SỐ 262
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 
Dịch Phạn ra Hán: Đời Hậu Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư
Dịch Hán ra Việt: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 1

Phẩm 1: TỰA

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ Đức Phật ở núi Kỳ-xà-quật thành Vương xá cùng các đại Tỳ-kheo đủ một vạn hai ngàn người. Các vị đều là bậc A-lahán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt hết các ràng buộc trong các cõi, tâm được tự tại. Tên của các vị là A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Dà-gia Ca-diếp, Na-đề Cadiếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậulâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bàta, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-si-la, Nan-đà, Tôn-đà-la-nan-đà, Phúlâu-na Di-đa-la-ni Tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la… là những đại Ala-hán được nhiều người biết đến.

Lại có hai ngàn bậc Hữu học và Vô học, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng sáu ngàn quyến thuộc, thân mẫu của La-hầu-la là Tỳkheo-ni Gia-thâu-đà-la cùng các quyến thuộc.

Tám vạn Đại Bồ-tát đều là bậc không thoái chuyển nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chưng pháp Đà-la-ni, giỏi tài biện thuyết, chuyển pháp luân không thoái chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, vun trồng cội gốc công đức nơi các Đức Phật, thường được chư Phật ngợi khen, dùng đức từ tu thân, chứng nhập trí tuệ của Phật, thông đạt đại trí đến được bờ kia, tiếng khen khắp vô lượng thế giới, độ được vô số trăm ngàn chúng sinh.

Tên các vị đó là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Hưu Tức, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Dũng Thí, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Mãn Nguyệt, Bồ-tát Đại Lực, Bồ-tát Vô Lượng, Bồ-tát Việt Tam Giới, Bồ-tát Bạt-đà-bà-la, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Đạo Sư… đủ tám vạn Đại Bồtát như vậy.

Lúc bấy giờ có Thích Đề-hoàn Nhân cùng hai vạn Thiên tử quyến thuộc. Lại có Thiên tử Nguyệt Minh, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, bốn Đại thiên vương cùng một vạn Thiên tử quyến thuộc, chủ cõi Ta-bà là các Phạm thiên vương, Thi-khí Đại phạm, Quang Minh Đại phạm… cùng một vạn hai ngàn vị Thiên tử quyến thuộc.

Có tám Long vương là Nan-đà Long vương, Bạt-nan-đà Long vương, Ta-già-la Long vương, Hòa-tu-kiết Long vương, Đức-xoa-ca Long vương, A-na-bà-đạt-đa Long vương, Ma-na-tư Long vương, Ưubát-la Long vương cả thảy đều cùng một số trăm ngàn quyến thuộc.

Có bốn vị Khẩn-na-la vương là Pháp Khẩn-na-la vương, Diệu Pháp Khẩn-na-la vương, Đại Pháp Khẩn-na-la vương, Trì Pháp Khẩn-na-la vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc.

Có bốn vị Càn-thát-bà vương là Nhạc Càn-thát-bà vương, Nhạc Âm Càn-thát-bà vương, Mỹ Càn-thát-bà vương, Mỹ Âm Càn-thát-bà vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc.

Có bốn vị A-tu-la vương là Bà Trĩ A-tu-la vương, Khư-la-khiênđà A-tu-la vương, Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương, La-hầu A-tu-la vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc.

Có bốn vị Ca-lầu-la vương là Đại Uy Đức Ca-lầu-la vương, Đại Thân Ca-lầu-la vương, Đại Mãn Ca-lầu-la vương đều cùng bao nhiêu quyến thuộc.

Vua A-xà-thế, con ba Vi-đề-hy cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc, tất cả đều đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui ngồi một bên.

Lúc bấy giờ Thế Tôn, được bốn chúng vây quanh cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, liền vì các Bồ-tát nói kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.

Nói kinh xong, Phật ngồi kiết già nhập chánh định “Vô lượng nghĩa xứ”, thân tâm không lay động. Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, rải khắp Phật cùng đại chúng. Khắp các cõi Phật vang lên sáu thứ chấn động. Lúc bấy giờ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khan-na-la, Ma-hầula-già, Nhân phi nhân và các Tiểu vương cùng Chuyển luân thánh vương, tất cả đại chúng trong chúng hội được trông thấy việc chưa từng có, chắp tay nhất tâm hoan hỷ chiêm ngưỡng Phật.

Bấy giờ, từ lông trắng giữa chân mày Phật phóng hào quang chiếu khắp một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, trên thấu đến trời Sắc cứu cánh. Từ nơi cõi này thấy được hết cả sáu loài chúng sinh ở các cõi kia. Lai thấy các Đức Phật hiện ở các cõi kia và nghe được các Đức Phật ấy giảng nói kinh pháp. Cũng thấy được các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ở các cõi kia tu hành đắc đạo. Lại thấy các Đại Bồ-tát dùng các nhân duyên, các tín giải, các tướng mạo mà tu hạnh Bồ-tát. Lại thấy các Đức Phật nhập Niết-bàn. Lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, xá-lợi của Phật được dựng tháp bằng bảy báu để phụng thờ.

Khi ấy Bồ-tát Di-lặc nghĩ rằng: “Hôm nay vì nhân duyên gì Đức Thế Tôn hiện thần biến tướng có điềm lành này? Việc Phật nhập chánh định thị hiện điều hy hữu không thể nghĩ bàn này nên đem hỏi ai, ai có thể đáp được?”

Lại nghĩ: “Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi là bậc đã từng gần gũi cúng dường vô lượng chư Phật thời quá khứ chắc đã trông thấy tướng hy hữu này, vậy ta nên hỏi.”

Lúc đó các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ, Thần đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông sáng chói của Phật thị hiện đây nên đem hỏi ai?”

Bấy giờ muốn tự giải quyết chỗ nghi của mình, Bồ-tát Di-lặc lại quán sát tâm niệm của bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di và cả Trời, Rồng, Quỷ, Thần trong chúng hội bèn hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng:

–Vì nhân duyên gì mà Phật thị hiện tướng thần thông lành tốt, phóng ánh sáng lớn soi khắp một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, thấy được tất cả các cõi Phật trang nghiêm như vậy?

Rồi Bồ-tát Di-lặc muốn làm rõ lại ý nghĩa này, dùng kệ hỏi:

 

