KINH DUY MA CẬT SỞ THUYẾT

Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Dịch Từ Phạn Sang Hán
Dịch Giả: Thích Huệ Hưng

 

Lời Giới Thiệu

Từ xưa chư Phật, Bồ-tát ra đời giáo hóa chúng sanh, với lòng bi-nguyện thâm-thiết đều muốn cho tất cả thoát-ly cảnh giới triền phược khổ não, đồng hưởng cánh thanh tịnh an vui giải thoát. Nhưng muốn thực hiện cảnh giới thanh tịnh an vui giải thoát, cốt yếu là mình phải đưọc thanh tịnh như trong kinh nói “TÙY KỲ TÂM TỊNH, TẮC PHẬT ÐỘ TỊNH“.Sớ dĩ thân Phật rực rỡ, cảnh Phật trang nghiêm cũng đều do công đức diệu dụng của bản tâm thanh tịnh lưu xuất. Bản tâm ấy, chúng sanh sẵn có, cũng như chư Phật, không hai không khác, nhưng vì từ lâu cứ mê chấp, đắm nhiễm theo trần duyên mà không hiển bày được đó thôi.

Bộ Kinh “DUY MA CẬT“này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện chỉ rõ chỗ diệu dụng của bản tâm thanh tịnh, là PHÁP MÔN GIẢI THOÁT BẤT KHẢ TƯ NGHỊ mà Ngài DUY MA CẬT lặng thinh, đức Văn Thù tán thán, hàng Nhị thừa sững sốt, không thế lấy trí suy nghĩ phân biệt biết nỗi, không thể dùng lời nói luận bàn đến được.

Giáo lý Tối Thượng Thừa này thật siêu thắng, trong đời ít có, khó gặp. Nay thầy Thích Huệ Hưng gia tâm phiên dịch ra quốc văn, vì thời cơ xứng hiệp, nên được nhân duyên xuất bản.

Nhận thấy pháp Tối Thưọng Thừa này rất lợi ích, nên tôi nhứt tâm tùy hỉ giới thiệu cùng các bạn tu hành nào muốn tìm phương GIẢI THOÁT, muốn thực hiện cảnh giới an vui BẤT KHẢ TƯ NGHỊ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
GIÁC NGUYÊN PHẬT HỌC ÐƯỜNG
Mùa Hạ Năm Tân Mão – 1951
Sa Môn: Lê Phước Bình

Lời Nói Đầu

Kinh “DUY MA CẬT”cũng có tên gọi: “Kinh BẤT KHẢ TƯ NGHỊ GIẢl THOÁT”. Kinh này nói rõ cảnh giới của Ðại Bồ Tát chứng nhập.Bồ Tát thườnng chẳng những thị hiện thuận hành mà cũng lắm khi thị hiện nghịch hành để hóa độ chúng sinh.

Ngài DUY MA CẬT chính là vị Ðại Bồ Tát ở cõi Bất Ðộng, vì trợ duyên đức Thích Ca mà hiện thân cư sĩ đến cõi ta bả này. Muốn hiển bản tánh “Bình Ðẳng Chơn Thật Không Hai” của chúng sinh sẵn có, Ngài hiện thân có bịnh để chỉ bày các phưong pháp phá chấp: có, không, thường, đoạn của Tiểu Thừa và phàm phu ngoại đạo.

Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật dạo. Có thật hành Phật đạo mới trở về bản tánh “bình đẳng không hai” và đầy đủ diệu dụng giải thoát.

Ðạo Phật là đạo chú trọng thật hành, không phải lý thuyết suông. Bộ Kinh DUY MA CẬT đây hiển rõ rành mạch cả lý thuyết và chỗ thật hành cho đến thế nào là thân chứng. Càng đọc, càng gẫm, càng thật hành, ta sẽ thấy đầy tánh cách từ bi vô ngại rộng lớn bao la của tâm hồn lợi tha triệt để.

Ðời đang đắm chìm trong biển khổ mênh mang, người muốn cứu đời chân chính, cần phải có phương pháp chân chính cao siêu. Thấy sự lợi ích của kinh này hướng dẫn mọi người đi đến mục đích cao cả, thoát hẳn muôn sự mê lầm đen tối của tâm hồn chấp trước, ích kỷ, nhỏ hẹp và hành vi khổ lụy nhơn sinh, Dịch giả chẳng nệ gì chỗ hiểu chưa cùng tột và hạnh đức chưa thân chứng đến cảnh giới “bất tư nghị” mà vội cống hiến cho bạn đọc một pho sách chưa từng có.

Vậy có chỗ nào sơ sót mong các bực cao minh phủ chính cho. Rất thâm tạ!

Dịch Giả Cẩn Chí

Lệ Ngôn

I. Kinh này có phân ra thượng, trung, hạ, 3 quyển, 14 phẩm. Nhưng tôi dịch đây chỉ để luôn một quyển và số mục của các phẩm.

II. Về phẩm 11 và 111, tôi có nêu tên các vị Thanh Văn, Bổ Tát trên mỗi đoạn cho dễ tìm khi quí vị muốn xem.

III. Ở sau có phụ phần chú thích danh từ. Phàm danh từ nào ở trước có giải rồi sau không giải nữa.

Kinh này không phải là kinh khóa tụng hàng ngày, nhưng nếu quí vị nào phát tâm trì tụng cũng được nhiều lợi ích và công đức vô lượng, như trong phẩm “Thấy Phật A Súc”, phẩm “Pháp cúng dường” và phẩm “Chúc lụy” có nói rõ. Khi tụng kinh này cũng phải y theo nghi thức tụng niệm thường lệ, trước khai kinh, sau hồi hướng như tụng các kinh khác vậy.

 

KINH (1) DUY MA CẬT (2) SỞ THUYẾT
CŨNG GỌI
Kinh “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ GIẢI THOÁT” (3)

I. PHẨM PHẬT QUỐC(4)

Chính tôi được nghe, một thuở kia, Đức Phật Thích Ca ở thành Tỳ Da Ly (5) nơi vườn cây Am La (6) cùng tám nghìn chúng Ðại Tỳ Kheo, hai vạn hai nghìn Bồ Tát, là những vị có tiếng tăm, đều đã thành tựu trí hạnh đại thừa, do nhờ oai thần của chư Phật lập nên. Các Ngài làm bức thành hộ pháp, giữ gìn chánh pháp, diễn nói pháp âm rất oai hùng, tự tại vô úy như sư tử rống (7) danh đồn xa khắp mười phương. Người đời không cầu thỉnh mà các Ngài sẵn sàng làm bạn giúp cho an vui. Các Ngài xương minh Tam bảo không dể dứt mất, hàng phục tất cả ma oán, ngăn dẹp các ngoại đạo; sáu căn (8) ba nghiệp (9) đều đã thanh tịnh; trọn lìa năm món che ngăn (10) và mười điều ràng buộc (11). Tâm thường an trụ nơi lý vô ngại giải thoát; niệm định tổng trì (12) bình đẳng, biện tài thông suốt như suối tuôn không dứt. Các hạnh Bồ thí, trì giớí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và sức phương tiện lợi mình lợì người thảy đều đầy đủ. Ðã được đến bực vô sở đắc (13) mà không khởi pháp nhẫn (vô sinh pháp nhẫn)(14), hay tùy thuận dìễn nói pháp luân bất thối (15), khéo hiểu rõ chân tướng các pháp, thấu biết căn cơ chúng sanh, oai đức bao trùm đại chúng(16), không còn sợ sệt chi cả.Các Ngài dùng công đức trí tuệ trau sửa lòng mình, lấy tướng tốt trang nghiêm thân hình, sắc tượng dung nhan bực nhứt, bỏ hẳn tất cả trang sức tốt đẹp trong đời, danh tiếng cao xa vượt hẳn núi Tu di (17), lòng tin bền chắc như kim cương, đem Pháp bảo soi khắp, mưa nước cam lố, phát ra tiếng tăm đều là vi diệu bực nhứt.

Các Ngài đã thâm nhập lý duyên khởi (18), dứt hết các tập khí kiến chấp sai lầm bên có bên không, diễn nói các pháp không sợ sệt như sư tử rống, những lời giảng nói như sấm nổ, không có hạn lượng và đã quá hạn lượng.

Các Ngài tự mình nhóm góp rất nhiều Pháp bảo như Hải đạo sư (19), rõ nghĩa lý sâu mầu của các pháp, biết rành hiện trạng qua lại trong các cảnh thú và hành vi tốt xấu trong tâm niệm chúng sanh. Gần kề bực Phật tối tôn là đấng đầy đủ trí tuệ, tự tại, thập lực (20), vô úy (21), thập bát bất cộng(22). Ngăn đóng tất cả cửa nẻo ác thú, hiện thân trong năm đường(23) hóa độ chúng sanh. Làm vị Ðại Y Vương (24) khéo trị lành các bịnh, đúng theo bịnh cho thuốc đều được công hiệu. Ðã thành tựu vô lượng công đức, trang nghiêm thanh tịnh vô lượng cõi Phật. Người nào được nghe danh thấy hình đều được lợi ích. Những hành động của các Ngài đều không uổng phí, các công đức như thế, đã hoàn toàn viên mãn.

Danh hiệu các Ngài là Ðẳng Quán Bồ Tát, Bất Ðẳng Quán Bồ Tát, Ðẳng Bất Ðẳng Quán Bồ Tát, Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tướng Bồ Tát, Quang Tướng Bồ Tát, Quang Nghiêm Bồ Tát, Ðại Nghiêm Bồ Tát, Bảo Tích Bồ Tát, Biện Tích Bồ Tát, Bảo Thu Bồ Tát, Bảo Ấn Bồ Tát, Thường Cử Thủ Bồ Tát, Thường Hạ Thủ Bồ Tát, Thường Thảm Bồ Tát, Hỷ Căn Bồ Tát, Hỷ Vương Bồ Tát, Biện âm Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Chấp Bảo Cự Bồ Tát, Bảo Dõng Bồ Tát, Bảo Kiến Bồ Tát, Ðế Võng Bồ Tát, Minh Võng Bồ Tát, Vô Duyên Quán Bồ Tát, Huệ Tích Bồ Tát, Bảo Thắng Bồ Tát, Thiên Vương Bồ Tát, Hoại Ma Bồ Tát, Ðiễn Ðức Bồ Tát, Tự Tại Vương Bồ Tát, Công Ðức Tướng Nghiêm Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Lôi âm Bồ Tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bạch Hương Tượng Bồ Tát, Thuờng Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Diệu Sanh Bồ Tát, Hoa Nghiêm Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Ðắc Ðại Thế Bồ Tát, Phạm Võng Bồ Tát, Bảo Trượng Bồ Tát, Vô Thắng Bồ Tát, Nghiêm Ðộ Bồ Tát, Kim Kế Bồ Tát, Châu Kế Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát, cả thay như thế ba vạn hai nghìn Ngài.

Lại có một vạn vị Thi Khi (25), Phạm Thiên Vương từ Tứ thiên hạ (26) khác đến chỗ Phật nghe Pháp. Lại có một vạn hai nghìn vị Thiên đế cũng từ Tứ thiên hạ khác đến trong pháp hội. Các hàng chư Thiên có oai lực lớn, cùng Long thần, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ma hầu la đà (27) v.v. . . đều đến trong pháp hội. Lại có các vị Tỳ kheo (28) , Tỳ kheo ni, ưu bà tắc (29), ưu bà di (30) cũng đến trong Pháp hội.

Bấy gỉờ Đức Phật nói Pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng đông đảo cung kính vây quanh đấy, ví như núi chúa Tu di hiển bày nơi bể cả. Ngài ngồi yên trên tòa Sư tử (31) trang nghiêm bằng các thứ báu, oai đức che trùm tất cả đại chúng. Khi ấy trong thành Tỳ Da Ly có Trưỏng giả tử(32) tên là Bảo Tích với 500 vị Trưởng giả tử đồng cầm lọng bảy báu(33) đi đến chỗ Phật cung kính đảnh lễ đầu mặt tiếp chơn, rối mỗi vị đều đem lọng báu của mình hợp nhau cúng dường Phật. Do oai đức của Phật nên khiến các lọng báu ấv hiệp thành một cây trùm khắp cõi Tam thiên đại thiên thế thế giới (34), mà tướng rộng dài của thế giới đều hiện đủ trong đó.

Lại nữa, các núi Tu di, Mục chơn lân dà , Ðại mục chơn lân đà, Tuyết sơn, Hương sơn, Bảo sơn, Kim sơn, Hắc sơn, Thiết vi, Ðại thiết vi bể lớn, sông, rạch, dòng ngòi, nguốn suối, cũng với mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, thiên cung, long cung và cùng các vị tôn thần, nơi cõi Tam thiên đại thiên thế giỡi này đều hiện trong lọng bảy báu, và chư Phật trong 10 phương, chư Phật đang nói pháp, cũng hiện trong lọng bảy báu ấy.

Khi đó tất cả Ðại chúng thấy thần lực của Phật đều khen ngợi chưa từng có, chấp tay làm lễ, ngắm nhìn dung nhan Phật mắt không hề nháy. Trưởng giả tử Bảo Tích liền ở trước Phật đọc bài kệ khen rằng:

Mắt trong, dài rộng như sen xanh,
Tâm sạch đã tột các thiền định,
Lâu chứa tịnh nghiệp nói không cùng,
Dùng tịch độ chúng (35) nên cúi lạy.
Ðã thấy Ðại thánh dùng thần biến,
Khắp híện mười phương không lường cõi,
Trong đấy các Phật diễn nói pháp,
Nơi đây tất cả đều thấy nghe.
Pháp lực của Phật vượt quần sanh
Thường dùng Pháp tài thí tất cả,
Hay khéo phân biệt các Pháp tướng,
Ðối đệ nhứt nghĩa (36) mà không động.
Ðã được tự tại cùng các Pháp
Cho nên cúi đầu lễ Pháp vương.
Nói Pháp chẳng có cũng chẳng không
Vì do nhân duyên các Pháp sanh,
Không ta, không tạo, không thọ giả,
Những việc lành dữ cũng chẳng mất.
Trước tiên hàng ma nơi Phật thọ (37)
Ðặng Cam lồ diệt (38) thành đạo giác,
Ðã không tâm ý, không thọ hành (39)
Mà xô dẹp hết các ngoại đạo.
Ba lần chuyển Pháp (40) cõi đại thiên,
Pháp ấy lâu nay thường thanh tịnh,
Trời người đắc đạo đó là chứng,
Tam bảo vì thế hiện trong đời.
Dùng Pháp mầu này độ chúng sanh
Thọ rồi không lui, thường vắng lặng,
Khỏi già bịnh chết đấng Y Vương,
Lạy ngôi Pháp hải (41) đức không lường.
Khen chê chẳng động như Tu di
Ðồng bực thương xót kẻ lành dữ,
Tâm hạnh bình dầng như hư không,
Nghe đấng Nhơn bảo (42) ai chẳng kính.
Nay dâng Thế Tôn lọng mọn này
Cõi Tam thiên tôi hiện trong đó,
Thiên cung, Long thần kia nương ở,
Càn thát cả thảy với Dạ xoa.
Mọi vật trong đời đều thấy rõ,
Vì thương Phật hiện tướng biến này,
Thấy việc ít có chúng khen ngợi,
Nay con lạy đấng Tam giới tôn (43)
Ðại thánh chỗ nương của mọi loài,
Lòng sạch trong đó thảy vui vẻ,
Ðều thấy Thế Tôn ở trước mình,
Ðó là thần lực Pháp bất cộng. (44)
Phật dùng một tiếng diễn nói Pháp,
Chúng sanh tùy loại thảy đặng hiểu,
Ðều cho rằng Phật đồng tiếng mình,
Ðó là thần lực Pháp bất cộng.
Phật dùng một tiếng diễn nói Pháp,
Chúng sanh chỗ hiểu tùy mỗi hạng,
Khắp được thọ hành đều lợi ích,
Ðó là thần lực Pháp bất cộng.
Phật dùng một tiếng diễn nói Pháp,
Có người kinh sợ hoặc vui mừng,
Có kẻ dứt nghi hoặc nhàm chán,
Ðó là thần lực Pháp bất cộng.
Lạy đấng Thập lực đại tinh tấn,
Lạy đấng đã đặng không chỗ sợ,
Lạy đấng trụ nơi Pháp bất cộng,
Lạy đấng Ðạo sư (45) của muôn loài.
Lạy đấng hay dứt mọi kiết phược(46)
Lạy đấng đã đến nơi bờ kia,
Lạy đấng hay vượt các thế gian,
Lạy đấng trọn lìa đường sanh tử.
Biết hết chúng sanh tướng đến lui
Khéo nói các Pháp được giải thoát,
Như hoa sen trong đời chẩng nhiễm,
Thường khéo vào nơi hạnh không tịch.(47)

Lúc đó Trưởng giả tử Bảo Tích đọc bài kệ tán thán xong, bạch Phật rằng: “”Bạch Thế Tôn! Năm trăm vị Trưởng giả tử nầy đều đã phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác nguyện nghe cõi Phật thanh tịnh, cúi mong Thế Tôn dạy cho những hạnh của Bồ Tát được Tịnh độ (quốc độ thanh tịnh).”

Phật bảo: “Hay thay Bảo Tích! Ông lại vì các vị Bồ Tát mà hỏi Như Lai những hạnh được Tịnh độ, vậy hãy lắng nghe chín chắn, suy nghĩ kỹ nhớ lấy, ta sẽ nói cho ông rõ”.

Lúc ấy Bảo Tích cũng 500 vị Trưởng giả tử vâng lời Phật dạy, cung kính lóng nghe.

Phật dạy rằng: “Này Bảo Tich! Tất cả chúng sanh là cõi Phật của Bồ Tát. Vì sao? – Bồ Tát tùy chỗ giáo hóa chúng sanh mà lãnh lấy cõi Phật (Tịnh độ); tùy chỗ điều phục chúng sanh mà lãnh lấy cõi Phật; tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào vào trí tuệ của Phật mà lãnh lấy cõi Phật; tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào phát khởi căn tánh Bồ Tát mà lãnh lấy cõi Phật. Vì sao thế? – Vì Bồ Tãt lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh đều vì muốn lợi ích chúng sanh. Ví như: Có người muốn xây dựng cung nhà nơi khoảng đất trống, tùy ý được thành công, nếu xây dựng giữa hư khỏng quyết không thành tựu được; Bồ Tát cũng thế, vì thành tựu chúng sanh nên nguyện lãnh lấy cõi Phật – Nguyện lãnh lấy cõi Phật chẳng phải ở nơi rỗng không vậy.

Bảo Tích, ông nên biết! – Trực tâm (49) là Tịnh dộ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh không dua vạy, sanh sang nước dó. Thâm tâm (50) là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ công đức sanh sang nước đó. Bồ Ðề tâm (51) là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh có tâm đại thừa sanh sang nước đó. Bố thí là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh hay thí xả tất cả mọi vật sanh sang nước đó. Trì giớí là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh tu mười điều lành (52), hạnh nguyện đầy đủ, sanh sang nước đó. Nhẫn nhục là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh đủ 32 tướng tốt (53) trang nghiêm sanh sang nước đó. Tinh tiến là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh siêng tu mọi công đức sanh sang nước đó. Thiền định là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh biết thu nhiếp tâm chẳng loạn sanh sang nước đó. Trí tuệ là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh được chánh định sanh sang nước đó. Tứ vô lượng tâm(54) là Tịnh độ của Bồ Tát; Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh thành tựu từ, bi, hỷ, xả sanh sang nước đó. Tứ nhiếp Pháp (55) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh được giải thoát sanh sang nước đó. Phương tiện là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh khéo dùng đặng phương tiện không bị ngăn ngại ở các pháp, sanh sang nước dó. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo (56) là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật chúng sanh đầy đủ niệm xứ, chánh cần, thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạo, sanh sang nước đó. Hồi hướng tâm (57) là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, được cõi nước đầy đủ tất cả công đức. Nói Pháp trừ tám nạn là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, cõi nước không có ba đường ác (58) và tám nạn (59) . Tự mình giữ giới hạnh không chê chỗ kém khuyết của người khác là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, cõi nưỡc không có tên phạm giới cấm. Mười điều lành là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh sống lâu, giàu to, phạm hạnh (60), lời nói chắc thật, thường dùng lời dịu dàng, quyến thuộc không chia rẻ, khéo giải hòa việc đua tranh kiện cáo, lời nói có lợi ich, không ghét không giận, thấy biết chân chánh sanh sang nước đó.

Như thế, Bảo Tích! Bồ Tát tùy chỗ trực tâm mà hay phát hạnh, tùy chỗ phát hạnh mà được thâm tâm, tùy chỗ thâm tâm mà ý được điều phục, tùy chỗ ý được điều phục mà làm được như lời nói, tùy chỗ làm được như lời nói mà hay hồi hướng, tùy chỗ hồi hướng mà có phương tiện, tùy chỗ có phương tiện mà thành tựu chúng sanh, tùy chỗ thành tựu chúng sanh mà cõi Phật được thanh tịnh, tùy chỗ cõi Phật thanh tịnh mà nói Pháp được thanh tịnh, tùy chỗ nói Pháp thanh tịnh mà trí tuệ được thanh tịnh, tùy chỗ trí tuệ thanh tịnh mà tâm thanh tịnh, tùy chỗ tâm thanh tịnh mà tất cả công đức đều thanh tịnh. Cho nên, Bảo Tích này!

Bồ Tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm thanh tịnh; tùy chỗ Tâm thanh tịnh mà cõi Phật được thanh tịnh.

Lúc ấy, ông Xá Lợi Phất nương oai thần của Phật mà nghĩ rằng: “Nếu tâm Bồ Tát thanh tịnh chắc cõi Phật phải được thanh tịnh, vậy Thế Tôn ta khi trước làm Bồ Tát tâm ý lẽ nào không thanh tịnh, sao cõi Phật này không thanh tịnh như thế?”.

Phật biết ông suy nghĩ vậy liền bảo rằng:

– Ý ông nghĩ sao? Mặt trời, mặt trăng há không thanh tịnh sáng suốt ư, sao người mù không thấy?

– Bạch Thế Tôn! Chẳng phải thế. Ðó là tại người mù, không phảỉ lỗi ở mặt trời và mặt trăng.

– Xá Lợí Phất! Cũng thế, bởi chúng sanh do tội chướng nên không thấy được cõi nước của Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chớ không phải lỗi ở Như Lai – Này Xá Lợi Phất! Cõi nước của ta đây vẫn thanh tịnh mà tại ông không thấy đó thôi.

Bấy giờ ông Loa Kế Phạm Vương thưa với ông Xá Lợi Phất rằng:

– Ngài chớ nghĩ như thế, mà cho cõi Phật đây là không thanh tịnh. Vì sao? – Vì tôi thấy cõi nước của Phật Thích Ca Mâu Ni thanh tịnh, ví như cung trời Tự Tại (61).

Ông Xá Lợí Phất nói:

– Sao tôi thấy cõi này toàn gò nỗng, hám hố, chông gai, sỏi sạn, đất đá, núi non, nhơ nhớp dẫy đầy như thế?

Ông Loa Kế Phạm Vương thưa rằng:

– Ðấy là do tâm của Ngài có cao thấp không nương theo trí tuệ của Phật nên thấy cõi này không thanh tịnh đó thôi – Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh y theo trí tuệ của Phật thì mới thấy được cõi Phật này thanh tịnh.

Khi ấy Phật lấy ngón chơn nhấn xuống đất, tức thì cõi Tam thiên đại thiên thế giới liền hiện ra bao nhiêu trăm nghìn thứ trân bảo trang nghiêm rực rỡ, như cõi Vô Lượng Công Ðức Bảo Trang Nghiêm của Phật Bảo Trang Nghiêm. Tất cả Ðại chúng ngợi khen chưa từng có và đều thấy mình ngồi trên tòa sen báu.

Phật bảo Xá Lợi Phất:

– Ông hãy xem cõi Phật, đây trang nghiêm thanh tịnh.

Ông Xá Lợi Phất thưa:

– Dạ, bạch Thế Tôn! Từ trước dến giờ con chưa từng thấy, chưa từng nghe. Nay cõi nước của Phật đều hiện rõ trang nghiêm thanh tịnh.

Phật bảo:

– Này Xá Lợi Phất! Cõi nước của ta thường thanh tịnh như thế! Nhưng vì muốn độ những kẻ căn cơ hạ liệt nên thị hiện ra cõi đầy nhơ nhớp xấu xa bất tịnh đó thôi. Ví như Chư Thiên đồng dùng một thứ bát bằng ngọc báu để ăn, nhưng tùy phước đức của mỗi vị mà sắc cơm có khác. Như thế, Xá Lợi Phất! Nếu tâm người thanh tịnh, sẽ thấy cõi này công đức trang nghiêm.

Trong khi Phật hiện ra cõi nước trang nghiêm thanh tịnh, 500 vị Trưởng giả tử do ông Bảo Tích dắt đến đều chứng được vô sanh Pháp nhẫn, tám vạn bốn nghìn người phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Bấy giờ Phật thâu nhiếp thần túc (62) lại, cõi nước trở thành như xưa. Ba vạn hai nghìn người và Trời cầu Thanh văn thừa đều nhận rõ các Pháp hữu vi (63) là vô thường, xa lìa trần cấu (64) đặng pháp nhãn thanh tịnh (65), tám nghìn vị Tỳ kheo không còn chấp thọ các pháp, kiết lậu (66) đã hết, tâm ý được giải thoát.


Chú thích:

1. Kinh: Nói đủ là “Khế kinh”, nghĩa là “pháp thường” khế hiệp chơn lý cùng khế hiệp căn cơ chúng sanh.

2. Duy Ma Cật: Tên một vị Trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly, tàu dịch là “Tịnh Danh”.

3. Bất khả tư nghị giải thoát: Là pháp môn giải thoát tự tại vô ngại không thể nghĩ bàn. Hai chữ “Giải thoát” đây là xa lìa tất cả phiền não nghiệp chướng khổ lụy, cứu cánh viên mãn tự tại vô ngại, không phải như hàng Nhị thừa giải thoát sanh tử mà còn chướng ngại với cảnh pháp… Xem phẩm Bất khả tư nghị sau thời rõ.

4. Phật quốc: Cõi nước của Phật. Như Tây phương Tịnh độ là cõi nước của Phật A Di Ðà, Ta bà là cõi nước của Phật Thích Ca.

5. Tỳ Da Ly: Tàu dịch là Quảng Nghiêm, nghĩa là thành này châu vi rộng lớn rất trang nghiêm, tốt đẹp, ở về Trung Ấn Ðộ.

6. Am La: Tàu dịch là “nan phân biệt” nghĩa là thứ trái cây này từ khi còn sống đến khi chín chỉ có một màu xanh nên khó phân biệt được trái nào sống trái nào chín.

7. Sư tử rống: dụ Phật, Bồ Tát thuyết pháp tự tại không sợ sệt, lại làm cho tất cả phiền não mê tánh của chúng sanh đều tiêu trừ, ví như sư tử rống lên một tiếng thì tất cả các thú đều khiếp sợ chạy trốn .

8. Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

9. Ba nghiệp: 1)Thân nghiệp, 2) Khẩu nghiệp, 3) Ý nghiệp.

10. Năm món che ngăn:

1) Tham dục;

2) Sân nhuế;

3) Thùy miên: Tâm hôn trầm không làm chi được;

4) Trạo hối: Trong tâm có sự ăn năn xao động;

5) Nghi pháp: Ðối với việc gì cũng mờ ám dụ dự không quyết đoán.

Năm món này hay che đậy chơn tánh và làm cho các pháp lành không phát khởi hiển lộ được.

11. Mười điều ràng buộc:

1) Vô tàm: có tội lỗi mà không biết hổ:

2) Vô quý: có tội lỗi người khác biết được mà không thẹn.

3) Tật: thấy người hiền đức giàu sang sanh lòng ghen ghét;

4) Xan: bỏn sẻn không Bố thí;

5) Hối: ăn năn những tội lỗi đã làm;

6) Thùy miên: hôn mê không tỉnh sát được thâm tâm;

7) Ðiệu cử: Tâm niệm xao động;

8) Hôn trầm: thần thức hôn mê không rõ biết chi cả;

9) Sân hận: đối trước nghịch cảnh sanh tâm giận dũi;

       10) Phú: che dấu tội ác.

12. Niệm định tổng trì: Niệm tức là Tuệ; Tổng Trì: gồm nhiếp tất cả các pháp. Trong định gồm có tuệ, trong tuệ gồm có định gọi là niệm định tổng trì.

13. Vô sở đắc: Là đối với hữu sở đắc mà nối. Nghĩa là không còn trụ trước một pháp nào cả, dầu trí chứng và cảnh chứng cũng không thấy có.

14. Vô sanh pháp nhẫn: Vô sanh tức là không sanh không diệt. Nhẫn có nghĩa là tin nhận giữ gìn; là nói dùng trí vô lậu an trú trong thể chơn lý bất sanh bất diệt, tâm không lay động. Trong “Ðại Trí Ðộ luận”, quyển 50 nói: “Ðối thật tướng vô sanh diệt của các pháp, tin nhận thông suốt, không ngăn ngại, không thối lui, gọi là Vô sanh nhẫn”.

15. Pháp luân bất thối: Phật Bồ Tát thuyết pháp gọi là chuyển pháp luân. Các bậc Bồ Tát nghe pháp Phật dạy, đạo niệm càng thêm tăng tấn gọi là bất thối (không lui). Lại các bậc Bồ Tát đã chứng được “bất thối” rồi, đem pháp ấy dạy cho chúng sanh để cho được bất thối, nên gọi là chuyển pháp luân bất thối .

16. Ðại chúng: là một nhóm người đông. Trong những thời thuyết pháp của Phật, trừ Phật ra còn bao nhiêu bậc Hiền Thánh đều gọi là đại chúng. Chúng Tăng theo Phật tu học cũng gọi là Ðại chúng.

17. Tu Di: Tàu dịch là Diệu Cao, núi này thuần bằng bốn chất báu: vàng: bạc, lưu ly, pha lê rất xinh đẹp nên gọi là Diệu, Cao hơn tất cả núi khác nên gọi rằng Cao.

18. Lý Duyên khởi: Tất cả các pháp đều từ nơi các duyên nhóm họp mà sanh khởi. Vì tỏ ngộ lý duyên khởi, nhận rõ các pháp không thật có, như huyễn hóa nên chẳng chấp có, nhưng các pháp là do duyên sanh, không phải hẳn là không, nên chẳng chấp không. Có không đều lìa, mới là thâm nhập lý duyên khởi.

19. Hải đạo sư: Là nguời rất rành giỏi đường biển, làm thầy hướng đạo dắt dẫn các kẻ thương nhân vào biển để tìm ngọc báu không sợ lạc đàng. Dụ cho Phật và Bồ Tát là bực dắt dẫn chúng sanh đi vào chánh đạo không sai lạc.

20. Thập lực: Mười trí lực của Phật. Trí lực của Phật

1) Biết rõ những điều hợp lý và trái lý.

2) Biết rõ nhơn quả nghiệp báo của chúng sanh trongng ba đời.

3) Biết rõ các pháp thiền định giải thoát tam muội.

4) Biết rõ tùng bực cao thấp các căn tánh của chúng sanh.

5) Biết rõ những ưa muốn sai khác của chúng sanh.

6) Biết rõ tất cả những cảnh giới sai khác của chúng sanh trong thế gian.

7) Biết rõ chỗ đi đến của tất cả phàm phu, Hiền Thánh thế gian và xuất thế gian.

8) Biết rõ tánh danh khổ, vui, thọ, yễu của tất cả chúng sanh.

9) Biết rõ sự sống chết qua lại các kiếp trước của tất cả chúng sanh, và vô lậu Niết bàn của các Hiền Thánh.

10) Tự biết mình đã dứt hết nghiệp hoặc tập khí, không còn sanh tử triền phược nữa.

