẬT

Hán dịch: Đời Đông Ngô, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm, người nước Nguyệt Chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: PHẬT QUỐC

Nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Duy-da-ly, ngụ ở vườn Nại thọ, cùng với đông đủ chúng đại Tỳ-kheo gồm tám ngàn vị, chúng Đại Bồtát ba vạn hai ngàn vị, đều là các bậc Bồ-tát đã chứng đắc thần thông. Tất cả các bậc Đại thánh này có thể thuận theo thế tục để giáo hóa, những việc Phật làm đều làm theo được, làm thành trì để giữ gìn chánh pháp, gầm lên tiếng gầm của sư tử khiến mười phương đều nghe. Mọi người không mời mà vẫn đến làm bạn, đem an vui tới cho họ, làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo khiến không bị dứt mất, chiến thắng ma vương, oán thù. Tất cả những người đã được giáo hóa đều tin hiểu và đều vượt qua cõi sinh tử, đạt giải thoát không còn trở ngại, không mất biện tài. Các báu niệm và định Tổng trì đều thành tựu. Bố thí điều ý, tự tổn, hành giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm (thiền định), trí tuệ, hàng thiện quyền trở xuống đạt được chỗ dứt hết mọi chấp trước, chứng đạt pháp nhẫn không phát khởi (pháp Nhẫn vô sinh) không thoái chuyển. Đã chuyển bánh xe chánh pháp, tùy theo hình tướng của mọi người ma hiện bày đạo đức trí tuệ, làm vị thầy dẫn đường đúng đắn cho muôn loài. Do không sợ nên không lay động. Đem phần phước đức trí tuệ đã thành tựu và dùng tướng hảo đã đạt được để có thể tự trang nghiêm tạo vẻ đẹp bậc nhất, xả bỏ của cải thế gian, ý chí và đức hạnh cao thượng, tiếng tốt lan khắp, có chí kim cang, được tánh Phật thánh. Dùng pháp cảm hóa người, rưới mưa cam lộ, hiểu rõ âm thanh ngôn ngữ của mọi loài, thuyết pháp lưu loát như nước chảy, tiếng nói trong suốt hòa nhập vào pháp vi diệu. Thấy rõ nguồn gốc sinh tử, đoạn trừ các ách, vượt qua các sợ hãi, rống tiếng rống của sư tử, chẳng nói nhiều, thuyết pháp như sấm rền, không thể ước lượng vì đã vượt quá mọi ước lượng. Dùng sự dẫn dắt của trí tuệ trên nẻo quý báu của đạo pháp làm Đại sư. Dùng hạnh trì túc hiện bày rộng xa âm thanh của Phật và công đức của pháp. Vào khắp các cõi, tùy thuận giáo hóa chúng sinh, giảng nói trí tuệ của chánh pháp không thể so sánh, đúng như trí tuệ của Phật, dùng mười Lực, bốn Vô úy và mười tám pháp Bất cộng của Phật, vượt qua mọi sự sa rớt vào hầm hố của các đường ác, sinh trong năm đường, làm vị thầy thuốc vĩ đại, dùng trí tuệ, dùng sự khéo léo chữa bệnh cho chúng sinh, đúng bệnh cho thuốc, khiến mau bình phục, đạt được vô lượng việc tốt, làm nghiêm tịnh vô lượng cõi Phật, tu học vô lượng trí tuệ của Phật, lãnh hội, giảng dạy về minh trí, noi theo dấu vết sáng suốt, theo thứ lớp phát huy nguồn gốc của phước đức trí tuệ, nhập vào yếu chỉ của pháp sâu xa, có thể hoàn thành vô lượng Tam-muội, Phật lực, vô úy, tất cả đều đầy đủ.

Tên của các vị đó là: Bồ-tát Chánh Quán, Bồ-tát Kiến Chánh Tà, Bồ-tát Định Hóa Vương, Bồ-tát Pháp Tự Tại, Bồ-tát Pháp Tạo, Bồ-tát Quang Tạo, Bồ-tát Quang Tịnh, Bồ-tát Đại Tịnh, Bồ-tát Biện Tích, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Thường Thảm, Bồ-tát Thường Tiếu, Bồ-tát Hỷ Căn, Bồ-tát Hỷ Vương, Bồ-tát Chánh Nguyện Chí, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Bảo Thậm Trì, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Trì, Bồ-tát Bảo Thủy, Bồ-tát Thủy Quang, Bồtát Xả Vô Nghiệp, Bồ-tát Trí Tích, Bồ-tát Đăng Vương, Bồ-tát Chế Ma, Bồ-tát Tạo Hóa, Bồ-tát Minh Thí. Bồ-tát Thượng Thẩm, Bồ-tát Tướng Tích Nghiêm, Bồ-tát Sư Tử Lôi Âm, Bồ-tát Thạch Ma Vương, Bồ-tát Chúng Hương Thủ, Bồ-tát Chúng Thủ, Bồ-tát Thường Ưng, Bồtát Bất Trí Viễn, Bồ-tát Thiện Ý Gián, Bồ-tát Liên Hoa Tịnh, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Khuy Âm, Bồ-tát Phạm Thủy, Bồ-tát Thường Thủy, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Thắng Tà, Bồ-tát Nghiêm Độ, Bồ-tát Kim Kết, Bồ-tát Châu Kết, Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Nhu Thủ… Các bậc Bồ-tát thượng thủ như thế có ba mươi hai ngàn vị.

Lại có một vạn Bà-la-môn đều như Biên Phát… từ cảnh giới ở bốn phương đến chỗ Phật để nghe pháp. Tất cả chư Thiên cùng với các chúng của họ đồng tới pháp hội.

Có một vạn hai ngàn chư Thiên của trời Đế Thích từ bốn phương đến cùng với các trời Đại tôn thần diệu khác và nhiều Long, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc… và đại chúng của họ đều đến tập hợp. Trong đại hội cũng có cac chúng Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tề tựu đông đủ.

Bấy giờ, Đức Phật với vô số trăm ngàn chúng quyến thuộc vây quanh, vì họ mà thuyết giảng kinh. Những người từ bên ngoài cảnh giới Tu-di đến đều vân tập ơ khắp bốn phía. Tất cả chúng hội đều tự nhiên an tọa nơi tòa Sư tử.

Bấy giờ, nước Duy-da-ly có vị con nhà trưởng giả tên là La-lânna-kiệt (Hán dịch là Bảo Sự) cùng với năm trăm vị con nhà trưởng giả khác đều có tâm chí quyết định tin tưởng nơi đạo Chánh chân vô thượng, cầm lọng bằng bảy báu đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, dùng lọng báu cùng che nơi phía trên Phật, do oai thần của Phật nên khiến thành một lọng báu lớn che khắp tất cả tam thiên đại thiên cõi Phật.

Bấy giờ, các đại chúng từ các thế giới đến đều thấy lọng báu che khắp trên tam thiên thế giới này. Các núi Tu-di, Mục-lân, Đại mụclân, Tuyết sơn, Bảo sơn, Hắc sơn, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, thảy đều hiện trong lọng báu ấy. Biển lớn, sông to, suối nguồn, ngòi rạch trong tam thiên thế giới này và trên mặt trời, mặt trăng, tinh tú, Thiên cung, Long cung, các cung tôn thần đều hiện rõ trong lọng báu.

Cõi Phật nghiêm tịnh của chư Phật trong mười phương và ngay tại chỗ chư Như Lai ấy đang thuyết pháp cũng đều hiện rõ trong lọng báu, đều từ xa thấy và nghe được. Tất cả chúng ma được điều chưa từng có, đảnh lễ Phật và đứng qua một bên. Có bao nhiêu nước đều nhìn thấy rõ hết thảy. Đồng tử Bảo Sự ở trước Phật, dùng kệ khen ngợi:

Mắt trong sáng, đẹp như hoa vàng
Lời tịnh, ý tịch, qua bờ giác
Trừ sạch dục si, xưng vô lượng
Đảnh lễ Sa-môn dấu tịch nhiên.
Thấy được Đại Thánh, tướng ba cõi
Hiện cõi Phật con rất sáng ngời
Thuyết pháp tối thượng dứt trừ nghi
Hư không, trời, thần được nghe thấy.
Các Pháp vương giảng trao kinh đạo
Đem pháp giảng thuyết ban cho người
Gióng lên trống pháp bày nghĩa diệu
Cúi lạy Pháp Vương rất tôn quý.
Thuyết danh tự chẳng có chẳng không
Do nhân duyên nên các pháp sinh
Chẳng ngã, chẳng tạo, kia chẳng biết
Như Phật thanh tịnh thân tướng đẹp.
Trước tại Bồ-đề, hàng phục ma
Đắc cam lộ thành đạo giác ngộ
Dùng tâm dứt chấp mà hiện hành
Tất cả dị học đều kính phục.
Ba lượt chuyển pháp nơi đại thiên
Người lãnh thọ tu hành chánh định
Trời người được thấy theo nghe pháp
Tam bảo hiện bày ở thế gian.
Phật thuyết pháp chỉ dạy mọi người
Không hề mong cầu, luôn vắng lặng
Thượng trí thương độ khỏi già chết
Đảnh lễ biển phap đức vô biên.
Cúng dường phụng sự như Tu-di
Không giới, có giới đều thương tưởng
Giảng dạy vô biên nhớ hành khắp
Ai nghe danh Phật chẳng kính thờ.
Nay dâng Năng Nhân lọng thiện này
Trong đó hiện thế giới tam thiên
Cung điện chư Thiên và Rồng, Thần
Kiền-đạp-hòa cùng các Duyệt-xoa.
Do biết các sở hữu thế gian
Mười lực xót thương biến hóa ra
Chúng thấy hiếm có, khen ngợi Phật
Cúi lạy Đại trí rất tôn quý.

Đồng tử Bảo Sự nói kệ khen ngợi Phật xong, với tâm ý cung kính, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Năm trăm đồng tử này đều có tâm chí vững chắc nơi đạo Chánh chân Vô thượng, ước muốn được nghe nói về quốc độ thanh tịnh của Phật. Cúi xin Phật giảng dạy rõ cho chúng con về hạnh thanh tịnh của Như Lai ở nước Phật.

Bấy giờ, Phật bảo đồng tử Bảo Sự:

–Này đồng tử! Hãy nghe cho kỹ và khéo ghi nhớ. Ta sẽ vì các vị giảng thuyết về sự thanh tịnh ở cõi Phật của Như Lai, Bồ-tát.

Lúc này, Bảo Sự và các đại chúng vâng theo lời dạy, lắng nghe.

Phật bảo đồng tử:

–Nơi ở của tất cả các loài bò, bay, máy, cựa, người, vật đều là nước Phật của Bồ-tát. Vì sao? Vì Bồ-tát muốn giáo hóa chúng sinh nên thâu lấy nước Phật, vì muốn khiến cho muôn dân (chúng sinh) nước Phật đều phụng thờ pháp luật nên nhận lấy nước Phật, vì muốn khiến cho muôn dân nước Phật nhập vào thượng trí của Phật nên nhận lấy nước Phật, vì muốn khiến cho muôn dân nước Phật thấy rõ về việc làm của Thánh điển để phát tâm ý nên nhận lấy nước Phật. Vì sao? Vì muốn hướng dẫn, làm lợi ích cho tất cả dân chúng khiến sinh vào nước Phật. Ví như có người muốn ngay giữa hư không xây dựng cung điện, phòng ốc thì hoàn toàn không thể được.

Như vậy, này đồng tử! Bồ-tát vì muốn độ cho muôn loài nên nguyện nhận lấy nước Phật. Nguyện nhận lấy nước Phật thì chẳng phải là ở nơi hư không.

Đồng tử nên biết, Bồ-tát vì không cầu quốc độ nên ở ngay nơi nước Phật mà đắc đạo, vì không bảo: Ta dạy bảo muôn người nên sinh về cõi Phật, vì Bồ-tát dùng tánh hiền thiện đối với quốc độ nên ở ngay nước Phật đắc đạo. Thường thành tựu các điều thiện, vì người gánh vác trọng trách nên sinh về cõi Phật.

Bồ-tát hoằng dương đạo lý nên ở ngay nước Phật đắc đạo, thường dùng pháp Đại thừa xây dựng muôn dân nên có được cõi Phật.

Bồ-tát dùng bố thí làm cõi nước, nên ở ngay nước Phật đắc đạo, vì tất cả việc bố thí là giúp cho muôn dân sinh nơi cõi Phật.

Bồ-tát dùng trì giới làm cõi nước, nên ở ngay nước Phật đắc đạo, tròn đầy ước nguyện, đem mười hạnh thiện tập hợp muôn dân sinh về cõi Phật.

Bồ-tát dùng nhẫn nhục làm cõi nước, nên ở ngay nước Phật đắc đạo, có đủ ba mươi hai tướng để tự làm nghiêm tịnh kinh, dùng hạnh nhẫn để giáo hóa muôn dân sinh nơi cõi Phật.

Bồ-tát dùng tinh tấn làm cõi nước, nên ở ngay nước Phật đắc đạo, dùng các gốc đức tu hành đúng đắn, siêng năng kết hợp muôn dân sinh về cõi Phật.

Bồ-tát dùng thiền định làm cõi nước, nên ở ngay nước Phật đắc đạo, vì biết được tâm niệm, làm an ổn muôn dân sinh về cõi Phật.

Bồ-tát dùng trí tuệ làm cõi nước, nên ở ngay nước Phật đắc đạo, hay dùng sự dắt dìu đúng đắn để thành tựu cho muôn dân sinh nơi cõi Phật.

Bồ-tát thực hành bốn Tâm vô lượng làm cõi nước, nên ở ngay nước Phật đắc đạo, dùng Từ, Bi, Hỷ, Xả giúp muôn dân sinh nơi cõi Phật.

Bồ-tát thực hành bốn ân làm cõi nước, nên ở ngay nước Phật đắc đạo, đem tuệ thí, nhân ái, lợi nhân… làm lợi ích cứu giúp tất cả, quy tụ muôn dân sinh nơi cõi Phật.

Bồ-tát thực hành phương tiện quyền xảo nên ở ngay nước Phật đắc đạo, dùng tất cả hành theo phương tiện quyền xảo để thâu phục giáo hóa muôn người sinh nơi cõi Phật.

Bồ-tát thực hành ba mươi bảy phẩm Trợ đạo nên ở ngay nước Phật đắc đạo, dùng Căn, Lực, Giác ý, cố gắng dắt dẫn muôn dân sinh nơi cõi Phật.

Bồ-tát dùng pháp để giáo hóa nên ở ngay nước Phật đắc đạo, thị hiện tất cả hạnh thiện để được thấy cõi Phật.

Bồ-tát giảng thuyết dứt trừ tám nạn nên ở ngay cõi Phật đắc đạo.

Tất cả vì dứt trừ các nạn của đường ác mà có cõi Phật.

Bồ-tát tự học, không chê bai sự tiếp nhận của ai nên ở ngay nước Phật đắc đạo. Dứt trừ các sự tiếp nhận sai lầm mà có cõi Phật.

Bồ-tát tịnh tu mười hạnh thiện nên ở ngay nước Phật đắc đạo, chẳng xa lìa các thứ tài sản, đủ phạm hạnh, lời nói thành thật, khỏi rơi vào đường ác, nói lời dịu dàng, không phân biệt quyến thuộc, thường gần gũi bạn lành, không ganh ghét, ngã mạn, dứt trừ tâm ý giận dữ, dùng chánh kiến dạy người sinh về cõi Phật.

Như vậy, này đồng tử! Bồ-tát do tu đúng theo hạnh ấy nên có danh dự. Có danh dự rồi, liền sinh về cõi thiện. Sinh về cõi thiện rồi liền lãnh thọ phước. Lãnh thọ phước rồi liền hay phân chia phước. Thường hay phân chia phước rồi liền thực hành phương tiện thiện xảo. Thực hành phương tiện thiện xảo rồi tức là làm thanh tịnh nước Phật. Làm thanh tịnh nước Phật rồi thì người, vật đều tịnh. Người vật đều tịnh rồi thì có trí tịnh. Có trí tịnh rồi thì có sự dạy bảo tịnh. Có sự dạy bảo tịnh thì lãnh thọ tịnh.

Như vậy, này đồng tử! Bồ-tát muốn làm cho cõi Phật thanh tịnh thì phải đem tâm ý tịnh hành đúng như vậy. Vì sao? Vì Bồ-tát do ý tịnh nên được coi Phật tịnh.

Lúc này, Hiền giả Xá-lợi-phất nương nơi oai thần của Phật suy nghĩ: “Do ý tịnh nên được nước Phật tịnh. Vậy Đức Thế Tôn của ta đây khi làm Bồ-tát tâm ý không tịnh chăng? Tại sao cõi Phật này cấu uế như thế?”

Phật biết ý nghĩ ấy, liền bảo:

–Thế nào, này Hiền giả Xá-lợi-phất? Mặt trời, mặt trăng trong sáng, người mù không thấy là do lỗi của mặt trời, mặt trăng chăng?

Hiền giả Xá-lợi-phất đáp:

–Dạ thưa không, kính bạch Thế Tôn! Chẳng phải là lỗi của mặt trời, mặt trăng.

Phật nói:

–Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Lỗi này do nơi mọi người không có trí tuệ nên không thấy được nước Phật thanh tịnh, đẹp đẽ của Như Lai, chứ chẳng phải do loi của Như Lai.

Này Xá-lợi-phất! Cõi Phật của ta thanh tịnh mà thầy lại chưa thấy.

Phạm chí Biên Phát thưa với Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Xin Hiền giả chớ nên cho cõi Phật này là cấu uế. Vì sao? Vì con thấy cõi Phật của Đức Thích-ca Văn nghiêm tịnh như là Thiên cung tươi sáng, thanh tịnh kia.

Hiền giả Xá-lợi-phất bảo:

–Còn tôi thì thấy quốc độ này cũng có cấu uế xen tạp. Sáu địa lớn đó có Hắc sơn, cát đá nhơ nhớp dẫy đầy.

Biên Phát thưa:

–Hiền giả, do tâm ý của Hiền giả lãnh hội sư cấu uế, chứ không dựa vào tuệ giác thanh tịnh để nhìn cõi Phật. Phải bình đẳng như Bồtát tâm ý thanh tịnh, dựa vào tuệ giác của Phật thì thấy nước Phật đều thanh tịnh.

Bấy giờ, Phật liền dùng ngón chân ấn xuống đất. Ngay khi ấy, tam thiên đại thiên thế giới này đều chấn động. Biết bao nhiêu các châu báu được tích tập, làm nghiêm tịnh khắp mọi nơi chốn. Ví như các thứ báu hiện bày đẹp đẽ, thanh tịnh nơi cảnh giới của Như Lai. Vô lượng các thứ nghiêm tịnh ngay lúc đó đều xuất hiện. Tất cả chúng ma khen là điều chưa từng có và đều tự thấy mình ngồi trên hoa sen báu.

Đức Phật bảo Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Ông hãy nhìn sự nghiêm tịnh của cõi Phật này.

Hiền giả Xá-lợi-phất đáp:

–Dạ vâng, kính bạch Thế Tôn! Thật con chưa từng thấy, cũng chưa từng nghe. Nay cõi Phật hiện ra toàn là sự đẹp đẽ, thanh tịnh.

–Này Hiền giả Xá-lơi-phất! Cõi Phật của Như Lai là như vậy, nhưng vì hóa độ những người thấp kém nên Như Lai tùy theo hạng người nhiều tham, giận, hại này mà hiện bày cõi Phật khác nhau. Ví như chư Thiên cùng ăn bát bằng vàng, nhưng người nào nhiều phước thì đưa tay lên là bát liền sạch.

Như vậy, này Hiền giả Xá-lợi-phất! Nếu người nào tâm ý thanh tịnh thì liền tự thấy cõi Phật của chư Phật thanh tịnh.

Ngay khi Phật thị hiện sự nghiêm tịnh của cõi Phật này, có tám vạn bốn ngàn người phát tâm cầu đạo của Bồ-đề vô thượng. Trưởng giả tử Bảo Sự và năm trăm đồng tử đều được pháp Nhẫn nhu thuận.

Phật hiện thần túc, khi ấy ngay nơi quốc độ không ai là không vui mừng và đều đạt được ước nguyện.

Ba vạn hai ngàn hành giả đệ tử, trời và người xa lìa trần cấu, sinh các Pháp nhãn. Tám ngàn người phiền não hết sạch, tâm ý giải thoát.

 

Phẩm 2: THIỆN QUYỀN (phương tiện quyền xảo)

Bấy giờ, trong thành lớn Duy-da-ly có vị trưởng giả tên là Duyma-cật (Hán dịch là Vô Cấu Xưng), ở nơi chư Phật đời trước đã từng lập hạnh tu gốc thiện, được pháp nhẫn, được biện tài, thần thông tự tại, được sự không sợ, hàng phục ma oán, thâm nhập vi diệu, phát sinh Trí tuệ ba-la-mật, hành phương tiện thiện xảo, vào khắp các đường, khiến đạt được ước nguyện căn cơ của chúng sinh, gọi là thọ sinh đầy đủ, lập nên đạo lớn, việc làm tốt đẹp, đối với hạnh thiện của Phật – Thánh đều đã tạo lập, tâm Bồ-đề như biển đều đã nhập vào, được chư Phật tán dương. Đệ tử, Phạm thiên, Đế Thích, vua chúa thế gian đều kính trọng, vì muốn hóa đô mọi người nên trưởng giả đã sử dụng phương tiện khéo léo, cư trú trong thành Duy-da-ly, có của cải vô lượng, cứu giúp người nghèo, thu phục những người hành theo giới ác bằng phương tiện thiện xảo, thu phục những người giận dữ bằng nhẫn nhục thuần hòa, thu phục những người biếng nhác bằng hình thức bạch y tinh tấn, dùng thiền định chánh thọ để thu phục những kẻ tâm ý mê lầm, thu phục những người trí tà bằng trí tuệ quyết định.

Tuy làm hàng tại gia mà lại kính giữ hạnh thiện của Sa-môn, lấy việc cư ngụ tại gia làm hạnh mà không vướng mắc, thị hiện có vợ con mà thường tu phạm hạnh.

Tuy có gia đình mà thường như ở chỗ vắng vẻ, hien tướng ăn mặc, trang sức đẹp đẽ để trang nghiêm thân mà bên trong luôn như thiền định.

Nếu ở chỗ cờ bạc vui chơi là chỉ để hóa độ muôn người.

Tiếp nhận dị đạo là để chỉ dạy Phật đạo.

Nói rành sách vở thế gian mà không lìa Thánh điển, dùng pháp lạc làm niềm vui.

Ai thấy cũng kính trọng, nhưng làm người cao nhất trong việc cúng dường.

Đối với những bậc kỳ cựu luôn vui vẻ.

Mọi sự mưu sinh ở đời đều hài hòa dung hợp. Tuy đạt được lợi lộc thế tục mà không lấy đó làm mừng.

Đến các ngả tư là để phổ biến, giữ gìn pháp Phật. Vào chỗ các chúng diễn thuyết để hướng dẫn, hoặc nơi cung vua thì đích thân đến xem, không ưa pháp của đạo nhỏ.

Đối với những người hiếu học, đích thân đến khuyến khích, chỉ dạy, mở mang cho tuổi trẻ.

Vào các chốn kỹ viện là để trừ tội ác dâm dục cho chúng. Vào các quán rượu là để làm cho người lập chí.

Vào trong hàng trưởng giả thì làm bậc trưởng giả chân chánh để cắt đứt mọi tham chấp cho họ.

Vào trong hàng quân tử thì làm quân tử chân chánh để dạy sự nhẫn nhục cho họ.

Vào trong hàng Phạm chí thì làm Phạm chí chân chánh để dẫn dắt họ theo hạnh cao xa.

Vào trong hàng quần thần thì làm quần thần trung hậu để giảng dạy chánh pháp cho họ.

Vào trong hàng vương tử thì làm vương tử chân chánh để dạy sự trung hiếu, khoan hòa, nhân từ, giáo hóa để trừ bỏ những phong tục xấu.

Vào trong hàng người cao quý thì dùng nhã nhạc để dạy cho cung nữ đoan chánh.