Văn-thù-sư-lợi!
Đạo sư cớ chi
Lông trắng giữa mày
Chiếu sáng khắp soi?
Mưa hoa Mạn-đà
Cùng Mạn-thù-sa
Gió thơm Chiên-đàn
Đẹp lòng đại chúng.
Vì nhân duyên ấy
Đại địa nghiêm tịnh,
Và thế giới này
Sáu thứ vang lên.
Bấy giờ bốn chúng
Đều rất vui mừng,
Thân tâm thư thái
Thật chưa từng có.
Ánh sáng giữa mày
Soi thấu phương Đông,
Vạn tám ngàn cõi
Đều như sắc vàng.
Từ ngục A-tỳ
Đến trời Hữu đảnh,
Trong các thế giới
Lục đạo chúng sinh,
Sống chết về đâu
Nghiệp duyên lành dữ,
Quả báo tốt xấu
Đều thấy rõ ràng.
Lại thấy chư Phật
Thánh chúa sư tử,
Diễn thuyết kinh điển
Nhiệm mầu bậc nhất.
Tiếng giảng thanh tịnh,
Giọng nói dịu êm,
Dạy bảo Bồ-tát
Vô số ức vạn.
Phạm âm thâm diệu,
Khiến người ưa nghe
Ở mỗi thế giới
Giảng nói chánh pháp
Dùng các nhân duyên
Cùng nhiều thí dụ,
Làm rõ Phật pháp
Giác ngộ chúng sinh.
Nếu người bệnh khổ
Chán già, bệnh, chết,
Phật nói Niết-bàn
Dứt sạch các khổ.
Nếu người có phúc
Từng cúng dường
Phật Chí cầu thắng pháp,
Thì nói Duyên giác.
Nếu có Phật tử
Tu tập các hạnh
Cầu Tuệ vô thượng
Thì nói Tịnh đạo.
Văn-thù-sư-lợi!
Nay tôi tại đây
Thấy nghe như vậy
Và ngàn ức việc
Cũng nhiều như thế,
Xin nói sơ lược:
Tôi thấy cõi kia
Hằng sa Bồ-tát
Dùng các nhân duyên
Mà cầu Phật đạo.
Hoặc tu bố thí
Vàng, bạc, san hô
Ngọc trai, như ý
Xa cừ, mã não,
Kim cương báu vật
Tôi tớ, xe cộ,
Kiệu, cán lộng lẫy,
Hoan hỷ bố thí
Hồi hướng Phật đạo
Nguyện chứng bậc ấy,
Bậc nhất ba cõi
Được chư Phật khen.
Hoặc có Bồ-tát
Xe báu bốn ngựa
Trang trí tàng lọng
Đem ra bố thí.
Lại thấy Bồ-tát
Bố thí thân mình
Ke cả vợ con
Cầu đạo Vô thượng
Lại thấy Bồ-tát
Đầu mắt thân thể,
Vui vẻ bố thí
Cầu trí tuệ Phật.
Văn-thù-sư-lợi!
Tôi thấy các vua
Qua đến chỗ Phật
Hỏi đạo Vô thượng,
Rời xa lạc thú
Cung điện vương phi
Cạo bỏ tóc râu
Mà mặc pháp phục.
Lại thấy Bồ-tát
Hiện thân Tỳ-kheo
Ở nơi thanh vắng
Thường tụng kinh điển.
Lại thấy Bồ-tát
Dũng mãnh tinh tấn
Vào sâu trong núi
Tư duy Phật đạo.
Thấy người ly dục
Ở nơi vắng vẻ
Chuyên tu thiền định
Chứng năm thần thông.
Lại thấy Bồ-tát
Chắp tay thiền định,
Dùng ngàn vạn kệ
Khen các Pháp vương.
Lại thấy Bồ-tát
Trí sâu chí bền,
Hay hỏi chư Phật
Nghe pháp thọ trì.
Lại thấy Phật tử
Định tuệ đầy đủ,
Dùng nhiều thí dụ
Vì chúng giảng pháp,
Vui thích nói pháp
Giáo hóa Bồ-tát
Phá dẹp ma binh
Đánh rền trống pháp.
Lại thấy Bồ-tát
Lặng yên trầm mặc,
Trời, Rồng cung kính
Cũng chẳng vui mừng.
Lại thấy Bồ-tát
Nơi rừng phóng quang,
Cứu khổ địa ngục
Khiến vào Phật đạo.
Lại thấy Phật tử
Ít khi ngủ nghỉ,
Kinh hành trong rừng
Siêng cầu Phật đạo.
Có người giới đức
Uy nghi đầy đủ,
Sạch như ngọc báu
Để cầu Phật đạo.
Lại thấy Phật tử
Chịu sức nhẫn nhục,
Kẻ tăng thượng mạn
Mắng nhiếc đánh đập
Cũng chịu nhẫn nhịn
Để cầu Phật đạo.
Lại thấy Bồ-tát
Tránh chuyện vui chơi
Và hạng ngu si
Gần gũi người trí,
Tâm trừ loạn động
Nhiếp niệm ở rừng
Ức ngàn vạn năm
Để cầu Phật đạo.
Lại thấy Bồ-tát
Ẩm thực thịnh soạn
Trăm thứ thuốc thang
Đem cúng Phật, Tăng,
Y phục cao sang
Đáng giá ngàn vạn,
Hoặc thứ vô giá
Đem cúng Phật, Tăng.
Ngàn vạn ức thứ
Nhà báu Chiên-đàn
Giường nằm hảo hạng
Đem cúng Phật, Tăng.
Cúng thí như vậy
Quý giá bao nhiêu
Cũng vui không tiếc
Cầu đạo Vô thượng.
Lại có Bồ-tát
Giảng pháp tịch diệt,
Dùng bao lời dạy
Vô số chúng sinh.
Lại thấy Bồ-tát
Quán tánh các pháp
Thấy tướng không hai
Giống như hư không.
Lại thấy Phật tử
Tâm không mê đắm,
Dùng diệu tuệ này
Cầu đạo Vô thượng.
Văn-thù-sư-lợi!
Lại có Bồ-tát
Phật diệt độ rồi
Cúng dường xá-lợi.
Lại thấy Phật tử
Xây dựng tháp miếu
Như cát sông Hằng
Tôn trí khắp nước.
Bảo tháp cao đẹp
Năm ngàn do-tuần,
Ngang rộng cân đối
Hai ngàn do-tuần,
Ở mỗi tháp miếu
Có ngàn tràng phan,
Màn ngọc treo rủ
Chuông khánh hòa reo.
Các Trời, Rồng, Thần
Người cùng Phi nhân,
Hương hoa kỹ nhạc
Hay đến cúng dường.
Văn-thù-sư-lợi!
Các Phật tử kia,
Vì cúng xá-lợi
Trang sức tháp miếu
Cõi nước tự nhiên
Đặc biệt đẹp đẽ,
Như cây Thiên thọ
Nở ra hoa lạ.
Khi Phật phóng quang,
Tôi cùng chúng hội
Thấy cõi nước này
Phi thường tốt đẹp.
Thần lực chư Phật
Trí tuệ hy hữu.
Phóng quang thanh tịnh
Chiếu vô lượng cõi.
Chúng tôi thấy được
Điều chưa từng có.
Phật tử Văn-thù
Xin giải chúng nghi.
Bốn chúng đều trông
Mong người và tôi
Vì sao Thế Tôn
Phóng quang như vậy?
Phật tử nên đáp
Giải nghi chúng mừng.
Được lợi ích gì
Phóng quang như vậy?
Phật tại đạo tràng,
Diệu pháp đã chứng,
Vì nói pháp đó,
Vì sẽ thọ ký,
Mà hiện cõi Phật
Thanh tịnh trang nghiêm
Và thấy chư Phật.
Duyên này không nhỏ.
Văn-thù nên biết
Bốn chúng Long, Thần
Đang chờ Tôn giả
Cho biết thế nào.

Lúc bấy giờ Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ-tát Di-lặc cùng các Đại sĩ rằng:

–Các thiện nam! Theo tôi suy xét thì nay Đức Phật Thế Tôn muốn nói thời pháp lớn, mưa cơn mưa pháp lớn, thổi pháp loa lớn, đánh trống pháp lớn và diễn pháp nghĩa lớn.