21. Vô úy: Bốn món vô úy:

1) Nhứt thế trí: hiểu biết tất cả pháp thế gian và xuất thế gian;

2) Lậu tận: hoặc nghiệp sanh tử đều biết hết;

3) Thuyết chướng đạo: nói pháp ma ngoại là chướng thánh đạo;

4) Thuyết tận khổ đạo: nói những đạo pháp có thế diệt hết các khổ.

Bốn điều này Phật đối giữa Ðại chúng các hàng Thiên ma, Phạm thiên, Sa môn, Bà la môn, nói một cách tự tại không sợ ai, không ai nói đuợc nên gọi là “Vô úy”.

22. Thập bát bất cọng: Mười tám (18) Pháp bất cọng này chỉ có Phật chứng đặng mà chẳng chung đồng với hàng Nhị thừa và Bồ Tát.

1) Thân không lỗi.

2) Miệng không lỗi.

3) Niệm không lỗi.

4) Không có tâm tuởng khác.

5) Không có tâm bất định.

6) Không có tâm không biết.

7) Sự muốn không giảm.

8) Tinh tấn không giảm.

9) Niệm không giảm.

10) Huệ không giảm.

11) Giải thoát không giảm.

12) Giải thoát tri kiến không giảm.

13) Tất cả thân nghiệp theo trí tuệ mà hành động.

14) Tất cả khẩu nghiệp theo trí tuệ mà hành động.

15) Tất cả ý nghiệp theo trí tuệ mà hành động.

16) Trí tuệ biết đời vị lai không ngại.

17) Trí tuệ biết đời quá khứ không ngại.

18) Trí tuệ biết đời hiện tại không ngại.

23. Năm đường: Trời, người, ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.

24. Ðại y vương: Thầy thuốc trị bịnh giỏi hơn các Thầy thuốc khác. Ðức Phật hay tùy thuận căn cơ chúng sanh, khéo hóa độ, khiến xa lìa tất cả khổ não, như ông Thầy thuốc hay khéo tịi lành các bịnh nhơn nên gọi Phật là “Ðại y vương”.

25. Thi khí: Tên vị vua cõi trời Ðại Phạm Thiên, ở từng trời thứ ba cõi sơ thiên của Sắc giới.

26. Tứ thiên hạ: Bốn châu thiên hạ.

1) Ðông thắng thần châu;

2) Nam thiệm bộ châu;

3) Tây ngưu hóa châu;

4) Bắc cu lô châu.

27. Thiên, long thẩn v.v…: Tục gọi là Thiên, Long Bát bộ.

1) Thiên: chư Thiên;

2) Long: là rồng;

3) Dạ xoa: loài quỉ bay đi rất mau;

4) Càn thát bà: thần âm nhạc;

5) A tu la: thần chiến đấu. Tàu dịch là Phi thiên; có phước như Trời mà đức kém hơn Trời;

6) Ca lâu na: chim đại bàng;

7) Khẩn na la: thần pháp nhạc;.

8) Ma hầu la dà: thần mãng xà.

28. Tỳ kheo: Tiếng Phạn “Bhiksu”, các thầy xuất gia thọ giới cụ túc (thọ 250 giới của Phật). Ðàn ông gọi là Tỳ kheo, còn đàn bà gọi là Tỳ kheo ni (Thọ 350 giới).

29. Ưu bà tắc: Tàu dịch là cận sự nam. Cận sự: nghĩa là thường thân cận cúng dường ủng hộ các bực xuất gia tu hành, tức là chỉ những người tại gia cư sĩ bên nam giới.

30. Ưu bà di: Tàu dịch là cận sự nữ tức là nữ cư sĩ.

31. Tòa sư tử: Pháp tòa của Phật; Phật ngồi chỗ nào thuyết pháp, thời chỗ ấy gọi là “tòa sư tử”; vì Phật tự tại vô úy hàng phục được tất cả các ngoại đạo nên lấy sư tử làm ví dụ .

32. Trưởng giả tử: con ông Trưởng giả. Trưởng giả là người vừa có của cải, vừa có đức hạnh đầy đủ. Kinh Pháp Hoa Huyền Tán quyển 10 nói: “Tâm tánh ngay thẳng, lời lẽ chơn thật, hành vi thuần cẩn, tuổi tác già cả, của cải giàu có gọi là Trưởng giả.”

33. Bảy báu: Vàng, Bạc, Lưu ly, Pha lê, Xa cừ, Xích châu, Mã não.

34. Tam thiên Ðại thiên thế giới: Một thái dương hệ tương đương với một tiểu thế giới; một ngàn tiểu thế giớì, là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Vậy đại thiên thế glới là một thế giới trải qua ba lần nhơn cho số ngàn, nên gọi là “Tam thiên Ðại thiên thế giới”.

35. Dùng tích độ chúng: Tức dùng đạo lý Niết bàn tịch diệt dứt trừ tất cả nghiệp chướng khổ lụy để độ chúng sanh.

36. Ðệ nhứt nghĩa: Tượng trưng chơn lý cứu cánh, thật tánh các pháp; trên hết tất cả là “đệ nhứt”, có lý do như thật gọi là “nghĩa”. Cảnh giới của bậc tự giác thánh trí chứng đặng. Chẳng phải hạng dùng ngôn thuyết vọng tưởng so lường biết được. Trong kinh Pháp Hoa nghĩa sớ quyển 4 nói: “Cái đạo nhứt thật, lý cùng tột không chi hơn là “đệ nhứt””. Có nguyên do như thật gọi là “Nghĩa”.

37. Phật thọ: Tức là cội bồ đề; chỗ Phật thành đạo ở dưới cội cây này gọi là Phật thọ, Ðạo thọ hay là Bồ đề thọ.

38. Cam lồ diệt: Cam lồ dụ cho Niết bàn; chứng đặng Niết bàn, dứt dòng sanh tử, gọi là “Cam lồ diệt”.

39. Không tâm ý, không thọ hành: Là không còn tâm niệm vọng tưởng phân biệt và tâm cảm giác xúc thọ, thi vi động tác.

40. Ba lần chuyển pháp: Tức tam chuyển pháp luân. Khi Đức Phật Thích Ca mới thành đạo, nói pháp tứ đế cho 5 thấy Tỳ Kheo ở vườn Lộc Uyển, ba phen nói thành mười hai hành… Pháp của Phật dạy hay dẹp trừ phiền não của chúng sanh, như bánh xe hay cán dẹp cỏ rác, cát, sạn, nên gọi là Pháp luân. Người nói giáo pháp để chuyển tâm ô nhiểm của chúng sanh thành tâm thanh tịnh gọi là “Chuyển pháp luân”. Lại có nghĩa là chuyển ba món: hoặc, nghiệp, khổ trở thành ba đức: Bát nhã, Giải thoát, Pháp thân gọi là ba lần chuyển pháp.

41. Pháp hải: Biển pháp. Phật pháp rộng lớn khó lường ví như bể cả.

42. Nhơn bảo: Phật là đấng báu quí hơn hết trong cõi trời và cõi người .

43. Tam giới tôn: Ðức Phật là đấng cao cả đầy đủ phước đức hơn hết trong 3 cõi, tất cả nhơn thiên đều cung kính tôn trọng nên gọi là “Tam giới tôn”.

44. Pháp bát cộng: cũng như thập bát bất cộng, có giải ở số 22.

45. Ðạo sư: Bậc dắt dẫn chúng sanh đi vào chánh đạo; tên chung của Phật và Bồ Tát.

46. Kiết phược: Các phiền não ràng buộc thân tâm làm cho không được tự tại giải thoát, nên phiền não cũng gọi là “kiết phược”.

47. Không tịch: Không các tướng là “Không”. Không khởi diệt là “tịch”. Rổng rang xa lìa tất cả tướng, không tâm niệm khởi diệt gọi là hạnh “không tịch”.

48. Pháp tướng: Tướng trạng sai khác của các pháp trong vũ trụ. Sách Ðại Thừa nghĩa chương quyển 2 nói: “Tất cả pháp hữu vi, vô vi trong thế gian đều gọi là pháp tướng”.

49. Trực tâm: Tâm chơn thật, không dua dối tà vạy; tâm chánh niệm chơn như.

50. Thâm tâm: Tâm mong cầu Phật quả cao thâm; tâm ưa muốn nhóm góp gieo trồng tất cả công đức cao dày, bền chắc, không thể dứt mất.

51. Bồ đề tâm: Tâm cầu đạo lý chơn chánh, tâm mong đạo quả chánh giác.

52. Mười điều lành: Thuận lý khởi tâm đối với cảnh không phạm 10 điều dữ:

1) Sát sanh; 2) Trộm cắp; 3) Tà dâm; 4) Nói dối; 5) Nói lời thêu dệt;

6) Nói hai lưỡi; 7) Nói lờỉ độc ác; 8) Tham; 9) Sân; 10) Si

mà thật hành những điều: phóng sanh, Bố thí, phạm hạnh, nói chắc thật, nói lời chơn chánh, nói lời hòa hiệp, nói lời dịu dàng, chẳng ghét, chẳng giận, chẳng tà kiến.

53. Ba mươi hai tướng tốt:

1) Trên đỉnh đầu thịt nổi cao lên;

2) Lông trắng chặn giữa hai chơn mày (bạch hào);

3) Tròng mắt đen trắng phân minh;

4) Lông nheo dài đẹp như của Long vưong;

5) Gương mặt tròn trịa như mặt trăng rằm;

6) Răng đủ 40 cái;

7) Răng nhỏ đều khít khao;

8) Răng trắng trong tinh sạch;

9) Luỡi rộng dài khi le ra đến chơn tóc;

10) Tiếng nói thanh tao nghe rất xa;

11) Trong cổ hầu thường có chất nước cam lồ rịn ra;

12) Thân mình nở nang tròn suông;

13) Nam căn ẩn kín;

14) Hai bên hông đầy đặn;

15) Hal tay dài quá gối;

16) Cánh tay và bàn tay da thịt mềm dịu như bông;

17) Ngón tay dài và vót;

18) Vế như vế của Lộc vương;

19) Lưng hai bàn chân no tròn;

20) Lòng bàn chân bằng phẳng;

21) Gót chân tròn trịa;

22) Lòng bàn chân có chỉ xoáy tròn rõ ràng như bánh xe nghìn cọng; 23) Kẻ ngón tay và ngón chân có da mỏng mịn như giăng lưới;

24) Bảy chỗ trong thân đều đầy đặn: (hai lòng bàn tay, hai lưng bàn chân, hai vai và yết hầu);

25) Tất cả lỗ chơn lông đều có lông đẹp;

26) Lông và tóc đều xoáỵ tròn về phía hữu;

27) Da mịn màng trơn láng;

28) Màu da như màu vàng ròng tử kim;

29) Thân hình cao lớn hơn mọi người;

30) Hình tướng đoan nghiêm;

31) Thân hinh ngay thẳng vững vàng;

32) Thường có ánh sáng sắc vàng ròng chiếu ra một tầm.

54. Tứ vô lương tâm: Cũng gọi là tứ đẳng tâm.

1) Từ: lòng ban vui cho chúng sanh;

2) Bi: lòng cứu khổ chúng sanh;

3) Hỷ: lòng vui mừng khi thấy người khỏi khổ được vui;

4) Xả: lòng không chấp trước chỗ thật hành của ba tâm trên.

Từ nơi cảnh sở duyên (chúng sanh) nói là vô lượng; từ nơi tâm năng duyên (Bồ Tát) mà khởi bình đẳng nên gọl là đẳng.

55. Tứ nhiếp pháp:

1) Bố thí nhiếp: Bồ Tát dùng tài pháp bố thí nhiếp dẫn chúng sanh trụ nơi chơn lý;

2) Ái ngữ nhiếp: Bồ tát hay tùy thuận căn tánh của chúng sanh và dùng lời nói hay ho ủy dụ họ trụ nơi chơn lý;

3) Lợi hành nhiếp: Bồ Tát khởi hạnh từ thiện nơl thân, khẩu, ý làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, nhơn đó họ được trụ nơi chơn lý.

4) Ðồng sự nhiếp: Bồ Tát dùng pháp nhãn thấy rõ căn tánh của chúng sanh, tùy theo chỗ ưa muốn của họ mà phân hình thị hiện, khiến họ được thắm nhuần lợi ích, nhơn đó họ được an trụ nơi chơn lý.

56. 37 phẩm trợ đạo: 4 pháp niệm xứ; 4 pháp chánh cần; 4 pháp như ý túc; 5 căn; 5 lục; 7 pháp giác chi; 8 pháp đạo phần . 37 pháp này giúp cho người tu hành thành tựu được đạo quả, nên gọi là trợ đạo, có giải rõ ở sau.

57. Hồi hướng tâm: Hồi: Hồi chuyển; Hướng: thu hướng. Hồi hướng là khởi lòng đại bi cứu độ chúng sanh, xoay chuyển công đức, căn lành hướng về ba chỗ: 1) Chỗ sở chúng chơn như thật tế; 2) Chỗ sở cấu vô thượng Bồ đề; 3) Chỗ sở độ tất cả chúng sanh.

58. Ba đường ác: 1) Ðịa ngục, 2) Ngạ quỉ, 3) Súc sanh.

59. Tám nạn:

1) Ðịa ngục;

2) Ngạ quỉ;

3) Súc sanh;

4) Trường thọ thiên;

5) Bắc cu lô châu;

6) Ðui, điếc, ngọng, liệu ;

7) Thế trí biện thông,

8) Sanh trước Phật hay sau Phật.

Sở dĩ gọi là tám nạn là vì ở tám chỗ này dù cảm thọ quả khổ vui có khác, nhưng đều không được thấy Phật, không được nghe chánh pháp.

60. Phạm hạnh: Giới hạnh thanh tịnh, hạnh đoạn dâm dục.

61. Cung trời Tự tại: Cung điện của trời Tự Tại Thiên Vương ở trên chót từng tứ thiền cõi sắc giới.

62. Thần túc: Pháp thần thông biến hóa tự tại vô ngại của Phật tu chứng.

63. Hữu vi: các pháp có tạo tác, sanh diệt, tức là chỉ tất cả hiện tượng biến thiên trong vũ trụ .

64. Trần cấu: Nghĩa là bụi nhớp, tức là những sự mê lầm làm cho tâm phải mờ tối. Xa lìa trần cấu tức dứt hết 88 phẩm kiến hoặc trong ba cõi.

65. Pháp nhãn thanh tịnb: Thấy rõ được lý chơn thật của các pháp; tiểu thừa chứng đưọc sơ quả, do đã xa lìa trần cấu kiến hoặc, thấy rõ thật lý pháp tứ đế. Ðại thừa chứng được Vô sanh pháp nhẫn vào bậc Sơ địa.

66. Kiết lậu: Các phiền não kết dệt trong tự tâm, nên phiền năo cũng gọi là “kiết lậư”. Kiết lậu đã hết, vì dứt trừ lòng ái nhiễm mê đắm không còn chấp thọ các pháp nên tâm ý được giải thoát, chứng đến bực vô học (A la hán).

 

II. PHẨM PHƯƠNG  TIỆN (1)

Thuở ấy, trong thành lớn Tỳ Da Ly có ông Trưởng giả tên là DUY MA CẬT, đã từng cúng dường vô lượng các Đức Phật, sâu trồng cội lành, đặng vô sanh pháp nhẫn, biện tài vô ngại , du hí thần thông (2) chứng các môn tổng trì (3) , đặng sức vô úy, hàng phục ma oán, thấu rõ Pháp môn (4) thâm diệu, khéo nơi trí độ, thông đạt các Pháp phưong tiện, thành tựu đại nguyện, biết rõ tâm chúng sanh đến đâu, hay phân biệt rành rẽ các căn lợi độn, ở lâu trong Phật đạo, lòng đã thuần thục, quyết định nơi Ðại thừa. Những hành vi đều khéo suy lường, giữ gìn đúng oai nghi của Phật, lòng rộng như bể cả, chư Phật đều khen ngợi, hàng Đệ tử, Đế Thích, Phạm Vương, vua ở thế gian v.v… thảy đều kính trọng.Vì muốn độ người, nên ông dùng phương tiện khéo thị hiện là thân Trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly, có của cải nhiều vô luợng để nhiếp độ các hạng dân nghèo; giữ giới thanh tịnh để nhiếp độ các kẻ phá giới; dùng hạnh điều hòa nhẫn nhục để nhiếp độ các người giận dữ; dùng đại tinh tiến để nhiếp độ các kẻ biếng nhác; dùng nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ kẻ tâm ý tán loạn; dùng trí tuệ quyết định để nhiếp độ những kẻ vô trí; tuy làm người bạch y (5) cư sĩ mà giữ gìn giới hạnh thanh tịnh của sa môn; tuy ở tại gia mà không đắm nhiểm ba cõi (6), thị hiện có vợ con, nhưng thường tu phạm hạnh; hiện có quyến thuộc , nhưng ưa sự xa lìa; dù mặc đồ quí báu, mà dùng tướng tốt để nghiêm thân; dù có uống ăn mà dùng thiền duyệt (7) làm mùi vị. Nếu khi đến chỗ cờ bạc, hát xướng thì ông lợi dụng cơ hội để độ người ; dù thọ các Pháp ngoại đạo nhưng chẳng tổn hại lòng chánh tín; tuy hiểu rõ sách thế tục mà thường ưa Phật Pháp; cung kính tất cả mọi người làm trên hết trong sự cúng duờng; nắm giữ chánh Pháp để nhiếp độ kẻ lớn người nhỏ; tất cả những việc trị sanh (buôn bán làm ăn) hùn hiệp, dù được lời lãi của đời, nhưng chẳng lấy đó làm vui mừng. Dạo chơi nơi ngã tư đường cái để lợi ích chung sanh; vào việc trị chánh để cứu giúp tất cả; đến chỗ giảng luận dẫn dạy cho Pháp Ðại thừa; vào nơi học đường dạy dỗ cho kẻ đồng mông; vào chỗ dâm dục để chỉ bày sự hại của dâm dục; vào quán rượu mà hay lập chí. Nếu ở trong hàng Trưởng giả, là bực tôn quý trong hàng Trưởng giả, giảng nói các Pháp thù thắng; nếu ở trong hàng cư sĩ, là bực tôn quí trong hàng cư sĩ, dứt trừ lòng tham đắm cho họ; nếu ở trong dòng Sát đế lợi (8), là bậc tôn quý trong dòng Sát đế lợi, dạy bảo cho sự nhẫn nhục; nếu ở trong dòng Bà la môn (9), là bực tôn quí trong dòng Bà la môn, khéo trừ lòng ngã mạn của họ; nếu ở nơi Ðại thần, là bực tôn quí trong hàng Ðại thần, dùng chánh pháp để dạy dỗ; nếu ở trong hàng Vương tử, là bực tôn quí trong hàng Vương tử, chỉ dạy cho lòng trung hiếu; nếu ở nơi nội quan (10) , là bậc tôn quý trong hàng nội quan, khéo dạy dỗ các hàng cung nữ; nếu ở nơi thứ dân, là bực tôn quí trong hàng thứ dân, chỉ bảo làm việc phước đức; nếu ở nơi trời Phạm thiên (11), là bực tôn quí trong Phạm thiên, dạy bảo cho trí tuệ thù thắng; nếu ở nơi trời Đế Thích (12), là bực tôn quí trong Ðế thích, chỉ bày cho Pháp vô thường; nếu ở nơi trời Tứ thiên vương hộ thế (13), là bực tôn quí trong Tứ thiên vương hộ thế, hằng ủng hộ chúng sanh. Trưởng giả Duy Ma Cật dùng cả thảy vô lượng phương tiện như thế làm cho chúng sanh đều được lợi ích.

Ông dùng phương tiện hiện thân có bịnh. Do ông có bịnh nên các vi Quốc Vương, Ðại thần, Cư sĩ, Bà la môn cả thảy cùng các vị Vương tử với bao nhiêu quan thuộc vô số nghìn người đều đến thăm bịnh. Vì những người đến thăm bịnh, ông nhơn dịp thân bịnh mới rộng nói Pháp: “Nầy các Nhân giả! Cái huyễn thân này thật là vô thường, nó không có sức, không mạnh không bền chắc, là vật mau hư hoại, thật không thể tin cậy. Nó là cái ổ chứa nhóm những thứ khổ não bịnh hoạn. Các Nhân giả! Người có trí sáng suốt không bao giờ nương cậy nó. Nếu xét cho kỹ, thì cái thân này như đống bọt không thể cấm nắm, thân này như bóng nổi không thể còn lâu; thân này như ánh náng dợn giữa đồng, do lòng khát ái sanh, thân này như cây chuối không bền chắc; thân này như đồ huyễn thuật, do nơi điên đảo mà ra; thân này như cảnh chiêm bao, do hư vọng mà thấy có; thân này như bóng của hình, do nghiệp duyên hiện; thân này như vang của tiếng, do nhân duyên thành; thân này như mây nổi, trong giây phút tiêu tan; thân này như điện chớp sanh diệt rất mau lẹ, niệm niệm không dừng; thân này không chủ, như là đất ; thân này không có ta, như là lửa; thân này không trường thọ, như là gió; thân này không có nhân, như là nước; thân này không thật, bởi tứ đại giả hợp mà thành; thân này vốn không, nếu lìa ngã và ngã sở; thân này là vô tri, như cây cỏ, ngói, đá; thân này không có làm ra (vô tác) (14), do gió nghiệp chuyển lay; thân này là bất tịnh, chứa đầy những thứ dơ bẩn; thân này là giả dối, dầu có tắm rửa ăn mặc tử tế rốt cuộc nó cũng tan rã; thân này là tai họa, vì đủ các thứ bịnh hoạn khổ não; thân này như giếng khô trên gò, vì nó bị sự già yếu ép ngặt; thân này không chắc chắn, vì thế nào nó cũng phải chết; thân này như rắn độc, như kẻ cướp giặc, như chốn không tụ (15) vì do ấm (16), giới (17), nhập (18) hợp thành.

Các Nhân giả! Hãy nên nhàm chán cái thân này, chớ tham tiếc nó. Phải nên ưa muốn thân Phật. Vì sao? – Vì thân Phật là Pháp thân (19), do vô lượng công đức trí tuệ sanh; do giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến (20) sanh; do từ bi hỉ xả (21) sanh; do Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Nhu hòa, Cần hành, Tinh tấn, Thiền định, Giải thoát tam muội (22), Ða văn, Trí tuệ các Pháp Ba la mật (23) sanh ; do Phương tiện sanh; do Lục thông (24), Tam minh (25) sanh; do 37 phẩm trợ đạo (26) sanh, do Chỉ quán (27) sanh; do Thập lực, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng (28) sanh; do đoạn tất cả pháp bất thiện, tu các pháp thiện sanh; do chơn thật sanh; do không buông lung sanh; vô lượng pháp thanh tịnh như thế sanh ra thân Như Lai.

Này các Nhân giả! Muốn được thân Phật, đoạn tất cả bịnh chúng sanh thì phải phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác (29).

Như vậy, Trưởng giả Duy Ma Cật vì những người đến thăm bịnh, mà nói Pháp làm cho vô số nghìn người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.


Chú thích:

1. Phương tiện: Phương là phưong pháp, tiện là tiện dụng; phương pháp đem ra dùng thích hợp căn cơ của mỗi chúng sanh, mỗi thời đại,. mỗi quốc độ nên gọi là phương tiện.

2. Du hí thần thông: Phật và Bồ Tát có thần thông tự tại vô ngại, vận dụng hóa độ chúng sanh, làm sự vui chơi của mình, nên gọi là du hý. Lại có nghĩa: Bồ Tát đã lịch thiệp các pháp thần thông, do từ chứng ngộ chơn tánh mà hiển phát, vận dụng xuất nhập dễ dàng như chơi, không điều chi ngăn ngại, chẳng phải như thần thông của nhà ngoại đạo, nhị thừa do tu luyện mà có, còn bị ngại, nên gọi là du hí thần thông.

3. Tổng trì: Tiếng Phạn gọi là Ðà la ni, Tàu dịch là Tổng trì, tức là chỉ cho công năng giữ gìn các pháp lành khiến cho không mất, các pháp dữ không sanh, chia làm bốn món:

1) Pháp Ðà la ni: với các Pháp Phật dạy nghe giữ gìn không quên.

2) Nghĩa Ðà la ni: với nghĩa các pháp giữ gìn không quên.

3) Chú Ðà la ni: do sức thiền định phát ra lời bí mật có thần hiệu không lường.

4) Nhẫn Ðà la ni: an trú nơi thật tướng của các pháp.

Trong luận Phật Ðịa, quyển thứ 5 có nói: Ðà La ni là sức tăng thượng của niệm tuệ hay giữ gìn vô lưọng Phật pháp.

4. Pháp môn: Giáo pháp của Phật nói ra là phép tắc khuôn mẫu cho thế gian. Các bậc Hiền, Thánh nương vào đó mà được nhập đạo, gọi là Pháp môn. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện nói “… dùng chữ pháp môn tỏ bày Phật đạo”.

5. Bạch y: Danh từ xưng gọi người thế tục, vì người thế tục ưa thích mặc y phục trắng nên gọi là “bạch y”.

6. Ba cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới.

7. Thiền duyệt: Sự vui thích trong cảnh thiền định. Khi nhập vào cảnh thiền định được nhàn tịnh, thư thới làm cho vui thích tâm thần.

8. Sát Ðế Lợi: (Ksatriya) tàu dịch là Ðiền chủ, giòng vua ở xứ Ấn Ðộ. Một họ trong bốn họ: 1) Sát đế lợi, 2) Bà la môn, 3)Tỳ xá, 4)Thủ đà.

9. Bà la môn: (Brahmana) Tàu dịch là Tịnh hạnh, một giòng họ tu hạnh trong sạch, thờ trời Ðại phạm thiên, ở xứ Ấn Độ.

10. Nội quan: Quan Bộ lại trong cung cấm nhà vua.

11. Phạm thiên: hoặc Ðại phạm thiên vương là vua cõi trời sơ thiền nơi Sắc giới. Cõi sơ thiền có 3 từng trời: 1) phạm chúng, 2) Phạm phụ, 3) Ðại phạm, đã xa lìa sự dục nhiễm ở cõi Dục giới, thân tâm yên tịnh trong sạch nên gọi là Phạm thiên.

12. Ðế Thích: Là vị trời chủ tể cõi Ðạo Lợi Thiên trên chót núi Tu Di. Từng trời này có 33 cõi mà vị Ðế Thích ở cõi chính giữa thống lãnh 32 cõi kia.

13. Tứ Thiên Vương hộ thế: Bốn vị ở bốn phía ngang lưng chừng núi Tu Di, làm vị ngoại tướng giúp đỡ trời Ðế Thích coi sóc dân gian, mỗi vị ủng hộ mỗi châu thiên hạ nên gọi là Tứ Thiên Vưong hộ thế:

1) Trì quốc thiên vương ở phương đông;

2) Tăng trưởng thiên vương ở phương nam;

3) Quảng mục thiên vương ở phương tây;

4) Ða văn thiên vương ở phương bắc.

14. Vô tác: Không có thi vi tạo tác, là ý nói cái thân do nhân duyên hiệp thành, không có chủ tể nên nó không tự động tác chuyển vận được.

15. Như chốn không tụ: Như chỗ tụ lạc (xóm làng) trống không, vắng vẻ có bọn giặc cướp nưong ở, hoặc chỗ đồng trống có ác quỉ nhóm họp, là chỗ đáng ghê sợ, đáng nhàm chán không thể nương ở được. Thân con người cũng như thế, do tứ đại họp thành là đống không trơn, lại là ổ chứa nhóm tội lỗi, chiu mọi sự thống khổ bịnh hoạn già chết ép ngặt, nên đáng nhàm chán xa lìa cũng như chốn không tụ kia.

16. Ấm: Năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

17. Giới: 18 giới: 6 căn: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; 6 trần: sắc, thinh, huơng vị, xúc, pháp; 6 thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

18. Nhập: 12 nhập: sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp xung nhập với 6 căn: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý.

19. Pháp thân: Là pháp giới tánh hay là chơn như. Thân có nghĩa là nhóm họp, nên Pháp thân là chỗ sở y chứa nhóm tất cả công đức Pháp tánh. Lại Đức Phật lấy pháp tánh chơn như làm thân, nên gọi là pháp thân.

20. Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến: Năm món này gọi là ngũ phần Pháp thân:

1) Thân, khẩu, ý xa lìa tất cả tội lỗi gọi là giới.

2) Chơn tâm đứng lặng lìa tất cả vọng niệm gọi là Ðịnh.

3) Chơn trí sáng suốt chiếu tỏ các pháp gọi là Tuệ.

4) Thân tâm giải thoát không bị triền phược gọi là giải thoát.

5) Biết mình thật giải thoát gọi là giải thoát tri kiến.

Người tu hành nhờ giới, định, tuệ làm nhơn mà chứng được thể giải thoát, giải thoát tri kiến của Pháp thân là quả, nên gọi là ngũ phần pháp thân.

21. Từ, bi, hỉ, xả: Xem số 5 về phần chú thích ở phẩm trước .

22. Tam muội: Tàu dịch là Ðịnh Tâm, định trụ một cảnh, xa lìa những sự loạn động.

23. Ba la mật (Paramita): Tàu dịch có ba nghĩa 1) Cứu cánh, 2) Ðáo bỉ ngạn, 3) Ðộ vô cực. Danh từ Ba la mật này là do đại hạnh của các vị Bồ Tát mà đặt tên. Chính mình thật thành đại hạnh và giáo hóa cho người đến chỗ rốt ráo nên gọi “sự cứu cánh”. Nương theo dại hạnh của Bồ Tát được từ bờ sanh tử bên này tới bờ Niết bàn bên kia, nên gọi “đáo bỉ ngạn”. Nhờ đại hạnh mà được các pháp rộng rãi sâu xa không bờ bến, nên gọi “Ðộ vô cực”.

24. Lục thông: Sáu món thần thông:

1) Thiên nhãn thông: con mắt thấy xa đến cả đại thiên thế giới, những vật nhỏ nhít như vi trùng, những vật có chất ngại, cản trở đều thấy được hết, thấy rõ các chúng sanh trong nhiều kiếp lâu xa, chết ở cõi nào, sanh về cõi nào đều thấy rõ rệt.

2) Thiên nhĩ thông: lỗ tai nghe xa đến cả thế giới, nhẫn đến tiếng rung động hết sức nhỏ, những tiếng nói của các loại đều nghe được hết.

3) Tha tâm thông: hiểu biết được tâm nỉệm tư tưởng của tất cả chúng sanh.

4) Túc mạng thông: biết rõ những kiếp trước của mình và của chúng sanh không điều gì ngăn ngại.

5) Thần túc thông: được các pháp thần thông biến hóa tự tại.

6) Lậu tận thông: trừ sạch hết thảy phiền não.

25. Tam minh:

l) Túc mạng minh: biết được những việc sống chết đời trước của mình và của tất cả chúng sanh .

2) Thiên nhãn minh: biết được những việc sống chết đời sau của mình và của tất cả chúng sanh.

3) Lậu tận minh: biết được những sự khổ hiện tại, dùng trí tuệ trừ sạch hết các phiền não.

26. Ba mươl bảy phẩm trợ đạo: 4 pháp niệm xứ; 4 pháp chánh cần; 4 pháp như ý túc; 5 căn ; 5) lực; 7 pháp giác chi; 8 pháp đạo phần. 37 pháp này giúp cho người tu hành thành tựu đưọc đạo quả nên gọi là trợ dạo.

4 pháp niệm xứ: niệm ]à tâm năng quán (tâm hay quán sát), xứ là cảnh sở quán (cảnh bị quán sát). Vì chúng sanh vọng chấp thân ngũ ấm này, nên Phật nói 4 phép quán để đối trị:

1) Quán thân bất tịnh: Quán sát thân này là vật nhơ bẫn.

2) Quán thọ là khổ: Quán sát sự thọ lãnh của thân tâm là khổ.