Vào hàng thứ dân chú trọng thương yêu họ, làm cho họ hưng khởi phước lực.

Vào trong hàng Đế Thích thì làm Đế Thích chân chánh, làm người tự tại mà thị hiện vô thường.

Vào trong Phạm thiên thì làm Phạm thiên chân chánh, luôn hiện trí tuệ thù thắng của Phạm thiên.

Vào trong hàng Tứ Thiên vương thì làm Tứ Thiên vương chân chánh để khiến họ hộ trì tất cả thiên hạ.

Trưởng giả Duy-ma-cật dùng phương tiện thiện quyền chẳng thể tính kể như thế, vào khắp mọi nơi chốn.

Trưởng giả lại còn theo phương tiện, thị hiện thân thể bị bệnh. Vì trưởng giả bị bệnh nên các quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, quần thần, thái tử và các chúng khác, vô số ngàn người đến thăm bệnh. Ai đến thăm bệnh, Trưởng giả Duy-ma-cật cũng vì họ mà thuyết pháp:

–Thân bốn đại này là pháp tử vong.

Các Nhân giả! Thân này là vô thường, là không khỏe mạnh, là không sức lực, là không vững chắc, là khổ, la già, là bệnh, là nhiều đau đớn, sợ hãi.

Các Nhân giả! Cái thân như vậy, người sáng suốt đừng tin cậy.

Thân này như bọt nước trôi nổi.

Thân này như bong bóng, không thể tồn tại lâu dài.

Thân này như dợn nắng, khát ái nhọc nhằn.

Thân này như cây chuối, ruột không bền chắc.

Thân này như huyễn, chuyển thọ báo ứng.

Thân này như chiêm bao hiện ra sợ hãi.

Thân này như hình ảnh hiện ra từ sự chiếu sáng.

Thân này như tiếng vang, nhan duyên tan thì mất.

Thân này như mây nổi, không đứng yên.

Thân này như ánh chớp, là pháp phân tán.

Thân này không có chủ thể, nên như đất.

Thân này chẳng phải là thân, nên như lửa.

Thân này chẳng phải là thọ mạng vì như gió.

Thân này chẳng phải là người vì như nước.

Thân này không có thật, vì bốn đại làm nhà.

Thân này trống rỗng, không ngã, không tánh, không mạng, không người.

Thân này không có ngã vì ngã là chuyển, lìa.

Thân này như bó củi, nhờ các dây gân ràng rịt mà đứng vững.

Thân này không chân thật, chỉ do gió khéo hợp lại.

Thân này là vô dụng, bất tịnh, thối hư.

Thân này là hư dối, che phủ bao thứ mau hư mục, là pháp hoại diệt.

Thân này là tai họa, đủ cả một trăm lẻ một thứ bệnh.

Sự già nua của thân này là oán tặc vì già lo khổ.

Thân này là đường cùng vì chắc chắn sẽ chết.

Này các Nhân giả! Thân này đáng chán, nên phát hạnh thanh tịnh không dâm dục. Chúng ta nên học như Pháp thân Phật, là Pháp thân sinh từ phước đức. Pháp thân Phật là Pháp thân sinh từ trí tuệ, sinh từ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến; sinh từ Từ, Bi, Hỷ, Xả; sinh từ bố thí, điều ý, tự tổn; sinh từ nhẫn nhục, nhân ái, nhu hòa; sinh từ nỗ lực tinh tấn, công đức; sinh từ thiền giải, định ý, chánh thọ; sinh từ Trí độ vô cực (Bát-nhã ba-la-mật) nghe đức; sinh từ trí phương tiện thiện xảo, từ hết thảy Trí tuệ ba-la-mật; sinh từ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo; sinh từ thần thông; sinh từ Chỉ và Quán; sinh từ mười Lực; sinh từ bốn Vô sở úy; sinh từ mười tám pháp Bất cộng của Phật; sinh từ việc đoạn trừ tất cả các điều ác; sinh từ việc tập hợp tất cả các điều thiện; sinh từ sự thật; sinh từ sự thành thật, từ không thể kể xiết hạnh thanh tịnh như vậy mà thành tựu thân Như Lai.

Như vậy, này các Nhân giả! Muốn khỏi tất cả bệnh thì phải tự cố gắng, phải phát hạnh Đại thừa.

Cứ như thế, Trưởng giả Duy-ma-cật đã giảng nói pháp thích hợp cho những người đến thăm bệnh ông, làm cho vô số ngàn người cùng phát tâm Bồ-đề vô thượng.

 

Phẩm 3: ĐỆ TỬ

Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật tự nghĩ: “Ta bị bệnh không thể rời giường nhưng lòng vẫn luôn nghĩ đến Phật.”

Phật cũng vui lòng về vị trưởng giả này nên bảo Hiền giả Xálợi-phất:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Hiền giả Xá-lợi-phất thưa với Phật:

–Con không thể đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, con thường ngồi yên bên gốc cây. Khi ấy, Trưởng giả Duy-ma-cật đến bảo: “Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Bất tất phải ngồi như vậy mới là ngồi yên. Hiền giả ngồi yên là nên ngồi như pháp, không hiện thân ý nơi ba cõi mới là ngồi yên. Bên trong không chỗ trụ cũng không khởi hai quán đối với ngoại cảnh, đó mơi là ngồi yên. Đứng vững nơi thiền mà không hiện các thân diệt ý đó là ngồi yên. Đối với sáu mươi hai kiến chẳng động, quán hành ba mươi bảy phẩm, với sinh tử phiền não cấu uế mà không tạo tác, ngay khi hành thiền cung như Niết-bàn. Nếu Hiền giả ngồi yên được như vậy, trụ vững được như vậy, đó là hiểu rõ về pháp ngồi yên của Như Lai.”

Kính bạch Thế Tôn! Bấy giờ con nghe những lời ấy và lặng thinh không thể trả lời, do vậy nên con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Phật bảo Hiền giả Đại Mục-kiền-liên:

–Thầy hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Hiền giả Đại Mục-kiền-liên thưa với Phật:

–Con không thể đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ trước đây con thuyết pháp cho các cư sĩ trẻ tuổi, bấy giờ Trưởng giả Duy-ma-cật đến bảo: “Hiền giả đừng nên thuyết pháp cho các bạch y tại gia như Hiền giả đã nói. Muốn thuyết pháp thì phải đúng như pháp. Như pháp là lìa cấu uế nơi con người, lấy vô ngã để lìa những trần nhiễm, lấy không có mạng để lìa sinh tử, lấy không có nơi chốn để làm trước sau, dứt bỏ như diệt trừ tướng, lấy không buông thả làm sự không chướng ngại, cho đến lấy không già để chấm dứt các tạo tác, lấy việc tùy thuận ăn uống để lìa các tổn hại, cứu giúp tất cả, bình đẳng như hư không vì không thân sơ, lấy vô ngã để trừ ngã, ngã sở, lấy tâm không phân biệt để lìa phân biệt, lấy không cấp bậc để không có sự so sánh, lấy tướng nhân duyên để nhập vào nẻo vô đẳng, lấy pháp tánh học đúng để sửa đổi các tình, lấy sự thật thâm nhập vào không có chỗ nhập. Nhớ nghĩ, hiểu biết, tin tưởng vững vàng, trước sau bất động, bất động thì sáu căn không dựa vào, không mong cầu nơi mọi người, vị lai không trụ. Không là chỗ dừng chân chánh, Vô tướng là chỉ sự tu hành, Vô nguyện là lìa vực thẳm, không tự đề cao, không tự dung nạp, vì xa lìa sự sinh khởi mà sống không nhà; mắt, tai, mũi, miệng, thân, tâm đã qua không chỗ trụ, cũng không phải là không trụ tâm, đã đạt vô trí là lìa các pháp hành. Thưa Hiền giả! Như thế thì thuyết cái gì là thuyết pháp? Thuyết pháp là lời lẽ bình đẳng, nghe là ngay nơi bình đẳng mà nghe. Thuyết không đúng như câu cú thì như vậy là chẳng phải thuyết, chẳng phải nghe, vì chưa từng nói ra. Như nhà ảo thuật thuyết pháp cho nhân vật ảo thuật. Nên lập ý ấy mà thuyết pháp. Phải tùy đức hạnh của người mà thuyết, phải khéo thấy điều ấy mà hiện bày trí tuệ, đem tâm đại Bi không si vong mà thành lập Đại thừa, báo đáp ân Phật, bên trong thì tánh thanh tịnh, không dứt tuyệt Tam bảo. Yêu thích đem việc thuyết pháp như vậy mà thuyết pháp.”

Khi Trưởng giả Duy-ma-cật thưa nói những lời như vậy. Kính bạch Thế Tôn! Có tám ngàn cư sĩ phát tâm cầu đạt đạo Chánh chân Vô thượng. Con không có được sự hùng biện như thế, do vậy con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Phật bảo Hiền giả Đại Ca-diếp:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Hiền giả Đại Ca-diếp thưa với Phật:

–Con không thể đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, con khất thực nơi xóm làng nghèo, bấy giờ Trưởng giả Duy-ma-cật đến nói với con: “Hiền giả có tâm đại Bi mà bỏ nhà giàu, khất thực nơi người nghèo. Nên biết, đem pháp thí bình đẳng mà bố thí cho khắp tất cả những nơi Hiền giả đi đến khất thực. Có thể vì không ăn, nhưng vì thương xót nên đến xin an. Như chẳng vì thuyết pháp ở xóm làng trống vắng, nhưng đi vào làng xóm là vì muốn hóa độ cho nam nữ. Đi vào thành ấp, biết rõ về dòng họ để đến nhà nghèo thiếu khất thực. Đối với các pháp không tiếp nhận, thấy sắc cũng như mù, nghe âm thanh cũng như tiếng vang, ngửi hương thơm cũng như gió thoảng, nếm mùi vị mà không dùng thức phân biệt, tiếp xúc với mịn trơn đều không ham thích, biết các pháp như huyễn, như nay tuổi già đã vượt qua tám tà, đạt tám Giải thoát, chánh định hiện tiền, dùng chánh định vượt qua tà định. Đem những gì xin được kính biếu mọi người, cũng đem kính dâng lên chư Phật và Hiền thánh, rồi sau đó mới ăn. Ăn như vậy là không phải có nhiều lao nhọc, cũng không phải là không lao nhọc, không có định ý, cũng không chấp giữ, không ở sinh tử, không vào Niết-bàn. Như Hiền giả ăn thức ăn xin được của người cúng cho thì chẳng phải là không có phước, cũng chẳng phải là phước lớn, chẳng phải là tổn giảm, cũng chẳng phải là tăng trưởng, là đi đúng đường đi của Phật, chứ không đi theo đường đi của đệ tử. Như vậy là Hiền giả không ăn thực phẩm si vọng của người trong nước cung dường.”

Bạch Thế Tôn! Khi ấy con nghe nói như vậy, thấy thật chưa từng có, nên đảnh lễ tất cả các Bồ-tát. Người có gia đình đã dùng trí tuệ hùng biện như vậy để khuyên mọi người phát tâm Bồ-đề vô thượng, nên từ đó đến nay con không khuyên ai lập hạnh Thanh văn, Duyên giác nữa, mà thường xuyên khuyên mọi người học đạo Bồ-đề vô thượng. Do vậy nên con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duyma-cật.

Phật bảo Trưởng lão Tu-bồ-đề:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Trưởng lão Tu-bồ-đề thưa với Phật:

–Con không thể đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, con vào khất thực nơi nhà trưởng giả, khi ấy Trưởng giả Duy-ma-cật lấy bát của con đựng đầy cơm rồi nói: “Thưa Hiền giả! Giả sử Hiền giả bình đẳng đối với sự ăn thì đối với các pháp cũng bình đẳng, bình đẳng đối với các pháp thì đối với các sự cúng dường cũng bình đẳng. Khất thực như vậy mới nên nhận lấy thực phẩm. Nếu Hiền giả không dứt bỏ dâm, nộ, si, mà cũng không thường sống với tất cả. Nếu không biết bản thân mình đã được nhất hành thì chẳng phải là không thông tỏ, chẳng phải hướng đến hữu ái, chẳng phải đắc trí tuệ Bát-nhã, cũng chẳng phải là tội cùng cực. Chánh giải thoát, đã được giải thoát là không mở không buộc, không phải thấy bốn Đế, không phải là không thấy bốn Đế, không phải đắc đạo, không phải phàm phu, không phải nói pháp phàm tục, không phải là chân, không phải là không chân. Tất cả là không pháp hành, lìa tưởng về pháp, không thấy Phật, không nghe pháp, thì cũng có thầy như Bất-lan Ca-diếp, Ma-ha

Ly-cù-da, Lâu-a-di Chuyên-cơ-da, Kim-ly-ba, Hưu-ca-chiên Tiên, Tỳlư-đặc Ni-kiền Tử… Lại nữa, thưa Hiền giả! Những vị thầy đó nói nương tựa là đạo, theo những thầy này là trụ vào các kiến chấp, là bị đọa vào nhị biên, không đến được cõi Phật, là đã quay về với tám nạn, là ở nơi các phiền não. Không tin chúng là lìa được đường cấu uế, không sinh tử. Nhưng những người thầy đó đối với mọi người cũng là tưởng về tha nhân. Nếu Hiền giả còn tưởng về tha nhân như những người kia thì chẳng giúp cho sự diệt trừ. Người cúng dường cho Hiền giả trở lại cùng với chúng ma nắm tay nhau làm bạn phiền não. Đối với tất cả mọi người tưởng như bóng dáng thì chỗ trụ ấy như là hủy báng chư Phật, chê bai kinh điển, không nương chúng Tăng, không bao giờ được diệt độ. Hiền giả đem hạnh như vậy mà nhận lấy thực phẩm khất thực được sao?”

Bạch Thế Tôn! Khi ấy con nghe như vậy thì mù mơ không biết trưởng giả nói gì và không biết phải trả lời thế nào, liền để bát lại và ra khỏi nhà trưởng giả. Trưởng giả Duy-ma-cật nói: “Thưa Hiền giả Tu-bồ-đề! Xin Hiền giả lấy bát, đừng sợ! Này Hiền giả! Thế nào, Như Lai có dùng tưởng mà giảng nói không? Lấy gì để sợ?” Con đáp: “Không”. Trưởng giả Duy-ma-cật nói: “Tưởng là huyễn hóa mà tự nhiên. Hiền giả há không nói tất cả pháp, tất cả người đều là tự nhiên đó sao? Cho đến như người trí không để cho mắt vướng mắc, nên không sợ hãi. Tất cả đều tách rời khỏi văn tự, vì văn tự tự nó đã giải thoát.. Tướng giải thoát chính là các pháp.”

Ngay khi Trưởng giả Duy-ma-cật nói pháp này. Bạch Thế Tôn! Có hai trăm hàng trời, người đắc Pháp nhãn thanh tịnh. Do vậy, con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Phật bảo Hiền giả Phú-lâu-na:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Hiền giả Phú-lâu-na thưa với Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, ở nơi khác, bên một đại thọ, con thuyết pháp Tử Úy cho Tỳ-kheo A-di-hành. Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật đến nói với con: “Hiền giả muốn đặt người này vào chỗ nào? Dùng pháp gì để dạy cho Tỳ-kheo ấy? Không lẽ đi ngược lại tâm ma-ni ấy? Như vậy là đã hạ thấp hạnh chân chánh. Lại không nên vì không xem xét căn tánh của người nghe mà nói lên tâm ý của họ. Nên chọn lấy cách làm cho họ không bị tổn thương, đừng đem gạch chưa nung làm bếp, có thể khiến họ đi vào dấu vết của đường sinh tử mênh mông, đừng chuyên dắt dẫn, để họ tự giữ. Lại nưa, thưa Hiền giả! Những vị Tỳ-kheo này đối với đại đạo đã có tâm chí quyết định, tại sao Hiền giả lại quên đạo ý đó mà khuyến khích tu hành theo pháp đệ tử?”

Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật liền nhập định Tam-muội Như kỳ tượng, nhớ đời trước của các Tỳ-kheo này đã từng gieo trồng gốc rễ công đức nơi đạo Chánh giác Vô thượng, ở chỗ năm trăm Đức Phật, trải qua thời gian và nhân nơi tâm đạo đó mà được giải thoát. Ngay khi đó, các Tỳ-kheo đều cúi đầu lạy sát chân Trưởng giả Duy-ma-cật vì đã thuyết pháp ấy, khiến họ đều không còn thoái chuyển. Từ đó đến nay, con nghĩ đến đệ tử chưa quán xét về người thì không thể thuyết pháp. Vì sao? Vì không thể thường định về nguồn gốc của ý căn và biết rõ nguồn gốc của công đức như Phật.

Bạch Thế Tôn! Do vậy, con không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả đó.

Phật bảo Trưởng lão Ca-chiên-diên:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng gia Duy-ma-cật.

Hiền giả Ca-chiên-diên thưa với Phật:

–Con không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, Phật vì hai Tỳ-kheo thô tháo hiện bày phép tắc rồi Phật vào tịnh thất, sau đó con vì họ diễn nói rộng những điều chính yếu trong kinh. Con nói về nghĩa vô thường, nghĩa khổ, nghĩa không, nghĩa vô ngã. Bấy giờ Trưởng lão Duy-ma-cật đến nói với con: “Thưa Hiền giả Ca-chiên-diên! Xin Hiền giả đừng đem cái nghĩa đợi làm mới phát khởi để thuyết pháp. Thưa Hiền giả! Nếu các pháp hoàn toàn không sinh, không tưởng, không khởi, không diệt thì đó là nghĩa vô thường. Năm ấm rỗng lặng, không chỗ khởi, do biết như vậy là nghĩa khổ. Đối vơi ngã không phải ngã mà chẳng phải hai, là nghĩa vô ngã. Không như vậy, không diệt là trước sau hoàn toàn diệt, diệt này là nghĩa không.”

Kính bạch Thế Tôn! Khi Trưởng giả Duy-ma-cật thuyết pháp như vậy thì tâm phiền não sẵn có của các Tỳ-kheo đó đều được giải thoát. Do vậy nên con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duyma-cật.

Phật bảo Trưởng lão A-na-luật:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Hiền giả A-na-luật thưa với Phật:

–Con không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, con kinh hành ở một chỗ nọ, thấy có Phạm thiên tên Tịnh Phục Tịnh cùng với một ngàn Phạm thiên đi đến chỗ con, cúi đầu làm lễ và hỏi: “Thiên nhãn của Hiền giả A-na-luật thấy được bao nhiêu?” Con trả lời: “Này Nhân giả! Tôi thấy tam thiên đại thiên quốc độ của Phật tựa như thấy cái mũ báu trong lòng bàn tay.” Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật đến nói với con: “Thế nào, thưa Hiền giả Ana-luật! Thiên nhãn của Hiền giả thọ thân tướng hay là không thọ? Giả sử có thọ thân tướng thì cùng với năm thông của ngoại đạo đồng nhau. Nếu không thọ tướng thì không thọ tướng là không tính toán, tức là không có sự thấy.”

Kính bạch Thế Tôn! Bấy giờ con lặng thinh, còn các Phạm thiên kia nghe trưởng giả nói thì vui mừng cho là điều chưa từng có, liền lạy trưởng giả và hỏi: “Ở đời ai có được Thiên nhãn?” Trưởng giả Duyma-cật trả lời: “Có Đức Phật, Thế Tôn, Ngài thường an trú trong chánh định, thấy hết mọi cõi Phật nhưng không nói ra.”

Bấy giờ, trong chúng gồm năm trăm Phạm thiên đều phát đầy đủ tâm Bồ-đề vô thượng xong, bỗng nhiên biến mất. Do vậy, con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Phật bảo Trưởng lão Ưu-ba-ly:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Hiền giả Ưu-ba-ly thưa với Phật:

–Con không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước có hai vị Tỳ-kheo chưa thực hiện luật, lấy làm xấu hổ đưa nhau đến chỗ Đức Như Lai, ngang qua chỗ con, hỏi: “Kính thưa Hiền giả! Chúng con chưa thực hành luật, thành thực lấy làm xấu hổ, muốn đến yết kiến Đức Phật. Xin Hiền giả giải tỏa tâm đó cho chúng con.” Con liền nói pháp cho họ. Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật đến nói với con: “Thưa Hiền giả Ưu-ba-ly! Xin Hiền giả đừng giải thích và dùng sự dạy bảo làm trái với hạnh của họ. Lại nữa, kính bạch Hiền giả! Chưa thực hành luật là không chấp ở trong, ở ngoài, cũng không có hai bên. Vì sao? Vì bản ý này là của Đức Như Lai, muốn vì người phien não chấp giữ phiền não được dứt sạch, khi ý ác đã cởi bỏ rồi thì chỗ ý nương tựa cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên. Ý đó như thế nào thì việc thực hành luật cũng vậy. Các pháp cũng thế. Sự chuyển động cũng vậy. Khi tâm ý của Hiền giả Ưu-ba-ly trong sạch, Hiền giả dùng tâm ý trong sạch ấy làm tâm ý giải thoát thì có thể làm cho nó trở lại thành bẩn hay sạch được không?” Con trả lời: “Không thể.” Trưởng giả Duy-ma-cật lại nói: “Như tâm tánh trong sạch cùng việc chưa thực hành luật, tất cả các pháp, tất cả tâm người từ suy nghĩ mà có bẩn. Dùng sạch mà quán bẩn, không điên đảo với sạch thì cũng là cái bẩn của ngã… Nhơ nhớp cùng với tánh sạch, tánh sạch cùng với chỗ dấy khởi hoàn toàn không chốn trụ. Lại, tất cả pháp có thể thấy biết, như trăng trong nước, tất cả các pháp từ nơi ý sinh ra. Biết như vậy là phụng hành luật. Biết như vậy là biết đúng.” Bấy giờ, hai vị Tỳ-kheo nói: “Thật là bậc Trí tuệ cao vời! Hiền giả Ưu-ba-ly không bằng. Hiền giả giữ giới luật của Phật trên hết mà không thể nói như vậy.” Con trả lời: “Ngoại trừ Đức Như Lai, chưa có sự biện tài nào của đệ tử và Bồ-tát mà dẹp bỏ sự hoài nghi một cách thông tuệ như thế.” Hai vị Tỳ-kheo hết cả hoài nghi, liền phát tâm Bồ-đề vô thượng. Lại nói: “Nguyện cho tất cả mọi người cũng được hùng biện sắc ben như vậy.”

Bạch Thế Tôn! Do vậy, con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Phật bảo Hiền giả La-vân:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Hiền giả La-vân thưa với Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Con không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, các trưởng giả tử đến lạy sát chân con và hỏi: “Thưa Hiền giả La-vân! Hiền giả là con Phật, bỏ quả vị Chuyển luân vương mà xuất gia học đạo, vay sự xuất gia ấy có những lợi ích gì?” Con liền nói cho họ một cách đúng đắn về mục đích tốt đẹp của Sa-môn. Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật đến nói với con: “Thưa Hiền giả La-vân! Nói về mục đích tốt đẹp của Sa-môn thì không nên nói như Hiền giả đã nói. Vì sao? Vì không tốt đẹp, không mục đích, mới là Sa-môn, mới là người hành đạo. Thưa Hiền giả Lavân! Lìa dấu tích bên này, bên kia, khoảng giữa, ở nơi Niết-bàn, nhận trí sáng suốt, vời gọi các bậc Hiền thánh, chiến thắng các loại quân ma, vào năm đường, sạch năm mắt, nhận năm Lực, lập năm Căn, qua bờ bên kia, giáo hóa ngoại đạo, làm người dẫn đường đúng đắn, cứu vớt chúng sinh ra khỏi bùn lầy, khong thọ ngã, không thọ bỉ thử, không dấy khởi, tùy thuận, dứt hết giận dữ tạp loạn, chiến thắng ý mình, hộ trì ý chí người, dứt dòng họ, mở bày việc học theo nẻo lớn lao. Làm được như vậy mới là làm Sa-môn.” Ngay khi Trưởng giả Duy-ma-cật dạy các đồng tử về pháp tự nhiên, khó gặp Phật ra đời này, các đồng tử nói: “Thưa cư sĩ! Chúng tôi không nghe Phật dạy người trái ý cha mẹ mà học đạo.” Trưởng giả Duy-ma-cật nói: “Đúng! Phải quán thanh tịnh để phát tâm Bồ-tát. Người thực hành ứng hợp thì có thể được chí xuất gia kiên cố.”

