Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Thông Nghĩa

Đời Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập phụng chiếu dịch.

Đời Minh Sa môn Hám Sơn Thích Đức Thanh ở núi Nam Nhạc giảng.

Thích Viên Giác dịch

LỜI GIỚI THIỆU

Ngài Hám Sơn Thích Đức Thanh sinh ngày 5 tháng 11 năm 1546, mất năm 1623. Quê hương ngài ở Huyện Trần Tiêu thuộc Châu phủ Chúc Trừ (nay thuộc Tỉnh An Huy). Ngài vào chùa năm 12 tuổi, chính thức xuất gia năm 19 tuổi, đầu sư với Hòa thượng Tây Lâm.

Ngài là một nhân vật đặc biệt trong các Tôn túc chấn hưng Phật giáo đời Minh, từng bị đi đày vì tiếp cận với các mối tranh chấp trong Hoàng tộc. Trong thời gian bị đày, gần 18 năm, dù khó khăn ngài vẫn nỗ lực hoằng dương Phật pháp ở nơi biên cương hẻo lánh. Tác phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thông nghĩa ra đời trong hoàn cảnh ấy.

Đối với Kinh Pháp hoa ngài đã có nhân duyên từ thuở mới vào chùa. Nay với sự uyên bác về thế học và Phật học, Ngài có tầm nhìn mới mẻ, những lý giải sâu sắc về kinh Pháp hoa, mà giáo nghĩa của kinh từ trước vốn bị ảnh hưởng tư tưởng của Ngài Trí Khải. Ngài Đức Thanh lấy bốn chữ KHAI THỊ NGỘ NHẬP để triển khai toàn bộ kinh, lý giải rõ nét tư tưởng “Hội tam quy nhất” hay “Quyền tức Thật” làm cho đường hướng Kinh Pháp hoa sáng tỏ và tăng khả năng dung nhiếp hơn.

Nhân duyên của bản dịch Kinh Pháp hoa Thông nghĩa nầy là nhờ sự khích lệ, trợ duyên của Thượng Tọa Thích Thanh An, Thầy có tâm nguyện truyền bá tư tưởng Pháp hoa Thông nghĩa từ lâu nhưng chưa có điều kiện thực hiện. Trước tâm nguyện thiết tha của Thầy, tôi mạo muội và cố gắng hoàn tất dịch phẩm. Công đức của Thượng tọa rất lớn.

Bản dịch nầy được dịch từ nguyên bản Hán văn Diệu pháp Liên hoa Kinh Thông nghĩa, gồm 7 quyển. Do ngài Hám Sơn Thích Đức Thanh thuật, được xếp vào Tục Tạng chữ Vạn (Tục Tạng Vạn tự), tập 49, trang 799. Trong khi dịch có tham khảo tài liệu viết tay của Thượng tọa Thích Minh Bá do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh giảng và một số tài liệu, tự điển liên quan. Ngài Đức Thanh giảng Kinh Pháp hoa Thông nghĩa theo cách thông thường là giảng từng đoạn trong từng phẩm. Mỗi phẩm giảng có hai phần: Phần một là đại ý toàn phần, phần hai đại ý từng đoạn. Lời văn là lối văn giảng nói nên có nhiều chỗ lặp lại, những từ đệm hơi nhiều nên người đọc không kiên trì sẽ chán. Mặt khác nữa trong nguyên bản Hán văn, không in đủ nguyên văn bản Kinh Pháp Hoa mà chỉ nói: “Từ câu … đến câu …”. Vậy người đọc phải có bản Hán văn Kinh Pháp Hoa để đối chiếu, hoặc nếu bản chữ Việt thì phải có bản Kinh Pháp Hoa Việt dịch, người dịch sử dụng bản dịch của Hòa Thượng Trí Tịnh, vì lẽ bản dịch của ngài quá phổ biến, hầu như chùa nào, Phật tử nào cũng có.

Các thân hữu đề nghị in hẳn phần chánh văn để cho người đọc tiện theo dõi. Điều đó hoàn toàn chính xác. Nhưng có điều bất tiện là tác phẩm sẽ quá dày, sẽ ngán cho người đọc, hơn nữa chi phí sẽ cao.

