KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ

Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Pháp Thiên
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Thế Tôn đang ở trong đại chúng, có trời, người vây quanh, chiêm ngưỡng tôn nhan, mắt không tạm rời. Khi ấy, các đại chúng đứng ở trước Đức Phật nói kệ:

Quy mạng Nhất Thiết Trí
Bậc nhất trong ba cõi
Phô diễn âm vi diệu
Lợi ích khắp quần sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy đại chúng, bằng kệ:

Nếu có các chúng sinh
Không giết, cho không sợ
Lòng lành hay nhịn nhục
Đoan nghiêm, thọ không sánh.
Nếu đối với hữu tình
Tưởng giống như cha mẹ
Hay lìa không cùng giữ
Phước trí tuệ vô lượng.
Hoặc thân làm nghiệp lành
Tâm lìa dục vững vàng
Không nhìn nữ sắc đẹp
Giải thoát các nẻo ác.
Nên xa lìa thế gian
Chứng đắc vui giải thoát
Như vàng ở trong quặng
Thể tánh vốn thanh tịnh.
Phiền não không điều phục
Gặp tốt đẹp sinh yêu
Không phân biệt tốt xấu
Kiếp phù sinh rất khổ.
Khổ vui do tâm khởi
Việc được, mất cũng vậy
Tốt xấu có hợp tan
Nhân quả không thiên lệch.
Hàng phục các loạn căn
Thực hành tâm bình đẳng
Lợi ích cho hữu tình
Đó là hạnh Tỳ-kheo.
Sa-môn, Bà-la-môn
Nên đoạn trừ phiền não
Trí tuệ càng tăng trưởng
Khiến tâm không tán loạn.
Chứng đắc lý Niết-bàn
Nên xa lìa các khổ
Siêng phát tâm chánh kiến
Phật nói việc này khó.
Giải thoát các luân hồi
Tu-di ái không động
Mùi hương chiên-đàn kia
Vị cam lồ, không sánh!
Tuy đã được cúng dường
Áo tốt thật mềm mại
Không dính mắc tham ái
Tâm vui vẻ biết đủ
Như cỏ bị lửa đốt
Biết rõ không rốt ráo
Cúng dường được phước tuệ
Nước lửa không xâm hại.
Nghiệp sạch quả chân trí
Sông nước trọn không hết
Không tham các cảnh giới
Phật nói hạnh Tỳ-kheo.
Ưa cầu đủ các trí
Tương ưng luôn hiện tiền
Hiểu rõ pháp chân thật
Không đọa các luân hồi.
Nếu người cầu pháp sạch
Khiến tâm không tán loạn
Tuệ cho khắp cảnh giới
Hỏa kiếp không thể hoại,
Các cõi vốn vô minh
Luân hồi từ đây sinh
Cần trừ bỏ phiền não
Hạnh Mâu-ni chân chánh.
Ưa thực hành nhẫn nhục
Đoan nghiêm lìa oán hại
Năng Nhân do tướng tốt
Người thấy tâm vui mừng.
Rừng vắng lìa rối loạn
Tâm yêu thích mừng vui
Thường mang bát thọ thực
Đó là hạnh Tỳ-kheo.
Giải thoát rất an vui
Ba đường rất là khổ
Chân như lìa kia, đây
Suy nghĩ không thể được.
Nghiệp lợi người bình đẳng
Nhu hòa thường thẳng ngay
Chánh hạnh mãi tương ưng
Xa lìa mọi tà chấp.
Ý căn ưa dính mắc
Ý căn rất cao cả
Ý căn rất mau chóng
Ý căn hay vui vẻ,
Diễn thuyết bằng kệ này
Hay làm cũng hay nói
Tẩy sạch các phiền não
Biết rõ quả nghiệp lành.
Biết rõ việc được mất
Hướng nẻo đẹp Bồ-đề
Tất cả các hữu tình
Thứ nhất trong sáu căn,
Thích dừng trụ giữa rừng
Xa lìa mọi oán tặc
Biết rõ sáu căn này
Chánh hạnh, từ đây sinh.
Thường trụ nơi thiền định
Tẩy sạch các nghiệp chướng
Thí như ở hư không
Gió mây không thể nhiễm.
Khéo giữ thân, khẩu, ý
Chánh kiến mãi tương ưng
Như đèn trí tuệ sáng
Chúng ma không thể hoại.
Không hại vật là thiện
Từ bi nhiều lợi ích
Oai nghi không khuyết phạm
Mới trụ tâm Tỳ-kheo.
Mắt bị cảnh sắc buộc
Ngăn ngại không thể đổi
Phiền não trói hữu tình
Không ra khỏi ba cõi.
Trí chân tục vi diệu
Việc khéo hiếm trở lại
Chư Phật đều cùng khen
Vận dụng rất khó nghĩ,
Học rộng cầu giải thoát
Tham giận không thể phạm
Khéo giữ thân ba nghiệp
Trừ bỏ khiến không sinh.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các đại chúng:

–Nếu có chúng sinh bị phiền não trói buộc, xoay tròn trong ba cõi, chịu các khổ não; hoặc làm mười điều lành, cảm được quả cõi trời, người, sung sướng vui vẻ: Ví như mặt trăng tròn, không còn chướng ngại, trong sáng không gì bằng, thấy được rất vui vẻ.

Lại giống như củi khô dễ bị lửa thiêu đốt; như vậy, ác nghiệp cần phải đoạn trừ; phải xa lìa sinh tử luân hồi trong ba cõi, giải thoát các khổ. Lại như loài chim bay được lìa sự trói buộc, tự tại không lo ngại. Hoặc các hữu tình không tạo các nghiệp, ra khỏi ba cõi, chứng lý Nhị không, khổ não không xâm hại, tham giận chẳng thể nhiễm, hiểu rõ luân hồi. Ví như đèn sáng, chiếu rõ mọi vật, chánh trí tương ưng, luôn không gián đoạn, lìa mọi tà chấp ưa thích vắng lặng, dưới cây hoang vắng lìa bỏ các ác, gần kề bạn lành. Tỳ-kheo như vậy tu hạnh xuất gia, ưa thích tất cả các cảnh giới, không nên tham lam dính mắc, không thích cửa nhà, xa lìa việc buôn bán, đổi chác và lời nói giả dối, không thích ca múa, lìa bỏ sự thương ghét, ăn một lần giữa trưa nơi rừng, đối với Bồ-đề là trên hết, thường tìm đến chỗ an vui, xa lìa việc ôm giữ, dùng áo đơn sơ vui mừng vừa đủ dừng trụ nơi rừng hoang, tìm nơi vắng lặng suy nghĩ, xa lìa những loạn tưởng và tham lam giận dữ… Luôn thực hành lòng lành, đem lợi lạc cho hữu tình, xa lìa ngu ám, tu tập trí tuệ lìa nghiệp phiền não, giải thoát sinh tử, tu tám Thánh đạo, trước mắt đạt được sự vắng lặng, phá tan tất cả các khổ phiền não. Như vậy, Tỳ-kheo cần phải tu tập vững vàng các căn lành, xa lìa ham muốn lôi kéo, chuyên tâm một cảnh, ưa thích chân như tất cả trí tuệ, tăng trưởng pháp tịnh viên mãn vô lậu, biết rõ hữu lậu là giả dối không thật.

Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu có Tỳ-kheo an trụ phạm hạnh, thanh tịnh như hòa, khéo tu chỉ quán, ưa thích thiền định, vui chơi giữa rừng, xa lìa mọi sự lôi kéo, hiểu rõ mê vọng. Cũng như chim bay, bóng theo hư không, Tỳkheo cũng vậy, ba áo theo thân, khéo tu bình đẳng, luôn nghĩ chánh pháp, diệt trừ phiền não, trí tuệ tương ưng, về nơi chánh đạo, cho đến bờ giác, rốt ráo Niết-bàn. Tỳ-kheo nên biết! Quán sát như vậy sẽ an ổn vui vẻ, chớ đối với sự xoay tròn và già, bệnh chết thường là sợ hãi. Giống như A-tu-la và chúng trời khác, vui vẻ cúng dường, được bát Tăng-già-lê tốt đẹp hơn cả không như đồ khác; giữ gìn phạm hạnh, chẳng làm cho hủy phạm, trong sạch không nhơ, không bị các mùi vị và lợi dưỡng lôi kéo.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu các hữu tình lìa bỏ lòng thương xót, buông thả, ngạo khinh thiêu đốt các điều lành thì khó dứt hết các lậu.

Đức Thế Tôn bèn nói kệ:

Nếu xả Bi tinh tấn
Vô minh, mạn tương ưng
Vắng lặng không hiện có
Do lậu không trừ diệt.

Khi ấy, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, đối với các ngọa cụ mềm mại thượng diệu, không có sự ưa thích, hiểu biết rõ vô minh là nguồn gốc của mê ám, các hoặc tùy theo đó phát sinh, vô minh ấy cùng khắc các tâm nhiễm; một lúc nào đó chẳng còn mê ám, thấu hiểu rõ ràng các pháp thiền định, Tam-muội, liền dứt sạch được các lậu.

Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu các ông muốn kinh hành ở trong rừng, vắng lặng không loạn; thì đối với các cảnh rượu chè sắc đẹp, với các pháp xấu không nên ưa thích. Các Tỳ-kheo phải như vậy. Bởi có các chúng ma, do nghiệp ràng buộc, làm loạn khổ việc tu tập điều lành, giống như người uống độc, tự làm tự chịu, nay ông phá giới, thực hành tà mạng, bị phiền não trói buộc đọa đại địa ngục, chịu nhiều nỗi khổ. Tỳ-kheo nên biết! Khi đi khất thực nếu thấy người nữ, tưởng đó như rắn độc, nên chuyên chú một lòng nhớ nghĩ chánh pháp, không cầu danh lợi và các cảnh đẹp, xa lìa nghiệp trói buộc, khiến tâm được bình đẳng, không có hành động chê bai; hoặc vào xóm làng thì tưởng như vào rừng hoang; khi xin đồ ăn, thức uống tưởng để trị bệnh; khi phiền não khởi lên tưởng như rừng cháy; khi cầu diệu pháp, tưởng đến đường chánh, khi nằm trên giường, tưởng sợ hãi như nai; nhập vào thiền định, tưởng dạo xem vườn; thấy A-la-hán, tưởng làm ruộng phước, không thích cảnh giới và lời nói hý luận, luôn cầu giải thoát, quốc vương đại thần không vì lợi ích mà gần kề món ăn thức uống ngon ngọt nhất, cũng chớ tham tưởng là hiếm có; thí chủ danh lợi, thường chẳng nên lừa dối; tâm thực hành các phương tiện, không khởi sân giận; ngược lại, ham thích nhà cửa gần gũi kẻ quý tộc, như cá thích nước, muốn ở không rời xa lìa tri thức mê muội, quay lưng lại với chân thật, mong cầu sự giả dối trống rỗng như đèn chớp trong mộng, tưởng là giải thoát mà thật ra tôn trọng tà đạo, luôn cung kính, cho là chân thật cao tột nhất; thì không bao giờ tỏ ngộ được!

Bấy giờ, Đức Phật lại bảo tiếp các Tỳ-kheo:

–Phải nên biết tỉnh giác, ưa thích kinh hành, thiền định, trí tuệ, thường hành tâm Từ hướng cầu giải thoát chân thật cao tột, đạt được chánh kiến, thấu hiểu rõ ràng các pháp, mãi luôn tu tập nhẫn nhục, tinh tấn, lìa bỏ tham lam, sân giận và các tán loạn.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Phải nên ưa thích tất cả hữu tình luôn nhớ nghĩ thương xót đến họ; khiến cho họ lìa bỏ điên đảo và mọi trói buộc, giải thoát các khổ. Tỳ-kheo nên biết! Đối với các cảnh giới nên xa lìa các nhiễm xâm hại. Giống như thể tánh của vàng là xa lìa nhơ bẩn vậy. Tỳkheo nên biết! Đối với bạn thân và bạn không thân, phải nên xa lìa sự tham lam, sân giận; biết rõ đâu là tổn hại lợi ích, tội, chẳng phải tội, an ổn, gian khổ, cay đắng mà có phương tiện hàng phục, nói các pháp yếu; tùy theo căn tánh lanh lợi hay ngu độn, thông minh hay ngu muội, chỉ dẫn con đường cao đẹp hay thấp kém, có lời nói dạy dỗ chân chánh cho họ. Tỳ-kheo nên biết! Kinh hành giữa rừng tu thiền định chỗ vắng, lìa bỏ được tội lỗi, ưa thích chân như, tin rõ nhân quả, hơn kém sai khác; xa lìa các ác độc; hàng phục các căn, không khởi lên lỗi lầm; trí tuệ sẽ tương ưng, khiến tâm hoan hỷ, chấm dứt sự chê bai, như biển sâu xa tương ưng vô tận; tâm ý chắc chắn không khởi nghi ngờ, không tham sắc đẹp, sáng suốt, thương xót bình đẳng; hợp thời khéo nói, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, đều là giả dối không chân thật, không nói lời phải trái của thế gian, xa lìa các cảnh giới hoạn nạn; coi đó như là các độc và chỗ bùn nhơ, chớ để cho xâm hại; giải thoát luân hồi; xa lìa vô minh, dùng thiền định, trí tuệ biện tài, tuyên nói nghĩa pháp tối thượng, lìa mọi giả dối điên đảo và tất cả trần cấu, khiến không bị nhiễm ô; tất cả việc làm đều vì lợi ích; ở nơi chúng Tăng, không khởi sự chống đối; nghiệp thân, ngữ, ý, lìa những trói buộc, không cầu trời, người, tu các nghiệp lành không vì danh lợi, hướng đến Niết-bàn. Tỳ-kheo nên biết! Luôn lìa bạn ác; không tạo lỗi lầm; thường dùng Từ tâm, quán sát bình đẳng, tâm ý nhu hòa, giữ giới thanh tịnh tùy thuận chân thật, lìa giả dối và sợ sệt, không mê luân hồi; với các thiền định hiểu rõ vô thường, trí “không” tự tại; chúng trời cõi Phạm an trụ thiền định hướng đến Niết-bàn, lắng nghe diệu pháp, thành thật hiểu rõ, vui mừng phấn khởi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Quả nghiệp tốt, không tốt
Đã làm, nhất định chịu
Mình tạo, mình trói buộc
Như tằm, không khác gì!
Vất vả và ngọt đẹp
Các khổ và phiền não
Như bóng mãi bám theo
Uống độc tự hại vậy.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo với các Tỳ-kheo:

–Nếu có chúng sinh, khéo tu trí tuệ, phá lửa phiền não, an trụ phạm hạnh, ưa thích Tam bảo, thấy nghe tùy hỷ, không khởi tham giận, luôn tưởng đến giải thoát, hiểu rõ không lay động, hướng đến chân thật, an trụ nơi cao tột thì sẽ thoát khỏi luân hồi già, bệnh, chết và các oan gia phiền não.

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu ở chỗ vắng mà tu tập phạm hạnh, hướng tới trí tự nhiên; thì được các chúng Phạm thiên luôn đến để gần kề cung kính cúng dường. Vì sao? Vì ưa thích Phạm hạnh có thể phá bỏ luân hồi, xa lìa phiền não, khiến tâm được điều phục, lìa bỏ tối tăm và các oan gia chẳng thể xâm hại. Giống như cỏ khô lìa được lửa thiêu đốt, lìa bỏ phiền não, cũng lại như vậy.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, mê các cảnh giới, buông thả các căn, chống đối Niết-bàn, tâm không bình đẳng, luôn tạo nhân khổ, tà kiến trói buộc, tất cả các hoặc, không thể hàng phục, chứa nhóm những thứ cần dùng, tâm vô cùng tham lam, đối với ruộng phước cao cả bị ngu muội ngăn che, chưa từng tỉnh ngộ. Nếu gặp Pháp sư chỉ bày phương tiện khai hóa, xa lìa các hoặc và tham nhiễm… liền trừ được lửa dữ và lìa các xúc, hướng đến pháp cam lồ vi diệu cao cả an trụ chỗ tối thượng. Các bạn lành tri thức, ưa thích vắng lặng, tu tập trí tuệ; thì phiền não như núi cũng có thể phá hoại, an trụ tuệ sáng, bỏ mọi ngu ám, xa lìa luân hồi, được quả báo tốt đẹp; trí tuệ thông minh cao tột, tu tập các hạnh cao đẹp, tâm ý liên tục, bớt ham muốn, biết đủ, trừ hết tà chấp, thảy đều xa lìa phan duyên trói buộc. Như cá nuốt câu vì tham mùi vị, tự bị trói buộc, hữu tình cũng vậy; vì ưa thích năm dục luôn luôn không bỏ, mà khởi lên các nghiệp, làm cho sinh tử luân chuyên không lúc nào dừng nghĩ, đó là nguyên nhân nhiễm mê muội làm sai khác các nẻo, không có sự chấm dứt.

Lúc đó, Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu người tạo nghiệp ác
Luân hồi địa ngục khổ
Ngạ quỷ và bàng sinh
Chìm đắm không cùng tận
Đẳng hoạt và Hắc thằng
Chúng hợp và Hiệu khiếu
Và ngục lớn A-tỳ
Thiêu đốt rất dữ dội
Gian nan nghiệp ác khổ
Nhọn dài mười sáu ngón
Bốn vách và bốn cửa
Đều làm bằng sắt nhọn.

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

–Các địa ngục kia, lửa cháy hừng hực, rất nhiều bạo ác, liên tục không gián đoạn, trải qua trăm du-thiện-na, khó có thể điều phục, toàn thân lông dựng ngược, rất là sợ hãi, tiếng rất độc ác, nghe đều khổ sở. Nếu hữu tình tạo ác nghiệp, khi đọa vào địa ngục này, thân thì treo lên, đầu lại chúc xuống, trong khoảng sát-na, chịu nhiều khổ sở, lần lượt thiêu đốt, ngày đêm than khóc, tiếng kêu phát ra rất đau đớn, như xâu cá nướng, da thịt nức nẻ, đầy dẫy hắc ám, tâm ý mê loạn, tội nhân thấy cõi Diêm-ma-la kia, bị lửa thiêu đốt, mê loạn tuyệt vọng, những người cùng tạo một nghiệp, cùng ở một ngục, người nào cũng bị trói buộc, cai ngục lôi kéo, chịu các nạn khổ, không có gián đoạn. Hoặc người thiếu trí, hư vọng tạo tội, do luân chuyển này mà oan gia tụ hội, chịu khổ địa ngục.

Lúc đó, các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Cõi Diêm-ma-la này, người chịu tội, vì sao phải trói buộc, chịu khổ vô lượng?

Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Người này thường luôn chê bai chánh pháp, không sinh tâm tín thọ, nhân quả không hiểu rõ, mê các địa ngục chẳng sinh sợ hãi, lại khởi lên lửa phiền não, thiêu đốt các điều lành, vì nhân duyên này, bị đọa vào cõi Diêm-ma, chịu khổ như vậy, chịu hết mọi nạn lửa, không hề gián đoạn, sân giận oan gia, ngu si tối tăm, tùy theo nghiệp mà phải chịu, khi nghiệp hết, mới ra khỏi.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, khinh khi dối trá đối với vợ người, đam mê không bỏ, sống trong bóng tối ánh sáng bị che làm sao có thể hiểu rõ!

Khi ấy, các Tỳ-kheo lại bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Chỗ người thấp hèn ngu muội, vô trí, phải nhân gì mà hứng chịu quả như vậy?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Người ấy, ở đời quá khứ, tâm cống cao, ngã mạn, khinh khi, hủy báng Hiền thánh, tham lam ganh ghét, nên phải chịu quả báo ấy. Hoặc lại có người, làm chuyện chia lìa đây đó và tạo ác nghiệp, do nhân duyên này, đọa vào các địa ngục, nếu được sinh trong loài người thì không có con cái, tài vật tiêu tan, xa lìa tri thức, khi mạng hết điên cuồng sợ hãi, nhờ quyến thuộc bảo vệ, mê các cảnh giới, không thể hiểu rõ.

Lúc đó, Đức Phật nói kệ tụng:

Tự tạo phải tự nhận
Tội tàn hại hữu tình
Chịu cảnh khổ bạo ác
Nghiệp hết mới ra khỏi.
Thế gian tạo các nghiệp
Thường tùy lành hay ác
Thí như mùi hương hoa
Xa gần đều cùng thích.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Ví như loài chim bay, việc đậu, nghỉ luôn ở trong rừng cây, việc họp tan cũng chẳng đúng kỳ! Cha mẹ bà con cũng lại như vậy.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, ở nơi vắng lặng, trói buộc những suy tư nhớ nghĩ, tu tập nghiệp lành, lìa bỏ ngu tối, cắt đứt trói buộc bạo ác phi pháp, đến khi mạng hết, thân tâm không còn áo não, lìa mọi sự sợ hãi, được quả báo sinh Thiên, ăn uống, y phục, tùy tâm mong muốn liền có, quyến thuộc và cung điện thảy đều đầy đủ, thông minh trí tuệ, của cải vườn tược, đầy đủ không thiếu, thọ mạng hình sắc viên mãn đầy đủ. Nếu lại có người, dối trá chính mình, làm mê hoặc thế gian; đối với nam nữ quyến thuộc, bạn bè tri thức thì chửi bới xúc phạm tạo nhiều tội lỗi, sau khi người đó mạng hết sẽ đọa vào đường ác, chịu khổ vô lượng; từ chỗ ác kia xa, nếu lại sinh trong loài người thì nghèo khổ hèn hạ, cơm ăn áo mặc thiếu thốn, nam nữ quyến thuộc thảy đều nhàm chán xa lìa, giả dối ngu mê, không rõ nhân quả, tham lam lầm lẫn, tất cả tương ưng không gián đoạn, đối với việc lành không hề tu tập, luôn luôn tìm cách gần gũi bạn ác và pháp chẳng thật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Từ nghiệp sinh các khổ
Bị địa ngục thiêu đốt
Con người bị khổ trói
Đều tự tâm mình tạo.
Xoay tròn trong ba cõi
Qua lại như kiến bò
Nghiệp quả duyên với nhau
Liên tục không cùng tận.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu được chánh quả, mới thoát khỏi luân hồi, không còn trói buộc, tự tại an lạc, nghiệp và quả của nghiệp không thể làm nghiêng ngã lay động. Hoặc lại có người, khởi tham giận, mê hoặc và tạo các tội lỗi thì bị đọa vào địa ngục, bị lửa dữ thiêu đốt, cả thân thể chịu các thứ khổ, phát tiếng kêu khóc, suy nghĩ tìm cách đều không thể giải thoát; khổ sở như vậy là do nghiệp ác ngu mê tự tạo. Ví như lửa dữ thiêu đốt rừng hoang, tất cả cỏ cây, đều bị cháy rụi; ác nghiệp cũng vậy, xoay tròn trong địa ngục, chịu các khổ não, không thể xa lìa. Hoặc lại có người, lìa bỏ bạn ác, không tạo tội lỗi, hiểu rõ nhân quả, lìa mọi nghi ngờ chê bai, tu tập chánh kiến, tin ưa chân như, an lạc vắng lặng, xa lìa luân hồi và các khổ não, cao cả không gì sánh bằng, vô tướng, vô vi, lìa những dối lừa điên đảo, thường, lạc, ngã, tịnh; tự tại không ngại, lìa mọi trói buộc, nghiệp lành hay ác, thảy đều xa lìa.

**

Bấy giờ, tất cả các Tỳ-kheo trong chúng hội, nghe Đức Phật nói về địa ngục thiêu đốt, chịu khổ vô lượng mà buồn khóc, nước mắt như mưa, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi bạch:

–Hữu tình chịu tội ở các địa ngục này; tu nhân gì, để được giải thoát các khổ não; ở đời vị lai, không bị trói buộc, mau được giải thoát. Cúi xin Đức Từ Bi, rộng giảng việc này, để làm lợi ích cho đời vị lai.

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta nay vì các ông mà phân biệt giảng nói.

Hoặc lại có người, tu hành các giới trong sạch, xa lìa tà chấp, ngu mê điên đảo; nếu người đã tạo tội thì ăn năn, không cho tăng trưởng; nếu người chưa tạo tội thì ngăn ngừa không cho sinh, tu tập nghe nghĩ và các nghiệp lành; lìa bỏ tham lam, keo kiệt, dối trá và bạo ác, tin sâu nhân quả; do nhân duyên này sẽ không bị nỗi khổ địa ngục thiêu đốt.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Hoặc lại có người muốn cầu sự xa lìa, thiêu đốt oán hại, không uống các thứ rượu, tu hành bố thí và giữ giới. Tỳ-kheo nên biết! Lỗi của rượu là trên hết vì phá hoại pháp lành; lỗi của rượu là trên hết vì có thể phá hoại sự sáng suốt của trí tuệ; lỗi của rượu là trên hết vì phá hoại sự an vui; lỗi của rượu là trên hết vì làm xa lìa bạn lành; lỗi của rượu là trên hết vì hay sinh các bệnh; lỗi của rượu là trên hết vì phá hoại sự giải thoát; lỗi của rượu là trên hết vì oan gia tìm được sơ hở; lỗi của rượu là trên hết vì tài vật tan mất; lỗi của rượu là trên hết vì tăng trưởng pháp không thật; lỗi của rượu là trên hết vì xa lìa châu báu; lỗi của rượu là trên hết vì nói loạn việc phá trái; lỗi của rượu là trên hết vì tăng trưởng sự tán loạn; lỗi của rượu là trên hết vì hay sinh tham lam giận dữ; lỗi của rượu là trên hết vì tăng trưởng vô minh; lỗi của rượu là trên hết vì trung thực biến thành giả dối; lỗi của rượu là trên hết vì tiết lộ bí mật; lỗi của rượu là trên hết vì tăng thêm phiền não; lỗi của rượu là trên hết vì thành tựu địa ngục; lỗi của rượu là trên hết vì thiêu đốt căn lành; lỗi của rượu là trên hết vì hủy hoại Tam bảo; lỗi của rượu là trên hết vì tiếng ác đồn khắp; lỗi của rượu là trên hết vì say sưa, sắc mặt đỏ gấc; lỗi của rượu là trên hết vì bay mùi hôi hám; lỗi của rượu là trên hết vì tăng trưởng ba nẻo khổ.

