KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 
Dịch Phạn ra Hán: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Dịch Hán ra Việt: Tỳ Kheo Thích Minh Định

 

QUYỂN 5

Phẩm An Lạc Hạnh thứ Mười Bốn

Bấy giờ, đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Các vị Bồ Tát đó rất khó có được, vì kính thuận lời Phật dạy, mà phát thệ nguyện lớn, ở trong đời ác hộ trì đọc tụng diễn nói Kinh Pháp Hoa này.

Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát làm thế nào để diễn nói được kinh này? Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Nếu đại Bồ Tát ở trong đời ác trược, muốn nói kinh này, thì phải an trụ vào bốn pháp. Một là an trụ vào nơi thực hành, và nơi gần gũi của Bồ Tát, thì có thể vì chúng sinh diễn nói kinh này.

Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là nơi đại Bồ Tát thực hành? Nếu đại Bồ Tát trụ ở sức nhẫn nhục, nhu hòa, khéo thuận chẳng thô bạo, tâm cũng chẳng kinh sợ. Hơn nữa, nơi các pháp vô sở hành, mà quán các pháp như thật tướng, cũng chẳng hành, chẳng phân biệt. Đó gọi là nơi Bồ Tát thực hành. Thế nào gọi là nơi đại Bồ Tát gần gũi? Đại Bồ Tát chẳng gần gũi nhà vua, thái tử, đại thần, quan lớn. Chẳng gần gũi với các ngoại đạo, phạm chí, ni kiền tử, và viết sách vở thế tục, đọc ngâm nga sách ngoại đạo, cùng lộ già gia đà, nghịch lộ già gia đà, cũng chẳng gần gũi những kẻ hung ác, giễu cợt, đánh đập lẫn nhau, và na la thảy, các thứ kịch biến hiện. Lại chẳng gần gũi hạng chiên đà la, và kẻ nuôi heo dê gà chó, săn bắn chài lưới, các luật nghi ác. Những người như thế, hoặc khi họ đến, thì vì họ nói pháp, đừng mong cầu gì cả.

Lại nữa, đừng gần gũi với những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, cầu quả vị Thanh Văn, cũng chẳng thăm hỏi. Nếu ở trong phòng, hoặc đi kinh hành, hoặc ở trong giảng đường, thì không nên ở chung với họ. Nếu họ đến, thì tùy nghi nói pháp, đừng mong cầu gì cả.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát đối với người nữ, chẳng sinh ý niệm dâm dục, mà vì họ nói pháp, cũng đừng thích thấy. Nếu vào nhà người, thì chẳng nên nói chuyện cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa, cũng đừng gần gũi với năm hạng người bất nam để kết thân giao. Không nên một mình vào nhà người. Nếu có nhân duyên phải một mình vào, thì phải một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp, thì không được hở răng cười, chẳng để ngực hở hang, cho đến vì pháp còn chẳng gần gũi, hà huống là việc khác.
Không nên thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi, Sa di nhỏ bé, cũng không nên cùng thầy. Thường nên ngồi thiền, ở nơi chỗ vắng nên tu nhiếp tâm mình lại. Văn Thù Sư Lợi! Đó gọi là chỗ gần gũi ban đầu.

Lại nữa, đại Bồ Tát quán tất cả các pháp không như thật tướng, không điên đảo, không lay động, không thối lùi, không chuyển, như hư không, chẳng có tự tánh. Tất cả ngôn ngữ đạo đoạn, không sanh, không xuất ly, không khởi, không tên, không tướng, thảy đều không, không lượng, không bờ, không ngại, không chướng, chỉ nhờ nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh ra, cho nên nói: Thường thích quán pháp tướng như thế, đó gọi là chỗ gần gũi thứ hai của đại Bồ Tát.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu có Bồ Tát
Ở đời ác sau
Tâm chẳng sợ hãi
Muốn nói kinh này.
Nên vào hành xứ
Và thân cận xứ.
Thường lìa quốc vương
Và các vương tử.
Đại thần quan lớn
Kẻ ác chế giễu
Và chiên đà la
Ngoại đạo phạm chí.
Cũng chẳng gần gũi
Kẻ tăng thượng mạn
Tham trước tiểu thừa
Người học tam tạng.
Tỳ Kheo phá giới
Xưng là La Hán
Và Tỳ Kheo ni
Kẻ thích giỡn cười.
Chấp sâu năm dục
Cầu được diệt độ
Các cư sĩ nữ
Đều chớ gần gũi.
Nếu những người đó
Dùng tâm cầu đạo
Đến chỗ Bồ Tát
Vì nghe Phật đạo.
Bồ Tát bèn dùng
Tâm không sợ hãi
Chẳng mong cầu gì
Vì họ nói pháp.
Gái góa gái trinh
Và người bất nam
Đều chớ gần gũi
Để kết thân giao.
Cũng đừng gần gũi
Đồ tể hàng thịt
Thợ săn chài lưới
Vì lợi giết hại
Bán thịt tự sống
Hoặc buôn gái đẹp
Những người như thế
Chớ nên gần gũi.
Hung ác đánh nhau
Đủ thứ đùa giỡn
Các dâm nữ thảy
Đều chớ gần gũi.
Đừng ở chỗ vắng
Vì nữ nói pháp
Nếu khi nói pháp
Không được giỡn cười.
Vào xóm khất thực
Dắt một Tỳ Kheo
Nếu không Tỳ Kheo
Một lòng niệm Phật.
Đó tức gọi là:
Hành xứ, cận xứ
Dùng hai nơi này
An vui nói pháp.
Lại nữa chẳng tu
Pháp thượng trung hạ
Hữu vi vô vi
Pháp thật chẳng thật.
Cũng chẳng phân biệt
Người nam người nữ
Chẳng đắc các pháp
Chẳng biết chẳng thấy.
Tức đó gọi là:
Chỗ Bồ Tát tu
Tất cả các pháp
Hết thảy đều không.
Chẳng có thường trụ
Cũng chẳng khởi diệt
Đó gọi bậc trí
Chỗ nên gần gũi.
Điên đảo phân biệt
Các pháp có không
Là thật chẳng thật
Là sinh chẳng sinh.
Ở nơi chỗ vắng
Tu nhiếp tâm mình
An trụ chẳng động
Như núi Tu Di.
Quán tất cả pháp
Hết thảy đều không
Giống như hư không
Nên chẳng kiên cố.
Không sinh không xuất
Không động không lùi
Thường trụ một tướng
Đó gọi cận xứ.
Nếu có Tỳ Kheo
Sau ta diệt độ
Vào hành xứ này
Khi nói kinh này.
Chẳng có sợ hãi
Bồ Tát có khi
Vào nơi yên tĩnh
Nhớ nghĩ chân chánh.
Theo nghĩa quán pháp
Từ thiền định dậy
Vì các quốc vương
Vương tử thần dân.
Bà la môn thảy
Khai thị diễn nói
Kinh Pháp Hoa này
Trong tâm an ổn.
Chẳng có sợ hãi
Văn Thù Sư Lợi!
Đó gọi Bồ Tát
An trụ sơ pháp.
Hay ở đời sau
Nói Kinh Pháp Hoa.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, muốn nói kinh này, thì nên trụ vào an lạc hạnh. Nếu miệng diễn nói, hoặc đọc tụng kinh này, thì đừng nên nói lỗi của người, và lỗi của kinh điển, cũng đừng khinh mạn các pháp sư khác, đừng nói tốt xấu thị phi của kẻ khác, đối với hàng Thanh Văn cũng đừng gọi tên của họ, nói lỗi lầm của họ, cũng đừng gọi tên khen ngợi tốt, cũng đừng sinh tâm oán hận, vì khéo tu tâm an lạc như thế. Các người đến nghe pháp chẳng nghịch ý của họ. Nếu họ có vấn nạn, thì đừng dùng pháp tiểu thừa mà đáp, chỉ dùng pháp đại thừa để giải thích, khiến cho họ đắc được Nhất thiết chủng trí.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Bồ Tát thường thích
An ổn nói pháp
Ở chỗ thanh tịnh
Mà thí giường tòa.
Dùng dầu thoa thân
Tắm rửa bụi bặm
Mặc y mới sạch
Trong ngoài đều sạch.
Ngồi yên pháp tòa
Tùy hỏi mà nói
Nếu có Tỳ Kheo
Và Tỳ Kheo ni.
Các cư sĩ nam
Và cư sĩ nữ
Quốc vương vương tử
Quần thần sĩ dân.
Dùng nghĩa vi diệu
Vui vẻ mà nói
Nếu có vấn nạn
Theo nghĩa mà đáp.
Nhân duyên ví dụ
Phân biệt diễn nói
Nhờ phương tiện đó
Khiến họ phát tâm.
Dần dần tăng ích
Vào trong Phật đạo
Trừ tâm lười biếng
Và tưởng giải đãi.
Lìa các ưu não
Từ tâm nói pháp.
Ngày đêm thường nói
Đạo lý vô thượng.
Dùng các nhân duyên
Vô lượng ví dụ
Khai thị chúng sinh
Khiến cho hoan hỉ.
Y phục ngọa cụ
Ẩm thực thuốc thang
Hết thảy các thứ
Chẳng mong cầu gì.
Chỉ một lòng nhớ
Nhân duyên nói pháp
Nguyện thành Phật đạo
Khiến họ cũng thế.
Đó là lợi lớn
An vui cúng dường.
Sau ta diệt độ
Nếu có Tỳ Kheo.
Thường hay diễn nói
Kinh Pháp Hoa này
Tâm chẳng sân hận
Các não chướng ngại.
Cũng chẳng sầu lo
Và người chưởi mắng
Lại chẳng sợ hãi
Thêm đao gậy thảy.
Cũng chẳng đuổi ra
Vì nhờ nhẫn nhục
Bậc trí như thế
Khéo tu tâm mình.
Thường trụ an lạc
Như ta nói trên
Công đức người đó
Ngàn vạn ức kiếp.
Toán số ví dụ
Nói chẳng hết được.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát, ở đời mạc pháp sau này, khi pháp muốn diệt, thì người thọ trì đọc tụng kinh này, đừng ôm lòng đố kị xiểm nịnh, cũng đừng khinh khi mắng chưởi người học Phật đạo, đừng nói thị phi. Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, người cầu Thanh Văn, người cầu Bích Chi Phật, người cầu Bồ Tát đạo, đừng làm cho họ sinh phiền não, khiến cho họ nghi ngờ, nói với họ rằng: Các ngươi cách đạo rất xa, không khi nào đắc được Nhất thiết chủng trí. Tại sao? Vì các ngươi là những người phóng dật, tu đạo thì giải đãi, lại cũng không nên hí luận các pháp, có sự tranh luận. Nên khởi tâm đại bi đối với tất cả chúng sinh, với các Đức Như Lai khởi nghĩ như Đại sư, với các vị đại Bồ Tát trong mười phương, luôn thành tâm cung kính lễ lạy. Đối với tất cả chúng sinh, nên bình đẳng mà nói pháp, bởi do thuận pháp, không nên nói nhiều, không nên nói ít, cho đến người ái mến pháp thâm sâu, cũng không vì họ mà nói nhiều.

Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát đó, ở đời mạt pháp sau này, lúc pháp sắp diệt, người thành tựu an lạc hạnh thứ ba, khi nói kinh này, thì không ai có thể não loạn, được người đồng học tốt, cùng nhau đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng đến nghe nhận, nghe rồi hay trì, trì rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi thì sẽ biên chép, hoặc khiến cho người biên chép cúng dường kinh quyển, cung kính tôn trọng khen ngợi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu muốn nói kinh này
Nên bỏ đố sân mạn
Tâm xiểm nịnh tà ngụy
Thường tu hạnh chất trực.
Chẳng khinh khi kẻ khác
Cũng chẳng hí luận pháp
Chẳng khiến họ nghi ngờ
Rằng ông không thành Phật.
Bồ Tát đó nói pháp
Thường nhu hòa nhẫn nhục
Từ bi với tất cả
Chẳng sinh tâm giải đãi.
Mười phương đại Bồ Tát
Thương chúng nên hành đạo
Nên sinh tâm cung kính
Đó là thầy của ta.
Với chư Phật Thế Tôn
Nghĩ là cha vô thượng
Phá được tâm kiêu mạn
Nói pháp chẳng chướng ngại.
Pháp thứ ba như thế
Bậc trí nên một lòng
Thủ hộ an lạc hạnh
Vô lượng chúng cung kính.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát vào đời sau này, khi pháp sắp diệt, có người nào trì Kinh Pháp Hoa này, đối với người tại gia, hoặc xuất gia, đều nên sinh tâm đại bi, đối với những người chẳng phải Bồ Tát, cũng nên sinh tâm đại bi, nên nghĩ như vầy: Người như thế tổn thất rất lớn, đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp, mà chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu. Người đó tuy chẳng hỏi chẳng tin chẳng hiểu kinh này, khi ta được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bất cứ ở đâu, ta cũng dùng thần thông và trí huệ dẫn dắt họ, khiến cho họ được trụ ở trong pháp này.

Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát đó, sau khi Như Lai diệt độ, có ai thành tựu pháp thứ tư này, khi nói pháp này, thì chẳng có lỗi lầm, thường được Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà la môn, cư sĩ thảy, cung kính cúng đường, tôn trọng khen ngợi. Chư thiên vì nghe pháp, nên cũng thường theo hầu vị Bồ Tát đó. Nếu ở trong xóm làng, thành ấp, rừng vắng, có người đến muốn vấn nạn, thì chư Thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ, khiến cho người nghe đều được hoan hỉ. Tại sao? Vì kinh này nhờ thần lực của tất cả chư Phật, quá khứ hiện tại vị lai ủng hộ vậy.

Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này, ở trong vô lượng cõi nước, cho đến tên kinh còn không thể nghe được, hà huống là được thấy thọ trì đọc tụng.

Văn Thù Sư Lợi! Ví như chuyển luân thánh vương có sức mạnh, muốn dùng uy thế để hàng phục các nước, song các ông vua nhỏ chẳng thuận theo mệnh lệnh. Vua chuyển luân bèn đem các thứ binh đi chinh phục. Vua thấy binh chúng ai chiến đấu có công thì rất hoan hỉ, tùy theo công lao mà ban thưởng, hoặc ban cho ruộng đất, nhà cửa, xóm làng, thành ấp, hoặc ban cho quần áo, đồ nghiêm thân, hoặc ban cho các thứ châu báu, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi ngựa xe cộ, nô tì nhân dân. Chỉ có hạt minh châu trong búi tóc là không cho thôi. Tại sao? Vì chỉ có trên đỉnh của vua mới có hạt minh châu này. Nếu lấy đem cho, thì các quyến thuộc của vua rất kinh ngạc.

Văn Thù Sư Lợi! Như Lai cũng lại như thế, nhờ sức thiền định trí huệ, mà được cõi nước pháp, là vua trong ba cõi, mà các ma vương chẳng chịu thuận phục. Các hiền Thánh của Như Lai cùng chiến đấu với ma, ai có công thì tâm cũng hoan hỉ. Phật cũng hoan hỉ vì bốn chúng mà nói các kinh, khiến cho họ được vui mừng, ban cho thiền định giải thoát, căn lực vô lậu các pháp tài, còn ban cho thành Niết Bàn, nói được diệt độ, dẫn đạo tâm ý, khiến cho chúng sinh đều hoan hỉ, mà chẳng vì họ nói Kinh Pháp Hoa này.

Văn Thù Sư Lợi! Như vua chuyển luân thấy các binh chúng, ai có công lớn thì tâm rất hoan hỉ, bèn đem hạt châu khó tin này, từ lâu để trong búi tóc chẳng tùy tiện cho người, mà nay đem cho. Như lai cũng lại như thế, là đại Pháp vương ở trong ba cõi, đem pháp giáo hóa tất cả chúng sinh, thấy quân hiền Thánh với ma năm ấm, ma phiền não, ma chết, đánh nhau. Có công lao lớn diệt trừ ba độc, ra khỏi ba cõi, phá tan lưới ma. Bấy giờ, Như Lai cũng rất hoan hỉ, Kinh Pháp Hoa này, hay khiến cho chúng sinh đến nhất thiết trí. Tất cả thế gian nhiều oán khó tin kinh này, trước kia chưa từng nói, mà nay nói ra.

Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này, là lời nói bậc nhất của các Đức Như Lai. Ở trong các kinh, thì kinh này là thâm sâu nhất, chưa từng ban cho. Như vua chuyển luân sức mạnh kia, từ lâu giữ hạt minh châu, nay mới đem ra cho.

Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này, là tạng bí mật của chư Phật Như Lai. Ở trong các kinh, thì kinh này là trên hơn hết, giữ gìn từ lâu chưa hề tuyên nói, cho đến hôm nay, mới nói ra cho các ông nghe.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Thường thật hành nhẫn nhục
Thương xót hết tất cả
Mới nên nói kinh này
Kinh này được Phật khen.
Ai trì tụng kinh này
Đối với tại, xuất gia
Và chẳng phải Bồ Tát
Nên sinh lòng từ bi.
Những người nào chẳng nghe
Cũng chẳng tin kinh này
Tức tổn thất rất lớn
Khi ta được Phật đạo.
Sẽ dùng các phương tiện
Vì họ nói pháp này
Khiến họ trụ pháp này.
Ví như vua chuyển luân
Có sức lực mạnh mẽ
Thấy lính đánh có công
Ban thưởng các báu vật.
Voi ngựa các xe cộ
Và đồ dùng nghiêm thân
Cùng đất đai nhà cửa
Xóm làng và thành ấp.
Hoặc ban cho y phục
Đủ thứ đồ quý báu
Nô tì và của cải
Đều hoan hỉ ban cho.
Như có tướng tài giỏi
Làm được các việc khó
Vua lấy hạt minh châu
Trong búi tóc đem tặng.
Như Lai cũng như thế
Là vua của các pháp
Có sức nhẫn nhục lớn
Và bảo tạng trí huệ.
Dùng sức đại từ bi
Theo pháp giáo hóa đời
Thấy tất cả mọi người
Chịu các sự khổ não.
Muốn cầu được giải thoát
Chiến đấu với lũ ma
Vì những chúng sinh đó
Nói ra đủ thứ pháp.
Dùng sức đại phương tiện
Diễn nói các kinh này
Khi đã biết chúng sinh
Đắc được các lực rồi.
Cuối cùng mới vì nói
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Như vua mở búi tóc
Ban tặng hạt minh châu.
Kinh này rất tôn quí
Trên hết trong các kinh
Ta thường luôn giữ gìn
Chẳng tùy tiện nói ra.
Nay đúng là phải thời
Vì các ông mà nói.
Sau khi ta diệt độ
Ai mong cầu Phật đạo.
Muốn được sự an ổn
Nên diễn nói kinh này
Và phải nên gần gũi
Bốn pháp như đã nói.
Ai đọc tụng kinh này
Thường chẳng có ưu não
Nhan sắc rất tươi thắm
Chẳng sinh nhà bần cùng.
Chẳng làm kẻ nô tì
Chúng sinh đều ưa thấy
Như kính mộ hiền Thánh
Chư thiên các đồng tử.
Cũng nghe sự sai khiến
Đao gậy chẳng hại được
Độc cũng không thể hại
Nếu người ác mắng chưởi.
Thì miệng chẳng mở đặng
Du hành chẳng sợ sệt
Như loài sư tử chúa
Trí huệ quang chiếu sáng
Như mặt trời chiếu khắp.
Nếu như ở trong mộng
Chỉ thấy những việc tốt
Thấy các Đức Như Lai
Ngồi trên tòa sư tử.
Các đại chúng Tỳ Kheo
Vây quanh diễn nói pháp
Lại thấy các rồng thần
Và A tu la thảy.
Nhiều như cát sông Hằng
Đều cung kính chắp tay
Tự thấy chính thân mình
Vì chúng sinh nói pháp.
Lại thấy các đức Phật
Thân tướng sắc vàng tía
Phóng vô lượng quang minh
Chiếu khắp hết tất cả.
Dùng phạm âm thanh tịnh
Diễn nói thảy các pháp
Phật lại vì bốn chúng
Nói diệu pháp vô lượng.
Thảy đều thấy thân mình
Chắp tay khen ngợi Phật
Nghe pháp đều hoan hỉ
Mà dùng để cúng dường.
Đắc được Đà la ni
Chứng được trí bất thối
Phật biết tâm người ấy
Vào sâu nơi Phật đạo.
Tức là được thọ ký
Thành Chánh đẳng chánh giác
Các ông thiện nam tử!
Sẽ ở đời vị lai.
Được vô lượng trí huệ
Được thành tựu Phật đạo
Cõi nước rất nghiêm tịnh
Rộng lớn chẳng sánh được.
Cũng có đủ bốn chúng
Đều chắp tay nghe pháp
Lại thấy chính thân mình
Ở trong nơi núi rừng.
Tu tập các pháp lành
Chứng được các thật tướng
Vào sâu nơi thiền định
Thấy chư Phật mười phương.
Chư Phật thân sắc vàng
Tướng trăm phước trang nghiêm
Nghe pháp vì người nói
Thường có mộng tốt đó.
Lại mộng làm Pháp vương
Bỏ cung điện quyến thuộc
Và năm dục thượng diệu
Đi thẳng đến Đạo tràng.
Ở dưới cội bồ đề
Ngồi trên tòa sư tử
Cầu đạo quá bảy ngày
Đắc được trí chư Phật.
Thành đạo vô thượng rồi
Bèn chuyển bánh xe pháp
Vì bốn chúng nói pháp
Qua ngàn vạn ức kiếp.
Nói diệu pháp vô lậu
Độ vô lượng chúng sinh
Sau sẽ vào Niết Bàn
Như củi hết lửa tắt.
Nếu đời ác sau này
Nói pháp bậc nhất này
Người đó được lợi lớn
Như công đức ở trên.

 

Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên thứ Mười Lăm

Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát đến từ các cõi nước phương khác, số nhiều hơn số cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng đều đứng dậy chắp tay làm lễ, mà bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Xin Ngài lóng nghe, sau khi Phật diệt độ, chúng con sẽ ở tại thế giới Ta Bà này, siêng năng tinh tấn, hộ trì đọc tụng biên chép cúng dường kinh điển này, sẽ ở cõi này mà vì chúng sinh rộng nói kinh này.

Bấy giờ, Đức Phật bảo các chúng đại Bồ Tát: Thôi đi! Thiện nam tử! Không cần các ông hộ trì kinh này, tại sao? Vì thế giới Ta Bà của ta đây, đã có các đại Bồ Tát nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng. Mỗi vị Bồ Tát đều có quyến thuộc, nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng. Hết thảy những người đó, sau khi ta diệt độ, sẽ hộ trì đọc tụng rộng nói kinh này. Khi Đức Phật nói như thế, thì ba ngàn đại thiên thế giới Ta Bà mặt đất rúng nứt, và trong sự rúng nứt đó, có vô lượng ngàn vạn ức đại Bồ Tát đồng thời vọt lên, các vị Bồ Tát đó, thân đều màu vàng, đủ ba mươi hai tướng, có vô lượng quang minh. Các vị Bồ Tát đó, đều trụ ở trong hư không ở dưới cõi Ta Bà. Các vị Bồ Tát đó, nghe tiếng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn nói diệu pháp, bèn từ phương dưới mà đến, mỗi vị Bồ Tát đều là đạo sư của đại chúng, ai nấy đều mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng, có vị mang theo quyến thuộc nhiều như số cát năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn, một vạn, sông Hằng. Hoặc có vị chỉ mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát một sông Hằng, nửa sông Hằng, một phần tư, cho đến một phần ngàn vạn ức Na do tha. Lại có vị mang theo, ngàn vạn ức Na do tha quyến thuộc, hoặc là ức vạn quyến thuộc, hoặc ngàn vạn, trăm vạn, cho đến một vạn, hoặc một ngàn, một trăm, cho đến mười, hoặc có vị chỉ mang theo năm, bốn, ba, hai, một, vị đệ tử. Lại có vị Bồ Tát sống một mình, ưa thích hạnh xa lìa thế gian, hết thảy như thế vô lượng vô biên, không thể nào tính đếm ví dụ biết được số lượng. Các vị Bồ Tát đó, từ dưới đất vọt lên rồi, đều đến chỗ tháp bảy báu trong hư không của Đức Đa Bảo Như Lai, và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Đến rồi, ai nấy đều hướng về hai Đức Thế Tôn cuối đầu đảnh lễ dưới chân Phật, và đến dưới các cây báu chỗ của chư Phật, ngồi trên tòa sư tử cũng đều làm lễ, nhiễu bên phải ba vòng, chắp tay cung kính, dùng đủ thứ pháp khen ngợi của các Bồ Tát để khen ngợi, rồi lui về một bên chiêm ngưỡng hai Đức Thế Tôn. Các vị đại Bồ Tát từ khi mới vọt lên, dùng đủ thứ pháp của các Bồ Tát để khen ngợi Phật, thời gian như thế trải qua năm mươi tiểu kiếp.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn ngồi yên lặng, bốn chúng cũng đều yên lặng. Thời gian năm mươi tiểu kiếp rất dài, nhưng nhờ thần lực của Phật, mà khiến cho đại chúng cảm thấy như chỉ nửa ngày.

Bấy giờ, bốn chúng cũng nhờ thần lực của Đức Phật, cho nên thấy các vị Bồ Tát, của vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi nước đầy khắp hư không. Trong chúng Bồ Tát đó, có bốn vị đạo sư, một tên là Thượng Hạnh, hai tên là Vô Biên Hạnh, ba tên là Tịnh Hạnh, bốn tên là An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ Tát này là thượng thủ, là thầy xướng đạo ở trong chúng. Ở trước đại chúng, ai nấy đều chắp tay nhìn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà thăm hỏi rằng: Đức Thế Tôn ít bệnh, ít phiền não, an lạc hạnh chăng? Những người đáng độ có dễ giáo hóa chăng? Không khiến cho Đức Thế Tôn mệt nhọc chăng?