3) Quán tâm vô thuờng: Quán sát tâm thức luôn luôn sanh diệt không thường trụ .

4) Quán sát vô ngã: Quán sát các pháp không có chủ tể.

4 pháp chánh cần:

1) Ðoạn những ác pháp đã sanh ;

2) Ðoạn những ác pháp chưa sanh;

3) Làm cho các pháp lành tăng trưởng ;

4) Làm cho các pháp lành chưa sanh được sanh.

4 pháp như ý túc:

1) Dục như ý túc: có tâm ham muốn tu tập các pháp lành thì được như ý.

2) Niệm như ý túc: quán sát cảnh gì mà nhứt tâm chuyên chú vào đó thì được như ý.

3) Tinh tấn như y túc: do tinh tấn mà tu tập các pháp lành được như ý.

4) Tư duy như ý túc: do suy nghĩ mà tu tập được kết quả.

5 căn:

1) Tín căn: tin theo chánh đạo và trợ đạo.

2) Tinh tấn căn: là sự dõng mãnh tu theo thiện pháp;

3) Niệm căn: ghi nhớ các pháp chánh đạo và trợ đạo;

4) Ðịnh căn: nhiếp tâm theo chánh đạo;

5) Huệ căn: nhờ có dịnh mà chân tánh tự sáng suốt không phải ở ngoài vào.

5 lực: cũng như ngũ căn nhưng vì thật hành theo ngũ căn thì căn lành có sanh, song gốc ác chưa phá hết nên phải gia công tu tập thêm khiến cho thiện căn tăng trưởng. Khi thiện căn thành thục, các ác pháp khỏng còn, nên gọi là ngũ lực.

7 pháp giác chi: Giác là tỏ, nghĩa là tỏ biết pháp tu chơn hay ngụy. Chi là ngành, nghĩa là 7 pháp này có chi phái khác nhau không xen lẫn nhau nên gọi là 7 pháp giác chi hay là 7 pháp giác phần:

l) Trạch pháp giác chi: dùng trí tuệ quan sát các pháp, giản trạch rõ ràng chơn ngụy.

2) Tinh tấn giác chi: dõng mãnh chuyên tâm tu tập các pháp chơn chánh. (Không làm theo những khổ hạnh sai lầm của ngoại đạo) luôn luôn không gián đoạn.

3) Hỉ giác chi: Khởi tâm vui mừng khi ngộ được chơn pháp. Mừng này chẳng phải như những lối mừng theo các việc thường tình điên đảo hư vọng, mà là mừng được an trụ nơi pháp chơn chánh.

4) Trừ giác chi: đoạn trừ phiền não thô trọng làm cho thân tâm nhẹ nhàng thư thới, xa lìa các pháp hư giả, tăng trưởng công đức chơn thiện.

5) Xả giác chi: lìa bỏ tất cả pháp chơn, vọng, lòng rổng rang bình đẳng không tưởng dến.

6) Ðịnh giác chi: nhứt tâm an trụ một cảnh, xa lìa vọng tưởng tán loạn.

7) Niệm giác chi: thường ghi nhớ pháp tu rõ ràng khiến cho định, tuệ bình đẳng.

Lúc tâm hôn trầm nhớ ngay đến ba chi giác: trạch pháp, tinh tấn, hỉ giác mà quán sát các pháp cho khỏi hôn trầm. Lúc tâm loạn vu vơ, nghĩ ngay đến ba chi: “Trừ giác” để trừ sạch các lỗii vê thân miệng ; “Xả giác” để xả tiêu cái trí quán sát ; “Ðịnh giác” để vào nơi chánh định thu nhiếp cái tâm tán loạn, cho khòi xao động vu vơ.

8 pháp đạo phần:

1) Chánh kiến: sự hiểu biết chơn chánh.

2) Chánh tu duy: sự suy nghĩ chơn chánh.

3) Chánh ngữ: nói những lời chơn chánh không hư vọng.

4) Chánh nghiệp: hành động chơn chánh.

5) Chánh mạng: lấy sự khất thực để nuôi sống thân mạng.

6) Chánh tinh tấn: tu theo giới, định. tuệ một lòng tinh chuyên không gián đoạn.

7) Chánh niệm: ghi nhớ nhữmg pháp chơn chánh.

8) Chánh định: thu nhiếp thân tâm thường được tịch tịnh.

27. Chỉ quán: Tiếng Phạn là Xa ma tha Tỳ bác xá na, Tàu dịch là chỉ quán hay là định tuệ, tịch chiếu, minh tịnh. Chỉ: là ngăn dửt tư tuởng vọng niệm, đoạn trừ giác quán sai lầm, đối với đế lý không lay động. Quán: là trí quán sát phân biệt, hiểu rõ danh tướng các pháp nhơn duyên sanh diệt, khế hội vào lý chơn như.

28. Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng: đã giải nơi phẩm trước.

29. Vô thượng chánh đẳng chánh giác: chỗ giác ngộ của Phật không còn ai hơn nữa gọi là Vô thượng, xa lìa tà vọng gọi là Chánh, ngộ được chơn lý nên gọi là Giác. Phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác là phát tâm mong cầu trí giác vô thượng, quả Phật cứu cánh

 

III. PHẨM ĐỆ TỬ(1)

XÁ LỢI PHẤT (2)

Lúc bấy giờ, Trưởng giả Duy Ma Cật nghĩ thầm rằng:

– Nay ta bịnh nằm ở giuờng, Thế Tôn là đấng Đại từ, lẽ đâu không đoái lòng thương xót !

Phật đã biết ý ông, liền bảo Xá Lợi Phất rằng:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Xá Lợi Phất bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? – Nhớ lại trước kia, con từng ở trong rừng ngồi yên lặng (tọa thiền) dưới gốc cây, khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: “Thưa Ngài Xá Lợi Phất? Bất tất ngồi sững đó mới là ngồi yên lặng. Vả chăng ngồi yên lặng là ở trong ba cõi mà không hiện thân ý, mới là ngồi yên lặng; không khởi diệt tận định(3) mà hiện các oai nghi, mới là ngồi yên lặng; không rời đạo pháp mà hiện các việc phàm phu, mới là ngồi yên lặng; tâm không trụ trong cũng không ở ngoài mới là ngồi yên lặng; đối với các kiến chấp không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới là ngồi yên lặng; không đoạn phiền não mà vào Niết bàn(4) mới là ngồi yên lặng. Nếu ngồi được như thế là chỗ Phật ấn khả (chứng nhận) vậy”.

Bạch Thế Tôn, lúc ấy con nghe nói những lời đó rồi, im lặng không trả lời đặng, nên con không dám đến thăm bịnh ông.

MỤC KIỀN LIÊN (5)

Phật bảo Đại Mục Kiền Liên:

– Ông đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Mục Kiền Liên bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại trước kia, con vào trong thành Tỳ Da Ly ở trong xóm làng nói Pháp cho các hàng cư sĩ nghe, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: “Này Ngài Đại Mục Kiền Liên, nói Pháp cho bạch y cư sĩ, không phải như Ngài nói đó. Vả chăng nói Pháp phải đúng như pháp (xứng tánh) mà nói. Pháp không chúng sanh, lìa chúng sanh cấu(6); pháp không có ngã, lìa ngã cấu, Pháp không có thọ mạng, lìa sanh tử; Pháp không có nhơn, làn trước làn sau đều dứt; Pháp thường vắng lặng, bặt hết các tướng; Pháp lìa các tướng, không phải cảnh bị duyên ; Pháp không danh tự, dứt đường ngôn ngữ; Pháp không nói năng, lìa giác quán(7); pháp không hình tướng; như hư không; Pháp không hí luận, rốt ráo là không; Pháp không ngă sở(8), lìa ngã sở; Pháp không phân biệt, lìa các thức; Pháp không chi so sánh, không có đối đãi ; Pháp không thuộc nhân, không nhờ duyên, Pháp đồng pháp tánh, khắp vào các Pháp; Pháp tuy nơi như, không có chỗ tùy; Pháp trụ thật tế(9), các bên (hữu, vô, thường, đoạn) không động được; Pháp không lay động, không nương sáu trần(10); Pháp không tới lui, thường không dừng (trụ); Pháp thuận “không”, tùy “vô tướng”, ứng “vô tác”(11); Pháp lìa tốt xấu; Pháp không thêm bớt; Pháp không sanh diệt; Pháp không chỗ về; Pháp ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; Pháp không cao thấp: Pháp thường trụ không động; Pháp lìa tất cả quán hạnh. Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên! Pháp tướng như thế đâu có thể nói ư?

Vả chăng người nói Pháp, không nói, không dạy, còn người nghe, cũng không nghe không được. Ví như nhà huyễn thuật nói Pháp cho người huyễn hóa nghe, phải dụng tâm như thế mà nói Pháp. Phải biết căn cơ của chúng sanh có lợi độn, khéo nơi tri kiến không bị ngăn ngại, lấy tâm đạì bi ngợi khen Pháp Đại thừa, nghĩ nhớ đền trả ơn Phật, chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất, như vậy mới nên nói Pháp”.

Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy rồi, tám trăm Cư sĩ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Con không được biện tài như thế, nên không dám lãnh đến thăm bịnh ông.

ĐẠI CA DIẾP (12)

Phật bảo Đại Ca Diếp:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Ca Diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Là vì sao? – Con nhớ lại trước kia, khi khất thực trong xóm nhà nghèo, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng: Này Ngài Đại Ca Diếp! Có lòng từ bi mà không phổ cập là bỏ nhà giàu mà đi đến nhà nghèo. Ngài Ca Diếp! Ở Pháp bình đẳng nên đi khất thực theo thứ lớp. Vì không ăn mà đi khất thực; vì phá tướng hòa hiệp mà bốc cơm ăn; vì không nhận mà nhận món ăn của người; vì tưởng “không tụ” mà vào làng xóm; có thấy sắc cũng như người đui; có nghe tiếng cũng như vang; có ngửi mùi cũng như gió; lúc nếm vị không phân biệt; chạm các vật như trí chứng(13); biết các Pháp tướng như huyễn, không tự tánh, không tha tánh, trước vốn không sanh, nay cũng không diệt. Ngài Ca Diếp? Nếu có thể không bỏ bát tà(14) mà vào bát giải thoát(15), dùng tướng tà mà vào Chánh pháp, dùng một bữa ăn mà thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và các bực Hiền Thánh rồi sau mới ăn. Ăn như thế, không phải có phiền não, không phải rời phiền não, không phải vào định ý(15), không phải ra định ý, không phải ở thế gian, không phải ở Niết bàn, người thí không có phước lớn, không có phước nhỏ, không được lợi ích, không bị tổn hại, đó chính là vào Phật đạo, không nương theo hạnh Thanh Văn. Ngài Ca Diếp? Nếu ăn như thế là ăn đồ cúng thí của người không uổng vậy.

Bạch Thế Tôn! Lúc đó con nghe ông Duy Ma Cật nói lời ấy tỏ ngộ được điều chưa từng có, càng sâu khởi tâm cung kính tất cả các vị Bồ Tát. Con lại nghĩ rằng: “Kẻ danh gia này có biện tài trí tuệ mới được như thế? Ai nghe mà chẳng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác? Từ ấy đến nay, con chẳng còn đem hạnh Thanh Văn(17), Bích Chi Phật (18) để khuyên dạy người, vì thế nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

 

TU BỒ ĐỀ (19)

Phật bảo Tu Bồ Đề:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? – Nhớ lại thuở trước, con vào khất thực nơi nhà ông, lúc đó trưởng giả Duy Ma Cật lấy cái bát của con đựng đầy cơm rồi nói với con rằng: “Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Đối với cơm bình đẳng, thì các Pháp cũng bình đẳng, các Pháp bình đẳng thì cơm cũng bình đẳng, đi khất thực như thế mới nên lãnh món ăn. Như Tu Bồ Đề không trừ dâm nộ si cũng không chung cùng với nó, không hoại

thân mình mà theo một tướng, không dứt si ái sanh ra giải thoát, ở tướng ngũ nghịch(20) mà đặng giải thoát, không mở cũng không buộc, không thấy tứ đế(21) cũng không phải không thấy tứ đế, không phải đắc quả cũng không phải không đắc quả, không phải phàm phu cũng không phải rời phàm phu, không phải thánh nhơn, không phải không thánh nhơn, tuy làm nên tất cả các Pháp mà rời tướng các Pháp, thế mới nên lấy món ăn. Như Tu Bồ Đề

không thấy Phật không nghe Pháp, bọn lục sư ngoại đạo(22) kia như Phú Lan Na Ca Diếp, Mạc Dà Lê Câu Xa Lê Tử , San Xà Dạ Tỳ La Chi Tử , A Kỳ Đa Xy Xá Khâm Ba La, Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên, Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử là thầy của Ngài. Ngài theo bọn kia xuất gia, bọn lục sư kia đọa, Ngài cũng đọa theo, mới nên lấy món ăn. Tu Bồ Đề! Nếu Ngài vào nơi tà kiến, không đến bờ giác, ở nơi tám nạn, không được khỏi nạn, đồng với phiền não, lìa Pháp thanh tịnh, Ngài được vô tránh tam muội(23), tất cả chúng sanh cũng được tam muội ấy, những người thí cho Ngài chẳng gọi phước điền, những kẻ cúng dường cho Ngài đọa vào ba đường ác(24), Ngài cùng với ma nắm tay nhau làm bạn lữ, Ngài cùng với các ma và các trần lao như nhau không khác, đối với tất cả chúng sanh mà có lòng oán hận, khinh báng Phật, chê bai Pháp, không vào số chúng (Tăng), hoàn toàn không được diệt độ, nếu Ngài được như thế mới nên lấy món ăn.

Bạch Thế Tôn ! Lúc đó con nghe những lời ấy rồi mờ mịt không biết là nói gì, cũng không biết lấy lời chi đáp, con liền để bát lại muốn ra khỏi nhà ông. Ông Duy Ma Cật nói: Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Ngài lấy bát chớ sợ? Ý Ngài nghĩ sao? Như Phật biến ra một người huyễn hóa và nếu người huyễn hóa đó đem việc này hỏi Ngài, chừng ấy Ngài có sợ chăng? – Con đáp: “Không sợ!”. Trưởng giả Duy Ma Cật lại nói: Tất cả các Pháp như tướng huyễn hóa, Ngài không nên có tâm sợ sệt. Vì sao? – Vì tất cả lời nói năng không lìa tướng huyễn hóa, chí như người trí không chấp văn tự nên không sợ. Vì sao thế? – Tánh văn tự vốn ly, không có văn tự đó là giải thoát. Tướng giải thoát đó là các Pháp vậy”.

Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy rói, hai trăm Thiên Tử được Pháp nhãn thanh tịnh. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

PHÚ LÂU NA (25)

Phật bảo Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Phú Lâu Na bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại trước kia con ở trong rừng lớn, dưới gốc cây nói Pháp cho các Tỳ Kheo mới học, lúc đó ông Duy Ma Cật đến bảo con: “Thưa Phú Lâu Na! Ngài nên nhập định trước để quán sát tâm địa của những người này, rồi sau mới nên nói Pháp. Ngài chớ đem món ăn dơ để trong bát báu, phải biết rõ tâm niệm của các vị Tỳ kheo này, chớ cho ngọc lưu ly đồng với thủy tinh, chớ nên dùng pháp tiểu thừa mà phát khởi cho họ, những người kia tự không có tì vết, chớ làm cho họ có tì vết, họ muốn đi đường lớn, chớ chỉ lối nhỏ. Ngài chớ nên đem biển lớn để vào dấu chơn trâu, chớ cho ánh sáng mặt trời đồng với lửa đom đóm. Ngài Phú Lâu Na! Những vị Tỳ kheo này đã phát tâm đại thừa từ lâu, giữa chừng quên lãng, nay tại sao lại lấy pháp tiểu thừa dẫn dạy họ? Tôi xem hàng tiểu thừa trí tuệ cạn cợt cũng như người mù, không phân biệt được căn tánh lợi độn của chúng sanh.

Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật liền nhập tam muội (chánh định) làm cho những vị Tỳ kheo đó biết được kiếp trước của mình đã từng ở 500 Đức Phật vun trồng các cội đức, hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, liền đó rỗng suốt trở lại đặng bổn tâm (Đại thừa). Khi ấy, các vị Tỳ kheo cúi đầu đãnh lễ nơi chơn ông Duy Ma Cật, ông liền nhân đó nói pháp làm cho tất cả không còn thối lui nơi đạo vô thượng Bồ Đề.

Con nghĩ hàng Thanh Văn như con không quán được căn cơ của người, không nên nói Pháp. Vì thế con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

MA HA CA CHIÊN DIÊN (26)

Phật bảo Ma Ha Ca Chiên Diên:

– Ông đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Ca Chiên Diên bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại lúc trước, Phật nói lược qua yếu chỉ các Pháp cho các Tỳ Kheo nghe, sau khi đó, con diễn nói lại nghĩa ấy, là những nghĩa vô thường(27), khổ(28), không(29), vô ngã(30), và tịch diệt(31).

Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng. Thưa Ngài Ca Chiên Diên! Ngài chớ nên đem tâm hạnh sanh diệt mà nói Pháp thật tướng(32). Ngài Ca Chiên Diên! Các Pháp rốt ráo không sanh, không diệt là nghĩa “vô thường”; năm ấm rỗng không, không chỗ khởi là nghĩa “khổ”; các Pháp rốt ráo không có, là nghĩa “không”; ngã và vô ngã không hai, là nghĩa “vô ngã” ; Pháp trước không sanh, nay cũng không diệt, là nghĩa “tịch diệt”.

Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy xong, các Tỳ Kheo kia tâm được giải thoát. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

A NA LUẬT(33)

Phật bảo A Na Luật:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

A Na Luật bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? – Nhớ lại lúc trước con đi kinh hành một chỗ nọ, khi ấy có vị Phạm Vương tên Nghiêm Tịnh, cùng với một muôn Phạm Vương khác, phóng ánh sáng trong sạch rực rỡ đến chỗ con cúi đầu làm lễ và hỏi: “Thưa Ngài A Na Luật? Thiên nhãn của Ngài thấy xa được bao nhiêu?”. Con liền đáp: “Nhơn giả, tôi thấy cõi Tam thiên Đại thiên thế giới của Phật Thích Ca Mâu Ni đây như thấy

trái Am-ma-lặc(34) trong bàn tay vậy. Lúc đó ông Duy Ma Cật đến nói với con: “Thưa Ngài A Na Luật? Thiên nhãn của Ngài thấy đó làm ra tướng mà thấy hay là không làm ra tướng mà thấy? Nếu như làm ra tướng thì khác gì ngũ thông(35) của ngoại đạo, nếu không làm ra tướng thì là vô vi, lẽ ra không thấy? Bạch Thế

Tôn! Lúc ấy con nín lặng.

Các vị Phạm thiên nghe ông Duy Ma Cật nói lời ấy rồi đặng chỗ chưa từng có, liển làm lễ hỏi ông rằng “Bạch Ngài ở trong đời ai là người có chơn thiên nhãn (36) ?”.

Trưởng giả Duy Ma Cật đáp: “Có Phật Thế Tôn được chơn thiên nhãn, thường ở tam muội, thấy suốt các cõi Phật không có hai tướng” .

Khi ấy Nghiêm Tịnh Phạm vương cùng quyến thuộc năm trăm Phạm Vương đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đảnh lễ dưới chơn ông Duy Ma Cật rồi bỗng nhiên biến mất. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

ƯU BA LY (37)

Phật bảo Ưu Ba Ly:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Ưu Ba Ly bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao?  – Con nhớ lại ngày trước có hai vị Tỳ Kheo phạm luật hạnh, lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, đến hỏi con rằng: “Dạ thưa Ngài Ưu Ba Ly! Chúng tôi phạm luật thật lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, mong nhờ Ngài giải rõ chỗ nghi hồi cho chúng tôi được khỏi tội ấy”. Con liền y theo pháp, giải nói cho hai vị.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật đến nói với con: “Thưa Ngài Ưu Ba Ly, Ngài chớ kết thêm tội cho hai vị Tỳ Kheo này, phải trừ dứt ngay, chớ làm rối loạn lòng họ. Vì sao? – Vì tội tánh kia không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Như lời Phật nói: “Tâm nhơ nên chúng sanh nhơ, tâm sạch nên chúng sanh sạch. Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Tâm kia như thế nào, tội cấu cũng như thế ấy. Các Pháp cũng thế không ra ngoài chơn như. Như Ngài Ưu Ba Ly, khi tâm

tướng được giải thoàt thì có tội cấu chăng?”. Con đáp: “Không”. Ông Duy Ma Cật nói: “Tất cả chúng sanh tâm tướng không nhơ cũng như thế? Thưa Ngài Ưu Ba Ly! Vọng tưởng là nhơ, không vọng tưởng là sạch; điên đảo là nhơ, không điên đảo là sạch; chấp ngã là nhơ, không chấp ngã là sạch. Ngài Ưu Ba Ly? Tất cả pháp sanh diệt không dừng, như huyễn, như chớp ; các Pháp không chờ nhau cho đến một niệm không dừng; các Pháp đều là vọng kiến, như chiêm bao, như nắng dợn, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh ra. Người nào biết nghĩa này gọi là giữ luật, người nào rõ nghĩa này gọi là khéo hiểu.

Lúc đó hai vị Tỳ Kheo khen rằng: “Thật là bực thuợng trí? Ngài Ưu Ba Ly này không thể sánh kịp Ngài là bực giữ luật hơn hết mà không nói được”.

Con đáp rằng: “Trừ đức Như Lai ra, chưa có bực Thanh Văn và Bồ Tát nào có thể chế phục được chỗ nhạo thuyết biện tài(38) của ông Duy Ma Cật. Trí tuệ của ông thông suốt không lường”.

Khi ấy, hai vị Tỳ kheo dứt hết nghi hối, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và phát nguyện rằng: “Nguyện làm cho tất cả chúng sanh đều được biện tài như vậy”. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

LA HẦU LA(39)

Phật bảo La Hầu La:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

La Hầu La bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? – Nhớ lúc trước kia, các Trưởng giả tử ở thành Tỳ Da Ly đến con cúi đầu làm lễ hỏi rằng? “Thưa Ngài La Hầu La, Ngài là con của Phật vì đạo bỏ ngôi Chuyển Luân Vương(40) mà xuất gia, việc xuất gia đó có những lợi ích gì?”. Con liền đúng theo Pháp mà nói sự ích lợi của công đức xuất gia. Lúc đó, ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng: “Thưa La Hầu La! Ngài không nên nói cái lợi của công đức xuất gia. Vì sao? – Không lợi không công đức, mới thật là xuất gia. Về pháp hữu vi(41) có thể nói là có lợi, có công đức còn xuất gia là pháp vô vi(42), trong pháp vô vi không lợi, không công đức – La Hầu La? Vả chăng xuất gia là không kia, không đây, cũng không ở chính giữa; ly sáu mươi hai môn kiến chấp(43), ở nơi Niết bàn, là chỗ nhận của ngưỡi trí, chỗ làm của bực Thánh, hăng phục các ma, khỏi ngũ đạo(44), sạch ngũ nhãn(45), đặng ngũ lực(46), lập ngũ căn(47), không làm náo người khác, rời các tạp ác(48), dẹp các ngoại đạo, vượt khỏi giả danh, ra khỏi bùn lầy; không bị ràng buộc, không ngã sở, không chỗ thọ, không rối loạn trong lòng, ưa hộ trợ ý người khác, tùy thiền định, rời các lỗi. Nếu được như thế mới thật là xuất gia”.

Khi ấy, ông Duy Ma Cật bảo các Trưởng giả tử: “Các ngươi nay ở trong Chánh Pháp nên cùng nhau xuất gia. Vì sao? – Phật ra đời khó gặp”.

Các Trưởng giả tử nói:

– Thưa Cư sĩ, chúng tôi nghe Phật dạy: “Cha mẹ không cho, không được xuất gia”.

Ông Duy Ma Cật nói:

– Phải, các ngươi nếu phát tâm Vô Thượng Bồ Đề(49), đó chính là xuất gia, đó chính là đầy đủ Giới Pháp.

Bấy giờ ba mươì hai vị Trưởng g,iả tử đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

A NAN (50)

Phật bảo A Nan:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

A Nan bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Là vì sao? – Nhớ lại lúc trước, Thế Tôn thân hơi có bịnh phải dùng sữa bò, con cầm bát đến đứng trước cửa nhà người đại Bà la môn. Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật đến bảo con: “Này A Nan? Làm gì cầm bát đứng đây sớm thế?”.

Con đáp: “Cư sĩ, Thế Tôn thân hơi có bịnh phải dùng sữa bò, nên tôi đến đây xin sữa”.

Ông Duy Ma Cật nói: “Thôi thôi! Ngài A Nan chớ nói lời ấy! Thân Như Lai là thể kim cang(51), các ác đã dứt, các lành khắp nhóm, còn có bịnh gi, còn có não gì? – Im lặng bước đi, Ngài A Nan! Chớ phỉ báng Như Lai, chớ cho người khác nghe lời nói thô ấy, chớ làm cho các trời oai đức lớn và các Bồ Tát từ Tịnh độ phương khác đến đây nghe được lời ấy! Ngài A Nan! Chuyển Luân Thánh Vương có ít phước báu còn không tật bịnh, huống chi Như Lai phước báu nhiều hơn tất cả đấy ư? Hãy đi Ngài A Nan? Chớ làm cho chúng tôi chịu sự nhục đó, hàng ngoại đạo Phạm Chí nếu nghe lời ấy, chắc sẽ nghĩ rằng: “Sao gọi là Thầy, bịnh của mình không cứu nổi mả cứu được bịnh ngươi khác ư?” Nên lẽn đi mau, chớ để cho người nghe! Ngài A nan! Phải biết thân Như Lai, chính là Pháp Thân(52), không phải thân tư dục (53). Phật là bực Thế Tôn hơn hết ba cõi, thân Phật là vô lậu(54), các lậu đã hết, thân Phật là vô vi, không mắc vào các số lượng, thân như thế còn có bịnh gì?”.

Bạch Thế Tôn ! Lúc đó con thật quá hổ thẹn không lẽ con gần Phật mà nghe lầm ư? Con liền nghe trên hư không có tiếng nói rằng: “A Nan! Đúng như lời Cư sĩ đã nói, chỉ vì Phật ứng ra đời ác đủ năm món trược (55) nên hiện ra việc ấy, để độ thoát chúng sanh thôi. A Nan! Hãy đi lấy sữa chớ có thẹn”.

Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật trí tuệ biện tài dường

ấy, cho nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

Như vậy, năm trăm vị đại đệ tử mỗi người đếu đối trước Phật trình bày chỗ bổn duyên(56) của mình, vị nào cũng khen ngợi, thuật lại những lời của ông Duy Ma Cật và đều nói: “Không kham lãnh đến thăm bịnh ông”.


Chú thích:

1. Ðệ tử: Em, con, nghĩa là theo đạo thầy trò, thời Thầy coi trò như em, nên dùng theo cách đối với người em và cư xử. Trò thờ Thầy như cha, nên lấy theo đạo lý con người mà phụng sự Thầy. Thầy trò đối đãi với nhau nên xưng là “Ðệ tử”. Lại có nghĩa: Giác ngộ sau Phật gọi là em (đệ). Trí giác ngộ nhờ Phật phát sinh gọi là con (tử). Hai chữ “Ðệ tử”, ở đây chuyên chỉ cho hàng Thanh Văn. Dẫu biết rầng Phật là Ðạo sư trong ba cõi, cha lành của bốn loài, thời ai chẳng phải là đệ tử của Phật. Nhưng vì hàng Thanh Văn là những bậc xuất gia, theo Phật nghe pháp, hiểu biết, ngộ đạo chứng quả, nhiếp về số chúng tăng giữ gìn ngôi Tam Bảo, làm mô phạm cho ba cõi, hằng theo hầu Phật châu du giáo hóa khắp nơi. Chắng phải như hàng tại gia, tuy tin Phật mà còn phụng sự quân thân, hàng Bồ Tát dù khế hợp Phật đạo, mà lại tùy cơ tùy chỗ ứng hiện giáo hóa không định, nên trong kinh thường gọi Ðệ tử là riêng chỉ cho hàng Thanh Văn vậy.

2. Xá Lợi Phất: (Sariputra) Tàu dịch là “Thu tử”, nghĩa là con bà “Thu Lộ”. Ông là người trí tuệ cao siêu, biệt tài mẫn thiệp. Khi ông còn ở trong bụng mẹ, đã xui cho mẹ biện luận giỏi hơn người cậu là Cu Si La (Kansthla). Ðến khi ông lên 8 tuổi đã có tài diễn thuyết, cả 16 nước không ai nghi luận bằng. Sau ông theo học đạo Phật, mới bảy ngày đã thông hiểu các Pháp, nên gọi là Trí tuệ đệ nhất.

3. Diệt tận định: (Nirodbasamapatti) cũng gọi Diệt thọ tưởng định: nghĩa là diệt hết 6 thức tâm vuơng và tâm sở không còn khởi hiện hạnh. Hàng nhị thừa từ quả thứ ba sắp lên, tạm tưởng nhập Niết bàn thời nhập định này, thuộc về thánh quả chớ chẳng phải như vô tâm định của ngoại đạo.

4. Niết Bàn: (Nirvana) cũng gọi là Nê hoàn. Tàu dịch Diệt độ: Nghĩa là dứt hết phiền não nghiệp chướng vượt khỏi vòng sanh tử. Lại dịch là Viên tịch: Ðức đầy đủ khắp trần sa là “Viên”, bặt dứt nghiệp chướng khổ lụy, gọi là “Tịch”. Cũng chỉ cho bản tánh tịch tịnh, rời tất cả pháp sanh diệt khổ lụy.

6. Mục Kiền Liên: (Mua Dgalyayana): Tàu dịch: họ Thái Thúc. Ban sơ ông tu theo ngoại đạo đã lâu mà không công hiệu gì, sau nhờ ông Xá Lợi Phất thuật lại bài kệ Nhân duyên cho ông nghe, liền tỏ ngộ: theo Phật tu hành chứng quả Thanh Văn, đặng phép Thần thông bậc nhất.

6. Chúng sanh cấu: Các tâm chấp ngã, chấp có chúng sanh. Trên bản thể chơn pháp không có chúng sanh, nếu chấp có chúng sanh thành nhơ chơn pháp, nếu ngộ được chơn pháp không có chúng sanh, thời cái nhơ chấp trước kia không còn nữa.

7. Giác quán: Cũng gọi là Tầm Từ: Suy nghĩ bằng cách tâm niệm vội vàng thô động gọi là giác. Suy nghĩ chín chắn bằng tâm nhỏ nhiệm gọi là quán. Hai món này làm chướng ngại rối loạn cho tâm định, lại làm nguyên nhân phát khởi ra lời nói năng. Nếu lìa Giác Quán thì không còn lời nói năng.

8. Ngã sở: Ngã: Ta, là lối ngoại đạo, phàm phu chấp chính thân ta có một chủ tể hằng còn, hay ngoài thân có đấng chủ tể thường còn cùng khắp, thọ dụng tất cả và hay sanh vạn vật. Ngã sỡ: vật sở hữu, phụ thuộc của Ngã (ta), ngã là chủ của vạn vật, vạn vật là sở hữu của ngã. Ðây là do tính chấp có ngã mới có ngã sở.

9. Thực tế: Cùng cực thật lý của bản thể vũ trụ, Pháp tánh chơn như.

10. Sáu trần: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

11. Không, Vô tướng. Vô tác: Gọi là tam không. Ba môn này đều nói về Lý Không, cũng gọi là Tam tam muội.

1) Không tam muội: Quán các pháp từ nhơn duyên sanh, không có ngã và ngã sở.

2) Vô tướng tam muội: Xa lìa những tướng Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc và tướng Nam, tướng Nữ.