Tỳ-kheo nên biết! Rượu có thể hủy hoại nghiệp cõi Sắc, vô Sắc; rượu có thể thiêu đốt bốn nghiệp Thánh quả; rượu làm tăng trưởng các nghiệp bạo ác; rượu có thể làm không tin nhân quả chân chánh; rượu làm tăng trưởng các khổ phiền não; rượu có thể phát khởi bốn lỗi lầm của miệng và những việc sợ hãi, rượu luôn luôn khởi lên các sự dối trái cao ngạo; rượu có thể chê bai bạn lành, tri thức; rượu có thể đem lại các nỗi khổ buồn lo; rượu làm tăng trưởng tất cả tội lỗi; rượu đọa hữu tình vào chỗ tối tăm; rượu đọa hữu tình vào ngạ quỷ và bàng sinh; rượu làm xa lìa sự thông minh trí tuệ; rượu làm xa lìa chư Thiên, Thần tiên; rượu có thể hủy hoại việc chuyển bánh xe Phật pháp; rượu làm tăng trưởng dâm dục hừng hẫy; rượu làm hủy hoại phạm hạnh thanh tịnh; rượu làm tăng trưởng ngã mạn buông lung; rượu giống như bão tố phá hoại thế gian; rượu làm hủy hoại não loạn các hạnh của trưởng giả; rượu làm quên mất tâm của nhẫn nhục; rượu làm mê loạn sự thông tuệ của thế gian; rượu có thể chê bai pháp giải thoát; rượu làm xa lìa giới trong sáng của chư Phật.

Lúc này, Đức Thế Tôn mới bảo các Tỳ-kheo:

–Rượu có nhiều lỗi như vậy, cần phải xa lìa. Tỳ-kheo nên biết! Những người uống rượu chỉ tham vị ngon, không nghĩ đến quả khổ; do nhân này, mà đọa vào địa ngục, chịu nhiều khổ sở; từ địa ngục này ra rồi, hoặc được sinh trong loài người thì lại ngu muội bần cùng, không tin nhân quả, chê bai chánh pháp, coi thường sự hiền lành, thêm nhiều phiền não, dâm dục càng hừng hẫy, xa lìa giải thoát, bạo ác trói buộc, một mảy may điều thiện cũng chẳng tu tập được; đó là cái nhân của cực ác, lúc nào cũng gần gũi luân hồi các nẻo, không lúc nào có được giải thoát. Tỳ-kheo nên biết! Suy nghĩ để xa lìa giả dối, luôn phải tu tập chánh hạnh thận trọng giữ gìn ba nghiệp; những tội khổ não kia sẽ chịu quả báo gian truân, cay đắng, đau đớn, khó chịu đựng; nhất định phải bị thiêu đốt. Thế nên, Tỳ-kheo cần phải xa lìa tất cả tội lỗi và mọi sợ hãi. Tỳ-kheo nên biết! Mình tạo ra thì mình lãnh chịu, người khác không thể thay thế được. Mười nghiệp ác như sát sinh… chịu quả không sao tránh khỏi.

Lúc đó, Đức Thế Tôn nói kệ:

Tội lỗi thân, ngữ nghiệp
Xoay tròn các nẻo ác
Mình tạo mình trói mình
Thiện Thệ không thể cứu.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo:

–Tất cả giận dữ và giả dối phải nên xa lìa, vì nhân này sẽ đọa vào các đường ác, chịu nhiều điều khổ, sau sinh trong loài người, lại bị nghèo khổ thấp hèn, mỗi khi nói ra, tăng thêm nhơ bẩn, độc ác, gây thương tổn, xâm hại đến người khác, giống như dao búa, như ngạ quỷ, tự mình chịu nghiệp, ăn uống đều bị thiêu đốt, nghiệp này cũng vậy, thiêu đốt điều lành, tiếng xấu đồn khắp, thấy nghe không vui. Hoặc có người trí, xa lìa nói dối, nói lời chân thật, người người đều tin, nhận tiếng tốt vang khắp, giống như ngửi mùi thơm, ai nghe đều cũng vui vẻ.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu lại có người, nói lời chân thật, xa lìa khổ não, giả dối tà chấp, giống như người ấy gánh vác thọ dụng châu báu vậy cũng như đèn sáng, chiếu rõ hình ảnh muôn vật; nói chân thật cũng vậy, ai nghe cũng đều tin thọ, bởi nhân duyên ấy mà được tự tại cõi trời, người giải thoát các khổ, lìa bỏ tiếng xấu ác giả dối, như có tài năng tính toán, an trụ chỗ cao đẹp nhất hướng đến giải thoát, của cải vô lượng giúp khắp người bần cùng, trí tuệ sáng suốt, trang nghiêm đệ nhất, kho tàng tràn đầy, xa lìa phiền não. Nếu sinh trong loài người được tôn quý hơn hết, các thứ trang nghiêm, tự tại đầy đủ, luôn làm lợi ích cho những hữu tình nghèo cùng cô độc, cho đến các bậc hiểu biết thảy đều lợi lạc; luôn nói lời chân thật, giống như lửa độc thiêu đốt hừng hực con đường hiểm ác; như độc được lìa bỏ. Cho nên nói dối, bất cứ lúc nào cũng cần phải lìa bỏ; các trói buộc và những tội sợ hãi cũng phải lìa bỏ.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Hữu tình nói dối sẽ đọa địa ngục lớn chịu các khổ não, cắt thân ra từng phần giống như cánh hoa sen xanh.

Khi ấy, kẻ giữ ngục Diêm-ma, vì người có tội kia mà nói kệ:

Nhân hư vọng, địa ngục
Các khổ, tự tâm tạo
Nước Sa-già có tận
Nghiệp báo này không cùng.

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, lìa bỏ nói dối như xả bỏ khổ sở, được vị ngon ngọt. Tỳ-kheo nên biết! Tu tập trí tuệ ưa thích chân thật, tự thân trang nghiêm bằng công đức cao đẹp. Giống như cam lồ có thể giúp lìa lỗi lầm. Kẻ ngu si điên đảo, mê muội, không rõ nhân khổ, hừng hẫy tạo ra các nghiệp bạo ác, tổn hại, oán ghét, tất cả tội lỗi đó luôn luôn không dừng, đọa vào địa ngục, xa lìa sự vui và chân thật. Hoặc được làm thân người, thấy nghe chẳng vui, càng nhiều lỗi lầm, trời rồng chê bai nhàm chán, ngu si giả dối. Bạn lành mà như oán thù chưa từng gần gũi, thường tập nhiễm điều ác, không khi nào tạm bỏ, phải chịu khổ, xoay tròn không có cùng tận. Tỳ-kheo nên biết! Người trí tu tập chân thật tối thượng, giống như cam lồ, xa lìa lỗi lầm, luôn luôn an lạc; cũng như Niết-bàn, khổ não không hại, xa lìa vô nghĩa và bốn tướng… lại như Thánh cảnh, ưa thích tối thượng, chân thật cũng vậy, nghe đều hoan hỷ. Lại như nhà tối, đèn sáng rực rỡ, soi rõ mọi vật, chân thật cũng vậy, nghe chẳng nghi ngờ chê bai, lại như thuốc hay, có thể dứt hết khổ não, cho đến quỷ mị đều phải xa lìa, chân thật cũng vậy, giải thoát địa ngục và các khổ não, ngu mê luân hồi trong các nẻo ác, lần lượt chịu khổ, nghiệp báo không cùng, đọa vào các địa ngục, không được giải thoát, chịu nhiều khổ não, phát tiếng kêu khóc, bỗng nhiên trong hư không, có tiếng bảo các tội nhân rằng: “Các ông chớ khóc, mình làm mình chịu, chớ oán giận ai, phiền não mê mờ che lấp tự tâm giả dối không thể xa lìa giải thoát các khổ.”

Nếu lại có người, thường không nói dối, giống như cam lồ, ai cũng đều ưa thích, lợi ích cho mình và người. Nếu thực hành nói dối, giống như thuốc độc, tổn hại đến mình và người, không được an ổn, giả dối cũng vậy, đọa ở nơi nguy hiểm chịu đại khổ não, như vậy đời đời, ở trong giả dối. Vì vậy phải nên phải lìa bỏ, tu tập tịnh hạnh, giải thoát các khổ, trang nghiêm chân thật các loại trí tuệ; tham lam mê hoặc và các nghiệp ác quyết đoạn trừ không còn.

Tỳ-kheo nên biết! Hữu tình giả dối bị phiền não trói buộc, giống như các vật dụng như trượng, dao, kiếm, làm tổn hại hữu tình không được an ổn. Nếu lại có người chân thật lìa dối ban cho tài, pháp, tuệ; làm nhiều lợi ích hữu tình, công đức cao đẹp sẽ không cùng tận, đạt đến mọi tự tại an vui.

Nếu lại có người, xa lìa chân thật và các trí tuệ, luôn tạo nghiệp ác, xoay tròn trong các nẻo, chịu nhiều khổ sở, như đao binh, đói khát, gió lửa, bệnh tật, trôi nổi, chìm đắm, thiêu đốt, oan gia chẳng phải một, các khổ tụ hội, thúc ép đau đớn. Tất cả bạo ác mình làm mình chịu nghiệp báo, không sao tránh khỏi.

Tỳ-kheo nên biết! Phàm phu ôm lấy sự giả dối, cho cái này cái kia là không nhân không quả và không tác dụng thế gian, tán loạn ngang trái, tăng trưởng pháp không thật xa lìa pháp lành, hữu tình ngu mê, chẳng rõ nhân quả, đọa vào chỗ tối tăm, luân chuyển không dừng, vô cùng khổ não. Đức Phật đại Từ bi, nói pháp hiếm có chỉ bày cái ngu mê kia cho họ, khiến tâm tỉnh ngộ, lìa bỏ chúng ma và mọi sợ hãi.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Hữu tình bị nghiệp lôi kéo, đọa vào địa ngục, chỗ ở tối tăm, thường nghe tiếng ác, mê loạn sợ hãi, rơi vào hầm lửa, thiêu đốt thân thể, da khô thịt nát, giống như cây khô, vì do nghiệp lực, gió mát chạm vào thân thể trở lại như cũ, lại tiếp tục bị thiêu đốt như trước, khổ não vô lượng, chịu khổ như vậy hết mới thoát khổ.
Tỳ-kheo nên biết! Siêng tu nghiệp lành xa lìa đường ác và mọi khổ não thì trời, người vui thích, tự tại, đáng yêu hướng đến Niết-bàn, hàng phục tham, sân và các hoặc khác, khiến chúng không xâm hại, lìa bỏ tán loạn, không tạo điều ác, địa ngục chua cây đau đớn mãi mãi chịu khổ nên sinh nhàm chán, thoát khỏi luân hồi.

Nếu lại có người, giết hại chúng sinh, ôm giữ của không cho, chê bai Tam bảo, không tin nhân quả, tạo sự dối lừa làm xa lìa đó đây, thân tạo các nghiệp bỏn sẻn, tham lam ganh ghét, thường không lìa bỏ; sau khi mạng hết đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng, lần lượt như vậy, chìm đắm trong đường ác không thể thoát ra. Tỳ-kheo nên biết! Do nghiệp lực đời trước, nên phải chịu xoay tròn sinh tử, trói buộc hữu tình, không có sự cùng tận.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nghiệp của thân, ngữ, ý; nếu nhân ác, sẽ đọa vào địa ngục, ba thời chịu khổ, không có dừng nghĩ. Thà đem kiếm bén, cắt lưỡi của mình, chớ để lưỡi này, nói lời nhiễm dục. Vì sao? Vì do nhân này, khởi lên tham, sân, si, tạo nhiều nghiệp ác luân chuyển các nẻo, không được giải thoát; tất cả đều do nơi giả dối, dính mắc vào nhiễm dục. Đối với khổ cho đó là vui khởi lên nghiệp phiền não, sống chết mãi với nó không thể xa lìa; lại nữa, nó như cạm bẫy, trói buộc hữu tình; nhiễm dục cũng vậy, trói buộc hữu tình, đọa vào địa ngục, chịu quả đau khổ; hữu tình ngu mê, không thể xa lìa, nhân duyên nhiễm dục, nó lừa dối, nịnh hót, bạo ác, tăng thêm hừng hẫy, thiêu đốt điều lành, không chút thương xót những lợi ích cho hữu tình.

Tỳ-kheo nên biết! Ngã chấp như núi, nghiệp ác như biển, phiền não dữ tợn, đốt cháy liên tục, trói buộc chẳng bỏ; làm cho tướng mạo xấu ác kinh sợ, sầu não, thường chẳng an ổn. Giống như hư không, có khắp tất cả mọi chỗ, nó là nghiệp khổ não, theo đuổi hữu tình, luôn không lìa bỏ, không có chỗ nào mà không có sự trói buộc, hữu tình không thể ra khỏi. Như tà kiến, chấp ngã của thế gian, lại rất kiên cố, khó mà sửa đổi, dính mắc vào trói buộc mà không dừng bỏ, khổ não thúc ép, bạo ác trói buộc, tổn hại, gian khổ, cay đắng, không chỗ nương tựa, luân chuyển trong sinh tử, biến khắp tất cả, như lửa thiêu đốt, chịu nhiều đau khổ, không có cùng tận.

Lại nữa, ngã chấp này điên đảo, giả dối ngu tối, mê loạn, hoặc chấp sao thần, hoặc chấp năm căn, hoặc chấp ý căn giả dối cho là cứu cánh, nương về phụng thờ mà cầu giải thoát, do dính mắc giả dối, nên ngã có thể tạo nhân cũng có thể chịu quả, do dính mắc này mà thân tâm càng thêm khổ não, chẳng thể xa lìa, chua xót đau đớn, khổ sở xoay tròn trong địa ngục; sự dính mắc càng mạnh mẽ thì trói quấn càng liên tục, ngu mê tạo tác các nghiệp ác càng nhiều mà chẳng hối hận, suy nghĩ tìm cách để hiểu rõ nhân quả, xa lìa lỗi lầm; hướng cầu giải thoát.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu lại có người, tạo các nghiệp ác, phải chịu quả báo, khổ sở cay đắng, ở nơi địa ngục, cho đến kiếp hoại chẳng được giải thoát; Trời, Rồng, tám Bộ chúng không thể bảo vệ. Vì sao? Vì các hữu tình này bị nghiệp lôi kéo phải chịu khổ địa ngục, khi cõi này hoại, nhân duyên của nghiệp ác, sinh qua cõi khác, ở chỗ khác lại cũng chịu khổ, không thể xa lìa.

Nếu lại có người, đối với cha mẹ, khởi lên ý tưởng giết hại, thì chắc chắn mắc tội rất nặng. Ví như có người, dùng dao kiếm bén, phá hoại ba cõi và tất cả chúng sinh, so sánh thì tội này còn nhẹ. Vì sao? Vì cha mẹ là ân đức, lại sinh oái hại là mắc tội rất nặng.

Nếu lại có người, phá hòa hợp Tăng, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, tội này rất nặng, mắc quả báo ở địa ngục Vô gián, chịu khổ liên tục, tàn hại sợ hãi luôn luôn trị trừng phạt, có suy nghĩ tìm cách cũng không thể dừng nghĩ, sắt độc nung đỏ, đau khổ vô cùng; lại bị các pháp không thật trói buộc, phá hoại làm cho sợ hãi, luôn luôn không dứt, điên đảo, ngu muội trên càng không thể xa lìa quả báo đau khổ; do nhân duyên này, nghiệp phiền não tiếp tục lôi kéo xoay tròn trong sinh tử không được giải thoát.

Tỳ-kheo nên biết! Nhiễm dục, nói dối nên sinh nhàm chán xa lìa, hối hận suy nghĩ mà xả bỏ hết chấm dứt tham ái, chớ nghĩ như vậy mà xem thường sự dính mắc, lại tạo ra các nghiệp kia. Thế nên Tỳ-kheo, phiền não, bạo ác, tà kiến, điên đảo, ông nên phá bỏ đối với các đường ác, lìa bỏ nghiệp ngu si kia… Hướng cầu vô thượng, vô biên tối thắng, trí tuệ nhị không, làm lợi ích hữu tình, không bị đọa lạc địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, chịu các kết quả không được như ý.

Nếu lại có người tôn trọng Phật, Tăng và các kinh điển, cung kính cúng dường, ca tụng khen ngợi; do nhân duyên này mà xa lìa trần cấu và các nghiệp trói buộc cùng mọi chướng ngại… được phước báo an vui, được sinh vào đường lành, đầu, giữa, cuối đều tốt đẹp, xa lìa khổ não, thường luôn an lạc liên tục không gián đoạn, xả bỏ nhơ nhiễm và các phiền não, ngu mê say loạn, hàng phục không cho khởi lên, chấm dứt sự xoay tròn, giải thoát các cõi, cho đến rốt ráo mà chứng chuyển y.

Lúc đó, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, dối trá nói năng không thật mê hoặc thế gian, mong cầu của cải, nuôi sống thân mạng, kể cả người giúp việc và ngựa… Do nhân duyên này, sau khi mạng hết ắt sẽ đọa địa ngục, chịu khổ thiêu đốt, lửa cháy hừng hực liên tục không gián đoạn, khổ não đốt cháy, không cùng tận; phải chịu các khổ bạo ác kia như vậy là đều do nghiệp lôi kéo, không có cách xa lìa. Các điều khổ địa ngục, ví như cạm bẫy, trói buộc hữu tình khiến không được tự tại; nghiệp này cũng vậy, hay trói hữu tình, rơi vào lửa dữ, thiêu đốt thân thể, tay chân, xương, tủy giống như đống lửa trong ngoài cũng vậy. Đại địa ngục đó, khổ não vô lượng, vòng khắp bốn cửa, lại có bốn góc, ở mỗi mỗi góc cũng có thiêu đốt những máu mũ phân dơ, nhiều cách trị phạt, đủ thứ khổ sở, lửa cháy thiêu đốt liên tục không gián đoạn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Các hữu tình ngu muội
Hư dối tham của cải
Nghiệp địa ngục lôi kéo
Chịu các khổ thiêu đốt,
Cũng như các thuốc độc
Mình uống lại hại mình
Tạo nghiệp cũng như vậy
Như bóng không rời hình,
Như cây phát ra lửa
Lửa trở lại đốt cây
Quả khổ từ nhân ác
Mình làm, mình phải chịu.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người đối với cảnh. Nếu khởi lên sự tham lam thì phải nên quán tưởng để có thể đối trị; nếu đối với châu báu mà khởi lên ý tham thì tưởng như vòng lửa và nghĩ đến sự tan mất. Thế gian tham ái là vô lương, vô biên, do quán tưởng này, mà thảy đều xa lìa.

Sự tham trước ở thế gian, tưởng như oan gia; thấy nước biển cả, tưởng như chìm đắm, thấy đối với dao kiếm, tưởng diệt phiền não; khi mây mưa xuống, tưởng như lợi ích; khi thấy chư Phật tưởng đó là giải thoát; khi thấy quốc vương, khởi lên ý tưởng tôn trọng; khi thấy cha mẹ khởi lên ý tưởng thân ái; khi khởi lên sự bỏn sẻn tưởng như thuốc độc, khi thấy quyến thuộc, tạm dứt ý tưởng; khi hướng đến chỗ vắng lặng, khởi lên ý tưởng bình đẳng; khi giữ giới sạch khởi lên ý tưởng sáng suốt; khi thấy vàng báu, khởi lên ý tưởng tan mất; thấy người phá giới, khởi lên ý nghĩ giúp đỡ, khi của cải tan mất, tưởng như chẳng tồn tại; khi ở trong ba cõi, tưởng như lao ngục; khi thấy vầng mặt trời, khởi lên ý tưởng trí tuệ; khi tu vắng lặng, tưởng cầu công đức.

Tỳ-kheo nên biết! Đối với tài vật của người khác mà khởi lên hành động dối lừa trộm lấy; thì do nhân này, đọa vào địa ngục chịu các thứ khổ não, thiêu đốt thân kia; tay, chân, thân thể bị tan nát, luôn ở chỗ tối tăm, chẳng có chút ánh sáng, tâm bị ngu mê che lấp không thể lìa bỏ, không có được chút an vui, xa lìa Niết-bàn; một khi quả báo hết, lại đọa vào ngạ quỷ và súc sinh, luôn chịu khốn khổ đói khát, bị đọa đày khổ nhọc, các khổ thúc ép không có cùng tận. Nếu sinh trong loài người, của cải thiếu thốn, lòng ham muốn lại quá lớn, làm người thấp hèn, khổ nhọc liên tục, không có chút giận tạm dừng.

Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Dối gạt, trộm của người
Tự chịu ba nẻo khổ
Thường liên tục đói khát
Các khổ không dừng nghỉ,
Ngu si che trí tuệ
Ánh sáng mãi xa lìa
Trôi lăn trong đường ác
Nghiệp hết mới ra khỏi.

Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người đối với các cảnh, thuận theo ý, xúc chạm thích thú mà khởi lên sự dính mắc, mãi chẳng lìa bỏ, thì phải tạo ra ý tưởng cứng, khổ, thô ngạnh, là vô thường, sẽ tan mất, thể nó không có tồn tại, như điên, như mộng, tự tánh chẳng có; đối với các thứ xúc chạm dịu dàng thảy đều nên xa lìa. Tỳ-kheo nên biết! Đối với các cảnh dục, chớ để lòng yêu thích bị lôi kéo. Trần cảnh nhiễm dục của thế gian, trong quá khứ, hiện tại, vị lai; nếu có ưa thích, thì phải nên xa lìa.

***

Khi ấy, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, đối với đời vị lai, cầu sinh cõi trời, người vì nhàm chán muốn lìa khổ; thì phải nên xa lìa các nghiệp phiền não, bạo ác, dâm dật và lìa nói dối phá hoại những tổn não cho tất cả hữu tình, tu các nghiệp lành khiến cho tăng trưởng, liên tục được quả báo an vui, lìa bỏ khổ não.

Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Hãy xa lìa bạo ác
Quả khổ sở chẳng có
Không xem thường nói dối
Nghe danh đều vui vẻ,
Tà chấp cùng oán tặc
Hàng phục khiến không khởi
Tỏ ngộ phiền não nhiễm
Luôn tu pháp đối trị.

Bấy giờ, Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, gặp duyên trái ngược đối với mình và người, thì phải nên giác ngộ, phá bỏ và xa lìa sự giả dối dính mắc, nghĩ tưởng đến các bậc Thánh hiền tu tập hạnh nhẫn; đối với của cải, bỏ ý tưởng tham vọng, nhân và phi nhân, thế gian và xuất thế gian, chánh đạo phi đạo, hoặc nam, hoặc nữ, nghiệp quả xấu tốt, chân thật hư vọng, cung điện nhà cửa, cung kính cúng dường… cho đến tất cả các cảnh nhơ và sạch, chớ khởi lên vọng chấp, cũng chẳng ganh ghét; chân thật xa lìa sự hư vọng, thương xót hữu tình nhập dần vào bậc Thánh, xa lìa địa ngục, tổn hại Diêm-ma, trừ diệt đen tối, tu tập trí tuệ, dính vào tham giận, giống như lửa độc, phải nên lìa bỏ, nghiệp báo gian khổ cay đắng, phát lồ sám hối, không nên che giấu, hiểu rõ văn tự, tuyên nói nhân khổ, đều nên xa lìa.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, đối với bạn ác và quyến thuộc của người khác, mà sinh tâm ghét thì nên khởi lên ý nghĩ này: Ta đã nhiều kiếp từ xa xưa đến nay, luân chuyển các nẻo; cha mẹ, thân tộc, bạn lành, tri thức cũng luân chuyển trong sinh tử, qua lại không dừng; đối với các hữu tình phải nên thương xót, khởi lên ý tưởng thân yêu, do diều này mà được xa lìa tham, sân và mê hoặc.

Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Đức Phật:

–Kính thưa Thế Tôn! Nếu lại có người giả dối nói hai lời làm chia lìa người nọ kẻ kia, thì sẽ chịu quả tương ứng gì? Cúi xin Thế Tôn diễn nói, chúng con thích nghe, để làm lợi ích cho tất cả hữu tình đời vị lai.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Nên biết nói hai lời mắc nhiều quả báo sai khác, nói gọn có mười loại:

  1. Dòng họ thấp hèn quyến thuộc xa lìa.
  2. Bạn lành xa lìa, thêm nhiều bạn ác.
  3. Ngu si ám độn, tăng trưởng lỗi lầm.
  4. Chê bai Thánh hiền không tin nhân quả.
  5. Che giấu lỗi mình, ưa nói lỗi người.
  6. Giả dối thì nhiều, trung thực thì ít.
  7. Chết đọa địa ngục, chịu khổ vô cùng.
  8. Phóng túng tham, sân tiếng xấu đồn khắp.
  9. Của cải tan mất mãi, luôn sầu khổ.
  10. Xa lìa chánh pháp, thường sinh nơi biên địa.

Tỳ-kheo nên biết! Nghiệp của nói hai lời mắc quả báo như vậy, không nên dính mắc vào phải xả bỏ nó.

Lúc đó, có Tỳ-kheo lại bạch Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Nếu có chúng sinh, lời nói thô ác sẽ chiêu cảm quả gì?

Đức Phật bảo:

–Nên biết ngữ nghiệp, mắc người quả báo:

  1. Miệng nói ra như dao kiếm, tự thân bị thiêu đốt.
  2. Tà kiến hừng hẫy, không có điều ác nào mà không làm.
  3. Xa lìa Thánh hiền, càng ngày thêm nhiều bạn ác.
  4. Chúng đều nhàm chán, giống như các thứ độc.
  5. Hình dáng bên ngoài hiểm ác, cao thấp không bằng nhau.
  6. Phiền não hừng hẫy, của cải tiêu tan.
  7. Thiêu đốt điều lành, pháp không thật càng tăng.
  8. Thân thể hôi hám, nghe đều ngờ chán.
  9. Xương khớp khô cạn, luôn bị bệnh khổ.
  10. Chết đọa đường ác, luân chuyên sinh tử.