Chúng tôi cho rằng tác phẩm này đối với quần chúng Phật tử bình thường rất khó tiếp cận, chỉ thích hợp cho những người nghiên cứu học hỏi như Tăng Ni sinh các Trường Phật Học và các nhà nghiên cứu tham khảo. Như vậy việc có bản Kinh để đối chiếu theo dõi là việc bình thường của những người quan tâm.

Với trình độ Hán văn còn non yếu, bản dịch không tránh khỏi những sơ sót hay bất cập. Kính mong Chư Tôn đức hoan hỷ chỉ giáo những lỗi lầm để dịch phẩm được hoàn chỉnh hơn.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 01- 04- 2002
Tỳ kheo Thích Viên Giác


LỜI TỰA

Xưa ngài Thiên Thai Trí Giả đại sư chuyên trì Kinh Pháp hoa đắc được Pháp hoa tam muội, thấy cảnh Đức Phật đang thuyết pháp ở Linh sơn. Ngài căn cứ vào ba pháp quán Không, Giả, Trung để giải thích Kinh Pháp hoa này, ngài chủ trương thế giới hiện tượng và bản thể đều qui về tâm thức.
Bộ Pháp hoa huyền nghĩa và các tác phẩm khác của Ngài, giải thích về Kinh Pháp hoa rất rõ ràng nhưng do văn rộng, nghĩa sâu làm cho người sơ học khó lãnh hội hết được.
Thiền sư Ôn Lăng ban đầu giải thích ý nghĩa của kinh một cách tổng quát, lấy sự tướng thuyết minh nghĩa lý, câu văn thanh nhã, ý chỉ rõ ràng. Mặt khác, ngài lấy giáo nghĩa Kinh Hoa nghiêm làm Thỉ giáo, Pháp hoa làm Chung giáo, điều đó rất đúng. Tuy nhiên vì giảng tổng quát nên chưa phát huy hết ý nghĩa toàn kinh, người đọc cũng khó mà thông suốt ý chỉ thỉ chung. Cả hai Ngài (Trí Giả và Ôn Lăng) đều lấy tám phẩm sau cùng làm phần lưu thông của bộ kinh, điều đó chưa thật thuyết phục, người đọc qua cho là không có gì đặc biệt. Vì vậy làm cho ý của Phật chưa đủ hiển lộ và chỉ của kinh chưa được rõ ràng, văn tự còn rườm rà.
Tôi (Đức Thanh) từ thuở bé đã vào giảng đường nghe kinh, có chỗ nghi ngờ nên thường chú tâm nghiên cứu. Trước đây lúc tôi bị nạn đi đày ở Lĩnh Nam. Ban đầu ngài Đạt Quán thiền sư vì tôi mà phát nguyện tụng 100 bộ Pháp hoa để cầu tiêu tội kiếp xưa. Sau trên bước đường lưu đày tôi tập hợp các đệ tử mở đạo tràng tụng niệm theo thời khóa. Đại chúng mời tôi giảng thuyết một tuần (10 ngày) bỗng nhiên có chỗ lãnh hội. Tôi lấy bốn chữ KHAI, THỊ, NGỘ, NHẬP để giảng suốt toàn Kinh Pháp hoa. Đại chúng đều rất hoan hỉ, do đó phân ra thành chương tiết, trước sau thống nhất, lấy bốn pháp TÍN, GIẢI, HẠNH, CHỨNG của Kinh Hoa nghiêm tóm thâu chặt chẻ, thỉnh ý của các nơi đều được chấp nhận. Nhưng nghĩ đến phần đại cương dù đã rõ nhờ phân phẩm mục mà ý kinh chưa giảng chi tiết, chẳng tiện cho sơ học. Vì vậy tôi lại biên soạn chi tiết để trình bày ý chỉ toàn kinh, tuy vậy vẫn còn sơ lược chưa rõ. Lấy phát minh của Tông Hoa Nghiêm về ý tưởng: Đức Như Lai xuất hiện ở đời chỉ vì một nhân duyên lớn, mà ở phẩm Phương tiện Đức Phật đã nói rất rõ. Nhưng những người được truyền đạt không hiểu nhân duyên ban đầu ấy làm cho người học Phật không khỏi trông ra biển mà than.
Nay tôi viết bộ Pháp hoa thông nghĩa này vẫn tuân theo các bộ giải thích xưa của cổ đức không dám coi thường mà tự giải thích, chỉ lấy toàn bộ kinh qui về ý nghĩa khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến, làm sáng tỏ ý chỉ Thỉ Chung của Kinh Hoa nghiêm và Pháp hoa để phù hợp bản hoài xuất thế của Như Lai. Tập hợp những dòng khác nhau để qui về nơi biển cả, chú trọng phần tôn chỉ, còn văn từ có thể lược để dễ thông suốt ý nghĩa sâu xa. Dù cách thức trình bày chẳng theo xưa, phần lý lẽ vẫn có cơ sở, mong người xem đừng vì lời người hèn mà bỏ qua thì cái tội lấn lướt của tôi mới có thể thoát được.