Các thiện nam! Tôi đã từng ở nơi các Đức Phật thời quá khứ đã thấy điềm lành này. Đức Phật phóng hào quang như vậy xong là nói pháp lớn. Cho nên biết chắc rằng hôm nay Phật hiện hào quang xong cũng sẽ như vậy. Phật vì muốn chúng sinh đều được nghe biết giáo pháp mà tất cả thế gian khó tin nên mới hiện điềm lành này.

Các thiện nam! Như vô lượng vô biên kiếp a-tăng-kỳ về trước, lúc ấy có Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn giảng nói chánh pháp, đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều rất hoàn thiện, nghĩa lý sâu xa, ngôn ngữ xảo diệu, thuần nhất không hỗn tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh trong sạch.

Phật, vì người cầu đạo Thanh văn, nói pháp Tứ đế độ thoát sinh, già, bệnh, chết cứu cánh Niết-bàn; vì người cầu quả Duyen giác, nói pháp Mười hai nhân duyên; vì các Bồ-tát nói sáu pháp Bala-mật khiến chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thành tựu Nhất thiết chủng trí.

Tiếp đến có vị Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, tiếp nữa lại có vị Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Cứ như vậy đến hai vạn vị Phật cùng một hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh và cùng một họ là Phả-la-đọa.

Di-lặc nên biết, vị Phật trước vị Phật sau đều cùng một tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu và những pháp được nói ra, đầu, giữa, rốt sau đều hoàn thiện.

Vị Phật sau cùng khi chưa xuất gia có tám vương tử. Người thứ nhất tên Hữu Ý, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bảo Ý, thứ năm tên Tăng Ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp Ý.

Tám vương tử đó có oai đức tự tại đều thống lãnh bốn châu thiên hạ, nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều bỏ ngôi vua xuất gia theo, phát tâm Đại thừa thường tu hạnh thanh tịnh trở thành Pháp sư, vì thuở trước đã từng vun trồng cội gốc lành nơi ngàn vạn Đức Phật.

Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên Vô Lượng Nghĩa Xứ Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói kinh xong rồi, Phật liền ở ngay giữa đại chúng ngồi kiết già nhập chánh định vào cảnh Vô lượng nghĩa xứ, thân tâm không lay động.

Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa rải lên Phật và đại chúng. Khắp các cõi Phật nổi lên sáu thứ chấn động. Lúc đó trong hội, các Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cànthát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân cùng các tiểu vương, Chuyển luân thánh vương… tất cả đại chúng được điều chưa từng có, nhất tâm hoan hỷ chắp tay chiêm ngưỡng Phật.

Bấy giờ Đức Như Lai từ tướng lông trắng giữa chân mày phóng hào quang chiếu khắp một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông như nay đang thấy các cõi Phật này vậy.

Di-lặc nên biết, khi đó trong hội có hai mươi ức Bồ-tát muốn nghe pháp. Các Bồ-tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn biết vì nhân duyên gì phóng quang như vậy.

Khi ấy có Bồ-tát hiệu Diệu Quang có tám trăm đệ tử. Bấy giờ Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh định, vì Diệu Quang Bồ-tát nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, suốt sáu mươi tiểu kiếp không rời pháp tọa.

Lúc ấy thính giả trong pháp hội cũng đều ngồi yên tại chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm không lay động, nghe Phật nói pháp, cho là như trong khoảng một bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một ai hoặc thân hoặc tâm cảm thấy mỏi mệt.

Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh xong rồi liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn và Trời, Người, A-tu-la mà tuyên bố rằng:

–Hôm nay vào lúc nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Vô dư Niết-bàn.

Khi đó có Bồ-tát tên Đức Tạng được Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký. Phật bảo các Tỳ-kheo rằng:

–Đức Tạng Bồ-tát này tiếp đến sẽ thành Phật hiệu Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.

Thọ ký xong, vào nửa đêm Phật nhập Vô dư Niết-bàn.

Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải tám mươi tiểu kiếp vì người giảng nói.

Tám người con của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều theo học với ngài Diệu Quang, được ngài Diệu Quang dạy bao khiến đều kiên cố nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vương tử ấy cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức Phật xong đều thành Phật đạo. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng.

Trong số tám trăm đệ tử có một người tên là Cầu Danh. Người này do tham lam danh lợi, tuy có đọc tụng kinh điển nhưng chẳng thông thuộc, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu Danh. Người này cũng có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật mà cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.

Di-lặc nên biết, lúc đó Bồ-tát Diệu Quang không phải ai khác mà là tôi đây, còn Bồ-tát Cầu Danh chính là ngài vậy. Nay thấy điềm lành này không khác xưa kia nên tôi xét nghĩ hôm nay Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát ở trong đại chúng muốn làm rõ nghĩa trên nói bài kệ rằng:

Tôi nhớ thuở quá khứ
Vô lượng vô số kiếp,
Có Phật được tôn kính
Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh
Thế Tôn diễn nói pháp
Độ vô lượng chúng sinh,
Vô số ức Bồ-tát,
Khiến vào trí tuệ Phật.
Khi Phật chưa xuất gia
Có sinh tám vương tử,
Thấy Đại thánh xuất gia
Cũng theo tu phạm hạnh.
Phật nói kinh Đại thừa
Tên là Vô Lượng Nghĩa.
Ở trong các đại chúng
Chỉ dạy rộng phân biệt.
Phật nói kinh ấy rồi,
Liền ngay tại pháp tọa,
Kiết già nhập chánh định
Tên Vô Lượng Nghĩa Xứ.
Trời mưa hoa Mạn-đà
Trống trời tự nhiên vang.
Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần
Cúng dường Nhân Trung Tôn
Tất cả các cõi Phật
Tức thời chấn động lớn.
Phật phóng quang giữa mày
Hiện các việc hy hữu.
Ánh sáng chiếu phương
Đông Vạn tám ngàn cõi Phật,
Cho tất cả chúng sinh
Thấy nghiệp báo sinh tử
Lại thấy các cõi Phật
Dùng bảo vật trang nghiêm,
Màu lưu ly, pha lê
Ánh sáng Phật chiếu soi.
Lại thấy những Trời, Người
Rồng, Thần, chúng Dạ-xoa,
Càn-thát, Khẩn-na-la
Đều cúng dường Phật ấy.
Lại thấy các Như Lai
Tự nhiên thành Phật đạo,
Sắc thân như núi vàng
Đoan nghiêm rất đẹp đẽ,
Như ngọc lưu ly sạch
Trong hiện ra tượng vàng.
Thế Ton trong đại chúng
Giảng dạy nghĩa thâm diệu.
Mỗi mỗi các cõi Phật
Chúng Thanh văn vô số,
Nhờ Phật quang soi sáng
Thấy hết đại chúng kia.
Hoặc có các Tỳ-kheo
Ở tại trong núi rừng,
Tinh tấn giữ tịnh giới
Như giữ ngọc minh châu.
Lại thấy các Bồ-tát
Tu bố thí, nhẫn nhục,
Đông như cát sông Hằng
Nhờ ánh sáng Phật soi.
Lại thấy các Bồ-tát
Thâm nhập các thiền định,
Thân tâm lặng chẳng động
Để cầu đạo Vô thượng.
Lại thấy các Bồ-tát
Rõ tướng pháp tịch diệt,
Đều ở tại nước mình
Nói pháp cầu Phật đạo.
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng
Hiện sức thần thông lớn
Lòng ai nấy vui mừng,
Người người đều tự hỏi
Việc này nhân duyên gì?
Đấng trời người thờ phụng
Vừa từ chánh định xuất,
Khen Bồ-tát Diệu Quang
Là mắt của thế gian,
Mọi người đều tin tưởng
Vâng giữ được Pháp tạng.
Như pháp của ta nói
Chỉ ông chứng biết được.
Thế Tôn đã ngợi khen
Cho Diệu Quang vui mừng,
Liền nói kinh Pháp Hoa
Suốt sáu mươi tiểu kiếp,
Không rời khỏi pháp tọa.
Pháp nhiệm mầu giảng nói
Ngài Diệu Quang Pháp sư
Đều có thể thọ trì.
Phật nói kinh Pháp Hoa
Khiến đại chúng hoan hỷ.
Rồi chính trong ngày ấy
Bảo các trời người hay:
Các pháp nghĩa thật tướng
Đã vì các ngươi nói.
Ta ngay giữa đêm này
Sẽ vào cõi Niết-bàn.
Hãy một lòng tinh tấn
Xa lánh tánh buông lung.
Chư Phật rất khó gặp
Ức kiếp được một lần.
Các con của chư Phật
Nghe Phật sắp diệt độ,
Ai nấy đều sầu não
Sao nhập diệt sớm vậy?
Đấng Thánh chúa Pháp vương
An ủi vô lượng chúng:
Cho dù ta diệt độ
Các ngươi chớ lo sợ!
Bồ-tát Đức Tạng đây
Tâm đã được thông thấu
Nơi vô lậu thật tướng;
Kế tiếp sẽ thành Phật
Tên hiệu là Tịnh Thân
Cũng độ vô lượng chúng.
Đêm đó Phật diệt độ
Như củi tàn lửa tắt.
Xá-lợi được phân chia
Xây dựng vô lượng tháp.
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Số như cát sông Hằng.
Lại càng thêm tinh tấn
Để cầu đạo Vô thượng.
Pháp sư Diệu Quang ấy
Vâng giữ Phật pháp tạng
Trong tám mươi tiểu kiếp
Rộng giảng kinh Pháp Hoa.
Tám vị vương tử đó
Được Diệu Quang dạy bảo,
Kiên cố đạo Vô thượng
Sẽ thấy vô số Phật,
Cúng dường chư Phật xong
Tùy thuận tu đại đạo.
Nối tiếp nhau thành Phật
Lần lượt thọ ký nhau.
Vị sau cùng thành Phật
Hiệu là Phật Nhiên Đăng.
Đạo Sư của Thiên, Tiên
Độ thoát vô lượng chúng.
Pháp sư Diệu Quang ấy
Có một người đệ tử
Tâm thường ôm biếng trễ
Tham đắm vòng danh lợi
Cầu danh lợi không chán,
Thường đến chỗ giàu sang,
Phế bỏ việc học tập,
Quên mất không thông thuộc.
Do vì nhân duyên ấy
Nên gọi là Cầu Danh.
Cũng tu các nghiệp lành
Được thấy vô số Phật,
Cúng dường các Đức Phật
Tùy thuận tu đại đạo,
Đủ sáu Ba-la-mật.
Nay gặp Phật Thích-ca,
Sau này sẽ thành Phật
Tên hiệu là Di-lặc,
Rộng độ các chúng sinh
Số đông không kể xiết.
Sau Phật kia diệt độ
Lười biếng đó là ngài.
Còn Pháp sư Diệu Quang
Nay chính là tôi đấy.
Tôi thấy Phật Đăng Minh
Điềm sáng trước như thế.
Cho nên biết rằng nay
Phật muốn nói Pháp Hoa.
Tướng này giống điềm xưa
Là phương tiện của Phật.
Nay Phật phóng hào quang
Giúp bày nghĩa thật tướng.
Các người nay nên biết
Chắp tay một lòng chờ.
Phật sẽ rưới mưa pháp
Đủ khắp người cầu đạo.
Những ai cầu ba thừa
Có chỗ nghi không rõ,
Phật sẽ dứt trừ cho
Khiến hết không còn thừa.

Phẩm 2: PHƯƠNG TIỆN

Lúc bấy giờ Thế Tôn từ chánh định an lành xả định, bảo Xálợi-phất rằng:

–Trí tuệ của chư Phật sâu xa vô lượng. Môn trí tuệ đó khó hiểu khó vào, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều không biết được. Vì sao vậy? Phật đã từng gần gũi trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, tu tập hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, tiếng tăm đồn khắp, thành tựu pháp sâu xa chưa từng có, tùy thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.

Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, các nhân duyên, các thí dụ, phô diễn ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dẫn dắt chúng sinh khiến lìa xa các chấp trước. Vì sao vậy? Vì Như Lai đã đầy đủ phương tiện tri kiến Ba-la-mật.

Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, có sức vô lượng không trơ ngại, không sợ hãi, thiền định, giải thoát Tam-muội sâu không bờ bến, thành tựu tất cả pháp chưa từng có.

Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt khéo léo giảng nói các pháp bằng lời lẽ dịu dàng làm đẹp lòng người nghe.

Xá-lợi-phất! Nói tóm lại Phật thành tựu tất cả vô lượng vô biên pháp chưa từng có.

Xá-lợi-phất hãy thôi, không cần nói lại nữa! Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có mà Phật đã thành tựu thì chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu triệt tướng chân thật của các pháp. Nghĩa là đã nói cái chân thật của các pháp thì tướng là như vậy, tánh là như vậy, thể là như vậy, sức lực là như vậy, hành động là như vậy, nhân là như vậy, duyên là như vậy, quả là như vậy, báo là như vậy, trước, sau rốt ráo đều như vậy.

Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ rằng:

Đấng Thế Hùng khó lường
Chư Thiên cùng người đời,
Tất cả loài chúng sinh
Không ai hiểu được Phật.
Phật lực không khiếp sợ
Giải thoát các Tam-muội.
Các pháp khác của Phật
Không ai đo lường được.
Vốn từ vô số Phật
Tu đầy đủ các đạo.
Pháp nhiệm mầu rất sâu,
Khó thấy khó rõ được.
Trong vô lượng ức kiếp
Tu các đạo ấy rồi,
Đạo tràng được chứng quả
Ta đều đã thấy biết.
Quả báo lớn như vậy,
Các thứ tánh tướng nghĩa,
Ta cùng mười phương
Phật Mới biết được việc đó.
Pháp không thể chỉ bày
Vắng bặt tướng nói năng.
Các loài chúng sinh khác
Không thể nào hiểu được.
Trừ các chúng Bồ-tát
Có sức tin kiên cố,
Các hàng đệ tử Phật
Từng cúng dường chư Phật,
Tất cả lậu đã hết
Ở thân sau cùng này,
Các hạng người như vậy,
Sức họ không kham nổi.
Giả sử đầy thế gian
Đều như Xá-lợi-phất
Cùng chung nhau suy xét
Không lường được trí Phật.
Dẫu cho khắp mười phương
Đều như Xá-lợi-phất,
Và các đệ tử khác
Cũng đầy cõi mười phương
Cùng chung nhau suy xét
Cũng không thể biết được.
Duyên giác trí nhạy bén,
Thân vô lậu sau cùng,
Cũng đầy cõi mười phương
Số đông như rừng tre,
Tất cả cùng một lòng
Trong vô lượng ức kiếp
Muốn xét Phật thật trí
Chẳng biết được chút nào.
Bồ-tát mới phát tâm
Cúng dường vô số Phật,
Thấu rõ các nghĩa thú
Lại có tài nói pháp,
Đông đầy cõi mười phương
Như lúa mè tre lau,
Nhất tâm dùng diệu trí
Trải số kiếp hằng sa
Cùng chung nhau suy xét
Không biết được trí Phật.
Hàng bất thoái Bồ-tát
Nhiều như cát sông Hằng,
Nhất tâm cùng suy xét
Cũng không thể hiểu được.
Lại bảo Xá-lợi-phất
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Vô lậu khó nghĩ bàn
Nay ta đã đầy đủ.
Chỉ ta biết tướng đó
Mười phương Phật cũng vậy.
Xá-lợi-phất phải biết
Chư Phật nói không khác.
Với pháp Phật nói ra
Nên sinh sức tin lớn.
Pháp Phật lâu về sau
Cần phải nói chân thật.
Bảo các chúng Thanh văn
Cùng người cầu Duyên giác,
Ta khiến cho thoát khổ
Đến chứng được Niết-bàn.
Phật dùng sức phương tiện
Dạy cho ba thừa giáo.
Chúng sinh nếu mê đắm
Dắt dẫn khiến ra khỏi.