Tỳ-kheo nên biết! Ngữ nghiệp thô ác, chiêu cảm quả báo như vậy, ông nên xa lìa.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Điều lành nên ưa thích
Như cha hay như mẹ
Lành đẹp thể đều vậy
Hãy xa lìa tranh cãi.
Đẹp lành trời, người vui
Đẹp lành càng siêng năng
Đẹp lành quyến thuộc nhiều
Đẹp lành lìa tam đồ
Đẹp lành dứt các ác
Đẹp lành lìa phiền não
Hay bỏ lời lỗi lầm
Nên tu các điều lành.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo:

–Như vậy, lời nói thô ác phải nên xa lìa, hàng phục không cho nó khởi lên, chớ khiến nó tăng trưởng. Người hay nói lời thô ác kia, đọa vào địa ngục, chịu khổ đói khát, đủ các thứ sầu não, đối với nẻo ác kia, luôn luôn chịu đói khát, như lửa thiêu đốt, thường nghĩ đến ăn uống, số lượng chỉ cần bằng hạt cải, mà cũng không thể được huống gì ăn nhiều!

Tỳ-kheo nên biết! Các hữu tình kia, do nghiệp ác này, mà bị các khổ trói buộc, lửa cháy và đói khát liên tục thúc ép, không lúc nào tạm dừng. Quả khổ như vậy, đều do ngữ nghiệp thô ác giả dối cảm ứng tạo nên. Tỳ-kheo nên biết! Nghiệp ác giả dối và các công đức lành cao đẹp của trời, người đều do tâm tạo; nếu ngu si tăng cao khiến khinh khi chê bai Hiền thiện, khởi lên ý nghiệp ác, xa lìa bình đẳng, ưa nói chuyện phải trái cái tốt cái xấu của người này người kia sẽ giống như dầu sắp hết, ánh sáng mờ dần, trí tuệ tổn giảm, phạm phải tội lỗi càng nhiều. Thế nên Tỳ-kheo! Thường phải xa lìa nghiệp ác giả dối, đừng để nó xâm hại; đối với danh lợi người khác, nếu sinh ganh ghét và giận dữ, thì thân tâm não loạn không khi nào tạm dừng. Tỳ-kheo nên biết! Các nhân ác này, thiêu đốt điều lành, đối với đời tương lai, chắc chắn chiêu cảm quả khổ, xoay tròn không dừng, phải nên lìa bỏ.

Khi ấy, các Tỳ-kheo lại bạch Phật:

–Kính thưa Thế Tôn, nếu có chúng sinh, đối với hữu tình hay chẳng phải hữu tình luôn khởi tâm sân giận thì phải chịu quả báo gì?

Đức Phật bảo:

–Nên biết sân giận, đối với đời vị lai, bị mười điều suy tổn:

  1. Oan gia càng nhiều, người đều nghi ngờ nhàm chán.
  2. Sinh ở biên địa, xa lìa chánh pháp.
  3. Các bệnh trói buộc, làm cho nghèo nàn khốn khổ.
  4. Chết đọa làm chó sói, bạo ác ở nơi hoang dã.
  5. Ở chỗ rắn độc, luôn luôn sân giận.
  6. Căn xấu xí, quyến thuộc xa lìa.
  7. Chết đọa địa ngục Hắc thằng, chịu khổ liên tục.
  8. Các khổ thiêu đốt, tay chân thân thể cháy khô.
  9. Càng thêm tà chấp, chê bai Thánh hiền.
  10. Luôn ở trong ba nẻo ác luân chuyển không dừng.

Mười điều suy tổn như vậy, đều do sân giận. Tỳ-kheo phải biết và nên xa lìa.

Lúc đó, có Tỳ-kheo lại bạch Phật:

–Kính thưa Thế Tôn! Nếu có chúng sinh, luôn tu hạnh không sân giận, thì sẽ được quả báo gì?

Đức Phật bảo:

–Chúng sinh đó được mười điều lợi ích đặc biệt tốt đẹp:

  1. Điều đẹp lành vang khắp.
  2. Xa lìa tánh cao ngạo, xem thường.
  3. Có khả năng hàng phục sân giận.
  4. Lìa bỏ ba nạn khổ.
  5. Oán địch không hại được.
  6. Thường sinh cõi trời, người.
  7. Quyến thuộc sum hợp.
  8. Các căn không thiếu.
  9. Sắc tướng đầy đủ.
  10. Thành tựu sự giải thoát.

Tỳ-kheo nên biết! Mười điều lợi ích tốt đẹp đặc biệt như vậy, ông nên tu tập.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Suy tổn do sân giận
Chìm đắm trong biển khổ
Các căn nhiều xấu xí
Bức bách khó chịu đựng,
Nhân lành sinh đường lành
Phi pháp vào địa ngục
Bàng sinh và quỷ thú
Tùy theo nghiệp ác lành.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo:

–Nghiệp của thiện ác, tổn hại và lợi ích không đồng, tăng giảm lẫn nhau, tùy theo nghiệp lực, phải chịu quả báo, không sao tránh khỏi.

Lúc đó, các Tỳ-kheo lạc bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, hữu tình keo kiệt tham lam không thực hành tuệ thí, tự mình không có chỗ nương tựa, mê tối ngu si, không tin nhân quả, chê bai Thánh hiền, sẽ mắc quả báo như thế nào?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu các hữu tình keo kiệt tham lam không có niềm tin; đối với tài vật, tự mình không dám thọ dụng, huống gì bố thí cho người khác. Tỳ-kheo nên biết! Người ngu vô trí thường xa lìa bạn lành, lại hay tạo các tội; do nhân duyên này, đọa vào địa ngục, chịu khổ vô cùng.

Các Tỳ-kheo kia, nghe lời nói này rồi, lo sầu khổ ở kêu gào khóc lóc, bạch với Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn! Các hữu tình này, cho đến bao giờ, mới hết khổ? Xin Đức Phật diễn nói, để làm lợi ích cho đời vị lai.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo bằng bài kệ:

Nhân gian sáu vạn năm
Ngày đêm A-bộ-đà
Gom cả năm tháng kia
Trước ba vạn sáu ngàn,
Thừa thọ mạng đó ra
Sáu đó tăng hai vạn
Tám thứ lạnh địa ngục
Khổ liên tục vô tận.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo:

–Đại địa ngục này, hữu tình bị khổ là do thân, ngữ, ý cao ngạo xem thường bậc Hiền thiện, chê bai chánh pháp, tạo tác chẳng thật, phá hoại tượng Phật, thiêu đốt kinh điển, chê bai pháp chân thật, lời nói vô nghĩa, do nhân nơi nghiệp này, lối kéo dẫn dắt hữu tình, đọa vào chỗ hiểm ác, đủ các thứ trị phát, chịu khổ liên tục, không có cùng tận.

Khi ấy, các Tỳ-kheo lại bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Nếu lại có người, đối với chánh pháp và kinh điển sâu xa của Đức Phật, đọc tụng, diễn nói, khiến người khác tin thọ, phát tâm Bồ-đề thì sẽ được quả lợi ích thù thắng gì?

Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Người đó được vô lượng công đức rất cao cả và tốt đẹp. Các hữu tình này, thọ trì đọc tụng pháp sâu xa như vậy, phô diễn giảng nói, nương theo pháp tu hành, khởi lên niềm tin chân chánh, hàng phục chướng nhiễm, xa lìa đường ác, luôn ở chỗ trời, người, an ổn thích thú, tất cả Thánh hiền che chở giúp đỡ ngợi khen; đối với đời tương lai, đạt được Đa văn tổng trì, phước đức trí tuệ cao cả nhớ nghĩ không quên, cung điện châu ngọc thảy đều đầy đủ, cho đến khi mạng hết mau được thành tựu, thường lìa già bệnh, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, mê hoặc, say loạn, chê bai chánh pháp, giả dối ôm giữ cái tà, tám nạn hiểm ác và các pháp không thật, tất cả thảy đều lìa bỏ.

Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, ngu mê ôm giữ tà ác; đối với thế gian, ưa thích sự giả dối, tạo nhiều tội lỗi; đối với việc làm đó, lại không hối hận, tâm ấy lại càng tăng thêm, tạo điều ác liên tục, không sợ chỗ hiểm ác, xa lìa bạn lành; do nhân nơi nghiệp này mà luân chuyển trong địa ngục, chịu quả khổ, chắc chắn không sao tránh khỏi.

Tỳ-kheo nên biết! Những người có trí đều lìa bỏ các nghiệp ác, phát khởi lòng tin chân chánh, tu tập pháp sửa đổi.

Tỳ-kheo nên biết! Do tâm tạo tội, nên chịu quả như vậy; giải thoát sự sinh tử luân chuyển trong các nẻo, cũng do từ nơi tâm; hay làm việc lừa dối nịnh hót, lại có thể điều phục, cũng có thể bạo ác, hay hướng đến tam đồ rất đáng sợ, cũng do từ nơi tâm tạo nên; lại có khả năng xả bỏ, tu tập pháp lành; cũng có thể từ bỏ chân thật, an vui và cũng có thể xa lìa hư dối điên đảo, với đủ các loại nhân duyên và quả báo sai khác, hoặc giả hoặc thật, được quả báo chắc chắn hay không chắc chắn, có lợi ích hay không lợi ích, hoặc tốt hoặc chẳng phải tốt, đều có thể xa lìa, cũng có thể hiện bày đối với lý nhị không. Ví như đèn sáng, xua tan màn đêm, lại có thể hiện rõ ra các vật tượng… tâm cũng như vậy. Lại như nhân quả tốt xấu có sai khác, theo đuổi lẫn nhau, thường chẳng lìa bỏ, bị luân chuyển các nẻo, cũng do từ nơi tâm. Lại như sạch nhơ ẩn hay lộ, tuy có khác, nhưng cùng nhau tăng giảm sự lý giả hay thật, cũng chẳng xa lìa; chánh kiến hay tà chấp; nghiệp ái hay chẳng phải ái; xuất ly hay chìm đắm, có lý hay phi lý, tưởng tức hay xa lìa, đều là do tâm tạo.

Tỳ-kheo nên biết! Các nghiệp trói buộc, qua lại trong sinh tử, giống như cạm bẫy, trói buộc hữu tình, không được tự tại; ngu mê giả dối, bị phiền não trói buộc, ngăn che chân lý, khiến trí không phát khởi; đối với pháp hay chẳng phải pháp, không thể hiểu rõ, cũng chẳng tu tập, thực hành, để chứng đắc, chân lý nhị không, không do đâu hiện ra để chứng đắc.

Tỳ-kheo nên biết! Do vô minh này làm mê lầm chân lý; đối với giáo pháp của Đức Phật, chưa từng tỏ ngộ, chướng ngại khó giữ lại, tự mình không theo đó mà tu tập, trái lại còn ngăn ngừa người khác tu học, nói dối lỗi lầm, tăng thêm nhàm chán xa lìa. Nghiệp này do nhân chê bai chánh pháp, oán tặc đối với chư Phật. Nên đời đời ngu muội, luôn bị đọa vào địa ngục tối tăm, chịu đủ thứ khổ, không có cùng tận. Từ địa ngục này ra, rồi lại đọa làm ngạ quỷ, ngu mê, bạo ác, tàn hại lẫn thứ khổ. Lại từ ngạ quỷ ra, rồi đọa trong loài súc sinh, đói khát khốn cùng, các khổ trói buộc, luôn không dừng nghỉ, tâm sân thêm mạnh, giành nhau ăn uống, ý vui với ác, liên tục không gián đoạn, giống như lửa ở đời, thiêu đốt rừng hoang, nghiệp này cũng vậy, thiêu đốt điều lành làm tổn hại đến hữu tình.

Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Chúng hữu tình mê hoặc
Chê Phật, phá chánh pháp
Đọa vào ba nẻo khổ
Tận kiếp, không thể ra,
Chịu khổ nơi địa ngục
Tối tăm không chút sáng
Ngạ quỷ và bàng sinh
Đói khát không cùng tận,
Hữu tình do nghiệp trói
Phiền não che trí tuệ
Chìm đắm biển hiểm ác
Kiếp hết không ra khỏi.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi bảo các Tỳ-kheo:

–Do trước kia chê bai chánh pháp, tạo nhân của nghiệp ác, bị luân chuyển trong tam đồ, chịu khổ vô lượng, từ chỗ tam đồ kia, ra rồi, nếu được sinh trong loài người, thì nghèo hèn khốn khổ, các căn không đủ bị đói khát thúc ép, phiền não càng tăng, tánh lại bạo ác; giống như voi ngựa hung dữ, khó chế ngự; ngu mê ôm giữ cái xấu luôn luôn tương ưng, bệnh khổ trói buộc, không có gián đoạn, tâm họ buông lung, phan duyên giả dối không dừng nghỉ, đui điếc câm ngọng, khó gặp chánh pháp, ở chỗ biên địa, không có trí tuệ; ngu si theo điều tà phải chịu các thứ khổ, không có cùng tận.

Tỳ-kheo nên biết! Tội chê bai chánh pháp, mắc quả báo vô lượng, nói không thể hết.

Đức Phật lại bảo Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người tu các thiền định để mong cầu giải thoát, đối với Phật, Pháp, Tăng không sinh lòng chê bai, luôn luôn tôn trọng khen ngợi tin nhận thọ, giống như cha mẹ và bạn lành, luôn luôn thương yêu, giúp đỡ, tôn trọng và tin tưởng, không khởi lên ý xấu chê bai khiến cho tâm vui vẻ.

Khi ấy, các Tỳ-kheo lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hữu tình làm sao lìa bỏ tội lỗi, tu tập hạnh thù thắng? Xin Thế Tôn giảng nói, để làm lợi ích cho đời vị lai.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

–Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Nay ta vì các ông, mà nói.

Nếu lại có người, lìa bỏ thân ngữ và các nghiệp ác, luôn tu tập nghiệp lành, lại đối với ba đời, an trụ quán sát, trừ bỏ các tà mạn, tôn trọng Tam bảo, sáng suốt thực hành tốt ba nghiệp, hướng chứng Bồ-đề, đối với ba thời, xa lìa mọi dính mắc và tham sân…

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Do nơi ba nghiệp mà xa lìa các lỗi lầm, ưa thích an trụ ở ba tụ tịnh giới, hướng đến ba Bồ-đề, ba Chân như, xa lìa phiền não, an ổn suy nghĩ, khiến tâm bình đẳng, quán sát được tốt đẹp; lại xa lìa mạn nghi, được ba nghiệp thanh tịnh, hàng phục nhơ bẩn làm chướng ngại ở bất cứ chỗ nào cũng có thể lìa trói buộc, tu tập chánh hạnh, nhớ nghĩ khổ không, ưa thích giải thoát sâu xa cao đẹp, xa lìa các ác, phát khởi phương tiện để phá hoại ngu si và các tham dục. Vì thế Tỳ-kheo, nên tu hạnh lành, xả bỏ mọi lỗi lầm và hay xa lìa đói khát, lạnh nóng, dung nhan tiều tụy, phá trừ ngu tối, sầu não, hối hận, những thứ khổ nay thảy đều xả bỏ, được sinh cõi trời, người giàu có an vui, thông minh trí tuệ, nghe nhiều hiểu rộng, luôn tu hạnh xả bỏ và đầy đủ các thứ để cúng dường, như: hương, đèn, vòng hoa và chuỗi ngọc.

Này các Tỳ-kheo! Nếu khởi lên tà chấp, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, giả dối nịnh hót, thì sẽ bị đọa làm ngạ quỷ, chịu các khổ não thúc ép, tàn hại liên tục, không gián đoạn, đói khát thiêu đốt, khi nghiệp nhân thành thục, một mảy may cũng khó thoát khỏi sầu khổ trói buộc lại xa lìa giải thoát.

Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Các hữu tình này vì sao bị khổ như vậy? Cho đến bao giờ, mới được giải thoát và được chánh tín? Nay con suy nghĩ, không thể hiểu rõ. Lại nữa, hữu tình này ở trong đường ngạ quỷ, ngày đêm mãi mãi chịu đói khát, nóng lạnh, sầu khổ, thân thể khô khan, si ám mê mờ thường không tạm bỏ. Cúi xin Phật diễn nói, để làm lợi ích cho đời vị lai.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các hữu tình này, đối với đời quá khứ, tạo các nghiệp ác, không tu phước tuệ, keo kiệt, tham lam, giả dối, phiền não quá mạnh, tự do buông thả, tham sân không thể hàng phục; sau khi mạng hết, đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng; từ địa ngục ra, lại đọa vào ngạ quỷ, các khổ thúc ép, đói khát trói buộc, bất cứ ở chỗ nào cũng luôn chịu khổ, không người cứu giúp, không nơi nương tựa, nhớ nghĩ ăn uống, trọn không thể được, hối hận khóc lóc biết khi nào mới bỏ được khổ này!

Tỳ-kheo nên biết! Hữu tình ngu si, bị phiền não trói buộc, đều do ba nghiệp ác, luân chuyển trong tam đồ, nên chịu khổ như vậy.

Tỳ-kheo phải biết! Nếu lại có người cận sự nam, cận sự nữ, các Trời, Phạm, phá trừ được nghiệp ác kia, tu tập pháp lành, ưa thích chân đế tự quán kỹ thân mình chỉ là bốn đại, năm uẩn, khổ, không, vô thường, giống như bọt nước, cây chuối, giấc mộng, ánh điện, thảy đều là giả tạm.

Thế nên Tỳ-kheo! Đối với các pháp lành tu tập làm cho tăng trưởng; đối với mọi điều ác phải sửa đổi không cho khởi lên, an trụ cõi trời, người rất đáng được tôn trọng, thân, ngữ, ý, nghiệp tất cả đều được tự tại, xa lìa các lỗi lầm, giả tạm, dối trá và mọi kinh sợ nhất định xả bỏ, ưa thích hơn cả sự suy nghĩ vắng lặng, lìa mọi sự tán loạn, tạo ra các điều lành, đầu giữa và cuối không cho gián đoạn, hàng phục các căn, lìa bỏ trói buộc và các nẻo ác. Kẻ ngu si tối tăm, không rõ nhân quả, tạo nhiều điều ác, sẽ luân hồi trong ba nẻo khổ bị đầy dẫy các khổ não.

Đức Thế Tôn bèn nói kệ:

Nếu ưa thích trụ xứ
Nên quán thai tạng khổ
Xa lìa tham điên đảo
Phá hoại không cho khởi,
Dây nghiệp đã trói buộc
Tam đồ khổ vô tận
Như kiến bò vòng tròn.
Chìm đắm khó ra khỏi.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi bảo các Tỳ-kheo:

–Khổ của già, bệnh, chết trói buộc hữu tình, không một chút lìa bỏ; ví như cá mắc lưới, nai trúng tên; trói buộc cũng lại như vậy.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Tham ái như độc, sân hận tợ như lửa, giả dối nịnh hót mê mờ, che lấp tâm sáng phiền não mạnh mẽ luôn theo đuổi nhau, khiến chẳng ra khỏi. Nếu lại có người, tham cầu của cải, làm nhiều điều giả dối, nịnh hót để nuôi sống thân mạng; do vọng chấp trói buộc nên chịu luân hồi các nẻo; như cá nuốt câu; nhân tham mà khởi lên, như lửa nung nước, đều từ tâm sinh ra.

Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Mê chấp hư vọng kiến
Nghiệp duyên hữu huyễn thân
Quả nhân thường ly đảo
Lìa nhân quả chẳng nhân,
Nhân luân chuyển phiền não
Hiểu rõ chứng chân không
Giải thoát, lìa phiền não
Lý chân thật chẳng không,
Bậc Diệu Giác Tối Thượng
Thảy đều quên hai chướng
Sâu lắng mãi không động
Lợi vui các hữu tình.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi lại bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, khởi lên tâm chê bai không tin tưởng làm tổn hại Tam bảo, lấy các thứ hoa quả đem buôn bán đổi chác, để nuôi sống thân mạng. Do nhân duyên này, đọa vào đường ác, gặp các loài cáo, chim thú hoang dã, mỏ nhọn sắc bén, giống như kim cang, hình thể xấu ác, nhiễu loạn rất đáng sợ, tập hợp lại đến ăn thịt, tay, chân, mắt, xương, tủy không để lại một thứ gì, hữu tình chịu khổ vô lượng, dây nghiệp trói buộc, luôn theo đuổi không bỏ, không nơi nương tựa, không ai cứu giúp, luân chuyển qua lại trong ba đường ác như vậy, mãi chẳng lìa bỏ; từ chỗ này ra, rồi lại đọa vào ngạ quỷ, bị đói khát thúc ép các điều khổ tăng thêm, miệng nói ra lửa cháy giống như núi lửa liên tục không gián đoạn, giá như có mưa lớn xuống khắp mọi nơi, nhưng lửa ác nghiệp này, trọn không thể diệt.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu lại có người tu tập bố thí và giữ giới, cho đến trí tuệ; thì có thể giải thoát các thứ khổ sở.

Lại nữa Tỳ-kheo! Nghiệp ác làm nhân, sẽ chiêu cảm quả ba nẻo khổ, hữu tình mê chấp, không thể hàng phục, phân biệt câu sinh phiền não; có một trăm hai mươi tám sử, ở trong ba cõi; muốn thực hành bốn Đế thì có mười hai, hợp hai các trên mà bàn thì có hai mươi bốn; nói hai mươi bốn là ước lược của ba cõi mà nói.

Lại nữa Tỳ-kheo! Bốn Đế, bốn Trí có mười sáu và hai kiến đạo, tu tập bốn Niệm xứ, tám Chánh đạo, năm Căn, năm Lực; sẽ giải thoát bạo ác và xa lìa thiêu đốt.

Lại nữa Tỳ-kheo! Nhị đế là cao tột, người trí nên tu tập và trụ vào ba niệm, xa lìa chúng ma và các ngạ quỷ, đói khát khốn khổ, pháp lành liền được tăng trưởng.

Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Mười ác do tâm tạo
Chìm đắm, đường hiểm nguy
Cảnh tham si trói, chấp
Cảm quả, ắt theo sau,
Cực khổ đường địa ngục
Rên siết không chỗ nương
Duyên nóng tạo bóng vang
Kiếp hoại báo khó rời.
Ba nghiệp cần tinh tấn
Đa văn, học Tổng trì
Nhị nghiêm tu lục Độ
Viên mãn chứng Bồ-đề.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, liền bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người tu ba nghiệp lành, ra sức học tập, bố thí, giữ giới, lìa bỏ bạo ác, ngu mê, tham ái, giải thoát các khổ; thì lìa được những điều ác của địa ngục ngạ quỷ. Tỳ-kheo nên biết! Các cõi ngạ quỷ phải chịu mọi thứ khổ, nóng lạnh, đói khát, khổ não, bức bách mà không thể xa lìa; do cao ngạo giả dối do các nghiệp ác này mà đọa lạc trong tam đồ; ở trong nẻo đó tàn hại lẫn nhau, tham, sân trói buộc, luôn luôn không rời. Do thuở xưa, xa lìa, bố thí, trì giới và đa văn, tạo ra các lỗi lầm, không thể biết rõ pháp và chẳng phải pháp… đối với chánh tín cũng đều mê ám, cũng chẳng tỉnh ngộ; do chướng ngại này mà nẻo lành của cõi trời, người không thể tu tập, cũng chẳng quán sát những việc được mất.

Lúc đó, các Tỳ-kheo lại bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Nẻo A-tố-la bị chiêu cảm bởi nghiệp gì?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Lắng nghe, lắng nghe! Nay ta vì các ông mà nói. A-tố-la do thuở xưa giả dối luôn luôn tạo nghiệp nịnh hót, quanh co và các nghi hoặc trói buộc không bỏ được nên bị đọa vào A-tố-la; cũng do không tin, chê bai bậc Hiền thiện; đối với nhân quả chân chánh, không thể hiểu rõ, nên đọa vào nẻo ấy không có trí tuệ, ngu mê, vọng chấp, sợ hãi, khiếp nhược, chẳng được an ổn.

Lúc này, Đế Thích và chư Thiên trên trời Đao-lợi, nghe Đức Phật nói, vui mừng phấn khởi, đứng trước Đức Phật, dùng kệ tụng:

Đường ba thừa bằng phẳng
Mâu-ni đã tuyên nói
Lý chân không vô lậu
Bản thể lìa ràng buộc,
Lòng từ Phật ban khắp
Thương chúng sinh đau khổ
Ánh sáng mãi chiếu soi
Không bỏ tâm lợi tha.

Trời Đế Thích nói kệ này rồi, chắp tay cung kính, đứng ở một bên.

Đức Phật mới bảo Thiên đế:

–Pháp thanh tịnh ba thừa, ông nên tu tập, giúp lìa các trói buộc, nó bình đẳng trong sáng, có thể lìa hiểm ác, dứt mọi tối tăm, ánh sáng không nhiễm, giống như châu báu, thể tánh vốn thanh tịnh, chư Thiên nên vui mừng, ưa thích nó hơn hết tu tập vắng lặng, giữ gìn không bỏ. Còn đối với giới, thí và Tam-ma-địa nên ưa thích quán sát, cũng như chư Thiên kính thờ Thiên chủ mà xa lìa tội lỗi; với các hữu tình thì tôn kính, chiêm ngưỡng thờ phụng một lòng nhu nhuyến hòa thuận. Nếu được sinh lên trời; sẽ được thân trong sạch tốt đẹp, xa lìa sân giận, dứt trừ, bụi nhơ cõi trần các cảnh giới, các nhân duyên, các tham giận, giải thoát sự chìm đắm, phá bỏ sự ganh ghét lẫn nhau giữa thân tộc bạn bè; bùn dơ của năm dục, thảy đều xa lìa; đối với các hữu tình kính nhường hòa thuận, luôn luôn được an trụ, khéo lìa các nhiễm, tuân theo phép tắc oai nghi, tẩy sạch phiền não, hàng phục Ma-la, an trụ trí tuệ, thanh tịnh hơn hết, khéo giữ ba nghiệp, thường học thiền định, xả bỏ bạn ác và chẳng phạm hạnh, lìa hẳn trói buộc, luôn ở chỗ chư Thiên, có bạn lành tri thức, khuyên phát tâm rộng lớn tất sẽ mau lên bờ giác.

****

Bấy giờ, bốn chúng vây quanh Đức Thế Tôn, phấn khởi chiêm ngưỡng vui vẻ được nghe pháp sâu xa. Khi ấy có các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu lại có người, ưa thích chư Thiên, hưởng niềm vui tột cùng cao đẹp không còn bị đọa vào ba đường ác; những người ấy tu tập thực hành nhân gì mà được quả báo thù thắng này?