PHÁN GIÁO

Toàn bộ giáo pháp mà Đức Phật dạy, được các bậc cổ đức phân biệt sâu, cạn, nhiều, ít khác nhau. Ngài Hiền Thủ thì chia thành năm phần: Tiệm giáo, Thỉ giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo. Kinh Pháp hoa được liệt vào Chung giáo, còn Kinh Hoa nghiêm là Viên giáo. Ngài Thiên Thai Trí Giả thì chia thành bốn: Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Kinh Pháp hoa thì được coi là Thuần viên, còn Kinh Hoa nghiêm thì được coi là Biệt Viên, nghĩa là mang sắc thái Viên đặc biệt. Như vậy quan điểm của hai vị Đại sư tuồng như khác nhau, vì chủ trương của hai Ngài riêng biệt. Ngài Thiên Thai cho Kinh Pháp hoa là thuần Viên, vì kinh này thuần nói về thật tướng của các pháp, giống như con trâu trắng lớn thuần nhất không tạp sắc; ba thừa đều quy về một, năm loại chủng tánh đều vào được. Về lý không có gì không thông suốt, về sự không có gì là chướng ngại, cứu cánh là VIÊN. Kinh Hoa nghiêm được coi là Biệt Viên, vì lấy lấy công hạnh của bốn mươi hai vị để trình bày, nghĩa là lấy cái “Biệt” để làm sáng tỏ cái”Viên”. Nói như vậy vẫn chưa hết được cái lý viên dung, sự sự vô ngại của Hoa nghiêm. Nên nói rằng Kinh Pháp hoa là độc tôn thì không thể chấp nhận được.