Bấy giờ, bốn vị đại Bồ Tát bèn nói bài kệ rằng:

Thế Tôn an lạc
Ít bệnh ít não
Giáo hóa chúng sinh
Được chẳng mệt nhọc.
Và các chúng sinh
Thọ hóa dễ chăng
Chẳng khiến Thế Tôn
Sinh mỏi nhọc chăng?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trong chúng đại Bồ Tát nói như vầy: Như thế, như thế! Các thiện nam tử, Như Lai an lạc, ít bệnh, ít phiền não, hết thảy các chúng sinh dễ hóa độ, chẳng có mệt nhọc. Tại sao? Vì các chúng sinh đó, đời đời kiếp kiếp đến nay, luôn luôn thọ sự giáo hóa của ta, ở trong quá khứ, họ cũng cung kính tôn trọng các Đức Phật, gieo trồng các căn lành.

Những chúng sinh đó, từ khi thấy thân ta, nghe lời của ta nói, thì đều tin nhận vào trí huệ của Như Lai. Những người trước kia tu tập tiểu thừa, nay ta cũng khiến cho họ được nghe kinh này, mà vào trí huệ của Phật.

Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát bèn nói bài kệ rằng:

Lành thay lành thay!
Đại hùng Thế Tôn
Hết thảy chúng sinh
Dễ dàng hóa độ.
Nghe được chư Phật
Trí huệ sâu xa
Nghe rồi tin hành
Chúng con tùy hỉ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại Bồ Tát thượng thủ rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử, các ông ở trước Như Lai phát tâm tùy hỉ.

Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc và tám ngàn chúng Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng, đều nghĩ như vầy: Chúng ta từ xưa đến nay, chẳng thấy chẳng nghe các chúng đại Bồ Tát như thế, từ dưới đất vọt lên, ở trước Đức Thế Tôn chắp tay cúng dường, thăm hỏi Đức Như Lai.
Khi ấy, đại Bồ Tát Di Lặc biết tâm niệm của các vị Bồ Tát, nhiều như số cát tám ngàn sông Hằng, cũng muốn tự mình hiểu rõ điều nghi này, bèn chắp tay hướng về Đức Phật dùng kệ hỏi rằng:

Vô lượng ngàn vạn ức
Các đại chúng Bồ Tát
Xưa kia chưa từng thấy
Nguyện Đức Thế Tôn nói.
Họ từ nơi nào đến
Do bởi nhân duyên gì?
Thân lớn đại thần thông
Trí huệ không nghĩ bàn.
Chí niệm rất kiên cố
Có sức nhẫn nhục lớn
Chỗ chúng sinh ưa thấy
Từ xứ nào mà đến?
Mỗi mỗi vị Bồ Tát
Đem theo các quyến thuộc
Số đông nhiều vô lượng
Như số cát sông Hằng.
Hoặc có đại Bồ Tát
Đem sáu vạn Hằng sa
Các đại chúng như thế
Một lòng cầu Phật đạo.
Các đại sư đó thảy
Sáu vạn Hằng hà sa
Đều đến cúng dường Phật
Và hộ trì kinh này.
Đem năm vạn Hằng sa
Hoặc số lượng trội hơn
Bốn vạn và ba vạn
Hai vạn đến một vạn.
Một ngàn một trăm thảy
Cho đến một Hằng sa
Nửa và ba bốn phần
Hoặc một phần ức vạn.
Ngàn vạn Na do tha
Vạn ức các đệ tử
Cho đến số nửa ức
Số lượng lại hơn trên.
Trăm vạn đến một vạn
Một ngàn và một trăm
Năm mươi và một mươi
Cho đến ba hai một.
Đơn độc chẳng quyến thuộc
Ưa thích tu một mình
Đều đến chỗ đức Phật
Số đó lại hơn trên.
Các đại chúng như thế
Nếu ai muốn tính đếm
Trải qua Hằng sa kiếp
Không thể biết hết được.
Các đại uy đức đó
Chúng Bồ Tát tinh tấn
Ai vì họ nói pháp
Giáo hóa mà thành tựu?
Từ ai sơ phát tâm
Xưng dương Phật pháp nào
Thọ trì hành kinh gì
Tu tập Phật đạo nào?
Các Bồ Tát như thế
Thần thông đại trí lực
Bốn phương đất rúng nứt
Đều từ đất vọt lên.
Thế Tôn con xưa nay
Chưa từng thấy việc này
Xin nói chỗ họ đến
Tên cõi nước họ ở.
Con thường du các nước
Chưa từng thấy chúng này
Con ở trong chúng này
Chẳng quen biết một người.
Đột nhiên từ đất lên
Xin nói rõ nhân duyên.
Nay trong đại hội này
Vô lượng trăm ngàn ức.
Các Bồ Tát này thảy
Đều muốn biết việc này
Nhân duyên và gốc ngọn
Các chúng Bồ Tát đó.
Vô lượng, Đức Thế Tôn!
Xin nguyện giải chúng nghi.

Bấy giờ, các phân thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đến từ vô lượng ngàn vạn ức cõi nước phương khác, ở dưới các cây báu trong tám phương, đều ngồi kiết già trên tòa sư tử. Thị giả của các Đức Phật đó, đều thấy đại chúng Bồ Tát đó, trong ba ngàn đại thiên thế giới bốn phương, từ dưới đất vọt lên trụ ở trong hư không. Các vị thị giả đều bạch với Phật của mình rằng: Đức Thế Tôn! Vô lượng vô biên A tăng kỳ đại chúng Bồ Tát đó, từ đâu đến đây?

Bấy giờ, các Đức Phật đều bảo thị giả rằng: Các thiện nam tử! Hãy đợi giây lát, có đại Bồ Tát tên là Di Lặc, được Đức Phật Thích Ca thọ ký sau này sẽ thành Phật, đã hỏi việc đó. Đức Phật sẽ trả lời, các ông sẽ nhờ đó mà được nghe.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca bảo Bồ Tát Di Lặc: Lành thay! Lành thay! A Dật Đa mới có thể hỏi Phật việc lớn như thế. Các ông nên cùng một lòng mặc áo giáp tinh tấn, phát tâm kiên cố, nay Như Lai muốn hiển phát diễn nói mở bày trí tuệ của chư Phật, sức thần thông tự tại của chư Phật, sức sư tử phấn tấn của chư Phật, sức oai mãnh đại thế của chư Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Hãy một lòng tinh tấn
Ta muốn nói việc đó
Chớ đừng có nghi hối
Trí Phật không nghĩ bàn.
Nay ông sinh đức tin
Trụ ở trong nhẫn nhục
Pháp chỗ xưa chưa nghe
Nay đều sẽ được nghe.
Nay ta an ủi ông
Chớ đừng hoài nghi sợ
Lời Phật nói chẳng sai
Trí huệ không thể lường.
Đắc được pháp bậc nhất
Thâm sâu không phân biệt
Như vậy nay sẽ nói
Các ông một lòng nghe.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rồi, bảo Bồ Tát Di Lặc: Hôm nay ta ở trong chúng này nói với các ông: A Dật Đa! Các chúng đại Bồ Tát đó, vô lượng vô số A tăng kỳ từ dưới đất vọt lên. Thuở xưa các ông chưa từng thấy, ta ở tại thế giới Ta Bà này, chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác rồi, bèn giáo hóa chỉ đạo cho các Bồ Tát đó, điều phục tâm của họ, khiến cho họ phát đạo tâm. Những vị Bồ Tát đó, đều ở dưới thế giới Ta Bà này, trụ ở trong hư không. Nơi các kinh điển họ đều đọc tụng thông thuộc, suy gẫm phân biệt, nghĩ nhớ chân chánh.

A Dật Đa! Hết thảy các vị thiện nam tử đó, chẳng ưa thích ở trong chúng nói nhiều, thường thích ở chỗ yên tĩnh, siêng hành tinh tấn, chưa từng nghỉ ngơi, cũng chẳng ở tại nhân gian, cũng chẳng ở trên trời, thường thích trí huệ thâm sâu, chẳng có chướng ngại, cũng thường ưa thích pháp của chư Phật, một lòng tinh tấn cầu trí huệ vô thượng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

A Dật Đa nên biết!
Các đại Bồ Tát đó
Từ số kiếp đến nay
Tu tập trí của Phật.
Đều do ta giáo hóa
Khiến phát đại đạo tâm
Họ đều là con ta
Nương trụ thế giới đó.
Thường tu hạnh đầu đà
Ý thích nơi chỗ vắng
Bỏ đại chúng ồn náo
Chẳng ưa thích nói nhiều.
Các con như vậy thảy
Tu học đạo pháp ta
Ngày đêm thường tinh tấn
Chỉ vì cầu Phật đạo.
Trụ ở trong hư không
Phương dưới cõi Ta Bà
Sức chí niệm kiên cố
Thường siêng cầu trí huệ.
Nói đủ thứ diệu pháp
Tâm họ chẳng sợ sệt.
Ta ở thành Già Gia
Ngồi dưới cội bồ đề
Đắc được tối chánh giác
Chuyển pháp luân vô thượng.
Giáo hóa các Bồ Tát
Khiến họ sơ phát tâm
Nay đều trụ bất thối
Đều sẽ được thành Phật.
Nay ta nói lời thật
Các ông một lòng tin
Ta từ lâu đến nay
Giáo hóa đại chúng đó.