Cúi xin Thế Tôn diễn nói, để làm lợi ích cho đời vị lai.

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, luôn tu bố thí, trì giới, thiền định, với tâm ý vững vàng, khiến việc tu tập tăng trưởng; xa lìa mọi trói buộc và mọi sự ô nhiễm của tham dục; không khởi lên lỗi lầm, khiến trí càng sáng suốt, tu tập được nhiều điều lành. Sau khi mạng hết, hóa sinh chư Thiên, được tự tại vô ngại, hình tướng đều đầy đủ, giàu có không gì bằng, đầy đủ quyến thuộc và bạn lành tri thức, hòa thuận kính nhường lẫn nhau, xa lìa ngu si cao ngạo, ưa thích pháp sâu xa, thường gặp Thánh hiền nói pháp chỉ dạy xa lìa ba độc và các nghiệp ác, luôn vui với chánh pháp, trong tâm vắng lặng, lìa sự ham mê ngủ nghỉ, hiểu rõ giả dối hướng cầu thắng pháp, hiểu rõ niềm tin sâu xa. Giống như các vì sao ở trên không, đủ loại tia sáng trang nghiêm tráng lệ đặc biệt cao đẹp, hoặc như thân chư Thiên trong cung điện lầu các, cũng lại như vậy; các thứ châu báu tốt đẹp đủ loại trang nghiêm, ánh sáng chiếu rọi sắc tướng tròn đầy, đầy đủ không so sánh được, nói không thể hết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn mới nói kệ tụng:

Thế và xuất thế gian
Tất cả do tâm tạo
Giống như người thợ vẽ
Khéo léo để thành tựu.
Chìm đắm ở ba cõi
Ra khỏi cũng do tâm
Như tằm tự ràng buộc
Mê chấp các cảnh giới.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, Ngài bảo các Tỳ-kheo:

–Tất cả hữu tình, luân chuyển trong ba cõi là do mê đắm vào cảnh giới đầy dẫy tán loạn trói buộc, đối với chánh đạo, chẳng chịu tỏ thấu rõ ràng; pháp và phi pháp, chân thật và giả dối, thắng tuệ và tà chấp… đều không rõ; đối với quyến thuộc của A-tố-la khi có nhạc, có các chúng vây quanh thì ưa thích đùa giỡn, mê loạn, đắm say, buông thả, ham muốn quá độ thường không chịu xả bỏ.

Tỳ-kheo nên biết! Xem xét kỹ những thứ đó, chớ sinh mê đắm, mà nên tu bố thí, trì giới để giữ gìn sự trong sạch; thì sẽ được cung điện và năm dục như chư Thiên; cha mẹ, bạn bè, châu báu, của cải đều đầy đủ; các kho tàng với những thứ ưa thích, sử dụng không hết.

Tỳ-kheo phải biết! Người có trí có thể giữ được giới trong sạch, hay hướng đến con đường lành và hay khen ngợi, cao đẹp không gì bằng, an vui vắng lặng xa lìa sự chìm đắm, đạt được thân căn đầy đủ, tốt đẹp hơn cả, ánh sáng chiếu rọi, ca ngợi đến vô tận. Giữ giới là hơn hết, nước lửa giặc mạnh, không thể xâm lấn, hủy hoại. Giữ giới là hơn hết, có thể xa lìa nhỏ nhen để hướng đến vắng lặng. Giữ giới là hơn hết, nó tăng trưởng phước đức, được cung kính tôn trọng. Giữ giới là hơn hết, tiếng tốt ấy sẽ vang khắp ai nghe cũng đều vui vẻ. Giữ giới là hơn hết, nó xa lìa sự keo kiệt, tham lam, sân giận và những phiền não nhỏ nhất. Giữ giới là hơn hết, vì mau chứng Niếtbàn. Giữ giới là hơn hết, vì thường được ở cõi trời, người. Giữ giới là hơn hết sẽ thành tựu Tam-muội. Giữ giới là hơn hết, vì có thể đoạn các chướng. Giữ giới là hơn hết, vì thân tâm sẽ an vui. Giữ giới là hơn hết, xả bỏ sự khỏa hình. Giữ giới là hơn hết, vườn tược tự tại. Giữ giới là hơn hết, vì quyến thuộc đầy đủ. Giữ giới là hơn hết, vì ba nghiệp sạch trong. Giữ giới là hơn hết, vì chư Thiên vui mừng. Giữ giới là hơn hết, vì sở nguyện thành tựu. Giữ giới là hơn hết, vì thường gặp bạn lành. Giữ giới là hơn hết, vì xa lìa đói khát và mọi sợ hãi. Giữ giới là hơn hết, vì xa lìa ba tai tám nạn. Giữ giới là hơn hết, vì nó giống như dao bén có thể cắt đứt các điều ác. Giữ giới là hơn hết, vì đó là sự rộng rãi tự tại để xa lìa mọi sự trói buộc.

Tỳ-kheo nên biết! Giữ giới trong sạch luôn được vô lượng công đức như vậy.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người, giữ giới trong sạch, sẽ hóa sinh ở các cõi trời, luôn được ở những chỗ toàn là ma-ni, như cung điện, lầu các, vườn rừng, ao tắm, vui chơi thỏa thích cảnh giới rất đẹp, quán sát không cùng, tự tại vô ngại.

Lúc đó, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Sáu căn duyên các cảnh
Hoặc, nghiệp từ đây sinh
Chìm đắm ba đường ác
Liên tục không gián đoạn
Giống lửa đốt đồng hoang
Thiêu sạch các cây cỏ
Thức căn duyên với cảnh
Khéo diệt, cũng như vậy.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người phá phạm giới trong sạch, mà mong cầu quả báo an vui tốt đẹp nhất của cõi trời, người thì dứt khoát không thể nào được, tất cả cung điện châu báu quyến thuộc cũng đều lìa tan hết.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu người có trí, giữ giới trong sạch, sẽ lìa bỏ ba nẻo khổ, luôn được ở các cõi trời, thềm đường bằng bảy báu qua lại đùa giỡn tự do sướng khoái, châu báu thì vô lượng, ai thấy cũng đều vui vẻ, vườn rừng đẹp hơn hết vui mừng tự tại, thân sáng chiếu rọi, giống như đèn đuốc, kinh hành nơi cung điện, đủ thứ tốt đẹp đặc biệt, phước báo khôn cùng, không thể ca tụng hết được.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn mới bảo các Tỳ-kheo phải siêng năng giữ giới, tắm gội sạch sẽ, tất cả mọi nơi rộng rãi, vô ngại, lấy chuỗi ngọc trời để tự trang nghiêm, âm nhạc của các trời trổi liên tục không dứt, hưởng mọi vui thú, đối với mọi cảnh đẹp trên, suy nghĩ liền có các thứ vườn rừng, hoa quả, sum suê. Lại nữa, đối với tất cả trời, người đều cung kính cúng dường, trong sạch phụng thờ. Thế nên

Tỳ-kheo phải giữ gìn giới trong sạch, nên thương xót hữu tình, bị khổ trong ba đường ác, cứu giúp, khiến họ được ra khỏi. Nếu lại có người luôn hành tuệ thí, đối với các hữu tình, khốn khổ nghèo đói, khuyên họ nên xa lìa sát sinh, tu tập điều lành, được quả báo sinh Thiên; xa lìa tà dục, thường khởi lòng tin chân chánh, yêu thích Niết-bàn, không tham tất cả danh lợi và rượu chè, sắc đẹp ở thế gian, coi đó là giả tạo không thật, luôn muốn xa lìa; đối với các hữu tình xả bỏ sự hủy phạm tịnh giới và nghiệp của phiền não.

Đức Thế Tôn liền nói kệ tụng:

Quả từ hoặc, nghiệp sinh
Như cây nhờ rễ: Sống
Hoặc, nghiệp duyên lẫn nhau
Liên tục không cùng tận.
Thiện ác do tâm tạo
Như bóng không rời hình
Mật, độc hòa lẫn nhau
Suy tổn cũng như vậy.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu lại có người khi phước ở cõi trời đã hết, tướng suy sẽ hiện ra, tất cả quyến thuộc, thảy đều lìa bỏ; giống như đèn sắp tắt, ánh sáng mờ dần, ở cõi trời cũng vậy. Ngay ở lúc này, phước đức thọ mạng sắp tận, bị các khổ thúc ép, sầu não trói buộc, sợ hãi vô lượng, thúc ép thân tâm, khởi lên các phiền não; do tội lỗi này, ắt khi mạng hết sẽ theo nghiệp đời trước, mà đọa vào ba nẻo khổ, hoặc được ở trong loài người thì luân chuyển không dừng, giống như gông cùm trói buộc hữu tình, làm chìm đắm trong các cõi không được giải thoát, niềm tin chân chánh bị mê hoặc, xa lìa vắng lặng, gần gũi bạn ác đã kết oán, gây ra từ đời trước.

Tỳ-kheo nên biết! Luân chuyển ba cõi các nẻo như vậy, đều do hoặc nghiệp, không thể hàng phục, cũng chẳng tỉnh ngộ, hoặc và nghiệp này, theo đuổi hữu tình, thiêu đốt không dừng. Giống như củi khô, bị lửa thiêu đốt, bùng cháy lan tràn; lửa ba độc này, thiêu đốt điều lành, cũng lại như vậy.

Tỳ-kheo nên biết! Tham, sân, si này, giống như sông lớn, nhận chìm hữu tình, khiến không ra khỏi; lại nữa, các tham lam… giống như cạm bẫy, trói buộc chúng sinh, không được giải thoát; lại nữa các tham… cũng như bụi nhơ cõi trần, làm nhiễm ô hữu tình, không được thanh tịnh. Vì thế người trí phải nên đoạn trừ.

Nếu lại có người, giữ giới trong sạch của Phật và thực hành huệ thí, lìa bỏ giả dối, nịnh hót, hàng phục tham, si, dần dần khiến lòng được nhẹ nhàng, hiểu rõ các pháp, không khởi lên sự dính mắc vào đó.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu lại có người tham lam, mê hoặc đủ các khổ hiện ra mà không thể hàng phục, thì không ra khỏi cái khổ của ba cõi. Ví như người khát nước, mà uống nước muối thì cái khát không thể hết được.

Tỳ-kheo nên biết! Xem xét sự giải thoát là trên hết mới thích thú hướng đến Niết-bàn, phải tu tập thiền định diệt trừ các nhiễm; chớ đắm chìm vào những trói buộc, sẽ đọa lạc vào địa ngục, luôn chịu các khổ, chớ chống đối chánh đạo, trời, A-tố-la thảy đều lìa bỏ, các rồng sân giận, mưa gió bất thường, bốn mùa chống đối lúa gạo thất thu, nhân dân đói khát; tất cả những ưa thích, thảy đều xa lìa, cung điện đáng yêu và các vườn rừng, cảnh giới rất đẹp đều hủy diệt, cho là chẳng có, kho tàng của cải tất cả đều tiêu tan tàn hại lẫn nhau, mê vọng điên đảo, mà chẳng tỉnh ngộ; lợi ích cao cả không hề tu tập; chánh pháp ba thừa, chê bai cho là không có; u mê ở ba cõi, giả dối cho là chân thật, cho là cứu cánh; mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao cũng đều cho là giả dối; cho đến tất cả tội phước có được của hữu tình cũng chê bai, cho là chẳng có; chánh pháp, cam lồ không thể hiểu rõ, luôn sinh ganh ghét, giống như oán thù độc hại nhàm chán lìa bỏ. Tỳkheo nên biết! Hữu tình ngu mê; đối với các khổ ở thế gian cho là vui, không tịnh cho là tịnh, chạy theo tà đạo, giả dối; đối với những chỗ cực ác cho là cao tột, ưa thích tu tập; còn đối với vô thường… lại không thể hiểu rõ, ôm giữ tà pháp mà cho là hơn hết, rồi quyết định yêu thích siêng năng tu tập, chẳng có nghĩa lợi gì, lại không thoát khỏi vòng xoay tròn, luôn luôn khổ sở; người trí phải xem xét kỹ, không nên mê đắm, phải hiểu rõ giả dối, những chuyện phải trái hiển hiện phải tỉnh ngộ chớ say mê được vậy khiến tâm không loạn.

Khi ấy, đại chúng vây quanh Đức Thế Tôn, nghe pháp vui mừng và thích thú, lìa bỏ mọi trói buộc, chiêm ngưỡng Đức Như Lai, mắt chẳng tạm rời.

Lúc đó, các Tỳ-kheo mới nói kệ tụng:

Ví như Tô-di-ô
Trang nghiêm bốn thứ báu
Nhiễu quanh khắp bảy vòng
Tám biển trong vắng lặng,
Tướng Thế Tôn tuyệt vời
Lý trí lìa ngôn thuyết
Do vạn hạnh tu tập
Quả ba thân đức tròn
Trời, người mong chiêm ngưỡng
Xin nói duyên đời trước.

Các Tỳ-kheo dùng kệ ca ngợi Đức Phật rồi liền bạch Thế Tôn:

–Chư Thiên ở cõi Dục, cõi Sắc, so sánh hình lượng phước đức chắc có sai khác, cúi xin Đức Phật diễn nói, để làm lợi ích cho đời vị lai.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Hay thay! Hay thay! Các ông phải nên lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà nói.

Nếu có người phụng trì tịnh giới, khéo giữ gìn các căn khiến không hủy phạm, ba nghiệp đều được thanh tịnh, đối với các hữu tình vì lợi ích mà thương xót, siêng năng tu phương tiện, lìa bỏ tán loạn, hướng cầu thiền định, đối với nhân đã tu tập, hơn kém không đồng, có thượng, trung, hạ, nên chiêu cảm quả cũng sai khác, cho đến bề ngoài từ tướng trạng cao thấp cho đến cung điện trang nghiêm đều tùy theo nhân duyên đời trước, mà có sai khác.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Do giữ tịnh giới và thực hành huệ thí nên thường ở cõi trời lìa bỏ mọi nhơ bẩn, tất cả trói buộc bị hàng phục, không khởi lên; đối với cõi trời ấy thân bên trong và bề ngoài, ưa thích mong cầu, không sinh chê bai, phá hoại sự chán lìa. Sau khi mạng hết, chắc chắn sinh qua chỗ khác, được quả báo có hơn kém, là tùy theo nhân mà có sai khác.

Tỳ-kheo nên biết! Giữ tịnh giới của Phật, được cung điện cõi trời, luôn tự mình thích thú. Giữ tịnh giới của Phật, được lìa bỏ các khổ, giải thoát, không còn đắm nhiễm. Giữ tịnh giới của Phật, được vòng chuỗi ngọc trời, luôn tự trang nghiêm. Giữ tịnh giới của Phật, được hoa Ô-bát-la, mùi thơm vi diệu, vừa ý. Giữ tịnh giới của Phật được cảnh giới rất đẹp, vui thích vô tận. Giữ tịnh giới của Phật, được trời, rồng, tám bộ chúng thường luôn giúp đỡ. Giữ tịnh giới của Phật, được vật báu trang nghiêm, xa lìa mọi dơ bẩn. Giữ tịnh giới của Phật, được đủ loại hoa trời màu sắc vi diệu nở ra tùy tâm tự tại. Giữ tịnh giới của Phật, được mùi thơm vi diệu, ý vui vô tận. Giữ tịnh giới của Phật, được nhà cửa vườn tược, tùy ý vui thích. Giữ tịnh giới của Phật, được đủ các loại hoa Ma-lỗ-ca, Chiêm-ba-ca, Kế-đa-ca, phát ra mùi thơm, vi diệu hơn hết, không gì sánh bằng, luôn hiện ra trước mắt. Giữ tịnh giới của Phật, xa lìa được những tai nạn bất ngờ. Giữ tịnh giới của Phật, được điều lành tăng trưởng. Giữ tịnh giới của Phật, các duyên phạm giới thảy đều xa lìa. Giữ tịnh giới của Phật, được hạnh nhẫn tròn đầy. Giữ tịnh giới của Phật, được bước lên thềm đạo quý đẹp trước mắt được những thành tựu. Giữ tịnh giới của Phật, được làm người thợ khéo có dụng cụ đáng yêu, sẽ đạt được kết quả.

Tỳ-kheo nên biết! Giữ tịnh giới của Phật, đối với đời tương lai sẽ đạt được quả như vậy. Giống như người thợ vẽ, vẽ ra các hình tượng của thế gian và xuất thế gian, đều được thành tựu; giữ giới cũng như vậy, đối với đời tương lai, tất cả những gì muốn có đều tùy ý mà được thành tựu.
Nếu có người, hủy phạm tịnh giới, đối với đời tương lai sẽ bị chìm đắm trong đường ác, chịu các điều khổ sở, lìa bỏ cảnh giới đáng yêu của cõi trời, người, cũng như bức tranh màu, mưa gió khói bụi, có thể phá hoại; các thứ nhơ bẩn, tham sân hay hủy hoại tịnh giới và cũng hay xa lìa quả tốt đẹp của thế gian và xuất thế gian.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Tham lam, mê hoặc có thể hủy hoại tất cả nghiệp lành của hữu tình, cũng có thể làm tăng trưởng các nghiệp ác, giống như lửa ở thế gian, bùng cháy lan tràn, sẽ thiêu đốt mọi cây cỏ.

Tỳ-kheo nên biết! Thức căn của hữu tình phan duyên với lục trần làm cho hoặc không tỏ giả dối, mê đắm dính mắc bị cảnh giới trói buộc, khởi lên lòng tham lam, sân giận, các nghiệp theo đó mà phát sinh, luân chuyển các cõi, chịu khổ vô lượng, không thể xa lìa; các độc của tham dục, vì ngu mê không rõ, lửa tham càng dữ dội làm tổn hoại điều lành và cung điện, vườn rừng, hoa quả, tươi tốt, dù đáng yêu cũng đều tiêu tan hết; tịnh giới của Phật, phước báu hơn cả quý báu vô lượng, kho tàng luôn đầy khắp, vui thích tự tại, cha mẹ quyến thuộc, phước đức cao tột, thế gian rất hiếm có, thích thú vô ngại.

Tỳ-kheo nên biết! nếu có người, tu tập Bố thí ba-la-mật đối với đời tương lai, của cải sẽ đầy đủ, xa lìa mọi tổn hoại. Bố thí ba-la-mật là hơn hết, vì được sự sướng vui tự tại. Bố thí là hơn hết, vì tùy thân được phước như bóng không rời hình. Bố thí là hơn hết, vì được cõi trời, người quý trọng, trang nghiêm, vui vẻ. Bố thí là hơn hết, vì có thể lìa nghèo khổ. Bố thí là hơn hết, bởi không khởi lên keo kiệt. Bố thí là hơn hết, vì có thể hàng phục ngu si, ra khỏi ba nẻo khổ. Bố thí là hơn hết, bởi ai thấy cũng đều vui vẻ. Bố thí là hơn hết, vì được các căn đầy đủ. Bố thí là hơn hết, vì giúp loài bàng sinh ưa thấy. Bố thí là hơn hết, vì giúp xa lìa sự thương ghét. Bố thí là hơn hết, vì không sinh nơi biên địa. Bố thí là hơn hết, vì được chư Thiên vui thích. Bố thí là hơn hết, vì được xa lìa các khổ trói buộc. Bố thí là hơn hết, vì vượt khỏi sự xoay tròn. Bố thí là hơn hết, vì vui thích tự tại. Bố thí là hơn hết, vì có thể hướng đến Tam thừa để được giải thoát rốt ráo.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Phải xem xét sự xoay tròn của các khổ cùng nhiều thứ thúc ép mà chán lìa; xem xét kỹ lưỡng các thứ ấy chẳng phải rốt ráo, mà là vô thường tan hoại, như mộng, như sóng nắng, cây chuối chẳng phải chân thật, cho đến cõi Sắc và cõi Vô sắc, tất cả cảnh giới cũng đều không thật, chỉ là giả tạm chẳng phải rốt ráo; nên chán lìa, không nên ôm giữ để rồi giả dối lại cho là tối thắng, khiến tâm ưa thích.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Vắng lặng, an lạc, xa lìa các tướng, thể chẳng phải một, chẳng phải khác; cũng chẳng ba đời, cũng đều chẳng phải cái này, cái kia; lìa mọi trói buộc, được rốt ráo tròn đầy; ông phải mong cầu, chớ nên xả bỏ, thì sẽ được tự tại vô ngại, vắng lặng không nhiễm, phải mau mà chứng đắc!

*****

Khi ấy, vua trời Đế Thích nói với chúng trời:

–Ông đã tạo điều lành, phải nên giữ lấy và làm cho tăng trưởng như ý, vui mừng rồi liền nói kệ:

Ba điều lành đã tạo
Ba loại, ba nhân duyên
Ba vị, đến ba địa
Ba đức, ba đại quả
Không giết, thí tối thượng
Pháp này ông ưa thích
Được nhẫn nhục chân thật
Được sinh các cõi trời
Tùy thân, có cung địên
Thọ sướng vui cùng tột
Nếu người ưa điều ác
Sinh nơi không an vui
Bị tà pháp trói buộc
Làm sao để ra khỏi!
Cái lành trời, người tạo
Vốn huân tập trong thức
Khi nghiệp kia cảm quả
Được sinh cõi trời, người
Ưa thích nơi sinh ấy
Tâm tự tại an vui.

Lúc đó, trời Đế Thích lại nói:

–Các ông đã đầy đủ phước đức lớn, được sinh ở cõi trời, hưởng thọ sự sướng vui ở cõi trời, tùy theo phước quả của họ hơn hay kém mà có sai khác; nếu tạo ra nhiều phước đức, huân tập trong thân thức, về sau sinh ở cõi trời, được nhiều sướng vui. Như vậy, tất cả vườn rừng, hoa trái đều làm cho vui thích và vừa ý, khi vào trong rừng kia, có loài phi điểu trời, diễn nói âm thanh, khiến người thích nghe. Lúc này, vì Thiên tử kia, liền nói kệ:

Lành thay những bậc Hiền!
Đời trước tu thiện nghiệp
Kiên trì bảy luật nghi
Thành tựu quả tối thắng
Sinh trong cõi trời kia
Được quả báo sướng vui
Thọ trì các cấm giới
Được lìa khổ, chìm đắm.
Vì do giới thanh tịnh
Được ao trời tốt đẹp
Tùy ý mà tắm gội
Lại mưa hoa vàng tía,
Tung khắp ở trên thân
Cùng ao công đức kia
Dùng hạt giống giới ấy
Để ngăn ngừa từng niệm.
Lên cõi trời vui đẹp
Tùy ý mà thọ dụng
Nếu ý người đã quyết
Cấm giới nên giữ gìn.
Khi sinh cõi trời kia
Sướng vui vô bờ bến
Dùng giới này trang nghiêm
Đạt được quả Thiện Thệ,
Mà thọ vui giải thoát
Phá giới: Tội ác nặng
Như dao và lửa độc
Nên vững vàng giữ giới.
Tu bố thí pháp tài
Xa lìa mọi chê bai
Nghiệp có trên dưới, giữa
Quả cảm cũng như vậy.
Nay được thân báo thắng
Thường đội vòng ánh sáng
Thọ nhiều niềm vui trời
Thân sạch sẽ không dơ.
Nếu người tạo nghiệp ác
Quả khổ tự buộc thân
Lần lượt bị chìm đắm
Sinh tử không cùng tận.
Ông đã sinh đến đây
Hưởng thọ niềm vui trời
Dạo khắp các vườn rừng
Chớ buông lung dính mắc,
Buông thả lỗi lầm nhiều
Như Lai vẫn thường nói
Vì thế người buông thả
Hơn hết trong ba độc.
Tinh tấn như cam lồ
Tâm tánh tự mát mẻ
Chấm dứt vòng sinh tử
Rốt ráo đến bờ giác.
Như Lai, ta thuở kia
Diễn nói lời vi diệu
Mau tu hành lìa ngã
Chớ đắm trong điên đảo.
Nếu có người chống đối
Tham lam sinh cùng hoặc
Đoạn duyên giải thoát kia
Bị chìm đắm biển khổ.

Khi ấy, trời Đế Thích cùng với chư Thiên nữ và tất cả Thiên chúng nhanh chóng đi đến Thiện pháp đường đến nơi rồi tất cả đều cùng nhau thỏa thích với đủ các loại vui chơi. Lúc đó, vua trời xem xét sự vui thích của Thiên chúng, biết họ đang tự giả dối đam mê, làm tăng trưởng phiền não, nên liền nói bài kệ:

Trong cảnh giới giả dối
Tham ái không biết đủ
Hữu tình ôm mê đắm
Phiền não sẽ tăng trưởng,
Bị cảnh trói căn thức
Như độc trong thức ăn
Thời sau đó nếu hết
Mê buồn không an vui,
Không trước, sau và giữa
Chẳng đời này đời sau
Khi nhân duyên hội ngộ
Không ai khỏi nghiệp báo.

Trời Đế Thích nói kệ này rồi, lại bảo tiếp:

–Giả sử tuổi trẻ, sức mạnh, chưa hẳn là sống mãi; bốn tướng biến đổi thì mau chóng tan diệt; khoái lạc hiển bày, tự tánh không có thật; khi cái vui đã thọ hết, thân tâm bị thúc ép không lúc nào được an ổn, các ông chớ để cho si mê, ngu hoặc dối trá, lường gạt, nếu đối với tất cả cảnh giới cứ dính mắc không biết đủ, thì sau đó đại hoạn đến; giống như lửa dữ, thiêu đốt cây cỏ, tham đắm vào cảnh giới, thì thêm nhiều lỗi lầm, cũng lại như vậy, bị lửa phiền não thiêu đốt thân tâm, trái bỏ chánh đạo, khi tướng tuy hiện ra, cõi trời cũng bị đọa lạc. Thế nên, ta nay giáo hóa các ông, khiến cắt đứt phiền não, khử trừ mê hoặc, tất cả chúng trời, từ đây luôn tạo lợi ích, đối với pháp hạnh cao tột, chí tâm tu tập, sau được vắng lặng và an vui hơn cả. Nay ông chớ có cao ngạo, mau tạo ruộng lành, đối với đời tương lai, liền được quả báo cao tột, vừa ý vô tận. Nếu tạo nghiệp ác, các thứ báu theo thân, cung trời cũng bị rơi xuống, chìm đắm trong nẻo ác, tất cả cung điện lầu cát thảy đều ẩn mất.