Ngài Thiên Thai do ngộ Pháp Hoa tam muội, dựa vào chỗ sở đắc của mình mà khai triển đề cao để trình bày pháp thù thắng vi diệu. Trái lại Ngài Hiền Thủ thì liệt Kinh Hoa nghiêm vào Viên giáo, Pháp Hoa vào Chung giáo. Kinh Hoa Nghiêm biểu hiện báo thân Phật, dựa nơi Thật báo trang nghiêm độ tương ứng với lý tánh mà thuyết, pháp giới vẹn toàn viên dung vô ngại, tự tại pháp môn. Tất cả chánh báo, y báo, hạt bụi, sợ lông đều tương ứng với pháp giới tánh. Tuy nói nghĩa lý các ngôi vị, nhưng trình bày nhân quả xuyên suốt không chướng ngại, cho nên gọi là Viên. Còn Pháp hoa gọi là Chung. Vì kinh này do hóa thân Phật nói ra ở cõi phương tiện thánh cư địa, dẫn dắt hàng Tam thừa quy về Nhất thừa. Điều đó nghĩa là Như Lai vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời là muốn làm cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến. Phật tri kiến chính là nhất chân pháp giới, Như lai tạng tâm. Đức Xá Na chứng đắc pháp ấy gọi là Pháp giới hải hội phổ quang minh trí, còn gọi là nhất thừa thường trụ chơn tâm.
Lúc mới thành chánh giác nơi Bồ đề đạo tràng, Đức Phật biểu hiện chơn tâm này mà thuyết Hoa Nghiêm, trình bày lý pháp giới viên dung vô ngại, dành riêng cho hàng căn cơ lớn, còn hàng tiểu căn ngồi đó mà như đui như điếc. Vì vậy đối tượng giáo hóa không được rộng rãi, nghĩa là một cánh cửa hẹp, chưa nói hết bản Hoài của Phật. Cho nên, ngài xem cây kinh hành, trong 21 ngày tư duy, Đức Thế Tôn đem pháp Nhất thừa chia làm ba. Ngài thị hiện tâm đồng thể đại bi, không rời khỏi chỗ ngồi mà biến hiện khắp mười phương, dùng ứng hóa thân thị hiện từ trời Đâu Suất xuống Hoàng cung, hiện tám tướng thành đạo. Ở tại vườn Lộc Uyển thuyết pháp Tứ đế độ mọi chúng sinh. Các vị Thanh văn tuy chứng Niết bàn, nhưng đối với tri kiến Nhất thừa không thể dự phần. Do vậy Đức Phật phải mất 40 năm lập phương tiện quyền xảo ra sức chỉ dạy, đào thải. Đến hội Pháp hoa thì tâm trí đại chúng mới tinh thuần, tin vào Phật tâm, tin vào sự thành Phật của mình. Vì vậy tất cả mọi người đều được thọ ký, và như vậy mới thành tựu bản Hoài xuất thế của Đức Phật. Đây là nhân duyên lợi lạc quần sinh sắp chấm dứt nên gọi là Chung giáo. Đứng về phương diện giáo hóa đã xong mà gọi là Chung, do Chung mà cũng gọi là Viên, do đem mọi nhân quả và cứu cánh nhiếp vào sự viên mãn của biển tâm, không an trụ ở sự viên mãn ấy. Kinh Hoa nghiêm là Đốn viên như mặt trời mới mọc, trước hết chiếu trên đỉnh cao của ngọn núi, còn kinh Pháp Hoa này là Tiệm Viên như hợp tất cả những dòng chảy khác nhau cùng về biển cả. Trường hợp Long nữ thành Phật cũng gọi là Đốn viên. Luận Trí Độ thuyết minh về đường hướng của hai kinh rõ ràng như ánh sáng mặt trời, xin xem phẩm Phương tiện có thể thấy bản Hoài xuất thế của Như Lai.
Trong kinh Pháp Hoa thí dụ ông Trưởng giả oai đức số một, là chỉ cho báo thân của Phật; nhà của Trưởng giả là Nhất chân pháp giới. Sự giàu có của ông là vô lượng trang nghiêm của Hoa tạng thế giới; xe trâu trắng lớn là dụ cho Nhất thừa nhân quả. Thẳng đến nơi Bảo sở là chỗ pháp giới thanh tịnh, còn gọi là Diệu Trang Nghiêm hãi. Mọi thi thiết đều đưa về pháp giới, mọi hiển lộ hiện tướng có chỗ nào mà không rõ ràng? Cho nên cổ đức cho rằng Hoa nghiêm là “căn bản pháp luân”, Kinh Pháp hoa này là “nhiếp mạt quy bản pháp luân”. Nội dung giáo pháp không ra ngoài Lý, Hạnh, Nhân, Quả lấy lý và hạnh làm nhân, chứng nhập làm quả. Tôi cho rằng bốn mươi năm trước là thuyết pháp dẫn dụ, đến hội Lăng Già nói về thánh trí tự giác, thức tạng tức Như Lai tạng, làm hiển lộ lý tính viên mãn và sự vi diệu của tâm. Như kinh nói” Đại thừa của ta là vô thừa”, là đã có ý khai quyền hiển thật (mở cái tạm để thấy cái thật). Đến hội Pháp hoa thuần nói về thật tướng, một sắc một hương đều quy về trung đạo, trình bày công hạnh đã tròn đủ và cảnh giới vi diệu. Lý hạnh đã tròn, tâm cảnh đều diệu thì Tri kiến Phật ở đây mà thôi. Bản Hoài của Phật không có gì khác hơn. Chúng sinh căn cơ ba thừa đều khai mở tri kiến này nên được thọ ký, đều nhập Niết bàn, do vậy gọi là Chung, dẫn chúng sinh quy về pháp giới mới là rốt ráo.
Ngài Hiền Thủ đứng về phương diện giáo hóa mà ấn định Pháp Hoa làm Chung giáo thì rất hợp lý. Ngài Ôn Lăng đứng về phương diện trước sau (thỉ chung) mà phân biệt Hoa Nghiêm là trước và Pháp Hoa là sau (chung), suy cho cùng cũng có lý, tuy vậy chưa phát huy hết ý nghĩa. Xem kỹ ý chỉ của kinh, dung hội nghĩa lý phù hợp Phật tâm thì liễu thông toàn kinh.