Lúc bấy giờ trong đại chúng có các Thanh văn lậu tận A-la-hán như A-nhã Kiều-trần-như… đến một ngàn hai trăm người và các Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di là những bậc phát tâm Thanh văn, Duyên giác, đều nghĩ: “Vì sao hôm nay Phật ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này: ‘Pháp của Phật chứng rất sâu xa khó hiểu, tất cả Thanh văn, Duyên giác không thể đạt tới được.’ Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đạt được Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu?”

Lúc đó Xá-lợi-phất biết bốn chúng sinh nghi mà chính tự mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Nhân gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương tiện thứ nhất nhiệm mầu sâu xa khó hiểu của chư Phật? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó. Hôm nay cả bốn chúng đều có chỗ nghi. Cúi xin Thế Tôn giải rõ việc đó. Vì sao Thế Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu sâu xa khó hiểu?

Bấy giờ Xá-lợi-phất muốn làm rõ nghĩa trên nói bài kệ:

Đấng Tuệ Nhật Đại Thánh
Lâu mới nói pháp này.
Tự nói pháp đã chứng
Lực, Vô úy, Tam-muội
Và Thiền định, Giải thoát
Là không thể nghĩ bàn.
Pháp chứng nơi đạo tràng
Không ai có thể hỏi.
Ý con khó suy xét
Cũng không ai hỏi được.
Không hỏi mà tự nói
Khen ngợi đạo tu hành.
Chư Phật đã chứng đắc
Trí tuệ rất nhiệm mầu.
Hàng vô lậu La-hán
Cùng người cầu Niết-bàn
Nay đều sa lưới nghi:
Vì sao Phật nói thế?
Hạng người cầu Duyên giác,
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần
Và chúng Càn-thát-bà
Nhìn nhau lòng hoài nghi
Chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn,
Việc đó là thế nào?
Xin Phật vì chỉ dạy!
Trong các chúng Thanh văn
Phật bảo con hạng nhất,
Nay chính trong trí con
Nghi hoặc không rõ được.
Vì là pháp cứu cánh
Vì là chỗ hành đạo,
Con từ miệng Phật sinh
Chắp tay chiêm ngưỡng đợi
Xin ban tiếng nhiệm mầu
Dạy cho pháp như thật.
Tất cả các Trời, Rồng
Số như cát sông Hằng,
Bồ-tát cầu thành Phật
Số nhiều đến tám vạn,
Có vạn ưc quốc gia
Chuyển luân vương cũng đến
Đều cung kính chắp tay
Muốn nghe đạo đầy đủ.

Bấy giờ Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Thôi thôi không nên nói nữa, nếu nói ra, tất cả trời và người trong thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.

Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin dạy bảo, cúi xin dạy bảo! Bởi vì sao? Vì trong hội nay có vô số trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ chúng sinh đã từng gặp các Đức Phật, các căn dũng mãnh lanh lợi, trí tuệ sáng suốt, nếu được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin.

Bấy giờ Xá-lợi-phất muốn làm rõ lại nghĩa này, nói bai kệ:

Đấng Pháp Vương vô thượng Xin dạy cho, đừng ngại. Vô lượng chúng hội đây Có người kính tin được.

Phật lại ngăn Xá-lợi-phất rằng:

–Nếu nói điều đó ra thì tất cả Trời, Người, A-tu-la trong thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ và Tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa đọa vào vực thẳm.

Khi ấy Thế Tôn lại nói bài kệ rằng:

Thôi thôi không nên nói
Pháp vi diệu khó nghĩ,
Những kẻ tăng thượng mạn
Nghe ắt không kính tin.

Bấy giờ Xá-lợi-phất bạch Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn, cúi xin chỉ dạy, cúi xin chỉ dạy! Hiện nay trong hội chúng này hạng người như con có đến trăm ngàn vạn ức, đã từng đời đời theo Phật thọ giáo. Những người như vậy chắc có thể kính tin, yên ổn lâu dài, được nhiều lợi ích.

Bấy giờ Xá-lợi-phất muốn làm rõ nghĩa trên, nói bài kệ:

Vô thượng Lưỡng Túc Tôn
Xin nói pháp đệ nhất.
Con là Trưởng tử Phật
Xin phân biệt chỉ dạy.
Vô lượng chúng hội đây
Kính tin được pháp này.
Đời đời Phật đã từng
Giáo hóa chúng như vậy.
Nay một lòng chắp tay
Muốn thọ lãnh lời Phật.
Chúng con ngàn hai trăm
Cùng bao nhiêu người khác,
Xin Phật vì chúng hội
Rủ lòng phân biệt nói.
Chúng hội nghe pháp này
Sẽ sinh lòng hoan hỷ.

Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất:

–Ông đã ân cần ba phen thưa thỉnh thì lẽ đâu không nói. Vậy hãy lắng nghe suy nghĩ kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt giảng nói.

Khi Phật nói như vậy thì trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cả thảy là năm ngan người liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật lui ra. Vì sao vậy? Vì những người này nguồn gốc tội lỗi sâu nặng, lại có lòng tăng thượng mạn, cái chưa đạt được nói đã đạt được, chỗ chưa chứng nói đã chứng, sai quấy như thế đó nên không ở lại. Thế Tôn lặng thinh không ngăn cản.

Bấy giờ Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Trong chúng ta đây không còn cành lá nữa, chỉ toàn có hạt chắc. Xá-lợi-phất! Những kẻ tăng thượng mạn thế kia lui về là tốt.

Ông nay nghe cho rõ, ta sẽ vì ông mà giảng nói.” Xá-lợi-phất bạch:

–Vâng thưa Thế Tôn con muốn được nghe!

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Pháp vi diệu như thế, chư Phật Như Lai đúng thời mới nói. Như hoa Ưu-đàm đúng thời tiết mới có một lần. Xá-lợi-phất, các ông hãy tin lời Phật nói không hư vọng.

Xá-lợi-phất! Chư Phật theo thời nghi mà nói pháp, ý thú khó hiểu. Bởi vì sao? Ta dùng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ để diễn nói các pháp.
Pháp đó không phải lấy suy tư phân biệt mà hiểu được. Chỉ có chư Phật mới biết. Bởi vì sao? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một nhân duyên trọng đại mà xuất hiện ra đời.