Khi ấy, trời Đế Thích thấy Thiên tử kia, mạng vừa hết trong chốc lát bị đọa vào nẻo ác, liền nói kệ:

Hương hoa sen rất thơm
Các loại mọc trên núi
Món báu vừa ý nhất
Để trang nghiêm khắp nơi,
Suối chảy và ao tắm
Hoa cây trái đủ sắc
Và cây kiếp vàng tía
Đàn chim đậu ở trên,
Thường hót tiếng rất hay
Vui lòng các chúng trời
Lưu ly báu không dơ
Xen lẫn ánh sắc vàng,
Lâu đài đẹp hơn cả
Trang nghiêm luôn vừa ý
Quần sinh không xa lìa…
Nên biết là giả tạo,
Như bọt trên mặt nước
Như điện chớp, mây trôi
Cũng như thành Tầm hương
Chốc lát liền tan mất.
Nếu sinh tham, giả dối
Rơi xuống đường luân hồi
Như lửa độc si ái
Thiêu đốt các căn lành
Chúng trời bị tổn giảm
Bỏ tất cả Bồ-đề.

Trời Đế Thích lại nói tiếp:

–Nếu trời ngu si, thương người cuồng hoặc, sẽ bị trời A-tố-la và La-sát… hàng phục, về sau đọa vào địa ngục, làm rồng rắn, xa lìa chư Thiên, ở mãi trong ba cõi, như dây trói buộc, không được tự tại; nếu lìa si ái, tỏ rõ thông đạt, làm lợi ích hữu tình, nương về Phật đạo, ra khỏi thế gian, đoạn hữu và ái, được Nhất thiết trí, bình đẳng vô ngại, được ba môn giải thoát, chứng ngộ khổ không, đến Niết-bàn chân thật, xa lìa luân hồi, không thọ thân sau, sắc, hương, vị, xúc không còn dính mắc.

Khi đó, vua trời thấy các chúng trời trong mỗi niệm vô thường lại tăng thêm nhiều lỗi lầm; hết lòng thương xót, phát lời chân thật, nói bài kệ tụng:

Hết thảy ở cõi trời
Chìm đắm trăm ngàn kiếp
Giống như vòng lửa quay
Sinh tử không cùng tận,
Thấy người bị vô thường
Không xem xét chính mình
Về sau khi mạng chết
Tai hại cũng như vậy.
Nếu bỏ tâm dơ bẩn
Không đắm trong cảnh giới
Sinh tử chẳng thể hại
Thường trụ chân tịch lạc.
Nếu vi phạm giới hạnh
Như say uống thuốc độc
Chẳng phải quân ma trời
Trói buộc, ai cứu giúp,
Bụi trần dính trên mặt
Trong lòng sao thấy biết
Mạng tàn nằm giữa rừng
Ai mà còn say đắm.
Nếu sinh lòng tham ái
Cùng chịu khổ, vô thường
Vĩnh viễn nơi sinh tử
Đang xa lìa an vui,
Ác lớn không dứt bỏ
Bị luân hồi từ đây
Ví như gió bạo ác
Thổi lay lá đỉnh núi.
Tự nghiệp được sinh Thiên
Quả sướng vui tự nhận
Giới sáng không ngu mê
Tự đầy đủ an vui,
Tham ngu bị đọa lạc
Như lửa phát ra khói
Sau tự đọa địa ngục
Nghiệp báo cũng như vậy.

Lúc đó, có vị trời tên là Ô-ba-miệt-du, do sức của nghiệp lành đời trước, được sinh ở cõi trời Đao-lợi. Khi ấy Tỳ-kheo vì vua trời này mà nói bài kệ tụng:

Nếu tạo các loại nghiệp
Khắp nơi vọng phan duyên
Do sức tâm mê hoặc
Tạo nên tất cả nghiệp.
Vì tâm trước tối thắng
Tâm sau sinh liên tục
Dẫn sinh không gián đoạn
Nhân ba cõi vô tận.
Tất cả nghiệp báo thân
Lìa tâm không thể được
Thế nên hàng phục tâm
Sẽ được quả vô tận.
Ông cần mau tấn tu
Điều phục lìa mê chấp
Được tùy tâm mãn nguyện
Rốt ráo được an vui.
Nếu luôn điều phục tâm
Vĩnh viễn lỗi không tăng
Người trí khéo điều tâm
Các khổ không thể hại.
Nếu tâm bị khổ kia
Sao liên tục chịu khổ
Trong tất cả cảnh giới
Được quả báo nhẹ nhàng.
Trời, người, A-tố-lạc
Các Rồng, Quỷ, La-sát
Không lìa nơi một tâm
Tâm làm chủ ba cõi.
Ba cõi tự tâm sinh
Trời, người cùng địa ngục
Tùy tâm sinh tội phước
Trôi dạt bị chìm đắm,
Hoại nhân lành mê cảnh
Sinh ngu, si, tham, ái
Chịu khổ, rộng vô biên
Chìm đắm khó ra khỏi.
Sức tâm khó điều phục
Theo đuổi nhanh như gió
Thiên nhãn chớ duyên hình
Tướng thức đều như vậy.
Người trí khéo điều phục
Xa lìa ma trói buộc
Vượt khỏi sông sinh tử
Mau đến bờ bên kia.
Nghi hoặc không ngay thẳng
Nạn ác nhiều không đáy
Hạnh vi tế một, nhiều
Không trụ trong sát-na
Hành tướng ẩn khó lường
Không thân khắp mọi nơi
Ai dẫn dắt thế gian
Người qua lại là ai?
Ẩn kín sâu trong pháp
Tạo ra nghiệp của thân
Tuy thấy hành sai khác
Chớ cho pháp tương ưng.
Vì sao khó điều phục
Không sắc, không hình tướng
Chúng sinh bớt xấu ác
Như mắt sáng giữ cảnh.
Tuy thấy điều tốt xấu
Ví như việc mộng ảo
Bản tánh dáng khó cùng
Ai lại có thể thấy?
Dẫn dắt cho quần sinh
Thường lưu chuyển các nẻo
Kiếm bén không cắt đứt
Lửa dữ đốt chẳng đứt,
Tâm tất cả hữu tình
Tướng nghiệp lực như vậy
Dây nghiệp rất bền vững
Trói buộc với quần sinh
Ba tánh mà chẳng còn
Chốc lát thiện chẳng thiện!
Cũng lại đều bỏ hết
Vịn bám cửa sáu căn
Vọng cầu với trần cảnh
Nên dính mắc thế gian
Không hiểu pháp sinh diệt
Như gương chiếu ở trước
Mà không chiếu ở sau.

Bấy giờ, Thiên tử nghe Tỳ-kheo kia nói việc như vậy. Biết thuở xưa toàn làm các điều lành, nay được thân thù thắng, nên liền nói kệ:

Xưa tu tâm tịnh diệu
Cẩn thận giữ giới hạnh
Do nhân vi diệu này
Được trụ đạo an vui.
Người khéo giữ gìn giới
Phòng trái với luật nghi
Sẽ đoạn trừ các hoặc
Chứng đạt vui tịch diệt
Giới có oai đức lớn
Vượt qua khổ các cõi
Cho đến khi mạng hết
Không sợ nẻo ác kia.
Đường ác, không thể cứu
Sức giới cứu tối thượng
Nếu có người giữ giới
Vạn điều lành nương tựa,
Sau được quả sinh Thiên
Vĩnh viễn lìa hiểm nạn
Phật pháp, thầy Thánh chúng
Ba cõi đều tôn trọng.

Lúc đó, các Thiên tử… năm vóc sát đất đem thân đảnh lễ lòng tôn trọng, ngay lúc ấy, trời Đế Thích cũng vui mừng gấp bội, ca ngợi sâu xa và liền nói kệ:

Giải thoát độc tham sân
Quần sinh gần bạn đạo
Có thể đến bờ giác
Ta nay quy mạng lễ
Hàng phục lỗi ngu si
Vô vi, không gì bằng
Hết thảy đều tôn kính
Ta nay quy mạng lễ.

Khi ấy, trong cõi trời kia, có các phi điểu, vui chơi ở giữa hư không, hoặc bay lượn cao thấp, hoặc ở trong ao báu, đùa giỡn trong nước, có các Thiên tử ưa thích sự phóng đãng, cùng với các phi cầm, dạo chơi đam mê dục lạc không sợ đường ác, có Tỳ-kheo vì Thiên tử kia, tuyên nói kệ tụng:

Bàng sinh ham dục lạc
Vui chơi kiểu ngu mê
Chúng trời cũng như vậy
Các loài phi cầm kia Bậc
Chánh Giáo tuyên nói:
Tâm các ông điên đảo
Không sợ nơi nghiệp ác
Quá vui đắm thế gian
Nếu trời có nghiệp tội
Rơi xuống ở địa ngục
Nghiệp lực, độc như vậy
Người trí thường xa lìa
Người đức mỏng, tuệ ít
Trước chỉ quán dục lạc
Trái lại không tư duy
Thành tựu các quả khổ
Nếu người có trí tuệ
Quán khắp mọi điều ác
Cầu đoạn trừ ác nghiệp
Lợi ích các quần sinh
Nghiệp ác sinh các khổ
Nhân tốt được lìa trói
Hành tốt xấu không đồng
Quả báo cũng như vậy
Mê khổ cho là vui
Cầu an không thể được
Trí đủ chẳng lỗi lầm
Không lâu đến vắng lặng
Khéo tu các tĩnh nghiệp
Tìm cách nhóm căn lành
Tam-muội tự hiện ra
Mau đến bậc Vô sinh
Chớ lưu luyến bàng sinh
Vui chơi nơi vườn tược
Biếng nhác càng tăng thêm
Sau đọa loài phi cầm
Nếu lại vô thiểu trí
Nghiệp tốt xấu không phân
Ngạ quỷ, A-tố-la
Địa ngục cũng như vậy
Với nghiệp hay phân biệt
Quả báo cũng thông đạt
Ở trong các nghiệp kia
Tướng sạch nhơ thâm cùng
Ngày đêm thường tinh tấn
Nghĩ ba môn giải thoát
Không còn đọa địa ngục
Rốt ráo được an vui
Thiên tử, ông nên biết!
Tự vui tự khéo thành
Tự hoặc sinh tự khổ
Khổ vui chẳng lìa tâm
Nên xa lìa lỗi lầm
Dính mắc các trần cảnh
Phóng túng bị mù lòa
Chợt cái chết đến giục
Chìm đắm nơi địa ngục
Khổ não không cùng tận.

Lúc đó, vị trời kia có trăm ngàn Thiên nữ, sắc tướng đoan nghiêm tùy ý tự tại, ở giữa rừng kia ca hát chơi đùa. Có loài phi cầm, biết điều lành đời trước của trời, liền nói bài kệ:

Xưa siêng tu nghiệp lành
Nay lại được sinh Thiên
Nếu hành trái nhân lành
Sẽ chìm đắm nẻo ác
Nghiệp báo đã quyết định
Chư Thiên đều bình đẳng
An vui chẳng an vui
Nay các ông phải biết
Ái nhiễm vốn làm hại
Dây nghiệp theo trói buộc
Luân chuyển không cùng tận
Dây nghiệp lại làm nhân
Trên đến Phi tưởng xứ
Dưới đến ba nẻo khổ
Qua lại mau như gió
Sinh số lại như mưa
Tuần hoàn trong các nẻo
Vô thỉ mãi như vậy
Nếu người tâm vắng lặng
Như nước sạch trong suốt
Như hư không ly ngại
Đạt được vui tối thượng
Năm thức duyên trần cảnh
Ba ác nghiệp kéo theo
Một pháp cũng bỏ hết
Không được sinh cõi trời
Sát, đạo, dâm, vọng, độc
Thường làm bạn đường ác
Như lửa cháy thiêu đốt
Người trí nên quán sát
Ưa chân thật, nhẫn nhục
Ra đời gặp bạn lành
Nếu gần gũi tu tập
Sẽ được quả tam thiên
Chế ngự ý tà loạn
Cẩn thận đụng các tham
Sau chắc chắn sinh Thiên
Thành tựu quả nghiệp sạch
Nếu với nghiệp sinh tử
Mà không cầu giải thoát
Quỷ Diệm-ma sát đến
Làm sao trốn tránh được.

Lúc ấy, trời Đế Thích lại bạch:

–Nếu có chúng sinh không sợ điều ác, đối với tất cả mọi nơi tâm đã bị dính mắc, do dính mắc nên không có trí tuệ, nói dối, nói thêu dệt, dối trá, nịnh hót, làm não loạn hữu tình, quay lưng với lời dạy chân chánh, thân cận thầy xấu, bất hiếu cha mẹ, cho đến làm gián đoạn căn lành, dây nghiệp trói buộc, như mũi tên bay nhanh, khi chết đọa vào địa ngục, đủ thứ hình phạt, chịu mọi cực khổ, không có dừng nghỉ; các ông từ nay, đối với tội duyên sinh tử, phải mau xả bỏ, chớ nên tham đắm, đối với tự thân, mạng phần có hạn, có dài có ngắn, phải xem xét kỹ lưỡng các hạnh hữu vi, trong từng sát-na đều có sinh diệt, đâu có lâu dài, như bọt nước, như hình bóng trong gương, như điện chớp, như mây tan; nếu như phước trời hết, các thú vui đều không còn; tất cả tướng suy chợt hiện ra thúc ép thân tâm nên nhẫn như thế nào?

Vì thế, nay ta tuyên nói chỉ bảo như vậy ông phải siêng năng thực hành tinh tấn, nhẫn nhục nhu hòa, thương xót hữu tình, bảo vệ sáu căn, tu hành bốn Đế, không lấy oán thân mà tu bình đẳng, trí tuệ tăng trưởng, thâm nhập nghĩa vị, bỏ vọng theo chân, chỉ dẫn thiền định, khi hết hoặc nghiệp sau đó không sinh sẽ được giải thoát.

Khi ấy, trời Đế Thích muốn nói rõ lại nghĩa trên mà nói bài kệ:

Như vậy mười hai xứ
Sáu cảnh và sáu căn
Khi các thức sinh diệt
Tương ưng thành vọng tưởng
Người trí khéo tu tâm
Không trụ sắc các pháp
Nhập vào môn vắng lặng
Lặng yên không một tướng
Cần cầu pháp vắng lặng
Không đọa cõi Ma-la
Dùng tâm sạch đẹp này
Để luôn luôn nhớ nghĩ
Nếu hành tuệ như vậy
Hoặc khổ sinh chỗ nào
Ở trong ba đời kia
Đều tự tại, không sợ
Phiền não trói tự mở
Tội nhơ không thể nhiễm
Mắt tuệ được tròn sáng
Thường trụ hạnh chân tịch
Thân trời rất sướng vui
Còn bị tội nhơ giục
Vì sao người ngu mê
Rộng tạo mười nghiệp ác
Nếu người tu trí tuệ
Hiểu rõ gốc tội phước
Sợ khổ nghiệp hại chết
Cái gốc: Phải thoát khổ.

Thuở xưa, vào lúc Đế Thích nghe Đức Thế Tôn, nói về những việc trong nẻo ác, ông liền vì Thiên chúng mà tuyên nói.

Đức Phật bảo:

–Nếu người nào được khỏi tội gốc của sinh tử, thường gặp bạn lành, trồng được các gốc lành; nếu sinh cõi trời thọ hưởng sướng vui vi diệu có cung điện trang nghiêm, báo ứng vô lượng; nếu không rơi vào đường ác mà lại đắm say vào những sướng vui, khi hết phước lành, ắt sẽ đọa lạc. Ví như đèn đuốc cần có nhiên liệu, khi nhiên liệu hết, đèn liền tắt; như vậy, đọa rồi lại bị gió nghiệp nhanh chóng thổi xoay qua lại thế gian xoay tròn không dừng; nếu các người trí, chánh định tương ưng dây nghiệp vô minh không thể lay động. Ví như rễ sen mọc nơi núi Tu-di, không thể lay động.

Khi ấy, vị trời kia, nghe Thiên đế nói pháp này rồi, liền dùng kệ ca ngợi Thiên đế:

Nay ngài nói pháp này
Dứt trừ tất cả chướng
Tôi y lời Thiên đế
An trụ không sợ hãi
Cùng các quần sinh kia
Làm người cha từ bi
Tuyên bày thành Niết-bàn
Khiến họ được lợi lạc
Pháp vốn không sai khác
Thiên đế khéo tuyên nói
Nay gặp thầy dạy đúng
Được đến đạo Vô thượng.

Khi ấy, Thiên đế lại bạch:

–Chớ tham đắm vào của cải ở thế gian; nếu người lìa bỏ nó, thì trí tuệ sẽ sinh ra, nếu trở lại ưa thích thì căn lành bị phá hoại, bảy thứ Thánh tài dần dần mai một, trải qua trăm ngàn đời chìm đắm vào đường ác. Lại nữa, tiền tài ở thế gian không vững vàng tồn tại, bị nước lửa, giặc cướp và các thế lực của nhà vua đoạt lấy, nếu là pháp tài có bị các tai vạ nước và lửa, trọn không thể hoại được. Chúng chư Thiên các ông tuy có thế lực, đầy đủ các căn, thân được ánh sáng nhưng khi tướng suy hiện ra, liền sinh sầu não, rơi xuống hư không, trải qua trăm ngàn du-thiện-na, vào trong nẻo ác kia.

Đế Thích liền nói kệ:

Như ông, đại sướng vui!
Giàu có, không thể lường
Khi tướng suy hiện ra
Nhất định vào nẻo ác
Như nghiệp đang tạo ra
Tùy nghiệp quả lại sinh
Tướng nghiệp lành cao đẹp
Quả dị thục cũng vậy
Nghiệp có trên giữa, cuối
Cùng phẩm loại tốt xấu
Khi có quả báo kia
Hơn kém cũng như vậy
Các ông suy nghĩ kỹ
Sức sắc thân cao tột
Không tránh khỏi sinh diệt
Làm sao mà không đọa
Thí như các giống lúa
Bị lửa dữ đốt cháy
Thiêu đốt đã phá hoại
Mầm làm sao được sinh!
Thân nhẹ rỗng giả tạo
Bốn tướng mau biến đổi
Như ánh lửa đèn sáng
Không trụ trong sát-na
Tâm tướng cũng như vậy
Rỗng giả không chân thật
Luôn bị lậu tăng theo
Làm sao được an vui
Xả bỏ mọi cảnh dối
Chớ tự yêu thân này!
Nhất định khỏi luân hồi
Mau đến nơi bờ giác.

Khi đó, vị trời ấy có phi điểu nói:

–Nay chúng ta, đang ở rừng Ô-bát-la, ở giữa rừng kia, có ao tắm lớn, mọc nhiều hoa sen hồng, khi nở mùi thơm phảng phức; thân cánh lông của chim có nhiều màu sắc lẫn lộn, hình dáng giống như bảy báu, mắt có ánh sáng, giọng hót rất hay, phi điểu này vui chơi mãi ở trong rừng. Thiên tử quán sát sự ham thích say mê của phi điểu, liền nói bằng kệ:

Ta thường ham vui chơi
Trời, người, yêu cũng vậy.
Tuy trời khác cầm thú
Ái nhiễm thì không hai
Không giữ gìn pháp hạnh
Làm sao được giải thoát
Nếu các trời như vậy
Phi cầm khác chỗ nào
Nay lại bảo các ông
Chớ đắm năm dục lạc
Nên tu pháp thù thắng
Sẽ được đại giải thoát
Khổ, sinh, già, bệnh, chết
Mãi không hại thân kia
Thân trời cùng loài cầm
Được thiện lợi bình đẳng.

Bấy giờ, Đế thích lại bạch:

–Nếu có người trí lìa nhơ để được trong sạch, tội lỗi ở thế gian có biến khắp trời này, cũng không thể làm cho chìm. Vì sao? Vì người trí kia, đối với nhân duyên sinh khổ, có thể hiểu rõ; vả lại, đối với mọi ân ái của bằng hữu tri thức và quyến thuộc ở cõi trời kia, không hề bị luyến tiếc! chư Thiên các ông, ngu si tham đắm, không lìa luân hồi, nên cùng các loài phi cầm kia, cũng không có khác. Lại có chúng sinh, đam mê uống rượu, mắc tội rất nhiều. Vì sao? Vì tâm thức của hữu tình mê loạn, nên phạm phải nhiều lỗi lầm; sức rượu tuy mất, nhưng nghiệp báo không bao giờ mất, ở trong năm nẻo xoay tròn không dừng; ở trong tất cả tội, hơn hết là tội tăng thượng mạn, cho đến câu-chi kiếp vẫn lưu chuyển không dừng, chìm đắm nẻo ác, bị phiền não trói buộc, như Đức Phật đã nói.

Bấy giờ, trong vườn của Đế Thích kia, có nhà diệu pháp, với đủ loại châu báo trang nghiêm cao đẹp hơn hết. Lúc đó, chúng chư Thiên đã đến trong nhà diệu pháp ấy. Bấy giờ, Đế Thích quán sát Thiên chúng, rồi nói kệ:

Chúng chư Thiên các ông
Quá khứ tu lành ít
Được sinh trong cõi trời
Nếu quả báo trời hết
Nhất định đọa luân hồi
Nghiệp lực khó nghĩ bàn
Dẫn dắt các chúng sinh
Trong ba cõi, năm nẻo
Sinh ra ở mọi nơi
Các ông cần tinh tấn
Phải suy nghĩ chắc chắn
Sinh diệt chỉ chốc lát
Làm sao không tỉnh giác?
Đường hiểm ác sợ hãi
Nương theo các luật nghi
Vững vàng bảy Giác chi.
Siêng hành tám Chánh đạo
Khéo trụ ở năm Căn
Tăng tưởng với năm Lực
Bốn Niệm và Chánh cần
Và bốn Thần túc kia
Như vậy không thoái chuyển
Ắt đến thành Niết-bàn
Luôn được vui tịch diệt.

******

 

Với tội, không sợ hãi
Người kia không trí tuệ
Về sau khi mạng hết
Khổ não luôn thiêu đốt
Khắp vòng trong cõi trời
Đọa lạc này, ai thấy!
Họ luôn thích tham dâm
Không thể biết việc này
Dâm dục sinh dối trá
Làm mê hoặc hữu tình
Dẫn dắt xuống ba nẻo
Như dây luôn trói buộc
Sinh diệt luôn như vậy
Hữu tình cần tự lợi
Nhu hòa thân, khẩu, ý
Chớ để phiền não sinh
Phải dứt các pháp cảnh
Tất cả người tham dâm
Ngu si tăng không nghỉ
Bỗng chốc lửa dục đốt
Xa lìa những người thân
Bạn bè, Thiện tri thức
Cốt nhục cùng quyến thuộc
Khi chết, đại khổ đến
Nói làm sao hết được!
Từ sinh đến khi chết
Như núi bỗng sụp đổ
Chốt lát không thể dừng
Sát-na, không còn gì
Chỉ với Nhất thiết trí
Không tội, không luân hồi
Rốt ráo khỏi nguồn khổ
Chư Thiên luôn yêu thích
Biển dục sâu không đáy
Làm sao có được đủ!
Tâm tham ái tăng trưởng
Như lửa đổ thêm dầu
Mất các thứ trang nghiêm
Phá hoại nhân xuất thế
Lưu chuyển trong bốn nẻo
Người, Bàng, Địa ngục, Quỷ
Sinh tử mãi không dừng
Qua lại như khuôn gốm
Quần sinh rất ngu si
Không rõ tánh phiền não
Nếu các hữu tình kia
Vĩnh viễn không tham ái
Sẽ được nhân cao cả.
Giải thoát khỏi trói buộc
Người trí trừ phiền não
Các bệnh khổ không hại
Hàng phục mọi tham sân
Mãi được đạo an vui
Sinh tử không thể nhiễm
Cạm bẫy không thể trói
Trí tuệ dần tròn sáng
Biết tất cả các việc
Đối với lý Niết-bàn
Khởi lên tâm vô tướng
Xa lìa mọi trần cấu
Rốt ráo đến bờ giác
Mọi cảnh khổ vui kia
Vắng lặng không có gì
Nhập vào đại giải thoát
Thường trụ nơi vắng lặng
Lại khởi tâm Từ bi
Thương xót các hữu tình
Chỉ khổ trí chân như
Xa lìa nơi cạm bẫy
Dứt ý niệm nghi ngờ
Trừ sạch sự tham ái
Giải thoát nỗi khổ não
Đạt được tuệ cao tột
Hiểu tập-tán-không đó
Dù sống tám vạn kiếp
Cũng lại bị vô thường
Thường an trụ nơi đây
Cõi trời mãi không mất
Thấy ác sinh coi thường
Không suy nghĩ tội lỗi
Ngu si không tìm cách
Mãi cầu sự sướng vui
Ví như trong đống cát
Tìm dầu làm gì có
Nếu gây ra nghiệp tội
Thường luôn bị thúc ép
Cây khổ rễ tội sâu
Tất cả ác sinh trưởng
Ta nói chân như này
Chắc là pháp phi pháp
Ý thẹn khi tạo tội
Sau lại không phiền não
Lợi ích rộng vô biên
Đạt đến bờ chân như.

Nếu lại ngu mê đối với lời Phật dạy mà không tin thọ thì sau khi mạng hết tự chịu khổ não, trải qua vô số trăm ngàn câu-chi nado-tha, a-một-na… không được quả của trời, người còn bị lửa tội vô thường, nhất định thiêu đốt bất tận ở kiếp này.

Khi ấy, Đức Cù-đàm bảo:

–Vì sao trời lại được trụ lâu? Ví dụ như bọt nước, cây chuối không có mảy may chân thật, là giả tạo, không thật chẳng bền lâu; nếu cho rằng cái vui này vĩnh viễn, thì điều đó không bao giờ có!

Lúc đó, Đức Phật hỏi Thiên chúng kia:

–Các ông có biết nghĩa này không?

Ý các trời vui mừng như nghe được năm loại nhạc, được nhiều sướng vui, được năm công đức và lại nói:

–Có phi cầm, tên là Hy hý, hay khéo nói pháp cho Thiên chúng kia.