GIẢI THÍCH ĐỀ KINH

Đề kinh gọi là Diệu pháp Liên hoa, là chỉ cho Nhất chân pháp giới, Như Lai tạng tâm, do vậy mà lập danh. Luận Khởi Tín nói: điều gọi là Pháp chính là tâm chúng sinh, tâm này bao trùm các pháp thế gian và xuất thế gian, tâm này là toàn thể pháp giới, phàm thánh, nhiễm tịnh, nhân quả đều bao trùm trong tâm ấy. Tâm ấy ở nơi Thánh không tăng, nơi phàm không giảm, ở nơi ô nhiễm không dơ mà xuất trần chẳng sạch. Do đó mà đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai chứng đắc cùng tột tâm này, tâm cảnh nhất như, phàm thánh bình đẳng. Tâm ấy chúng sanh vốn đầy đủ, nên Phật từng dạy rằng: Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng điên đảo chấp trước mà chẳng chứng được. Chư Phật do ngộ tâm này mà gọi là Phổ quang minh trí, còn gọi là Phật tri kiến. Chúng sanh mê muội tâm ấy thành vô minh nghiệp thức, là cội gốc sanh tử. Một khi thấy được tâm này thì tâm này là Phật, đây là sự vi diệu của tâm. Hoa tạng thế giới, y báo chánh báo trang nghiêm, trùng trùng vô tận, vi diệu viên dung, hạt bụi, sợi lông, cỏ rác.v.v… đều do nơi tâm này mà lập, thật tướng vô tướng là vi diệu của cảnh. Tâm cảnh chẳng hai, thuần túy nhất tâm nên gọi là Diệu pháp.