Bấy giờ, đại Bồ Tát Di Lặc và vô số các vị Bồ Tát khác, đều sinh tâm nghi hoặc, lạ chưa từng có, bèn nghĩ như vầy: Sao Đức Thế Tôn ở trong thời gian ngắn, mà có thể giáo hóa vô lượng vô biên A tăng kỳ các đại Bồ Tát như thế, khiến cho họ trụ Vô thượng chánh đẳng chánh giác? Bèn bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Khi Như Lai làm thái tử, ra khỏi cung dòng họ Thích, cách thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi nơi Đạo tràng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm.

Đức Thế Tôn! Sao trong thời gian ngắn mà làm đại Phật sự, dùng thế lực của Phật, dùng công đức của Phật, để giáo hóa vô lượng đại Bồ Tát như thế, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác?

Đức Thế Tôn! Chúng đại Bồ Tát đó, nếu như có người ở trong ngàn vạn ức kiếp, tính đếm cũng chẳng hết được, chẳng biết được bờ mé. Những vị Bồ Tát đó, từ lâu xa đến nay, ở trong vô lượng vô biên chỗ chư Phật, gieo trồng các căn lành, thành tựu đạo bồ đề, thường tu phạm hạnh.

Đức Thế Tôn! Việc như thế, người thế gian khó tin. Ví như: Có người sắc đẹp tóc đen, mới hai mươi lăm tuổi, mà chỉ người trăm tuổi nói đó là con ta, người trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi đó, nói là cha ta, sinh đẻ nuôi dưỡng chúng ta, việc đó khó tin.

Đức Phật cũng như thế, từ khi đắc đạo đến nay, chưa được bao lâu, mà các đại chúng Bồ Tát đó, đã ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, vì Phật đạo mà siêng tu hành tinh tấn, khéo nhập, xuất, trụ, ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức tam muội, được đại thần thông, từ lâu tu phạm hạnh, khéo tu tập các pháp lành theo thứ tự, khéo về vấn đáp, là báu trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có.

Hôm nay, Đức Thế Tôn mới nói, khi đắc được Phật đạo, thì đầu tiên khiến cho các Bồ Tát đó, phát tâm giáo hóa chỉ bày, khiến cho họ hướng về Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu, mà có thể làm được việc công đức lớn. Tuy chúng con tin Đức Phật tùy nghi nói pháp, những lời Phật nói ra chưa từng hư vọng. Những gì Phật biết thảy đều thông đạt, nhưng những vị mới phát tâm Bồ Tát, sau khi Phật diệt độ, nếu họ nghe lời này, thì họ chẳng tin nhận, mà khởi tâm hủy báng pháp tạo tội nghiệp. Tuy vậy, xin Đức Thế Tôn hãy giải thích nói, để trừ nghi hoặc của chúng con, và các thiện nam tử ở đời vị lai, nghe việc này rồi, cũng không còn nghi hoặc nữa.

Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Xưa Phật từ dòng thích
Xuất gia gần Già Gia
Ngồi dưới cội bồ đề
Đến nay chẳng bao lâu.
Các Phật tử đó thảy
Số đông không thể lường
Lâu đã hành Phật đạo
Trụ nơi sức thần thông.
Khéo học Bồ Tát đạo
Chẳng nhiễm pháp thế gian
Như hoa sen trong nước
Từ dưới đất mọc lên.
Đều khởi tâm cung kính
Trụ ở trước Thế Tôn
Việc đó khó nghĩ bàn
Làm sao khiến người tin?
Phật đắc đạo gần đây
Mà thành tựu rất nhiều
Xin vì trừ chúng nghi
Như thật phân biệt nói.
Ví như người thiếu niên
Tuổi mới hai mươi lăm
Chỉ người già là con
Tóc bạc và mặt nhăn.
Nói họ là ta sinh
Con cũng nói người đó
Chính là cha của ta
Cha trẻ mà con già
Khiến đời không thể tin.
Thế Tôn cũng như thế
Đắc đạo chẳng bao lâu
Các Bồ Tát đó thảy
Chí bền chẳng suy nhược.
Vô lượng kiếp đến nay
Luôn hành Bồ Tát đạo
Khéo về nạn vấn đáp
Tâm họ chẳng sợ hãi.
Tâm nhẫn nhục quyết định
Đoan chánh có uy đức
Được mười phương Phật khen
Khéo hay phân biệt nói.
Chẳng thích ở trong chúng
Thường thích nhập thiền định
Do vì cầu Phật đạo
Trụ hư không phương dưới.
Chúng con từ Phật nghe
Việc này nên hết nghi
Xin Phật vì vị lai
Diễn nói khiến họ hiểu.
Nếu ở nơi kinh này
Có người nghi không tin
Tức sẽ đọa đường ác
Nay xin Phật giải nói.
Vô lượng Bồ Tát đó
Sao trong thời gian ngắn
Giáo hóa khiến phát tâm
Trụ vào bậc bất thối?

 

Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai thứ Mười Sáu

Bấy giờ, Đức Phật bảo các Bồ Tát, và tất cả đại chúng: Các thiện nam tử! Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.

Lại bảo đại chúng: Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.

Lại bảo đại chúng: Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.

Bấy giờ, trong đại chúng Bồ Tát, Bồ Tát Di Lặc làm thượng thủ chắp tay bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Xin hãy nói đi, chúng con sẽ tin nhận lời của Đức Phật nói, bạch ba lần như thế rồi nói: Xin hãy nói đi, chúng con sẽ tin nhận lời của Đức Phật nói.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết các Bồ Tát ba lần thỉnh không ngừng, bèn bảo rằng: Các ông hãy lắng nghe, sức thần thông bí mật của Như Lai, tất cả thế gian trời người và A tu la, đều cho rằng hôm nay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lìa bỏ hoàng cung đến thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi nơi Đạo tràng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Thiện nam tử! Thật ra, từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp. Ví như: Năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người nghiền ra thành bụi, đi qua phương đông năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước, mới để xuống một hạt bụi, cứ theo hướng đông làm như thế, hết số hạt bụi đó.

Các thiện nam tử! Ý của các ông thế nào? Các thế giới đó, có thể suy nghĩ tính đếm biết được số bao nhiêu chăng?

Bồ Tát Di Lặc và hết thảy Bồ Tát, đều bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Các thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính đếm mà biết được. Tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, dùng trí huệ vô lậu, cũng không thể suy nghĩ biết được số lượng. Chúng con trụ ở bậc bất thối, ở nơi việc này cũng chẳng biết được.

Đức Thế Tôn! Các thế giới như thế vô lượng vô biên.

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại chúng Bồ Tát: Các thiện nam tử! Nay ta phân minh nói cho các ông nghe, các thế giới đó, hoặc để hạt bụi, hoặc không để, đều nghiền ra thành bụi hết. Một hạt bụi là một kiếp. Từ ta thành Phật đến nay, còn nhiều hơn số đó trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp. Từ đó đến nay, ta thường ở tại thế giới Ta Bà này thuyết pháp giáo hóa, cũng ở nơi trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước khác, giáo hóa lợi ích chúng sinh.

Các thiện nam tử! Trong khoảng giữa đó, ta nói Phật Nhiên Đăng, và còn nói Đức Phật đó vào Niết Bàn. Như thế đều dùng phương tiện phân biệt.

Các thiện nam tử! Nếu có chúng sinh đến chỗ ta, thì ta dùng Phật nhãn quán sát, niềm tin và các căn lợi độn của họ, để độ họ. Nơi nơi tự nói danh tự khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ, cũng hiện nói sẽ vào Niết Bàn, lại dùng đủ thứ phương tiện nói pháp vi diệu, khiến cho chúng sinh phát tâm hoan hỷ.

Các thiện nam tử! Như Lai thấy các chúng sinh ưa thích pháp tiểu thừa, đức mỏng, trần cấu nặng, thì vì người đó nói: Ta thiếu niên xuất gia, đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nhưng thật ra, ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, nhưng dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ vào Phật đạo, mà nói như thế.