Bấy giờ, có ba mươi hai trưởng giả tử đều phát tâm Bồ-đề vô thượng. Bạch Thế Tôn! Do vậy, con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Phật bảo Hiền giả A-nan:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Hiền giả A-nan thưa với Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ sức đến thăm bệnh vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, thân thể Đức Thế Tôn bị trúng gió nhẹ, cần dùng sữa bò. Hôm ấy, vào lúc sáng sớm, con vào thành Duy-da-ly, đến một nhà đại Phạm chí, đứng ngoài cửa. Bấy giờ Trưởng giả Duyma-cật đến nói với con: “Thưa Hiền giả A-nan! Tại sao mơi sáng sớm mà Hiền giả cầm bát đứng đây?” Con trả lời: “Thưa cư sĩ! Đức Thế Tôn thân bị trúng gió nhẹ, cần dùng sữa bò nên tôi đến đây.” Trưởng giả Duy-ma-cật liền nói: “Đừng, đừng! Xin Hiền giả đừng nói như vậy. Thân của Đức Như Lai là thân kim cang, dứt hết điều ác, hội đủ điều thiện thì còn bệnh tật gì? Hãy lặng thinh mà đi đi! Hiền giả Anan, đừng hủy báng Đức Như Lai. Cẩn thận, đừng nói lại lời ấy, đừng để chư Thiên đại tôn thần diệu nghe lời ấy, hay các hội Bồ-tát nơi nước Phật phương khác nghe được lời ấy. Vả lại, thưa Hiền giả A-nan! Chuyển luân thánh vương nhờ phước đức mà còn được tự tại, huống chi là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là Bậc ban bố phước đức cho mọi người và tụ hội vô lượng phước và là bậc hơn hết. Đi đi thôi, Hiền giả A-nan! Đừng làm xấu hổ, đừng để hàng ngoại đạo dị học nghe lời thô này, là tại sao thầy ta bị bệnh. Bệnh của mình không thể cứu được thì sao có thể cứu được bệnh của người khác? Hiền giả hãy đi mau đi, đừng nói nữa! A-nan nên biết! Pháp thân của Như Lai không phải là cái thân tư dục. Phật là Đấng Thế Tôn, vượt qua các thế gian. Thân Phật là vô lậu, các lậu đã hết. Thân Phật là vô số, các hành đã trừ. Thân ấy làm sao có bệnh?”

Bấy giờ, bạch Thế Tôn! Con thật xấu hổ, không lẽ được gần Phật mà lại nghe lầm. Tức thì nghe trong không trung có tiếng bảo con: “Đúng vậy, Hiền giả A-nan! Như cư sĩ đã nói, chỉ vì Đức Phật xuất hiện nơi đời có năm thứ ô trược nên hiện thành bệnh tật để chỉ dạy cho tất cả kẻ tham lam, nghèo thiếu. Vậy cứ đi đi, Hiền giả Anan, cứ kiếm sữa, đừng xấu hổ.”

Bạch Thế Tôn! Do vậy, con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Cứ như thế, năm trăm đệ tử thượng thủ của Phật đều thưa với Phật về trường hợp cũ. Tất cả đều hướng về Phật thuật lại lời nói hay đẹp của Trưởng giả Duy-ma-cật.

 

Phẩm 4: BỒ-TÁT

Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng gia Duy-ma-cật.

Bồ-tát Di-lặc thưa với Phật:

–Con không đủ sức đến thăm vị ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, con ở trên cung trời Đâu-suất, vì các chư Thiên thuyết pháp. Con nói về hạnh không thoái chuyển của Bồ-tát Đại nhân. Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật đến nói với con: “Thưa Bồ-tát Di-lặc! Đức Thế Tôn thọ ký cho Nhân giả một đời nữa là thành tựu đạo quả Chánh chân Vô thượng, vậy Bồ-tát dùng đời nào để đắc? Quá khứ chăng? Vị lai chăng? Hiện tại chăng? Bồ-tát nếu dùng đời quá khứ thì quá khứ đã hết rồi, đời vị lai chưa đến, còn đời hiện tại thì hiện tại không ngừng.

Đúng như Đức Thế Tôn đã nói với các Tỳ-kheo: Về chỗ sâu xa nơi sự sinh thì đúng là sinh là già, là bệnh, là chết, là đầu, là cuối và chưa sinh cùng sẽ sinh, cả hai điều này chẳng phải là vô sinh. Do vậy mà luận: Không thể từ vô sinh mà chứng đắc tối chánh giác. Như vậy thì dùng cái gì để tho ký?

Thưa Bồ-tát Di-lặc! Chắc chắn từ chân như sinh chăng? Từ chân như diệt chăng? Nếu từ chân như thì không sinh, không diệt. Tất cả nhân đều chân như, tất cả pháp cũng chân như, chúng Hiền thánh cũng toàn là chân như. Đến như Bồ-tát Di-lặc cũng là chân như. Về sự việc thọ ký Bồ-đề vô thượng thì tất cả chúng sinh đều được. Vì sao? Vì chân như không nói vì mình, cũng không vì người để nói lên. Như Bồ-tát Di-lặc được thành Bồ-đề vô thượng thì tất cả chúng sinh cũng sẽ được Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh chính là Bồ-đề. Như Bồtát Di-lặc được diệt độ thì tất cả chúng sinh cũng sẽ được diệt độ. Vì sao? Vì Như Lai không bỏ chúng sinh để riêng một mình diệt độ, nhất định các phàm phu sẽ được diệt độ.

Thưa Bồ-tát Di-lặc! Cùng với hàng trời người bàn luận thì đừng phi thời. Phật là không qua mà cũng không trở lại.

Thưa Bồ-tát Di-lặc! Nếu chư Thiên này muốn thấy đạo thì chính là hành đạo tà, vì không từ thân, không từ chánh giác, cũng không thể từ ý.

Diệt là Phật, vì tất cả như ảo hóa. Vô tỷ là Phật, vì tất cả tạo nghiệp. Vô vi là Phật, vì tất cả không mê lầm. Đoạn trừ là Phật, vì xa lìa tất cả. Không dục là Phật, vì đối với các sự thọ nhận đều đầy đủ. Không xen tạp là Phật, vì đều bao gồm trong một trí. An lạc là Phật, vì mọi sự suy nghĩ đều vui. Không nói là Phật, vì không vướng mắc vào các nẻo chấp trước. Trụ là Phật, vì trú ở pháp tánh. Vào khắp là Phật, vì tự nhiên như vậy. Bất nhị là Phật, vì tách rời hai pháp. Gầy dựng là Phật, vì chứa nhóm thành tín. Bình đẳng là Phật, vì đồng đẳng như hư không. Vô số là Phật, vì lìa chỗ khởi đầu. Biết rõ là Phật, vì biết rõ tâm hành của chúng sinh. Ở trên là Phật, vì nhập chốn không tham. Không hội là Phật, vì đoạn trừ lao ngục. Thánh sư là Phật, vì không thể so sánh, giáo hóa dìu dắt tất cả. Chẳng phải hiện danh là Phật, vì đã thấy đế. Không màu sắc là Phật, vì lìa sạch, nhơ. Thuận theo là Phật, vì bản tánh đã thanh tịnh. Sáng suốt là Phật, vì tự nhiên đã sạch. Không thọ là Phật, vì các lưới nghi đã cắt. Không nhiều là Phật, vì các pháp đồng giác ngộ. Không dục là Phật, vì sắc đẹp đã xả. Mầu nhiệm là Phật, vì sự giác ngộ rất cao xa.”

Kính bạch Thế Tôn! Ngay khi Trưởng giả Duy-ma-cật thuyết pháp như vậy thì trong chúng chư Thiên có hai trăm vị chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh. Do vậy, con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Phật bảo Đồng tử Quang Tịnh:

–Đồng tử hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Đồng tư Quang Tịnh thưa với Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, con đi ra thành lớn Duy-da-ly. Khi ấy, Trưởng giả Duy-ma-cật cũng vừa mới vào thành. Con thi lễ và hỏi: “Cư sĩ từ đâu đến đây?” Trưởng giả trả lời: “Tôi từ đạo tràng đến đây.” Con hỏi: “Đạo tràng là chỗ nào?” Trưởng giả trả lời: “Tâm vô sinh là đạo tràng, vì chế ngự hoàn toàn ý xấu ác. Tâm thuần thục là đạo tràng, vì tập quen sự tăng thượng. Tâm Hiền thánh là đạo tràng, vì đi đến chỗ thù thắng. Tâm Bồ-đề là đạo tràng, vì không quên xả bỏ. Tâm bố thí là đạo tràng, vì không mong đáp trả. Tâm trì giới là đạo tràng, vì ý nguyện đầy đủ. Tâm nhẫn nhục là đạo tràng, vì đối với chúng sinh không tạo rối loạn. Tâm tinh tấn là đạo tràng, vì tâm không thoái lui. Tâm thiền định là đạo tràng, vì ý hành xuất ly. Tâm trí tuệ là đạo tràng, vì mắt tuệ thấy hết các pháp. Tâm Từ là đạo tràng, vì ý bình đẳng. Tâm Bi là đạo tràng, vì chịu được khổ. Tâm Hỷ là đạo tràng, vì dùng pháp lạc làm vui mọi người. Tâm Hộ (Xả) là đạo tràng, vì tùy thuận theo sự hướng dẫn mà xả bỏ chấp trước. Tâm thần thông là đạo tràng, vì chứng đắc sáu Thần thông. Tâm chỉ nghĩ đến việc là đạo tràng, vì không tức giận. Tâm diệt là đạo tràng, vì độ chúng sinh. Tâm bốn ân là đạo tràng, vì nhóm họp mọi người. Tâm đa văn là đạo tràng, vì từ lãnh thọ mà thành tựu. Tâm bất sinh là đạo tràng, vì như tự nhiên quán. Tâm của pháp đạo phẩm là đạo tràng, vì không chấp trước về số, không rơi vào nẻo số lượng. Tâm đế là đạo tràng, vì không tích chứa quả báo thế gian. Tâm duyên khởi là đạo tràng, vì vô minh cho đến lão tử đều vô cùng tận. Tâm làm tịch tĩnh các phiền não là đạo tràng, vì Phật từ nơi đấy mà thành Tối chánh giác. Tâm chúng sinh là đạo tràng, vì người vật là như nhiên. Tâm các pháp là đạo tràng, vì từ không thành tựu Tối chánh giác. Tâm chiến thắng quân ma là đạo tràng, vì không có nghiêng đổ. Ba cõi là đạo tràng, vì tuy ở nhưng không rơi vào dục. Toa Sư tử là đạo tràng, vì khéo thắng, không còn sợ hãi. Lực, vô úy là đạo tràng, vì tất cả không hoạn nạn. Trí của ba đạt là đạo tràng, vì không còn sót lại sự chướng ngại nào. Một ý nghĩ biết tất cả các pháp là đạo tràng, vì Nhất thiết trí đã hiện bày đủ khắp. Như vậy, thưa Nhân giả! Bồ-tát nếu thích ứng nơi các pháp Bala-mật, như thích ứng chỗ giáo hóa mọi người, như thích ứng nơi lãnh thọ pháp thì được mọi sự ủng hộ, không bị rơi vào cõi Dục. Đó là tất cả từ tâm Phật đến ở nơi tất cả pháp Phật.”

Bạch Thế Tôn! Khi Trưởng giả Duy-ma-cật nói pháp như vậy thì có năm trăm vị trời, người phát tâm Bồ-đề vô thượng. Vì vậy, con không đủ sức đến tham bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Bồ-tát Trì Nhân thưa với Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, con ở trong tịnh thất, bấy giờ Thiên ma Ba-tuần –dáng như Đế Thích– dẫn một vạn hai ngàn ngọc nữ, tấu nhạc hát ca, đi đến tịnh thất con, lạy sát chân, cùng với quyến thuộc cúng dường con, rồi đứng sang một bên. Con tưởng là Đế Thích nên khen: “Hãy đến đây, này Câu-dực! Tuy phước đức đáng có cũng đừng nên buông thả. Tất cả dục lạc nên quán là vô thường, không bền vững, nhiều lỗi lầm, nên tu phước đức.” Ma vương liền thưa với con: “Thưa Chánh sĩ! Xin Đại sĩ hãy nhận một vạn hai ngàn Thiên nữ này để giúp việc quét dọn.” Con bảo: “Này Câu-dực! Đừng đem vật mỹ miều độc hại này thúc ép đệ tử của Thích-ca. Những người này không thích hợp với toi.” Khi ấy, Trưởng giả Duy-ma-cật đến nói với con: “Này Tộc tánh tử! Đối với họ, chớ khởi tâm ô nhiễm. Đó là ma vương đến quấy phá người đấy, chứ chẳng phải Đế Thích đâu!” Trưởng giả Duy-ma-cật lại nói: “Này Ba-tuần! Hãy cho ta những ngọc nữ này. Như ta thì nhận được, chứ đừng cho đệ tử của Thích-ca.” Ma vương kinh sợ, nghĩ: “Đại sĩ Duy-ma-cật này chắc không giúp mình.” Ma vương muốn tàng hình trốn đi nhưng không thể được. Hiện hết thần lực, ma vương vẫn không thể trốn đi lại nghe trong không trung có tiếng bảo: “Ba-tuần! Hãy đem ngọc nữ cho đi thì mới thoát được.” Ma vương vì sợ, nên miễn cưỡng cho ngọc nữ. Trưởng giả Duy-ma-cật bảo các ngọc nữ: “Ma vương đã đem các ngươi cho ta. Nay các ngươi nên phát tâm Bồ-đề vô thượng.” Các ngọc nữ nói: “Trưởng giả dạy như vậy, nếu chúng tôi phát tâm cầu đạt đại đạo thì làm thế nào để vui chơi?” Trưởng giả nói: “Các ngươi phát tâm Chánh chân Vô thượng rồi thì có cái vui chánh pháp có thể để tự vui được. Các ngươi đã được cái vui đó thì sẽ không còn vui theo cái vui dục lạc kia.” Các ngọc nữ hỏi: “Vui theo chánh pháp là thế nào?” Trưởng giả Duy-ma-cật nói: “Đó là vui không xa lìa Phật, vui lắng nghe Pháp, vui cúng dường Tăng, vui không nương ba cõi, vui không ghét ba cõi, vui biết dục là vô thường, vui quán chủng tánh như rắn độc, vui tùy thuận hộ trì tâm đạo, vui an lạc với người và vật, vui dùng lễ kính trọng người, vui bố thí các thứ hiện có, vui kính thờ chân nhân giới hạnh, vui nhẫn nhục điều phục không nhẫn nhục, vui siêng năng biết thực hành công đức, vui thiền định hành thiện, vui trí tuệ sâu rộng, vui tuyên dương rộng pháp Phật, vui chiến thắng quân ma, vui chuyển hóa phiền não, vui làm sạch nước Phật, vui thành tựu tướng hảo để hội họp giáo hóa, vui trang nghiêm đạo tràng, vui ba cửa giải thoát, vui đạo Niết-bàn, vui nhập nơi pháp sâu không thích phi thời, vui tập quen với người tự nhiên, không thích tức giận sai trái, vui tập quen theo bạn lành, vui xa lìa bạn ác, vui sự tốt đẹp, vui với pháp vô lượng đạo phẩm… Như thế đó là Bồ-tát vui với cái vui chánh pháp để tự an vui.” Bấy giờ, Batuần bảo các ngọc nữ: “Ta muốn cùng các ngươi trở về Thiên cung.” Các Thiên nữ nói: “Ma vương đã đem chúng tôi cho vị cư sĩ này, lại vui với cái vui chánh pháp, chúng tôi rất vui. Chúng tôi không thích cái vui nơi năm dục nữa.” Ba-tuần nói: “Thưa cư sĩ! Xin Đại sĩ phóng xả những Tiên nữ này, đem tất cả mọi thứ hiện có bố thí cho người khác, đó là Bồ-tát.” Trưởng giả Duy-ma-cật nói: “Ta đã phóng xả rồi đó, ngươi đem họ đi đi. Ấy là khiến cho tất cả chúng sinh tuân thừa pháp hạnh, đạt được ước nguyện.” Các Thiên nữ làm lễ và hỏi Trưởng giả Duy-ma-cật: “Chúng tôi nên ở Thiên cung theo cách nào?” Trưởng giả Duy-ma-cật nói: “Các chị! Có một cõi trời tên là Thường mở pháp môn vô tận. Các chị nên tới đó ở. Sao gọi là Thường mở pháp môn vô tận? Ví như môt ngọn đèn đốt cháy cả trăm ngàn đọn đèn, làm cho toi tăm đều sáng và cái sáng ấy không bao giờ cùng tận. Như thế, này các chị! Một vị Bồ-tát dùng đạo khai mở, dẫn đường cho cả trăm ngàn Bồ-tát. Tâm đạo của Bồ-tát đó không bao giờ hao tổn lại còn tăng thêm rất nhiều. Công đức như vậy nhưng nếu không đem dẫn đường cho kẻ khác tất hao hụt hết, cho nên có tên là Thường mở pháp môn vô tận. Các chị nên theo đó tu học. Vô số Thiên tử, Thiên nữ nơi cõi ma chưa vị nào có thể có được tâm đạo như các chị, nhưng đối với giáo pháp của Đức Như Lai còn có sự nối tiếp.”

Khi Trưởng giả Duy-ma-cật thuyết pháp cho tất cả mọi người xong, ma vương cùng quyến thuộc của ma đều rút lui.

Bạch Thế Tôn! Trưởng giả Duy-ma-cật có sự cảm hóa như vậy, do đấy, con không đủ sức đến thăm bệnh trưởng giả ấy.

Phật bảo trưởng giả tử Thiện Kiến:

–Ông hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Trưởng giả Thiện Kiến thưa với Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy. Vì sao? Vì con nhớ ngày trước, con mở đại hội cúng tế nơi nhà cha con, thời hạn bảy ngày. Bấy giờ Trưởng giả Duy-ma-cật đến đàn đại cúng tế, bảo con: “Trưởng giả tử! Không nên cúng tế như mọi người cúng tế. Hãy nên cúng tế như pháp, cần gì cúng tế theo tư dục như thế.” Con hỏi: “Cúng tế như pháp là thế nào?” Trưởng giả Duy-macật nói: “Trưởng giả tử! Người cúng tế không có mục đích mưu cầu, cho nên kính đãi mọi người. Vậy thì cúng tế như pháp nghĩa là gì? Nghĩa là vì Phật sự mà không dứt tâm Từ, vì việc người mà không dứt tâm Bi, vì việc pháp mà không dứt tâm Hỷ, vì tuệ lực mà không dứt tâm Xả, vì bố thí mà không dứt đàn tràng, vì giới hóa độ người mà không rời luật, biết vô ngã mà không dứt nhẫn nhục, vì việc làm của thân tâm mà không dứt tinh tấn, vì việc đạo mà không dứt thiền tư, vì học rộng mà không dứt trí tuệ. Nếu người nào không bố thí thì không dứt tánh Không, làm việc thế tục mà không dứt Vô tướng, ở trong cuộc đời mà không dứt Vô nguyện, vì hộ trì chánh pháp mà không dứt lực hành, vì ban ân cho người mà không dứt tuổi thọ, biết sự thật của người mà không dứt khiêm nhường, cung kính, vì công đức bền chắc mà không dứt tính mạng và tài sản, vì sáu sự tư niệm mà không dứt các niệm, vì thực hành sáu pháp bền chắc mà không dứt tâm học tập, vì tu tập chánh định mà không dứt cách sống trong sạch, thực hành hoan hỷ mà không dứt học tập theo Hiền thánh, vì dứt tâm không sinh mà không dứt người ngu, làm Sa-môn không dứt chánh tánh, khéo đọc tụng, thọ trì mà không dứt tánh nghe. Ở nơi chốn núi, đầm lãnh thọ pháp, không dứt ở chỗ trống vắng, nghĩ phát sinh tuệ giác của Phật, không dứt thiền tọa, vì tất cả phiền não mà không xa rời người hiền, vì tu hành tướng hảo và làm trang nghiêm cõi Phật mà không dứt phần phước nghiệp, vì tùy theo nghiệp của chúng sinh để thuyết pháp mà không dứt phần trí tuệ, vì đoạn mọi phiền não, các pháp bất thiện mà không dứt tất cả phần công đức, tất cả trí giác, tất cả pháp thiện hoàn toàn không dứt, nhờ đạo phẩm của chánh pháp mà mang lại tất cả. Như thế, gọi là cúng tế như pháp. Bồ-tát gây dựng sự cúng tế đúng pháp như vậy được gọi là cúng tế vĩ đại, cũng là phước đức trên hết của thế gian.”

Bạch Thế Tôn! Khi Trưởng giả Duy-ma-cật nói pháp này thì trong chúng Phạm chí có hai trăm Bà-la-môn phát tâm Bồ-đề vô thượng. Khi ấy, tâm con được thanh thản lạ lùng, được cùng gặp bậc Chánh sĩ đức hạnh cao vời, con liền cởi ra trăm ngàn xâu chuỗi ngọc anh lạc nơi cổ kính dâng trưởng giả, nhưng trưởng giả không nhận. Con nói: “Xin Đại sĩ nhận cho, rồi cho ai thì tùy ý.” Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật mới nhận chuỗi ngọc anh lạc, chia làm hai phần, vẫn như nhà cúng tế, đem một phần cho những người hành khất nghèo khổ nhất trong nước, lại đem một phần dâng Đức Như Lai Đầu-ba-biến Chí Chân Đẳng Chánh Giác, thấy đại chúng và quốc độ của Đức Như Lai Đầu-ba-biến, quốc độ của Ngài tên là Viêm Khí, thấy chuỗi ngọc anh lạc treo nơi nước kia biến thành gác ngọc nơi giao lộ của Đức Phật ấy. Đã thấy sự biến hóa như thế rồi, lại nghe trưởng giả nói: “Như vậy đó, thưa Nhân giả! Người bố thí được gần Như Lai và người bố thí tài vật không khởi tưởng thì cho một người nghèo cũng đồng với không biết bao nhiêu niệm có tâm đại Bi. Không cầu quả báo như vậy gọi la cúng tế đúng pháp hoàn hảo. Trong nước, những người nghèo thấy các thần lực biến hóa ấy và nghe những lời dạy của Phật nên đều phát tâm Bồ-đề vô thượng.”

Bạch Thế Tôn! Do vậy, con không đủ sức đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Như vậy, tất cả các Bồ-tát, ai cũng thuật lại lời nói của Trưởng giả Duy-ma-cật và cũng thưa là không đủ sức đến thăm bệnh vị trưởng giả ấy.

 

Phẩm 5: ĐÀM LUẬN CÁC PHÁP

Đức Phật lại bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Đại sĩ hãy đến thăm bệnh Trưởng giả Duy-ma-cật.

Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi thưa với Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trưởng giả Duy-ma-cật ấy tuy là Ưu-bà-tắc nhưng thâm nhập pháp yếu, đức hạnh thuần khiết, tài hùng biện vững vàng, trí tuệ không thể so lường, biết hết mọi pháp thức của tất cả Bồtát, vào hết mọi kho tàng của Phật, chế ngự các loại ma, dùng đức để chiến thắng chúng, chỉ hành theo trí tuệ phương tiện, đều đạt hoàn hảo. Tuy nhiên, con xin nương tựa nơi Phật, muốn đến đó để mở bày, hóa độ cho mười phương.

Ngay khi ấy, các vị Bồ-tát, các đại đệ tử của Phật, Đế Thích,

Phạm vương, bốn Thiên vương… đều nghĩ: “Nay hai vị Đại sĩ Vănthù-sư-lợi và Duy-ma-cật đàm luận với nhau thì chắc chắn nói về Đại thừa.” Tức thì tám ngàn Bồ-tát, năm trăm Thanh văn, năm trăm ngàn hàng trời, người cùng muốn đi nghe.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi với sự tháp tùng của các Bồ-tát, các vị đại đệ tử, trời, người và quyến thuộc, cùng đi vào thành lớn Duy-da-ly.