Tuy nhiên diệu pháp này đối với chúng sanh mê muội thì gọi là Tạng thức, chư Phật giác ngộ thì gọi là Như Lai tạng. Dựa vào tâm nhất như này mà kiến lập pháp giới thì gọi là Liên hoa tạng. Pháp này chân vọng xuyên suốt, nhiễm tịnh dung thông, nhân quả đồng thời, thỉ chung một lối. Do đó, về mặt dụ thì lấy biểu tượng hoa sen, về mặt pháp thì chỉ thẳng bản thể của tâm. Tâm này ở nơi Phật gọi là Phổ quang minh trí, còn gọi là thật trí, hay Nhất thiết chủng trí hoặc gọi Tự giác thánh trí nên gọi là Phật tri kiến. Tâm nầy ở nơi chúng sanh thì làm căn bản vô minh, chúng sinh vốn có tuệ giác của Phật nhưng do vô minh che lấp nên không biết. Chư Phật ra đời vì chúng sanh mà tuyên bố tâm này để làm cho họ tự mình thấy mà ngộ nhập. Cho nên mới nói chư Phật Như Lai chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời, đó là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, làm cho chúng sanh đều đạt thanh tịnh. Chỉ lấy việc này làm việc chính, ngoài ra không có việc gì khác. Đây là bản Hoài xuất thế của Như Lai. Thật quả tâm này thật khó ngộ vậy.
Đức Xá Na Như Lai, ban đầu mới thành chánh giác nơi Bồ đề đạo tràng liền khai thị tâm này, nói Kinh Đại Hoa Nghiêm, gọi là Kinh Phổ chiếu pháp giới, còn gọi là Nhất thừa. Chỉ có hàng chúng sinh căn cơ lớn thấy nghe được lợi ích, còn hàng hạ căn liệt tuệ, thân tuy ngồi trên tòa mà như mù như điếc. Do vậy Đức Phật khởi lòng đại bi, quán thọ kinh hành, đem pháp giới nhất thừa phân biệt nói thành ba. Ngài hóa hiện ứng thân cùng một lúc cả hai tướng (một là Bồ đề đạo tràng nói kinh Hoa Nghiêm, một là vườn Lộc Giã thuyết pháp).
Ở nơi vườn Lộc dã thuyết pháp Tứ đế cho hàng Thanh văn nghe. Bản Hoài của Phật chủ yếu là khai thị Phật tri kiến, nhưng vì chúng sanh căn cơ chậm lụt nên từ khi thuyết pháp tại Lộc Giã trở đi đã trải qua bốn mươi năm, Đức Phật vất vả thiết lập các phương tiện khác nhau, vậy mà căn cơ số đông vẫn chưa khai ngộ, đến khi bị Phật quở trách mới có lòng tin Phật. Cho đến hội Pháp hoa, Phật thấy căn cơ chúng sanh đã thuần thục tin chắc tâm này, tức thì thọ ký cho mọi người đều được thành Phật. Điều đó gọi là biết tất cả pháp là tự tánh của tâm. Thành tựu trí tuệ này không phải nhờ người khác mà giác ngộ được. Đến đây bản Hoài xuất thế của Đức Thích Ca mới toại chí. Do vậy ngài tận tình thổ lộ điều khổ tâm bức xúc đã qua để hiểu công việc độ sanh. Trụ thế chẳng bao lâu Ngài nhập Niết bàn, gọi là chấm dứt dấu vết hóa hiện. Như ông Trưởng giả sắp chết giao phó gia nghiệp cho con. Nên biết kinh này như là chúc thư giao phó gia nghiệp làm lưu thông giáo pháp một đời.
Vì một mực không nói nên gọi là hộ niệm, ngày nay mới nói nên gọi là phó chúc. Sự việc bao quát cả quá khứ đã qua nên ý nghĩa nằm ngoài ngôn từ. Nếu cẩu thả không quán chiếu pháp giới, khế hợp Phật tâm mà cứ khư khư chấp nơi văn tự mà tìm cầu thì mờ mịt không chỗ đi về.
Hiểu rõ đề kinh này tức hiểu ý chỉ toàn kinh hơn phân nửa rồi vậy.