3) Vô tác tam muội: Ðối với các pháp xả hết tâm mong muốn, không còn sự tạo tác

12. Ðại Ca Diếp: Tàu dịch là Ẩm Quang, nghĩa là hào quang chói sáng trùm hết các ánh sáng khác. Nguyên kiếp trước ông chung đậu vàng với người ta và ra công thiếp tượng Phật, nhờ công đức ấy, nên đời đời cảm đặng cái báo thân sắc vàng ánh chóí. Khi gặp Ðức Phật ra đời giáo hóa, ông nguyện theo tu hành, sau lãnh thọ đặng chánh pháp. Trong hàng Ðại đệ tử, ông là đức hạnh bực nhất, cũng là khổ hạnh bực nhứt nữa.

13. Như trí chứng: Tức là khi Thật trí chứng chơn lý thành tựu đạo quả, toàn thân nhẹ nhàng an vui mà không sanh đắm nhiễm; ý nói thân chạm lánh các vật tốt, xấu, êm ấm v.v… cũng không có cảm thọ mê đắm như trí chứng vậy.

14. Bát tà: 1. Tà kiến, 2. Tà tư duy, 3. Tà ngữ, 4. Tà nghiệp, 5. Tà mạng, 6. Tà phương tiện, 7. Tà niệm: 8. Tà định. Trái với Bát chánh đạo thời gọi là Bát tà.

15. Bát giải thoát: Cũng là bát bội xả. Nghĩa là tám pháp thiền định này có công năng xa lìa, trãi bỏ tất cả phiền não được giải thoát những sự triền phược trong ba cõi.

1) Nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc: Vì muốn diệt trừ lòng tham đắm, người tu hành trước phải quán thân mình là vật nhơ nhớp, nhưng vì còn lòng tham đối với thân người, nên cũng phải quán cái thân ngưòi khác cũng như thế.

2) Nội vô sắc tướng ngoại quán sắc: Mới diệt được sắc tướng trong thân nhưng lòng tham dục đối với người ở cõi Dục khó đoạn hết, nên cũng còn quán tướng người khác bất tịnh.

3) Tịnh bội xả thân tác chứng: Ðến đây không còn tham trước tướng bất tịnh ở ngoài, chỉ ở trong cảnh định luyện tập tâm sắc quang minh trong suốt (Tịnh Bội xả). Tâm đã sáng suốt thì vui càng tăng trưởng đầy khắp trong thân (thân bội xả).

4) Hư không xứ bội xả: Người tu hành diệt được lòng tham muốn sắc thân bất tịnh của mình và của người, được nhứt tâm duyên “Không” cùng với “Không” tương ứng, tức nhập được định “Vô biên hư không xứ”.

5) Thức xứ bội xả: Do xả Hư không xứ định, nhứt tâm duyên thức. Lúc nhập định này, tức quán định, nhàm chán không ưa đắm nữa.

6) Vô sở hữu xứ bội xả: Do xả thức xứ, nhứt tâm duyên Vô sở hữu xứ. Lúc nhập định này, tức quán định y nơi năm uẩn đều không thật nên không còn ái trước nữa.

7) Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng xứ bội xả: Do xả vô sở hữu xứ định, nhứt tâm duyên phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Lúc nhập định này, y nơi năm uẩn đều không thật, nên tâm sanh nhàm chán.

8) Diệt thọ tưởng bội xả: Vì nhàm chán cái tâm tán loạn nên nhập định cho diệt hẳn tâm ấy đi. Khi đắc định cả rồi thì thành ra tám đạo giải thoát nên gọi là Bát giải.

16. Ðịnh ý: Tức tịnh tâm. Tu thiền định xa lìa ý tán loạn.

17. Thanh Văn: Hàng đệ tử Tiểu thừa y theo chánh giáo của Phật dạy, tu tập pháp Tứ đế, đoạn Kiến hoặc và Tư hoặc, chứng chánh quả. Có 4 bực:

1) Tu đà hoàn (Dự lưu quả), 2. Từ đà hàm (Nhứt lai quả), 3. A na hàm (Bất lai quả), 4. A la hán (Vô sanh quả).

18. Bích Chi Phật: Thuộc về trung thừa có 2 hạng:

1) Ðộc Giác: ra đời không gặp đặng Phật và giáo pháp, do căn lành sẵn có, ngó thấy cảnh tang thương, hoa tàn, lá úa v.v… ngộ lý vô thường, phát tâm xuất ly dục trần, tự tu tập pháp vô thường quán, chứng quả vô sanh khỏi vòng sanh tử trong tam giới;

2) Duyên Giác: Ra đời gặp Phật và giáo pháp, tu tập theo phép quán 12 nhơn duyên chứng quả vô sanh (Ðồng bực A La Hán của Thanh Văn).

19. Tu Bồ Ðề: (Shabuti) Tàu dịch là Không Sanh. Bực Ðại A La Hán tỏ ngộ lý chơn không, bực nhứt trong hàng Thanh Văn.

20. Ngũ nghịch: 1) Giết cha; 2) Giết mẹ; 3) Giết A La Hán; 4)Phá hòa hợp của chúng Tăng ; 5) Làm cho thân Phật chảy máu.

21. Tứ Ðế:

1) Khổ đế: tất cả cảnh khổ trong ba cõi như sanh, già, bịnh, chết v.v…

2) Tập đế: Nguyên nhân tất cả cảnh khổ, tức phiền não tham, sân, si v.v. chứa nhóm kết thành.

3) Diệt đế: Tịch diệt Niết bàn; dứt hết phiền não nguyên nhân thống khổ, khỏi hẳn sanh tử an vui vắng lặng.

4) Ðạo đế: Các Thánh đạo, những phương pháp tu hành để đoạn phiền não, chứng Thánh quả.

22. Lục sư ngoại đạo: Sáu ông Thầy chủ trương học thuyết ngoại đạo:

1) Phú Lan Na, chủ trương thuyết đoạn diệt;

2) Mạt Già Lê, chủ trương thuyết tự nhiên sinh;

3) San Xà Gia, chủ trương thuyết không tu hành;

4) A Kỳ Ða, chủ trương khổ hạnh;

5) Ca Na, chủ trương thuyết ngụy blện;

6) Ni Càn Ðà, chủ trương thuyết định mạng, tức Ấn Ðộ giáo bây giờ.

23. Vô tránh tam muội: Là môn chánh định cao siêu hơn hết trong các môn chánh định của hàng Thanh Văn. Môn định này do vì liễu ngộ lý không, nên bỉ, ngã đều quên, không làm tổn não chúng sanh, lại hay khiến chúng sanh không khởi phiền não.

24. Ba đường ác: Ðia ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.

25. Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử: (Purnamaitrayaniputra) Tàu dịch là Mãn Từ Tử, nghĩa là con của ông Mãn (cha) bà Tữ (mẹ). ông có tài thuyết pháp bực nhứt trong hàng Thanh Văn.

26. Ma Ha Ca Chiên Diên: (Maha Katyayana) Tàu dịch Văn Sức, nghĩa là nói năng diu dàng, biện luận rành rẽ. Ông là người có biện tài bực nhứt trong hàng Tỳ kheo.

27. Vô thường: Tất cả pháp trong đời sanh diệt dời đổi phút chốc không dừng gọi là Vô thường. Trong Trí Ðộ Luận về quyển 23 nói: “Tất cả pháp hữu vi đều vô thường vì chập chập sanh diệt, vì thuộc nhơn duyên vậy”.

28. Khổ: Những việc bức não thân tâm gọi là khổ, như sanh, già, bịnh, chết v.v…

29. Không: Các pháp do nhân duyên sanh ra, tìm xét cùng tột không có thật thể, nên gọi là không.

30. Vô ngã: Thân thể chỉ do ngũ uẩn giả hợp không có chủ tể thường nhứt. Các pháp đều do nhân duyên sanh cũng không có ngã thể thường nhứt. Trong kinh Kim Cang nói: người thông suốt được pháp vô ngã, Như Lai gọi là Chơn Bồ Tát.

31. Tịch diệt: Tiếng Phạn gọi là Niết Bàn. Lý thể tịch tịnh lìa tất cả tướng gọi là Tịch Diệt.

32. Thật tướng: Tướng chân thật không giả dối, tức là chỉ cho bản thể vạn hữu trong vũ trụ. Bản thể ấy có khi gọi là Pháp tánh, Chơn như hay Thật tướng. Danh từ tuy khác mà thể là một.

33. A Na Luật: (Aniruddha) cũng gọi A Nậu Lầu Ðà. Tàu dịch là Như ý. Nghĩa là kiếp trước ông có cúng dường một vị Phật Bích Chi, nên đời đời cảm đặng quả báo phú túc, chỗ cầu đều mãn nguyện. Khi ông mới nhập đạo, tánh hay ưa ngủ, bị Phật quở trách ông tự hổ, tinh tấn tu tập thức luôn bảy ngày đêm đến nỗì hai mắt không thấy đường, nhờ Phật dạy tu pháp “Kim cang tam muội” nên sau ông đặng Thiên nhãn bực nhứt.

34. A Ma Lặc: Thứ trái cây hình giống trái Binh Lang (trái cau) ăn nó trừ được bịnh phong lãnh.

35. Ngũ thông: 1. Thiên nhãn thông, 2. Thiên nhĩ thông, 3. Tha tâm thông, 4. Túc mạng thông, 5. Thần túc thông.

36. Chơn thiên nhãn: Là mắt của Phật, Phật hằng ở trong định, vạn tượng đều hiện trước mắt, chưa từng không thấy, mà chưa từng có thấy, nên nói không có hai tướng.

37. Ưu Ba Ly: (Upali) Tàu dịch là Cận Chấp, nghĩa là nói lúc Phật làm Thái tử, ngài Ưu Ba Ly làm quan đại thần: thân cận giúp cho Thái tử, sau theo Phật xuất gia, chứng quả A La Hán, ngài là bực giữ luật thứ nhứt.

38. Nhạo thuyết biện tài: Bồ Tát do nội trí phát sáng hay tùy thuận căn tánh chúng sanh ưa nghe pháp mà diễn nói một cách viên dung vô ngại.

39. La Hầu La: (Rahula) Tàu dịch là Phú Chướng, nghĩa là bị ngăn chướng ở trong thai mẹ 6 năm mới sanh ra, ông là con của Phật Thích Ca. Khi bà Da Du Ðà La sanh ông ra, nhằm lúc thần A tu la lấy tay che khuất mặt trời, vì thế nên dặt tên ông là La Hầu La. Trong kinh Nhân Duyên nói: Trong 10 người đệ tử lớn của Phật, ông La Hầu La là mật hạnh bực nhứt. Ðến hội Pháp Hoa, ông được thọ ký sau sẽ thành Phật hiệu là “Ðạo thất Bảo Hoa Như Lai”.

40. Chuyển Luân Vương: có bốn: 1. Thiết Luân Vương cai trị một châu thiên hạ; 2. Ðồng Luân Vương cai trị 2 châu thiên hạ; 3. Ngân Luân Vương cai trị 3 châu thiên hạ; 4. Kim Luân Vương (cai trị 4 châu thiên hạ). Vì phước nghiệp đời trước, nên khi làm vua, có xe báu tự nhiên, hoặc bằng sắt, đồng, bạc, vàng hiện ra, vua ngồi xe đó đi tuần hay dẹp giặc trong cõi mình cai trị nên gọi là Chuyển Luân Thánh Vương.

41. Hữu vi: Các pháp có tạo tác sanh diệt, tức là chỉ tất cả hiện tượng biến thiên trong vũ trụ.

42. Vô vi: Vi là thi vi tạo tác, vô vi là cái không có thi vi tạo tác lại không bị bốn tướng Sanh, Trụ, Dị, Diệt cai quản, tức là bản thể chơn lý.

43. Sáu mươi hai món kiến chấp: Ðối với pháp ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mỗi ấm phái ngoại đạo khởi 4 món kiến chấp sai lầm: 1) Chấp sắc lớn ngã nhỏ, ngã ở trong sắc; 2) Chấp ngã lớn sắc nhỏ, sắc ở trong ngã; 3) Ngoài sắc chấp ngã riêng; 4) Ngã tức là Sắc. Sắc ấm như thế thì các ấm kia cũng thế, cộng thành 20 kiến, trải ba đời nhơn thành 60 kiến, thêm hai phần căn bản là Ðoạn kiến và Thường kiến, thành 62 món tà kiến. Vì rừng kiến chấp sai lầm ấy, nên người đời không chừa một tội lỗi nào mà không làm.

44. Ngu đạo: Năm đường: Trờí, người, ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.

45. Ngũ nhãn:

1) Nhục nhãn: Mắt thịt thấy gần không thấy xa, thấy ngoài không thấv trong, vì bị sắc chất ngăn ngại ;

2) Thiên nhãn: Mất của chư Thiên nhơn tu thiền định mà thành. Mắt này có thể thấy tất cả xa gần, trước sau, trên dưới, ngày đêm, vì không có sắc chất làm ngăn ngại;

3) Huệ nhãn: mắt của hàng nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) quán thấy tất cả đều không;

4) Pháp nhãn: mắt của Bố Tát. Bồ Tát vì độ sanh dùng Pháp nhãn thanh tịnh quán khắp tất cả các pháp và tất cả chúng sanh đem những món phương tiện dạy dỗ khiến họ tu chứng;

5) Phật nhãn: Mắt của Phật, do trí tuệ viên mãn cứu cánh của Phật có đủ bốn con mắt trước nhưng có phán đặc biệt hơn, như: Người thấy rất xa, Phật lại thấy rất gần, người thấy tối tăm, Phật lại thấy sáng, cho đến không việc gì mà Ngài không thấy, không biết, không nghe, không cần để ý mà đều thấy nghe tất cả.

46. Ngũ căn: 1. Tín căn; 2.Tấn căn; 3. Niệm căn ; 4. Ðịnh căn; 5. Huệ căn đã giải nơi 2 phẩm trong phần 37 phẩm trợ đạo số 26).

47. Ngũ lực: Tức tu năm căn trên được tăng trưởng có thế lực phá trừ 5 chướng:

1) Tín lực: tín căn tăng trưởng, phá các lòng tin sai lầm mù quáng;

2) Tấn lực: tinh tấn căn tăng trưởng phá được tính lười biếng của thân tâm; 3) Niệm lực: niệm căn tăng trưởng phá được các niệm sai lầm tà vạy;

4) Ðịnh lực: định căn tăng trưởng phá được các tư tưởng loạn dộng;

5) Huệ lực: huệ căn tăng trưởng phá được các sự mê lầm trong 3 cõi.

48. Tạp ác: Các việc không lành của tâm tạp nhiễm gây tạo. Hai chữ tạp ác đây, ý nói, dù làm mọi việc phước thiện mà tâm tạp nhiễm tán loạn cũng gọi là tạp ác. Chỉ dứt trừ vọng tưởng đến đạo lý cứu cánh Niết Bàn mới gọi là lìa các tạp ác.

49. Vô thượng Bồ đề: Tức trí giác tuyệt đối, cũng như chữ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có giải ở trước.

50. A Nan: Nói đủ A Nan Ðà (Anada). Tàu dịch là Khánh Hỷ, ông là con chú bác với Phật Thích Ca, học rộng. nhớ nhiều là bực đa văn thứ nhứt trong hàng Thanh Văn đệ tử.

51. Kim cang: Một chất rất cứng chắc không chi phá vỡ nó được, mà nó lại hay phá vỡ các thứ cứng

52. Pháp thân: Có 3 thứ:

1) Pháp Hóa sanh thân, tức là thân Kim cang;

2) Ngũ phần pháp thân (đã giải nơi phẩm 2);

3) Thật tướng của các pháp,

đồng hợp thành thân Phật.

53. Tư dục thân: Thân hình do tư tưởng ái dục đợi duyên hòa hiệp sanh ở trong 3 cõi.

54. Vô lậu: Không còn rơi lọt, tức từ các bực Thánh trong hàng Thanh Văn. Bồ Tát tu hành đã dứt hết phiền não, tự tâm thanh tịnh giải thoát, không còn nghiệp chướng rơi lọt vào trong ba cõi sanh tử nữa nên gọi là vô lậu.

55. Năm món trược:

1) Kiếp trược: thời gian biến đổi không ngừng có đủ 4 món trược dưới đây:

2) Kiến trược: sự thấy biết sai lầm, tin nhận tà vạy, chính là những món “Lợi sử” vậy.

3) Phiền não trược: tham sân lững lẫy, si mê điên đảo v.v… chính là những món “Ðộn sử’ vậy.

4) Chúng sanh trược: sanh tử, tử sanh nối luôn không dứt.

5) Mạng trược: thọ mạng ngắn ngủi.

56. Bổn duyên: Do lai duyên sự của mình

 

IV. PHẨM BỒ TÁT(1)

BỒ TÁT DI LẶC (2)

Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ Tát Di Lặc:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Di Lặc bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? – Nhớ lại lúc trước con nói hạnh “bất thối chuyển” (3), cho vị Thiên Vương ở cõi trời Ðâu Suất và quyến thuộc của người, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng: “Ngài Di Lặc! Thế Tôn thọ ký (4) cho Ngài một đời sẽ được quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đó là đời nào mà Ngài được thọ ký? Ðời quá khứ chăng? Ðời vị lai chăng? Ðời hiện tại chăng? Nếu là đời quá khứ thời quá khứ đã qua. Nếu là đời vị lai thời vị lai chưa đến. Nếu là đời hiện tại thời hiện tại không dừng (trụ) . Như lời Phật nói: “Này Tỳ Kheo! Như ông ngay bây giờ cũng sanh, cũng già, cũng chết!”. Nếu dùng vô sanh (5) mà được thọ ký, thì vô sanh tức là chánh vị (6), ở trong chánh vị cũng không thọ ký, cũng không được quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thế nào Di Lặc được thọ ký một đời ư? Là từ “Như” sanh mà được thọ ký, hay là từ “Như” diệt mà được thọ ký? Nếu từ Như sanh mà được thọ ký, mà Như không có sanh. Nếu từ Như diệt được thọ ký, mà Như không có diệt. Tất cả chúng sanh đều Như, tất cả Pháp cũng Như, các Thánh Hiền cũng Như, cho đến Di Lặc cũng Như. Nếu Di Lặc được thọ ký, tất cả chúng sanh cũng phải được thọ ký – Vì sao? Vì Như không hai không khác. Nếu Di Lặc được quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tất cả chúng sanh cũng đều được. Vì sao? – Tất cả chúng sanh chính là tướng Bồ Ðề(7). Nếu Di Lặc được diệt độ, tất cả chúng sanh cũng phải diệt độ. Vì sao? – Chư Phật biết tất cả chúng sanh rốt ráo vắng lặng, chính là tướng Niết bàn, chẳng còn diệt nữa. Cho nên Di Lặc, chớ dùng Pháp đó dạy bảo các Thiên tử, thật không có chi phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cũng không có chi thối lui. Ngài Di Lặc! Phải làm cho các vị Thiên tử này bỏ chỗ kiến chấp phân biệt Bồ Ðề. Vì sao? Bồ Ðề không thể dùng thân được, không thể dùng tâm được. Tịch diệt là Bồ Ðề, vì diệt các tướng; chẳng nhận xét là Bồ Ðề, vì ly các duyên; chẳng hiện hạnh là Bồ Ðề, vì không ghi nhớ; đoạn là Bồ Ðề, bỏ các kiến chấp; ly là Bồ Ðề, lìa các vọng tưởng; chướng là Bồ Ðề, ngăn các nguyện (8); bất nhập là Bồ Ðề, không tham đắm; thuận là Bồ Ðề, thuận chơn như; trụ là Bồ Ðề, trụ pháp tánh; đến là Bồ Ðề, đến thật tế; bất nhị (9) là Bồ Ðề, ly ý pháp; bình đẳng là Bồ Ðề, đồng hư không ; vô vi là Bồ Ðề, không sanh, trụ, diệt; tri là Bồ Ðề, rõ tâm hạnh chúng sanh; không hội là Bồ Ðề, các nhập không nhóm(10); không hiệp là Bồ Ðề, rời tập khí phiền não; không xứ sở là Bồ Ðề, không hình sắc; giả danh là Bồ Ðề, danh tự vốn không; như huyễn hóa là Bồ Đề, không thủ xả; không loạn là Bồ Ðề, thường tự vắng lặng; thiện tịch là Bồ Ðề, tánh thanh tịnh; không thủ là Bồ Ðề, rời phan duyên; không khác là Bồ Ðề, các Pháp đồng đẳng; không sanh là Bồ Ðề, không thể ví dụ; vi diệu là Bồ Ðề, các Pháp khó biết.

– Bạch Thế Tôn? Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy, hai trăm vị Thiên tử chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

ÐỒNG TỬ QUẢNG NGHIÊM (11–12)

Phật bảo Ðồng tử Quang Nghiêm:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Quang Nghiêm bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? – Nhớ lại ngày trước con ở trong thành lớn Tỳ Da Ly vừa ra, lúc đó ông Duy Ma Cật mới vào thành, con liền chào và hỏi rằng: “Cư sĩ, từ đâu đến đây?”.

Ông đáp: “Tôi từ Ðạo tràng (13) đến”.

Con hỏi: “Ðạo tràng là gì?”.

Ông đáp Trực tâm là Ðạo tràng, vì không hư dối; phát hạnh là đạo tràng, làm xong các việc; thâm tâm là đạo tràng, thêm nhiều công đức; Bồ Ðề tâm là đạo tràng, vì không sai lầm; bố thí là đạo tràng, không mong phước báu; trì giới là đạo tràng, được nguyện đầy đủ; nhẫn nhục là đạo tràng, đối chúng sanh tâm không chướng ngại; tinh tấn là đạo tràng, không biếng trễ; thiền định là đạo tràng, tâm điều nhu (14); trí tuệ là đạo tràng, thấy rõ các Pháp; từ là đạo tràng, đồng với chúng sanh; bi là đạo tràng, nhẫn chịu sự khổ nhọc; hỉ là đạo tràng, ưa vui Chánh Pháp; xả là đạo tràng, trừ lòng thương ghét; thần thông là đạo tràng, thành tựu Pháp lục thông; giải thoát là đạo tràng, hay trái bỏ; phuơng tiện là đạo tràng, giáo hóa chúng sanh; tứ nhiếp là đạo tràng, nhiếp độ chúng sanh; đa văn(15) là đạo tràng, đúng theo chỗ nghe mà thật hành; phục tâm là đạo tràng, chánh quán (16) các Pháp; ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đạo tràng, bỏ Pháp hữu vi; tứ đế là đạo tràng, chẳng dối lầm thế gian; duyên khởi là đạo tràng, từ vô minh cho đến lão, tử đều không hết; các phiền não là đạo tràng, biết là vô ngã; tất cả Pháp là đạo tràng, biết các Pháp trống không; hàng ma là đạo tràng, không lay động; tam giới là đạo tràng, không chỗ đến; sư tử rống là đạo tràng, không sợ sệt; thập lực, vô úy, bất cộng pháp là đạo tràng, không các lỗi; tam minh là đạo tràng, không còn ngại; một niệm biết tất cả Pháp là đạo tràng, thành tựu nhứt thiết chủng trí (17). Như vậy Thiện nam tử! Nếu Bồ Tát đúng theo các Pháp ba la mật mà giáo hóa chúng sanh, thời bao nhiêu việc làm, hoặc nhứt cử nhứt động, phải biết đều là từ nơi đạo tràng mà ra, ở nơi Phật Pháp vậy”.

Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy, năm trăm vị Thiên nhơn đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

BỒ TÁT TRÌ THẾ (18)

Phật bảo Bồ Tát Trì Thế:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Bồ Tát Trì Thế bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? – Nhớ lại lúc trước, con ở nơi tịnh thất, bấy giờ ma Ba Tuần (19) đem một muôn hai nghìn Thiên nữ giống như trời Ðế Thích, trổi nhạc đờn ca đi đến chỗ con ở, Ma cùng với quyến thuộc cúi đầu làm lễ dưới chân con, chấp tay cung kính đứng sang một bên. Trong ý con cho là trời Ðế Thích nên bảo rằng: “Lành thay, mới đến Kiều Thi Ca (20)? Dù là có phước chớ nên buông lung. Ông nên quán ngũ dục là vô thường để cầu cội lành, ở nơi thân mạng, tài sản mà tu pháp bền chắc (21)”.

Ma vương nói với con: “Thưa Chánh sĩ (22)! Xin Ngài nhận một muôn hai nghìn Thiên nữ này để dùng hầu hạ quét tước”. Con nói rằng: “Này Kiều Thi Ca! Ông đừng cho vật phi pháp này, tôi là kẻ Sa môn Thích tử, việc ấy không phải việc của tôi”. Nói chưa dứt lời, bỗng ông Duy Ma Cạt đến nói với con: “Ðây chẳng phải là Ðế Thich, mà là Ma đến khuấy nhiễu ông đấy !…” Ông lại bảo Ma rằng: “Các vị Thiên nữ này nên đem cho ta, như ta đây mới nên thọ”. Ma sợ hãi nghĩ rằng: “Có lẽ ông Duy Ma Cật đến khuấy rối ta chăng?”. Ma muốn ẩn hình mà không thể ẩn, rán hết thần lực, cũng không đi được. Liền nghe giữa hư không có tiếng rằng: “Này Ba Tuần! Hãy đem Thiên nữ cho ông Duy Ma Cật thì mới đi được”. Ma vì sợ hãi, nên miễn cưỡng cho.

Khi ấy ông Duy Ma Cật bảo các Thiên nữ rằng:

– Ma đã đem các ngươi cho ta rồi, nay các ngươi đều phải phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Rồi ông theo căn cơ của Thiên nữ mà nói pháp để cho phát ý đạo, và bảo rằng “Các ngươi đã phát ý đạo, có Pháp vui để tự vui chớ nên vui theo ngũ dục (23) nữa”.

Thiên nữ hỏi: “Thế nào là Pháp vui?”.

Ðáp: “Vui thuờng tin Phật; vui muốn nghe pháp; vui cúng dường tăng; vui lìa ngũ dục; vui quán ngũ ấm như oán tặc; vui quán thân tứ đại như rắn độc; vui quán nội nhập (sáu căn) như không; vui giữ gìn đạo ý; vui lợi ích chúng sanh; vui cung kính cúng dường bực sư trưởng; vui nhẫn nhục nhu hòa; vui siêng nhóm căn lành, vui thiền định chẳng loạn; vui rời cấu nhiễm đặng trí tuệ sáng suốt; vui mở rộng tâm Bồ Ðề; vui hàng phục các Ma; vui đoạn phiền não; vui thanh tịnh cõi nuớc Phật; vui thành tựu các tướng tốt mà tu các công đức; vui trang nghiêm đạo tràng; vui nghe pháp thâm diệu mà không sợ; vui ba môn giải thoát mà không vui phi thời (24); vui gần bạn đồng học; vui ở chung với người không phải đồng học mà lòng không chướng ngại, vui giúp đỡ ác tri thức; vui gần thiện tri thức; vui tâm hoan hỷ thanh tịnh; vui tu vô lượng Pháp đạo phẩm. Ðó là Pháp vui của Bồ Tát”.

Khi ấy ma Ba Tuần bảo các Thiên nữ rằng: “Ta muốn cũng các ngươi đồng trở về Thiên cung”.

Các Thiên nữ đáp: “Ông đã đem chúng tôi cho cư sĩ, chúng tôi có pháp vui, chúng tôi vui lắm, không còn muốn vui theo ngũ dục nữa”.

Ma liền thưa với ông Duy Ma Cật rằng: “Xin Ngài nên xả các Thiên nữ này; người đem tất cả vật của mình để bố thí cho kẻ khác, đó mới là Bồ Tát”.

Ông Duy Ma Cật nói: “Ta đã xả rồi, ngươi hãy đem đi để cho tất cả các người được pháp nguyện đầy đủ”.

Lúc ấy các Thiên nữ hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

– Chúng tôi làm thế nào ở nơi cung ma?

Ông Duy Ma Cật đáp: “Này các chị, có Pháp môn tên là “Vô tận đăng”, các chị nên học. Vô tận đăng là ví như một ngọn đèn mồi đốt trăm ngàn ngọn đèn, chỗ tối đều sáng, sáng mãi không cùng tận. Như thế đó các chị? Vả lại một vị Bồ Tát mở mang dẫn dắt trăm nghìn chúng sanh phát tâm Bồ Ðề, đạo tâm của mình cũng chẳng bị tiêu mất, tùy nói Pháp gì đều thêm lợi ích cho các Pháp lành, đó gọi là “Vô tận đăng”. Các chị dầu ở cung ma mà dùng Pháp môn “Vô Tận Ðăng” này làm cho vô số Thiên nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng, Chánh Giác, đó là báo ơn Phật, cũng là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh”.

Bấy giờ các Thiên nữ cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông Duy Ma Cật rồi theo ma Ba Tuần trở về Thiên cung, bỗng nhiên biến mất không còn thấy nữa.

– Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật có thần lực tự tại và trí tuệ biện tài như thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

TRƯỞNG GIẢ TỬ THIỆN ĐỨC

Phật bảo Trưởng giả tử Thiện Ðức:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Thiện Ðức bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại thuở trước, con lập ra hội đại thí ở nhà cha con, hạn trong bảy ngày để cúng dường cho tất cả vị Sa môn, Bà la môn, cùng hàng ngoại đạo, kẻ nghèo khó, hèn hạ, cô độc và kẻ ăn xin. Bấy giờ ông Duy Ma Cật đến trong hội nói với con rằng: “Này Trưởng giả tử ! Vả chăng hội đại thí không phải như hội của ông lập ra đâu, phải làm hội Pháp thí(26) chớ lập ra hội đại thí này làm gì?.

Con nói: “Thưa Cư sĩ! Sao gọi là hội Pháp thí”.

Ông đáp: “Hội Pháp thí là đồng thời cúng dường tất cả chúng sanh, không trước không sau đó là hội Pháp thí”.

Con hỏi: “Thế là nghĩa gì?”.

Cư sĩ đáp: “Nghĩa là vì đạo Bồ Ðề, khởi từ tâm; vì cứu chúng sanh, khởi tâm đại bi; vì muốn giữ gìn chánh pháp, khởi tâm hoan hỉ; vì nhiếp trí tuệ, làm theo tâm xả; vì nhiếp tâm tham lẫn, khởi bố thi ba la mật, vì độ kẻ phạm giới khởi trì giới ba la mật, vì không ngã (27) pháp (28), khởi nhẫn nhục ba la mật; vì rời tướng thân tâm, khởi tinh tấn ba la mật; vì tướng Bồ Ðề, khởi thiền định ba la mật; vì nhứt thiết trí, khởi trí tuệ ba la mật; vì giáo hóa chúng sanh mà khởi ra “Không” ; chẳng bỏ Pháp hữu vi mà khởi “Vô tướng”; thị hiện thọ sanh mà khởi “vô tác”; hộ trì Chánh Pháp, khởi sức phương tiện; vì độ chúng sanh, khởi pháp tứ nhiếp; vì kính thờ tất cả, khởi pháp trừ khinh mạn; đối thân, mạng và tài sản, khởi ba pháp bền chắc; trong pháp lục niệm(29) khởi ra pháp nhớ tưởng; ở sáu pháp hòa kính (30) , khởi tâm chất trực; chơn chánh thật hành thiện pháp, khởi sự sống trong sạch; vì tâm thanh tịnh hoan hỷ, khởi gần bậc Thánh hiền; vì chẳng ghét người dữ, khởi tâm điều phục; vì pháp xuất gia, khởi thâm tâm; vì đúng theo chỗ nói mà làm khởi đa văn; vì Pháp vô tránh, khởi ở chỗ yên lặng; vì đi tới Phật huệ, khởi ra ngồi yên lặng (tọa thiền); vì mở ràng buộc cho chúng sanh, khởi tâm tu hành; vì đầy đủ tướng tốt và thanh tịnh cõi Phật, khởi sự nghiệp phước đức; vì muốn biết tâm niệm tất cả chúng sanh đúng chỗ nên nói pháp, khởi ra nghiệp trí; vì biết tất cả pháp không lấy không bỏ, vào môn nhứt tướng(31), khởi ra nghiệp huệ; vì đoạn tất cả phiền não, tất cả chướng ngại, tất cả bất thiện, khởi làm tất cả pháp trợ Phật đạo. Như vậy Thiện nam tử? Ðó là hội pháp thí. Nếu Bồ Tát trụ nơi hội pháp thí đó, là vị đại thí chủ, cũng là phước điền cho tất cả thế gian”.