Trưởng giả Duy-ma-cật nghĩ: “Nay Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi cùng đại chúng đến đây, ta sẽ làm cho phòng này trống không và hợp các tòa ngồi lại làm thành một tòa, rồi lấy cớ bệnh mà nằm.”

Đại sĩ Văn-thù vào nhà Trưởng giả Duy-ma-cật, thấy nhà trống không, chỉ độc một cái giường nằm. Trưởng giả Duy-ma-cật nói:

–Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Phiền cho Bồ-tát quá! Xưa kia nếu không từng quen biết thì bây giờ đâu có đến thăm nhau.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Thế nào cư sĩ? Bệnh cư sĩ có chịu nổi không? Có bớt không, hay là tăng? Đức Thế Tôn ân cần hỏi thăm nhiều lắm, rằng: “Cư sĩ đứng ngồi có được nhẹ nhàng, tới lui có được vững vàng tự tại không?

Bệnh cư sĩ do đâu mà có? Đã bao lâu rồi? Và khi nào thì hết?” Trưởng giả Duy-ma-cật nói:

–Bệnh này phát sinh đã lâu rồi. Từ si có ái nên bệnh của tôi phát sinh. Vì tất cả chúng sinh bệnh nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sinh không bệnh, thì bệnh tôi cũng hết. Vì sao? Bồ-tát muốn xây dựng chúng sinh nên vào sinh tử, đó là bệnh. Làm cho tất cả chúng sinh hết bệnh thì Bồ-tát không còn bệnh nữa. Ví như vị trưởng giả chỉ có đứa con một mắc bệnh. Đứa con bệnh thì cha mẹ bệnh theo. Đứa con lành thì cha mẹ cũng lành. Bồ-tát cũng vậy, thương tất cả chúng sinh như con nên chúng sinh bệnh thì Bồ-tát bệnh, chúng sinh lành thì Bồ-tát lành.

Lại nói: “Bệnh Bồ-tát do đâu mà có?”, thì thưa Đại sĩ, bệnh Bồtát là do đại Bi mà có.

Đại sĩ Văn-thù hỏi:

–Tại sao nhà cửa trống không, không có cả người hầu?

Trưởng giả Duy-ma-cật nói:

–Quốc độ của chư Phật cùng với nhà này đều trống không như

hư không.

Hỏi:

–Sao gọi là không?

Đáp:

–Vì không mà không.

Hỏi:

–Đã không, vì sao là không?

Đáp:

–Không, vì không phân biệt là không.

Hỏi:

–Không do ai làm?

Đáp:

–Không là do phân biệt, mà phân biệt cũng là không.

Hỏi:

–Không, nên tìm ở đâu?

Đáp:

–Không, nên tìm ở sáu mươi hai thứ kiến chấp.

Hỏi:

–Sáu mươi hai thứ kiến chấp nên tìm ở đâu?

Đáp:

–Nên tìm ở trong sự giải thoát của Như Lai.

Hỏi:

–Sự giải thoát của Như Lai nên tìm ở đâu?

Đáp:

–Nên tìm trong tâm hành của chúng sinh.

Thưa Nhân giả! Bồ-tát hỏi tôi sao không có người hầu, thì thưa Bồ-tát, tất cả quân ma đều là người hầu của tôi. Vì những ai lưu chuyển cũng là người hầu của tôi. Vì sao? Vì việc làm của ma là thọ nhận sinh tử. Sinh tử tức là người hầu của Bồ-tát. Người lưu chuyển nhận lấy các thứ kiến chấp, mà Bồ-tát thì không dao động vì kiến chấp.

Đại sĩ Văn-thù hỏi:

–Bệnh của cư sĩ là loại bệnh gì?

Đáp:

–Thưa Bồ-tát! Bệnh của tôi không hiện rõ nên không thể thấy.

Hỏi:

–Bệnh ấy thuộc về thân hay thuộc về tâm?

Đáp:

–Bệnh tôi thuộc về thân vì thân là đại địa, thuộc về tâm vì tâm là pháp huyễn.

Hỏi:

–Trong bốn đại chủng: địa, thủy, hỏa, phong, thì bệnh của trưởng giả thuộc đại chủng nao?

Đáp:

–Đại chủng ấy là tập khí của tất cả chúng sinh.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi:

–Bồ-tát nên quán các tâm bệnh của chúng sinh như thế nào? Lại nữa, dùng sự tu tập gì đối với Bồ-tát có bệnh?

Trưởng giả Duy-ma-cật nói:

–Đối với thân vô thường đừng cho là Niết-bàn, đối với thân khổ sở thường biểu lộ sự không đam mê, không cho Niết-bàn là an ổn để thích thú nơi Niết-bàn, hiện thân vô ngã mà giáo hóa, hướng dẫn chúng sinh. Thân trống vắng đừng cho là vắng lặng hoàn toàn vì sẽ hiện bày việc làm trước đây. Thường thương bệnh người khác mà không kể bệnh của mình. Do biết kiếp quá khứ mà hướng dẫn, tạo lợi ích cho người và vật không mê lầm. Nhớ nghĩ việc thiện để tu hành, sống đời trong sạch nhưng không cầu mong, thường siêng năng làm bậc y vương để chữa trị mọi bệnh cho chúng sinh. Đó là Bồ-tát hay an ủi người bệnh.

Bồ-tát Văn-thù lại hoi:

–Thế nào gọi là Bồ-tát có bệnh mà tâm không rối loạn?

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Bồ-tát có bệnh thì biết bệnh này trước khi sinh ra là trụ ở chỗ dục. Bệnh này sinh ra là từ tư tưởng không thành thật, ở trong các phiền não.

Lại hỏi:

–Bệnh tự thân nó đối với các pháp không thể thủ đắc. Vì sao? Vì bệnh chỉ nương vào bốn đại chủng. Lại các đại chủng này hoàn toàn không có chủ thể, thì cái để nương vào đó cũng không có ngã. Bệnh ấy là chuyên chấp nơi vô ngã, chuyên chấp cả hai đều không. Biết được gốc bệnh rồi thì nên siêng năng, không còn ý tưởng ngã, nhân. Nếu khởi pháp tướng thì thân này là do các pháp hợp lại mà thành ra. Vậy pháp sinh thì sinh, pháp diệt thì diệt, pháp chuyển thì chuyển, không nhớ nghĩ đến nhau, không biết nhau. Vì khi sinh không nói ta sinh, khi diệt không nói ta diệt. Bồ-tát biết tưởng về pháp, nuôi dưỡng ý tưởng đó mà không trụ. Nếu dùng ý tưởng về pháp để thọ báo là trở ngại lớn. Đã lìa bệnh rồi thì ngã không còn là ngã nữa.

–Trừ bệnh bằng cách nào?

–Nghĩa là đoạn trừ ngã, ngã sở.

–Thế nào là đoạn trừ ngã, ngã sở?

–Nghĩa là tự mình không tham dục.

–Sao gọi là tự mình không tham dục?

–Nghĩa là bên trong không khởi nghiệp.

–Sao gọi là bên trong không khởi nghiệp?

–Nghĩa là phải thể hiện bình đẳng, bất động, không thể động.

–Thế nào là bình đẳng?

–Nghĩa là ngã bình đẳng, Niết-bàn cũng bình đẳng. Vì sao? Vì ngã với Niết-bàn cả hai đều là không.

–Sao gọi là không?

–Gọi là không, vì cả hai đều như vậy. Thành tựu đạo Thánh là đều từ nơi bình đẳng. Bệnh cũng như vậy, khong khác.

–Tại sao gọi là sự thọ nhận cũng không?

–Nghĩa là đã hiểu rõ do không biết các tưởng là bất tận, ở nơi tưởng để thủ chứng Niết-bàn. Như vậy, cả hai cái đều là các tưởng, làm tăng trưởng các đường ác, phải nên gần gũi tất cả chúng sinh, hưng khởi tâm đại Bi mình vì mọi chúng sinh, tự tạo pháp tỉnh thức và quán xét: Chỉ trừ khử bệnh chứ không trừ khử pháp, cũng không trừ khử gốc bệnh đã sinh. Biết cội gốc của bệnh mà thuyết pháp.

–Gốc bệnh là gì?

–Nghĩa là ban đầu chưa sáng tỏ. Chưa sáng tỏ tức là gốc của bệnh.

–Sao gọi là chưa sáng tỏ?

–Là ở nơi ba cõi mà không sáng tỏ.

–Làm sao để biết cái không sáng tỏ ấy?

–Nghĩa là đình chỉ tâm. Đình chỉ tâm là do không thủ đắc chứ không phải là do không sáng tỏ.

–Vì sao không thủ đắc?

–Vì không thủ đắc nơi hai kiến, nghĩa là thấy trong, thấy ngoài, toàn bộ là không thể thủ đắc.

Thưa Đại sĩ Văn-thù! Như thế gọi là Bồ-tát có bệnh mà tâm không loạn động. Tuy có già, bệnh, chết, Bồ-tát biết rõ về chúng. Nếu không được như vậy thì chỗ tu trị của Bồ-tát không có lợi ích gì cả. Ví như thắng kẻ thù mới có thể gọi là dũng mãnh, nhưng đoạn tuyệt tất cả khổ, già, bệnh, chết mới gọi là Bồ-tát. Bồ-tát nếu có bệnh thì nên xét như vậy. Như bệnh của tôi cũng không thật không có, cũng vậy. Bệnh của chúng sinh cũng không thật, không có, cũng thế. Khi quán xét như thế thì không còn rơi vào vọng kiến. Để hưng khởi tâm đại Bi, Bồ-tát chắc chắn phải đoạn trừ phiền não. Để hợp với đạo ý thì thực hiện đại Bi đó. Vì sao? Vì Bồ-tát rơi vào vọng kiến thì Bồ-tát nhờ đại Bi đó mà thoát khỏi, không rơi vào vọng kiến. Bồ-tát đại Bi không kể sự sinh ra, vì Bồ-tát sinh ra vì sự giải thoát, giải thoát sự đọa lạc, giải thoát sự sinh ra, giải thoát sự thọ thân, luôn luon vì người khác mà nói về Phật, thuyết giảng pháp. Đó là lời thề nguyện.

Như Phật đã dạy: Bồ-tát tự mình an thân mà không cởi mở sự trói buộc cho chúng sinh thì không phải là nơi chốn để tự an thân. Bồtát cởi mở mọi trói buộc cho chúng sinh, đó là việc nên làm, vì thế nói Bồ-tát đã được giải thoát rồi thì việc làm của Bồ-tát không còn bị trói buộc.

–Trói buộc là gì? Cởi mở là gì?

–Bồ-tát thiền định là trói buộc nơi ngã, là lấy đạo để trói buộc ngã. Trói buộc là Bồ-tát dùng phương tiện sinh trong năm đường để giải thoát sự thọ sinh cho chúng sinh. Bồ-tát không có phương tiện mà dựa vào trí là trói buộc. Hành phương tiện mà dựa vào trí là cởi mở, có trí tuệ không dựa vào phương tiện là trói buộc, có trí mà dựa vào phương tiện là cởi mở.

–Thế nào gọi là không phương tiện, dựa vào trí là trói buộc?

–Đó là dựa vào pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện mà tho sinh, không làm trang nghiêm tướng và cõi Phật để giáo hóa mọi người. Đó là không có phương tiện mà dựa vào trí là trói buộc.

–Thế nào là hành phương tiện mà dựa vào trí là cởi mở?

–Đó là làm trang nghiêm tướng va cõi Phật để hóa độ mọi người, nhưng hiểu rõ về các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện mà thọ sinh. Đó là hành phương tiện, dựa vào trí là cởi mở.

–Thế nào là có trí, không dựa vào phương tiện là trói buộc?

–Đó là dựa vào sự hiểu biết, hành khổ hạnh, mong thọ báo, tu tập tất cả gốc phước thiện. Đó là có trí, không dựa vào phương tiện là ràng buộc.

–Thế nào là có trí, dựa vào phương tiện là cởi mở?

–Đó là đoạn trừ các kiến chấp, thực hành khổ hạnh không mong cầu thọ báo, trồng cội gốc phước đức để phân bố đạo này cho tất cả. Đó là có trí, dựa vào phương tiện là cởi mở.

Thưa Đại sĩ Văn-thù! Bồ-tát có bệnh nên xét các pháp như vậy. Gia sử thân có bệnh thì quán thân là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, đó là tuệ giác. Lại thọ thân này, không dùng nó để đoạn sinh tử ác, mà để làm lợi ích tốt đẹp cho mọi người, tâm hợp với đạo, đó gọi la phương tiện. Lại, nếu thân có bệnh mà biết ý dị đồng, lỗi đó chẳng phải mới thì quán xét nó vốn có, đó là trí tuệ. Giả sử thân có bệnh nhưng không vì thế khởi ý Niết-bàn, đó là phương tiện.

Như vậy, thưa Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát có bệnh nhưng ý không loạn động, cũng không trụ nơi cao. Vì sao? Vì nếu trụ cao là pháp của người ngu, còn trụ thấp là pháp của Thanh văn, cho nên Bồtát trụ không cao, không thấp, ở khoảng giữa, là vô sở xứ. Đó là hạnh của Bồ-tát, không phải hạnh của phàm phu, không phải hạnh của bậc Hiền. Đó là hạnh Bồ-tát ở nơi nẻo sinh tử mà không làm hạnh nhơ bẩn, đó là hạnh Bồ-tát.

Quán sát hạnh Niết-bàn mà không nương tựa Niết-bàn, ấy là hạnh Bồ-tát. Làm việc của bốn ma mà vượt qua hạnh của ma, ấy là hạnh Bồ-tát. Hành trí tuệ học rộng hạnh biết thời, ấy là hạnh Bồ-tát. Đối với hạnh bốn chân đế, không dùng hạnh biết rõ về đế, ấy là hạnh Bồ-tát. Quán sát hạnh vô sinh, không cho là khó đến, ấy là hạnh Bồtát. Ở trong hạnh duyên khởi, đối với các kiến chấp không ham muốn, ấy là hạnh Bồ-tát. Ở trong đại chúng, không có hạnh mong cầu, ấy là hạnh Bồ-tát. Ở trong hạnh nhàn cư, không diệt tận thân tâm, ấy là hạnh Bồ-tát. Ở trong hạnh ba cõi, không làm hỏng pháp tánh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tâm rỗng lặng, không làm gì mà làm tất cả mọi việc, lấy đức trong sáng làm hạnh, ấy là hạnh Bồ-tát. Hành sáu Ba-la-mật là vì mọi người nên hành Ba-la-mật, ấy là hạnh Bồ-tát. Lãnh thọ đạo pháp, không dấy khởi đạo nhỏ, ấy là hạnh Bồ-tát. Dùng hạnh Chỉ và Quán, biết việc làm của ma, không diệt dấu vết, ấy là hạnh Bồ-tát. Không ứng, không hiện hạnh của Thanh văn, Duyên giác, không hủy bỏ pháp hạnh của Phật, ấy là hạnh Bồ-tát.

Khi Trưởng giả Duy-ma-cật giảng nói như vậy, thì có tám ngàn người, trời cùng phát tâm Chánh giác Vô thượng. Đồng tử Văn-thù-sưlợi rất hoan hỷ.

Hiền giả Xá-lợi-phất nghĩ: “Không có giường ghế thì các vị Bồtát và các vị đại đệ tử của Phật sẽ ngồi ở đâu?”

Trưởng giả Duy-ma-cật biết ý nghĩ ấy nên nói:

–Thế nào, thưa Hiền giả! Hiền giả đến đây là vì chánh pháp hay là vì chỗ ngồi?

Hiền giả Xá-lợi-phất nói:

–Cư sĩ! Tôi đến đây là vì chánh pháp, không phải vì chỗ ngồi.

Trưởng giả Duy-ma-cật nói:

–Dạ, kính bạch Hiền giả! Điều lợi cho chánh pháp thì thân mạng cũng không tiếc, huống chi là chỗ ngồi.

Kính bạch Hiền giả Xá-lợi-phất! Điều lợi cho chánh pháp thì không cầu sắc, thống (thọ) tưởng, hành, thức, không phải cầu các ấm, các nhập, không phải cầu nơi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Kính bạch Hiền giả Xá-lợi-phất! Cầu chánh pháp thì không cầu theo sự chấp nơi Phật, không cầu theo sự chấp nơi Pháp, không cầu theo sự chấp nơi Tăng. Kính bạch Hiền giả Xá-lợi-phất! Cầu chánh pháp thì không cầu biết Khổ, không cầu đoạn Tập, không cầu chứng Diệt, tu Đạo. Vì sao? Vì có pháp không phóng dật nhưng có pháp phóng dật. Nên biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, thì người cầu pháp như thế là cầu pháp không phóng dật.

Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Không có trần cảnh lìa nhiễm trần cảnh. Pháp nhiễm ô đó tức là ở một bên. Người cầu pháp này là cầu pháp không tham dâm.

Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Pháp không có biên giới, phạm vi. Hễ có biên giới, phạm vi thì có phân chia. Người cầu pháp này là cầu không có biên vực. Pháp không bất tịnh, người bất tịnh thì đối với pháp có thủ, có xả. Người cầu pháp là cầu chỗ không lấy, không bỏ. Pháp không phải là nơi ẩn nấp, nhưng có pháp thì có chỗ ẩn nấp. Người cầu pháp là cầu chỗ không ẩn nấp. Pháp không có tưởng, ở trong chỗ suy tưởng chấp chặt sự hiểu biết. Người cầu pháp là cầu chỗ không suy tưởng. Pháp không có phiền não, ở trong dòng chảy nơi pháp là gần gũi tất cả. Người cầu pháp thì không cầu cái tất cả. Pháp thì không thấy, nghe, nghĩ, biết, nhưng đối pháp có thấy, nghe, nghĩ, biết, thì đã sai khác. Người cầu pháp là cầu cái không thấy, nghe, nghĩ, biết. Do vậy, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Cầu pháp là đối với tất cả pháp không cầu gì cả.

Khi Trưởng giả Duy-ma-cật giảng nói như trên thì có năm trăm hàng trời, người đối với các pháp sinh khởi Pháp nhãn.

 

Phẩm 6: BẤT TƯ NGHÌ

Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật hỏi Đại sĩ Văn-thù:

–Kính thưa Đại sĩ! Đại sĩ đã từng du hóa nơi vô lượng, vô số trăm ngàn ức cõi Phật. Vậy có những cõi Phật nào sử dụng những tòa Sư tử tuyệt hảo nhất không?

Đại sĩ Văn-thù nói:

–Có đấy, này tộc tánh tử! Về phía Đông, cách quốc độ Phật này bằng ba mươi sáu hằng hà sa thế giới, có thế giới tên Tu-di phan, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tu-di Đăng Vương Như Lai, Chí Chân Đẳng Giác, hiện còn tại thế. Thân Ngài cao tám vạn bốn ngàn do-tuần. Tòa Sư tử của Ngài cao sáu vạn hai ngàn do-tuần. Cõi nước Tu-di phan có tám trăm bốn mươi vạn tòa Sư tử. Như Lai nơi cõi nước ấy thọ trì tất cả. Tòa Sư tử đó đẹp đẽ bậc nhất.

Lúc này, Trưởng giả Duy-ma-cật liền nhập định Như kỳ tượng, hiện thần túc, tức thì Như Lai Tu-di Đăng Vương cho dời ba vạn hai ngàn tòa Sư tử cao lớn đẹp đẽ – từ xưa chưa từng thấy – đến phòng của trưởng giả. Các vị Bồ-tát, các Thanh văn, chư Thiên, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương đều đến, vào nhà Trưởng giả Duy-macật, thấy phòng của trưởng giả rất rộng lớn, dung chứa ba mươi hai ngàn tòa Sư tử mà không dồn ép gì cả. Cùng lúc, thành Duy-da-ly cũng không hề bị trở ngại. Chỗ ở của Phật và chỗ ở của Tứ Thiên vương cũng không bị ngăn ngại. Ai cũng thấy như cũ, không giảm.

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Xin mời Đại sĩ đến ngồi trên tòa Sư tử, mời các Bồ-tát, thượng nhân cùng ngồi. Xin các vị tự bien thân mình cho xứng với tòa ấy. Các vị Bồ-tát được thần thông thì tự biến mình cao lớn bốn vạn hai ngàn do-tuần, ngồi lên tòa Sư tử. Các vị Bồ-tát mới phát tâm và các Thanh văn đều không lên được.

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Dạ, xin mời Hiền giả Xá-lợi-phất lên ngồi trên tòa Sư tử.

Hiền giả Xá-lợi-phất nói:

–Tộc tánh tử! Tòa này cao lớn quá, tôi không lên được.

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Thưa Hiền giả! Xin Hiền giả đảnh lễ Đức Tu-di Đăng Vương Như Lai, sau đó thì ngồi được.

Khi ấy, các Bồ-tát mới phát tâm và các vị đại Thanh văn cùng đảnh lễ Đức Tu-di Đăng Vương Như Lai, tức thì cùng ngồi được trên tòa Sư tử.

Hiền giả Xá-lợi-phất nói:

–Thật chưa từng có! Tộc tánh tử! Phòng này đã chứa được số tòa cao lớn như vầy, mà thành Duy-da-ly cũng không có gì chướng ngại. Chỗ Phật ở và chỗ của Tứ thiên không hề bị trở ngại. Nơi thành thị, thôn xóm cùng với cung điện chư Thiên, Long vương và Quỷ thần cũng không thấy chướng ngại gì.

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Dạ, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Chư Như Lai và Bồ-tát có tám pháp môn Bất khả tư nghì. Vị Bồ-tát nào biết được pháp môn giải thoát ấy thì đem núi Tu-di cao rộng nạp vào trong hạt cải mà núi vẫn không thêm bớt gì. Vì khi thực hiện việc đó, khiến Tứ Thiên vương cùng chư Thiên nơi cõi trời Đao-lợi không biết là ai nạp mình vào đấy. Chỉ có người khác mới thấy Tu-di nạp vào hạt cải. Như thế gọi là pháp môn nhập cảnh giới bất khả tư nghì.

Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Bấy giờ, tam thiên thế giới như Phật đã thu nhỏ để trong lòng bàn tay phải, rồi đem đặt ở hằng hà sa Phật quốc, vậy mà người trong đó không hay biết ai đem mình để qua đây, rồi đưa trở về chỗ cũ, cũng không để cho mọi người hay biết mình quay lại, vì vẫn nguyên trạng.

Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Có vô lượng người thờ luật sinh tử. Bồ-tát ở pháp môn Bất tư nghì vì những người thờ luật sinh tử, hóa hiện bảy ngày đêm thành ra một kiếp, làm cho họ tin và gọi đó là một kiếp, không biết đó là bảy ngày đêm.

Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát ở trong pháp môn Bất tư nghì, đem mọi sự tốt đẹp của các quốc độ làm thành một quốc độ, đem tất cả chúng sinh đặt trong lòng bàn tay phải, tùy thuận giáo hóa họ và cùng du hành đến các thế giới như mặt trời mọc, không gây chấn động một quốc độ nào. Theo đó lễ bái, phụng sự chư Phật nơi mười phương, lại làm cho tất cả chúng sinh từ nơi một lỗ chân lông thấy cả nhật, nguyệt, tinh tú của mười phương thế giới. Mười phương tối tăm đều theo vào mà không hề tổn hại. Lại làm cho tất cả cõi Phật hiện có không giảm mà to lớn hơn và tất cả đều được tu hành. Lại có thể nắm lấy hằng sa thế giới phương dưới đưa lên đặt ở vô số cõi Phật khác nhau, giống như tiếp lấy người rớt hầm đặt lên đất bằng. Lại, Bồ-tát ở trong pháp môn Bất tư nghì vì tất cả chúng sinh hiện hình Phật như Phật đã hiện, hiện hình Duyên giác như Duyên giác đã hiện, hiện hình Thanh văn như Thanh văn đã hiện, hoặc hiện hình Thích, Phạm, Chuyển luân vương như họ đã hiện. Tùy theo sở nguyện thượng, trung, hạ của từng âm thanh, ngôn ngữ, trong mười phương thế giới, dùng tất cả ngôn ngữ, âm thanh êm ái của Phật để dẫn dắt họ như phát ra âm thanh vô thường, khổ, không, vô ngã của Phật. Vì sự việc giảng nói pháp của chư Phật như vậy nên phát ra các loại âm thanh như thế.