Các thiện nam tử! Như Lai nói tất cả kinh điển, đều vì độ thoát chúng sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân của chư Phật, hoặc thị hiện thân mình, hoặc thị hiện thân Phật khác, hoặc nói việc của mình, hoặc nói việc của Phật khác. Những lời nói ra, đều chân thật không hư. Tại sao? Vì Như Lai thấy biết tướng ba cõi như thật, chẳng có sinh tử, hoặc thối, hoặc xuất, cũng chẳng tại thế, hoặc diệt độ, chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng khác. Chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, những sự việc đó, chỉ có Như Lai mới thấy rõ chẳng có sai lầm. Vì chúng sinh có đủ thứ tánh, đủ thứ dục, đủ thứ hạnh, đủ thứ nghĩ nhớ phân biệt. Phật muốn khiến cho họ sinh các căn lành, cho nên dùng đủ thứ nhân duyên, ví dụ, lời lẽ, đủ thứ thuyết pháp, làm các Phật sự, chưa từng tạm phế bỏ. Như thế, từ khi ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, thọ mạng vô lượng A tăng kỳ kiếp, thường trụ bất diệt.
Các thiện nam tử! Thuở xưa ta hành Bồ Tát đạo, được tuổi thọ đến nay vẫn chưa hết, lại tăng thêm. Nay chẳng phải thật diệt độ, mà nói là sẽ diệt độ. Như Lai dùng phương tiện đó, để giáo hóa chúng sinh. Tại sao? Vì nếu Phật sống lâu ở đời, thì người đức mỏng chẳng trồng căn lành, bần cùng hạ tiện tham trước năm dục, vào trong lưới vọng kiến nhớ tưởng. Nếu thấy Như Lai thường ở đời chẳng nhập diệt, thì họ sẽ sinh tâm kiêu mạn phóng túng, mà ôm lòng nhàm chán giải đãi, chẳng sinh tâm khó được gặp Phật, chẳng sinh tâm cung kính. Do đó, Như Lai dùng phương tiện nói: Tỳ Kheo nên biết, chư Phật ra đời rất khó được gặp. Tại sao? Vì những người đức mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc có gặp Phật, hoặc không gặp Phật. Nhờ việc đó mà ta nói rằng: Các Tỳ Kheo! Như Lai khó có thể được gặp, những chúng sinh đó nghe lời như thế, thì sẽ sinh tâm khó được gặp Phật, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng đối với Phật, bèn trồng căn lành. Do đó, tuy Như Lai chẳng thật diệt, mà nói là diệt độ.

Lại nữa! Thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như thế, vì độ chúng sinh, đều thật chẳng hư. Ví như vị lương y trí huệ thông đạt, biết luyện chế thuốc, khéo chữa lành các chứng bệnh. Có rất nhiều người con, hoặc mười, hai mươi, cho đến một trăm người. Vì có duyên sự nên đi xa đến nước khác. Các người con sau này uống nhầm thuốc độc, thuốc phát buồn bực điên loạn, lăn lóc trên đất.

Bấy giờ, người cha trở về nhà, các người con uống thuốc độc, hoặc có người mất bản tâm, hoặc có người không mất, ở xa trông thấy cha về đều rất vui mừng, quỳ lạy thăm hỏi cha được bình an trở về. Chúng con ngu si, uống lầm thuốc độc, xin cha hãy cứu chữa, khiến cho chúng con khỏi bệnh sống lâu.

Người cha thấy các con đau khổ như thế, bèn y theo các phương pháp, tìm cỏ thuốc tốt, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, đâm giã sàng rồi hòa hợp cho các người con uống, mà nói rằng: Đây là thuốc hay, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, các con hãy uống đi, thì sớm sẽ hết khổ não, chẳng còn bị bệnh nữa.

Trong số các người con, ai không mất bản tâm, thấy thuốc hay đó, sắc hương đều tốt bèn lấy uống, bệnh lành khỏi hẳn. Người mất đi bản tâm, thấy người cha về, tuy cũng vui mừng thăm hỏi, xin cha chữa bệnh, tuy cũng cho thuốc, mà chẳng chịu uống.

Tại sao? Vì chất độc vào sâu mất đi bản tâm. Do đó, thuốc hay thơm ngon, mà cho là không ngon. Người cha bèn nghĩ rằng: Những đứa con này thật đáng thương, vì trúng độc nên tâm điên đảo. Tuy thấy ta vui, xin ta cứu chữa, thuốc hay như thế, mà chẳng chịu uống. Nay ta sẽ bày phương tiện, khiến cho chúng uống thuốc này. Bèn nói như vầy: Các con nên biết, nay ta già nua, thời kỳ chết đã đến, thuốc hay tốt này, nay để ở tại đây, các con có thể lấy uống, đừng có lo lắng là bệnh không lành. Dạy như thế rồi, lại đến nước khác, sai sứ về nói là cha của nhà ngươi đã chết.

Bấy giờ, các người con nghe tin cha mất rồi, tâm rất buồn rầu đau khổ, mà nghĩ như vầy: Nếu cha mình còn sống, thì sẽ thương xót chúng ta, cứu hộ chúng ta. Nay đã bỏ chúng ta mất ở xứ người, chúng ta cô độc, lại chẳng có chỗ nương tựa, thường ôm lòng bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, mới biết thuốc này sắc vị thơm ngon, lập tức lấy uống, bệnh độc đều khỏi. Người cha nghe tin con đều đã khỏi bệnh, bèn trở về, khiến cho các người con gặp lại.

Các thiện nam tử! Ý các ông nghĩ sao? Có người nào cho rằng, vị lương y đó phạm tội vọng ngữ chăng? Không vậy, Đức Thế Tôn!

Đức Phật nói: Ta cũng như thế, ta thành Phật đến nay, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp, vì chúng sinh mà dùng sức phương tiện, nói là sẽ diệt độ, cũng chẳng có ai có thể nói ta có lỗi nói dối.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Ta thành Phật đến nay
Trải qua các kiếp số
Vô lượng trăm ngàn vạn
ức kiếp A tăng kỳ.
Thường nói pháp giáo hóa
Vô số ức chúng sinh
Khiến vào trong Phật đạo.
Vô lượng kiếp đến nay
Vì độ hóa chúng sinh
Phương tiện hiện Niết Bàn
Mà thật chẳng diệt độ.
Thường ở đây nói pháp
Ta thường trụ nơi đây
Dùng các sức thần thông
Khiến chúng sinh điên đảo
Tuy gần mà chẳng thấy.
Chúng thấy ta diệt độ
Rộng cúng dường xá lợi
Đều ôm lòng luyến mộ
Mà sinh tâm khát ngưỡng.
Chúng sinh bèn tin phục
Ý chất trực mềm dịu
Một lòng muốn gặp Phật
Chẳng tự tiếc thân mạng.
Khi ta và chúng Tăng
Cùng ở tại Linh Thứu
Có lúc nói chúng sinh
Thường tại đây chẳng diệt.
Vì dùng sức phương tiện
Hiện có diệt chẳng diệt.
Nước khác có chúng sinh
Ai cung kính tin ưa
Ta lại ở trong họ
Vì nói pháp vô thượng.
Các ông chẳng nghe đây
Cho rằng ta diệt độ
Ta thấy các chúng sinh
Trôi lăn nơi khổ não.
Nên chẳng vì hiện thân
Khiến họ sinh khát ngưỡng
Do tâm họ luyến mộ
Mới hiện thân nói pháp.
Sức thần thông như thế
Trong A tăng kỳ kiếp
Thường ở núi Linh Thứu
Và ở các nơi khác.
Chúng sinh thấy kiếp tận
Khi lửa lớn thiêu đốt
Ta cõi này an ổn
Trời người thường đầy dẫy.
Vườn rừng những lầu các
Đủ thứ báu trang nghiêm
Cây báu nhiều hoa quả
Nơi chúng sinh dạo chơi.
Chư Thiên đánh trống trời
Thường tấu các âm nhạc
Mưa hoa mạn đà la
Rải Phật và đại chúng.
Cõi tịnh ta chẳng hoại
Mà chúng thấy thiêu sạch
Lo sợ các khổ não
Như thế đều đầy dẫy.
Chúng sinh có tội đó
Bởi nhân duyên nghiệp ác
Qua A tăng kỳ kiếp
Chẳng nghe tên Tam Bảo.
Những người tu công đức
Tâm nhu hòa chất trực
Thảy đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp.
Có khi vì chúng đó
Nói Phật thọ vô lượng
Người lâu mới thấy Phật
Thì nói Phật khó gặp.
Trí lực ta như thế
Huệ quang chiếu vô lượng
Thọ mạng vô số kiếp
Do tu lâu mà được.
Các ông người có trí
Chớ nên sinh hoài nghi
Hãy đoạn khiến dứt sạch
Lời Phật thật không hư.
Như lương y phương tiện
Vì trị bệnh cho con
Thật còn mà nói chết
Không thể nói hư vọng.
Ta là cha cõi đời
Cứu những người khổ nạn
Vì phàm phu điên đảo
Thật còn mà nói diệt.
Do bởi thường thấy ta
Mà sinh tâm kiêu ngạo
Phóng dật chấp năm dục
Đọa trong ba đường ác.
Ta biết rõ chúng sinh
Hành đạo chẳng hành đạo
Tùy chúng sinh độ được
Mà nói đủ thứ pháp.
Tự ý thường nghĩ rằng:
Làm sao khiến chúng sinh
Được vào vô thượng đạo
Sớm thành tựu thân Phật.