– Bạch Thế Tôn ? Khi ông Duy Ma Cật nói pháp ấy, trong chúng Bà la môn hai trăm người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Lúc đó tâm con đặng thanh tinh, ngợi khen chưa từng có, cúi đầu đảnh lễ dưới chơn ông Duy Ma Cật. Con liền mở chuỗi Anh lạc giá đáng trăm nghìn lượng vàng dâng lên, ông không chịu lấy. Con nói: “Thưa Cư sĩ! Xin Ngài hãy nạp thọ, tùy ý Ngài cho”. ông Duy Ma Cật liền lấy chuỗi Anh lạc chia làm hai phần, một phần đem cho người ăn xin hèn hạ nhứt trong hội, còn một phần đem dâng cho đức Nan Thắng Như Lai. Tất cả chúng trong hội đều thấy cõi nước Quang Minh và đức Nan Thắng Như Laỉ, lại thấy chuỗi Anh lạc ở trên Đức Phật kia biến thành bốn trụ đài quí báu, bốn mặt đều trang nghiêm rực rỡ không ngăn che nhau.

Khi ấy, ông Duy Ma Cật hiện thần biến xong, lại nói rằng: “Nếu người thí chủ dùng tâm bình đẳng thí cho một người ăn xin rất hèn hạ xem cũng như tướng phước điền của Như Lai, không phân biệt, lòng đại bi bình đẳng, không cầu quả báo, đó gọi là đầy đủ pháp thí vậy”.

Trong thành những người ăn xin hèn hạ bực nhất thấy thần lực như vậy và nghe lời nói kia, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Như thế, các Bồ Tát dều tuần tự đến trước Phật trình bày chỗ bổn duyên của mình, vị nào cũng khen ngợi, thuật lại những lời ông Duy Ma Cật và đều nói “Không kham lãnh đến thăm bịnh ông”.


Chú thích:

1.Bồ tát: Nói đủ là Bồ Ðề Tát Đỏa [Bodhisatra] Tàu dịch là Giác hữu tình, nghĩa là tự mình đã giác ngộ, lại hay giác ngộ cho chúng sanh.

Bồ Tát có 3 bực:

A) Những người mới phát tâm tu hành cầu pháp Ðại thừa, tu hạnh Bồ Tát, là Bồ Tát mới phát tâm.

B) Những người học đạo Ðại thừa đã lâu đời, chứng đặng bực Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng cho đến Thập Ðịa là bực Bồ Tát tu lâu.

C) Bồ Tát chứng bực Ðẳng giác (kề Phật gọi là Bổ xứ Bồ Tát).

2. Di Lặc: (Maitreya) Tàu dịch là Từ Thị, là họ, tên là A Dật Đa. Ngài tu hạnh từ tâm không ai sánh bằng, sau sẽ ra đời nối Đức Phật Thích Ca mà thuyết pháp độ sanh gọi là Bổ xứ Bồ Tát.

3. Bất thối chuyển: Theo Ðại thừa pháp tướng có 3 bực:

1) Vị bất thối: Từ khi phát tâm tin chắc lý Ðại thừa, trải muôn kiếp tu nhơn vào bực Thập trụ rồi không còn thối đọa trong đường sanh tử nữa.

2) Hạnh bất thối: Ðã vào bực Sơ Ðịa, nơi hạnh lợi tha không còn lui sụt.

3) Niệm bất thối: từ bực Bát địa nhẫn lên đặng Diệu trí vô công dụng, mỗi niệm mỗi niệm thẳng vào biển quả chơn như, không còn một niệm nào thối chuyển.

4. Thọ ký: Ðức Phật đối với chúng sanh phát tâm Ðại thừa trao cho lời ký về sau ở nơi kiếp nào, sẽ thành Phật hiệu là gì, cõi nước tên chi và trụ thế bao lâu, độ sanh bao nhiêu.

5. Vô sanh: Chơn lý Niết bàn không sanh không diệt.

6. Chánh vị: Tức thật tướng thường trú Niết bàn của Tiểu thừa cũng gọi là chánh vị; chính là quả vị để tu chứng.

7. Bồ đề tướng: Cái tướng không tướng là tướng Bồ Đề

8. Chướng nguyện: Chơn như đạo lý không có sự mong muốn nên ngăn tất cả sự nguyện cầu.

9. Bất nhị:Không hai; Ý và Pháp là hai mà Bồ đề là vô tâm ý thì còn có pháp gì nữa, nên nói là không hai.

10. Các nhập không nhóm: 6 nhập trong và ngoài, tức 6 căn và 6 trần xung nhập nhau. Tự tánh nó vốn không, nên nói là không nhóm.

11. Quang nghiêm: Là dùng trí tuệ quang minh và phước đức quang minh trang nghiêm Pháp thân thanh tịnh, gọi là Quang nghiêm.

12. Đồng tử: Chẳng luận là tuổi trẻ mới gọi là Ðồng tử, mà những vị tu hành từ nhỏ tới già trọn không phạm dâm dục, không mất hạnh thanh tịnh đều được gọi là Ðồng tử.

13. Ðạo tràng: Là chỗ của Đức Phật thành đạo như: tòa Kim Cang; hoặc chỗ cúng dường Đức Phật, chỗ tu tập ngồi thiền, nơi chùa chiền cho đến những hạnh Pháp tu hành đắc đạo như trực tâm, thâm tâm v.v… cũng gọi là Ðạo tràng.

14. Ðiều nhu: Ðối trị phiến não làm cho mềm đi.

15. Ða văn: Rộng nghe Phật pháp, y theo chỗ nghe mà thật hành gọi là Ða văn.

16. Chánh quán: Quán hiệp đúng như lời kinh Phật dạy là chánh quán, nếu quán khác là tà quán.

17. Nhứt thiết chủng trí: Trí của Phật biết rõ tất cả đúng như thật.

18. Trì Thế Bồ Tát: Là vị Bồ Tát giữ gìn Phật pháp, đem giáo hóa chúng sanh trong đời.

19. Ba tuần: Tàu dịch là: Ác giả, sát giả tên thứ Ác ma có ác ý, làm các việc ác, thường muốn làm dứt mất huệ mạng của người tu hành.

20. Kiều Thi Ca: Là họ của trời Ðế Thích, tên là Thích Ðề Hoàn Nhơn.

21. Tu pháp bền chắc: Có 3 pháp bền chắc là ở nơi thân mạng và của cải đều quên bỏ, mà tu hành theo chánh đạo, sẽ được cái thân bất hoại, mạng vô cùng, của vô tận, dù cho trái đất cháy tan, kiếp số có cùng tận, mà 3 món ấy đều không tận, nên nói là bền chắc.

22. Chánh sĩ: Tiếng Phạn là Bồ Tát, dịch là Chánh Sĩ, nghĩa là bực cầu chánh đạo tu hạnh Ðại thừa.

23. Ngũ dục: Năm món làm khởi tâm ham muốn của người: 1) Sắc, 2) Thinh, 3) Hương, 4) Vị, 5) Xúc. Lại có chỗ nói: 1) Của cải, 2) Sắc đẹp, 3) Uống ăn, 4) Danh dự, 5)Ngủ nghỉ.

24. Vui ba môn giải thoát, không vui phi thời: Ba môn 1)Không, 2)Vô tướng, 3)Vô tác. Ba thừa đều noi theo tu tập gọi là môn, cởi mở sự ràng buộc gọi là giải thoát. Tu hành chưa đến chỗ cùng tột, giữa chừng muốn thủ chứng như hàng Nhị thừa, đó là Phi Thời. Hàng Bồ Tát không muốn như thế nên nói là không vui phi thời.

25. Trưởng giả tử Thiện Ðức: Là vị trưởng giả có căn lành đầy đủ, cội đức trồng sâu nên xưng là Thiện Ðức.

26. Pháp thí: Thí có 3 cách:

1) Tài thí: là dùng của cải bố thí cho người;

2) Tâm thí: dùng tâm từ, tâm bình đẳng ban sự vui cho người.

3) Pháp thí: nói pháp độ người làm những việc lợi ích chúng sanh hiện tại và vị lai.

27. Ngã: Phần tác động chủ tể.

28. Pháp: Phần thể chất, hình tượng, nghĩa lý, vũ trụ.

29. Lục niệm:

1) Niệm Phật: tuởng niệm đấng thực hiện sự thực;

2) Niệm Pháp: tưởng niệm sự thực;

3) Niệm Tăng: tưởng niệm người thực hành sự thực;

4) Niệm Giới: tưởng niệm công đức giới pháp và sự giữ giới;

5) Niệm thí: tưởng niệm sự bố thí;

6) Niệm thiên: tưởng niệm sanh về cõi chư Thiên. Thiên có ba: 1) Tam giới thiên: cõi Dục, Sắc và Vô Sắc; 2) Tịnh thiên: cảnh giới của Nhị thừa sanh về. 3) Ðệ nhứt nghĩa thiên: cảnh giới của Bồ Tát sanh về.

30. Sáu pháp hòa kính:

1) Thân hòa kính: Thân nghiệp đồng cung kính nhau.

2) Khẩu hòa kính: Khẩu nghiệp đồng ngợi khen khuyên nhủ nhau.

3) Ý hòa kính: Tâm ý đồng tín mến nhau.

4) Giới hòa kính: Ðồng giữ một giới pháp.

5) Kiến hòa kính: Chỗ hiểu biết đồng giải bày cho nhau.

6) Lợi hòa kính: Ðồng chia các món cúng dường.

31. Nhứt tướng: Thể tánh chơn thật bình đẳng, không có tướng sai khác, nên gọi là Nhứt tướng

 

V. PHẨM VĂN THÙ SƯ LỢI THĂM BỆNH

Bấy giờ Phật bảo Văn Thù Sư Lợi đến thăm bệnh, Văn Thù bạch Phật rằng:- Thế Tôn! Bậc Thượng Nhơn kia khó bề đối đáp, vì Ngài thấu đạt thật tướng, khéo thuyết pháp yếu, trí huệ biện tài vô ngại, biết hết tất cả lối tu của Bồ Tát, thâm nhập bí tạng của chư Phật, du hí thần thông, hàng phục ma chúng, trí huệ phương tiện đều đã viên mãn. Tuy thế, con xin vâng thánh chỉ đến thăm bệnh Ngài.

Lúc ấy các Bồ Tát, đại đệ tử và Thích Phạm tứ thiên vương trong chúng đều nghĩ rằng:

“- Nay hai đại sĩ Văn Thù và Duy Ma Cật gặp nhau, ắt sẽ thuyết diệu pháp.”Tức thì tám ngàn vị Bồ Tát, năm trăm Thanh Văn và trăm ngàn trời người đều muốn đi theo.

Bấy giờ, Văn Thù cùng các vị Bồ Tát đại đệ tử và trời người cung kính cùng nhau vào thành Tỳ Da Ly.

Lúc ấy Duy Ma Cật biết Văn Thù cùng đại chúng đến, liền dùng thần lực dời đi tất cả đồ đạc và thị giả, trong phòng rỗng không, chỉ còn một giường để nằm bệnh. Văn Thù vừa bước vào nhà thì Duy Ma Cật liền nói:

– Khéo đến Văn Thù! Tướng chẳng đến mà đến, tướng chẳng thấy mà thấy.

Văn Thù nói:

– Ðúng thế, cư sĩ! Nếu đến rồi thì chẳng đến nữa, nếu đi rồi thì chẳng đi nữa. Tại sao? Nói đến thì chẳng từ đâu đến, nói đi thì chẳng đi về đâu, chỗ được thấy chẳng còn thấy nữa. Hãy tạm bỏ qua việc này, nay bệnh của cư sĩ dễ chịu không? Ðiều trị có bớt mà chẳng thêm không? Thế Tôn gởi lời vô lượng ân cần để hỏi thăm cư sĩ. Bệnh do đâu mà khởi? Ðã bao lâu rồi? Làm sao mới khỏi được?

Duy Ma Cật nói:

– Từ Si có Ái thì bệnh Ngã sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh nên tôi bệnh, nếu tất cả chúng sanh chẳng bệnh thì tôi khỏi bệnh. Tại sao? Bồ Tát vì độ chúng sanh nên vào sanh tử, có sanh tử thì có bệnh. Nếu chúng sanh được lìa bệnh thì Bồ Tát chẳng còn bệnh. Ví như trưởng giả chỉ có một đứa con, con bệnh thì cha mẹ cũng bệnh, nếu con lành bệnh thì cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng như thế, đối với chúng sanh thương mến như con ruột, nếu chúng sanh bệnh thì Bồ Tát bệnh, chúng sanh lành bệnh thì Bồ Tát cũng lành. Còn nói về bệnh này do đâu mà khởi, bệnh của Bồ Tát do Ðại Bi khởi.

Văn Thù hỏi:

– Phòng của cư sĩ sao rỗng không chẳng có thị giả?

– Duy Ma Cật nói:

– Các cõi Phật đều rỗng không.

– Lấy gì làm Không?

– Lấy Không làm không.

– Không đâu cần không?

– Vì chẳng phân biệt nơi Không nên không.

– Không có thể phân biệt ư?

– Phân biệt cũng không.

– Cái Không ấy nên cầu ở nơi nào?

– Nên cầu nơi sáu mươi hai kiến chấp.

– Sáu mươi hai kiến chấp nên cầu ở nơi nào?

– Nên cầu nơi giải thoát của chư Phật.

– Giải thoát của chư Phật nên cầu ở nơi nào?

– Nên cầu nơi tâm hạnh của chúng sanh. Về câu hỏi: Sao chẳng có thị giả? Tất cả ma chúng và ngoại đạo đều là thị giả của tôi. Tại sao? Bọn ma ham sự sanh tử, Bồ Tát ở nơi sanh tử mà chẳng bỏ; ngoại đạo ham sự tri kiến, Bồ Tát ở nơi tri kiến mà chẳng động.

Văn Thù lại hỏi:

– Tướng bệnh của cư sĩ như thế nào?

Duy Ma Cật đáp:

– Bệnh tôi vô hình chẳng thể trông thấy.

– Bệnh này hợp với thân hay hợp với tâm?

– Chẳng hợp với thân vì vốn lìa tướng thân; cũng chẳng hợp với tâm vì tâm như huyễn hóa.

– Trong tứ đại thì đại nào là bệnh?

– Bệnh này chẳng phải địa đại, cũng chẳng lìa địa đại. Thủy, hỏa, phong đại đều cũng như thế. Nhưng vì bệnh chúng sanh từ tứ đại khởi, vì họ có bệnh nên tôi bệnh vậy.

Bấy giờ Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng:

– Bồ Tát làm sao an ủi vị Bồ Tát có bệnh?

Duy Ma Cật nói:

– Nói thân vô thường, chẳng nói nhàm chán nơi thân. Nói thân có khổ, chẳng nói ưa thích Niết Bàn. Nói thân vô ngã mà thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Nói thân không tịch, chẳng nói tịch diệt rốt ráo. Nói hối cải tội trước mà chẳng nói vào thời quá khứ, vì bệnh của mình mà thương xót bệnh của người. Phải biết đau khổ từ vô số kiếp trước. Tưởng niệm lợi ích tất cả chúng sanh nên nhớ việc tu phước, tưởng niệm nơi tịnh mạng nên chẳng sanh phiền não. Thường khởi hạnh tinh tấn, nguyện làm y vương để điều trị bệnh chúng sanh. Bồ Tát nên an ủi vị Bồ Tát có bệnh như thế để cho họ hoan hỉ.

Văn Thù hỏi:

– Cư sĩ! Vị Bồ Tát có bệnh phải tự điều phục tâm như thế nào?

Duy Ma Cật đáp:

– Vị Bồ Tát có bệnh nên nghĩ rằng “bệnh của mình đều do các phiền não, điên đảo, vọng tưởng từ kiếp trước mà sanh. Pháp vốn chẳng thật, thì ai là kẻ thọ bệnh. Tại sao? Vì tứ đại hòa hợp giả danh là thân. Tứ đại không có chủ, thân cũng vô ngã. Hơn nữa, bệnh này sanh khởi đều do chấp gã, vì thế ở nơi ngã chẳng nên chấp trước. Ðã biết gốc bệnh, liền trừ ngã tưởng và chúng sanh tưởng, phải khởi pháp tưởng.” Bồ Tát nên nghĩ rằng “Thân này do các pháp hòa hợp mà thành, khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt.”Dù nói các pháp hoà hop mà mỗi mỗi pháp đều chẳng biết nhau. Lúc khởi chẳng nói ta khởi. Lúc diệt chẳng nói ta diệt. Bồ Tát muốn diệt pháp tưởng nên nghĩ rằng, “Pháp tưởng này cũng là điên đảo. Ðiên đảo tức là bệnh lớn, ta nên lìa nó.”

Thế nào là lìa? Lìa ngã và ngã sở. Thế nào là lìa ngã, và ngã sở? Ấy là lìa nhị pháp. Thế nào là lìa nhị pháp? Chẳng nghĩ các pháp trong và ngoài, hành nơi bình đẳng. Thế nào là hành nơi bình đẳng? Là ngã với Niết Bàn bình đẳng. Tại sao? Vì ngã với Niết Bàn cả hai đều không. Lấy gì làm không? Vì chỉ có danh tự nên không. Nhị pháp như thế, pháp tánh vốn chẳng có nhất định. Ðược sự bình đẳng đó thì chẳng còn bệnh khác, chỉ có bệnh chấp không, cho đến không bệnh cũng không. Vị Bồ Tát có bệnh dùng tâm vô sở thọ mà thọ sự thọ. Khi Phật pháp chưa viên mãn cũng chẳng diệt thọ mà thủ chứng. Vì thân có khổ nên nghĩ đến chúng sanh trong ác thú mà khởi tâm đại bi. “Tâm ta đã điều phục thì cũng nên điều phục tâm của tất cả chúng sanh. Nhưng trừ bệnh họ mà chẳng trừ pháp họ, vì dứt trừ gốc bệnh mà giáo hóa họ.”

Thế nào là gốc bệnh? Vì có phan duyên, từ chỗ phan duyên mới thành gốc bệnh. Phan duyên nơi nào? Phan duyên tam giới. Làm sao đoạn dứt? Dùng tâm vô sở đắc. Nếu tâm vô sở đắc thì chẳng có phan duyên. Thế nào là vô sở đác? Là lìa nhị kiến. Thế nào là lìa nhị kiến? Phàm tất cả nhị biên đối đãi như nội kiến, ngoại kiến đều gọi là nhị kiến, nên nói lìa nhị kiến tức là vô sở đắc vậy.

LƯỢC GIẢI

Nhị kiến và nhị biên. Vì tự tánh bình đẳng bất nhị. Không những nội kiến, ngoại kiến là nhị, mà tất cả các năng sở đối đãi như sanh diệt, đoạn thường, cho đến sở đắc vô sở đắc, v.v… đều là nhị kiến. Hai chữ nhị biên cũng đồng nghĩa như thế. (Lược giải hết)

Văn Thù! Ấy là cách điều phục tâm của Bồ Tát có bệnh. Bồ Ðề của Bồ Tát là đoạn dứt các khổ lão, bệnh, tử. Nếu chẳng như thế thì sự tu hành của mình không được trí huệ, thiện lợi, ví như người thắng kẻ oán tặc mới được gọi là người dũng cảm. Cũng thế, kẻ trừ được lão, bệnh, tử mới được gọi là Bồ Tát vậy.

Vị Bồ Tát có bệnh kia nên nghĩ rằng “bệnh của ta đây phi chơn phi hữu, và bệnh của chúng sanh cũng phi chơn phi hữu.”Lúc quán như thế, đối với chúng sanh nếu có khởi lòng đại bi ái kiến thì phải dẹp bỏ ngay. Tại sao? Bồ Tát vì dứt trừ khách trần phiền não mà khởi đại bi. Ðại bi chẳng có ái kiến. Nếu đại bi có ái kiến thì nơi sanh tử có tâm nhàm chán. Nếu được lìa bỏ ái kiến thì chẳng có nhàm chán, dù sanh nơi nào cũng chẳng bị ái kiến trói buộc. Chỗ sanh chẳng bị trói buộc mới có thể thuyết pháp mở trói cho chúng sanh. Như lời Phật thuyết: Nếu tự mình bị trói mà mở trói được cho người thì chẳng có chỗ đúng. Nếu tự mình chẳng bị trói, thì mới có thể mở trói cho người. Vì thế Bồ Tát chẳng nên có sự trói buộc.

Thế nào là trói? Thế nào là mở? Tham đắm thiền vị là trói buộc của Bồ Tát. Chẳng chấp thiền vị là phương tiện mở trói của Bồ Tát.

Lại nữa, phương tiện và trí huệ chẳng thể lìa nhau. Có trí huệ mà chẳng có phương tiện thì bị trí huệ trói buộc. Nếu có phương tiện thì trí huệ được mở trói. Có phương tiện mà chẳng có trí huệ thì bị phương tiện trói buộc. Nếu có trí huệ thì phương tiện được mở trói.

Thế nào là chẳng có phương tiện thì bị trí huệ trói buộc? Bồ Tát dùng tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh, ở trong pháp không, vô tướng, vô tác mà tự điều phục. Ấy gọi là chẳng có phương tiện thì bị trí huệ trói buộc.

Thế nào là có phương tiện thì trí huệ được mở trói? Ấy là chẳng dùng tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh, ở trong pháp không, vô tướng, vô tác tự điều phục mà chẳng nhàm chán. Ấy là có phương tiện thì trí huệ được mở trói.

Thế nào là chẳng có trí huệ thì bị phương tiện trói buộc? Bồ Tát trụ nơi các phiền não như: tham, sân, si, tà kiến, v.v… mà gieo trồng cội lành. Ấy gọi là chẳng có trí huệ thì bị phương tiện trói buộc.

Thế nào là có trí huệ thì phương tiện được mở trói? Ấy là lìa các phiền não như: tham, sân, si, tà kiến, v.v… mà gieo trồng cội lành và hồi hướng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ấy gọi là có trí huệ thì phương tiện được mở trói.

Văn Thù! Bồ Tát có bệnh kia nên quán các pháp như thế và quán thân vô thường, là khổ, là không, là phi ngã, ấy gọi là trí huệ. Thân dù có bệnh mà chẳng diệt hẳn gọi là phương tiện.

Lại nữa, hể quán thân thì thân chẳng lìa bệnh, bệnh chẳng lìa thân, Bệnh ấy thân ấy chẳng mới chẳng cũ, ấy gọi là trí huệ. Thân dù có bệnh mà chẳng diệt hẳn gọi là phương tiện.

Văn Thù! Bồ Tát có bệnh nên điều phục tự tâm như thế mà chẳng trụ trong đó, cũng không trụ nơi điều phục tâm. Tại sao? Nếu trụ nơi chẳng điều phục tâm là pháp phàm phu. Nếu trụ nơi điều phục tâm là pháp Thanh Văn. Vì thế bồ Tát chẳng nên trụ nơi điều phục và chẳng điều phục. Lìa hai pháp này là hạnh Bồ Tát.

Ở nơi sanh tử chẳng hành việc ô nhiễm, trụ nơi Niết Bàn mà chẳng diệt độ hẳn là hạnh Bồ Tát. Phi hạnh phàm phu, phi hạnh hiền thánh là hạnh Bồ Tát; phi hạnh cấu, phi hạnh tịnh là hạnh Bồ Tát. Dù siêu việt hạnh ma mà thị hiện việc hàng phục bọn ma là hạnh Bồ Tát, cầu nhất thiết trí mà chẳng có sự cầu phi thời là hạnh Bồ Tát. Dù quán các pháp chẳng sanh mà chẳng nhập chánh vị là hạnh Bồ Tát. Dù quán thập nhị duyên khởi mà nhập các tà kiến là hạnh Bồ Tát. Dù nhiếp độ tất cả chúng sanh mà chẳng khởi lòng yêu mến là hạnh Bồ Tát. Dù ưa xa lìa tất cả, mà không hướng theo sự dứt hết thân tâm là hạnh Bồ Tát. Dù hành nơi tam giới mà chẳng hoại pháp tánh là hạnh Bồ Tát. Dù hành nơi tánh không mà gieo trồng nhiều cội lành là hạnh Bồ Tát. Dù hành nơi vô tướng mà độ chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù hành nơi vô tác mà thị hiện thọ thân là hạnh Bồ Tát. Dù hành nơi vô khởi mà khởi tất cả thiện hạnh là hạnh Bồ Tát. Dù hành sáu Ba La Mật mà biết khắp các tâm pháp, tâm số của chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù hành lục thông mà chẳng dứt tập lậu (tập khí phiền não) là hạnh Bồ Tát. Dù hành tứ vô lượng tâm mà chẳng tham đắm sanh cõi Phạm Thiên là hạnh Bồ Tát. Dù hành Thiền định, giải thoát, tam muội mà chẳng theo Thiền định thọ sanh là hạnh Bồ Tát. Dù hành tứ niệm xứ mà chẳng lìa hẳn thọ dụng của thân tâm là hạnh Bồ Tát. Dù hành tứ chánh cần mà chẳng xả thân tâm tinh tấn của Ðại thừa là hạnh Bồ Tát. Dù hành tứ như ý túc mà đắc thần thông tự tại của Ðại thừa là hạnh Bồ Tát. Dù hành ngũ căn mà hay phân biệt căn cơ lợi độn của chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù hành ngũ lực mà ưa cầu thập lực của Phật là hạnh Bồ Tát. Dù hành thất giác chi mà hay phân biệt trí huệ của Phật là hạnh Bồ Tát. Dù hành Bát Chánh Ðạo mà ưa tu vô lượng Phật đạo là hạnh Bồ Tát. Dù hành pháp trợ đạo của chỉ quán mà cuối cùng chẳng đọa nơi tịch diệt là hạnh Bồ Tát. Dù hành các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà dùng tướng tốt để trang nghiêm thân mình là hạnh Bồ Tát. Dù thị hiện oai nghi của Thanh Văn Duyên Giác mà chẳng xả Phật pháp đại thừa là hạnh Bồ Tát. Dù theo tướng tịnh rốt ráo của các pháp mà tùy cơ ứng hiện thân hình là hạnh Bồ Tát. Dù quán các cõi Phật tịch diệt như hư không mà thị hiện mỗi mỗi trong sạch của cõi Phật là hạnh Bồ Tát. Dù chứng đắc quả Phật, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn mà chẳng bỏ đạo Bồ Tát là hạnh Bồ Tát vậy.

Lúc Duy Ma Cật nói những lời ấy rồi, cả đại chúng đi theo Ngài Văn Thù, trong đó có tám ngàn thiên tử đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

 

VI. PHẨM BẤT TƯ NGHÌ

Bấy giờ Xá Lợi Phất thấy trong phòng chẳng có giường ngồi mà nghĩ rằng:

“Các Bồ Tát và chúng đại đệ tử sẽ ngồi đâu?”

Duy Ma Cật biết ý liền nói với Xá Lợi Phất rằng:

– Thế nào, Nhơn giả vì pháp đến hay vì giường ngồi mà đến.

Xá lợi Phất đáp:

– Tôi vì pháp đến chớ chẳng vì giường ngồi.

Duy Ma Cật nói:

– Xá Lợi Phất! Kẻ cầu pháp thân mạng còn chẳng tiếc, huống là giường ngồi. Kẻ cầu pháp chẳng cẩu nơi ngũ uẩn, lục nhập, thập bát giới, cũng chẳng cầu nơi dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Xá Lợi Phất! Kẻ cầu pháp chẳng chấp cầu Phật, cầu Pháp, cầu Tăng. Kẻ cầu pháp chẳng cầu nơi khổ, tập, diệt, đạo. Tại sao? Pháp chẳng hí luận, nếu ta nói thấy khổ phải đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, ấy là hí luận, chẳng phải cầu pháp.

Xá Lợi Phất! Pháp gọi Tịch Diệt, nếu hành nơi sanh diệt là cầu sanh diệt, chẳng phải cầu pháp. Pháp gọi là Vô Nhiễm, nếu nhiễm nơi pháp cho đến Niết Bàn, ấy là nhiễm đắm, chẳng phải cầu pháp. Pháp chẳng chỗ hành, nếu hành nơi pháp, ấy là chỗ hành, chẳng phải cầu pháp. Pháp chẳng thủ xả, nếu thủ xả pháp, ấy là thủ xả, chẳng phải cầu pháp. Pháp chẳng xứ sở, nếu chấp xứ sở, ấy là chấp xứ sở, chẳng phải cầu pháp. Pháp gọi Vô Tướng, nếu nhận biết theo tướng, ấy là cầu tướng, chẳng phải cầu pháp. Pháp chẳng thể trụ, nếu trụ nơi pháp, ấy là trụ pháp, chẳng phải cầu pháp. Pháp chẳng thể Kiến Văn Giác Tri, nếu hành Kiến Văn Giác Tri, ấy là Kiến Văn Giác Tri, chẳng phải cầu pháp. Pháp gọi Vô Vi, nếu hành hữu vi, chẳng phải cầu pháp. Như thế, Xá Lợi Phất! Kẻ cầu pháp, đối với tất cả pháp nên Vô sở cầu.

Khi Ngài nói lời ấy rồi, năm trăm thiên tử nơi các pháp được Pháp Nhãn Tịnh.

Bấy giờ, Duy Ma Cật hỏi Văn Thù rằng:

– Nhơn giả đã dạo qua vô lượng muôn ngàn ức A Tăng Kỳ cõi Phật, thấy cõi nào có tòa sư tử được thành tựu công đức vi diệu nhất?

Văn Thù nói:

– Cư sĩ! Bên phương Ðông cách đây ba mươi sáu hằng sa quốc độ, có thế giới gọi là Tu Di Tướng, hiện nay có Phật hiệu là Tu Di Ðăng Vương. Thân Phật ấy cao tám muơi bốn ngàn do tuấn, tòa sư tử cũng cao như thế, trang nghiêm hạng nhất.

Duy Ma Cật nghe xong liền hiện thần thông. Tức thì Ðức Phật ấy điều khiển ba mươi hai ngàn tòa sư tử cao rộng trang nghiêm, đến trong phòng Duy Ma Cật. Các Bồ Tát, đại đệ tử và Thích Phạn Tứ Thiên Vương, v.v… đều thấy việc xưa nay chưa từng thấy. Phòng nhỏ này dung nạp ba mươi hai ngàn tòa sư tử cao rộng như thế, mà chẳng thấy ngăn ngại, nơi thành Tỳ Da ly, cho đến cõi Ta Bà, bốn thiên hạ cũng chẳng thấy chật hẹp, tất cả trạng thái đều y như cũ.

Khi ấy Duy Ma Cật mời Văn Thù và các Bồ Tát thượng nhơn an tọa. Những Bồ Tát đắc thần thông liền biến hình cao bằng tòa sư tử và lên ngồi. Nhưng các sơ tâm Bồ Tát và đại đệ tử vì chưa được thần thông tự tại, đều chẳng thể lên ngồi.

Kế đó, Duy Ma Cật mời Xá Lợi Phất an tọa. Xá Lợi Phất nói:

– Thưa Cư sĩ! Tòa này cao rộng quá, tôi chẳng thể lên được.

Duy Ma Cật nói:

– Xá Lợi Phất! Hãy đảnh lễ Tu Di Ðăng Vương Như Lai thì mới ngồi được.

Nghe vậy, các sơ tâm Bồ Tát và đại đệ tử đầu đảnh lễ Tu Di Ðăng Vương Như Lai, liền ngồi được trên tòa sư tử.