Bấy giờ, Trưởng lão Đại Ca-diếp nghe nói về pháp môn Bất tư nghì của Bồ-tát bèn nói với Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Giống như Hiền giả ở trước các phàm phu hiện bày những thứ danh hương, nếu chẳng phải chỗ thấy biết của Bồ-tát thì không thể hiểu được. Nay các Thanh văn nghe lời này, có thể cùng lúc thấy được việc làm chẳng thể nghĩ bàn của Bồ-tát. Ai nghe pháp môn Bất tư nghì ấy mà không phát tâm Bồ-đề vô thượng, thì như vậy, thưa Hiền giả, chúng ta làm sao dứt tuyệt gốc rễ đó? Đối với pháp Đại thừa như thế là chúng ta đã làm cho hạt giống bị hư hoại.

Tất cả hàng Thanh văn nghe lời này đều than khóc vang thấu đến tất cả tam thiên thế giới. Còn các Bồ-tát thì vui mừng lanh thọ lời dạy ấy. Nếu hiểu rõ được pháp môn Bất tư nghì thì tất cả quân ma sẽ không làm gì được.

Khi Hiền giả Đại Ca-diếp giảng nói lời này, có ba vạn hai ngàn trời, người đều phát tâm Bồ-đề vô thượng. Trưởng giả Duy-ma-cật thưa với Trưởng lão Đại Ca-diếp:

–Thưa Hiền giả! Vô số vô lượng ma vương trong mười phương đều làm việc tạo sự sợ hãi, Bồ-tát ở trong pháp môn Bất tư nghì thường giải thoát cứu độ người. Việc làm của ma trong mười phương vô lượng thế giới là: hoặc theo Bồ-tát cầu xin tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, tủy, não, máu, thịt, da, xương, vợ con, tôi tớ, quyến thuộc, cầu xin thành nước, thôn xóm, của cải, thóc lúa, vàng bạc, ngọc minh nguyệt, san hô, châu báu, y phục, thức ăn uống và tất cả mọi thứ sở hữu. Bồtát ở trong pháp môn Bất tư nghì hay dùng phương tiện thiện xảo vì các Bồ-tát, tạo phương tiện thị hiện làm cho tánh họ được kiên cố. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát ở trên cao xa thì không thể khiến hàng phàm phu làm những việc thúc bách Bồ-tát như vậy.

Này Hiền giả Ca-diếp! Giống như voi quý giẫm đạp thì làm sao loài lừa chịu nổi? Việc làm như thế, các Bồ-tát khác không thể làm được. Bồ-tát nhẫn chịu sự bức bách cũng giống như vậy. Bồ-tát hội nhập nơi pháp môn trí tuệ phương tiện Bất tư nghì là như thế.

 

QUYỂN HẠ

Phẩm 7: QUÁN NHÂN VẬT

Bấy giờ, Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi hỏi Trưởng giả Duy-ma-cật:

–Bồ-tát nhìn chúng sinh như thế nào?

Đáp:

–Như nhà ảo thuật nhìn sự việc ảo thuật, Bồ-tát nhìn chúng sinh cũng như vậy.

Như người có trí thấy trăng dưới nước, Bồ-tát nhìn chúng sinh cũng như vậy.

Như người thấy mặt mình trong gương, Bồ-tát nhìn chúng sinh cũng như vậy.

Nói tóm lại là như dợn nắng khi trời nóng, như tiếng vang của âm thanh, như mù trong hư không, như phần không của địa, thủy, hỏa, phong, như các hữu tình đồng như nhau, như hình tướng của không hình tướng, như bậc A-la-hán còn dứt trừ ba kết sử, như bậc Dự lưu còn chấp thấy tự thân, như sở hữu của Như Lai, như sự thấy của hình tượng, như không thân mà thấy thân của bậc đắc định diệt tận, như dấu chim bay trong không gian, như con của Thạch nữ, như cảnh mộng lúc thức giấc, như phiền não khi chưa sinh, như chân nhân còn phải tái sinh, Bồ-tát nhìn chúng sinh cũng như vậy.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Bồ-tát nhìn chúng sinh như vậy rồi làm sao thi hành đức từ?

Trưởng giả Duy-ma-cật đáp:

–Bồ-tát nhìn chúng sinh như huyễn như vậy nên biết được vạn pháp cũng như thế, nhưng vẫn giảng nói pháp cho chúng sinh là vì Bồtát dùng đức từ để tu chỉ. Tu chỉ mà dùng đức từ là vì không còn sự phát sinh nữa.

Bồ-tát thi hành đức từ không nhiễu loạn vì không còn tỳ vết.

Thi hành đức từ đồng đẳng, vì đồng với ba đường ác.

Thi hành đức từ không tranh cãi, vì không còn chỗ chấm dứt.

Thi hành đức từ không hai, vì trong ngoài không còn tập khí.

Thi hành đức từ không nóng giận, vì tất cả đều thành tựu.

Thi hành đức từ kiên cố, vì bền chắc như kim cang, không thể phá hủy.

Thi hành đức từ thanh bạch vì bên trong tự tánh đã thanh tịnh.

Thi hành đức từ bình đẳng, vì bình đẳng như hư không.

Thi hành đức từ của Như Lai, vì theo sự giác ngộ đã có.

Thi hành đức từ của Phật-đà vì thức tỉnh cho hàng phàm phu.

Thi hành đức từ tư nhiên vì để tự giác ngộ.

Thi hành đức từ Bồ-đề vì đồng đẳng một vị.

Thi hành đức từ không ai sánh bằng, vì đoạn tuyệt mọi thứ xấu ác.

Thi hành đức từ đại Bi vì dùng pháp Đại thừa để hướng dẫn.

Thi hành đức từ không ngắm nhìn, vì xem vạn vật như hư không.

Thi hành đức từ bố thí vì không hối tiếc gì cả.

Thi hành đức từ giữ giới, vì giúp mắt sáng cho người phá giới.

Thi hành đức từ nhẫn nhục vì hộ trì cho người và cho mình.

Thi hanh đức từ tinh tấn vì gánh vác, giáo hóa chúng sinh.

Thi hành đức từ nhất niệm vì tư duy điều đã suy nghĩ.

Thi hành đức từ trí tuệ vì để biết đúng thời gian.

Thi hành đức từ theo phương tiện quyền xảo vì biểu hiện nghe biết tất cả.

Thi hành đức từ không dua nịnh vì tâm ý trong sáng, không cầu cạnh.

Thi hành đức từ không tô điểm, vì tâm không còn đắm chấp.

Thi hành đức từ vô ngã, vì không còn ý ác.

Thi hành đức từ an vui để mong đạt đến giác ngộ.

Đức từ của Bồ-tát là thành lập an ổn lớn.

Đại sĩ Văn-thù hỏi:

–Đức bi là thế nào?

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Bồ-tát tạo lập công đức tu tập hoàn tất, chỉ vì mọi người.

Hỏi:

–Đức hỷ là thế nào?

Đáp:

–Bố thí cho mọi người không hối hận.

Hỏi:

–Đức xả là thế nào?

Đáp:

–Là làm lợi ích cho tất cả.

Hỏi:

–Sinh tử là đáng sợ, Bồ-tát lấy gì để chế ngự?

Đáp:

–Đối với sự sợ hãi về sinh tử thì Bồ-tát dùng ý chí của Đức Thế Tôn để chế ngự.

Hỏi:

–Muốn xây dựng đại pháp của bậc Thánh thì nên xây dựng như thế nào?

Đáp:

–Muốn xây dựng đại pháp của bậc Thánh thì phải đồng đẳng với tất cả để hóa độ chúng sinh.

Hỏi:

–Muốn độ thoát chúng sinh thì phải trừ cái gì?

Đáp:

–Muốn độ thoát chúng sinh thì phải trừ phiền não cho họ.

Hỏi:

–Muốn trừ phiền não cho họ thì phải đi theo cái gì?

Đáp:

–Đã trừ phiền não cho họ rồi thì nên ứng hợp với tự nhiên.

Hỏi:

–Thi hành những gì để ứng hợp với tự nhiên.

Đáp:

–Không sinh, không diệt là ứng hợp với tự nhiên.

Hỏi:

–Không sinh những gì, không diệt những gì?

Đáp:

–Bất thiện thì không sinh, thiện thì không diệt.

Hỏi:

–Thiện với bất thiện lấy gì làm gốc?

Đáp:

–Thiện với bất thiện lấy thân làm gốc.

Hỏi:

–Thân lấy gì làm gốc?

Đáp:

–Thân lấy tham dục làm gốc.

Hỏi:

–Tham dục lấy gì làm gốc?

Đáp:

–Tham dục lấy xen tạp không chân thật làm gốc.

Hỏi:

–Xen tạp không chân thật lấy gì làm gốc?

Đáp:

–Lấy không trú làm gốc.

Như vậy, thưa Nhân giả! Gốc của không trú thì không có chỗ làm gốc, từ gốc của không trú mà lập nên tất cả pháp.

Bấy giờ, trong phòng của Trưởng giả Duy-ma-cật nghe các bậc Thượng nhân nói chuyện, có một Thiên nữ liền hiện thân, đem hoa trời rải trên các Bồ-tát và đại đệ tử. Hoa đến các vị Bồ-tát thì theo ý mình, còn đến các vị đại đệ tử thì không rơi. Các vị đại đệ tử dùng thần lực phủi bỏ nhưng không phủi bỏ được.

Thiên nữ hỏi Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Tại sao các Hiền giả phải phủi bỏ hoa này?

Hiền giả Xá-lợi-phất đáp:

–Vì hoa ấy không đúng pháp nên phải phủi bỏ.

Thiên nữ thưa:

–Chẳng phải vậy. Hoa này đúng pháp, vì sao Hiền giả bảo là không đúng pháp? Chỉ do Hiền giả cho là không đúng nên thành không đúng pháp thôi. Xin Hiền giả hãy nhìn các vị Bồ-tát, hoa không dính nơi thân vì đã đoạn tuyệt tất cả chỗ đúng pháp hay không đúng pháp? Ví như người đàn ông khi sợ thì hàng phi nhân hại được. Đệ tử sợ sinh tử nên các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc hại được. Bậc lìa sợ hãi rồi thì năm dục không làm gì nổi. Tập quán kết sử chưa hết thì hoa dính vào thân. Tập quán kết sư hết rồi thì hoa không thể vướng mắc.

Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi:

–Thiên nữ ở trong phòng này đã bao lâu?

Thiên nữ thưa:

–Con ở trong phòng này lâu bằng thời gian Hiền giả giải thoát.

Hỏi:

–Ở lâu đến như vậy sao?

Đáp:

–Hiền giả giải thoát cũng lâu như vậy sao?

Hiền giả Xá-lợi-phất lặng thinh không trả lời.

Thiên nữ hỏi:

–Tại sao bậc Đại trí kỳ cựu mà lặng thinh?

Đáp:

–Vì chân giải thoát siêu việt mọi ngôn ngữ, văn tự nên tôi không biết nói thế nào.

Thiên nữ thưa:

–Nếu Hiền giả dựa vào ngôn ngữ văn từ để nói về giải thoát thì tất cả tướng trạng của ngôn ngữ văn tự cũng là giải thoát. Vì sao là giải thoát? Vì không trong, không ngoài, không hai bên để thủ đắc. Ngôn ngữ, văn tự cũng không trong, không ngoài, không hai bên để thủ đắc.

Do vậy, kính bạch Hiền giả! Xin đừng dùng văn tự để nói về giải thoát. Vì sao? Vì tất cả pháp đều từ đó mà đạt giai thoát.

Hỏi:

–Chứ không phải do không dâm nộ si mà giải thoát sao?

Thiên nữ đáp:

–Người rất kiêu mạn thì không cần nói như vậy để giải thoát.

Còn người không kiêu mạn thì bản thể của dâm nộ si là giải thoát.

Hiền giả Xá-lợi-phất khen:

–Lành thay! Lành thay! Thiên nữ đạt gì, chứng gì mà biện luận hay như vậy?

Thiên nữ thưa:

–Con không đắc, con không chứng, biện luận mới được như vậy. Vì nếu có đắc, có chứng thì đối với các pháp tự nhiên thành kẻ tăng thượng mạn.

Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi:

–Trong ba thừa, chí nguyện của Thiên nữ cầu thừa nào?

Thiên nữ thưa:

–Hành theo pháp đệ tử thì đi theo pháp đệ tử. Hành theo pháp Duyên giác thì mắt thấy được đạo. Cầu Đại thừa thì tự mình thực hành đại Bi. Như vào rừng chiên-đàn thì chỉ ngửi hương thơm của chiênđàn, không ngửi hương thơm gì khác. Cũng như vậy, kính bạch Hiền giả! Ở trong phòng hương thơm công đức của Phật thì không thích hương thơm của Thanh văn, Duyên giác. Nếu Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương, Thiên, Long, Quỷ thần được vào phòng này, nghe Chánh sĩ thuyết pháp thì ai cũng thích hương thơm mỹ đức của Phật, hoàn toàn không còn ưa thích hương thơm dục lạc.

Xưa, khi Bồ-tát phát tâm xuất gia, con ở trong phòng này mười hai năm, không nghe nói về pháp Thanh văn, Duyên giác, chỉ nghe về pháp Bồ-tát thù diệu là đại Từ, đại Bi và những sự chứa nhóm công đức bất khả tư nghì của pháp Phật.

Kính bạch Hiền giả Xá-lợi-phất! Phòng này thường có tám pháp tự nhiên chưa từng có, để biểu hiện giáo hóa. Tám pháp đó là:

Phòng này ngày cũng như đêm thường chiếu soi bằng ánh sáng màu hoàng kim, dùng trí tuệ để thấy Phật, không dùng ánh sáng của mặt trời, mặt trăng để vui chơi. Đó là sự chưa từng có thứ nhất.

Vào phòng này và ở trong đó thì không còn tất cả sự cấu uế của dâm nộ si. Đây là sự chưa từng có thứ hai.

Phòng này thường có Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương và các Bồ-tát ở cõi khác tới hội họp. Đó là sự chưa từng có thứ ba.

Phòng này thường nghe giảng thuyết, chỉ dẫn về sáu pháp Ba-lamật và các pháp bất thoái. Đó là sự chưa từng có thứ tư.

Phòng này thường tấu âm nhạc bậc nhất của chư Thiên, phát ra vô lượng âm thanh giáo pháp để giáo hóa. Đó là sự chưa từng có thứ năm.

Phòng này có bốn kho tàng lớn chứa đầy bảo vật, chu cấp cùng

khắp. Người nghèo thiếu cầu xin thì được vô tận. Đó là sự chưa từng có thứ sáu.

Phòng này có Đức Như Lai Thích-ca Văn, Đức A-súc, Đức Bảo Thủ, Đức Nhạo Hân, Đức Bảo Nguyệt, Đức Bảo Tịnh, Đức Vô Lượng, Đức Cố Thọ, Đức Sư Tử Hưởng, Đức Tuệ Tác Tư. Các Đức Như Lai ấy, nếu bậc Chánh sĩ này nghĩ tới, nói đến thì các vị liền hiện ra. Các Đức Như Lai hiện ra giảng nói về việc của Phật, tất cả đều vui thích. Đó là sự chưa từng có thứ bảy.

Phòng này thanh tịnh, thường hiện bày cung điện đẹp đẽ của chư Thiên và tịnh độ trang nghiêm của chư Phật. Đó là pháp tự nhiên chưa từng có thứ tám.

Như vậy, kính bạch Hiền giả! Phòng này thường thể hiện đúng tám sự chẳng thể nghĩ bàn như thế. Có ai nghe thấy được những sự chẳng thể nghĩ bàn như vậy mà lại bỏ để học pháp Thanh văn?

Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Thiên nữ:

–Vì sao Thiên nữ không chuyển thân nữ?

Thiên nữ thưa:

–Mười hai năm con đã dùng thân nữ, cầu tìm mà được. Như vậy, tướng nữ nhân cũng là huyễn ảo. Xét về thế gian cũng như vậy, thế mà Hiền giả còn hỏi con sao khong chuyển thân nữ.

Hiền giả Xá-lợi-phất nói:

–Quán các thân đều chẳng có.

Thiên nữ thưa:

–Thưa Hiền giả! Đúng như vậy! Tất cả các pháp cũng không có sự lập thành. Sao Hiền giả lại hỏi con không chuyển thân nữ?

Khi ấy, Thiên nữ liền dùng thần lực biến hóa, làm cho Hiền giả Xá-lợi-phất giống như Thiên nữ, còn Thiên nữ thì biến hóa thành như Hiền giả Xá-lợi-phất. Hóa hiện xong rồi, hỏi:

–Thế nào, thưa Hiền giả, vì sao lại chuyen làm thân nữ ấy?

Hiền giả Xá-lợi-phất, qua hình dáng Thiên nữ, nói:

–Tôi không biết chuyển cách nào mà thành ra thân nữ này.

Thiên nữ thưa:

–Kính thưa Hiền giả! Nếu có thể chuyển thân người nữ này thì tất cả người nữ cũng chuyển được. Nếu họ không phải là nữ thì ngay nơi thân nữ cũng không thấy là thân nữ. Các người nữ tuy là thân nữ, nhưng không phải là nữ, cũng không phải thấy biết là nữ. Lại, như Phật dạy: “Tất cả các pháp chẳng phải nữ, chẳng phải nam.” Khi ấy, thân Xá-lợi-phất trở lại như cũ.

Thiên nữ thưa:

–Kính thưa Hiền giả! Duyên nào làm ra tướng nữ ấy? Hiền giả Xá-lợi-phất nói:

–Tôi không làm ra, cũng không phải là không lam ra.

Thiên nữ thưa:

–Cũng như vậy, thưa Hiền giả! Các pháp không phải là làm ra, cũng không phải là không làm ra. Không phải làm, không phải không làm. Đó là lời Phật đã dạy.

Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Thiên nữ:

–Thiên nữ chết ở đây sẽ sinh đến đâu? Thiên nữ đáp:

–Phật hóa sinh ở đâu thì con sinh ở đó.

Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi:

–Như Phật hóa sinh thì không phải là chết và sinh.

Thiên nữ thưa:

–Chúng sinh cũng vậy, cũng không chết và sinh.

Hiền giả nói:

–Thiên nữ bao lâu nữa thì thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Thiên nữ thưa:

–Bao lâu tất cả hàng phàm phu chứng đắc pháp thì con mới chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Hỏi:

–Sao lại nói là bao lâu tất cả hàng phàm phu chứng đắc pháp?

Há có việc đó sao?

Thiên nữ đáp:

–Đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không có việc đó. Vì sao? Vì Phật không có sự thành lập, vậy nên không có sự thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Hiền giả Xá-lợi-phất nói:

–Hiện nay chư Phật đang đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và các vị đã đắc, sẽ đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như số cát sông Hằng, thì gọi đó là gì?

Thiên nữ đáp:

–Đây là dùng lời lẽ, chữ nghĩa mà nói chứ không phải là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác có quá khứ, vị lai, hiện tại. Ba đường… cũng như vậy. Kính bạch Hiền giả! Hiền giả đắc đạo như thế nào?

Hiền giả Xá-lợi-phất nói:

–Sự đắc ấy là không còn mê lầm.

Thiên nữ nói:

–Đúng như vậy! Thưa Hiền giả! Con thành Phật cũng đem cái chưa thành kia mà thành Chánh giác.

Lúc ấy, Trưởng giả Duy-ma-cật thưa với Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Vị Thiên nữ này đã phụng sự chín mươi hai ức Đức Phật, trí tuệ, thần thông đã hiểu rõ, chí nguyện đã đầy đủ, đã đắc pháp nhẫn, không còn thoái lui, bản nguyện và việc làm đúng như lời nói, tùy theo ý muốn có thể hóa hiện.

 

Phẩm 8: CHỦNG TÁNH CỦA NHƯ LAI

Bấy giờ, Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi hỏi:

–Tộc tánh tử! Thế nào là Bồ-tát đi đến mọi nơi chốn đều làm phát triển pháp Phật?

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Bồ-tát qua lại cùng khắp mọi nơi, có trí tuệ nên làm phát triển pháp Phật.

–Bồ-tát qua lại là thế nào?

–Nghĩa là Bồ-tát đến chỗ của năm tội vô gián nhưng lại hay làm khiến không tranh chấp, giận dữ.

Đến địa ngục nhưng lại hay làm khiến trừ sạch tối tăm, nhơ bẩn.

Đến súc sinh thì làm cho dứt trừ ngu muội và hay làm khien không kiêu ngạo.

Vào đường ngạ quỷ nhưng lại có thể khiến tất cả phước đức đều được đầy đủ.

Đến chỗ vô trí không bị đồng hóa, mà lại hay làm, khiến hiểu biết đạo.

Ở nơi giận dữ mà lại biểu hiện lòng nhân từ, không tổn hại chúng sinh.

Ở chỗ kiêu mạn là vì thị hiện làm cầu cống để độ mọi người đi qua.

Ở chỗ phiền não mà lại thị hiện hoàn toàn sạch sẽ.

Như ở đường ma thì thường làm cho quân ma hiểu biết về nguyên do.

Ở đường Thanh văn mà lại làm cho người chưa được nghe pháp, được nghe.

Ở đường Duyên giác mà lại hay thực hành đại Bi, an trụ một chỗ để giáo hóa mọi người.

Vào trong hạng nghèo hèn mà lại đem của cải nhiều vô số để bố thí.

Vào trong hạng tồi tàn mà lại đem tướng oai nghiêm để làm tôn nghiêm dòng họ.

Vào trong phái dị học thì làm cho tất cả thế gian đều nương theo.

Vào khắp hết thảy các đạo, thường vì tất cả để giải bày pháp chánh yếu.

Đạt đến đạo Niết-bàn, vượt khỏi sinh tử mà như chưa dứt hết.

Đó là Bồ-tát qua lại cùng khắp, đi vào các đạo để truyền bá pháp Phật.

Trưởng giả Duy-ma-cật lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Thưa Đại sĩ! Những gì là chủng tử của Như Lai?

Đáp:

–Thân thể hiện hữu là chủng tử, vô minh cùng khát ái là chủng tử, tham, sân, si là chủng tử, bốn điên đảo là chủng tử, năm triền cái là chủng tử, sáu nhập là chung tử, bảy thức trú là chủng tử, tám tà đạo là chủng tử, chín não là chủng tử, mười nghiệp ác là chủng tử. Đó là chủng tử của Như Lai.

Trưởng giả Duy-ma-cật hỏi:

–Đại sĩ nói như vậy là thế nào?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Không phải từ hư không vô tận mà phát sinh đạo ý của Chánh chân Vô thượng, mà phải từ trong bụi bặm phiền não của người chưa thấy chân đế, mới có thể phát sinh đạo ý của Chánh chân Vô thượng.

Này Tộc tánh tử! Ví như đất liền ở vùng cao thì không thể mọc lên hoa sen xanh, hoa phù dung, đỗ hoành… Nơi ruộng bùn lầy, thấp ướt mới mọc các loài hoa ấy. Như vậy, không thể từ hư không vô tận mà sinh ra pháp Phật, mà phải từ trong bụi bặm phiền não mới có chúng sinh để phát khởi tâm Bồ-đề. Do có tâm Bồ-đề thì mới sinh ra pháp Phật. Từ nơi sự thấy được thân mình chồng chất như núi Tu-di thì mới có thể thấy thân của tất cả chúng sinh, phát khởi tâm Bồ-đề nên mới sinh ra pháp Phật. Nương vào điểm chánh yếu như vậy thì có thể biết được tất cả ruộng phiền não là hạt giống của Như Lai.