ĐỜI DIÊU TẦN NGÀI TAM TẠNG PHÁP SƯ
CƯU MA LA THẬP PHỤNG CHIẾU DỊCH

Diêu Tần thuộc đời Đông Tấn thời loạn Ngũ hồ ở Trung Hoa, có hiệu là Diêu Hưng. Tần chúa là Phù Kiên gặp ngài Đạo An Pháp sư liền tôn Đạo An là thánh nhân. Ngài Đạo An nói: Bần đạo không phải là thánh, nghe nói bên Tây Vức, nước Quy Tư có Ngài Cưu Ma La Thập, đó mới là thánh nhân. Nếu đàn việt (vua) muốn gặp có thể mời về. Lúc đó Phù Kiên đem thiết giáp bảy vạn, sai Lữ Quang làm tướng chinh phạt nước Quy Tư để bắt La Thập. Đến khi vây thành Quy Tư, vua Quy Tư nói: Nước ta và Trung Quốc cách nhau xa xôi vốn không có bang giao vì sao đánh chúng tôi? Lữ Quang nói: Vua nước đại Tần nghe nói nước ông có thánh nhân là Cưu Ma La Thập muốn rước về để cúng dường chứ không phải vua muốn lấy đất đai. Bấy giờ Ngài La Thập mới 20 tuổi, là cháu của vua Quy Tư, trí tuệ phi thường đã vì vua mà giảng kinh Bát Nhã. Vua Quy Tư nói với Lữ Quang: La Thập là quốc bảo của nước ta đâu có thể xem thường mà theo mệnh lệnh của ông được. Thành bị bao vây đã lâu mà vua vẫn không cho La Thập. La Thập xin vua rằng: Do vì bần đạo mà làm khổ nhân dân,đó không phải là đạo của từ bi, xin để tôi đi xong lại trở về ngay. Bất đắc dĩ vua phải cho đi. Lữ Quang đón Ngài La Thập qua ải thì nghe tin Phù Kiên đã qua đời. Diêu Trành lên ngôi, Lữ Quang liền chiếm Kinh Châu tự làm vua, lấy hiệu nước là Đại Lương. Chưa bao lâu Lữ Quang mất, con là Lữ Thiệu lên kế vị bị Thái nguyên Công là Lữ Soán làm hại. Lữ Soán lên ngôi lại bị Lữ Siêu truất phế, lập Lữ Long lên. La Thập bị giam tù. Diêu Hưng, niên hiệu hoằng Thỉ năm thứ 3 đem binh đánh Lữ Long, Lữ Long đầu hàng. Diêu Hưng mới rước La Thập vào Trường An. Vua Tần bái làm thầy.
Khi ngài La Thập còn ở Trường An bị Thiệu làm nhục, có những việc không thể nói bằng lời. La Thập đều nhẫn nhục chịu đựng. Đến khi gặp được Tần chúa, ban đầu được kính trọng, sau đó có Phạm Sư bên Tây Vức qua, thọ trì pháp thiền của Kinh Ba la mật. Sư cùng với La Thập tâm ý tương đắc. Diêu Hưng muốn giữ Phạm Sư ở lại nhưng Phạm Sư không ở mà bỏ đi. Diêu Hưng nổi giận ngầm sai người giết ở ngoài biên ải. Vua Tần nghi La Thập có ý bỏ đi nên sai cung nữ ăn ở với La Thập, lý do là để nối dòng giống Phật, nhưng mục đích là giữ La Thập. La Thập biết ý đồ của vua, vì tình sâu nặng đối với Phật pháp, Ngài chấp nhận cung nữ để hóa giải nghi ngờ của nhà vua.
Lúc dịch kinh này, ban đầu ở nơi thảo đường, chính là lúc đang lâm nguy ấy. Ngài vì lấy Phật pháp làm trọng nên mới thoát khỏi tỵ hiềm, thành tựu được duyên pháp này. Từ đó ta mới thấy được người xưa vì Phật pháp luôn quên thân mình, phải trải qua nhiều nỗi gian nan.
Sau khi ngài La Thập mất, trước tháp mọc lên hoa sen xanh. Vua Diêu Hưng mở tháp ra xem thì thấy cuống hoa mọc từ lưỡi của Ngài. Nếu không phải là thánh nhân thị hiện thì làm gì có việc này được! Ban đầu Ngài Tăng Triệu cùng ở nơi đạo tràng dịch kinh được Tần chúa kính trọng. Không bao lâu, sau khi ngài La Thập viên tịch thì Tăng Triệu cũng bị hãm hại, buồn thay!
Kinh này có 28 phẩm, đại khái chia làm 3 phần: Trước hết phần tựa có một phẩm, trình bày nguyên do thuyết pháp. Phần chánh tông có 27 phẩm, dùng bốn chữ khai, thị, ngộ, nhập làm cơ sở trình bày. Từ phẩm Phương tiện đến phẩm Pháp sư có 9 phẩm để Khai Phật tri kiến. Phẩm Kiến bảo tháp là hiển lộ Phật tri kiến; từ phẩm Đề bà đạt đa đến phẩm Chúc lụy có 11 phẩm biểu hiện cho Ngộ Phật tri kiến. Từ phẩm Dược vương bổn sự đến phẩm Phổ Hiền khuyến phát có 6 phẩm là Nhập Phật tri kiến. Khai Thị Ngộ là Tín giải, nhập là hạnh chứng. Phẩm cuối cùng chỉ vài câu làm phần lưu thông là hết vậy.