Xá Lợi Phất nói:

– Thưa Cư sĩ! Thật chưa từng có. Phòng nhỏ này dung nạp các tòa cao rộng như thế, mà nơi thành Tỳ Da Ly chẳng thấy ngăn ngại, các thôn quê, thành phố, trong cõi Ta Bà và cung điện của chư Thiên, Long Vương, quỷ thần nơi tứ thiên hạ cũng chẳng thấy chật hẹp.

Duy Ma Cật nói:

– Xá Lợi Phất! Chư Phật Bồ Tát có pháp môn giải thoát gọi là Bất Khả Tư Nghì. Nếu Bồ Tát trụ pháp giải thoát đó, đem núi Tu Di cao rộng để trong hạt cải mà chẳng thêm bớt, tướng chúa núi Tu Di vẫn như cũ. Tứ Thiên Vương và Ðao Lợi chư Thiên cũng chẳng hay biết mình đã vào đó, chỉ có người đáng độ mới thấy núi Tu Di vào trong hạt cải thôi, ấy gọi là pháp môn Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì.

Lại nữa, Bồ Tát đem nước của bốn biển lớn để vào một lỗ chân lông, mà các loài thủy tộc như: cá, rùa, tôm, cua, v.v… chẳng bị khuấy động, tánh biển vẫn y như cũ. Các loài rồng, quỷ thần, A Tu La, v.v… cũng chẳng hay biết mình đã vào đó, đối với những chúng sanh ấy cũng chẳng bị khuấy động.

Xá Lợi Phất! Bồ Tát trụ nơi giải thoát Bất Khả Tư Nghì, rút lấy đại thiên thế giới, như lấy đồ gốm để trong bàn tay phải, quăng ra ngoài hằng sa thế giới, rồi đem trở lại chỗ cũ, mà chúng sanh ở trong đó chẳng hay biết mình bị di chuyển qua lại từ xa, tướng thế giới này cũng vẫn y như cũ.

Xá Lợi Phất! Hoặc có chúng sanh đáng độ, mà ham trụ lâu nơi thế gian, thì Bồ Tát biến hiện bảy ngày dài như một kiếp, khiến chúng sanh kia tưởng là một kiếp. Hoặc có chúng sanh đáng độ mà chẳng ham trụ lâu thì Bồ Tát rút một kiếp lại thành bảy ngày, khiến chúng sanh ấy tưởng là bảy ngày.

Xá Lợi Phất! Bồ Tát trụ nơi Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì, đem sự nghiệp trang nghiêm của tất cả cõi Phật gom trong một quốc độ để thị hiện cho chúng sanh biết. Lại nữa, Bồ Tát ấy đem chúng sanh trong tất cả cõi Phật, để trên bàn tay phải bay khắp mười phương thế giới, bày ra cho ai cũng thấy mà chỗ ở vẫn như cũ, chẳng bị lay động.

Xá Lợi Phất! Những đồ cúng dường chư Phật của mười phương chúng sanh, Bồ Tát khiến đều hiện nơi một lỗ chân lông cho ai cũng được nhìn thấy, khiến tất cả nhật nguyệt tinh tú trong cõi mười phương cùng hiện nơi một lỗ chân lông cho tất cả đều thấy.

Xá Lợi Phất! Tất cả khắp mười phương thế giới, Bồ Tát hút vào trong miệng mà thân hình chẳng thêm bớt, cây cối cũng chẳng gãy ngã. Khi kiếp hỏa cháy tan cõi mười phương, Bồ Tát đem kiếp hỏa ấy để trong bụng, hỏa đang cháy mà bụng chẳng bị thương tổn. Bồ Tát từ hằng sa thế giới nơi phương dưới, đem một cõi Phật đưa lên phương trên, đi qua hằng sa thế giới như cầm mũi kim ghim một lá táo, mà tất cả chúng sanh trong đó chẳng thấy khuấy động.

Xá Lợi Phất! Bồ Tát trụ nơi Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì, dùng thần thông hiện làm thân Phật, hoặc hiện thân Duyên Giác, hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc hiện thân Ðế Thích, hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân vua chúa thế gian, hoặc hiện thân Chuyển Luân Pháp Vương. Lại khiến tất cả âm thanh lớn nhỏ trong mười phương thế giới đều biến thành âm thanh của Phật, diễn ra các tiếng vô thường, khổ, không và vô ngã, v.v… cho đến mỗi mỗi pháp của mười phương chư Phật sở thuyết đều ở trong đó, ai cũng được nghe.

Xá Lợi Phất! Nay ta lược thuyet năng lực của Bồ Tát giải thoát bất khả tư nghì như thế, nếu nói rộng ra thì cùng kiếp cũng chẳng hết.

Khi đó, Ðại Ca Diếp nghe nói pháp môn Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì của Bồ Tát, tán thán việc chưa từng có, lại nói với Xá Lợi Phất rằng:

– Ví như có người hiện nhiều sắc tướng trước mặt người mù. Những tướng ấy đều chẳng phải sở thấy của họ. Tất cả hàng Thanh Văn Duyên Giác nghe pháp môn Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì này, cũng chẳng thể hiểu biết như thế. Nếu người trí được nghe thì có ai mà chẳng phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Tại sao chúng ta tuyệt hẳn giống Phật nơi Ðại Thừa nầy như hạt giống thúi mục? Vậy tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp môn này đều nên khóc to và tiếng khóc ấy vang cả đại thiên thế giới. Tất cả Bồ Tát lại nên vui mừng mà thọ lãnh pháp này. Nều có Bồ Tát tín giải pháp môn này, tất cả bọn ma muốn khuấy phá cũng chẳng làm gì được.

Ðại Ca Diếp nói lời này rồi, có ba mươi hai ngàn thiên tử phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Bấy giờ Duy Ma Cật nói với Ðại Ca Diếp rằng:

– Nhơn giả! Các vị làm ma vương trong mười phương vô lượng A Tăng Kỳ thế giới, đa số là Bồ Tát trụ nơi Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì, vì dùng phương tiện để giáo hóa chúng sanh nên thị hiện làm ma vương.

Ca Diếp! Mười phương vô lượng sơ tâm Bồ Tát đôi khi có người đến xin tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, xương, thịt, tủy não, nhà cửa, vợ con, quyến thuộc, xe cộ, trâu ngựa, vàng bạc, thất bửu, cho đến quần áo, thức ăn, v.v… Những kẻ ăn xin như thế, đa số là Bồ Tát trụ nơi Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì, dùng phương tiện để thử thách, khiến lòng tin họ vững chắc. Tại sao? Bồ Tát trụ nơi Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì mới có oai đức hành sự bức ngặt như thế, để chỉ bày cho chúng sanh những việc khó làm. Nếu là phàm phu hạ liệt thì chẳng có sức mạnh thần diệu để bức ngặt những sơ tâm Bồ Tát như thế. Ví như sự đá đạp của long tượng, chẳng phải con lừa có thể làm được. Ấy gọi là cửa trí huệ phương tiện của Bồ Tát trụ nơi Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì.

 

VII. PHẨM QUÁN CHÚNG SINH

Bấy giờ, Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng:

– Bồ Tát nên quán chúng sanh như thế nào?

Duy Ma Cật nói:

– Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn của mình hóa ra. Bồ Tát nên quán chúng sanh như thế. Như người trí thấy trăng trong nước, thấy hình trong gương, như dương diệm, như tiếng vang, như mây giữa trời. Cho đến những vật chẳng thể tưởng tượng như: lông rùa, sừng thỏ, v.v… Bồ Tát nên quán chúng sanh như thế.

Văn Thù nói:

– Nếu Bồ Tát quán như thế làm sao hành việc Từ?

Duy Ma Cật nói:

– Bồ Tát quán như thế rồi tự nghĩ rằng: Ta nên vì chúng sanh thuyết pháp này. Ấy tức là hạnh Từ chơn thật. Hạnh Từ tịch diệt vì vốn vô sanh. Hạnh Từ chẳng nóng nảy vì vô phiền não. Hạnh Từ bình đẳng vì tam thế bình đẳng. Hạnh Từ vô tranh vì vô sở khởi. Hạnh Từ bất nhị vì trong ngoài bất hợp. Hạnh Từ chẳng hoại vì vốn là không thật. Hạnh Từ kiên cố vì tâm chẳng hoại diệt. Hạnh Từ trong sạch vì pháp tánh trong sạch. Hạnh Từ vô biên vì như hư không. Hạnh Từ A La Hán vì phá kết tặc phiền não. Hạnh Từ Bồ Tát vì cho chúng sanh yên tâm. Hạnh Từ Như Lai vì đắc tướng Như Như. Hạnh Từ Chư Phật vì giác ngộ chúng sanh. Hạnh Từ tự nhiên vì vô nhân mà đắc. Hạnh Từ Bồ Ðề vì bình đẳng nhất vị. Hạnh Từ vô đẳng vì đoạn dứt ái nhiễm. Hạnh Từ đại bi vì dẫn dắt theo Ðại Thừa. Hạnh Từ chẳng nhàm chán vì quán pháp Không – Vô Ngã. Hạnh Từ pháp thí vì chẳng luyến tiếc. Hạnh Từ trì giới vì độ người phá giới. Hạnh Từ nhẫn nhục vì hộ cho mình và người. Hạnh Từ tinh tấn vì gánh vác chúng sanh. Hạnh Từ thiền định vì chẳng thọ thiền vị. Hạnh Từ trí huệ vì vô sở bất tri. Hạnh Từ phương tiện vì thị hiện tất cả. Hạnh Từ chẳng ẩn dấu vì tâm trong sạch ngay thẳng. Hạnh Từ thâm tâm vì chẳng hành tạp nhiễm. Hạnh Từ chẳng dối vì chẳng hư giả. Hạnh Từ an lạc vì khiến người được an vui của Phật. Hạnh Từ của Bồ Tát là như thế.

Văn Thù lại hỏi:

– Thế nào là Bi?

Ðáp:

– Công đức sở hành của Bồ Tát đều cùng chung với tất cả chúng sanh.

– Thế nào là Hỉ?

– Hoan hỉ làm việc chúng sanh mà chẳng hối tiếc.

– Thế nào là Xả?

– Dù làm việc phước đức mà chẳng có mong cầu chi cả.

Văn Thù lại hỏi:

– Ðối với sanh tử đáng sợ, Bồ Tát nên y nơi đâu?

Ðáp:

– Nên y nơi sức công đức của Như Lai.

– Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai phải trụ nơi nào?

– Nên trụ nơi độ thoát chúng sanh.

– Muốn độ thoát chúng sanh phải trừ những gì?

– Muốn độ thoát chúng sanh, nên trừ phiền não của họ.

– Muốn trừ phiền não phải hành thế nào?

– Nên hành nơi chánh niệm.

– Thế nào là hành nơi chánh niệm?

– Nên hành chẳng sanh, chẳng diệt.

– Pháp nào chẳng sanh, pháp nào chẳng diệt?

– Bất thiện chẳng sanh, thiện pháp chẳng diệt.

– Thiện với bất thiện lấy gì làm gốc?

– Lấy thân làm gốc.

– Thân lấy gì làm gốc?

– Lấy tham dục làm gốc.

– Tham dục lấy gì làm gốc?

– Lấy hư vọng phân biệt làm gốc.

– Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc?

– Lấy điên đảo tưởng làm gốc.

– Ðiên đảo tưởng lấy gì làm gốc?

– Lấy Vô trụ làm gốc.

– Vô trụ lấy gì làm gốc?

– Vô trụ thì chẳng có gốc.

Nói đến đây, Duy Ma Cật liền nhấn mạnh rằng:

– Văn Thù! Từ gốc Vô trụ lập tất cả các pháp. Như thế là thật Vô Sở Trụ vậy.

Bấy giờ, trong phòng Duy Ma Cật có một Thiên nữ thấy các vị Trời người đang nghe thuyết pháp, liền hiện hình thiên nữ rãi hoa trên thân các Bồ Tát và đại đệ tử. Hoa đến thân các Bồ Tát liền rơi xuống đất, đến các đại đệ tử thì dính trên thân chẳng rơi xuống. Tất cả đệ tử dùng thần lực phủi hoa cũng chẳng phủi rớt.

Lúc ấy, thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất rằng:

– Tại sao phủi hoa?

Ðáp:

– Hoa nầy chẳng đúng pháp nên phủi.

Thiên nữ nói:

– Chớ bảo hoa này chẳng đúng pháp. Tại sao? Vì hoa này chẳng có phân biệt, tại nhơn giả tự sanh phân biệt tưởng mà thôi. Người ở nơi Phật pháp xuất gia, có tâm phân biệt là chẳng đúng pháp, nếu chẳng phân biệt tức là đúng pháp. Nay thử xem các vị Bồ Tát chẳng dính hoa là vì đã đoạn diệt phân biệt tưởng vậy. Ví như người đang có khiếp sợ thì phi nhơn mới được dịp mê hoặc. Cũng thế, các vị đệ tử vì đang sợ sanh tử thì sắc, thanh, hương, vị, xúc mới được dịp mê hoặc. Kẻ đã lìa được khiếp sợ thì tất cả ngũ dục đều chẳng thể mê hoặc. Kẻ kiết tập (tập khí trói buộc) chưa sạch, hoa mới dính vào thân. Kẻ kiết tập đã sạch thì hoa chẳng dính vậy.

Xá Lợi Phất hỏi:

– Thiên nữ ở trong phòng này được bao lâu?

Ðáp:

– Tôi ở trong phòng này lâu như ông được giải thoát.

– Ở đây lâu chăng?

– Như ông giải thoát cũng có lâu mau sao?

Xá Lợi Phất im lặng chẳng đáp.

Thiên nữ hỏi:

– Tại sao bậc kỳ cựu Ðại Trí lại nín lặng?

Ðáp:

– Sự giải thoát vốn chẳng ngôn thuyết, nên tôi chẳng biết nói gì.

Thiên nữ nói:

– Ngôn thuyết văn tự đều là tướng giải thoát. Tại sao? Vì sự giải thoát chẳng ở trong, ngoài và khoảng giữa. Văn tự cũng như thế. Cho nên, Xá Lợi Phất! Chẳng có sự lìa văn tự mà thuyết pháp giải thoát. Tại sao? Vì tất cả các pháp là tướng giải thoát rồi.

Xá Lợi Phất hỏi:

– Chẳng cần lìa tham sân si mà được giải thoát ư?

Ðáp:

– Phật vì đối với kẻ tăng thượng mạn mà nói lìa tham sân si là giải thoát mà thôi. Nếu kẻ chẳng phải tăng thượng mạn thì Phật nói tánh tham sân si tức là giải thoát vậy.

Xá Lợi Phất nói:

– Lành thay! Lành thay! Nàng đắc được gì, chứng được gì mà biện tài như thế?

Thiên nữ đáp:

– Tôi vô đắc vô chứng nên biện tài như thế. Tại sao? Vì kẻ có đắc có chứng ở nơi Phật pháp gọi là tăng thượng mạn.

Xá Lợi Phất hỏi:

– Nàng ở nơi tam thừa có chí cầu gì?

Ðáp:

– Dùng pháp Thanh Văn hóa độ chúng sanh thì tôi làm Thanh Văn. Dùng pháp nhân duyên hóa độ chúng sanh thì tôi làm Duyên Giác. Dùng pháp đại bi hóa độ chúng sanh thì tôi làm Ðại Thừa.

Xá Lợi Phất! Như người vào rừng huỳnh hoa, chỉ ngửi mùi hương huỳnh hoa, chẳng ngửi mùi hương khác. Cũng thế, nếu vào phòng này, chỉ ngửi mùi hương của công Đức Phật, chẳng ưa ngửi mùi hương của công đức nhị thừa.

Xá Lợi Phất! Những vị Thích Phạm Tứ Thiên Vương và Thiên Long, quỷ, thần, v.v… vào trong phòng này, được nghe Thượng nhơn giảng thuyết chánh pháp, đều ưa mùi hương công Đức Phật mà phát tâm Ðại Thừa.

Xá Lợi Phất! Tôi ở phòng này mười hai năm, chưa từng nghe pháp nhị thừa, chỉ nghe Phật pháp đại từ đại bi bất khả tư nghì của Bồ tát.

Xá Lợi Phất! Phòng này thường hiện tám thứ pháp khó đắc, chưa từng có. Tám thứ ấy là:

1) Trong phòng thường có ánh sáng màu vàng ngày đêm chiếu soi, chẳng nhờ ánh sáng nhật nguyệt.

2) Kẻ vào phòng này chẳng bị các cấu bẩn làm cho phiền não.

3) Trong phòng này thường có Thích Phạm Tứ Thiên Vương và Bồ Tát ở nơi phương khác đến tụ hợp chẳng gián đoạn.

4) Phòng này thường thuyết sáu Ba La Mật và pháp bất thối chuyển.

5) Phòng này thường trỗi âm nhạc bậc nhất của trời người, vang ra vô lượng pháp âm.

6) Phòng này có bốn kho tàng lớn chứa đầy bửu vật, cứu giúp kẻ nghèo, hễ cầu liền được.

7) Phòng này vô lượng chư Phật nơi mười phương như Phật Thích Ca, Phật A Di Ðà cho đến Phật Sư Tử Hưởng, Phật Nhất Thiết Lợi Thành v.v… Khi Thượng nhơn khởi niệm, liền đền rộng thuyết pháp tạng bí mật của chư Phật, thuyết xong trở về.

8) Phòng này tất cả cung điện của chư Thiên và cõi Tịnh độ của chư Phật đều hiện trong đó.

Ấy là tám thứ pháp chưa từng có.

Xá Lợi Phất! Phòng này thường hiện tám pháp như thế. Người thấy việc bất khả tư nghì này, đâu còn ưa pháp Thanh Văn nữa!

Xá Lợi Phất hỏi:

– Nàng sao chẳng chuyển biến thân nữ đi?

Thiên nữ đáp:

– Tôi từ mười hai năm cầu tướng người nữ trọn bất khả đắc mà chuyển cái gì? Ví như nhà huyễn thuật hóa ra huyễn nữ. Nếu có người hỏi sao chẳng chuyển biến thân nữ đó đi, vậy người hỏi đó có đúng không?

Xá Lợi Phất nói:

– Không ạ! Huyễn chẳng tướng nhất định, làm sao mà chuyển.

Thiên nữ nói:

– Tất cả pháp chẳng có tướng nhất định cũng như thế, sao lại hỏi chẳng chuyển biến thân nữ đi!

Tức thì thiên nữ dùng sức thần thông biến Xá Lợi Phất thành Thiên nữ, tự mình hóa thân như Xá Lợi Phất mà hỏi rằng:

– Sao chẳng chuyển biến thân nữ đi?

Xá Lợi Phất mang tướng thân nữ mà đáp rằng:

– Nay tôi chẳng biết tại sao chuyển biến làm thân nữ?

Thiên nữ nói:

– Nếu Xá Lợi Phất chuyển được thân nữ này, thì tất cả thân nữ cũng chuyển được. Như Xá Lợi Phất chẳng phải người nữ mà hiện thân nữ, tất cả người nữ cũng như thế, dù hiện thân nữ mà chẳng phải người nữ. Cho nên phật thuyết: Tất cả pháp phi nam, phi nữ.

Tức thì Thiên nữ thu nhiếp thần lực lại, thân Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất rằng:

– Tướng thân nữ của ông nay còn đâu?

Xá Lợi Phất nói:

– Tướng thân nữ chẳng còn, chẳng không còn.

Thiên nữ nói:

– Tất cả pháp cũng như thế, chẳng còn, chẳng không còn. Sự chẳng còn, chẳng không còn đó là do Phật sở thuyết.

Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ:

– Nàng diệt nơi đây, rồi sẽ sanh nơi nào?

Ðáp:

– Phật biến hóa sở sanh. Tôi cũng theo đó sanh.

Nếu Phật biến hóa sở sanh thì chẳng phải diệt và sanh. Chúng sanh cũng chẳng phải diệt và sanh.

Xá Lợi Phất hỏi:

– Nàng bao lâu sẽ đắc Vô Thượng Bồ Ðề?

Ðáp:

– Khi Xá Lợi Phất trở lại phàm phu thì tôi sẽ thành Vô Thượng Bồ Ðề.

Xá Lợi Phất nói:

– Tôi làm phàm phu thì chẳng có chỗ đúng.

– Tôi đắc Vô Thượng Bồ Ðề cũng chẳng có chỗ đúng. Tại sao? Bồ Ðề chẳng nơi trụ, nên chẳng có kẻ đắc.

Xá Lợi Phất nói:

– Nay chư Phật đắc Vô Thượng Bồ Ðề, đã đắc, sẽ đắc như hằng sa. Những việc này gọi là gì?

– Ấy là dùng văn tự, số lượng của thế tục mà nói có tam thế, chứ chẳng phải Bồ Ðề có quá khứ, hiện tại, vị lai.

– Xá Lợi Phất! Ông đắc đạo A La Hán ư?

Ðáp:

– Vì vô sở đắc mà đắc.

Thiên nữ nói:

– Chư Phật Bồ Tát cũng thế. Vì vô sở đắc mà đắc.

Bấy giờ Duy Ma Cật nói với Xá Lợi Phất rằng:

– Thiên nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức chư Phật. Ðã đắc du hí thần thông của Bồ Tát, nguyện lực đầy đủ, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, trụ nơi chẳng thối chuyển. Vì theo bổn nguyện, nên tùy ý thị hiện để giáo hóa chúng sanh.

 

VIII. PHẨM PHẬT ÐẠO

Bấy giờ, Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng:

– Thế nào là Bồ Tát thông đạt Phật đạo?

Duy Ma Cật nói:

– Nếu Bồ Tát hành nơi phi đạo gọi là thông đạt Phật đạo.

Hỏi:

– Thế nào là Bồ Tát hành nơi phi đạo?

Ðáp:

– Nếu Bồ Tát gây tội ngũ ngịch mà chẳng có buồn giận, đến nơi địa ngục mà chẳng có tội cấu, đến nơi súc sanh mà chẳng có vô minh kiêu mạn, đến nơi ngạ quỷ mà đầy đủ công đức, đến cõi sắc giới và vô sắc giới mà chẳng cho là thù thắng, thị hiện tham dục mà lìa các nhiễm đắm, thị hiện sân hận mà đối với chúng sanh chẳng có quái ngại, thị hiện ngu si mà dùng trí huệ điều phục tâm mình, thị hiện tham lam bỏn xẻn mà bỏ tất cả của cải, chẳng tiếc thân mạng. Thị hiện phá giới mà an trụ tịnh giới, cho đến có tội nhỏ cũng rất sợ hãi. Thị hiện giận dữ mà thường từ bi nhẫn nhục, thị hiện giãi đãi mà siêng tu công đức, thị hiện tán loạn mà thường niệm chánh định, thị hiện ngu si mà thông đạt trí huệ thế gian và xuất thế gian, thị hiện siểm khúc giả dối mà khéo dùng phương tiện tùy theo nghĩa kinh, thị hiện kiêu mạn mà xem chúng sanh cũng như cầu đò độ người. Thị hiện phiền não mà tâm thường thanh tịnh, thị hiện nhập ma mà tùy thuận trí huệ Phật chẳng theo đạo khác. Thị hiện Thanh Văn mà vì chúng sanh thuyết những pháp chưa từng nghe, thị hiện Duyên Giác mà thành tựu đại bi giáo hóa chúng sanh, thị hiện nghèo nàn mà có công đức vô tận, thị hiện tàn tật mà đầy đủ tướng tốt để tự trang nghiêm, thị hiện hạ tiện mà sanh trong chủng tánh Phật, đầy đủ công đức. Thị hiện ốm yếu xấu xí mà được thân Na La Diên (tướng đoan trang hùng mãnh) tất cả chúng sanh đều ham gặp, thị hiện già bệnh mà dứt hẳn gốc bệnh, siêu việt sanh tử. Thị hiện giàu sang mà quán pháp vô thường thật chẳng lòng tham, thị hiện có thê thiếp tỳ nữ mà thường xa lìa bùn lầy ngũ dục, thị hiện nơi ngu độn mà thành tựu biện tài, chẳng mất Tổng trì, thị hiện vào tà đạo mà dùng tà đạo cứu độ chúng sanh, thị hiện vào khắp các đạo mà đoạn dứt các nhân duyên, thị hiện nơi Niết Bàn mà chẳng dứt sanh tử. Văn Thù! Bồ Tát hành nơi phi đạo như thế gọi là thông đạt Phật đạo.

Bấy giờ, Duy Ma Cật hỏi Văn Thù:

– Thế nào là hạt giống Như Lai?

Ðáp:

– Có thân là hạt giống Như Lai. Vô minh có ái là giống, tham sân si là giống, tứ điên đảo là giống, ngũ cái (ngũ dục) là giống, lục nhập là giống, thất thức xứ là giống, bát tà pháp là giống, cửu não là giống, thập bất thiện đạo … là giống. Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến chấp vá tất cả phiến não đều là hạt giống Phật.

Hỏi:

– Tại sao?

Ðáp:

– Nếu kẻ thấy vô vi vào chánh vị thì chẳng thể còn phát Tâm Vô Thượng Bồ Ðề nữa. Ví như chỗ gò cao chẳng thể sanh hoa sen, mà nơi bùn lầy ẩm thấp mới sanh hoa sen. Cũng thế, kẻ thấy pháp vô vi vào chánh vị thì chẳng còn có thể sanh khởi Phật pháp, trong bùn lầy phiền não mới có chúng sanh sanh khởi Phật pháp thôi. Như gieo giống nơi hư không thì chẳng thể sanh khởi, ở đất phân bùn mới tốt tươi được. Cũnh thế, kẻ vào vô vi chánh vị chẳng sanh khởi Phật pháp, kẻ có ngã kiến như núi Tu Di còn có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, sanh khởi Phật pháp. Nên biết tất cả phiền não là hạt giống Như Lai, ví như chẳng xuống biển cả thì chẳng được bữu châu vô giá. Cũng thế, chẳng vào biển phiền não thì chẳng thể đắc ngọc báu Nhất Thiết Trí vậy.

Lúc ấy Ðại Ca Diếp tán thán rằng:

– Lành thay! Lành thay! Văn Thù! Lời này rất đúng. Thật như lời ông nói, bọn trần lao mới là hạt giống của Như Lai, nay chúng tôi chẳng còn có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Người mang tội ngũ vô gián còn có thể phát tâm sanh nơi Phật pháp, mà chúng tôi đây trọn chẳng thể phát, ví như những người ngũ căn đã hư, đối với ngũ dục chẳng còn cảm xúc. Cũng thế, hàng Thanh Văn đã dứt phiền não trói buộc, xem Phật pháp chẳng còn ích lợi gì nên chẳng phát nguyện nữa.

Cho nên, Văn Thù! Phàm phu ở nơi Phật pháp có biến chuyển mà Thanh Văn thì không. Tại sao? Phàm phu nghe Phật pháp dược sanh khởi đạo tâm vô thượng, chẳng dứt hạt giống Tam Bảo. Dẫu cho Thanh Văn suốt đời nghe Phật pháp và được sức vô úy v.v… chung qui chẳng thể phát đạo tâm vô thượng.

Khi ấy, trong Hội có vị Bồ Tát tên Phổ Hiện Sắc Thân hỏi Duy Ma Cật rằng:

– Cha mẹ, vợ con, thân nhân, quyến thuộc, thầy trò, tri thức của cư sĩ mỗi mỗi là ai? Tỳ nữ, tôi tớ, voi ngựa, xe cộ nay ở nơi nào?

Duy Ma Cật dùng bài kệ đáp rằng:

TRÍ là mẹ Bồ Tát,
PHƯƠNG TIỆN gọi là cha,
Ðạo sư tất cả chúng,
Ðều từ đó sinh ra.
PHÁP HỈ chính là vợ,
TÂM TỪ BI là gái,
TÂM THÀNH THẬT là trai,
KHÔNG TỊCH là nhà cửa.
TRẦN LAO là đệ tử,
Tùy ý để giáo hóa,
Ðạo phẩm thiện tri thức.
Do đó thành chánh giác.
PHÁP LỤC ÐỘ là bạn,
TỨ NHIẾP là ca nữ,
Xướng ngâm tụng lời pháp,
Lấy đó làm âm nhạc.
TỔNG TRÌ là vườn bông,
VÔ LẬU là rừng cây,
GIÁC TÂM là diệu hoa,
Giải thoát trí huệ quả.
BÁT GIẢI là ao tắm,
Nước Ðịnh lặng trong đầy.
Bảy thứ hoa trong sạch,
Ðể tắm người không nhơ.
Ngũ thông voi ngựa chạy,
ÐẠI THỪA là xe cộ,
NHẤT TÂM là phu xe,
Dạo nơi BÁT CHÁNH ÐẠO.
Tướng tốt để nghiêm thân,
Và trang điểm dung mạo,
HỔ THẸN làm quần áo,
THÂM TÂM làm tràng hoa,
Giàu sang đầy thất bửu.
Giáo thọ sanh lợi tức,
Tu hành theo sở thuyết,
Hồi hướng là lợi lớn.
TỨ THIỀN làm sàng tọa,
Từ nơi Tịnh mạng sanh.
Ða văn thêm trí huệ.
Ấy là tiếng tự giác.
Món ăn: Pháp cam lồ,
Nước uống: vị giải thoát,
Tắm rửa là TỊNH TÂM,
HƯƠNG HOA là GIỚI PHẨM,
Trừ dẹp phiền não tặc,
Dũng cảm chẳng ai bằng.
Hàng phục bốn thứ ma,
Phướn thắng dựng đạo tràng, (1)
Dù biết chẳng sanh diệt,
Phương tiện hiện có sanh.
Hiện khắp các quốc độ,
Như mặt trời soi khắp.
Cúng dường khắp mười phương,
Vô lượng ức Như Lai,
Chư Phật và thân mình,
Chẳng có phân biệt tưởng.

Ghi chú:

Phướn thắng: Ở Ấn Ðộ, hễ biện luận Phật pháp được thắng lợi thì dựng lập phướng thắng. Ở nơi đạo tràng hàng ma cũng dựng lập phướng thắng để tỏ sự thắng lợi.