Lại nữa, như người không vào biển lớn mà có thể lấy được ngọc báu dạ quang hay sao? Cũng vậy, không vào chốn bụi bặm phiền não thì làm sao có thể phát sinh Nhất thiết trí?

Hiền giả Đại Ca-diếp khen:

–Lành thay! Lành thay! Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đại sĩ nói lời ấy thật thú vị. Đúng như ý của Đại sĩ, ruộng phiền não là hạt giống của Như Lai. Đâu phải chỉ những người thân kiến mới có thể phát đạo ý Chánh chân Vô thượng. Tuy kẻ phàm phu tạo đủ năm tội vô gián nhưng cũng có thể phát tâm Bồ-đề vô thượng và đầy đủ pháp Phật.

Đắc A-la-hán là bậc Ứng chân, thì không còn phát khởi tâm Bồđề để đạt đầy đủ pháp Phật nữa. Như kẻ các căn bại liệt thì không còn được lợi ích gì đối với năm dục lạc.

Như vậy, đệ tử đã đoạn kết sử thì đối với pháp Phật không lợi, không lạc, không còn chí nguyện gì nữa. Do vậy, phàm phu đối với pháp Phật có sự nối tiếp. Như đệ tử thì không có. Vì sao? Vì phàm phu nghe pháp Phật thì hay phát đại Bồ-đề, khiến Tam bảo không bị dứt mất. Còn hàng đệ tử trọn đời được nghe pháp Phật như Lực, Vô sở úy… mà lại không thể phát tâm đại Bồ-đề.

Bây giờ, trong chúng hội có một vị Bồ-tát đang ngồi, hiệu là Chúng Tượng Kiến, hỏi Trưởng giả Duy-ma-cật:

–Thưa cư sĩ! Ai là cha mẹ, vợ con, người giúp việc, kẻ làm thuê, thân thích, quen biết, tôi tớ của cư sĩ? Đâu là nô tỳ, gia nhân, voi, ngựa, xe cộ của cư sĩ?

Khi ấy, Trưởng giả Duy-ma-cật trả lời Bồ-tát Chúng Tượng Kiến bằng kệ:

Trí độ, mẹ Bồ-tát
Phương tiện quyền là cha
Bồ-tát do đấy sinh
Được thấy tất cả Phật.
Pháp lạc thì là cha
Từ bi là con cái
Chân thật để sống vui
Ở thì nhớ nghĩa không.
Biết rõ các phiền não
Sinh ra theo sở thích
Đạo Vô thượng là bạn
Giác ý không chấp trước.
Dũng mãnh làm kết quả
Sáu độ, bạn đồng hành
Bốn ân là kỹ nữ
Ưa ca ngợi đạo đức.
Tổng trì là hoa viên
Hoa giác đẹp tuyệt vời
Chắc chắn đạt tri kiến
Cây pháp lớn: núi rừng.
Tám giải thoát: ao hồ
Nước định trong và đầy
Như rải các hoa tịnh
Tắm rửa không nhơ bẩn.
Năm thông là xe cộ
Đại thừa khó vượt hơn
Điều khiển: tâm Bồ-đề
Dạo đi đường tám chánh.
Tướng đầy đủ dung quang
Trang sức bằng vẻ đẹp
Hổ thẹn làm hành động
Không nghi làm vòng hoa.
Bảy Thánh tài dồi dào
Người xin ban cho pháp
Được quả báo rộng lớn
Truyền bá đạo cùng khắp.
Giữ như đạt pháp thiền
Đạo thanh tịnh giải thoát
Do vậy nương theo Phật
Chí vững không lay động.
Ăn cơm pháp cam lộ
Uống nước vị giải thoát
Thanh tịnh không nghi, mạn
Giới phẩm làm hương xoa.
Nơi chúng bụi bặm kia
Dũng manh không ai hơn
Thâu phục hết thảy ma
Hướng dẫn đến đạo tràng.
Sinh ra ở chỗ nào
Không còn gốc si mê
Ở cùng khắp mọi nơi
Giúp đỡ, độ chúng sinh.
Cúng dường muôn ức Phật
Hiến cúng khắp ba cõi
Vô ngã tức là Phật
Dưỡng dục khắp muôn loài.
Sửa sang tịnh độ Phật
Giáo hóa mọi quần sinh
Do vậy được lợi ích
Người người thực hành theo.
Hết thảy nơi các loại
Âm thanh và thần biến
Một lúc hiện đủ cả
Bồ-tát ưa tinh tấn.
Tà hạnh tùy thuận hiện
Theo dục dẫn dắt đến
Phương tiện Ba-la-mật
Chỉ dạy các phép tắc.
Nên bày lời lẽ hay
Hoặc hiện thân già, chết
Chỉ dạy cho chúng sinh
Hãy lìa xa pháp huyễn.
Lửa đốt hết hiện kiếp
Sinh lại nơi đại địa
Chúng sinh tưởng thường còn
Chỉ cho biết vô thường.
Giả sử ngàn vạn ức
Từ một làng đi ra
Đều trở về nhà trống
Bố thí để làm đạo.
Như nói lời thần chú
Chúng sinh gặp hiểm nguy
Đều đến để cứu họ
Bồ-tát không sợ hãi.
Các đạo giáo thế gian
Theo về để tu học
Chẳng học theo tà kiến
Nhân đó dạy người mê.
Hoặc làm nhật nguyệt thiên
Hoặc làm Phạm trung tôn
Lấy đức làm chủ đất
Làm thần gió cũng vậy.
Trong kiếp có tật bệnh
Thị hiện các dược liệu
Cứu giúp cho an ổn
Trừ bệnh, hết mọi độc.
Trong kiếp bị đói khát
Thì thí cho ăn uống
Đói khát cứu trước tiên
Sau nói cho pháp diệu.
Trong kiếp có giặc giã
Thì khởi lên tâm Từ
Dạy cho đừng tranh chấp
Dân chúng được cứu tế.
Nếu ở trong chinh chiến
Thì được chúng hùng dũng
Giúp cho được hòa bình
Bồ-tát oai lực mạnh.
Đến chốn có ngục hình
Mà cõi Phật không có
Thì đi ngay tới đấy
Cứu vớt mọi khổ não.
Những nơi đến giáo hóa
Năm đường đều rực sáng
Hiện đến các chốn ấy
Là nơi Bồ-tát sinh.
Hiện khát khao dục lạc
Nhưng bỏ để tu thiền
Luôn ngăn chặn ma vương
Chẳng biết được manh mối.
Trong lửa sinh hoa sen
Mới đáng gọi hy hữu
Đuốc lớn không sánh bằng
Nơi dục là như vậy.
Dân chúng tụ hội đông
Thì phát triển nông vụ
Hướng dẫn không tham dục
Dùng trí Phật lập nên.
Cầu làm tướng thế gian
Tôn trưởng hoặc thầy vua
Giúp trên, cưu mang dưới
Để lê dân an ổn.
Giúp cho người cùng khốn
Rất nhiều các của cải
Nhân làm việc bố thí
Khuyên phát tâm đạo đức.
Với những kẻ kiêu mạn
Thì hiện làm lực sĩ
Trừ khử sư cao ngạo
Khiến trụ đạo Vô thượng.
Thấy người gặp sợ hãi
Đến trước để an ủi
Giúp cho không còn sợ
Mới chỉ dạy chân đạo.
Làm tiên nhân năm thông
Tu tập các phạm hạnh
Giữa chúng giữ tịnh giới
Nhẫn nhục và Từ bi.
Để nuôi kính muôn dân
Nhận biết ưa tinh tấn
Thị hiện làm tôi tớ
Dạy cho lập đức tin.
Theo phương tiện tùy nghi
Khiến người được pháp lạc
Hiện bày Nhất thiết trí
Học sâu phương tiện quyền.
Hành động không ngăn ngại
Du hóa khắp mọi nơi
Tập hợp vô biên tuệ
Thuyết pháp nhiều vô lượng.

 

Phẩm 9: NHẬP VÀO BẤT NHỊ

Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật thưa với các Bồ-tát:

–Thưa các Chánh sĩ! Bồ-tát ưa thích nhập vào pháp môn không hai (Bất nhị) như thế nào?

Trong đại hội có Bồ-tát hiệu là Pháp Tác, nói:

–Này Tộc tánh tử! Khởi phân là hai, không khởi không sinh thì không có hai. Được pháp Nhẫn không khởi là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Thủ Bế nói:

–Ngã với ngã sở là hai, như không có hai, không đồng với hình tượng thì không có ngã và ngã sở. Vì không có ngã, ngã sở thì không có chỗ đồng với hình tượng. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Bất Tuân nói:

–Có với thọ là hai. Như không có sự thọ nhận thì không thủ đắc. Vì không thủ đắc nên không tạo tác. Do không tạo tác, không theo đuổi. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Thủ Lập nói:

–Lao nhọc và sự sống là hai, vì lao nhọc là sự sống. Chẳng biết, chẳng vui, để vượt qua các hiểu biết, để thọ nhận nơi cõi Sắc, Dục. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Thiện Túc nói:

–Suy nghĩ với biết là hai, nên đem không suy nghĩ, không biết đối với các pháp nghĩ làm, thực hành không nghĩ và không làm. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Thiện Đa nói:

–Tâm Bồ-tát với tâm đệ tử là hai. Như ta đem những ý ấy để tiếp xúc thì không tâm Bồ-tát, không tâm đệ tử, cùng với không, tâm đồng một tướng. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Thiện Nhãn nói:

–Một tướng với không tướng là hai. Nếu hoàn toàn không nhìn, không nhìn kỹ, không nhìn sơ qua thì không tạo nên tướng hoàn chỉnh, cũng không tạo nên tướng tạm thời. Ngay nơi nhìn, không nhìn và nhìn bình đẳng. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Phụng Dưỡng nói:

–Thiện với bất thiện là hai. Ngay nơi thiện, bất thiện nhưng không lệ thuộc gọi là vô tưởng. Dùng vô tưởng lập nên nhưng không phải là hai, ở ngay nơi đó mà không vượt qua. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Sư Tử Ý nói:

–Tất ca và không thọ là hai. Nên như kim cang không giác tri, không ngu si, không tỏ ngộ. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Dũng Ý nói:

–Hữu lậu với vô lậu là hai, nhưng đắc chánh pháp thì tâm ý bình đẳng. Đắc bình đẳng rồi thì hoàn toàn không còn ý tưởng hữu lậu, vô lậu, cũng không dùng vô tưởng để thủ đắc, không trụ nơi tưởng, thọ.

Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Tịnh Giải nói:

–Có số và vô số là hai, nhưng nếu lìa tất cả số thì đạo cùng với hư không đồng nhau. Tâm ý hoàn toàn giải thoát thì không vướng mắc. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Nhân Thừa nói:

–Thế gian với Thế Tôn là hai. Nếu ý thế gian là không, ngay trong đó không xả, không niệm, không nương vào Thế Tôn. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Mục Kiến nói:

–Tận với bất tận là hai. Tận là hoàn toàn tận, hoàn toàn tận là bất tận, như vậy gọi là không tận, không chỗ tận, cho nen gọi là tận.

Nói tận là không có tận. Nhập như vậy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Phổ Bế nói:

–Ngã với vô ngã là hai, như không thủ đắc ngã thì làm sao thủ đắc vô ngã? Ngay nơi ngã tự nhiên không có tác giả. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Minh Thiên nói:

–Minh với không minh là hai. Không minh có nhiều cho nên có minh. Như vậy không dụng, không tính toán để mà tính toán. Ngay trong ấy được bình đẳng, không dùng cả hai để chứng đắc pháp yếu.

Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Ái Cận nói:

–Thế gian không với tạo tác là hai. Sắc là không, không phải sắc diệt mới không, mà là tánh của sắc là không. Như vậy thọ, tưởng, hành, thưc với không, là hai. Thức là không, không phải thức diệt mới không, mà là tánh của thức là không. Vị kia đối với năm ấm biết rõ tánh của nó. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Quang Tạo nói:

–Không của bốn đại chủng và đại chủng là hai. Không của đại chủng tự nhiên, bốn đại cũng như vậy. Gốc của không tự nhiên, ngọn của không tự nhiên, biết rõ về chủng này. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Thiện Ý nói:

–Nhãn với sắc là hai. Biết nhãn thì thấy sắc không nhiễm, không giận, không si, gọi đấy là thanh tịnh. Như vậy, nhĩ với thanh, tỷ với hương, thiệt với vị, thân với xúc, ý với pháp là hai. Người biết tâm thì đối với pháp không nhiễm, không giận, không si, như vậy là thanh tịnh. Trụ như vậy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Vô Tận Ý nói:

–Bố thí với Nhất thiết trí là hai, nhưng bố thí tự nhiên, Nhất thiết trí cũng như vậy. Nhất thiết trí tự nhiên, bố thí cũng như vậy. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, Nhất thiết trí là hai. Trí tuệ tự nhiên, Nhất thiết trí cũng vậy. Nhất thiết trí tự nhiên, trí tuệ cũng vậy.

Nhập vào sự đồng nhất đó, ấy là vào phap môn không hai.

Bồ-tát Thâm Diệu nói:

–Không, Vô tướng, Vô nguyện là hai. Như không thì vô tướng, vô tướng thì vô nguyện, nhưng vô nguyện thì không có tâm, không ý, không thức, không hành động, theo một hướng thực hành các môn giải thoát. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Tịch Căn nói:

–Phật, Pháp, Tăng là hai. Phật tánh là Pháp, pháp tánh là Tăng. Tất cả là Tam bảo không có phân loại. Không phân loại thì chân chất. Chân chất thì đúng với các pháp. Thuận hành như vậy, ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Bất Hủy Căn nói:

–Thân với thân diệt là hai. Có thân thì có diệt. Tại sao từ thân sinh ra thấy? Từ thấy có thân cho nên có thân là có hủy diệt lẫn nhau. Vị ấy không còn những phiền não tự nhiên như diệt, nhưng không mê không hoặc. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Thiện Đoạn nói:

–Thân, khẩu, ý là hai. Vì sao? Vì thân này là tướng vô vi. Như thân vô vi thì tướng của khẩu cũng vô vi. Như khẩu vô vi thì tướng của tâm cũng vô vi. Như tâm vô vi thì tất cả pháp cũng vô vi. Nó vốn không là hai là ba. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Phước Độ nói:

–Hành phước, chẳng hành phước cùng với chẳng biết hành là hai. Đối với hành phước, chẳng hành phước và chẳng biết hành như nhau, không có tạo tác thì đó là không hai. Đối với tội, phước không theo hiểu biết để hành động, mà đúng theo tướng tự nhiên, vì biết đó là không, không phải là phước, không phải là phi phước, cũng không phải là vô tri. Người hiểu rõ như vậy, ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Thủ Hoài nói:

–Duyên dựa với khen ngợi là hai. Nếu không duyên dựa thì không có sự bất thiện, cũng không phi thiện. Như không bất thiện, không phi thiện, ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Nguyệt Thạnh nói:

–Tối với sáng là hai. Không tối, không sáng thì không có hai. Tại sao? Vì như nhập định diệt tận thì không tối không sáng, theo như tướng nơi các pháp mà bình đẳng nhập vào. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói:

–Thích Niết-bàn với không ưa sinh tử là hai. Nhưng không thích Niết-bàn, không ghét sinh tử mới không có hai. Vì ở sinh tử ràng buộc mới cầu giải thoát. Nếu hoàn toàn không buộc thì ai cầu mở? Như không buộc không mở thì không ghét, không thích. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Tâm Châu Lập nói:

–Đường chính với đường tà là hai. Nhưng sống theo đường chính thì không ưa đường tà, cũng không học theo trần tục, không có tướng đường chính, không có tướng đường tà. Bậc Như Như Tưởng thì không cần hành đạo. Ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ-tát Thành Lạc Ngưỡng nói:

–Thành thật với không thành thật là hai. Nhưng người thấy thành thật còn không thấy thành thật thì làm sao có thể thấy hư ngụy. Tại sao? Vì đó không phải mắt thịt thấy được, phải dùng mắt tuệ mới thấy được. Người thấy như vậy, không thấy, cũng không phải không thấy. Ấy là vào pháp môn không hai.

Các vị Bồ-tát mỗi người đều nói như vậy rồi lại hỏi Đại sĩ Vănthù-sư-lợi:

–Thưa Đại sĩ! Thế nào là Bồ-tát nhập vào pháp môn không hai?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Như các Bồ-tát đã nói đều là những hạnh rất sâu xa. Nhưng theo tôi thì đối với tất cả pháp không chấp giữ, không vượt qua, không đắc, không tư duy, không biết, không thấy, không nghe. Ấy là vào pháp môn không hai.

Lúc ấy, Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi lại hỏi Trưởng giả Duy-ma-cật:

–Chúng tôi, mỗi người đều nói về kiến giải của mình rồi. Vậy theo Nhân giả thì thế nào là vào pháp môn không hai?

Trưởng giả Duy-ma-cật im lặng không nói.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi tán thán:

–Lành thay! Lành thay! Cho đến không có văn tự ngôn ngữ mới thật là vào pháp môn không hai.

Khi nêu giảng pháp môn này, trong chúng hội có năm ngàn Bồtát đạt được nhập vào pháp môn ấy cùng chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh.

 

Phẩm 10: PHẬT HƯƠNG TÍCH

Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất suy nghĩ: “Sắp quá giờ ngọ, các đại nhân này sẽ thọ thực ở đâu?”

Trưởng giả Duy-ma-cật biết ý nghĩ ấy, nên thưa:

–Kính thưa Hiền giả! Như Đức Như Lai dạy về tám hạnh giải thoát, vậy có thể chen sự ăn uống vào công việc nghe pháp chăng?

Tuy nhiên, cần nghe pháp thì nên ăn trước.

Lúc này, Trưởng giả Duy-ma-cật liền nhập định chánh thọ Tammuội Như kỳ tượng, thị hiện thế giới ở phương trên, cách quốc độ này bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Chúng hương, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Hương Tích Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Tất cả đệ tử và Bồ-tát ở đây đều thấy cõi nước đó, hương thơm tỏa khắp chư Thiên, muôn dân nơi cõi Phật trong mười phương. Hương thơm của thế giới ấy là bậc nhất so với hương thơm của các Phật độ. Thế giới đó không có tên Thanh văn, Duyên giác. Đức Như Lai kia cũng chẳng thuyết pháp cho Bồ-tát. Thế giới này toàn dùng hương thơm làm lầu đài, kinh hành trên đất thơm, vườn hoa toàn là hương thơm. Bồ-tát muốn thọ thực thì dùng toàn các hương thơm. Hương thơm của thế giới này tỏa khắp vô lượng thế giới.

Khi ấy, Đức Phật với các chúng Bồ-tát cùng ngồi thọ thực. Có Thiên tử học Đại thừa tên Hương Tịnh đứng hầu. Tất cả đại chúng ở đây đều thấy Như Lai Hương Tích cùng với các Bồ-tát ngồi thọ thực.

Đại sĩ Duy-ma-cật hỏi chúng Bồ-tát:

–Các tộc tánh tử! Ai có thể đến xin cơm của Phật Hương Tích?

Tất cả đều nói không thể. Liền hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Trong chúng này của Đại sĩ chưa hiểu hết sự việc sao?

Đáp:

–Như Phật đã dạy: Chưa hiểu thì sẽ học.

Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật không rời chỗ ngồi mà hóa làm một vị Bồ-tát ở trước chúng hội, có ánh sáng rực rỡ và bảo vị hóa Bồtát đó:

–Ông đi từ quốc độ của cõi Phật này, vượt qua bốn mươi hai hằng hà sa thế giới, đến thế giới Chúng hương, chỗ Đức Phật Hương Tích. Đến nơi, chắc chắn sẽ thấy Đức Phật đang thọ thực, thì đảnh lễ nơi chân Phật và tác bạch đúng như lời của ta: “Trưởng giả Duy-macật kính thưa: Xin được phần thực phẩm thừa của Đức Thế Tôn, vì muốn đem về làm việc Phật ở thế giới Nhẫn (Ta-bà), giúp cho những người biếng trễ ở đây được tâm ý rộng lớn, cũng để làm cho danh tiếng của Như Lai được nghe khắp.”

Trước chúng hội, vị hóa Bồ-tát liền vọt lên phương trên, bỗng nhiên biến mất. Cả chúng hội đều nhìn thấy. Hóa Bồ-tát lên đến thế giới Chúng hương, kính lạy nơi chân Đức Phật Hương Tích và thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Bồ-tát Duy-ma-cật kính lạy dưới chân Thế

Tôn, cung kính thưa hỏi Đức Vô Lượng đứng ngồi có nhẹ nhàng, đi lại có vững vàng, ít bệnh, ít phiền não, khí lực an vui chăng? Và kính xin được phần thực phẩm thừa của Đức Thế Tôn để về lam việc Phật nơi thế giới Ta-bà, giúp cho những người biếng lười được tâm ý rộng lớn và cũng làm cho danh tiếng của Như Lai được nghe cùng khắp.

Các vị Bồ-tát ở thế giới Chúng hương đều ngạc nhiên, hỏi:

–Người này từ đâu đến đây? Những thế giới nào có những người biếng nhác?

Liền hỏi Đức Phật. Phật Hương Tích đáp:

–Phương dưới, cách đây trải qua bốn mươi hai hằng hà sa thế giới, có thế giới tên là Nhẫn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, nơi cõi đủ năm thứ uế trược, giảng dạy chánh pháp cho những người biếng nhác yếu kém. Thế giới ấy có vị Bồ-tát tên Duy-ma-cật đang thuyết pháp cho các vị Bồ-tát, nay sai hóa thân đến tán dương danh hiệu ta.

Bồ-tát ở thế giới Chúng hương thưa:

–Vị ấy làm sao mà biến hóa được như thế? Công đức, năng lực, thần thông và vô úy đến như vậy?

Đức Phật Hương Tích nói:

–Rất lơn! Tất cả thế giới ở đâu, vị ấy đều sai hóa thân đến đó để làm Phật sự, để dắt dẫn mọi người.

Bấy giờ, Như Lai Hương Tích lấy bát cơm đầy với tất cả hương thơm đưa cho hóa Bồ-tát. Chín vạn Bồ-tát ở thế giới Chúng hương đều nói:

–Chúng con muốn đến thế giới Nhẫn để diện kiến Đức Thích-ca Văn.

Đức Phật Hương Tích bảo:

–Tộc tánh tử! Nên đi tới cõi ấy. Nhưng phải thu hương thơm nơi thân để đi vào thế giới kia, đừng khiến người ở thế giới Nhẫn sinh tâm phóng dật. Hãy đem sự ưa thích của các người đi theo. Đừng nghĩ Bồtát ở cõi nước ấy không bằng mình. Không được đối với cõi ấy sinh tâm thoái lui mà tạo chướng ngại cho tư tưởng. Vì sao? Vì Phật độ vốn rỗng lặng. Chư Phật Thế Tôn muốn độ người nên hiện ra quốc độ như vậy.

Hóa Bồ-tát nhận cơm rồi cùng với các đại nhân nương vào Thánh chỉ của Phật Hương Tích và nơi hóa thân của Trưởng giả Duyma-cật, bỗng chốc từ thế giới Chúng hương đã đến nhà Trưởng giả Duy-ma-cật. Trưởng giả Duy-ma-cật liền biến hóa làm thành chín vạn tòa Sư tử đẹp đẽ đặt ở trước. Các Bồ-tát của thế giới Chúng hương đều an tọa. Vị hóa Bồ-tát dâng bát cơm thơm đầy lên Phật và Trưởng giả Duy-ma-cật, hương thơm của cơm tỏa khắp cả thành Duy-da-ly và tam thiên đại thiên thế giới.

Bấy giờ, trong thành Duy-da-ly, các Phạm chí, cư sĩ, Hiền giả Nguyệt Cái… nghe hương thơm ấy đều đắc pháp tự nhiên chưa từng có, thân và tâm đều vui thích. Tám vạn bốn ngàn người cùng vào phòng Trưởng giả Duy-ma-cật, thấy trong phòng có rất nhiều Bồ-tát, lại thấy các tòa Sư tử cao lớn đẹp đẽ. Thấy vậy, ai cũng rất hoan hỷ, lạy các Đại Bồ-tát, các đại đệ tử rồi lui ra đứng qua một bên. Các vị địa thần, chư Thiên nơi cõi Dục, cõi Sắc đều đến phòng của Trưởng giả Duy-ma.