Liền nói bằng bài kệ:

Ái dục không nhàm chán
Ý ham muốn không thôi
Phát khởi tâm không đủ
Chết như vậy không biết
Tất cả cõi chúng sinh
Hình loại có nhiều thứ
Lâu dài trong một lúc
Không thể kịp có cách
Mãi không được an vui
Nhất định đọa luân hồi
Luôn ở nơi địa ngục
Đời đời cũng như vậy.

Nếu sự thật mà nói, cảnh giới của Đế Thích giàu có tốt đẹp đặc biệt khác với chư Thiên, thì đối luân hồi này cũng không thể tránh khỏi, nhất định cũng bị vô thường nó biến khắp trên cõi trời, chưa có chỗ nào vi diệu mà có thể tránh khỏi vô thường, tất cả đều bị đọa lạc.

Khi ấy, có Thiên đế tên là Kiều-thi-ca, thông hiểu pháp tướng, vì Thiên phụ kia, nói hạnh đa nhân và đủ các thứ tinh tấn mà các Thiên chúng vẫn không tỉnh ngộ! Ai có thể ưa tu tịnh hạnh, xa lìa tội nhơ, mặc sức ngu mê, tâm đắm chìm buông thả, đối với lời dạy đó lại không thọ trì sẽ bị luân hồi mãi mãi. Vì sao không hiểu? Vì các người ngu kia ưa tạo nhân ác, đối với đời sau sẽ bị các tội ác phá hoại, phải biết ác nghiệp là những phiền não chướng trói buộc.

Lúc đó, Tỳ-kheo nói kệ tụng:

Nếu hành lợi tốt
Khi dùng ngọa cụ
Ăn uống, y phục
Được cấp, cúng dường
Phải biết trên dưới
Không vì riêng mình
Mà cầu phước lợi
Hoặc quán thân mình
Ai làm chủ tể
Mới gặp cảnh ác
Oan gia, tạo tội
Lại cố lấn hiếp,
Khởi lên chân thật
Lìa tướng nhẫn nhục
Người trí xét kỹ
Đều không đau xót
Tai nạn khổ não
Chỉ có hiện tại
Vật ấy không sạch
Tạo thân như vầy.
Vả lại thân này
Sát-na không trụ
Mạnh mẽ cũng vậy
Sao phá hoại thân?
Chúng sinh say mê
Với của cải mình
Không làm lợi ích
Tăng trưởng nghiệp tội,
Chẳng vâng lời dạy
Không hành bố thí
Với hết thảy nơi
Tâm không thọ dụng,
Lũ giặc dòm ngó
Làm sao giữ gìn
Nếu tâm hồi hướng
Cúng dường Tôn sư
Của kia thù diệu
Mà lại vứt đi
Như bỏ cỏ cây
Tâm không đắm ái
Hữu tình thấp kém
Luôn mong cứu độ
Lìa nhơ không đắm
Đời này đời sau
Được bảy Tụ giới
Cứu độ tối thượng
Với người giữ giới
Sẽ sinh lên trời.
Trí tuệ rộng lớn
Có thể cắt dứt
Tất cả phiền não
Các bệnh gông cùm
Vượt qua hiểm ác
Chiếc cầu luân hồi
Đến bờ chắc thật
Niết-bàn bờ kia.
Tâm sạch lìa dơ
Đắc Vô sinh nhẫn
Dụ như gánh vác
Vật ấy nhẹ nhàng
Ra khỏi đường dài
Mà không mệt mỏi.
Nếu người gánh vác
Nghiệp ác nhẹ nhàng
Trải qua thế gian
Mà không chìm đắm.
Lại như phi cầm
Đôi cánh khỏe mạnh
Bay trên hư không
Mau chóng sẽ đến.
Nếu người trì giới
Giữ gìn vững chắc
Muốn được sinh Thiên
Cũng lại như vậy.

Lại có phi cầm, tên là Hiện Chân Như, ở núi trắng kia, có thể quán sát liền nói kệ tụng:

Như hình sắc ta
Sát-na, không trụ
Sướng vui cũng vậy
Ngu mê không rõ
Nếu tất cả loài
Tướng thiện nhiều thứ
Khi luân hồi sinh
Ắt sẽ phá hoại
Phá hoại phước ấy
Một đời cũng thế
Cái chết lại đến
Ý sao khỏi tội
Mãi lo sướng vui
Vô tài, Hắc thằng
Hủy hoại hữu tình
Mạnh mẽ không bệnh
An vui xa lìa
Cái chết gần đến
Gần thì tâm mê
Hoại mạng quần sinh
Tội cứ phá mãi
Trời, người luân chuyển
Không hiểu nguồn mê
Xa lìa an vui
Đọa cõi Diệm-la
Mới biết nghiệp quả
Sát-na vui sướng
Mà thân suy yếu
Vui các cảnh trần
Không hiểu, tham đắm
Khi sướng vui hết
Già chết xâm hại
Các căn đối cảnh
Đắm luyến không thôi
Sau đó vô thường
Tự sinh phiền não
Nếu tuệ không sáng
Thấy khắp cảnh trần
Thọ hành cảnh giới
Chấp ngã phân biệt
Vui trong giả dối
Lửa dục luôn sinh
Sức cảnh như gió
Thổi mạnh lửa dục
Trí hiểu chân như
Suy nghĩ thành, bại
Tất cả ngu mê
Vui đùa không tỉnh
Cảnh giới luôn hành
Thổi vào lửa dục
Trời người hành dục
Đọa cõi trời kia
Đức trời đó đủ
Thật được vui trời?
Tướng suy hiện ra
Không hoại sao đến
Sát-na không trụ
Sinh diệt từng niệm
Tạm dừng chẳng lâu
Mạng kia như vậy
Cảnh này vừa gặp
Một lòng không hiểu
Năm đức vui trời
Mau lìa hoại khổ
Vua trời Đế Thích
Rũ bỏ phiền não
Tẩy sạch ba chướng
Nương về ba báu
Ba nghiệp rỗng không
Ngộ được Tối thượng
Tam-phật-bồ-đề
Tuy sinh những tội
Không nhiễm tội dơ
Tâm giữ làm lành.

Lại có ngục tốtDiệm-ma kia, vì chúng sinh ấy mà nói kệ tụng:

Lòng ôm tham dục
Chê bỏ duyên lành
Không lìa luân hồi
Bị quả khổ này
Chẳng nương hạnh trời
Mà tạo nhân ác
Sau đó vô thường
Hối hận làm ác
Dao bén cắt hình
Lửa dữ đốt thân
Dẫu chưa tổn thương
Năm căn mắc tội
Khổ không thể nhẫn
Mắt nhìn sắc đẹp
Như thật được vui
Nếu biết là khổ
Nghe tiếng quá vị
Lỗi đó cũng vậy
Oan gia tạo tội
Vì thế lìa bỏ
Ba oan gia kia
Trói buộc tội nhân
Phá người an vui
Tham si hòa hợp
Xa lìa giới phẩm
Sẽ đọa địa ngục
Nếu hành giới luật
Sau được phước lành
Nếu trái giới luật
Sau bị phiền não
Uống rượu sát sinh
Lìa xa vợ người
Tà kiến, lưỡng thiệt
Không giữ oai nghi
Tình ý buông lung
Phá hoại hữu tình
Sẽ chìm đường ác
Tham đắm tà hạnh
Mà lại nói ác
Đời nay đời sau
Không được an vui
Xa lìa người ác
Gần gũi bạn lành
Diệt tội căn này
Không tin nghiệp ấy
Không được nghiệp quả
Không chúng an vui
Gốc rễ quả ác
Sau phiền não đốt
Nếu lại nói dối
Vốn chẳng Pháp sư
Nói ta hiểu pháp
Sau đó vô thường
Bị quả nghiệp ma
Chuyển bỏ thân người
Sinh vào nẻo ác
Vì thế Như Lai
Nói là vô minh
Tất cả tham dục
Sướng vui sao hết
Không tham, biết đủ
Thân lìa phiền não
Muốn sinh vui sướng
Gọi là sướng vui
Tương ưng giải thoát
Được vui tối thượng
Nếu tham vui sướng
Như độc hòa nước
Giải thoát sướng vui
Như sữa hòa nước
Lửa dục thiêu hại
Ngu si không hiểu
Lại cớ tham ái
Độ lượng tài lợi
Mua bán rượu thịt
Được của vô số
Tâm cho chưa đủ
Vô thường sát quỷ
Mau đến dẫn đi
Nếu ham dục lạc
Ưa trụ cảnh giới
Chẳng được sướng vui
Như Lai đã nói
Pháp dụ hiểu mộng
Như thành Càn-thát
Như rỗng không thật
Như bọt trên nước
Giống như thân cây chuối
Như lửa độc kia
Cảnh dục cũng vậy
Nếu rõ nhân quả
Biết dục tội lỗi
Không mê chân như
Thành tựu trí tuệ
Suy nghĩ vắng lặng
Bỏ tham ái kia
Không sinh khổ não
Bỏ dục cũng vậy
Dục là chủ tội
Giống như thuốc độc
Ý ấy không đủ
Đọa lạc cõi trời
Lại đọa địa ngục
Giả dối ngu mê
Ví như sông treo
Cũng như điện chớp
Sức độc thế gian
Nữ sắc hơn hết
Tư tưởng dục tăng
Như lửa cháy mạnh
Vì thế người trí
Lìa dục, vắng lặng
Không trước không sau
Cũng không khoảng giữa
Như như mà hành
Tăng trưởng cũng vậy
Bị dục khổ kia
Giống lửa dữ chạm
Biết lỗi như vậy
Người trí xa lìa
Nên mau lìa dục
Sẽ được an vui
Vô số trăm ngàn
Trời na-do-tha
Vì được hành dục
Đọa ngục lửa độc
Đủ thứ trị phạt
Như lửa độc kia
Xa lìa sướng vui
Không tạo nhân dục
Như trước địa ngục
Không thấy, không nghe
Nếu người tham dục
Đoạn tham dục đó
Sẽ không khổ não
Vì thế không dơ
Được ý trong sạch
Ở khắp mọi nơi
Diệt ngọn lửa dục
Nhập vào tất cả
Nghiệp lành cao tột
Hạnh ấy không nhiễm.

Khi ấy, trời Đế Thích quán sát loài phi cầm ở cây Trang nghiêm, sắc ví như gỗ vàng với pháp nhân quả kia, thấy đúng là nghiệp lành nên nói kệ tụng:

Thấy đúng nghiệp lành
Như cây lớn kia
Sắc vàng tươi đẹp
Các thứ trang nghiêm
Người trí đã nói
Như quả báo lành
Sinh ra nơi nào
Hoặc thiện hoặc ác
Được thân người rồi
Lại làm nghiệp lành
Được sinh lên trời
Làm ác cũng vậy
Chìm xuống địa ngục
Ý tốt ham mê
Cũng lại không được
Thuốc tốt hơn hết
Nếu biết quả báo
Ý chẳng ái dục
Cảnh giới chúng sinh
Mê say dính mắc
Nếu luôn tham lam
Ắt ác cùng sinh
Nữ là phiền não
Như lửa thế gian
Nếu sinh lửa này
Phiền não như vậy
Phiền não người nữ
Sinh tâm chúng sinh
Phá hoại thế gian
Diệt tất cả pháp
Là nhân địa ngục
Đại Tiên đã nói
Người nữ gian mị
“Khẩu Phật tâm xà”
Tình ái bất thường
Luyến ái chốc lát
Trái bỏ cũng vậy
Tánh ấy trôi nổi
Ví như điện chớp
Lừa gạt hữu tình
Ân ái dối trá
Trời, Người, Rồng, Quỷ
La-sát quyến thuộc
Cảnh giới cũng vậy
Người nữ xấu ác
Giống như rắn độc
Chẳng chọn chủng tánh
Không nhìn thế lực
Thương ghét chẳng thường
Tánh như gió lửa
Chỉ tìm của cải
Không có trước sau
Như có hiểm nạn
Vứt bỏ xa lìa
Người giàu cũng vậy
Họ thì vui thích
Nếu lại nghèo hèn
Mau chóng lìa bỏ
Ví như đàn ong
Lăng xăng tìm hoa
Tranh nhau đến hút
Nếu cây khô mục
Tất cả xa lìa
Không của cũng vậy
Người nữ xa lìa
Người nữ tối tăm
Thả tâm điên cuồng
Phá hoại nhân tốt
Không biết tốt lành
Người nữ trói buộc
Như trời buộc vậy
Nếu bị nữ buộc
Ắt đọa địa ngục
Như tham nữ sắc
Tham là đệ nhất
Nếu có chúng sinh
Tuy hiểu nghiệp dục
Nhưng do dính mắc
Thế nên không hiểu
Người mê không hiểu
Lại bị người nữ
Nói năng giả dối
Lừa người tin mình
Thân tuy một chỗ
Tâm thì sai khác
Tổn hoại hữu tình
Giống như rắn độc
Tìm cách cầu nhiều
Nuôi dưỡng hết thảy
Người nữ đức hạnh
Điều đó rất hiếm
Tự tánh như vậy
Không thể đo lường
Người trí không đắm
Tâm luôn quyết định.

Cung trời Đao-lợi có Thiện pháp đường. Bấy giờ, chư Thiên đang tụ hội nơi Thiện pháp đường đó, có người tán loạn như vậy, nên phi cầm vì những người kia mà nói kệ tụng:

Ví như phi cầm
Tùy theo tánh mình
Chán vui bất đồng
Mà có hai loại
Một thấy hoa sen
Thì lại ưa thích
Nếu thấy rừng hoang
Tự mình chán lìa
Một thấy rừng hoang
Ý lại ưa thích
Nếu thấy hoa sen
Lại nghĩ xa lìa!
Chúng sinh cũng vậy
Như rừng vắng lặng
Hoa ví tham dục
Người trí ưa rừng
Ý thích nơi đó
Trời người điên đảo!
Lại thích hoa sen
Như mặt trời mọc
Có thể hết lạnh
Cái vui giải thoát
Cũng lại như vậy
Trong tham, sinh khổ
Làm sao an vui
Người trí chẳng mê
Nên cầu giải thoát
Với hết thảy chỗ
Làm vui cao tột
Trụ rừng vắng lặng
Hãy khéo quán sát
Trụ ý không tham
Trời người cao tột
Trụ tham dục này
Chẳng được lâu dài
Nếu hạnh không tham
Vui trong cao tột
Ở rừng vắng lặng
Trong hành thứ nhất
Dứt tất cả khổ
Nhận làm điều ác
Dối gạt hữu tình
Ý thích núi rừng
Nên khéo quán sát
Tâm khéo quán sát
Những nơi an vui
Tâm hành không tham
Vui nơi rừng hoang
Người ấy thích rừng
Tâm hoàn toàn thiện
Lìa dục không tham
Được vui vắng lặng
Nếu người phiền não
Thấy sợ rừng hoang
Tham ái gấp bội
Lại tự thiêu đốt
Quay lưng tham ái
Trong sạch không dơ
Tâm định đời đời
Thường được an vui
Như giàu có đủ
Phước hết thành không
Tuổi trẻ sức mạnh
Già đến xâm hại
Tất cả ân ái
Ắt có biệt ly
Tất cả hữu vi
Tạm hòa hợp vậy
Pháp thế gian này
Bậc Chánh Giác nói
Nếu hiểu ngu mê
Xả ái biết đủ
Vào rừng vắng lặng
Được vui cao tột
Khoe mình tài giỏi
Tự ái nhiều cách
Xa lìa rừng thiện
Chắc mất lợi lạc
Giữa rừng lặng xét
Vắng lặng tương ưng
Ý thích không tham
Đầy đủ tâm lành
Vậy nên xóm làng
Thường sinh tán loạn
Nếu nơi núi rừng
Lìa mọi tham ái
Ý ông mau chóng
Chán lìa ngu mê
Rừng vắng cao tột
Chỗ ở tương xứng
Tâm hành nếu lặng
Phiền não chắc lìa
Hành khổ tương ưng
Căn lành tăng mạnh
Giả sử có người
Được ngàn Đế Thích
Khi thọ báo hết
Cũng lại sinh diệt
Thường hành tham dục
Tất cả không thấy
Bị dục hàng phục
Mà sinh các khổ
Cái vui ái dục
Tạm trong chốc lát
Không lâu liền mất
Tâm như oan gia
Hay lìa vui kia
Dục ấy, không được
Quả khổ phiền não
Đều từ dục sinh
Giải thoát sinh vui
Vui ấy chân thật
Với hạnh Thiện Thệ
Túng nhậm tương ưng
Lìa dục không tham
Được vui vô tận
Cái vui năm dục
Trước sướng sau khổ
Lúc vui, cùng hoại
Chìm đắm địa ngục
Điều lành không tham
Trước, sau và giữa
Lìa dơ, trong sạch
Hưởng vui vô cùng
Là mẹ chân thiện
Ưa thích, ngu mê
Làm sao lìa nó
Luôn sinh lỗi lầm
Về sau rất khổ
Tạo tội làm gì
Chẳng thấy sướng vui
Ví như thế gian
Có loài hoa độc
Màu sắc tươi đẹp
Thân nó có độc
Nếu người chạm hoa
Độc liền hại thân
Ưa thích tạo tội
Cũng như độc đó
Lại như gió thổi
Nếu cầm bó đuốc
Những con thiêu thân
Sẽ chui vào lửa
Lửa của dục lạc
Thiêu hại cũng vậy
Vì thế độc dục
Thường phải xa lìa
Trời mê đắm dục
“Tích ác hư sinh”
Người tìm tham ái
Ngu si tạo tội
Vì thế lửa dục
Thiêu đốt căn lành
Lừa dối trời, người
Chìm nẻo ác ấy
Nếu chưa hết mạng
Mau hồi tâm ý
Với mọi điều lành
Tu để tăng trưởng
Các tham, loạn, hoặc
Ba lỗi sinh trần
Ba độc, làm một
Lưới tội rất lớn
Khởi lên ba hoặc
Liên tục chẳng tận
Ca múa hát xướng
Tai, mắt đồng tình
Thiên ý như đá
Cũng bị lôi kéo
Tất cả cảnh dục
Che lấp tâm sáng
Chìm đắm sông ái
Thời không ra khỏi
Sao trời ngu mê
Không biết lỗi dục
Ví như cây độc
Nở ra hoa độc
Ong đến tìm hút
Độc hại mạng nó
Độc của tham dục
Tổn hại cũng vậy
Còn đọa tam đồ
Như lửa đốt cây
Trời người không hiểu
Tạo tội lỗi này
Khi hết thọ khổ
Mới lìa địa ngục
Trời người ngu mê
Không nghĩ điều lành
Cảnh giới tội ác
Không một ai tin
Người trí xét kỹ
Chân như, huyễn mộng
Người ngu “phi mộng”
Là nhân địa ngục
Thế nên lìa dục
Được giải thoát lành
Trái bỏ ác hạnh
Nhân lành lợi ích
Thực hành lợi ấy
Lìa hẳn cái ác
Trời không đen tối
Có người trí kia
Nhất định thấy đúng
Chẳng ưa tán loạn
Được tất cả phước.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn chỉ dạy Thiên tử, thực hành không tán loạn, nên liền nói kệ tụng:

Cung điện trời, người
Rễ của tán loạn
Mê say vui đắm
Nên đọa luân hồi
Nếu lìa tán loạn
Luân hồi cũng thoát
Rễ tán loạn kia
Tức là vô minh
Tự tánh tối tăm
Như người không mắt
Ta quán lỗi kia
Chẳng khác lửa mê
Ngu si sâu rộng
Tán loạn cũng vậy
Chúng sinh ngu mê
Thu gom của báu
Để nuôi dưỡng mình
Lại phải tán loạn
Rơi xuống nẻo ác
Trời cũng ngu si
Yêu đắm nữ sắc
Vốn mong lìa khổ
Ý được sướng vui
Nếu biết mạng mất
Bị khổ não lớn
Vui của tập dục
Không lâu liền mất
Tất cả chúng sinh
Thọ nghiệp có hạn
Cường tráng chốc lát
Liền sẽ già yếu
Nghiệp tốt xấu trói
Ai được tự tại!
Ví như lạc chủ
Đẽo ra người gỗ
Nhờ những sợi tơ
Mới có tác dụng,
Hữu tình cũng vậy
Tạo ra hoặc nghiệp
Mới bị luân hồi.
Nếu lìa tham ái
Thì không tác dụng
Hành nghiệp chẳng lâu
Người trí không tin
Xa lìa tất cả
Phương tiện tán loạn
Nếu lìa tán loạn
Chẳng sinh ba cõi.
Ví như có người
Rơi xuống vực sâu
Trong đó còn có
Những người sống sót
Nếu người tán loạn
Rơi xuống ba cõi
Trong đó chưa có
Người nào ra khỏi!
Tất cả hoặc nghiệp
Tán loạn hơn hết
Cả ngày lẫn đêm
Mãi không an vui
Nếu người thế gian
Mảy may tán loạn
Phá hoại hữu tình
Có ý xuất thế
Phải nên xa lìa.

Đức Thế Tôn nói rõ như vậy rồi, trời Đế Thích khởi tâm tôn trọng trải tọa cụ ra, đầu mặt đảnh lễ, đứng dậy chắp tay nhìn Giàtha-thư, tâm sinh sợ hãi, nói bài kệ tụng:

Nếu không tán loạn
Như cam lồ kia
Nếu hành tán loạn
Thì bị vô thường
Người không tán loạn
Trời, người hơn hết
Hành nghiệp tán loạn
Rễ của luân hồi
Hành nghiệp thanh tịnh
Gốc của an vui
Thế nên chánh định
Với khắp mọi nơi
Được vui hơn hết
Nếu với dục lạc
Như sợ cực khổ
Độc lớn tán loạn
Cùng hoại điều lành
Tán loạn: độc mê
Do người tạo ác
Không theo tán loạn
Hay được an vui
Nếu người trí kia
Bình đẳng mà nói
Có đức, không đức
Tất cả chấp ngã
Là rễ khổ vui
Như Thế Tôn, ta
Già-tha thư điển
Lìa dục, trong sạch
Được nhiều an vui.

*******

Khi ấy, có loài phi cầm tên là Vị Tằng Hữu Kiến, hạnh nó chẳng tán loạn, liền nói kệ tụng:

Ý tham, sân, si
Luôn là bạn tội
Là giống địa ngục.
Tâm tham, sân, si
Làm người tạo tội
Đọa xuống tam đồ.
Sau đó mới biết
Độc tham, sân, si
Luôn luôn đáng sợ.
Người trí chế phục
Khiến chẳng tán loạn
Tham si nếu quá
Uống rượu, nói dối
Sát sinh, trộm cắp
Không tin nhân quả
Ý sân nghiệp ác
Lại chẳng đề phòng
Không sinh lên trời
Mà chìm nẻo ác
Luôn hành ái dục
Ái càng lớn mạnh
Sai khiến hữu tình
Lười biếng mỏi mệt
Không tạo điều lành
Lại như màn mây
Che mắt trí tuệ.
Đối với giới luật
Khuyết phạm rất nhiều
Dù được thân người
Cũng hạng thấp hèn.
Nếu ý tạo tội
Tối tăm vô biên.
Nếu ý hiểu biết
Như ngày sáng tỏ
Các pháp như vậy
Phật đã tuyên nói.
Trời sinh tán loạn
Như say mê rượu
Người ấy tán loạn
Như hành địa ngục,
Luân chuyển nhân gian
Đều bị hoại diệt
Quyết định như vậy
Sinh thật vô thường
Tán loạn che lấp
Đọa biển cảnh giới
Thành nhân gông cùm.
Trời nhiều đùa giỡn
Mạng sống nếu hết
Dứt sạch sướng vui
Trời chẳng suy nghĩ
Tâm sinh tán loạn
Chuyển đổi căn lành
Đắm sâu lạc cảnh
Tâm do không đủ
Trời, người không biết
Vì gốc khổ não
Lại chẳng giữ gìn
Trong khoảng chốc lát
Sát-na không dừng
Không bị ái hàng
Cảnh dục gián đoạn
Chẳng hiểu trăm thứ
Trời luôn thọ dụng
Chìm đắm buông lung.
Bị dục hàng phục
Như lửa địa ngục
Thiêu đốt hữu tình
Lại chẳng lựa chọn
Lửa dục cũng vậy,
Thiêu đốt Thiên chúng
Cũng không lựa chọn.
Lại như ngạ quỷ
Miệng tuôn ra lửa
Đốt thức ăn kia
Các loài bàng sinh
Đói khát cũng vậy
Trời người tự tạo
Lửa dục như vậy
Biến khắp thế gian
Thiêu đốt tất cả
Hữu tình chẳng biết.

Có loài phi cầm kia, tên là Cụ Túc Đức khéo hiểu sự tán loạn ấy, không thể thực hành về sau đọa vào trời này, nói kệ tụng:

Dứt hết nghiệp lành
Thọ mạng sát-na
Chúng sinh điều phục
Người được hơn hết
Tất cả thiếu niên
Chốc lát mạng hết
Tất cả giàu sang
Chốc lát hoại phá
Trời, người không thường
Giàu có không thường
Sát-na không trụ
Chớ làm loạn ý
Nên sớm tu hành
Siêng tu lợi ích
Giữ pháp luật nghi
Lý nơi vắng lặng
Lỗi lầm không sinh
Sao trời không thấy?
Nếu ý tán loạn
Hành pháp không thường
Qua rồi không lại
Sướng vui cũng vậy.
Bảo vệ giới căn
Trời, người sướng vui
Các chúng sinh kia
Nếu không giới này
Sau bị phiền não
Thế nên giới hạnh
Phải luôn thực hành
Vui trong cao tột
Giới ấy trong sạch
Liền được quả lớn
Người ngu phá giới
Chẳng sinh lên trời
Nếu trời hành dục
Tán loạn mê độc
Với cảnh năm dục
Thọ sướng vui đó
Tâm chẳng suy nghĩ
Tất cả không lâu
Mạng bị phá hoại
Vô số trăm ngàn
Na-do-tha trời
Mê dục tán loạn
Bị lửa năm dục
Tàn hại thiêu đốt
Tất cả tán loạn
Người bị đắm say
Sau đó vô thường
Bị quả mới hiểu
Tâm chạy theo cảnh
Rất cực rất khổ
Bị khổ, thấy mê
Tâm đắm say cảnh
Khổ não không biết
Cứ liên tục sinh
Sau đó hối hận.
Phiền não, nghi, hoặc
Từ cảnh giới sinh
Tâm ta không biết
Hành hạnh luân hồi
Nào biết luân hồi
Lòng người theo đuổi
Ngu mê lẫn nhau
Xoay vần ba cõi
Người trí chứng chân
Thấy ở luân hồi
Vô thường, khổ, không
Khổ ấy chẳng có.
Nếu mê nữ sắc
Luôn bị nhiễm dục
Sau đó không thấy
Cảnh giới chư Thiên
Hành pháp phi pháp
Ác là hơn hết
Tất cả thế gian
Không ai cứu giúp
Chỉ có chánh pháp
Vì thế nương pháp.
Nếu xa lìa pháp
Người ưa phi pháp
Đã làm phi pháp.
Lửa khổ cháy mạnh
Lìa hẳn cõi trời
Nghiệp lành diệt hết
Bỗng chốc rơi xuống.
Nghĩ sướng vui kia
Không có không thường
Dây nghiệp trói buộc
Ai có an vui!
Tham ái càng tăng
Dẫn vào nẻo ác
Mãi lìa cõi trời.