Dù biết các cõi Phật,
Và chúng sanh tánh không,
Mà thường tu tịnh độ.
Giáo hóa khắp mỗi loài,
Bồ Tát vô úy lực,
Oai nghi và sắc thinh,
Cùng hiện trong nhất thời.
Biết rõ việc ma chúng,
Mà theo hành của họ.
Khéo dùng trí phương tiện,
Mà tùy ý thị hiện.
Hoặc hiện già, bệnh, chết,
Thành tựu cho chúng sanh.
Liễu tri như huyễn hóa,
Thông đạt chẳng chướng ngại.
Hiện kiếp hỏa cháy tan,
Trời đất đều trống rỗng,
Nếu chúng sanh chấp thường,
Thì cho biết vô thường.
Vô số ức chúng sanh.
Cùng nhau thỉnh Bồ Tát,
Nhất thời đến nhà họ,
Dạy cho hướng đạo Phật,
Phép chú và kinh sách,
Với công thương – kỹ nghệ,
Ðều hiện làm việc này.
Lợi ích cho chúng sanh,
Các đạo pháp thế gian,
Thảy xuất gia trong đó,
Ðược giải mê cho người,
Mà chẳng đọa tà kiến.
Hoặc làm Nhựt nguyệt thiên,
Phạm Vương chúa thế giới,
Hoặc địa thủy hỏa phong,
Hoặc gặp có bệnh dịch,
Hiện làm các dược thảo,
Người được uống thuốc đó,
Bệnh trừ, độc cũng tiêu.
Trong đời có đói khát,
Hiện làm đò ăn uống,
Trước cứu đói khát họ,
Sau giảng dạy Phật pháp.
Trong đời có chiến tranh,
Khiến khởi tâm từ bi,
Hóa độ những chúng sanh,
Trụ nơi đất vô tranh.
Hai trận đang đánh nhau,
Mà giúp bên sức yếu,
Hiện oai thế Bồ Tát,
Hàng phục khiến giải hòa.
Trong tất cả quốc độ,
Chỗ nào có địa ngục,
Thì đi đến nơi đó,
Cứu vớt khổ não họ,
Trong tất cả quốc độ,
Súc sinh ăn nuốt nhau,
Thị hiện sanh nơi đó,
Giải oán thù cho họ.
Dù thọ nơi ngũ dục,
Mà cũng hiện tu thiền,
Khiến tâm ma rối loạn,
Chẳng có dịp khuấy phá,
Trong lửa sanh hoa sen,
Ấy là việc hy hữu.
Thọ dục mà thành Thiền,
Hy hữu cũng như thế.
Hoặc hiện làm dâm nữ,
Dụ kẻ mê sắc đẹp,
Trước dùng dục lôi kéo,
Sau khiến vào trí Phật.
Hoặc làm chủ trong ấp,
Hoặc làm thầy khách buôn,
Quốc sư và đại thần,
Ðể lợi ích chúng sanh.
Chỗ nào có kẻ nghèo,
Hiện làm kho vô tận,
Nhân đó khuyên dạy họ,
Khiến phát Bồ Ðề Tâm.
Gặp kiêu căng ngã mạn,
Thì hiện làm lực sĩ,
Ðể hàng phục cống cao,
Khiến trụ vô thượng đạo.
Những người hay sợ sệt,
Trước thí pháp vô úy,
Sau khiến phát đạo tâm,
Cho họ được an ủi.
Hoặc hiện lìa dâm dục,
Mà làm tiên ngũ thông,
Dẫn dắt cho chúng sanh,
Khiến trụ giới nhẫn từ.
Thấy người cần hầu hạ,
Hiện làm kẻ tôi tớ,
Cho họ được vui lòng,
Nhân đó phát đạo tâm.
Khéo dùng sức phương tiện,
Tùy theo nhu cầu họ,
Ðể giúp cho đầy đủ,
Ðể được vào Phật đạo.
Ðạo pháp nhiều vô lượng,
Sở hành chẳng bờ bến,
Trí huệ lớn vô biên,
Ðộ thoát vô số chúng.
Giả sử tất cả Phật,
Nơi vô số ức kiếp,
Tán thán công đức ấy,
Cũng chẳng thể hết được,
Ai nghe pháp như thế,
Chẳng phát Bồ Ðề Tâm!
Trừ Xiển Ðề chẳng tin,
Và ngu si vô trí.

 

IX. PHẨM NHẬP PHÁP MÔN BẤT NHỊ

Bấy giờ, Duy Ma Cật bảo các Bồ Tát rằng:- Các nhơn giả! Bồ Tát làm sao nhập pháp môn bất nhị? Hãy tùy sở ngộ của mình mà nói ra.

Trong hội có Bồ Tát tên là Pháp Tự Tại nói:

– Các nhơn giả! Sanh diệt là nhị. Pháp vốn chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt. Ðắc Vô Sanh Pháp Nhẫn này, gọi là nhập pháp môn bất nhị.

Ðức Thủ Bồ Tát rằng:

– Ngã với sở là nhị. Vì có ngã mới có sở. Nếu chẳng có ngã thì chẳng ngã sở. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Bất Thuấn Bồ Tát rằng:

– Thọ với chẳng thọ là nhị. Nếu pháp chẳng thọ thì bất khả đắc, vì bất khả đắc nên vô thủ xả, vô tác, vô hành. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Ðức Ðảnh Bồ Tát rằng:

– Cấu với tịnh là nhị. Nếu thấy thật tánh của cấu, thì tướng chẳng tịnh, cũng là thuận theo tướng diệt. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Thiện Túc Bồ Tát rằng:

– Ðộng với niệm là nhị. Bất động thì vô niệm, vô niệm thì chẳng phân biệt. Thông đạt lý này là nhập pháp môn bất nhị.

Thiên Nhãn Bồ Tát rằng:

– Nhất tướng vô tướng là nhị. Nếu biết nhất tướng tức là vô tướng, cũng chẳng chấp vô tướng, vào nơi bình đẳng. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.
Diệu Tý Bồ Tát rằng:

– Tâm Bồ Tát, tâm Thanh Văn là nhị. Kẻ quán tâm tướng vốn không, như huyễn hóa, thì chẳng có tâm Bồ Tát, tâm Thanh Văn. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Phất Sa Bồ Tát rằng:

– Thiện với bất thiện là nhị. Nếu chẳng khởi thiện, bất thiện thì vào nơi vô tướng. Kẻ thông đạt lý này là nhập pháp môn bất nhị.

Sư Tử Bồ Tát rằng:

– Tội với phước là nhị. Nếu thông đạt tánh tội, thì với tánh phước chẳng khác. Kẻ dùng trí huệ Kim Cang thấu liễu tướng này vốn chẳng trói mở. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Sư Tủ Ý Bồ Tát rằng:

– Hữu lậu vô lậu là nhị. Nếu chứng được các pháp bình đẳng thì chẳng khởi niệm lậu và vô lậu, chẳng chấp nơi tướng, cũng chẳng trụ nơi vô tướng. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Tịnh Giải Bồ Tát rằng:

– Hữu vi vô vi là nhị. Nếu lìa tất cả số lượng, tâm như hư không, thì trí hụệ trong sạch, chẳng có chướng ngại. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Na La Diên Bồ Tát rằng:

– Thế gian xuất thế gian là nhị. Thế gian tánh không tức là xuất thế gian, ở trong đó chẳng nhập chẳng xuất, chẳng trào chẳng tan. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Thiện Ý Bồ Tát rằng:

– Sanh Tử Niết Bàn là nhị. Nếu thấy tánh sanh tử thì chẳng có sanh tử, chẳng trói chẳng mở. Vậy chẳng sanh tử cũng chẳng Niết Bàn. Kẻ hiểu như thế là nhập pháp môn bất nhị.

Hiện Kiến Bồ Tát rằng:

– Tận với bất tận là nhị. Pháp nếu cứu cánh, thì tận và bất tận đều là tướng vô tận. Tướng vô tận tức là không. Không thì chẳng có tướng tận và bất tận. Ngộ nhập như thế, là nhập pháp môn bất nhị.

Phổ Thủ Bồ Tát rằng:

– Ngã với vô ngã là nhị. Ngã còn bất khả đắc, phi ngã làm sao đắc. Kẻ thấy thật tánh của ngã thì chẳng khởi nhị pháp. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Ðiện Thiên Bồ Tát rằng:

– Minh với vô minh là nhị. Thật tánh của vô minh tức là minh. Minh cũng bất khả đắc, lìa tất cả số lượng. Ở trong đó bình đẳng chẳng khác. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Hỷ Kiến Bồ Tát rằng:

– Sắc với không là nhị. Sắc tức là không. Chẳng phải sắc diệt rồi mới không. Tánh sắc tự không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng thế. Ngũ uẩn với không là nhị. Ngũ uẩn tức là không. Chẳng phải ngũ uẩn diệt rồi mới không. Tánh ngũ uẩn tự không. Thấu đạt lý này là nhập pháp môn bất nhị.

Minh Tướng Bồ Tát rằng:

– Tứ đại khác với không đại là nhị. Tánh tứ đại tức là tánh không đại. Như quá kứ, vị lai tánh không, thì hiện tại cũng không. Nếu biết thật tánh chư đại như thế, là nhập pháp môn bất nhị.

Diệu Ý Bồ Tát rằng:

– Nhãn với sắc là nhị. Nếu ngộ biết tánh nhãn, nơi sắc chẳng khởi tham sân si gọi là tịch diệt. Cũng thế, nhĩ – thanh, tỷ – hương, thiệt – vị, thân – xúc, ý – pháp là nhị. Nếu ngộ biết tánh lục căn, nơi lục trần chẳng khởi tham sân si gọi là tịch diệt. An trụ trong đó là nhập pháp môn bất nhị.

Vô Tận Ý Bồ Tát rằng:

– Bố thí với hồi hướng nhất thiết trí là nhị. Tánh bố thí tức là tánh hồi hướng nhất thiết trí. Cũng thế, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ với hồi hướng nhất thiết trí là nhị. Tánh của sáu Ba La Mật tức là tánh hồi hướng nhất thiết trí. Kẻ ở trong đó ngộ nhập nhất tướng là nhập pháp môn bất nhị.

Thâm Huệ Bồ Tát rằng:

– Không với Vô tướng, Vô tác là nhị. Không tức vô tướng, vô tướng tức vô tác. Ba cửa giải thoát này: không với vô tướng, vô tác nghĩa là vô tâm, ý, thức. Một cửa giải thoát tức ba cửa giải thoát. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Tịch Căn Bồ Tát rằng:

– Phật Pháp Tăng là nhị. Phật tức Pháp, Pháp tức Tăng. Tam bảo đều là tướng vô vi, bằng như hư không. Tất cả pháp cũng thế. Kẻ hành theo pháp này là nhập pháp môn bất nhị.

Tâm Vô Ngại Bồ Tát rằng:

– Thân với thân diệt là nhị. Thân tức là thân diệt. Tại sao? Kẻ thấy thật tướng của thân thì chẳng thấy có thân và thân diệt. Thân và thân diệt chẳng hai chẳng khác. Ðối với pháp chẳng khác này chẳng khiếp sợ. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Thượng Thiện Bồ Tát rằng:

– Thân khẩu ý nghiệp là nhị. Tam nghiệp ấy đều là tướng vô tác. Vậy thân vô tác, tức khẩu vô tác. Khẩu vô tác, tức ý vô tác. Tướng vô tác của tam nghiệp này là tướng vô tác của tất cả pháp. Kẻ có trí huệ tùy thuận tướng vô tác như thế, là nhập pháp môn bất nhị.

Phước Ðiền Bồ Tát rằng:

– Phước hạnh, tội hạnh, bất động hạnh là nhị. Thật tánh của ba hạnh tức là tánh không. Tánh không thì chẳng phước hạnh, tội hạnh và bất động hạnh. Vậy, chẳng sanh khởi ba hạnh là nhập pháp môn bất nhị.

Hoa Nghiêm Bồ Tát rằng:

– Do ngã khởi nhị là nhị. Kẻ thấy được thật tướng của ngã thì chẳng khởi nhị pháp. Chẳng trụ nơi nhị pháp thì chẳng có năng biết và sở biết. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Ðức Tạng Bồ Tát rằng:

– Có tướng sở đắc là nhị. Nếu vô sở đắc thì chẳng thủ xả, cũng chẳng kẻ thủ xả. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Nguyệt Thượng Bồ Tát rằng:

– Tối với sáng là nhị. Chẳng tối chẳng sáng thì chẳng có nhị. Tại sao? Như nhập định Diệt Thọ Tưởng thì chẳng có tối sáng. Tất cả pháp tướng cũng thế. Kẻ nhập nơi bình đẳng là nhập pháp môn bất nhị.

Bảo Ấn Thủ Bồ Tát rằng:

– Ưa Niết Bàn, chán thế gian là nhị. Nếu chẳng ưa Niết Bàn, chẳn chán thế gian thì chẳng có nhị. Tại sao? Hễ có trói mới có mở. Nếu vố chẳng trói thì ai cần mở? chẳng trói chẳng mở, thì chẳng ưa chẳng chán. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Châu Ðảnh Vương Bồ Tát rằng:

– Chánh đạo tà đạo là nhị. Kẻ trụ nơi chánh đạo thì chẳng nên phân biệt tà chánh. Lìa hai thứ này là nhập pháp môn bất nhị.

Lạc Thập Bồ Tát rằng:

– Thật với chẳng thật là nhị. Kẻ thấy thật tướng còn chẳng thấy có thật, huống là chẳng thật. Tại sao? Thật tường chẳng phải là sở thấy của nhục nhãn, có huệ nhãn mới thấy được. Mà huệ nhãn này thì chẳng có thấy với chẳng thấy. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Các Bồ Tát mỗi mỗi đã nói xong như trên, rồi hỏi Văn Thù: Thế nào là nhập pháp môn bất nhị của Bồ Tát?

Văn Thù đáp:

– Theo ý tôi, nơi tất cả pháp vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, lìa nơi vấn đáp. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.

Khi đó Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng:

– Chúng tôi mỗi mỗi đã tự nói xong. Nay đến lượt Nhơn giả nói: “Thế nào là nhập pháp môn bất nhị của Bồ Tát?”

Duy Ma Cật im lặng. Văn Thù tán thán rằng:

– Lành thay! Lành thay! Cho đến chẳng có văn tự, lời nói mới là chơn nhập pháp môn bất nhị.

Khi thuyết phẩm này rồi, ở trong chúng có năm ngàn vị Bồ Tát đều nhập pháp môn bất nhị, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

 

X. PHẨM HƯƠNG TÍCH PHẬT

Bấy giờ, Xá Lợi Phất nghĩ rằng:

– Sắp đến giờ ăn. Các Bồ Tát sẽ thọ thực ở đâu? Duy Ma Cật biết ý, nên nói rằng:

– Phật thuyết bát giải thoát. Nhơn giả đã thọ hành. Há có xen cái tâm muốn ăn mà nghe pháp ư! Nếu muốn ăn, hãy đợi giây lát, tôi sẽ cho ông được bữa ăn chưa từng có. Duy Ma Cật liền nhập chánh định. Dùng sức thần thông thị hiện cho đại chúng thấy cõi phương trên, cách bốn mươi hai hằng sa quốc độ, có Phật Hương Tích hiện ở cõi Chúng Hương. Mùi hương cõi ấy bậc nhất, siêu việt mùi hương trời người của các cõi Phật mười phương. Cõi ấy chẳng có tên gọi nhị thừa. Chỉ có chúng đại Bồ Tát trong sạch, đang nghe Phật thuyết pháp. Sự vật trong đó, tất cả đều dùng hương làm thành. Lầu các, vườn tược cho đến đất kinh hành đều có mùi hương. Mùi hương của cơm lan tràn khắp mười phương thế giới. Lúc ấy, Phật cùng các Bồ Tát đang ngồi ăn. Có các thiên tử cùng một danh hiệu gọi là Hương Nghiêm, đều phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, cúng dường Phật và các Bồ Tát. Ðại chúng nơi cõi này đều thấy rõ cả.

Duy Ma Cật hỏi các Bồ Tát rằng:

– Các nhơn giả! Vị nào có thể đến thỉnh cơm của Ðức Phật ấy? Do sức oai thần của Văn Thù, nên cả chúng đều im lặng.

Duy Ma Cật nói:

– Này các nhơn giả! Chẳng tự hổ thẹn sao?

Văn Thù nói:

– Như lời Phật dạy, chớ khinh sơ học.

Khi đó, Duy Ma Cật chẳng rời chỗ ngồi. Trước mặt đại chúng hóa ra vị Bồ Tát tướng tốt rực rỡ, oai đức thù thắng hơn cả chúng trong hội, mà bảo rằng:

– Ông hãy đến cõi Phật Chúng Hương, bạch như lời tôi đây:

“Duy Ma Cật đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, và vô cùng cung kính tỏ lời hỏi thăm sự ăn ở hằng ngày, ít bệnh, ít phiền não, khỏe mạnh chăng? Mong được cơm thừa của Phật, đem về cõi Ta Bà thí làm Phật sự. Khiến kẻ ưa pháp tiểu thừa được vào đại thừa. Cũng khiến cho tiếng tăm của Như Lai ai cũng được nghe.”

Khi ấy, đại chúng trong hội đều thấy hóa thân Bồ Tát bay lên phương trên, đến cõi Chúng Hương đảnh lễ chân Phật và lập lại lời Duy Ma Cật như trên. Các đại sĩ cõi ấy thấy hóa thân Bồ Tát, tán thán việc chưa từng có, liền hỏi Phật:

– Thượng nhơn này từ đâu đến? Cõi Ta Bà ở chỗ nào? Thế nào gọi là kẻ ưa pháp tiểu thừa?

Phật bảo:

– Nơi phương dưới cách bốn mươi hai hằng sa cõi Phật, có thế giới Ta Bà là ngũ trược ác thế. Hiện có Phật Thích Ca, đang vì những chúng sanh ưa pháp tiểu thừa, diễn giảng Phật pháp. Ở đó, có vị Bồ Tát tên là Duy Ma Cật, trụ nơi giải thoát bất khả tư nghì. Vì thuyết pháp cho các Bồ Tát, nên sai hóa thân đến khen ngợi danh hiệu ta, và tán thán quốc độ này, khiến các Bồ Tát ấy tăng thêm công đức.

Các Bồ Tát hỏi:

– Vị đó như thế nào, sao có sức công đức vô úy hóa ra Bồ Tát thần túc như thế?

Phật bảo:

– Thần lực của Duy Ma Cật rất lớn. Thường sai hóa thân đến khắp cõi mười phương thí làm Phật sự để lợi ích chúng sanh.

Tức thì Hương Tích Như Lai dùng bát Chúng Hương đựng đầy cơm hương trao cho hóa thân Bồ Tát.

Khi ấy, chín triệu Bồ Tát kia đều nói:

– Chúng con muốn đến cõi Ta Bà cúng dường Phật Thích Ca và muốn gặp Duy Ma Cật với các Bồ Tát cõi ấy.

Phật bảo:

– Ðược thôi! Nhưng phải thu nhiếp mùi hương của các ngươi. Chớ khiến chúng sanh cõi kia khởi lòng mê đắm. Lại nữa, hãy bỏ hình dạng của các ngươi. Chớ khiến những người cầu Bồ Tát thừa cõi kia sanh lòng hổ thẹn. Và các ngươi đối với cõi ấy chớ khởi tâm khinh chê mà tự chướng ngại. Tại sao? Mười phương quốc độ đều như hư không. Chư Phật vì muốn hóa độ những kẻ ưa pháp tiểu thừa, nên chẳng hiện cõi thanh tịnh ấy thôi.

Khi hóa thân Bồ Tát thọ lãnh bát cơm xong, cùng với chín triệu Bồ Tát thừa oai thần Phật và thần lực của Duy Ma Cật, ở nơi cõi ấy bỗng nhiên biến mất, chốc lát đến nhà Duy Ma Cật. Lúc đó, Duy Ma Cật liền hóa ra chín triệu tòa sư tử tốt đẹp như trước, các Bồ Tát đều an tọa.

Hóa thân Bồ Tát đưa bát cơm hương cho Duy Ma Cật. Mùi hương của cơm tỏa khắp thành Tỳ Da Ly và đại thiên thế giới. Các Bà La Môn và cư sĩ trong thành Tỳ Da Ly ngửi được mùi hương, thân tâm khoan khoái, tán thán việc chưa từng có.

Trưởng giả Nguyệt Cái cùng với tám mươi bốn ngàn người đến nhà Duy Ma Cật, thấy trong phòng đông đảo các Bồ Tát và những tòa sư tử cao rộng trang nghiêm, đều rất vui mừng, đảnh lễ các Bồ Tát và đại đệ tử rồi đứng qua một bên.

Các địa thần, hư không thần và chư thiên cõi dục giới, sắc giới ngửi được mùi hương cũng đều đến nhà Duy Ma Cật.

Bấy giờ, Duy Ma Cật bảo Xá Lợi Phất và các vị đại Thanh Văn rằng:

– Các nhơn giả cứ tùy ý dùng cơm cam lồ của Như Lai, vì cơm nầy do đại bi sở huân, nếu có ý hạn lượng mà ăn thì chẳng thể tiêu.

Có hàng Thanh Văn lại nghĩ rằng:

– Cơm này ít thế làm sao đủ cho đại chúng ăn?

Hóa thân Bồ Tát rằng:

– Chớ dùng tiểu đức, tiểu trí của Thanh Văn mà đo lường vô lượng phước huệ của Như Lai. Nước bốn biển có thể hết, chứ cơm này thì vô tận. Dẫu cho tất cả mọi người đều ăn từng nắm cơm to bằng núi Tu Di, ăn mãi cho đến một kiếp cũng chẳng thể hết. Tại sao? Vì cơm dư của Người đầy đủ các công đức như vô tận giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến v.v… thì ăn mãi cũng không thể hết được.

Vì thế, một bát cơm cho tất cả chúng trong hội ăn đều no đủ, mà cơm vẫn còn dư. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời người ăn cơm này rồi, thân thể an vui giống như các Bồ Tát ở cõi Nhất Thiết Lạc Trang Nghiêm, và từ lỗ chân lông phát ra mùi hương cũng như cây hương của cõi Phật Chúng Hương vậy.

Bấy giờ, Duy Ma Cật hỏi các Bồ Tát cõi Chúng Hương rằng:

– Hương Tích Như Lai lấy gì để thuyết pháp?

Các Bồ Tát đáp:

– Ðức Như Lai cõi chúng tôi chẳng dùng lời nói, văn tự. Chỉ dùng Chúng Hương khiến các Trời người được vào luật hạnh. Bồ Tát mỗi mỗi ngồi dưới gốc cây hương, ngửi được mùi diệu hương ấy liền đắc Nhất Thiết Ðức Tạng Tam Muội. Kẻ đắc Tam muội này đều đầy đủ tất cả công đức của Bồ Tát.

Các Bồ Tát ấy hỏi Duy Ma Cật rằng:

– Phật Thích Ca ở đây lấy gì để thuyết pháp?

Duy Ma Cật nói:

– Chúng sanh cõi này cang cường khó dạy, nên Phật thuyết pháp những lời cang cường để điều phục họ. Nào là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, là chỗ tai nạn, là nơi sanh của kẻ ngu. Hễ thân khẩu ý hành việc tà, thì bị quả báo hành việc tà của thân khẩu ý. Tạo mười ác nghiệp thì bị quả báo của mười thứ ác nghiệp. Hành sáu pháp bất thiện như bỏn xẻn, phá giới, sân hận, giãi đãi, loạn ý, ngu si thì bị quả báo của sáu pháp bất thiện (Bồ Tát có sáu Ba La Mật để đối trị). Cho đến các việc kiết giới, trì giới, phạm giới, nên làm hay chẳng nên làm, chướng ngại hay chẳng chướng ngại, đắc tội hay lìa tội, tịnh hay cấu, hữu lậu hay vô lậu, chánh đạo hay tà đạo, hữu vi hay vô vi, thế gian hay Niết Bàn v.v… Vì những người khó dạy tâm như khỉ vượn, nên dùng đủ thứ pháp kềm chế tâm họ mới có thể điều phục. Ví như voi ngựa chứng điều phục không được, phải đánh đập dữ tợn cho đến thấu xương rồi mới điều phục được. Cũng thế, chúng sanh cang cường khó dạy, phải dùng những lời đau khổ thiết tha mới khiến được họ đi vào luật hạnh.

Các Bồ Tát cõi kia nghe rồi đều nói:

– Thật chưa từng có! Như Phật Thích Ca ẩn náu sức vô lượng tự tại của mình, mà tùy theo sở thích của kẻ nghèo nàn, độ thoát chúng sanh. Các Bồ Tát cũng chịu khổ nhọc, nhún nhường dùng vô lượng đại bi sanh vào cõi Phật này.

Duy Ma Cật nói:

– Bồ Tát cõi này đối với chúng sanh, lòng đại bi kiên cố như lời các ông nói. Hạnh lợi ích chúng sanh trong một đời, nhiều hơn cõi khác trăm nghìn kiếp. Tại sao? Vì cõi Ta Bà này có mười pháp lành mà các cõi Tịnh độ khác không có. Thế nào là mười pháp lành? Ấy là:

1) Dùng Bố Thí để nhiếp độ nghèo nàn.
2) Dùng Tịnh Giới nhiếp độ phá giới.

3) Dùng Nhẫn Nhục nhiếp sân hận.

4) Dùng Tinh Tấn nhiếp giãi đãi.

5) Dùng Thiền Ðịnh nhiếp loạn ý.

6) Dùng Trí Huệ nhiếp ngu si.

7) Dùng Thuyết Pháp trừ nạn để độ bát nạn.

8) Dùng pháp Ðại Thừa để độ kẻ ưa pháp tiểu thừa.

9) Dùng Thiện Căn để cứu giúp kẻ vô đức.

10) Thường dùng Tứ Nhiếp Pháp để thành tựu cho chúng sanh. Gọi là mười pháp lành.

Các Bồ Tát cõi kia hỏi:

– Bồ Tát nơi thế giới này thành tựu mấy pháp, thì được sanh vào nơi Tịnh độ mà hạnh chẳng tỳ vết?

Duy Ma Cật đáp:

– Bồ Tát thành tựu tám pháp thì được sanh nơi Tịnh độ mà hạnh chẳng tỳ vết. Tám pháp ấy là:

1) Lợi ích chúng sanh mà chẳng mong phước báo.

2) Thay cho chúng sanh chịu mọi khổ não. Ðược tất cả công đức, rồi bố thí lại hết.

3) Dùng tâm khiêm nhường. Ðối với chúng sanh bình đẳng vô ngại, xem các Bồ Tát cũng như Phật.

4) Những Kinh chưa từng nghe, nghe rồi chẳng nghi.

5) Cùng với hàng Thanh Văn mà chẳng trái nhau.

6) Chẳng đố kỵ sự cúng dường của người. Chẳng khoe khoang lợi lộc của mình. Do đó mà tự điều phục tâm.

7) Thường xét lỗi mình, chẳng nói lỗi người.

8) Thường nhất tâm cầu các công đức.

Khi Duy Ma Cật cùng Văn Thù thuyết pháp này rồi, trong chúng có trăm ngàn trời người đều phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, mười ngàn Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

 

XI. PHẨM HẠNH BỒ BÁT

Khi đó, Phật đang thuyết pháp nơi vườn Am La Thọ, vườn ấy bỗng nhiên rộng rãi trang nghiêm. Cả chúng trong hội đều hiện sắc vàng. A Nan bạch Phật rằng:- Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có điềm lành ứng hiện như thế?

Phật bảo A Nan:

– Ấy là Duy Ma Cật và Văn Thù cùng đại chúng cung kính vây quanh, khởi ý muốn đến, nên báo hiệu điềm lành trước.

Lúc ấy Duy Ma Cật nói với Văn Thù rằng:

– Hãy cùng đi gặp Phật để các Bồ Tát được cúng dường lễ bái thỉnh pháp.

Văn Thù nói:

– Lành thay! Nay chính là lúc nên đi.

Duy Ma Cật liền dùng thần lực đem cả chúng cùng tòa sư tử để trên bàn tay phải, đến nơi Phật ở, rồi để xuống đất, đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu theo hướng tay phải bảy vòng, nhất tâm hiệp chưởng đứng sang một bên. Các Bồ Tát, đại đệ tử và Thích Phạm Tứ Thiên Vương v.v… Cả thảy liền xuống tòa, đảng lễ chân Phật, cũng đi quanh bảy vòng rồi đứng sang một bên.

Bấy giờ, Thế Tôn y theo lễ thường, hỏi thăm các Bồ Tát xong, bảo ngồi lại chỗ cũ. Cả chúng đều vâng lời. Khi đại chúng an tọa, Phật bảo Xá Lợi Phất:

– Ngươi có thấy thần lực tự tại của Bồ Tát đại sĩ làm đó chăng?

– Vâng! Con đã thấy.

– Ý ngươi thế nào?

– Bạch Thế Tôn! Con thấy những việc làm ấy bất khả tư nghì. Chẳng phải ý thức suy nghĩ có thể làm được.

Lúc ấy A Nan bạch Phật rằng:

– Thế Tôn! Nay con ngửi mùi hương xưa nay chưa từng có, là hương gì?

Phật bảo A Nan:

– Là mùi hương từ lỗ chân lông của Bồ Tát cõi kia.

Khi ấy, Xá Lợi Phất nói với A Nan rằng:

– Lỗ chân lông của chúng tôi cũng ra mùi hương này.

– Nan hỏi:

– Mùi hương này từ đâu đến?

Ðáp:

– Ðấy là trưởng giả Duy Ma Cật xin cơm thừa của Phật từ cõi Chúng Hương đem về. Ðại chúng ăn nơi nhà Ngài, tất cả lỗ chân lông đều ra mùi huơng như thế.

Nan hỏi Duy Ma Cật:

– Mùi hương này giữ được bao lâu?

Ðáp:

– Ðến khi tiêu cơm.

Hỏi:

– Cơm này bao lâu mới tiêu?

Ðáp:

– Thế lực của cơm này đến bảy ngày mới tiêu. Lại nữa, A Nan, nếu là Thanh Văn chưa vào chánh vị, ăn cơm này rồi, đến khi vào chánh vị mới tiêu. Người đã vào chánh vị, ăn cơm này rồi, đến khi tâm được giải thoát mới tiêu. Chưa phát tâm đại thừa, ăn cơm này rồi, đến khi phát tâm đại thừa cơm mới tiêu. Ðã phát tâm đại thừa, ăn cơm này rồi, đến khi đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn mới tiêu. Ðã đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, ăn cơm này rồi, đến khi được một đời kế vị Phật mới tiêu. Ví như có thuốc gọi là Thượng Vị, kẻ uống thuốc này, những độc trong thân diệt hết rồi mới tiêu. Cơm này cũng thế, khi diệt hết tất cả độc phiền não rồi mới tiêu.

A Nan bạch Phật rằng:

– Thế Tôn! Cơm hương này hay làm Phật sự như thế, thật chưa từng có.

Phật bảo:

– Ðúng thế! Ðúng thế! Ðúng thế! A Nan. Có cõi Phật hoặc dùng ánh sáng của Phật mà làm Phật sự. Hoặc nhờ các Bồ Tát mà làm Phật sự. Hoặc dùng người huyễn của Phật hóa ra mà làm Phật sự. Hoặc dùng quần áo, ngọa cụ của Phật mà làm Phật sự. Hoặc dùng cây Bồ Ðề mà làm Phật sự. Hoặc dùng cơm ăn mà làm Phật sự. Hoặc dùng vườn tược, lâu đài mà làm Phật sự. Hoặc dùng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẽ đẹp mà làm Phật sự. Hoặc nhờ thân Phật mà làm Phật sự. Hoặc dùng hư không mà làm Phật sự. Như thế, tùy sự nhân duyên cảm ứng của mọi chúng sanh đều được vào luật hạnh.

Hoặc dùng các thí dụ như mộng huyễn, bóng vang, tượng trong gương, trăng dưới nước, dương diệm v.v… mà làm Phật sự. Hoặc có cõi Phật trong sạch tịch lặng, chẳng nói năng, chẳng khai thị, vô thức vô tác, vô vi mà làm Phật sự.

Như thế, A Nan! Oai nghi và cử chỉ của chư Phật, phàm tất cả việc làm đều là Phật sự. A Nan! Vì có bốn loại ma và tám mươi bốn ngàn cửa phiền não khiến chúng sanh bị lao nhọc, nên chư Phật dùng những pháp này mà làm Phật sự. Ấy gọi là pháp môn Nhập Nhất Thiết Chư Phật. Bồ Tát nhập pháp môn này, thấy tất cả cõi Phật nghiêm tịnh chẳng cho là vui mừng, chẳng ham, chẳng khen. Thấy tất cả cõi Phật bất tịnh cũng chẳng lo buồn, chẳng ngại, chẳng chê. Ðối với chư Phật sanh tâm trong sạch vì sự hoan hỉ cung kính chưa từng có. Công đức bình đẳng của chư Phật, vì giáo hóa chúng sanh nên thị hiện những cõi Phật như trên.

A Nan! Ngươi thấy quốc độ của chư Phật, đất đai có số lượng, chứ hư không thì chẳng có số lượng. Cũng thế, sắc thân của chư Phật có số lượng, chứ trí huệ vô ngại thì chẳng có số lượng. A Nan! Những sắc thân của chư Phật như oai tướng, chủng tánh, giới, định, huệ, giải thoát tri kiến, sức vô sở úy, pháp bất cộng, đại từ đại bi, oai nghi, sở hành và thọ mạng thuyết pháp giáo hóa thành tựu chúng sanh nghiêm tịnh cõi Phật, đầy đủ Phật pháp v.v… thảy đều chẳng khác. Nên gọi là Chánh Biến Tri, cũng gọi là Như Lai, cũng gọi là Ðại Giác.