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa với Hiền giả Xá-lợi-phất và các đại đệ tử:

–Thưa quý Hiền giả! Các vị có thể thọ thực cơm của Như Lai Hương Tích, chỉ có mùi đại Bi vô hạn lượng để hộ trì tâm ý.

Có vị Thanh văn nghĩ: “Cơm này ít mà đại chúng này ai ai cũng sẽ thọ thực.”

Hóa Bồ-tát thưa:

–Bốn biển có thể cạn, nhưng cơm này không hết. Giả sử mỗi người ăn mỗi vắt cơm như núi Tu-di thì cũng không thể hết. Tại sao? Vì giới cho đến định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến là vô tận, nên cơm của Như Lai là không thể hết.

Bấy giờ cơm trong bát ấy làm no đủ tất cả chúng trong đại hội mà vẫn không hết. Các Bồ-tát, đệ tử, chư Thiên và loài người, ai ăn cơm ấy rồi thân cũng nhẹ nhàng, an ổn, giống như tất cả các Bồ-tát ở cõi nước An dưỡng. Được hương thơm ấy xông thì nơi các lỗ chân lông được an ổn. Cũng như quốc độ Chúng hương, hương thơm làm mất tám nạn.

Lúc ấy, Trưởng giả Duy-ma-cật hỏi các Bồ-tát Chúng hương:

–Các Tộc tánh tử! Như Lai Hương Tích thuyết pháp thế nào?

Các Bồ-tát ấy thưa:

–Đức Như Lai của quốc độ chúng tôi không nói bằng văn tự, chỉ dùng hương thơm làm cho các Bồ-tát tự đi vào pháp. Các Bồ-tát ấy đều ngồi bên gốc cây hương thơm, được hương thơm lan tỏa bình đẳng tất cả, đều được đắc định Nhất thiết hương đức. Đã gắng thọ nhận đạt được định rồi thì Bồ-tát đối với tất cả hành không còn lệ thuộc, vướng mắc.

Các Bồ-tát Chúng hương hỏi Trưởng giả Duy-ma-cật:

–Đức Thế Tôn Thích-ca Văn đang thuyết giảng pháp gì?

Trưởng giả Duy-ma-cật nói:

–Quốc độ này chúng sinh cứng cỏi, khó hóa độ, nên Đức Phật ở đây phải dùng lời nghiêm khắc để giảng thuyết. Rằng: Đây là địa ngục, đây là đường súc sinh, ngạ quỷ. Đây là quả báo do hành động ác của thân, miệng, ý, cho đến rất nhiều hạnh xấu xa bất thiện, nên vì họ giảng thuyết vô số pháp chính yếu để thuần hóa tâm ý thô tháo của họ. Giống như voi, ngựa hung hăng không thuần thục thì phải trói buộc, kiềm chế, cộng thêm đánh đập cho đau, sau đó mới thuần. Như vậy, những người cứng cỏi khó hóa độ nên phải dùng những lời khuyên dạy nghiêm khắc, khiến họ được nhập vào chánh pháp.

Các Bồ-tát Chúng hương nói:

–Thật là chưa từng có! Như Đức Thế Tôn Thích-ca Văn nơi thế giới Nhẫn đã dùng tâm ý lớn của bậc Thánh để giảng giải theo pháp của người nghèo kém, tham lam, các vị Bồ-tát cũng phải chịu nhiều khó nhọc nơi quốc độ đó. Thật là kỳ diệu!

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Đúng như các vị đã nói! Bồ-tát ở quốc độ này đối với đời năm thứ ô trược luôn đem tâm đại Bi để tạo lợi ích cho mọi người. Phần nhiều ở quốc độ kia phải thực hành trong trăm ngàn kiếp. Vì sao? Này các Tộc tánh tử! Vì ở thế giời Nhẫn có pháp mười đức thiện làm thanh tịnh mà các thế giới kia không có. Mười đức thiện ấy là:

  1. Đem bố thí giúp đỡ nghèo khó.
  2. Đem kính giới để giáo hóa sự vô lễ.
  3. Đem nhẫn nhục giáo hóa hung bạo.
  4. Đem tinh tấn giáo hóa biếng nhác.
  5. Đem thiền định giáo hóa loạn ý.
  6. Đem trí tuệ giáo hóa trí ác.
  7. Đem sám hối vượt qua tám nạn.
  8. Đem Đại thừa phổ biến khắp nơi.
  9. Đem việc vun trồng công đức để giúp đỡ người không có đức.
  10. Đem tụ họp độ mọi người.

Đó là mười công đức nên phát tâm nhận lấy thế giới ấy.

Các vị Bồ-tát Chúng hương nói:

–Bồ-tát dùng bao nhiêu pháp hành không sai trái để đi từ thế giới Nhẫn này đến Phật độ kia?

Trưởng giả Duy-ma-cật đáp:

–Có tám pháp hành không thương tổn nên Bồ-tát đi từ thế giới Nhẫn này đến cõi Phật kia.

Tám pháp ấy là:

Vì chúng sinh đặt ra sự hổ thẹn, lánh xa loạn động.

Vì tất cả mọi người nên chịu khổ, nhẫn nhịn sự gây hấn.

Làm các phước thiện để cứu giúp chúng sinh.

Thương kính các chúng sinh khác, không chia rẽ.

Kinh pháp Bồ-tát này chưa nghe thì tùy ý nghe, không hoài nghi.

Không ganh ghét đối với sự việc được hiến cúng của người khác. Không mưu cầu lợi ích cho bản thân.

Thường xem xét lỗi mình, không nêu dẫn khuyết điểm của người. Thường xuyên tra cứu để học hỏi các kinh.

Đó là tám pháp.

Ngay khi Trưởng giả Duy-ma-cật và Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi nói pháp cho đại hội thì có trăm ngàn trời, người phát tâm Bồ-đề vô thượng, mười ngàn Bồ-tát được pháp Nhẫn vô sinh.

 

Phẩm 11: VIỆC LÀM CỦA BỒ-TÁT

Khi ấy, Đức Phật thuyết pháp trong vườn Nại Thị thì vườn này

bỗng nhiên rộng ra, đẹp lên. Toàn thể chúng hội đều thấy sắc vàng ròng.

Hiền giả A-nan thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao có hiện tượng tốt đẹp ấy? Là vườn này bỗng nhiên rộng ra và đẹp lên, toàn thể chúng hội đều thấy sắc vàng ròng?

Phật bảo Hiền giả A-nan:

–Ấy là do Trưởng giả Duy-ma-cật và Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi cùng đại chúng muốn đến đây, nên trước hết hiện ra điềm lành như vậy.

Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật thưa với Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi:

–Con muốn đi đến yết kiến Như Lai. Các Bồ-tát này có thể cùng đến yết kiến Phật, đảnh lễ, hầu hạ, cúng dường.

Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi nói:

–Tốt lắm! Hãy đi đi. Nên biết, bây giờ là đúng lúc.

Trưởng giả Duy-ma-cật liền nhập định, vận dụng thần túc làm cho toàn thể đại chúng trong pháp hội cùng với các tòa Sư tử đều đứng trong lòng bàn tay phải của trưởng giả, cùng đi đến chỗ Phật. Đến nơi, các vị Bồ-tát đều rời tòa, bước xuống, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi lui ra đứng qua một phía. Các vị Thanh văn, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương cũng cúi đầu lạy sát chân Phật rồi đứng về một phía.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thăm hỏi các Bồ-tát rồi bảo ngồi lại chỗ của mình. Tất cả đều vâng lời.

Chúng hội ngồi yên xong, Đức Phật bao Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Ông đã thấy việc làm của Bồ-tát Đại sĩ chưa?

Hiền giả Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.

Phật nói:

–Dùng những tướng nào để biết được sự di chuyển đó?

Hiền giả Xá-lợi-phất thưa:

–Sự di chuyển đó không thể nghĩ biết, ý không nghĩ tới, trí không lường nổi. Con thấy thật là không thể nghĩ bàn.

Hiền giả A-nan thưa Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Hương thơm con nghe hôm nay, trước đây

chưa từng có. Đây là hương thơm gì?

Phật nói:

–Đó là hương thơm xuất ra từ những lỗ chân lông nơi thân của các vị Bồ-tát.

Hiền giả Xá-lợi-phất nói với Hiền giả A-nan:

–Tất cả lỗ chân lông của chúng ta cũng được hương thơm này.

Hiền giả A-nan nói:

–Hương thơm ấy từ đâu ra?

Đáp:

–Hương thơm này là từ cơm do Trưởng giả Duy-ma-cật xin của Phật Hương Tích, nên tất cả lỗ chân lông của mọi người nơi phòng ăn đều thơm như vậy.

Hiền giả A-nan hỏi:

–Hương thơm này tồn tại bao lâu?

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Tồn tại đến khi cơm này tiêu hết.

Hỏi:

–Cơm này bao lâu mới tiêu?

Đáp:

–Cơm này tồn tại đến bảy ngày đêm mới tiêu, nhưng tùy theo lời nói, nếu đệ tử ăn cơm này mà không đắc đạo thì không tiêu. Nếu ăn cơm này mà dừng nửa chừng thì không tiêu. Người mới hành đại đạo, ăn cơm này mà không chứng đắc pháp nhẫn cũng không tiêu. Nếu chứng đắc pháp nhẫn, ăn cơm này đạt đến Nhất sinh bổ xứ thì mới tiêu.

Này Hiền giả A-nan! Giống như thuốc A-hôn-đà, mùi thơm của nó cũng lan khắp một nhà, tạo ra hương thơm ngọt ngào, làm cho tiêu tan các hơi của thuốc độc. Cơm này cũng vậy, chưa nở ra hạt liền tiêu, cho đến các độc hại, tất cả trừ hết, hương thơm của cơm này mới tiêu.

Hiền giả A-nan thưa:

–Cõi Phật đó vì Phật sự mà làm ra cơm như vậy hay sao?

Phật nói:

–Đúng như vậy! Đúng như vậy! Này Hiền giả A-nan! Có cõi Phật lấy ánh sáng để làm Phật sự. Có cõi Phật lấy Bồ-tát để làm Phật sự. Có cõi Phật lấy sắc tướng, danh hiệu của Như Lai để làm Phật sự. Có cõi Phật lấy y phục, thức ăn, vườn hoa, lầu đài để làm Phật sự. Có cõi Phật lấy chỗ thị hiện thần thông biến hóa để làm Phật sự. Có cõi Phật lấy sự rỗng lặng mênh mông để làm Phật sự, khiến cho Đại sĩ được nhập vào giáo pháp. Có thế giới lấy hình ảnh chiêm bao, ảo thuật, tiếng vang, trăng dưới nước, dợn nắng, lời lẽ ví dụ để làm Phật sự. Có thế giới lấy sự trong sạch, không thân, không chứng đạt, không nói năng, không thủ đắc mà vì mọi người làm Phật sự.

Như vậy, này Hiền giả A-nan! Không chỉ riêng có nghĩa này và việc làm này, cũng không vì người làm việc Phật. Do bốn loại ma, với tám mươi bốn thứ phiền não mà trăm ngàn loại người bị khốn đốn, cho nên chư Phật vì chúng mà làm Phật sự.

Này Hiền giả A-nan! Đó gọi là pháp Phật. Tùy theo chỗ thực hành mà nhập được pháp môn. Bồ-tát nhập được pháp môn này, nếu đạt được tất cả cõi Phật rộng lớn, đẹp đẽ thì cũng không lấy đó làm vui mừng. Được cõi Phật không đẹp cũng không vì thế lánh xa, mà càng gần gũi và càng thêm cung kính Như Lai. Nhiệm mầu thay! Tất cả pháp của Phật lấy bình đẳng độ người, nhưng cõi Phật có khác nhau. Ví như có cõi Phật, đất có giới hạn mà đường đi vô hạn, sự che chở cũng không giới hạn.

Như vậy, này Hiền giả A-nan! Thân của các Như Lai với nhiều hình sắc, nhưng trí tuệ thì không hạn lượng.

Này Hiền giả A-nan! Sắc thân, uy đức, tướng hảo, dòng họ lớn, giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, lực vô úy và pháp Phật, Từ, Bi, Hỷ, Xả, tuổi thọ, thuyết pháp độ người, cho nên gọi là Đẳng Chánh Giác, là Như Lai, là Phật. Ba đức hiệu này nghĩa rất rộng. Ta dù sống lâu cả một kiếp cũng chưa nói ra được hết nghĩa nơi tam thiên đại thiên để biết tâm ý của chúng sinh. Bậc trí tuệ, đa văn, được Tổng trì về niệm, vì tất cả mọi người giảng nói về nghĩa của ba đức hiệu này cùng kiếp cũng chưa hết, vì đây là đức hiệu của Đẳng Chánh Giác, là Như Lai, là Phật. Cho nên, này Hiền giả A-nan! Phật đạo vô lượng, trí tuệ biện tài của Như Lai là không thể nghĩ bàn.

Hiền giả A-nan bạch Phật:

–Từ nay về sau con không dám tự cho mình là thượng trí, đa văn nữa.

Phật nói:

–Này A-nan! Ông đừng có nhàm chán như vậy. Vì sao? Vì trong hàng đệ tử, thầy là đa văn hơn hết, nhưng so sánh với các Bồ-tát thì chưa thấy bằng. Đại dương sâu thẳm còn có thể ước lượng được, còn trí tuệ, Tổng trì về định niệm, các thứ đạt được của Bồ-tát thì không thể lường nổi.

A-nan! Các ông hãy gác lại việc quán sat những việc làm của Bồ-tát, vì đây là do Trưởng giả Duy-ma-cật nhất thời thị hiện công đức thiện. Các hàng Thanh văn, Duyên giác, tất cả biến hóa trong trăm ngàn kiếp cũng không thể hiện được.

Lúc ấy, các vị Bồ-tát ở thế giới Chúng hương đến, chắp tay thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các danh hiệu của Như Lai, chúng con ghi nhớ không quên. Đối với cõi Phật này, hoàn toàn không dấy khởi tưởng chấp. Lại như phương tiện quyền xảo của chư Phật, Thế Tôn là không thể nghĩ bàn, vì độ người, tùy theo sự ưa thích mà thị hiện Phật độ trang nghiêm đẹp đẽ. Cúi xin Phật ban cho chúng con pháp của Phật để khi trở về quốc độ của mình, chúng con sẽ nhớ mãi Đức Như Lai.

Phật bảo các Bồ-tát:

–Có một pháp môn tên là Hết và Không hết. Các ông nên tu học.

–Hết là thế nào?

–Tức pháp môn đó là hữu vi.

–Không hết là thế nào?

–Tức pháp môn đó là vô vi.

Như Bồ-tát thì không hết hữu vi, không trụ vô vi. Lấy gì để đối với hữu vi mà không động? Nghĩa là không rời đại Từ, không bỏ đại Bi, tánh hòa vui không phóng dật. Thấy mọi người thì vui vẻ, phụng thờ Thánh chúng, bố thí thân mạng để lãnh thọ chánh pháp. Không nhàm chán trong việc gieo trồng pháp thiện, không trụ ở phần công đức. Học pháp không lười biếng, thuyết pháp không quên. Khuyên phụng thờ chư Phật. Sinh ra ở đâu cũng không sợ. Giàu có không kiêu mạn, không khinh người chưa học, không bị các cảnh làm cho cấu uế.

Thủ chân, hóa sinh, hoan hỷ, được thọ ký. Dùng lực để an cho mình, dùng vui vẻ để an cho người. Thiền định để nghĩ đến học hành, sống chết vì nghĩ đến phương tiện thiện xảo. Ai tới cầu xin thì tưởng như bạn hiền. Biết tất cả thì nghĩ đến đầy đủ. Có của cải thì nghĩ đến bố thí. Giới hoen ố thì nghĩ đến nương tựa, giữ gìn. Giận dữ thì nghĩ đến nhẫn nhục. Lười biếng thì nghĩ đến siêng năng. Loạn tâm thì nghĩ đến chánh niệm. Trí ác thì nghĩ đến trí tuệ. Đối với sáu Độ thì tưởng như cha mẹ. Đối với các pháp phẩm Trợ đạo thì tưởng như bà con. Thực hành các pháp thiện không nhàm chán. Đem đẹp đẽ của các cõi làm thành cõi Phật của mình. Sống chết vô số kiếp mà ý chí vẫn dũng mãnh. Nghe công đức vô lượng của Phật mà chí nguyện không mệt mỏi, làm chỗ nương về cho người lao nhọc, làm phước cho người bần cùng, nhận làm người dẫn đường cho mọi người, hiểu rõ ấm, nhập, thu phục quân ma, không phải mưu cầu mà vì pháp. Trí tuệ sâu rộng, ít mong cầu, biết đủ, hiểu rõ hết thảy thế gian mà không đắm nhiễm theo thế tục, được Hiền thánh trong đời giáo hóa. Hiện các nghi thức phát khởi thần thông. Nghe nhiều, học rộng, giữ gìn trí tuệ. Biết rõ nguồn gốc căn bản, loại bỏ hoài nghi cho mọi người. Vô ngại, vô trụ, đạt đến biện tài. Giáo hóa chư Thiên theo mười điều thiện thanh tịnh. Xây dựng phạm hạnh, hành bốn Vô lượng, đạt đến âm thanh như Phật, thuyết giảng các pháp của Phật, dẫn theo đường Phật bằng hành động thiện. Dứt trừ nghiệp của thân khẩu ý vì muốn tốt đẹp hơn hết. Ưa thích an trú nơi các kinh, đem giáo lý Đại thừa giáo hóa chúng Bồ-tát. Đức hạnh không giảm, pháp thiện không mất.

Như vậy, này các Tộc tánh tử! Do thích ứng với pháp ấy nên không hết hữu vi.

Bồ-tát không ở vô vi là thế nào? Nghĩa là cầu về không mà chẳng lấy không làm chứng đắc. Cầu về vô tướng, vô vi, vô nguyện mà không lấy vô tướng, vô vi, vô nguyện để chứng đắc. Quán sát sự vô thường mà không chán điều thiện. Quán sát sư đau khổ của thế gian để sinh thành tín. Quán sát vô ngã mà chỉ dạy cho người không mệt mỏi. Quán sát sự dứt bặt của pháp tịch nhiên mà không chuyển vận. Quán sát sự thoái chuyển mà thân tâm không thuận theo. Quán sát không nơi chốn mà trụ nơi sinh tử để đoạn dứt các lậu, hoặc. Quán sát sự không làm mà làm các việc dẫn dắt người. Quán sát về vô ngã mà dùng xe đại Bi để cứu giúp. Quán sát sự vô sinh mà không theo Thanh văn, Duyen giác. Quán sát các pháp phóng dật mà không bỏ phước đức. Quán sát các pháp hư giả mà bền vững đối với chánh trí. Quán sát nói năng mà không nhàm chán trí tuệ. Quán sát không thân sơ, hợp nghĩa thì làm.

Như vậy, này các Tộc tánh tử! Đó gọi là Bồ-tát không ở vô vi.

Lại nữa, đầy đủ phước đức nên không hết hữu vi. Đầy đủ trí tuệ nên không ở vô vi.

Thực hành đại Từ nên không hết hữu vi. Có tâm đại Bi nên không ở vô vi.

Vì dẫn dắt chúng sinh nên không hết hữu vi. Vì cầu pháp Phật nên không ở vô vi.

Vì đầy đủ thân tướng Phật nên không hết hữu vi. Vì đầy đủ Nhất thiết trí nên không ở vô vi.

Vì thực hành phương tiện quyền xảo nên không hết hữu vi. Vì biểu hiện trí tuệ nên không ở vô vi.

Vì làm thanh tịnh cõi Phật nên không hết hữu vi. Vì gây dựng giác ngộ nên không ở vô vi.

Vì khuyến dụ người tinh tấn nên không hết hữu vi. Vì tạo lợi ích cho mọi người nên không ở vô vi.

Vì tính giúp làm việc thiện nên không hết hữu vi. Vì mở bày lực thiện nên không ở vô vi.

Vì đầy đủ sở nguyện nên không hết hữu vi. Vì bản nguyện nên không ở vô vi.

Vì đầy đủ tánh nên không hết hữu vi. Vì tánh tịnh nên không ở vô vi.

Vì năm thông không tà nên không hết hữu vi. Vì biết sáu Thông của Phật nên không ở vô vi.

Vì hành sáu Độ nên không hết hữu vi. Vì không làm viên mãn thời gian nên không ở vô vi.

Vì cầu báu của Phật nên không hết hữu vi. Vì không cầu nơi không quý báu nên không ở vô vi.

Vì tập hợp các thứ thuốc nên không hết hữu vi. Vì biết bệnh chúng sinh nên không ở vô vi.

Vì sinh tử tự nhiên nên không hết hữu vi. Vì Niết-bàn tự nhiên nên không ở vô vi.

Bấy giờ, các Bồ-tát của thế giới Chúng hương nghe như vậy rất vui mừng và đều phát khởi tâm thiện, đem tất cả hoa quý đẹp ở tam thiên đại thiên thế giới chất lên đến ngang đầu gối để cúng dường Phật, cúi đầu lạy sát chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật ba vòng để thứ lớp tập hợp. Bấy giờ quốc độ Phật bỗng nhiên biến mất. Các Bồ-tát trong giây lát trở về lại nước Chúng hương và ở bên cạnh Phật Hương Tích.

 

Phẩm 12: THẤY PHẬT A-SÚC

Bấy giờ, Đức Thế Tôn hỏi Trưởng giả Duy-ma-cật:

–Tộc tánh tử! Ông muốn thấy Như Lai nhưng thấy bằng cách nào?

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Con nhìn thấy Đức Thế Tôn trước không sinh, sau không diệt, hiện tại không trụ, rỗng lặng, nhập vào không thực có. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đã lìa ba cõi, không còn mỏi mệt. Hiểu rõ ba môn giải thoát, đắc trí của ba đạt. Lấy chỗ không đến để đạt đến tất cả pháp. Được vô ngại, trụ vững nơi sự chân thật như không chỗ trụ, như trí tuệ không xen tạp. Không sinh các nhân duyên, không tướng tạo ra, không tướng thuần thục, không tướng tạm thời, khong phải một tướng, không phải không tướng. Không phải không nhìn thấy, không phải nhìn thấy, không phải nhìn thấy kỹ, không phải nhìn thấy sơ qua. Không phải ở bờ bên này, không phải qua bờ bên kia, không phải ở giữa dòng. Không lấy cái này, không lấy cái kia, không lấy cái khác. Không hiểu bằng trí tuệ, không trụ nơi thức, không tối, không sáng, không rõ ràng, không tên tuổi, không mạnh, không yếu. Không chỉ dạy, không phải không chỉ dạy. Không sạch, không phải không sạch. Không tạo tác, không phải không tạo tác. Không nói, không im. Không phải cho, không phải nhận. Không phải trì giới, không phải phạm giới. Không phải nhẫn nhục, không phải tranh cai. Không phải tinh tấn, không phải biếng trễ. Không phải thiền định, không phải tán loạn. Không phải trí tuệ, không phải ngu si. Không thật, không dối, không ra, không vào, không đến, không đi, đoạn trừ các âm thanh tạp loạn. Chẳng phải có cõi, chặng phải không có cõi. Không còn hữu dư, chẳng phải diệt tận. Không khuôn mẫu, không nhớ tưởng, không lấy, không bỏ, bình đẳng với chánh pháp. Không thể cân, không thể lường. Không phải đi qua, không phải trở lại, không phải tạo tác, không phải thấy, không phải nghe. Chẳng phải ý, chẳng phải thức. Vượt qua đời sống, thẳng đến tuệ giác, bình đẳng với chúng sinh. Giảng thuyết hết thảy pháp, không đời sống, không của cải, không chướng ngại, đối với tất cả thọ đều ưa thích. Không xem xét, không kích động, không hủy hoại, không bền chắc, không sợ hãi, không lo buồn, không vui mừng, không âm thanh, diệt tất cả không còn ngôn ngữ.