Xá-lợi-phất! Vì sao nói là chư Phật Thế Tôn chỉ vì một nhân duyên trọng đại mà xuất hiện ra đời? Là vì chư Phật Thế Tôn muốn khai mở tri kiến Phật cho chúng sinh được thanh tịnh mà xuất hiện ra đời, muốn chỉ bày tri kiến Phật cho chúng sinh mà xuất hiện ra đời, muốn chúng sinh giác ngộ tri kiến Phật mà xuất hiện ra đời, muốn chúng sinh chứng nhập vào tri kiến Phật mà xuất hiện ra đời.

Xá-lợi-phất! Chư Phật vì một nhân duyên trọng đại mà xuất hiện ra đời là như vậy đó!

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát, những điều làm ra chỉ vì một việc, đó là đem tri kiến Phật chỉ bày cho chúng sinh được giác ngộ mà thôi.

Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sinh thuyết pháp, không có thừa nào khác, nói chi đến hai hay ba.

Xá-lợi-phất! Pháp của tất cả mười phương chư Phật cũng như vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật quá khứ đã dùng vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ để vì chúng sinh diễn nói các pháp. Các pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sinh đó theo chư Phật nghe pháp, cứu cánh đều chứng được Nhất thiết chủng trí.

Xá-lợi-phất! Chư Phật ra đời vào thời vị lai cũng sẽ dùng vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ để vì chúng sinh diễn nói các pháp. Các pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu cánh đều sẽ chưng được Nhất thiết chủng trí.

Xá-lợi-phất! Chư Phật Thế Tôn hiện tại, trong vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi Phật ở mười phương, đang làm nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sinh. Chư Phật đó cũng dùng vô lượng, vô số phương tiện các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ để vì chúng sinh diễn nói các pháp. Các pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu cánh đều chứng được Nhất thiết chủng trí.

Xá-lợi-phất! Các Đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-tát là vì muốn chỉ bày tri kiến Phật cho chúng sinh, muốn làm cho chúng sinh giác ngộ tri kiến Phật, muốn làm cho chúng sinh chứng được tri kiến Phật.

Xá-lợi-phất! Ta nay cũng vậy. Biết rõ chúng sinh có nhiều dục vọng, mê chấp thân tâm, ta tùy theo bản tánh đó mà dùng các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ cùng sức phương tiện mà vì họ nói pháp.

Xá-lợi-phất! Làm như thế là vì để chứng được một Phật thừa Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Trong mười phương thế giới, hai thừa còn không có huống chi là có ba.

Xá-lợi-phất! Chư Phật xuất hiện ra trong đời ác có năm thứ ô uế. Đó là kiếp sống ô uế, phiền não ô uế, chúng sinh ô uế, kiến chấp ô uế, thân mạng ô uế. Vì vậy, Xá-lợi-phất! Gặp kiếp loạn ô uế thì chúng sinh có nhiều ô uế như bỏn sẻn, tham lam, ganh ghét, chỉ tạo những điều không lành, cho nên các Đức Phật dùng sức phương tiện từ một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba.

Xá-lợi-phất! Nếu đệ tử ta tự cho mình là A-la-hán, là Duyên giác mà không nghe không biết việc của chư Phật Như Lai là chỉ giáo hóa Bồ-tát, thì những người này không phải đệ tử Phật, không phải A-la-han, không phải Duyên giác.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đó tự cho mình đã được quả A-la-hán, là thân sau cùng, là cứu cánh Niết-bàn, thế rồi không còn quyết chí cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết rằng họ là những kẻ tăng thượng mạn. Bởi vì sao? Nếu có Tỳ-kheo thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin pháp này thì quyết chắc điều đó là không thể có, trừ khi Phật đã diệt độ rồi hoặc hiện tại không có Phật. Bởi vì sao? Sau khi Phật diệt độ đối với những kinh như thế rất khó có người có khả năng thọ trì đọc tụng hiểu rõ nghĩa lý. Còn nếu gặp chư Phật khác thì có thể hiểu rõ được ý nghĩa trong pháp này.

Xá-lợi Phật! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ trì lời Phật nói. Lời của chư Phật Như Lai không là hư vọng, nói không có thừa nào khác, chỉ duy nhất có một Phật thừa mà thôi.

Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn là rõ lại nghĩa này nói bai kệ rằng:

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Ôm lòng tăng thượng mạn,
Ưu-bà-tắc ngã mạn
Ưu-bà-di không tin.
Bốn chúng như thế đó
Số ấy đến năm ngàn.
Họ không thấy lỗi mình
Giới đức thì thiếu sót.
Tiếc giữ điều sai quấy
Dùng thủ đoạn trí xảo.
Hạng thấp hèn trong chúng
Sợ oai Phật phải lui.
Hạng này kém phước đức
Không kham nổi pháp này.
Chúng nay không cành lá
Chỉ toàn những hạt chắc.
Xá-lợi-phất nghe rõ,
Pháp nghĩa chư Phật chứng
Vô lượng sức phương tiện
Vì chúng sinh mà nói.
Tâm chúng sinh suy nghĩ
Cũng như các hành vi
Bao nhiêu là dục vọng
Nghiệp lành dữ đời trước,
Phật đã biết rõ hết.
Dùng các duyên thí dụ,
Bằng ngôn từ phương tiện
Khiến tất cả hoan hỷ.
Hoặc giảng nói Khế kinh
Trùng tụng cùng Bản sự,
Bản sinh, Vị tằng hữu
Cũng nói trong Nhân duyên.
Thí dụ và Cô khởi
Luận nghị cộng chín kinh.
Độn căn ưa pháp nhỏ
Tham đắm nơi sinh tử,
Nơi vô lượng chư Phật
Không tu hành đạo mầu,
Bị các khổ quấy rối
Vì thế nói Niết-bàn.
Ta lập phương tiện đó
Khiến vào trí tuệ Phật,
Chưa từng nói mọi người
Sẽ được thành Phật đạo.
Sở dĩ chưa từng nói
Là vì chưa đúng lúc.
Nay là thời đã đến
Quyết định nói Đại thừa.
Chín bộ pháp của ta
Thuận theo chúng sinh nói.
Vào Đại thừa là gốc
Nên mới nói kinh này.
Có Phật tử tâm tịnh
Dịu dàng mà lanh lợi,
Nơi vô lượng chư Phật
Tu tập đạo nhiệm mầu.
Vì hàng Phật tử đó
Nói kinh Đại thừa đây.
Ta thọ ký người đó
Đời sau thành Phật đạo.
Bởi thâm tâm niệm Phật
Tu trì tịnh giới nên
Hạng này nghe thành Phật
Lòng tràn đầy hoan hỷ.
Phật biết tâm như thế
Nên vì nói Đại thừa.
Nếu Thanh văn Bồ-tát
Nghe pháp ta nói ra
Dù chỉ một bài kệ
Đều thành Phật không nghi.
Trong mười phương cõi Phật
Chỉ có pháp Nhất thừa.
Không hai cũng không ba.
Trừ Phật phương tiện nói
Chỉ dùng danh tự giả
Dắt dẫn cho chúng sinh,
Để nói trí tuệ Phật.
Chư Phật hiện ở đời,
Chỉ một sự thật này,
Các thứ khác không thật.
Quyết không dùng Tiểu thừa
Mà tế độ chúng sinh.
Phật an trú Đại thừa
Như pháp đã chứng đắc.
Định, tuệ, lực trang nghiêm
Lấy đó độ chúng sinh.
Tự chứng đạo Vô thượng
Pháp Đại thừa bình đẳng.
Nếu đem Tiểu thừa dạy
Cho dù với một người,
Ta sẽ đọa xan tham,
Điều này không thể được.
Nếu người tin theo Phật
Như Lai không dối gạt
Không tham lam ganh ghét
Dứt ác trong các pháp,
Nên Phật ở mười phương
Mà hoàn toàn chẳng sợ.
Ta dùng tướng trang nghiêm
Ánh sáng chiếu thế gian.
Vô lượng chung tôn trọng
Vì nói thật tướng ấn.
Xá-lợi-phất nên biết,
Ta vốn lập thệ nguyện
Muốn cho tất cả chúng
Được như ta không khác.
Như xưa ta đã nguyện
Nay được đầy đủ rồi,
Độ tất cả chúng sinh
Đều khiến vào Phật đạo.
Nếu ta gặp chúng sinh,
Dạy hết bằng Phật đạo,
Kẻ vô trí rối loạn
Mê lầm không thọ giáo.
Ta biết chúng sinh này
Chưa từng tu nghiệp thiện,
Chấp chặt nơi năm dục
Vì si ái sinh khổ,
Bởi nhân duyên tham dục
Sa đọa ba đường dữ,
Luân hồi trong sáu nẻo
Chịu đủ các khổ độc,
Thụ thai mà thành thân
Cứ đời đời tăng trưởng.
Người đức mỏng ít phúc
Bị các khổ bức bách,
Lạc vào rừng tà kiến
Hoặc chấp có chấp phông,
Dựa vào chấp kiến này
Đủ cả sáu mươi hai.
Mê chấp pháp hư vọng
Ôm chặt không thể bỏ,
Quá ngã mạn kiêu căng
Dua nịnh không chân thật,
Trong ngàn vạn ức kiếp
Không nghe danh hiệu Phat,
Và không nghe chánh pháp
Người như vậy khó độ.
Cho nên Xá-lợi-phất!
Ta vì lập phương tiện
Nói các đạo diệt khổ
Cho đó là Niết-bàn.
Tuy ta nói Niết-bàn
Cũng không phải thật diệt.
Các pháp từ xưa nay
Tướng thường tự vắng lặng.
Phật tử hành đạo rồi
Đời sau được thành Phật.
Ta có sức phương tiện
Mở bày pháp ba thừa.
Tất cả chư Thế Tôn
Đều nói đạo Nhất thừa.
Nay trong đại chúng này
Đều phải diệt nghi ngờ.
Lời Phật nói không khác
Chỉ một, không hai thừa.
Vô số kiếp đã qua
Vô lượng Phật diệt độ
Trăm ngàn vạn ức Phật
Số nhiều không lường hết.
Như vậy chư Thế Tôn
Dùng các duyên thí dụ
Vô số sức phương tiện
Diễn nói các pháp tướng.
Các Đức Thế Tôn đó
Đều nói pháp Nhất thừa
Độ vô lượng chúng sinh
Khiến vào nơi Phật đạo.
Lại các Đại Thánh chúa
Biết tất cả thế gian
Trơi người loài quần sinh
Thâm tâm chỗ ưa muốn
Bèn dùng phương tiện khác
Giúp rõ nghĩa đệ nhất.
Nếu có loài chúng sinh
Gặp chư Phật quá khứ
Hoặc nghe pháp bố thí
Hoặc trì giới, nhẫn nhục,
Tinh tấn, thiền, trí tuệ,
Tu các thứ phước tuệ,
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo.
Chư Phật diệt độ rồi
Nếu người lòng hiền dịu
Các chúng sinh như thế
Đều đã thành Phật đạo.
Chư Phật diệt độ rồi
Người cúng dường xá-lợi,
Xây vạn ức tháp miếu
Vàng bạc và pha lê,
Xa cừ cùng mã não
Ngọc mai khôi, lưu ly,
Thanh tịnh và trang nghiêm
Trang hoàng nơi các tháp.
Hoặc là dựng miếu đá
Chiên-đàn và trầm hương
Gỗ mật cùng thứ khác
Gạch ngói hoặc đất sét,
Hoặc ở nơi đồng trống
Đắp đất làm miếu Phật,
Dù trẻ con chơi đùa
Vun cát làm tháp Phật,
Những hạng người như vậy
Đều đã thành Phật đạo.
Nếu như người vì Phật
Xây dựng các hình tượng
Chạm khắc thành các tướng
Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc dùng bảy thứ báu
Thau, đồng bạch, đồng đỏ,
Bạch lạp cùng chì thiếc,
Sắt, gỗ cùng đất sét,
Hoặc dùng keo, sơn, vải
Tô điểm làm tượng Phật,
Những hạng người như vậy
Đều đã thành Phật đạo.
Hội họa vẽ tượng Phật
Trăm tướng phước trang nghiêm
Tự làm khuyên người làm
Đều đã thành Phật đạo.
Dù trẻ con chơi đùa
Dùng cỏ cây hoặc bút
Hoặc dùng đầu móng tay
Mà vẽ làm tượng Phật.
Những hạng người như vậy
Lần lần chứa công đức
Đầy đủ tâm Đại bi
Đều đã thành Phật đạo.
Cần dạy các Bồ-tát
Độ thoát vô lượng chúng.
Nếu người nơi tháp miếu
Tượng báu và tượng vẽ,
Dùng hoa hương phướn lọng
Tâm cung kính cúng dường,
Hoặc khiến người tấu nhạc
Đánh trống thổi sừng ốc,
Tiêu địch cầm không hầu
Tỳ bà cùng phèn la
Âm nhạc hay như vậy
Đem dâng trọn cúng dường.
Hoặc dùng tâm hoan hỷ