Lúc đó, trời Đế Thích thấy các chúng trời được trăm thứ phước đức rất đáng kinh sợ, liền nói kệ tụng:

Làm lành sướng vui
Trời được báo lành
Nhân của trời, người
Trước kia làm lành
Mặt trời trên không
Chiếu sáng thế gian
Không có hai vầng
Ánh sáng trí tuệ
Chiếu soi tối tăm
Cũng lại như vậy
Không có hai loại.
Muốn đến cung trời
Hành hạnh xót thương
Thương khắp quần sinh
Là mẹ sinh ra
Cậy nhờ lành này
Người sinh cõi trời.
Lại nữa, tâm Bi
Nhiêu ích lợi vui
Tất cả hữu tình
Được trời ưa thích
Ngươi Bi luôn tốt
Tất cả chúng sinh
Các bậc Hiền thánh
Khắp đều quy mạng
Lại nữa, hạnh Bi
Như trăng trong mát
Trừ phiền não kia
Trừ lửa khổ nóng
Vì thế tâm Bi
Là gốc sướng vui
Tất cả tâm dục
Nghiệp chủ trời, người
Đối với sắc, thanh
Hương, vị, xúc, pháp
Không đủ phan duyên.
Tỳ-kheo quán sát
Nói kệ tụng rằng:
Thí như kiếp hoại
Lửa mặt trời làm
Sông ngòi, biển cả
Đều khô cạn hết
Các nhãn thức, căn
Vin vào sắc cảnh.
Trải qua câu-chi
Trăm ngàn vạn kiếp
Biển dục tham si
Không khô cạn được.
Tâm tham của người
Còn hơn thế nữa
Nhân của tán loạn
Sinh tất cả ác
Chớ hành tán loạn
Tán loạn người lỗi
Che lý chân như
Nếu hành tán loạn
Chẳng tạo điều lành
Mà người lìa lành
Dẫn xuống tam đồ
Lìa mọi điều vui
Chẳng sinh cõi trời
Mạng luôn sinh diệt.
Là căn phiền loạn
Ý biết thông suốt
Khổ là hơn hết.
Nếu căn trước cảnh
Không rõ luân hồi
Nhất định dính mắc!
Như hoa trong không
Như thành Kiền-thát
Như bọt trên nước
Như đống bọt nước
Mê đống bọt kia
Làm các ngọa cụ!
Mê giả tạo ấy
Là tự mình làm
Trời, Rồng, Dược-xoa
Và A-tu-la
Các Ca-lỗ-noa
Hư huyễn cũng vậy.
Ai cứu vô thường!
Nếu cứ tạo tôi
Không sớm biết sợ
Cái chết cực ác
Mau đến bức hại!
Thế nên làm lành
Sau không phiền não
Ta hiểu các ông
Chớ có buông thả
Lại sinh ái ấy
Bị cảnh lôi kéo
Cảnh trói hữu tình
Như gông cùm tù
Là nhân địa ngục
Quyết lìa giải thoát.
Chớ cho không thật!
Ông phải xa lìa
Pháp chân thật này
Thế Tôn đã nói
Lắng nghe phụng hành.
Được lợi vô tận.

Lúc bấy giờ trong khoảnh khắc, trời Đế Thích cùng các chúng trời thấy hình ảnh Đức Phật bèn khởi tâm tôn trọng, đầu mặt đảnh lễ và nói kệ tụng:

Đức Phật Thế Tôn
Bậc Chánh Biến Tri
Hiện ra cứu độ
Mở đường giải thoát.
Nếu người quy lễ
Giải thoát luân hồi
Tâm lành được hơn
Ưa thích lành này
Trong sạch không nhơ.
Phật nói pháp này
Thành đạo Niết-bàn
Nói để người ấy.
Được sức không sợ
Hưởng vui vắng lặng
Trụ địa chân không
Qua biển luân hồi
Độ nạn ba cõi
Mở mắt trí tuệ
Phóng quang tối thắng
Thấy khắp thế gian
Chẳng như cây, đất
Loài phàm phu ngu
Không thấy ánh sáng
Du hành vọng cảnh
Nếu người tham dơ
Tâm không trong sạch
Miệng đầy những độc
Lại dùng nước trí
Rửa sạch lìa nhiễm!
Tất cả ngoại đạo
Chấp ngã, không biết
Lý chân thật đó
Mà không thể thấy
Nói đó không sạch
Vì ông giảng nói
Phật tại nhân địa
Chẳng hành tán loạn
Cứu độ các ông
Nay đến bờ giác
Lại độ người khác
Lợi lạc tất cả
Với thế gian này
Chỉ một Đức Phật
Không lợi, làm lợi
Lợi người hơn hết.
Như vậy tạo ác
Đọa địa ngục lớn.
Như vậy làm lành
Sẽ sinh lên trời.

Trời Đế Thích lại quán sát Thiên chúng rồi tiếp tục nói kệ tụng:

Ví như phi cầm
Thuận chiều gió thổi
Trời người luân chuyển
Cũng lại như vậy.
Đều do cảm nghiệp
Như khổ vui kia
Tụ tập, tan mất
Tùy nghiệp hơn kém
Nghĩa đó cũng vậy.
Vì thế, tạo tác
Đều thành nhân quả
Mâu-ni đã nói
Chân như vô biên
Chỗ dựa bình đẳng
Hạt giống nghiệp tập
Tâm tạo tất cả
Khó mà điều phục
Chỉ Phật Như Lai
Mở bày mới hiểu.
Nếu các loại nghiệp
Từ một đến mười
Từ mười đến trăm
Từ trăm đến ngàn
Đến na-do-tha
Vô số hữu tình
Bao nhiêu chủng loại
Bị lưới nghiệp lớn
Vẻ đẹp thế gian
Ví như phi điểu
Dây trói buộc chân
Muốn bay lên không
Trọn không thể được!
Hữu tình cũng vậy
Đã tạo các nghiệp
Nghiệp ấy trói buộc
Muốn khỏi luân hồi
Cũng không thể được.

Khi ấy, trời Đế Thích thấy các trời tán loạn cùng nhau vui chơi đùa giỡn, đắm say trước những sướng vui, xem xét chúng trời ấy, Đế Thích liền nói kệ tụng:

Năm nhạc múa ca
Khắp cả cõi trời
Nếu không suy nghĩ
Nhất định bị đọa.
Ông tham người nữ
Tự tánh đắm say
Không tạm lìa bỏ
Ý người bất thường
Tùy tình tới lui
Người giàu luyến ái
Thường được của cải
Ưa thích dối trá
Như có cố chấp
Khinh bỏ xa lìa
Người đó tham si
Đuổi theo dục lạc
Như nai khát nước
Tranh giành bóng nắng
Để tìm cầu nước.
Mê dục cũng vậy
Giả dối không thật
Các người nữ kia
Không ân, không nghĩa
Không thân, không sơ
Bất luận lớn nhỏ
Không kể dòng dõi
Ví như ong tìm
Mùi thơm hoa kia
Liền đến hút nhụy.
Nếu thấy hoa héo
Tức liền bỏ đi!
Lại nữa, người nữ
Lừa dối, hoặc, loạn
Như trong mật kia
Ẩn chứa độc dược
Gây hại cũng vậy.
Người có trí kia
Tâm phải quyết định
Với dục vọng này
Đều không bị đắm
Người mê thấy vui
Tự mình đắm vào
Như kiến gặp mùi
Như ong giữ mật.
Trời, Rồng, Quỷ Thần
Các ác Dạ-xoa
Bọn Tỳ-xá-già
Ma-hộ-la-nga
Cùng La-sát-ta
Cũng bị mê hoặc
Tánh dục chẳng thật
Sinh cảnh giới vọng
Ví như pháp giả
Lừa dối hữu tình
Đến khi vô thường
Bỗng chốc tan mất.
Trời đất tốt lành
Tất cả rừng cây
Tốt tươi hoa quả.
Bị dây sinh tử
Trói buộc các ông
Như dây buôc nghé
Không được tự tại.
Thích thú cảnh giới
Nam nữ quyến thuộc
Khi vô thường đến
Ai người cứu giúp?
Nếu người được trụ
Trí tuệ đa văn
Nhà của nghiệp lành
Tâm thích hơn hết.
Ta nay nên bỏ
Nam Diêm-phù-đề
Khe, suối, sông, biển
Vườn tược, tình, đài
Thảy đều đầy đủ
Các loại như vậy
Người có như pháp
Người không như pháp
Luận nghĩa tuệ học
Pháp và phi pháp
Nay ta đều biết.
Tâm: Oán, hư, vọng
Làm mê hữu tình
Các Tỳ-kheo kia

Lại nói kệ tụng:

Tâm oán: Thấp hèn
Sinh năm căn độc
Giết hại chúng sinh
Như rắn năm đầu
Ôm lòng hối hận
Các sắc, năm cảnh
Làm sông ái lớn
Không đến bờ kia
Bờ kia vắng lặng
Lìa mọi tà vọng
Tà kiến không lợi
Mê đọa địa ngục
Người tà kiến kia
Không nhân, đếm nhân
Bị ác, tà kiến
Ngăn che tâm sáng
Hiểu lầm nhân quả
Bị nạn luân hồi
Thân chịu khổ não
Nghiệp quả sinh diệt
Thiện ác cũng vậy.
Nếu thấy chân không
Liền đến bờ kia
Lìa hẳn sinh diệt.
Các ông nên biết
Ngu si mê dục
Dục che người mê.
Nếu trụ chánh kiến
Thanh tịnh tốt lành
Giới hạnh luật nghi
Xuất thế, cõi trời
Cầu được, không khó.
Nếu chấp tà kiến
Tu nghiệp tà nạn
Ta nguyện sống lâu
Mình chẳng ngu mê
Mà lại người mê
Sở hành tối tăm
Đọa luân hồi lớn
Tạo thành nhân khổ
Thúc ép tự tánh
Như Phật đã nói
Cốt yếu lợi lạc
Chánh tánh phản chiếu
Căn trần cảnh không
Ta tự phá hết
Phiền não sạch sẽ
Khỏi nạn sinh tử
Trụ thành Niết-bàn
Là chân giải thoát.
Thế gian các ông
Tất cả hữu tình
Đắm sâu dục lạc
Tà độc vào tâm
Bờ kia Niết-bàn
Trọn không thể đến.
Giả sử trăm kiếp
Chìm nổi thế gian
Như bị gông cùm
Thoát không thể được
Người trí đã nói
Tài pháp xuất thế
Kinh điển tốt nhất
Tin nhận phụng hành
Chắc được lợi hành.
Tà kiến không nhân
Ngang chấp thấp hèn
Lời dạy giả dối.
Hữu tình mê lầm
Luân hồi đọa khắp.
Vì sao chúng sinh
Dối lừa chân pháp
Vọng thấy không nhân
Chẳng thương chúng sinh
Mình đọa, người đọa
Đều vào nẻo ác!

Có loài phi cầm tên là Mật Hạnh ở rừng cây ấy vui chơi hút mật, nói bài kệ tụng:

Chúng sinh uống rượu say si mê
Yêu mùi nào biết si lôi kéo
Khi chết rơi xuống trong nẻo ác
Thế nên, chớ uống rượu vô minh.
Chạm nhân luân hồi sinh si kiến
Phi pháp đều từ tham ái sinh
Nghiệp các trần lao như biển sâu
Như Lai đại trí nói như vậy.
Ông biết uống rượu mất danh sắc
Tốt xấu không phân, mắt như mù
Cho đến té nhào không hiểu biết
Giống như cây đá, bị người cười
Thường luôn uống rượu, lỗi lầm nhiều
Ba mươi sáu lỗi, làm trái ngược
Người trí dính mắc là đại ám
Thế nên xa lìa, đừng uống rượu
Hoa ca-xả khinh những người kia
Trôi nổi, không định, không trung tín
Tham sân tăng trưởng, sinh tử mãi
Bẻ gãy sức này, cần cứu hộ.

Trời Đế Thích lại nói kệ tụng:

Không sân phá sân
Nhẫn nhục phá oán
Pháp phá phi pháp
Sáng pháp tối tăm
Thật phá nói dối
Định phá hai lưỡi
Thiện phá miệng ác
Quen phá chẳng quen
Từ phá sát sinh
Thí phá keo kiệt
Niệm phá chẳng niệm
Minh phá vô minh
Ngày phá ban đêm
Sáng phá bóng tối.
Suy nghĩ tà dục
Phá chân giác trí.
Nạn nghiệp nẻo ác
Phá tám Thánh đạo
Bốn trí vô ngại
Phá mọi ngu độn.
Trí phá vô trí.
An trụ vắng lặng
Phá phan duyên kia.
Gió phá núi rừng.
Lửa phá tất cả.
Biển nuốt sông ngòi
Mặt trời phá sao.
Giàu phá bần cùng.
Lửa phá lạnh buốt.
Nước phá khô cạn.
Ăn phá đói khát.
Đủ phá không đủ
Thường khen là thương
Không khen không thương.
Nghiệp ác nói dối
Phá hoại hữu tình.
Khéo nói chân như
Phá tuệ hữu vi.
Như Phật Thế Tôn
Hay phá ngoại đạo
Các thế lực trời
Phá A-tu-la.
Đế Thích bảo rằng
Ta hàng phục ông
Tất cả Thiên chúng
Là tại vì sao?
Người trụ chánh pháp
Oai thế được vậy.
Nếu lại luân hồi
Làm loài tôi tớ
Ngủ trên nền đất
Tất cả ở dưới
Nhưng nếu một lòng
Phụng hành chánh pháp
Như ngồi trên giường
Ở trên tất cả
Làm mê trí tuệ
Thích làm phi pháp
Nghiệp quả tự trời
Làm sao không đọa
Bị gió nghiệp thổi
Luân chuyển địa ngục
Ngạ quỷ, bàng sinh
Ai thay thế chịu?
Tất cả như vậy
Trời nam, trời nữ
Những kẻ ngu mê
Tất cả chúng sinh
Tự tạo nghiệp ác
Bị phá hoại hết.

Trời Đế Thích lại tiếp tục nói kệ tụng:

Ví như gió mạnh
Thổi mây trên không
Tan hợp thất thường
Hữu tình luân hồi
Tùy nghiệp hợp tan
Bất định cũng vậy
Lại nhu hoa nở
Đúng lúc nở ra
Nở hết rồi tàn
Tùy thời không tru
Thời gian cũng vậy
Quá khứ, vị lai
Cũng lại không trụ.
Người tạo phước lành
Được lúc vui chơi
Nếu phước vui hết
Qua lại chẳng còn.
Như cây mọc lá
Rất là tươi tốt
Nếu gặp mưa đá
Rụng rồi không lại.
Trời, người cũng vậy
Hưởng sướng cõi trời
Nếu bị luân hồi
Không còn sướng vui
Ví như trời mưa
Rỗng không, không trụ.
Sướng vui cũng vậy,
Huyễn thể, không trụ.
Ví như gió mạnh
Thổi tan đám mây.
Sướng vui cũng vậy,
Thổi tan mạng sống.
Ví như cây mục
Bỏ vào trong lửa
Không thể còn nguyên.
Mê ái cũng vậy
Trải trăm ngàn đời
Rơi xuống địa ngục
Chẳng lại trời, người
Hư, vọng, mê, ái
Biến khắp tất cả
Ma diệt hạnh lành
Xa lìa trời, người
Bảo vệ giới này
Bảy Phật đã nói
Thứ nhất giới định
Đời đời nhớ nghĩ
Người được nghiệp địa
Nhiều kiếp nhớ nghĩ
Cha mẹ nghiệp địa
Được sinh lên trời.

Trời Đế Thích lại nói tiếp bài kệ:

Nếu được sinh cõi người
Do đời trước làm lành
Nay phụng thờ luật nghi
Lại được sinh lên trời.
Sinh làm người khó được
Như hạt cải, đầu kim
Nếu tán loạn, mê hoặc
Lại đọa vào địa ngục.
Hành ba nghiệp lành rồi
Quán xét tâm vắng lặng
Phiền não tự tiêu trừ
Ắt được sinh lên trời.
Hàng phục hết phiền não
Trong tâm sinh vui thích
Thanh tịnh lìa sân si
Được sinh lên cõi trời.
Đoạn trừ mọi thương ghét
Không sinh nhiều nỗi khổ
Làm đủ việc bố thí
Được sinh lên cõi trời.
Thường dùng tâm Từ bi
Cứu giúp cho muôn loài
Như bảo vệ mạng mình
Được sinh lên cõi trời.
Tâm người làm điều ác
Như lửa độc, hại vật
Ai cầu gì đều giúp
Được sinh lên cõi trời.
Nếu thấy thê thiếp người
Không sinh tâm xấu xa
Xem như mẹ kính yêu
Được sinh lên cõi trời.
Nếu người xem nói dối
Như lửa sinh đầu lưỡi
Nếu chân thật cấm giới
Được sinh lên cõi trời.
Không còn nói hai lưỡi
Bạn thân được hòa hợp
Ái ngữ dứt ngang trái
Được sinh lên cõi trời
Miệng nói ác vô độ
Như dao bén hại người
Nói tốt, lìa lỗi trước
Được sinh lên cõi trời.
Nói thêu dệt thêm lỗi
Nói nhiều lời trang sức
Như luận lý chân thật
Được sinh lên cõi trời.
Nếu gìn giữ giới này
Bảy Phật đều đã nói
Giới pháp tròn, không sợ
Được sinh lên cõi trời.
Tất cả các chúng sinh
Nếu sinh tăng thượng mạn
Sẽ như gông cùm trói
Không được sự giải thoát.

Khi ấy, có một Tỳ-kheo nói kệ tụng:

Nếu bị người nữ trói
Buộc lấy người vững chắc,
Khi thọ báo luân hồi
Trước nhất chịu quả ác.
Nếu bị người nữ trói
Chẳng phải trói ở cổ
Mà buộc tâm hữu tình
Sinh khổ là thứ nhất.
Nữ trói buộc mọi người
Nhân gian không thể tính
Địa ngục, quỷ, súc sinh
Đều bị nữ trói hết.
Sắc lớn trói buộc thân
Còn thấy được hình lượng.
Nữ trói tâm, chẳng sắc
Trói nhiều, không hình lượng
Nữ trói ý tuy vui
Sinh mê muội không thoát
Những người bị trói ấy
Khó ra khỏi luân hồi.
Người bị sáu trần trói
Sức nữ trói mạnh nhất
Các chúng sinh hàng phục
Trói này là hơn hết.
Nếu bị người nữ trói
Tâm ngu mê, luyến ái
Vì thê thiếp, quyến thuộc
Không thể khỏi lao ngục.

Bấy giờ, một ngàn vị Thiên tử tất cả đều thấy như vậy bèn sinh tâm vui mừng, nhảy múa, ca hát, khen ngợi vua trời Đế Thích bằng kệ tụng:

Vua Đế Thích Đao-lợi
Cha mẹ cõi Ta-bà
Hành hạnh lành trời Phạm
Không đắm mọi thú vui
Chánh pháp cứu thế gian
Phi pháp khiến đoạn trừ
Dùng tâm ấy thích pháp
Vui này chưa từng có.
Trí cao tột hơn hết
Lòng lành nói chân thật
Pháp sướng vui chẳng thường
Trong sạch mà không nhiễm
Đức thế gian có được
Và đức xuất thế gian
Hạnh tự tại vua trời
Thấy tất cả, không khác
Cứu độ người sợ hãi
Lìa khổ được an vui
Trời, người, A-tu-la
Thường giúp đỡ thế gian.
Cõi trời Đao-lợi này
Tất cả rừng cây kia
Các loại thật trang nghiêm
Che kín như lọng tơ
Đất trải bằng lưu ly
Cung điện đủ sắc báu
Hoa sen thường tự nở
Trang nghiêm rất vừa ý
Nghiệp thân trời, người hết
Khi kiếp lửa phá hoại
Núi Tu-di cũng mất
Không có vật nào còn
Huống nữa chúng các trời
Như bọt trên mặt nước
Vừa sinh lại biến mất
Vô minh, mê, không hiểu
Trời Đế Thích tôn quý
Thường phóng ánh sáng ấy
Chiếu sáng cho chúng ta
Tất cả đều nương nhờ.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích nói kệ tụng:

Các núi chúa Tu-di
Ánh sáng màu vàng ròng
Thể rõ ràng trong sạch
Ví như trăng trong nước
Với ánh sáng vàng này
Ví như người trì giới
Giới sáng suốt, không nhơ
Mười sáu phần, thiếu một
Tự nghiệp được sinh trời
Trang nghiêm mà đầy đủ
Nghiệp có cao, thấp, giữa
Cảm quả, cũng như vậy.
Tùy tâm mình giữ giới
Xa lìa mọi tán loạn
Trụ ngôi chánh pháp này
Luôn được sự sướng vui.
Đời sống, giới không nhơ
Thân có ánh sáng lớn.
Như ngàn vầng mặt trời
Cùng nhau sáng không khác.
Phật nói bảy loại giới
Nếu vui vẻ thọ giữ
Người đó là hơn hết
Sẽ được quả tốt nhất.
Tạo tất cả nghiệp lành
Nhất định có thân sau
Không hạnh kia, không tạo
Không nghiệp, không phá hoại
Ngu mê, không tin nhân
Không nhân, cũng không quả
Như tìm dầu trong nước
Không hưởng được an vui
Tâm tạo tội mê ám
Chẳng lành, chẳng an vui
Phiền não cùng nhau tăng
Thấy họ chưa từng có!

********

 

Lại nữa, tuyên thuyết về luân hồi, tụng rằng:

Tất cả trời, người
Có nhiều tán loạn
Trước như bạn thân
Sau thành oan gia
Như lửa thiêu đốt
Như dao cắt đứt
Trời, người nhân gian
Được mất bình đẳng,
Tâm ý cuồng mê
Như cùng oan gia
Trời, người không biết
Người trí xa lìa
Tán loạn cây độc
Nói có ba cành
Là già, bệnh, chết
Lại thường liên tục
Người trí lìa dối
Toàn lành tương ưng
Già những ba cành
Mà không làm hại
Như xa lìa lỗi
Không sinh tán loạn
Sợ ác giải thoát
Được vui hơn hết.
Nếu vui tán loạn
Không lâu sợ hãi
Nếu vui giải thoát
Vui đó vô tận.
Trăm ngàn vạn ức
Muôn người chạy theo
Ưa thích danh lợi
Giả dối lường gạt
Vọng loạn trên hết.
Có bốn lỗi lầm
Nếu lìa vọng loạn
Phá oán thế gian.
Hành vọng loạn ấy
Nhiều nghi, nhiều sợ
Nhiều nạn, nhiều khổ
Lần lượt luân hồi
Không có cùng tận.
Bốn lỗi lìa một
Được vui vô biên
Trời, người các ông
Một lòng tán loạn
Ngăn che tất cả
Pháp lành vô lậu
Làm sao mà được.
An vui vắng lặng
Nếu ưa tự lợi
Suy nghĩ làm lành
Các khổ, phiền não
Sau đó không sinh
Nếu các Thiên chúng
Đắm chìm dục lạc
Giả dối không thật
Tất cả chẳng lâu
Từ huyễn hóa sinh
Kia không thấy biết
Tự tánh huyễn hóa
Nên chẳng quyết định
Xa lìa an vui
Thường sinh các khổ.
Nói thật với ông
Nếu người luôn lành
Được đời yêu kính
Thánh hiền vây quanh
Sau sinh lên trời
Hưởng thú vui trời.
Nếu hành bố thí
Được tất cả người
Tâm sinh vui kính
Sau được giàu sang
Quả thí như vậy.
Nếu hành nhẫn nhục
Sau sinh lên trời
Không còn sợ hãi
Người đời quý mến
Tiếng tốt vang xa
Mặt mũi đoan nghiêm
Đầy đủ bạn bè
Hưởng vui thú trời
Các hữu tình kia
Tất cả còn có
Cha mẹ thế gian
Hay phá tội ám
Như mặt trời sáng
Trụ ý cao tột
Vì báu từ bi
Phát sinh căn lành
Thông đạt các pháp
Tuy ở tại gia
Nếu trụ chánh kiến
Trí ấy giải thoát.
Luân hồi, gông cùm
Không sinh bạn ác
Người được an vui
Pháp chưa nghe, nghe
Nghe rồi không thoái
Khỏi mọi nẻo ác
Được sinh lên trời
Tâm lành không dơ
Các lỗi không sinh
Lìa nhiễm, trong sạch
Khéo biết báo ứng
Hiểu nghĩa vi diệu
Dứt các lỗi lầm
Ví như hư không
Không trụ bùn lầy
Được quả vắng lặng
Tin sâu Tam bảo
Được vô sở úy
Cùng các Thiên chúng
Tôn kính Như Lai
Tin nhận lời Phật
Nhờ pháp cứu hộ.
Ngã sinh có quả
Thân sinh có ái
Chìm đắm vô biên
Khổ này khó cùng
Mười sáu phần khổ
Không bằng một phần
Vui ít sợ nhiều
Luôn đối hữu tình
Ví thành Càn-thát
Người trí phải tin
Nói giết chúng sinh
Đến khi mạng hết
Không đi theo vui
Đều không có được
Các loài chúng sinh
Tâm có nhiều loại
Hạnh nghiệp đủ thứ
Luân hồi gông cùm
Từng bước đi theo
Sinh lại có chết
Ngu si mê hoặc
Tự tánh chân thật
Mà không tỏ ngộ
Vô thường đáng sợ
Theo chúng sinh kia
Đến rồi lại đi
Tán loạn không biết
Trời mê muội cảnh
Như gặp rắn độc
Rơi xuống trời, người
Khổ không gì bằng
Cha mẹ vợ con
Nam nữ quyến thuộc
Bạn thân tri thức
Không thể chịu thay
Đắm say cảnh giới
Đam mê dục lạc
Bỗng chốc vô thường
Đại khổ mau đến
Dùng phương tiện gì
Khiến lìa khổ não?
Nếu không ái dục
Khổ không thể hại
Cũng lại không sinh
Địa ngục, ngạ quỷ
Các loài bàng sinh.