Như vậy, kính bạch Thế Tôn! Thân của Như Lai là như vậy, nên quán sát như vậy. Quán sát như vậy gọi là quán sát chính xác. Quán sát khác đi là quán sát sai lầm.

Hiền giả Xá-lợi-phất nương nơi Thánh chỉ của Phật và thưa Phật:

–Trưởng giả ấy chết từ thế giới nào mà sinh đến thế giới này?

Phật nói:

–Ông hãy hỏi Trưởng giả Duy-ma-cật.

Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi:

–Thưa Tộc tánh tử! Đại sĩ chết từ thế giới nào mà sinh đến đây?

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Như chính Hiền giả dùng pháp để chứng diệt, sẽ sinh ở đâu?

–Làm sao có pháp đó, đã mất mà còn sinh?

Trưởng giả Duy-ma-cật nói:

–Nếu không chết, không sinh thì làm sao có các pháp? Sao lại còn hỏi con như vậy: “Chết từ thế giới nào mà sinh đến đây?” Nhà ảo thuật tạo ra nam, nữ đâu có thể gọi là chết ở đâu mà sinh đến đây?

Hiền giả Xá-lợi-phất nói:

–Người do biến hóa thì không có chết và sinh đến gì cả.

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Như Lai lẽ nào không dạy tất cả các pháp biến hóa tự nhiên hay sao?

Đáp:

–Đúng như vậy.

Hỏi:

–Tướng biến hóa tự nhiên thì trái với các pháp sao lại hỏi: “Chết từ thế giới nào mà sinh đến đây?” như vậy.

Kính bạch Hiền giả Xá-lợi-phất! Chết là các hành chấm dứt. Còn sống là các hành còn tồn tại. Bồ-tát chết mà không dứt gốc thiện, sống mà không tăng trưởng pháp ác.

Phật bảo Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Vị Tộc tánh tử này từ thế giới A-duy-la-đề của Đức Phật hiệu là A-súc đến. (A-súc tiếng Hán gọi là Vô Nộ (không giận dữ). A-duyla-đề là Diệu lạc.)

Hiền giả Xá-lợi-phất thưa:

–Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Vị trưởng giả này từ nơi cõi Phật thanh tịnh đến, mà ưa thích thế giới nhiều giận dữ.

Trưởng giả Duy-ma-cật thưa:

–Thế nào, thưa Hiền giả! Ánh sáng của mặt trời vận hành chiếu soi khắp tất cả những nơi tối tăm, là ưa thích tối tăm chăng?

Đáp:

–Chẳng phải vậy. Mặt trời vận chuyển không ngừng, ánh sáng của nó luôn luôn sáng rực nên đi khắp các chỗ tối tăm.

Hỏi:

–Mặt trời vì sao vận hành ở cõi Diêm-phù-đề?

Đáp:

–Vì muốn chiếu ánh sáng để trừ bóng tối.

Hỏi:

–Như vậy, thưa Hiền giả! Bồ-tát nếu sinh ở cõi Phật bất tịnh vì để làm thanh tịnh cho mọi người, nhưng không bị nhiễm ô. Những ai được tiếp cận, được gần gũi với Bồ-tát thì được trừ hết tối tăm.

Bấy giờ, đại chúng khao khát muốn thấy thế giới Diệu lạc, Đức Như Lai A-súc và các đại nhân của nước ấy. Phật biết ý nghĩ của đại hội, liền bảo Trưởng giả Duy-ma-cật:

–Tộc tánh tử! Hãy thị hiện giữa chúng hội này về thế giới Diệu lạc, Như Lai A-súc, các Bồ-tát và chúng đệ tử. Cả chúng hội ở đây đều muốn được nhìn thấy.

Bấy giờ, Bồ-tát Duy-ma-cật nghĩ: “Ta nên ở đây, đừng đứng dậy khỏi chỗ ngồi mà hiển thị thế giới Diệu lạc bao gồm núi Thiết vi, sông ngòi, ao hồ, khe suối, biển cả, đất liền, chỗ sáng tối của các núi Tu-di, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, rồng, thần, Thiên cung, Phạm cung… và đầy đủ các chúng Bồ-tát, đệ tử, thành thị, thôn xóm, muôn dân, vua chúa, đến cả Đức Như Lai A-súc và cây Bồ-đề cùng tòa hoa sen của Ngài… Tất cả nhưng gì có thể làm Phật sự ở mười phương và có ba cầu thang quý từ cõi Diêm-phù-đề đến cung trời Đao-lợi. Cầu thang ở cõi trời Đao-lợi, chư Thiên dùng để xuống cõi Diêm-phù-đề lễ bái Phật, cúng dường và nghe kinh pháp. Người ở cõi Diêm-phù-đề cũng đi bằng cầu thang ấy để lên cung trời Đaolợi. Trời, người thấy nhau, đạt được vô số sự vui đẹp như vậy. Từ trên thế giới Diệu lạc đến cõi trời A-ca-nị-trá thứ hai mươi bốn, tách lấy thế giới ấy rồi nhập vào thế giới Nhẫn này, làm cho tất cả chúng hội hai bên đều được thấy nhau.”

Trưởng giả Duy-ma-cật lại nghĩ: “Muốn làm cho chúng hội vui”, liền nhập định Tam-muội Chánh thọ Như kỳ tượng, hiển thị thần túc, ngồi trên tòa Sư tử, trước đại chúng, dùng tay phải nhận lấy thế giới Diệu lạc, đến nhập vào thế giới Nhẫn. Các Bồ-tát, đệ tử và chư Thiên đắc thần thông thì thấy được đem đi, đều nói:

–Cúi xin Thế Tôn thương xót nhận lấy chúng con. Cúi xin Thế Tôn đặt yên chúng con.

Đức Phật A-súc dùng phương tiện tiếp nhận mọi người và nói cho họ hiểu: Không phải Như Lai làm mà là Trưởng giả Duy-ma-cật tiếp nhận. Ngoài ra, chư Thiên chưa được thần thông thì không biết ai đem mình đi.

Tuy được thế giới Diệu lạc nhập vào thế giới Nhẫn, mà thế giới Nhẫn không thêm không bớt. Lại thế giới này cũng không dồn ép và thế giới kia cũng không giảm bớt.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn Thích-ca Văn bảo đại chúng:

–Các ông hãy nhìn Như Lai A-súc của thế giới Diệu lạc. Quốc

độ đó trang nghiêm đẹp đẽ, Bồ-tát tịnh hạnh, đệ tử thanh bạch của Ngài.

Cả chúng hội đều thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy, chúng con mong nhận được nhiều cõi Phật đẹp đẽ, thanh tịnh này. Các Bồ-tát đều muốn học theo những việc của Như Lai A-súc và các Bồ-tát đã làm.

Ngay khi ấy, cả đại hội thấy cõi Phật của Như Lai A-súc, có mười bốn na-do-tha người phát tâm Bồ-đề vô thượng, đều nguyện được sinh về thế giới Diệu lạc.

Phật liền thọ ký:

–Những vị này sẽ đều được sinh về cõi Diệu Lạc và đời sau sẽ giáo hóa nơi thế giới Nhẫn của ta. Giáo hóa xong, sẽ trở về thế giới kia.

Phật bảo Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Ông đã thấy thế giới Diệu lạc và Như Lai A-súc rồi phải không?

–Đúng như vậy, kính bạch Thế Tôn! Con đã thấy quốc độ và muôn dân nơi cõi kia, tất cả đều thanh tịnh, đẹp đẽ, đều được thần lực như Trưởng giả Duy-ma-cật.

Kính bạch Thế Tôn! Chúng con sung sướng, may mắn được gặp gỡ bậc Chánh sĩ và phục vụ. Những người ở đâu nếu nghe được pháp này thì sung sướng, được lợi ích hoàn toàn. Ai nghe lời này mà không tin ưa? Như có ai tay cầm được cuốn kinh này đọc tụng, thì như vậy là đã được chư Phật nhớ nghĩ đến. Như có ai đọc lên kinh pháp này thì như vậy là được lãnh thọ chánh pháp, được lìa bỏ các đường ác, được Như Lai đến nhà. Nếu ai nghiên cứu, thông suốt kinh này, làm đúng theo giáo pháp đã giảng dạy mà cung kính, tôn thờ, thì như vậy là được phước thí của chư Phật, được trí tuệ của đại pháp. Người nào đem bốn câu trong kinh này dạy cho người khác là được thọ ký, được pháp lạc và hiểu rõ.

 

Phẩm 13: CÚNG DƯỜNG PHÁP

Bấy giờ Thiên đế Thích bạch Phật:

–Thật là nhiều phước thay, kính bạch Thế Tôn! Con mới được gần gũi Như Lai và Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Tuy đã nghe trăm ngàn lần nhưng chưa có pháp giáo hóa như thế này. Cũng nhờ đời trước đã nghe pháp ấy mà không nghi, cho nên được nương theo pháp này, có thể thọ trì đọc tụng, huống hồ là còn được trực tiếp đón nhận ngay nơi tâm. Những người thọ trì giáo pháp này, con không trái với họ. Nếu tất cả đều thấy đạo, không xa lìa chư Phật, ngay khi ấy họ được vượt lên trên, thu phục quân ma, đạt đến đạo ý, được Phật hộ niệm: “Người này chắc chắn đạt được.” Người thọ trì pháp này, con cùng với quyến thuộc của con sẽ hỗ trợ để họ được an ổn. Ở bất cứ thôn xóm, thành thị, núi rừng, đồng nội… chỗ nào có pháp này, con cùng với quyến thuộc của con cùng đi đến chỗ đó. Chư Thiên chưa ưa thích thì con sẽ làm cho họ tin ưa. Nhất định sẽ đem sự ưa thích để hộ trì pháp.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Đế Thích, ta rất tùy hỷ với ông. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đắc đạo đều giảng thuyết pháp này. Do vậy, nếu Đế Thích muốn được cúng dường chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai hay hiện tại thì nên tiếp nhận pháp này, thọ trì, đọc tụng, tự thanh tịnh cho mình và chỉ dạy cho bạn đồng học, thì đó chính là làm cho Thiên đế đầy trong tam thiên thế giới của Như Lai. Giả sử như mía, tre, lau, lúa, mè, rừng rú… tràn đầy vô số đều là Như Lai, có thiện nam hay thiện nữ nào – hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp – cung kính, tôn trọng, phụng thờ, cúng dường, cúng dường tất cả mọi thứ để sống an ổn, để đạt đến sự an lạc. Đến khi chư Phật ấy nhập Niết-bàn, dạy: “Tất cả đều một lòng đào đất, xây tháp bằng bảy báu để tôn trí xá-lợi đầy cả thế giới Phật ở khắp bốn phương, cao đến cõi Phạm thiên, trưng bày cờ phướn, lọng báu, xây dựng tháp riêng cho mỗi Đức Phật, cúng dường các thứ hoa hương, cờ, lọng, phướn báu, kỹ nhạc từ một kiếp, hoặc một trăm kiếp.” Đế Thích, ý ông thế nào? Người này gieo trồng như vậy có thể tăng thêm phước đức nhiều không?

Đế Thích thưa:

–Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Phước đức của người ấy nói cả trăm ngàn kiếp cũng không thể hết được.

Phật bảo Thiên đế Thích:

–Ông nên biết! Thiện nam hay thiện nữ nào lãnh thọ pháp yếu về môn chẳng thể nghĩ bàn đã giảng nói này, phụng trì, giảng thuyết thì phước đức của người ấy còn nhiều hơn phước đức của người kia. Vì sao? Vì chư Phật và giáo pháp đều phát sinh từ pháp này, nên phước bố thí ấy là chẳng thể nghĩ bàn.

Phật bảo Thiên đế Thích:

–Xưa, cách đây vô số kiếp không thể tính kể, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Tỳ-sa-xa-la-da (Dược Vương) gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới của Ngài tên là Thái Thanh, kiếp tên là Tịnh trừ. Bấy giờ, này Thiên đế Thích, Như Lai Dược Vương thọ mạng là ba mươi kiếp, chung đệ tử của Ngài có ba mươi sáu ức, Bồ-tát có mười hai ức.

Thời ấy có Chuyển luân thánh vương tên là Bảo Cái. Vua có đủ bảy báu, làm chủ bốn thiên hạ. Năm kiếp phụng thờ Như Lai Dược Vương, hướng dẫn quyến thuộc hiến cúng Như Lai Dược Vương mọi mặt để được sống yên ổn. Đến khoảng giữa năm kiếp ấy, Thánh vương Bảo Cái triệu tập một ngàn người con và bảo: “Các con đã thấy Như Lai Dược Vương, vậy nên cúng dường phụng thờ để Ngài sống yên ổn.”

Khi ấy, một ngàn người con vâng lời vua cha, đều đem sự an hòa cúng dường Như Lai Dược Vương đến trọn năm kiếp và tất cả quyến thuộc của Ngài cũng đều được yên ổn.

Thái tử thứ nhất tên là Thiện Túc, ngồi một mình, nghĩ: “Có cách gì hiến cúng hơn nữa?”

Lúc này trong không trung có vị Thiên, nương Thánh chỉ của Phật, bảo: “Này Chánh sĩ! Cúng dường pháp là hơn hết trong mọi sự cúng dường.”

Thái tử Thiện Túc liền hỏi: “Cúng dường pháp là thế nào?”

Vị Thiên nói: “Sao không đến hỏi Như Lai Dược Vương? Phật sẽ chỉ dạy đầy đủ cho thái tử về sự cúng dường pháp.”

Bấy giờ, thái tử Thiện Túc liền đứng dậy, đi đến chỗ Như Lai

Dược Vương, cúi đầu đảnh lễ nơi chân Phật và thưa: “Kính bạch Thế Tôn! Cúng dường pháp là thế nào? Thế nào là người thấy pháp? Sao lại gọi như vậy?”

Phật Dược Vương nói: “Cúng dường pháp, như chư Phật đã dạy trong các kinh sâu xa: Là nơi thế gian nương về, thật là khó thấy, khó lãnh thọ. Do không kiêu mạn, vi diệu, không hình tượng, nghĩa lý công bằng dễ hiểu. Bồ-tát tu tập đạt đến các kho pháp của Tổng trì. Kinh ấy được đóng dấu đúng đạo lý, kinh pháp ấy là bánh xe thanh tịnh nhập vào sáu Độ. Hãy chọn để học những pháp đạo phẩm, thể nhập vào chánh đạo, vì ban bố đại Từ, xây dựng đại Bi, lìa các tà kiến, thấy nguồn gốc của duyên khởi. Người không thọ mạng, không nữ, không nam, như hư Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô vi, là đi trên đất đạo, là ở pháp luân, trăm ngàn chư Thiên cùng tán dương: Pháp tạng độ nhiều, giúp đỡ mọi người, thuyết minh rõ đường đi của chư Phật, Bồtát, làm cho họ đi vào nghĩa lý chánh yếu của các pháp. Hiểu rõ vô thường, khổ, không, vô ngã, không phạm giới. Tất cả những kẻ hiểu ngược lại đều bị sợ hãi. Hướng về chư Phật, thấy phàm phu sinh tử mà không đồng sinh tử, mà biết hiện diệt độ. Học tập như vậy, theo như lời dạy của kinh, phân biệt tư duy để thọ pháp. Như vậy là cúng dường pháp.

Lại nữa, này Tộc tánh tử! Cúng dường pháp là nghe pháp, sống theo pháp, chuyển vận pháp bằng duyên khởi. Tùy thuận, xa lìa các biên kiến, được pháp nhẫn bất sinh, bất khởi, chẳng phải ta, chẳng phải người, chỉ do nhân duyên. Không chống đối, không lãnh thọ. Theo chỗ không tranh đó mà xả bỏ mọi việc làm của ngã. Y theo ý nghĩa, không theo hình thức để học kinh điển. Y theo trí tuệ, không theo văn hoa. Theo nghĩa đúng học kinh điển chứ không theo nghĩa sai. Đem sự học tập của mình y theo pháp không theo người. Đắc các pháp không lãnh thọ, không nơi chốn. Diệt vô minh nên các hành cũng diệt. Cho đến thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử khổ đều diệt. Diệt như vậy, quán sát mười hai duyên khởi như thế, vì vô cùng tận mà nhận lấy vi diệu, thấy được những điều mà người không thấy. Tộc tánh tử, đó là cúng dường pháp vô thượng.”

Như vậy, này Thiên đế Thích! Thái tử Thiện Túc từ nơi Đức

Phật Dược Vương được nghe về việc cúng dường pháp, liền được thuận nhẫn, bèn cởi áo báu dâng lên Phật cúng dường và thưa: “Kính bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai nhập diệt, con sẽ lãnh thọ phụng thờ chánh pháp, lập nên pháp cúng dường để ủng hộ đạo. Cúi xin Như Lai thương tưởng xây dựng để con thu phục quân ma, nhận lấy pháp của Phật.”

Đức Phật Dược Vương biết tâm ý của thái tử, liền bảo: “Sau này ông sẽ giữ gìn thành trì chánh pháp.”

Bấy giờ, thái tử Thiện Túc từ nơi được thấy Thế Tôn, với lòng tin của mình, bỏ nhà học đạo, siêng năng tu tập theo pháp thiện, không lâu chứng đắc năm Thần thông, được nhập vào Tổng trì của các đạo, biện tài lưu loát. Cho đến sau khi Đức Thế Tôn Dược Vương nhập Niết-bàn, dùng trí tuệ, năng lực của mình suốt trong mười kiếp truyền bá, giảng thuyết giáo pháp mà Như Lai Dược Vương đã thuyết giảng. Pháp thí theo đó được truyền bá.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Thiện Túc giáo hóa ngàn vạn ức người khiến học theo đạo lớn, mười bốn ức người hiểu rõ pháp Thanh văn. Ngoài ra có vô lượng người được sinh lên cõi trời.

Như vậy, này Thiên đế Thích! Vua Bảo Cái lúc xưa, nay được thành Phật hiệu là Như Lai Bảo Thành, còn thái tử Thiện Túc thì chính là ta. Ngoài ra, những người còn trong Hiền kiếp ấy đều đắc đạo quả Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là ngàn Đức Phật ra đời trong Hiền kiếp này. Đức Phật Câu-lưu-tôn là vị đầu tiên và vị cuối cùng là Đức Như Lai Lâu-do.

Như vậy, này Thiên đế Thích! Nên biết điều cốt yếu này. Xưa, bản thân ta thực hành pháp cúng dường các Đức Như Lai nên được giáo hóa trên het, giáo hóa lâu dài, giáo hóa theo nguyện, giáo hóa tối thượng, không thể so sánh.

Thế nên, Thiên đế Thích nên biết! Cúng dường pháp này chính là cúng dường Phật.

 

Phẩm 14: KÝ THÁC DI-LẶC

Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Này Bồ-tát Di-lặc! Đây gọi là phẩm Vô số ức kiếp tu tập Phật đạo. Ông hãy theo đó mà truyền bá, lãnh thọ kinh pháp Phật đã giảng dạy. Sau khi Như Lai diệt độ, nên truyền bá rộng rai pháp này. Vì sao? Vì đời sau sẽ có Tộc tánh nam, Tộc tánh nữ, Thiên, Long, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà… gặp được kinh này sẽ gieo trồng công đức nhiều hơn trước. Người đã tu tập Bồ-đề vô thượng, chưa được nghe và thọ trì pháp này, nếu được nghe pháp ấy thì chắc chắn rất ưa thích, dốc lãnh thọ giáo pháp căn bản chánh yếu của Phật.

Lại nữa, này Di-lặc! Kinh này tạo lợi ích cho các tộc tánh tử, thế nên hãy truyền bá khắp kinh này.

Bồ-tát có hai ấn. Đó là:

  1. Ưa thích câu văn, văn từ bóng bẩy.
  2. Thâm nhập kinh pháp diệu hóa sâu xa.

Bồ-tát nếu ưa thích câu văn, văn từ bóng bẩy thì nên biết đó là hàng Bồ-tát mới tu học.

Nếu được kinh điển thâm diệu này, lãnh thọ và thực hành rộng rãi, không lo sợ, nghe được rồi lưu truyền, thì nên biết đó là Bồ-tát tu học phạm hạnh đã lâu.

Lại có bốn việc Bồ-tát mới tu học bị hao tổn. Bốn việc đó là:

  1. Đối với kinh chưa nghe, nghe thì kinh sợ, nghi ngờ.
  2. Bồ-tát mới tu học không khuyến khích, tán trợ, chỉ tăng thêm rối loạn. “Ta chưa từng nghe, kinh này từ đâu đến?”
  3. Đối với người hiểu rõ kinh điển sâu xa, ưa giảng về pháp vi diệu này thì không theo lãnh thọ, tu tập.
  4. Tuy ở gần mà không cung kính, còn hủy báng, công kích.

Đó là bốn việc Bồ-tát mới tu học bị hao tổn không đạt đến pháp nhẫn sâu xa.

Lại nữa, này Di-lặc! Có hai hạng Bồ-tát tuy hiểu rõ kinh pháp sâu xa, vẫn còn bị hao tổn. Hai hạng đó là:

  1. Bồ-tát tu tập theo biên kiến, không xét hạnh của mình, dựa vào sự hiểu biết mà khinh miệt người.
  2. Không thọ trì, không đọc tụng, cũng không mong cầu. Bản thân học hiểu rõ kinh pháp sâu xa lại khinh mạn, tham đắm, ganh ghét, không dung nạp người, cũng không bố thí pháp.

Đó là hai hạng, nên tuy hiểu pháp sâu xa vẫn còn dễ hao tổn, không thể nhanh chóng gần gũi, không thể phát sinh pháp nhẫn.

Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có. Nhờ vào những lời hoàn hảo, con sẽ tránh xa những điều ác ấy để kính giữ đạo phẩm của Đức Như Lai đã tu tập trong vô số kiếp. Nếu thiện nam nào hội nhap kinh điển này thì sẽ khiến cho chính tay họ được tự chọn lấy kinh điển này, rồi chỉ giúp cho người đồng học, giảng thuyết rộng rãi, rõ ràng. Trong thời kỳ của Thế Tôn, nếu ai được kinh điển như vậy, vui thích truyền cho nhau thì nên biết, hàng Bồ-tát này đều được Di-lặc xây dựng.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Này Bồ-tát Di-lặc! Như Lai rất tùy hỉ nơi lời nói tốt đẹp của ông.

Bấy giờ, tất cả các Bồ-tát cùng thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai nhập diệt, chúng con ở cõi Phật này, nơi đây xin sẽ truyền bá Phật đạo, chỉ dạy cho bạn bè đồng học tùy theo căn cơ của họ.

Bấy giờ, Tứ Thiên vương bạch Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Ở bat cứ thành thị hay thôn xóm, núi rừng hay đồng nội có hành trì kinh điển sâu xa này thì chúng con sẽ huy động các quyến thuộc đi đến chỗ giảng pháp để hộ trì người giảng pháp, trong phạm vi một trăm do-tuần, sẽ làm cho tất cả được nghe và thấy người giảng pháp, không cho ai hại được.

Lúc ấy, Phật bảo Hiền giả A-nan:

–Ông hãy tiếp nhận kinh điển này, phụng trì, đọc tụng, giảng thuyết để truyền bá cho mọi người.

Hiền giả A-nan thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Con sẽ lãnh thọ, truyền bá kinh này cho tất cả mọi người. Kính bạch Thế Tôn! Kinh điển này nên đặt tên là gì và sẽ phụng trì như thế nào?

Phật nói:

–Này Hiền giả A-nan! Kinh điển này gọi là lời thuyết giảng của Duy-ma-cật. Cũng gọi là “Khen ngợi pháp môn Bất khả tư nghì.” Ông hãy theo đấy mà phụng trì.

Phật thuyết giảng kinh này xong, mọi người lãnh thọ. Trưởng giả Duy-ma-cật, Đại sĩ Văn-thù-sư-lợi làm thượng thủ.

Chúng Bồ-tát, đại đệ tử cùng tất cả chúng hội nghe Phật thuyết giảng đều rất hoan hỷ.