Ca ngâm khen Đức Phật,
Cho dù một tiếng nhỏ
Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc người tâm tán loạn
Dù dùng một bông hoa
Cúng dường nơi tượng vẽ
Sẽ thấy vô số Phật.
Hoặc có người lễ lạy
Hoặc chỉ có chắp tay,
Hay chỉ đưa một tay
Hoặc chỉ hơi cúi đầu
Như để cúng dường tượng
Sẽ thấy vô lượng Phật.
Từ thành đạo Vô thượng
Rộng độ vô số chúng
Vào Vô dư Niết-bàn
Như củi tàn lửa tắt.
Nếu người tâm tán loạn
Vào ở nơi tháp miếu,
Một tiếng Nam-mô Phật
Cũng đã thành Phật đạo.
Nơi chư Phật quá khứ
Tại thế hay diệt rồi
Có người nghe pháp này
Đều đã thành Phật đạo.
Chư Thế Tôn vị lai
Số nhiều không lường hết.
Các Đức Như Lai đó
Cùng phương tiện nói pháp.
Tất cả chư Như Lai
Dùng vô lượng phương tiện
Độ thoát các chúng sinh
Vào trí vô lậu Phật.
Những người được nghe pháp
Không ai không thành Phật.
Chư Phật vốn thệ nguyện
Phật đạo ta tu hành
Muốn cho khắp chúng sinh
Cũng đều được đạo này.
Chư Phật đời vị lai
Dầu nói trăm ngàn ức
Vô số các pháp môn
Kỳ thật vì Nhất thừa.
Chư Phật Lưỡng Túc Tôn
Biết pháp thường không tánh
Giống Phật tùy duyên khởi
Cho nên nói Nhất thừa.
Pháp ở vị trí pháp
Tướng thế gian thường trú.
Nơi đạo tràng đã biết
Đạo Sư phương tiện mói.
Hiện tại mười phương Phật
Được trời người cúng dường.
Số nhiều như hằng sa
Xuất hiện ra thế gian
Vì an ổn chúng sinh
Cũng nói pháp như vậy.
Tịch diệt là đệ nhất
Nhưng dùng sức phương tiện,
Giáo hóa bằng nhiều lối
Kỳ thật vì Phật thừa.
Biết các hạnh chúng sinh
Điều nghĩ nhớ trong tâm
Tạo nghiệp từ quá khứ
Lòng dục, sức tinh tấn
Và các căn nhanh chậm
Dùng các thứ nhân duyên
Thí dụ với ngôn từ
Tùy cơ phương tiện nói.
Ta nay cũng như vậy,
Vì yên ổn chúng sinh,
Dùng các thứ pháp môn
Để là rõ Phật đạo.
Ta dùng sức trí tuệ
Biết dục vọng chúng sinh.
Phương tiện nói các pháp
Khiến đều sinh hoan hỷ.
Xá-lợi-phất nên biết,
Ta dùng mắt Phật xem
Thấy sáu đường chúng sinh
Nghèo cùng không phước tuệ,
Vào đường hiểm sinh tử,
Khổ nối nhau không dứt.
Đắm sâu năm dục vọng
Như trâu thích cái đuôi.
Do tham ái tự che
Mù quáng không thấy được.
Không cầu Phật thế lớn
Và pháp dứt khổ đau
Lún sâu vào tà kiến
Lại lấy khổ diệt khổ.
Phật vì chúng sinh này
Mà sinh tâm đại Bi.
Ta mới vào đạo tràng
Cũng quán sát, kinh hành
Trong hai mươi mốt ngày
Tư duy việc như sau:
Trí tuệ ta đạt được
Là vi diệu đệ nhất.
Chúng sinh các căn chậm
Vui, si làm mù quáng.
Những hạng người như thế
Làm sao để độ được?
Bấy giờ các Phạm vương
Cùng các trời Đế Thích
Bốn Thiên vương hộ đời
Và trời Đại tư tại,
Cùng các Thiên chúng khác
Trăm ngàn ức quyến thuộc
Chắp tay cung kính lễ,
Thỉnh ta chuyển pháp luân.
Ta liền tự suy nghĩ
Nếu chỉ khen Phật thừa,
Chúng sinh chìm nơi khổ
Không tin được pháp đó.
Do phá pháp không tin
Đọa vào ba đường dữ.
Ta thà không nói pháp
Mau chóng nhập Niết-bàn.
Liền nhớ quá khứ Phật
Thực hành sức phương tiện.
Ta nay chứng được đạo
Cũng nên nói ba thừa.
Lúc ta nghĩ như vậy
Mười phương Phật đều hiện,
Tiếng Phạm an ủi ta:
Hay thay, Phật Thích-ca!
Bậc Đạo Sư đệ nhất,
Được pháp Vô thượng này,
Làm theo như chư Phật
Mà dùng sức phương tiện.
Chúng tôi cũng đều được
Pháp vi diệu đệ nhất.
Vì các loài chúng sinh
Phân biệt nói ba thừa.
Trí kém chuộng pháp nhỏ
Không tự tin thành Phật,
Cho nên dùng phương tiện
Phân biệt nói các quả.
Dầu cho nói ba thừa
Chỉ nhằm dạy Bồ-tát.
Xá-lợi-phất nên biết,
Ta nghe các Đức Phật
Tiếng nhiệm mầu thanh tịnh
Xưng Nam-mô chư Phật.
Ta lại nghĩ thế này
Ta ra đời trược ác,
Như chư Phật đã nói,
Ta cũng làm y theo.
Suy nghĩ như vậy rồi
Liền đến Ba-la-nại.
Các pháp tướng tịch diệt
Không dùng lời giảng được.
Bèn dùng sức phương tiện
Vì năm Tỳ-kheo nói.
Gọi là chuyển pháp luân
Mới có tiếng Niết-bàn.
Cùng với A-la-hán
Và Pháp, Tăng sai khác.
Từ kiếp xưa đến nay
Khen pháp Niết-bàn này,
Dứt hẳn khổ sống chết,
Ta thường nói như vậy.
Xá-lợi-phất phải biết,
Ta thấy các Phật tử
Chí quyết cầu Phật đạo
Vô lượng ngàn vạn ức
Đều đem lòng cung kính
Đồng đi đến chỗ Phật,
Đã từng theo chư Phật
Nghe thuyết pháp phương tiện.
Ta liền nghĩ thế này:
Sở dĩ Phật ra đời
Vì để nói Phật tuệ.
Nay chính là đúng lúc.
Xá-lợi-phất phải biết.
Người căn chậm trí nhỏ,
Kẻ chấp tướng kiêu mạn
Không thể tin pháp này.
Nay ta vui vô úy
Ở trong hàng Bồ-tát
Trút bỏ ngay phương tiện
Chỉ nói đạo Vô thượng.
Bồ-tát nghe pháp đó
Đều đã trừ lưới nghi.
Ngàn hai trăm La-hán
Cũng đều sẽ thành Phật,
Như cách thức nói pháp
Của chư Phật ba đời.
Ta nay cũng như vậy
Nói pháp không phân biệt.
Các Đức Phật ra đời
Lâu xa khó gặp gỡ.
Cho dẫu hiện ra đời
Nói pháp này khó hơn,
Vô lượng, vô số kiếp
Nghe pháp này cũng khó,
Hay nghe được pháp này
Hạng người đó cũng khó.
Ví như hoa Ưu-đàm
Ai cũng đều ưa thích,
Trong trời, người ít có
Lâu mới nở một lần.
Nghe pháp vui mừng khen
Dù chỉ nói một lời
Tức là đã cúng dường
Ba đời tất cả Phật.
Người như vậy hiếm có
Hơn cả hoa Ưu-đàm.
Mọi người xin chớ nghi
Ta là vua các pháp
Dạy bảo khắp đại chúng
Chỉ dùng đạo Nhất thừa.
Giáo hóa các Bồ-tát,
Không đệ tử Thanh văn.
Xá-lợi-phất các ngươi
Thanh văn và Bồ-tát
Phải biết pháp mầu này:
Bí quyết của chư Phật.
Bởi đời ác năm trược
Chỉ tham đắm dục lạc
Những chúng sinh như vậy
Đều không cầu Phật đạo.
Người ác ở đời sau
Nghe Phật nói Nhất thừa
Mê lầm không tin nhận
Phá pháp đọa đường dữ.
Người trong sạch hổ thẹn,
Quyết chí cầu Phật đạo.
Nên vì những người ấy
Rộng khen đạo Nhất thừa.
Xá-lợi-phất nên biết
Pháp chư Phật là vậy.
Dùng vạn ức phương tiện
Tùy nghi mà nói pháp.
Ai không chịu tu học
Không hiểu được pháp này.
Các ông nay đã rõ
Phật là Thầy ở đời.
Tùy theo việc phương tiện
Không còn nghi lầm nữa,
Sinh lòng rất vui mừng
Tự biết sẽ thành Phật.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7