Phẩm Phân Biệt Công Đức thứ Mười Bảy

Bấy giờ, đại chúng trong đại hội nghe Phật nói số kiếp tuổi thọ lâu dài như thế, thì vô lượng vô biên A tăng kỳ chúng sinh, đều được lợi ích.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại Bồ Tát Di Lặc: A Dật Đa! Khi ta nói Như Lai thọ mạng lâu dài như thế, thì có sáu trăm tám mươi vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh được vô sinh pháp nhẫn.

Lại có gấp bội ngàn lần đại Bồ Tát, đắc được môn văn trì Đà la ni. Lại có số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được nhạo thuyết biện tài vô ngại. Lại có số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được trăm ngàn vạn ức vô lượng toàn Đà la ni. Lại có các đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới, chuyển được pháp luân bất thối. Lại có các đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của trung thiên thế giới, chuyển được pháp luân thanh tịnh. Lại có các đại Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của tiểu thiên thế giới, còn tám đời nữa sẽ đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của bốn tứ thiên hạ, còn bốn đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của ba tứ thiên hạ, còn ba đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của hai tứ thiên hạ, còn hai đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một tứ thiên hạ, còn một đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có chúng sinh nhiều như hạt bụi của tám thế giới, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Khi Đức Phật nói các vị đại Bồ Tát đó được đại pháp lợi, thì ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, dùng để rải lên vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, ngồi trên tòa sư tử dưới các cây báu, và rải lên tháp bảy báu tòa sư tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và Đức Đa Bảo Như Lai diệt độ đã lâu, cũng rải lên tất cả các đại Bồ Tát, và bốn bộ chúng.

Lại mưa xuống hương bột chiên đàn, và hương trầm thủy. Ở trong hư không trống trời tự kêu, âm thanh vi diệu sâu xa. Lại mưa xuống hàng ngàn thứ y trời, thòng rũ xuống các chuỗi ngọc, chuỗi trân châu, chuỗi châu ma ni, chuỗi châu như ý, khắp cả chín phương. Các lò hương báu đốt lên hương vô giá, tự nhiên tỏa khắp để cúng dường pháp hội.
Ở phía trên, mỗi vị Phật có các Bồ Tát cầm phan lọng, thứ tự thăng đến trời Phạm Thiên. Các vị Bồ Tát đó, dùng âm thanh vi diệu ca xướng vô lượng bài kệ, để khen ngợi các Đức Phật.

Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc từ tòa ngồi đứng dậy, hở vai bên phải, chắp tay cung kính hướng về Đức Phật, mà nói bài kệ rằng:

Phật nói pháp hi hữu
Thuở xưa chưa từng nghe
Thế Tôn có thần lực
Tuổi thọ không thể lường.
Vô số các Phật tử
Nghe Thế Tôn phân biệt
Nói người được pháp lợi
Vui mừng khắp toàn thân.
Hoặc trụ bậc bất thối
Hoặc được Đà la ni
Hoặc nhạo thuyết vô ngại
Vạn ức toàn tổng trì.
Hoặc có đại thiên giới
Số hạt bụi Bồ Tát
Ai nấy đều chuyển được
Bánh xe pháp bất thối.
Lại có trung thiên giới
Số hạt bụi Bồ Tát
Ai nấy đều chuyển được
Bánh xe pháp thanh tịnh.
Lại có tiểu thiên giới
Số hạt bụi Bồ Tát
Chỉ còn tám đời nữa
Sẽ chứng được Phật đạo.
Lại có bốn ba hai
Tứ thiên hạ như vậy
Các hạt bụi Bồ Tát
Theo số đời thành Phật.
Hoặc một tứ thiên hạ
Số hạt bụi Bồ Tát
Chỉ còn một đời nữa
Sẽ thành Nhất thiết trí.
Như thế thảy chúng sinh
Nghe Phật thọ lâu dài
Được vô lượng vô lậu
Các quả báo thanh tịnh.
Lại có tám thế giới
Số hạt bụi chúng sinh
Nghe Phật nói thọ mạng
Đều phát tâm vô thượng.
Thế Tôn nói vô lượng
Pháp không thể nghĩ bàn
Nhiều chúng được lợi ích
Như hư không vô biên.
Mưa hoa trời mạn đà
Ma ha mạn đà la
Thích Phạm như Hằng sa
Đến từ vô số cõi.
Mưa chiên đàn trầm thủy
Tấp nập rơi rớt xuống
Như chim bay không xuống
Cúng rải lên chư Phật.
Trống trời trong hư không
Tự nhiên vang diệu âm
Y trời ngàn vạn thứ
Chuyển động rơi rớt xuống.
Các lò hương báu đẹp
Xông đốt hương vô giá
Tự nhiên tỏa khắp nơi
Cúng dường các Thế Tôn.
Chúng đại Bồ Tát đó
Cầm phan lọng bảy báu
Cao đẹp vạn ức thứ
Thứ tự đến Phạm Thiên.
Trước mỗi các Đức Phật
Tràng báu treo thắng phan
Cũng dùng ngàn vạn kệ
Ca ngợi các Như Lai.
Đủ thứ việc như thế
Thuở xưa chưa từng có
Nghe Phật thọ vô lượng
Tất cả đều vui mừng.
Danh Phật đồn mười phương
Rộng lợi ích chúng sinh
Hết thảy đủ căn lành
Trợ phát tâm Vô thượng.

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc: A Dật Da! Những chúng sinh nào nghe thọ mạng của Phật lâu dài như thế, cho đến sinh một niệm tin hiểu, thì được công đức chẳng có hạn lượng.

Nếu có người thiện nam, thiện nữ, vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ở trong tám mươi vạn ức Na do tha kiếp, thực hành năm Ba la mật, trì giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật, trừ Bát Nhã Ba la mật ra, đem công đức này, so sánh với công đức ở trên, chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức, cho đến tính toán ví dụ, cũng không thể biết được.

Nếu người thiện nam, người thiện nữ, có công đức như thế, mà chẳng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì chẳng có lý đó.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu người cầu Phật huệ
Trong tám mươi vạn ức
Na do tha kiếp số
Tu năm Ba la mật.
Ở trong các kiếp đó
Bố thí cúng dường Phật
Và Duyên Giác đệ tử
Cùng các chúng Bồ Tát.
Đồ ăn uống hảo hạng
Y tốt và đồ nằm
Chiên đàn làm tịnh xá
Dùng vườn rừng trang nghiêm.
Bố thí như thế thảy
Đủ thứ đều tốt đẹp
Hết các kiếp số đó
Hồi hướng về Phật đạo.
Nếu giữ gìn giới cấm
Thanh tịnh chẳng thiếu sót
Cầu chứng vô thượng đạo
Được chư Phật khen ngợi.
Nếu tu hạnh nhẫn nhục
Trụ nơi chỗ điều nhu
Nếu kẻ ác nhiễu loạn
Mà tâm chẳng lay động.
Có những người đắc pháp
Bị kẻ tăng thượng mạn
Khinh khi làm khổ não
Như thế cũng nhẫn được.
Nếu lại siêng tinh tấn
Chí niệm thường kiên cố
Trong vô lượng ức kiếp
Một lòng chẳng giải đãi.
Lại trong vô số kiếp
Trụ ở chỗ vắng lặng
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Trừ ngủ thường nhiếp tâm.
Vì bởi nhân duyên đó
Hay sinh các thiền định
Tám mươi ức vạn kiếp
An trụ tâm chẳng loạn.
Đem phước nhất tâm đó
Nguyện cầu vô thượng đạo
Con được Nhất thiết trí
Hết các bờ thiền định.
Người đó trong trăm ngàn
Vạn ức vô số kiếp
Tu các công đức đó
Như ở trên vừa nói.
Có thiện nam tín nữ
Nghe ta nói thọ mạng
Cho đến một niệm tin
Phước đây lại hơn kia.
Nếu có người chẳng có
Tất cả các nghi hoặc
Sinh tâm tin chốc lát
Phước đây đồng phước kia.
Hết thảy các Bồ Tát
Vô lượng kiếp hành đạo
Nghe ta nói thọ mạng
Thì tâm sẽ tin nhận
Những người như thế thảy
Tin thọ kinh điển này
Nguyện con đời vị lai
Sống lâu độ chúng sinh.
Như Thế Tôn hôm nay
Vua trong dòng họ Thích
Đạo tràng sư tử hống
Thuyết pháp vô sở úy.
Chúng con đời vị lai
Được tất cả tôn kính
Khi ngồi nơi đạo tràng
Cũng nói thọ như thế.
Nếu có người thâm tâm
Thanh tịnh lại chất trực
Đa văn hay tổng trì
Tùy nghĩa giải lời Phật.
Hết thảy người như thế
Nơi kinh này chẳng nghi.