Khi ấy, trời Đế Thích lại nói kệ tụng:

Người hành tà đạo
Muốn thấy chánh chân
Như muốn lấy nước
Mà đụng lửa vậy.
Nếu không có nhân
Sao lại có quả?
Tán loạn không đức
Ích lợi sao có!
Phá hoại trời, người
Ý này nếu sinh
Thích vui mê dục
Sau bị vô thường
Tâm nhiệt não lớn
Không mê cảnh giới
Không phát lửa dục
Không tham gọi tên
An vui hơn hết
Nếu lại một lòng
Vui đời tham ái
Mười sáu phần tội
Không bằng một phần
Nếu phát tin lớn
Giải thoát luân hồi
Ái hết, cảnh mất
Thấy không gì vui
Tương ưng vui thiền
Không giận, không vui
Nếu sinh lành ấy
Lại không luân hồi
Rốt ráo bờ giác
Nếu có tâm dục
Mà cầu sướng vui
Bị dây nghiệp kéo
Rơi xuống địa ngục
Chịu tất cả khổ
Ai người cứu khỏi
Qua mà chẳng lại
Từ nhân nghiệp, sinh
Không trước, giữa, sau
Chẳng nay, đời sau
Vô minh tạo lỗi
Người đọa nẻo ác
Mới biết mình ngu
Hành độc tán loạn
Giây lát phù sinh
Ngu mê không hiểu
Sau bị vô thường
Mới biết là khổ
Nếu sinh có khổ
Sợ vô thường kia
Ý tạo pháp mầu
Mới thật cứu họ
Chân thật an vui
Như lời nói này.
Thật là lợi ích
Khiến tâm làm lành
Mau được an vui
Vui là hơn hết
Nhất định không mất
Nếu trời mê hoặc
Không nương pháp này
Ý lại tán loạn
Sinh vào địa ngục
Không mong ra khỏi.

Có loài phi cầm, tên là Chủng Chủng Man, giác ngộ được trời kia nên nói kệ tụng:

Các loại nghiệp sinh
Trời, người tùy nghiệp
Không biết nương pháp
Sau bị khổ não.
Thế gian đã có
Nhiều loại quả lành
Vườn rừng, vòng hoa
Thềm, đường, lầu các
Thân tâm vui thích
Nhờ tạo nghiệp lành
Được thấy quả đó
Nghiệp nhân trời, người
Có cao, giữa thấp
Trời chẳng tạo ra
Mỗi mỗi quả ấy
Trời, người vì si
Mê các loại hạnh
Nếu ý ấy mê
Không thấy đáng sợ
Mất hạnh tự lợi
Các thứ ái lạc
Cầu các thứ quả
Tâm mê tạo nghiệp
Trời không giới hạnh
Như đêm không đèn
Mà tìm ánh sáng
Các nhân và quả
Chân thật nên tu
Quả trí chân như
Có được phần vui.
Lìa mạng không quả
Lìa đèn không sáng
Lìa giới vô Thiên
Nếu lìa trí tuệ
Không được giải thoát
Nều lìa giải thoát
Thời không an vui
Cầu cứu trăm bề
Thân mới khỏi ái
Người trí lìa ngã
Nghiệp này không vui
Tất cả có tội
Mà lại không sinh
Được lợi ích ấy
Tất cả Thánh nhân
Đã nói không nhơ.
Trăm ngàn kiếp người
Ưa muốn cảnh giới
Chìm đắm không đủ
Một lòng không bỏ
Tăng trưởng dần dần
Độc ấy lớn nhanh
Chốc lát rơi xuống
Biết trí hơn đức
Tướng Pháp sư này
Đức hơn, không biết!
Mê hành tướng này
Nơi đức sinh đức
Nơi lỗi cũng vậy
Biết chân, hơn tức
Luôn được an vui
Đức hơn khó biết.
Lìa trí kia rồi
Trí nào hơn hết
Cảnh giới trời hành
Ý kia vô trí!
Trăm nguyện không thể
Được an vui kia
Như tạo nghiệp lớn
Quả giới hơn hết
Được làm trời, người
Sướng vui thích thú
Rất là đệ nhất.
Căn môn điên đảo
Cảnh giới chấp tà
Hàng phục tâm này
Được sướng vui trời
Phước vui, khổ não
Mình làm mình chịu
Quyết định tạo tội
Chấp nhận oan gia
Làm lành cũng vậy
Như quen bạn lành
Nếu ý mau đủ
Phước lực sạch trong
Sẽ được trời, người
Như nước ra biển
Luôn hành cảnh ác
Hạnh ác tương ưng
Ắt không lợi ích.
Chủng trí, bờ giác
Nếu ý ưa thích
Đắc khổ phi pháp
Phi pháp khoái lạc
Liền thành ma khổ
Tướng khổ, vui này
Cả hai bình đẳng.
Nếu người có trí
Chán khổ thích vui
Diệt nhẫn diệu pháp
Có thể phụng hành
Khổ là cùng vui
Chẳng thấy không nhân
Đủ thứ khổ, vui
Nhân sinh sai khác.
Chúng sinh tự làm
Nhiều đời nhiều kiếp
Tất cả nghiệp quả
Các loại chẳng mất.
Nếu ưa hành pháp
Bảo vệ chánh pháp
Được sinh lên trời
Hưởng thọ sướng vui
Người mê pháp ấy
Xa lìa chánh pháp
Không được lợi ích
Đọa ngục luân hồi.
Nếu mở mắt pháp
Si bất hàng tâm
Thấy sướng vui này
Như mưa xuống đất.
Giả dối không thật
Ý tạo cõi Phật
Tâm trồng giống pháp
Ngu mù giới pháp
Ưa hành phi pháp
Hành đạo phi pháp
Tâm đối luân hồi
Người có tội lâu.
Nếu tâm hạnh này
Tự tánh khinh bỉ
Các thứ điên đảo
Sát-na không trụ
Huyễn hóa chẳng thật
Như thành Càn-thát
Trói buộc trí thức
Mau nên tỉnh ngộ
Trời, người tán loạn
Cảnh giới tham ái
Bị cảnh vui lừa
Mạng đọa không biết
Sướng vui giả dối
Tất cả chẳng định
Chư Thiên tạo vui
Không lâu liền diệt
Thiên chúng mê chuyển
Đời đời cũng vậy.
Pháp sinh giả, rỗng
Cho nó chân thật.
Pháp sinh chẳng định
Cho nó nhất định
Hành pháp sợ kia
Trói buộc mạng sống
Trời người rơi xuống
Như nhổ xuống đất
Tâm nữ điên đảo
Hư vọng lừa dối
Nếu lại lìa bỏ
Được vui thứ nhất.
Người nữ điên cuồng
Trang sức chẳng thường
Hoặc nói xảo trá
Tánh đổi chẳng định
Ví như ong bay
Gặp hoa liền hút
Không hoa, bỏ đi.
Người nữ cũng vậy
Có của liền theo
Không của liền bỏ
Tâm nữ ghen ghét
Là những hắc độc.
Lại nữa, người nữ
Khó được sống chung
Như gió lớn thổi
Như lửa cháy mạnh
Như khắp cả không
Ai thể bắt giữ!
Người nữ đổi tánh
Trăm thứ cơ hội
Cũng đừng bắt giữ.
Nếu một người nữ
Bị nhân nghiệp ác
Phá hạnh giải thoát
Thành nạn bệnh tử.
Nếu nhiều người nữ
Sinh phiền não kia
Vì thế gian đó
Làm khó đủ cách.
Người nữ nhỏ bé
Ngu mê tăng trưởng
Tự tánh điên cuồng
Vô minh hừng hực
Như đèn sáng kia
Thật cho là oán
Như ruồi bu ghẻ
Thích kẻ có của
Không của chẳng thích.
Nếu có của cải
Người nữ thích ở
Nếu không có của
Làm sao ở được!
Vì không tài lợi
Nên không gần gũi
Tánh hạnh sai khác
Tâm ví như lửa
Không hàng phục nữ
Như người theo hầu
Theo đó hầu hạ
Rồi cũng trái bỏ
Nữ nhiều dối lừa
Như rắn ẩn hoa
Trong tâm người nữ
Như tro che lửa.
Sắc đẹp cũng vậy
Vui mà không lành
Thân như cây độc
Sinh ra hoa độc
Chớ nên gần kề
Hướng đến cảnh dục
Đắm say người nữ
Đời nay đời sau
Người không sướng vui!
Mê say vô minh
Điên cuồng biếng nhác
Thích mùi tạo tội
Chẳng thấy người hiền.
Người trí biết pháp
Tin sâu nhân quả
Phát tâm tinh tấn
Dũng mãnh tu hành
Xa lìa nữ sắc
Người được tốt lành.
Tới nhà người nữ
Như bị mắc lưới
Người trí không đắm
Cõi ma đã sạch
Tất cả cấm giới
Nữ giới thứ nhất.
Sao không lìa nữ?
Người trí xa lìa
Được vui vắng lặng
Nữ kia trói người
Lửa dữ, khí trượng
Không thể đốt rụi
Sức mạnh chúng sinh
Không thể điều phục.
Ta nên lìa nó
Một lòng lên trời
Bỏ sướng vui ấy
Sinh trời Dạ-ma
Được vui vô tận
Trong nhiều sướng vui
Các mắt tai này
Mũi, lưỡi, thân, ý
Với sắc, thanh đó
Hương, vị, xúc, pháp
Sáu căn không vững
Các chúng trời này
Luôn hành khát dục
Mà không biết đủ
Tự tánh như lửa
Hay đốt cỏ cây
Làm sao có đủ
Lửa sáu, căn kia
Do dự không quyết
Đốt hữu tình này
Đều không hiểu biết.
Đất này tán loạn
Không hành đạo pháp
Lìa tán loạn đó
Bị cảnh giới ái.
Người tùy nghiệp mình
Được trụ chân thật
Người nữ sinh ái
Tâm ấy khó ngăn
Nghiệp mình tùy nhân
Sinh, có lìa bỏ
Quán sát như vậy
Người nữ điên đảo
Sinh nơi lìa bỏ.
Nếu tìm sướng vui
Tâm trụ cuồng hoặc
Người nữ hành dục
Như gần bạn ác.
Ý có ba lỗi
Thân bị bốn lỗi
Thế nên xa lìa
Lửa của độc dục
Sướng, vui, khổ não
Từ nghiệp lôi kéo,
Nếu ở trên trời
Vui đắm năm dục
Sắc cung trời, người
Không lâu rơi xuống.
Phật thấy chân không
Đắc đạo giải thoát
Nói luân hồi ấy
Tất cả do nghiệp
Người nữ vì ái
Bị lỗi hơn hết
Tâm không quyết định
Như ngày không tối
Như lửa không lạnh
Người nữ ít tin
Không ái cũng vậy.
Như đất, như gió
Động tịnh khác nhau
Người nữ ân hại
Khác nhau cũng vậy.
Người chỉ một lòng
Nhiều hạnh ân luyến
Ý kia chẳng thường
Thời luôn xa lìa
Như chim quán thước
Đứng trông ao không
Lại như núi lớn
Chưa thấy ai đến
Cũng như sông lớn
Chưa ai ngược dòng.
Người nữ cũng vậy
Chưa thấy thương thật
Sinh là lưới tội
Pháp người ngăn ngại
Ví như “nhật quang”
Không lìa “nhật thể”
Như kẻ nịnh yêu
Không lìa người nữ
Lại nói lời hay
Cấp cho của cải
Mà tâm nữ kia
Như lửa khó hàng
Ý vui bình hòa
Gian nan lìa bỏ
Một niệm sinh tội
Tìm lại quên ân
Người nữ xấu ác
Khó hàng như lửa
Nên mau lìa bỏ
Trốn trong núi rừng
Cầu vui vắng lặng.
Trời, người phát ý
Mê dục sướng vui
Không sợ điều ác
Ắt tổn thọ mạng.
Sinh ở trời kia
Nhất định vô thường
Như đêm ngày mất.
Thế nên ba cõi
Đêm dài vô thường
Nhiều ngày trời lặn
Nếu cầu ra khỏi
Làm lợi ích kia
Hành ba tụ giới
Nghiệp kia báo ứng
Được sướng vui nhiều
Trời lại, tán loạn
Tâm không một niệm
Riêng tạo nghiệp lành
Vui ấy ắt hết
Ái dục không tốt
Sẽ bị khổ lớn
Mười sáu khổ khác
Không bằng một phần
Lành thay! Nghiệp lành
Tâm dục không đủ
Như người bắt cá
Tham cá cũng vậy
Dục trói buộc tâm
Như đêm dài ngủ
Mê ái liên tục
Không hiểu vô thường
Sau thấy tướng khổ
Mới biết quả kia.
Lại dục ái này
Trước như bạn hiền
Sau hành không lợi
Nếu tin dục đó
Mù mắt trí tuệ
Sau đọa địa ngục
Như rơi vực thẳm
Không hành tán loạn
Bạn lành hơn hết
Thường cứu hộ người
Là cầu bạn lành
Tán loạn là oán
Độc này rất ác
Phật nói tán loạn
Vào đường nẻo ác
Nếu mê tán loạn
Ưa thích cảnh giới
Người mê gây tội
Luôn bị khổ não
Nếu có sợ khổ
Không trí quán sát
Các bàng sinh kia
Không được sướng vui
Của hàng trời, người.
Nếu trời, người kia
Ưa thích ăn uống
Đắm say dâm dục
Tâm hạnh bàng hành
Ở nơi bàng sinh
Nếu không phân biệt
Chẳng biết đức nghiệp
Nếu biết tâm pháp
Biết nghiệp cũng vậy.
Với vui chơi này
Trụ nhà vô thường
Khi vô thường đến
Chịu quả khổ nạn.
Nếu sợ vô thường
Khởi trí tuệ lớn
Suy nghĩ chánh pháp
Ưa thích kinh điển
Là người trí chân.
Tất cả tham ái
Vô thường, oan gia
Khi sướng vui hết
Mất tất cả mạng.
Vị vô thường đó
Chỗ rất là ác
Không ai cứu được.
Chỉ nương chánh pháp
Chân thật quy y
Xét kỹ tâm sâu
Rễ của vô thường
Vốn là tán loạn.
Trước trị phan duyên
Sau trừ vô thường
Mạng vui được pháp
Nói là thứ nhất
Không tán loạn này
Thực hành đạo trời
Khéo biết khổ trói.
Giải thoát cũng vậy.
Không lìa tán loạn
Là khéo sướng vui
Đã lành chẳng lành
Như mây tan mất.
Nếu người tinh tấn
Phát sức dũng mãnh
Chống cự ma quân
Được vắng lặng ấy
An vui tốt đẹp.
Nếu người tà loạn
Không hành hạnh lành
Lành đời trước hết
Sẽ đọa địa ngục.
Nếu người một lòng
Trau dồi điều lành
Lìa các khổ não
Sẽ được phước vui.
Hàng phục các căn
Không nhiễm tội pháp.
Cảnh giới cũng vậy
Lìa mọi trói buộc
Và đường luân hồi
Như vàng ròng kia
Không dính bụi nhơ
Khỏi nạn sinh tử
Tất cả trong sạch.
Nếu hành tán loạn
Không qua sáu căn
Việc đời không sinh
Tất cả lợi ích
Đó là an vui
Đầy đủ thích thú.
Nếu trời, người kia
Thân tâm trong sạch
Không đắm nữ sắc
Như cá gặp nước
Quyết lìa bụi trần
Trí tuệ cũng vậy.
Thế nên trên trời
Xa lìa nữ sắc.
Ý nghĩ ái dục
Ắt bị trói buộc.
Mê tất cả pháp
Việc, chẳng phải việc.
Người thiếu giúp đỡ
Xa lìa Niết-bàn.
Gần kề Pháp sư
Được trí chân pháp.
Hành pháp cầu quả
Thành tựu như vậy.
Tâm luôn lìa dối
Điều phục các căn
Được đến bờ giác.
Do trí tuệ đó
Ý bị lôi kéo
Cảnh giới trói buộc
Người trí hay trừ
Vì thế gian kia
Làm thầy giảng pháp
Vườn cây trên trời
Tự tại vui chơi
Được nhiều sướng vui
Cảnh giới quá thích
Không thể bỏ đi
Tạo nghiệp lành kia
Tâm tịnh an vui
Được thế rất khó
Sinh cõi Dạ-ma
Nếu lìa tán loạn
Phan duyên giả dối
Người sinh ở trời
Số bằng câu-chi
Và bát-đô-ma
Được quả từ nghiệp.
Nếu tâm khó điều
Tạo quả nghiệp kia
Do tâm lưu chuyển
Chúng sinh mê đó
Mười hai Nhân duyên
Lần lượt luân hồi
Xưa, nay và mai
Các Thiên, nhân gian
Tất cả hữu tình
Đều do tâm tạo.
Đinh núi Tu-di
Đất bằng lưu ly
Đế Thích, Thánh hiền
Luôn trụ ở đây.
Có ngọn núi khác
Lưu ly tạo thành.
Càn-thát-bà ở
Người không thể đến.
Tất cả địa vị
Vườn rừng cây cối
Đều ở rải rác
Ý họ vui thích
Người không thể đến.
Đất vàng hơn hết
Có ao hoa sen
Tạo bởi lưu ly
Người không thể đến.
Lại có khe suối
Và các ao tắm
Bầy chim xúm xít
Tới lui đùa giỡn
Rất là đẹp lạ
Người không thể đến
Cung điện xe cộ
Trang nghiêm rất đẹp
Chư Thiên ở đấy
Người lại xa lìa.
Vì người xa lìa
Cảnh dục lừa dối
Đời khổ như vậy
Tâm không sợ hãi
Trở lại ngu si
Đi trong luân hồi
Luôn chịu các khổ
Như dây trói buộc
Như lồng nhốt chim.
Trên mỗi thứ kia
Cõi trời lạ đẹp
Mà không được sinh.
Nữ trói thế gian
Phá hoại pháp lành
Tăng trưởng sinh tử.
Nếu người tham trước
Chết vì ma quân
Giành nhau phá hoại
Tánh của tán loạn.
Mê đắm người nữ
Khi vô thường đến
Tự chịu nghiệp quả.
Núi rừng, hoa sen
Khe suối, ao tắm
Chỗ vui chơi kia
Sao thương người nữ!
Chắc chắn bị họ
Họa lớn sinh tử
Luôn tham danh lợi
Tai họa cũng vậy!
Người nữ kia trói
Tạo nhiều tham ái
Khó thể điều phục
Mà bị họa lớn
Tổn hại thế gian.
Tất cả hữu tình
Nếu bị nữ trói
Tham dục thế gian
Là lỗi hơn hết.
Một lòng suy nghĩ
Biết thật của lỗi
Lỗi dục soi xét
Không đọa nơi nào.
Tất cả người kia
Hàng tâm lìa dục
Xa lìa người nữ
Sinh trời Dạ-ma
Có ánh sáng ấy
Như trời như sao
Tùy thân chiếu diệu
Vui đi trên không
Tất cả cũng vậy
Vì ánh sáng ấy
Trời, người đầy đủ
Tất cả như vậy.

Vua trời thấy chúng này, đối với ánh sáng đó, ôm giữ lấy tướng của nó và dính mắc vào đó (chấp trước vào); thấy vậy liền dùng chữ vàng, tuyên nói văn kệ, theo đó mà tụng:

Thân trời không cấu bẩn
Thường tu hạnh trong sạch
Không làm tán loạn sinh
Được sướng vui vĩnh viễn.
Chẳng chọn khổ và vui
Già trẻ và trung niên
Họ trên và họ dưới
Không khỏi vô thường hoại
Người có chủ, không chủ
Có sức cùng không sức
Xấu xí và đoan nghiêm
Không tránh khỏi vô thường
Vương hầu và bề tôi
Tại gia cùng xuất gia
Hoặc lành hoặc chẳng lành
Không tránh khỏi vô thường
Giàu sang và nghèo khổ
Có đức và không đức
Hoặc thân nữ, thân nam
Không tránh khỏi vô thường
Đồng hoang và sông suối
Trong nước và đất liền
Chủ, khách và cầm thú
Không tránh khỏi vô thường
Người chủ và không ngủ
Ăn uống và không ăn
Tất cả ở thế gian
Không tránh khỏi vô thường
Trên đất và trên trời
Cõi này và cõi khác
Luân chuyển cũng như vậy
Không tránh khỏi vô thường
Phước nhiều và phước ít
Kiên cường và nhu hòa
Bệnh hoạn và thân an
Không tránh khỏi vô thường
Ngạ quỷ và bàng sinh
Mọi người cùng phi nhân
Không sức cũng không thể
Đâu tránh khỏi vô thường
Dục giới, cùng Sắc giới
Tất cả trời và người
Khi phước thọ tiêu hết
Không tránh khỏi vô thường
Trên đến cõi Vô sắc
Tất cả chúng chư Thiên
Trụ Tam-ma-bát-để
Không tránh khỏi vô thường.
Ba cõi tình, phi tình
Tất cả như huyễn hóa
Người xuất thế, lìa trói
Vô thường kia chẳng hại.
Biết sức vô thường này
Sinh tất cả ái dục
Rơi xuống bị luân hồi
Cứ lỗi lầm không cùng
Đắm mùi cảnh thế gian
Làm nhân sinh phiền não
Như rắn độc gây hại
Mãi chìm nơi địa ngục.
Nạn hữu tình, vô thường
Không có sức làm lành
Luân chuyển ở thế gian
Đều do nơi tâm tạo
Mê dục hành tán loạn
Ưa muốn năm cảnh trần
Ái trói buộc trời, người
Rơi xuống ở nẻo ác.
Trời, người hành tán loạn
Tham tất cả sướng vui
Lơ lửng như trôi sông
Thân đọa đều không biết.
Người tham khoái lạc kia
Mạng hiểm nơi vách núi
Thiên chúng không thể thấy
Như người mù lạc đường.
Người mê dục đắm vui
Chẳng khác gì người mù
Mê dục đọa tam đồ
Người mù sao khỏi đọa!
Vì thế nương hạnh dục
Khác gì người không mắt
Với dục không nhàm chán
Đã biết tâm mình mê
Rơi xuống, tâm chẳng lìa
Luôn tạo không lợi ích!
Nếu người hành ái dục
Không trí, không hiểu biết
Mỗi niệm dục sinh khổ
Tại sao còn hành dục!
Bị chiêu cảm quả dục
Như gặp bạn bè ác
Kéo vào cung vô thường
Thời luôn ở nẻo ác.
Người chết không sống lại
Dòng nước đi không lại
Dục lạc cũng như vậy.
Tất cả thành hư huyễn
Tất cả mạng chúng sinh
Sinh diệt như bọt nước
Tuổi trẻ không trở lại
Nhanh chóng như nước chảy
Sinh, già, vô thường, khổ
Tất cả đều diệt hết
Trời, người chẳng hiểu biết
Tâm luôn luôn tán loạn
Nếu khởi tuệ không nhơ
Ý tạo hạnh trong sạch
Đổi được thân thế gian
Chắc không vào nẻo ác
Lành chưa sinh, sẽ sinh
Đã sinh làm tăng trưởng
Tâm đã tạo điều lành
Quả của mình sẽ vậy.
Tâm lành thấy cảnh dục
Như xem đồ độc hại
Không lành đắm cảnh dục
Tâm mê, được vui thích
Các căn làm tốt xấu
Đều do nơi tâm mình
Tâm khởi gom phiền não
Để được quả tốt xấu
Người trí xét chân chánh
Quán sắc như hư không
Đoạn trừ duyên khổ tập
Quả làm sao mà có!
Đốt cháy các cảnh giới
Tất cả đều do tâm
Tâm lành được hàng phục
Như sắc, không, như nhau
Như hạt lúa gạo kia
Sắc thân, lá, đều khác
Tâm hành cũng như vậy
Sinh đủ thứ phiền não.
Lúa kia ví tâm vương
Tâm vương tạo các hành
Lúa sinh cây lá khác
Tâm thế gian cũng vậy.
Tán loạn tham sắc dục
Sắc cảnh ví mây trôi
Bỗng chốc sinh quả khổ
Tùy tướng nghiệp mà chuyển.
Nếu đã thấy khổ này
Sao trời, người thích dục?
Nếu luôn sinh ái dục
Xa lìa mọi điều lành.
Vì thế người trí tuệ
Với dục, đều lìa bỏ.
Khổ thật hằng khổ không
Khổ này tướng tự hành
Quả khổ đã vô thường
Người trí chẳng nên thích
Cảnh giới dối gạt tâm
Tâm mê không biết nghiệp
Khi trời, người rơi xuống
Nghiệp lôi kéo không biết
Dù sinh trời Dạ-ma
Tự tánh thành hư huyễn
Mắt ngu mù vô trí
Không thấy tham mạn cấu
Rơi xuống bị vô thường.

Khi ấy, Diệu Đức liền nói kệ tụng:

Mắt nhìn thấy vô thường
Tướng suy tự thiêu đốt
Dù ở trời Đâu-suất
Báo hết, như đèn tắt
Sức mạnh mười hai chi
Luân chuyển khắp pháp giới
Khi nghiệp báo lưu chuyển
Sinh diệt đều không định.