A Nan! Vô Thượng Bồ Ðề của chư Phật, trí huệ biện tài bất khả tư nghì chẳng có hạn lượng. Nếu ta rộng thuyết nghĩa ba câu này, dù ngươi được thọ mạng bằng số kiếp cũng chẳng thể lãnh thọ hết. Dẫu cho tất cả chúng sanh trong đại thiên thế giới đều được đa văn bậc nhất như A Nan, đắc niệm tổng trì, những người đó thọ mạng bằng số kiếp cũng chẳng lãnh thọ hết.

A Nan bạch Phật rằng:

– Từ nay về sau, con chẳng dám tự cho là đa văn nữa.

Phật bảo A Nan:

– Chớ nên khởi tâm thối lui. Tại sao? Ta nói ngươi đa văn bậc nhất trong hàng Thanh Văn, chứ chẳng phải trong hàng Bồ Tát. Hãy thôi, A Nan! Người có trí chẳng nên so sánh với bậc Bồ Tát. Biển sâu, vực thẳm còn có thể đo lường, chứ thiền định, trí huệ, tổng trì biện tài, tất cả công đức của Bồ Tát thì chẳng thể lường được. A Nan! Các ngươi hãy bỏ qua sở hành của Bồ Tát, sức thần thông biến hóa trong nhất thời của Duy Ma Cật, tất cả hàng nhị thừa dầu trãi qua trăm nghìn kiếp tận sức biến hóa cũng chẳng làm được.

Bấy giờ, Bồ Tát cõi Chúng Hương chắp tay bạch Phật rằng:

– Thế Tôn! Chúng con khi mới thấy cõi này, sanh tâm cho là thấp kém, nay tự hối trách, lìa bỏ tư tưởng ấy. Tại sao? Phương tiện của chư Phật bất khả tư nghì. Vì độ chúng sanh mà tùy cơ ứng hiện cõi Phật chẳng đồng. Bạch Thế Tôn! Xin ban ít pháp cho chúng con, để khi trở về cõi kia được tưởng nhớ Như Lai.

Phật bảo các Bồ Tát:

– Có pháp môn Hữu tận, vô tận giải thoát các ngươi nên học.

Sao gọi là Hữu tận? Ấy là pháp Hữu vi.

Sao gọi là Vô tận? Ấy là pháp Vô vi.

Bồ Tát thì chẳng tận hữu vi, chẳng trụ vô vi.

Thế nào là chẳng tận hữu vi?Ấy là chẳng lìa đại từ, chẳng bỏ đại bi, thân tâm phát khởi nhất thiết trí mà chẳng tạm quên, giáo hóa chúng sanh mà chẳng nhàm chán. Thường tùy thuận nơi hạnh tứ nhiếp, hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, vun trồng thiện căn chẳng có nhàm mỏi, nguyện thường an trụ nơi phương tiện hồi hướng, cầu pháp chẳng giãi đãi, thuyết pháp chẳng bỏn xẻn, siêng năng cúng dường chư Phật, bào nơi sanh tử mà vô sở úy. Ðối với những việc vinh nhục tâm chẳng buồn vui, kính người học như Phật mà chẳng khinh sơ học, khiến kẻ đọa nơi phiền não phát khởi chánh niệm. Ðối với sự xa lìa lợi lạc chẳng cho là quý, chẳng thích vui của mình, tùy hỉ vui của người. Nơi thiền định tưởng như địa ngục, nơi sanh tử tưởng như vườn hoa. Gặp kẻ cầu xin tưởng như bậc thầy. Xả bỏ tất cả tưởng như đầy đủ nhất thiết trí. Gặp kẻ phá giới khởi tâm cứu độ. Xem pháp Ba La Mật tưởng như cha mẹ mình, xem pháp trợ đạo tưởng như quyến thuộc mình. Phát khởi thiện căn chẳng có ngằn mé. Dùng những việc nghiêm tịnh của các cõi Phật để thành tựu cõi Phật mình. Ðầy đủ tướng tốt, pháp thí vô hạn, tịnh thân khẩu ý,trừ tất cả ác, đầy đủ trí dũng nên chẳng sợ sanh tử lâu dài. Nghe vô lượng công đức của Phật mà chí nguyện chẳng mỏi. Dùng gươm trí huệ phá giặc phiền não. Ra vào sanh tử gánh vác chúng sanh khiến được giải thoát. Dùng đại tinh tấn hàng phục bọn ma. Thường cầu vô niệm trí huệ thật tướng. Hành thiểu dục tri túc mà chẳng bỏ pháp thế gian. Tùy thuận thế tục mà chẳng hoại oai nghi. Dùng thần thông trí huệ dẫn dắt chúng sanh. Ðắc niệm tổng trì, việc nghe chẳng quên, khéo phân biệt căn cơ, đoạn dứt nghi hoặc của chúng sanh, dùng biện tài thuyết pháp, diễn thuyết vô ngại, hành nơi thập thiện, thọ phước trời người, tu tứ vô lượng, khuyến thỉnh thuyết pháp, mở đường Phạm Thiên. Tùy ý tán thán, đắc âm thanh Phật, thân khẩu ý thiện, đắc Phật oai nghi, thâm nhập thiện pháp, tăng hạnh thù thắng, dùng giáo pháp đại thừa thành tựu Bồ Tát tăng, tâm chẳng buông lung, việc thiện chẳng mất. Hành pháp như thế gọi là Bồ Tát chẳng tận hữu vi.

Thế nào là Bồ Tát chẳng trụ vô vi? Ấy là tu học quán không mà chẳng chứng pháp không. Tu học vô tướng vô tác mà chẳng chứng vô tướng vô tác. Quán vô khởi mà chẳng chứng vô khởi. Quán pháp vô thường mà chẳng chán pháp thiện. Quán thế gian khổ mà chẳng ghét sanh tử. Quán pháp vô ngã mà dạy người chẳng thôi. Quán pháp tịch diệt mà chẳng diệt hẳn. Quán pháp xa lìa mà thân tâm tu thiện. Quán pháp chẳng chỗ về mà về nơi thiện pháp. Quán pháp vô sanh mà dùng pháp sanh gánh vác tất cả. Quán pháp vô lậu mà chẳng dứt tập lậu. Quán vô sở hành mà dùng pháp hành giáo hóa chúng sanh. Quán pháp hư vô mà chẳng bỏ đại bi. Quán ngôi pháp chánh mà chẳng theo tiểu thừa thủ chứng. Quán pháp hư vọng chẳng bền, vô nhân, vô chủ, vô tướng, vì bổ nguyện chưa mãn mà vẫn tu phước đức, thiền định. trí huệ. Tu pháp như thế gọi là Bồ Tát chẳng trụ vô vi.

Lại nữa, vì sẵn đủ phước đức nên chẳng trụ vô vi, sẵn đủ trí huệ nên chẳng tận hữu vi. Vì đại từ đại bi nên chẳng trụ vô vi, vì thỏa mãn bản nguyện nên chẳng tận hữu vi. Vì thu tập pháp thuốc nên chẳng trụ vô vi, tùy bệnh cho thuốc nên chẳng tận hữu vi. Biết bệnh chúng sanh nên chẳng trụ vô vi, diệt bệnh chúng sanh nên chẳng tận hữu vi. Các Chánh sĩ! Bồ Tát tu theo pháp này thì chẳng tận hữu vi, chẳng trụ vô vi. Ấy gọi là pháp môn Tận, Vô Tận Giải Thoát, các ngươi nên học.

Bấy giờ, những Bồ Tát cõi kia nghe được pháp này đều rất vui mừng, dùng diệu hoa đủ các màu sắc và mùi hương rãi khắp cõi đại thiên thế giới, cúng dường Phật và kinh pháp này, cùng các Bồ Tát rồi đảnh lễ chân Phật, tán thán việc chưa từng có rằng Phật Thích Ca khéo hành phương tiện nơi cõi này.

Nói xong bỗng biến mất, trở về cõi Chúng Hương.

 

XII. PHẨM BẤT ÐỘNG NHƯ LAI

Bấy giờ, Thế Tôn hỏi Duy Ma Cật rằng:- Ngươi muốn gặp Như Lai, mà lấy gì để quán Như Lai?

Duy Ma Cật nói:

– Như quán thật tướng tự thân, quán Phật cũng vậy. Con quán Như Lai, việc trước chẳng đến, việc sau chẳng đi, nay cũng chẳng trụ. Chẳng quán sắc, chẳng quán sắc như (như tự tánh), chẳng quán sắc tánh. Cho đến thọ tưởng hành thức cũng chẳng quán theo như thế. Tứ đại chẳng khởi, đồng như hư không. Lục nhập vô tụ, siêu việt lục căn. Chẳng ở tam giới, tam cấu đã lìa, tùy thuận ba cửa giải thoát. Tam minh đầy đủ bằng với vô minh. Chẳng nhất tướng, chẳng dị tướng, chẳng tự tướng, chẳng tha tướng, phi không tướng, phi chấp tướng. Chẳng bờ bên đây, chẳng bờ bên kia, chẳng giữa giòng mà giáo hóa chúng sanh.

Quán nơi tịch diệt mà chẳng diệt hẳn. Chẳng đây chẳng kia, chẳng nương đây mà đồng đây, chẳng nương kia mà đồng kia. Chẳng thể dùng trí hiểu, chẳng thể dùng thức biết. Chẳng tối chẳng sáng. Vô danh vô tướng. Chẳng mạnh chẳng yếu. Phi tịnh phi cấu. Chẳng tại phương chẳng lìa phương, phi hữu vi phi vô vi, vô thị vô thuyết. Chẳng bố thí chẳng bỏn xẻn, chẳng trì giới chẳng phá giới, chẳng nhẫn nhục chẳng sân hận, chẳng tinh tấn chẳng giãi đãi, chẳng định chẳng loạn, chẳng trí chẳng ngu, chẳng thật chẳng dối, chẳng khứ chẳng lai, chẳng xuất chẳng nhập, tất cả ngôn ngữ đoạn dứt. Phi phước điền phi chẳng phước điền, phi nên cúng dường phi chẳng nên cúng dường, phi thủ phi xả, phi hữu tướng phi vô tướng, đồng thật tế bằng pháp tánh, siêu việt số lượng chẳng thể đo lường. Phi đại phi tiểu, phi kiến văn giác tri, lìa các trói buộc, đẳng trí huệ, đồng chúng sanh, nơi các pháp chẳng phân biệt, tất cả vô đắc vô thất, chẳng ô trược chẳng phiền não, vô tác vô khởi, vô sanh vô diệt, chẳng sợ chẳng buồn, chẳng vui chẳng chán, chẳng đã có chẳng sẽ có, chẳng nay có. Chẳng thể dùng tất cả ngôn thuyết để tỏ bày. Thế Tôn! Thân Như Lai là thế đó, quán theo như thế gọi là chánh quán, quán theo cách khác gọi là tà quán.

Bấy giờ, Xá Lợi Phất hỏi Duy Ma Cật rằng:

– Ông diệt nơi đâu mà đến thọ sanh nơi đây?

Duy Ma Cật nói:

– Pháp sở đắc của ông có sanh diệt chăng?

Xá Lợi Phất đáp:

– Chẳng có sanh diệt.

– Nếu các pháp chẳng có tướng sanh diệt, thì sao còn hỏi diệt nơi đâu rồi đến sanh nơi đây. Ý ông thế nào? Ví như người nam nữ của nhà huyễn thuật làm ra đó có sanh diệt chăng?

– Chẳng có sanh diệt.

– Ông há chẳng nghe Phật thuyết các pháp như tướng huyễn sao?

– Ðúng thế!

– Vậy sao còn hỏi về sự sanh diệt chi nữa. Xá Lợi Phất! Diệt là pháp giả dối của tướng hư hoại. Sanh là pháp giả dối của tướng tương tục. Bồ Tát, dù diệt mà thiện nghiệp chẳng hết, dù sanh mà ác nghiệp chẳng sanh.

Khi ấy Phật bảo Xá Lợi Phất:

– Có quốc độ Diệu Hỷ, Phật hiệu Vô Ðộng, Duy Ma Cật diệt nơi cõi ấy mà đến sanh nơi đây.

Xá Lợi Phất nói:

– Bạch Thế Tôn! Người ấy nguyện bỏ cõi thanh tịnh mà lại thích cõi nhiều oán hại này, thật chưa từng có!

Duy Ma Cật bảo Xá Lợi Phất rằng:

– Ý ông thế nào, khi mặt trời chiếu, ánh sáng ấy có hợp với tối chăng?

– Không ạ! Khi mặt trời ra thì chẳng còn đen tối nữa.

Duy Ma Cật hỏi:

– Tại sao mặt trời phải đi qua cõi Ta Bà?

– Vì muốn dùng ánh sáng chiếu soi để diệt trừ đen tối.

Duy Ma Cật nói:

– Bồ Tát cũng thế, dù sanh cõi Phật bất tịnh vì giáo hóa chúng sanh mà chẳng hợp với ngu tối, chỉ muốn diệt trừ phiền não đen tối của chúng sanh thôi!

Bấy giờ, đại chúng khao khát muốn gặp Vô Ðộng Như Lai, cõi Diệu Hỷ và chúng Bồ Tát Thanh Văn cõi ấy. Phật biết ý của chúng, bảo Duy Ma Cật rằng:

– Thiện nam tử! Hãy vì cả chúng trong hội hiện Vô Ðộng Như Lai, cõi Diệu Hỷ và chúng Bồ Tát, Thanh Văn kia để chúng được thấy.

Lúc ấy, Duy Ma Cật nghĩ rằng: Ta sẽ chẳng rời chỗ ngồi, đem hết vạn vật trong cõi Diệu Hỷ như núi sông, đất đai, núi Tu Di, Thiết Vi, nhật nguyệt, tinh tú, Thiên Long bát bộ, quỷ thần, Phạm Thiên, chúng Bồ Tát Thanh Văn, thành phố, thôn quê, nam nữ, cho đến Vô Ðộng Như Lai, tất cả nhà cửa cung điện, những cây Bồ Ðề, diệu liên hoa và kẻ hay làm Phật sự nơi mười phương v.v… Có ba cầu thang từ cõi Ta Bà đến cõi Ðao Lợi. Chư Thiên nhờ thang này đến lễ kính Như Lai, lãnh thọ kinh pháp. Người Ta Bà cũng nhờ thang này lên cõi Ðao Lợi gặp chư Thiên. Thế giới Diệu Hỷ thành tựu vô lượng công đức như thế. Trên từ cõi trời Sắc Cứu Cánh, dưới đến thủy luân, ta sẽ dùng tay phải rút lấy như lấy đồ gốm đem vào cõi này. Cũng như tay cầm tràng hoa cho tất cả chúng đều thấy.

Nghĩ xong liền nhập chánh định, hiện sức thần thông, dùng tay phải rút lấy cõi Diệu Hỷ để vào cõi Ta Bà. Các Bồ Tát đắc thần thông và chúng Thanh Văn, cùng các Thiên tử cõi kia đều cất tiếng hỏi:

– Bạch Thế Tôn! Ai đem con đi. Mong cứu hộ cho.

Vô Ðộng Như Lai bảo:

– Chẳng phải ta làm. Ấy là thần lực của Duy Ma Cật làm như thế.

Còn những người chưa đắc thần thông thì chẳng hay biết mình bị di chuyển đi chỗ khác. Cõi Diệu Hỷ dù vào cõi này mà chẳng thêm bớt, nơi cõi Ta Bà cũng vẫn y như cũ, chẳng thấy chật hẹp.

Bấy giờ, Phật Thích Ca bảo đại chúng rằng:

– Các ngươi hãy xem quốc độ trang nghiêm, Bồ Tát thanh tịnh, đệ tử trong trắng của Vô Ðộng Như Lai cõi Diệu Hỷ.

Cả chúng đều thưa rằng:

– Vâng! Ðã thấy.

Phật bảo:

– Nếu Bồ Tát muốn đắc cõi Phật trong sạch như thế, nên học theo đạo sở hành của Vô Ðộng Như Lai.

Lúc hiện cõi Phật Diệu Hỷ này, nơi cõi Ta Bà có mười bốn na do tha người phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, đều nguyện sanh cõi Diệu Hỷ. Phật Thích Ca liền thọ ký cho họ được sanh cõi ấy. Khi cõi Phật Diệu Hỷ ứng hiện việc lợi ích nơi cõi Ta Bà xong, trở về bổn xứ cả chúng đều thấy rõ.

Phật bảo Xá Lợi Phất:

– Ngươi đã thấy cõi Diệu Hỷ và Vô Ðộng Như Lai chăng?

– Vâng! Con đã thấy. Thế Tôn! Nguyện khiến tất cả chúng sanh đều được cõi Phật trong sạch như Vô Ðộng Như Lai, sức thần thông như Duy Ma Cật để thân cận cúng dường, hoan hỷ đắc được thiện lợi. Những chúng sanh hiện tại hoặc đời sau, nghe kinh này cũng được thiện lợi, huống là nghe rồi tín giải, thọ trì, đọc tụng, giải thuyết, theo pháp tu hành.

Nếu có người đắc kinh điển này, thì được kho tàng pháp bảo. Nếu đọc tụng, giải nghĩa, tu hành đúng như sở thuyết, thì được chư Phật hộ niệm. Kẻ cúng dường Duy Ma Cật bằng như cúng dường chư Phật. Nếu có người biên chép, thọ trì kinh này, nên biết chỗ ở của họ thường có Phật. Kẻ nghe kinh này tùy hỷ thì sẽ hướng thẳng vào nhất thiết trí. Kẻ tín giải kinh này cho đến một tứ cú kệ rồi giải thuyết cho người khác nghe, nên biết người ấy sẽ được thọ ký Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

 

XIII. PHẨM PHÁP CÚNG DƯỜNG

Bấy giờ, Ðế Thích ở nơi đại chúng bạch Phật rằng:- Thế Tôn! Con dù đã nghe trăm nghìn kinh điển của Phật với Văn Thù, nhưng chưa từng nghe kinh điển quyết định thật tướng thần thông tự tại bất khả tư nghì như thế. Như con hiểu nghĩa của Phật thuyết, nếu có chúng sanh nghe kinh pháp này tín giải, thọ trì, đọc tụng thì quyết định sẽ được đắc pháp, huống là tu hành đúng như Phật sở thuyết. Người ấy sẽ đóng bít nẻo ác, khai mở cửa thiện, thường được chư Phật hộ niệm,hàng phục ngoại đạo, dẹp tan ma oán, tu đạo Bồ Ðề, an trụ đạo tràng, thực hiện sở hành của Như Lai.

Thế Tôn! Nếu có người thọ trì, đọc tụng tu hành đúng như Phật sở thuyết, thì con sẽ cùng các quyến thuộc cúng dường hầu hạ. Những thành phố thôn quê, núi rừng đồng bằng, nơi nào có kinh này, chúng con sẽ cùng đến chỗ đó lãnh thọ kinh pháp, kẻ chưa tin khiến sanh lòng tin, kẻ đã tin thì hộ vệ cho họ.

Phật bảo:

– Lành thay! Lành thay! Thiên Ðế. Như lời ngươi nói, ta mừng cho ngươi. Kinh này rộng thuyết Vô Thuợng Bồ Ðề bất khả tư nghì của tam thế chư Phật. Thiên Ðế! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng, cúng dường kinh này tức là cúng dường tam thế chư Phật.

Thiên Ðế! Giả sử có chư Phật đầy khắp cõi tam thiên, đại thiên thế giới, nhiều như mía, tre, lúa, mè, rừng cây v.v… Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, hoặc một kiếp hoặc chưa đầy một kiếp, cung kính tôn trọng, tán thán cúng dường thờ phụng cho đến chư Phật diệt độ rồi, đem xá lợi toàn thân của mỗi chư Phật xây dựng thất bửu tháp rộng bằng tứ thiên hạ, cao đến cõi Phạm Thiên, trang nghiêm rực rỡ, dùng tất cả hương hoa, anh lạc tràng phan, âm nhạc vi diệu bậc nhất để cúng dường hoặc một kiếp hoặc chưa đầy một kiếp.

Thiên Ðế! Ý ngươi thế nào? Phước đức người ấy có nhiều chăng?

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Phước đức người ấy dẫu cho trăm ngàn ức kiếp cũng chẳng kể xiết.

Phật bảo Thiên Ðế:

– Nên biết thiện nam tử, thiện nữ nhơn kia được nghe kinh điển giải thoát bất khả tư nghì này, tín giải, thọ trì, đọc tụng, tu hành được phước được phước đức nhiều hơn người trước. Tại sao? Vì Bồ Ðề của chư Phật đều từ kinh này sanh ra, tướng Bồ Ðề chẳng có hạn lượng. Do nhơn duyên này nên phước đức chẳng thể đo lường.

Phật lại bảo:

– Thiên Ðế! Về quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, có thế giới Ðại Trang Nghiêm, kiếp gọi Trang Nghiêm. Thời ấy có Phật hiệu là Dược Vương Như Lai, trụ thế hai mươi tiểu kiếp, hàng Thanh Văn ba mươi sáu ức na do tha, háng Bồ Tát mười hai ức.

Khi ấy, có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Bửu Cái, đầy đủ thất bảo, làm vua tứ thiên hạ. Vua có ngàn con, đoan trang dũng mãnh, hay hàn phục oán thù. Lúc đó, Bửu Cái cùng quyến thuộc cúng dường thờ phụng Dược Vương Như Lai mãn năm kiếp, qua năm kiếp rồi bảo với ngàn con rằng:

“Các ngươi cũng nên đem thâm tâm cúng dường Phật như ta vậy.”

Ngàn con vâng lời phụ vương, cũng cúng dường thờ phụng Dược Vương Như Lai mãn năm kiếp.

Trong đó có một vương tử tên Nguyệt Cái tự ngồi suy nghĩ: “Có cúng dường nào hơn việc này chăng?”

Do oai thần Phật, giữa hư không có thiên tử nói rằng:

“Thiện nam tử! Dùng pháp cúng dường hơn các cúng dường khác.”

Nguyệt Cái liền hỏi: “Thế nào là Pháp Cúng Dường?”

Thiên tử nói:

“Ngươi hãy đến hỏi Dược Vương Như Lai. Ngài sẽ nói rõ pháp cúng dường cho ngươi biết.”

Tức thì, Nguyệt Cái đến chỗ Dược Vương Như Lai, đảnh lễ chân Phật, rồi đứng qua một bên bạch Phật rằng:

“Thế Tôn! Trong các cúng dường, pháp cúng dường là hơn cả. Vậy thế nào là pháp cúng dường?”

Dược Vương Như Lai bảo:

“Thiện nam tử! Pháp Cúng Dường là kinh thâm diệu của chư Phật sở thuyết, là Tổng trì sở ấn, pháp tạng sở nhiếp của Bồ Tát. Tất cả thế gian khó tin, khó hành. Vi diệu khó thấy, trong sạch chẳng nhiễm. Chẳng phải suy nghĩ phân biệt có thể đến. Người tu đến bậc Bất Thối Chuyển thành tựu lục độ, khéo phân biệt diệu nghĩa, thuận pháp Bồ Ðề, siêu việt các kinh, vào đại từ bi, lìa việc bọn ma và các tà kiến, thuận pháp nhân duyên, vô ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, cũng là không, vô tướng, vô tác, vô khởi, hay khiến chúng sanh tọa đạo tràng chuyển pháp luân, long thiên hộ pháp thảy đều tán thán, khiến chúng sanh nhập pháp tạng Phật, gồm tất cả trí huệ của hiền thánh, thuyết đạo sở hành của Bồ Tát, nương nghĩa thật tướng của các pháp, sáng tỏ pháp tịch diệt vô thường, khổ, không, vô ngã, cứu giúp tất cả chúng sanh phá giới, hay khiến những tà ma ngoại đạo và kẻ tham đắm đều khiếp sợ, chư Phật hiền thánh cùng nhau tán thán, lìa sự khổ của sanh tử, hiện sự vui của Niết Bàn, ấy là do mười phương tam thế chư Phật sở thuyết. Nếu được nghe kinh điển này, tín giải, thọ trì, đọc tụng, dùng sức phương tiện vì chúng sanh phân biệt giảng giải, chỉ bày rõ ràng. Hộ trì chánh pháp như thế gọi là pháp cúng dường.”

“Lại nữa, nơi các pháp tu hành đúng như Phật sở thuyết, tùy thuận thập nhị nhân duyên, lìa các tà kiến, đắc vô sanh nhẫn, quyết định vô ngã, vô chúng sanh, chẳng trái nhân duyên quả báo, lìa nơi ngã sở, hành đúng pháp tứ y (y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa, y pháp bất y nhân), tùy thuận pháp tướng, vô sở nhập, vô sở qui. Vì vô minh tất cánh diệt nên chư hạnh cũng diệt, cho đến pháp sanh tất cánh diệt nên lão tử cũng diệt. Tác quán như thế thì thập nhị nhân duyên chẳng có tướng tận, kiến chấp chẳng khởi. Ấy gọi là pháp cúng dường tối thượng.”

Phật bảo Thiên Ðế:

– Vương tử Nguyệt Cái nghe Dược Vương Như Lai thuyết pháp như thế đắc nhu thuận nhẫn, liền cởi bửu y với đồ trang sức trên thân thể để cúng dường Phật và bạch rằng:

“Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, con sẽ hành pháp cúng dường, hộ trì chánh pháp. Nguyện nhờ oai thần Phật gia hộ, khiến con hàng phục được ma oán, tu hạnh Bồ Tát.”

Dược Vương Như Lai biết thâm ý của Nguyệt Cái liền thọ ký rằng:

“Ngươi về sau sẽ hộ vệ thành trì chánh pháp.”

Khi ấy, Nguyệt Cái chứng kiến pháp thanh tịnh, nghe Phật thọ ký, tín thọ xuất gia, tinh tấn tu tập thiện pháp, chẳng bao lâu đắc ngũ thần thông, hành đạo Bồ Tát, đắc pháp Tổng Trì, biện tài vô ngại. Sau khi Phật diệt độ, dùng sức thần thông, tổng trì biện tài đã đắc,tùy duyên phổ biến pháp luân sở chuyển của Dược Vương Như Lai mãn muời tiểu kiếp.

Tỳ kheo Nguyệt Cái vì siêng năng tinh tấn hộ trì chánh pháp ngay đời đó, thân đó giáo hóa trăm muôn ức người nơi Vô Thượng Bồ Ðề, được bất thối chuyển, mười bốn na do tha người phát tâm nhị thừa, vô lượng chúng sanh được sanh cõi trời.

Thiên Ðế! Vua Bửu Cái trước kia, nay đã thành Phật hiệu Bửu Diệm Như Lai. Ngàn con của vua tức là ngàn Phật trong hiền kiếp. Bắt đầu từ Phật Ca La Cưu Tôn Ðà cho đến Phật cuối cùng hiệu là Lâu Chí Như Lai. Tỳ kheo Nguyệt Cái tức là thân ta đây.

Thiên Ðế! Phải biết pháp yếu dùng pháp cúng dường nơi các cúng dường này là bậc nhất, tối cao, tối thượng, chẳng gì so bằng. Vì thế, Thiên Ðế! Nên dùng pháp cúng dường để cúng dường Phật.

 

XIV. PHẨM CHÚC LỤY

Bấy giờ, Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:

– Di Lặc! Nay ta đem pháp Vô Thượng Bồ Ðề đã tích tụ từ vô lượng a tăng kỳ kiếp phó chúc ngươi. Sau khi Phật diệt độ, trong thời mạt pháp, các ngươi nên dùng thần lực phổ biến giảng giải những kinh này khắp cõi Ta Bà, chớ cho đoạn dứt. Tại sao? Trong đời vị lai, sẽ có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, với thiên long bát bộ, quỷ thần, la sát v.v… phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, ưa pháp Ðại Thừa. Giả sử không được nghe những kinh này thì sẽ mất thiện lợi. Họ được nghe những kinh như thế, ắt phải phát tâm hy hữu, hoan hỷ tín thọ. Ngươi nên tùy sự nhu cầu đắc lợi của chúng sanh mà ứng cơ rộng thuyết.

Di Lặc nên biết căn cơ Bồ tát có hai tướng:

1) Bồ Tát sơ học, ham tìm hiểu văn chương, nghĩa cú.

2) Bồ Tát đã tu lâu; có đạo hạnh; đối với những kinh điển thâm sâu vô nhiễm, vô trước đó, nghe rồi tâm tịnh, thọ trì, đọc tụng, theo pháp tu hành, hay nhập thâm nghĩa, chẳng có khiếp sợ.

Di Lặc! Người sơ học còn có hai pháp chẳng thể quyết định vào nơi thâm nghĩa:

Một là nghe kinh thâm diệu sanh lòng khiếp sợ, nghi hoặc chẳng tin, không thể tùy thuận, lại phỉ báng rằng: “Xưa nay chưa nghe kinh. Kinh này từ đâu mà có?”

Hai là gặp có người hộ trì và giải thuyết kinh thâm diệu này, chẳng những không chịu thân cận cung kính cúng dường, lại còn theo đó nói xấu người ấy.

Do hai pháp này thì biết được Bồ Tát sơ học đó tự tổn hại mình, không thể ở nơi pháp thâm diệu, tự điều phục tâm.

Di Lặc! Ngoài ra còn có hai pháp:

Một là khinh mạn Bồ Tát sơ học mà chẳng dạy dỗ họ.

Hai là dù tín giải pháp thâm diệu, lại chấp tướng phân biệt.

Hai hạng người này, dù có tín giải pháp thâm diệu mà vẫn tự làm tổn thương, do đó chẳng thể đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Di Lặc Bồ Tát nghe xong, liền bạch Phật rằng:

– Thế Tôn! Thật chưa từng có. Như lời Phật thuyết, con sẽ xa lìa các lỗi lầm này, mà thọ trì pháp Vô Thượng Bồ Ðề của Như Lai đã tích tụ từ vô lượng a tăng kỳ kiếp. Nếu đời vị lai, mơi thiện nam tín nữ, có kẻ cầu Ðại Thừa sẽ đắc nhập kinh này, và được sức ghi nhớ để thọ trì, đọc tụng, rộng thuyết cho người khác nghe. Nếu đời mạt pháp, có người nào hay thọ trì, đọc tụng, giảng giải cho người khác nghe. Nên biết người ấy là do thần lực hộ trì của Di Lặc.

Phật bảo:

– Lành thay! Lành thay! Di Lặc! Như lời ngươi nói, ta mừng cho ngươi.

Lúc ấy, tất cả Bồ Tát chấp tay bạch Phật rằng:

– Sau khi Phật diệt độ, chúng con sẽ phổ biến giảng giải pháp Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác khắp mười phương quốc độ và dẫn dắt cho những người thuyết pháp, khiến cho đắc nhập ý thâm diệu của kinh này.

Bấy giờ Tứ Thiên Vương bạch Phật rằng:

– Thế Tôn! Những thành thị, thôn quê, núi rừng, đồng bằng, bất cứ nơi nào hễ có người đọc tụng, giải thuyết kinh này, con sẽ cùng các quyến thuộc đến nơi đó nghe pháp, và ủng hộ trong phạm vi một trăm do tuần, không ai có dịp để làm hại người ấy.

Khi ấy, Phật bảo A Nan:

– Nên thọ trì kinh này, phổ biến giảng giải.

– Vâng! Con xin thọ trì pháp yếu của kinh này. Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì?

Phật bảo A Nan:

– Kinh này gọi là Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, cũng gọi là Pháp Môn Giải Thoát Bất Khả Tư Nghì. Ngươi nên thọ trì.

Phật thuyết kinh này xong, Trưởng giả Duy Ma Cật, Văn Thù Sư Lợi, Xá Lợi Phất, A Nan, v.v… và trời ngươì, A Tu La, tất cả đại chúng nghe Phật sở thuyết đều rất hoan hỉ, tín thọ phụng hành.

Hết