Lại nữa, A Dật Đa! nếu có người nghe được thọ mạng của Phật lâu dài, mà hiểu rõ nghĩa lý của lời nói, thì người đó được công đức chẳng có hạn lượng, hay sinh ra trí huệ vô thượng của Như Lai, hà huống là rộng nghe kinh này. Hoặc dạy người đến nghe, hoặc tự mình thọ trì, hoặc dạy người thọ trì, hoặc tự mình biên chép, hoặc dạy người biên chép, hoặc dùng hương hoa, anh lạc, tràng phan, lọng lụa, dầu thơm, đèn, để cúng dường kinh quyển. Công đức của người đó vô lượng vô biên, hay sinh ra Nhất thiết chủng trí.

A Dật Đa! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, nghe ta nói thọ mạng dài lâu, mà thâm tâm tin hiểu, tức là thấy Phật thường ở tại núi Kỳ Xà Quật, cùng với các chúng đại Bồ Tát, Thanh Văn, vây quanh nói pháp. Lại thấy thế giới Ta Bà này, đất bằng lưu ly, mặt đất bằng phẳng, vàng diêm phù đàn dùng làm tám đường, cây báu thẳng hàng, các đền đài lầu các, đều dùng bảy báu tạo thành, các chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu có người hay quán như thế, thì nên biết người đó tin sâu hiểu kinh này.

Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này, mà chẳng hủy báng, phát tâm tùy hỷ, thì nên biết người đó, đã tin hiểu sâu kinh này, hà huống là người đọc tụng thọ trì, tức là người đó đầu đội Đức Như Lai.

A Dật Đa! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chẳng cần vì ta mà tạo dựng chùa tháp, và làm phòng ốc cho chư Tăng, dùng tứ sự cúng dường chúng Tăng. Sở dĩ vì sao? Vì người thiện nam, người thiện nữ đó, thọ trì đọc tụng kinh điển này, là đã xây dựng tháp, tạo lập phòng ốc cho chư Tăng, cúng dường chúng Tăng. Tức là đem Phật xá lợi tạo dựng tháp bảy báu, cao rộng nhỏ dần đến cõi trời Phạm Thiên. Lại treo các phan lọng, và các linh báu, hoa hương, anh lạc, hương bột, hương thoa, hương đốt, các thứ âm nhạc, ống tiêu, ống địch, đàn không hầu, đủ thứ kịch múa, dùng âm thanh vi diệu ca ngâm khen ngợi, tức là ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, đã từng cúng dường như thế.

A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, có người nghe được kinh điển này, có người hay thọ trì, hoặc tự mình biên chép, hoặc bảo người biên chép, tức là tạo dụng phòng ốc cho chúng Tăng. Dùng gỗ chiên đàn đỏ làm các điện đường ba mươi hai sở, cao khoảng tám cây đa la, cao rộng trang nghiêm tốt đẹp, có trăm ngàn vị Tỳ Kheo trụ ở trong đó. Lại có vườn rừng ao tắm, lại có chỗ đi kinh hành, hang động ngồi thiền, y phục thức ăn uống, giường nệm thuốc thang, tất cả dụng cụ âm nhạc đầy dẫy trong đó. Nhà Tăng lầu các như thế, hàng trăm ngàn vạn ức nhiều vô số. Dùng những thứ đó, hiện tiền cúng dường nơi ta và Tỳ Kheo Tăng. Vì lẽ đó mà ta nói, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thọ trì đọc tụng, vì người khác nói, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, cúng dường kinh quyển, không cần tạo lập chùa tháp, và tạo phòng ốc chư Tăng, cúng dường chúng Tăng. Huống lại có người hay thọ trì kinh này, và thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, được công đức tối thắng vô lượng vô biên. Ví như hư không, đông tây nam bắc, bốn hướng trên dưới, vô lượng vô biên, công đức của người đó, cũng lại như thế, vô lượng vô biên, sớm đắc được Nhất thiết chủng trí.

Nếu có người đọc tụng thọ trì kinh này, vì người khác nói, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, lại hay tạo dựng tháp và tạo lập phòng ốc chư Tăng, cúng dường khen ngợi chúng Tăng Thanh Văn, cũng dùng trăm ngàn vạn ức bài pháp khen ngợi, để khen ngợi công đức của Bồ Tát. Lại vì người khác, đủ thứ nhân duyên, tùy nghĩa mà giải nói Kinh Pháp Hoa này. Lại hay giữ giới thanh tịnh, và nhu hòa ở chung với nhau, nhẫn nhục chẳng sân hận, ý chí kiên cố, thường thích ngồi thiền, được các thiền định thâm sâu, dũng mãnh tinh tấn, nhiếp các pháp lành, lợi căn trí huệ, khéo đáp các vấn nạn.

A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, các thiện nam tử, thiện nữ nhân, hay thọ trì đọc tụng kinh này, lại có các công đức lành như thế, thì nên biết người đó, đã hướng về đạo tràng, gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngồi dưới bồ đề đạo tràng.

A Dật Đa! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chỗ của họ ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, đều nên xây tháp, tất cả trời người, đều nên cúng dường như tháp của Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu sau ta diệt độ
Hay phụng trì kinh này
Người đó phước vô lượng
Như đã nói ở trên.
Tức là được đầy đủ
Tất cả sự cúng dường
Vì xá lợi xây tháp
Bảy báu rất trang nghiêm.
Nền tháp rất cao rộng
Nhỏ dần đến Phạm Thiên
Linh báu ngàn vạn ức
Gió động vang diệu âm.
Lại trong vô lượng kiếp
Cúng dường nơi tháp đó
Hoa hương các chuỗi ngọc
Y trời các âm nhạc.
Hương đốt dầu thơm đèn
Thường chiếu sáng quanh tháp
Vào đời ác mạt pháp
Người hay trì kinh này.
Tức như trên đã nói
Đầy đủ sự cúng dường.
Nếu hay trì kinh này
Tức như Phật tại thế
Dùng ngưu đầu chiên đàn
Làm nhà Tăng cúng dường.
Gồm ba mươi hai sở
Cao tám cây đa la
Thức ăn ngon y đẹp
Giường nằm đều đầy đủ.
Trăm ngàn chúng ở đó
Vườn rừng các ao tắm
Kinh hành động ngồi thiền
Các thứ đều trang nghiêm.
Nếu người tâm tin hiểu
Thọ trì đọc tụng biên
Và cúng dường kinh quyển
Rải hoa thơm hương bột.
Hoa tu mạn chiêm bặc
A đề mục đa già
Đốt đèn dầu cháy mãi
Người cúng dường như thế.
Được công đức vô lượng
Như hư không vô bờ
Phước đó cũng như thế.
Huống lại trì kinh này
Và bố thí trì giới
Nhẫn nhục thích thiền định
Chẳng sân chẳng chưởi mắng.
Cung kính nơi chùa tháp
Khiêm nhường các Tỳ Kheo
Xa lìa tâm kiêu ngạo
Thường suy gẫm trí huệ.
Có vấn nạn chẳng sân
Tùy thuận làm giải thoát
Nếu làm được hạnh đó
Công đức không thể lường.
Nếu thấy pháp sư đó
Thành tựu đức như thế
Nên dùng hoa trời rải
Y trời che thân họ.
Cúi đầu cung kính lễ
Tâm sinh nghĩ như Phật
Lại nên nghĩ như vầy:
Chẳng lâu đến đạo tràng.
Được vô lậu vô vi
Rộng lợi các trời người
Chỗ của người đó ở
Hoặc kinh hành ngồi thiền.
Cho đến nói bài kệ
Đều nên xây dựng tháp
Trang nghiêm khiến tốt đẹp
Dùng các thứ cúng dường.
Phật tử trụ nơi đó
Tức là Phật thọ dụng
Thường ở tại trong đó
Kinh hành và ngồi nằm.

HẾT QUYỂN NĂM

Pages: 1 2 3 4 5 6 7