Phật Thuyết Kinh Di-lặc Hạ Sanh

Hán dịch: Nguyệt Thị Tam Tạng Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn
Việt dịch: Tại gia Bồ-tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận

 

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc trong thành Xá-vệ, cùng với 500 vị đại Tỳ-kheo.

Lúc bấy giờ ngài A-nan trịch áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất và bạch Phật rằng:

“Như Lai huyền giám! Đức Như Lai thấu rõ mọi việc trong ba đời–quá khứ, hiện tại, vị lai–không việc gì là chẳng rõ thông. Tên họ cùng danh hiệu, chúng đệ tử và các vị Bồ-tát của chư Phật thuở quá khứ, hoặc ít hay nhiều, Như Lai đều tất biết. Cho đến một kiếp, trăm kiếp, hay vô số kiếp, Như Lai thảy đều quán sát và biết rõ cũng lại như vậy. Như Lai đều có thể phân biệt tên họ của quốc vương, đại thần cùng dân chúng nơi đó. Như hiện tại ở quốc độ này có bao nhiêu chúng sanh, Như Lai cũng lại biết rõ như thế. Trong tương lai lâu xa về sau khi Đức Di-lặc xuất hiện ở thế gian để thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài có bao nhiêu chúng đệ tử, cõi nước Phật an vui như thế nào và sẽ dài bao lâu? Nay chúng con muốn nghe việc ấy.”

Phật bảo ngài A-nan:

“Ông hãy ngồi xuống và nghe Ta nói về sự xuất hiện của Đức Di-lặc cùng quốc độ an vui của Ngài và chúng đệ tử nhiều hay ít. Ông hãy khéo tư duy và luôn nhớ nghĩ.”

Khi đó ngài A-nan vâng lời Phật dạy và liền trở về chỗ ngồi. Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo ngài A-nan rằng:

“Trong tương lai lâu xa về sau, ở thế giới này sẽ có một thành quách tên là Diệu Tràng Tướng, đông tây 12 do-tuần, nam bắc 7 do-tuần, đất đai màu mỡ, cuộc sống của dân chúng thịnh vượng, và có những con đường thẳng tắp.

Lúc bấy giờ trong thành có một long vương tên là Thủy Quang. Ban đêm vua rồng mưa hương thơm thấm ướt đất, còn ban ngày thì làm cho không khí ôn hòa mát mẻ.

Khi đó trong thành Diệu Tràng Tướng có một quỷ la-sát tên là Diệp Hoa, việc làm thuận theo giáo Pháp và không vi phạm chánh giáo. Sau khi mọi người đã an giấc, nó đi đến những nơi bất tịnh để tẩy trừ đồ ô uế, rồi lấy nước hương mà rưới lên chỗ đất đó, làm cho sạch sẽ và thơm ngát vô cùng.

Này A-nan, ông nên biết đất đai ở châu Diêm-phù vào lúc đó, đông tây nam bắc là 10 triệu do-tuần. Các núi non, sông hồ và vách đá thảy đều tự diệt mất. Nước của bốn biển lớn trong mỗi biển sẽ giảm bớt 10.000 do-tuần. Khi ấy, mặt đất ở châu Diêm-phù sẽ bằng phẳng cực kỳ như tấm gương sáng. Khắp đất đai ở trong châu Diêm-phù đều có ngũ cốc tươi tốt, cuộc sống của dân chúng thịnh vượng, có rất nhiều trân bảo, các thôn xóm kề cận và chỉ cách xa bằng tiếng gà gáy. Lúc đó, những loại hoa quả cùng cây cối khô héo và hôi xấu đều cũng sẽ tự biến mất. Duy chỉ còn lại cây đẹp quả ngọt. Những giống cây thơm ngát và tuyệt đẹp sanh nở khắp trên mặt đất.

Lúc bấy giờ khí hậu sẽ ôn hòa mát mẻ, thời tiết của bốn mùa điều hòa. Dân chúng trong cõi nước kia đều không có 108 loại hoạn nạn. Họ không có tham dục, sân khuể, ngu si và buồn lo. Lòng của họ bình an và đều đồng một ý. Khi gặp gỡ, họ đều vui mừng và nói với nhau những điều tốt lành. Họ có đồng một ngôn ngữ; đây cũng như người ở châu Uất-đơn-việt, không một chút dị biệt.

Khi ấy ở trong châu Diêm-phù, dân chúng lớn nhỏ đều đồng có tâm tánh giống nhau và không có sự sai biệt. Khi ý của họ muốn đi đại tiểu tiện, thời đất sẽ tự nhiên hé ra. Lúc xong, đất liền khép lại.

Lúc bấy giờ, đất đai ở trong châu Diêm-phù sẽ tự nhiên mọc ra lúa gạo không vỏ trấu. Chúng thơm ngon vô cùng và khi ăn vào thời sẽ không có bệnh khổ. Các châu báu như là vàng, bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, trân châu và hổ phách, chúng nằm rải khắp nơi trên đất mà chẳng ai canh giữ. Dân chúng lúc ấy cầm những châu bảo này và đều tự nói lời như vầy:

‘Người xưa vì những châu báu này mà tàn hại lẫn nhau, khiến cho phải bị nhốt giam vào lao ngục để chịu vô số khổ não. Ngày hôm nay, các châu báu này ví như ngói đá và chẳng có ai thèm chiếm giữ.’

Lúc bấy giờ sẽ xuất hiện vua Chuyển Luân tên là Nhương-khư. Ngài dùng Chánh Pháp trị vì và thành tựu đầy đủ thất bảo. Các thất bảo đó là: kim luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, chủ tàng báu, và chủ binh báu.

Tuy các thất bảo này trấn giữ trong châu Diêm-phù, nhưng không cần dùng đến dao gậy mà hết thảy đều tự nhiên thần phục.

Này A-nan! Lúc đó sẽ có bốn bảo tàng lớn:

1. Đại bảo tàng Y-bát-đa ở tại nước Càn-đà-la, có vô số kỳ trân dị bảo, nhiều không thể kể xiết.
2. Đại bảo tàng Bàn-trục-ca ở tại nước Di-đề-la, cũng có rất nhiều trân bảo.
3. Đại bảo tàng [Tân-già-la] ở tại nước Tu-la-tra, cũng có rất nhiều trân bảo.
4. Đại bảo tàng Nhương-khư ở tại nước Ba-la-nại, có vô số kỳ trân dị bảo, nhiều không thể kể xiết.

Bốn đại bảo tàng này sẽ tự nhiên ứng hiện và khi đó các người canh giữ đều đến tâu với nhà vua rằng:

‘Kính mong đại vương hãy lấy các vật báu của những bảo tàng này mà bố thí cho người nghèo.’

Lúc bấy giờ, khi đại vương Nhương-khư đã được những bảo tàng này, ngài không có ý tưởng gì về tài bảo và cũng chẳng màng dòm ngó đến chúng.

Khi đó trên cây ở trong châu Diêm-phù tự nhiên sanh ra y phục mềm mại vô cùng và dân chúng sẽ lấy mặc vào. Đây cũng như người ở châu Uất-đơn-việt hiện nay, trên cây tự nhiên sanh ra y phục, không một chút sai khác.

Vào thời ấy, vua Nhương-khư có một vị đại thần tên là Thiện Tịnh, từ lúc trẻ ông đã được nhà vua hết mực kính trọng. Ngài lại có tướng mạo đoan chánh, không cao không thấp, không mập không gầy, không trắng không đen, không già không trẻ. Vị hiền thê của đại thần Thiện Tịnh thuở đó tên là Tịnh Diệu. Trong các cô con gái của nhà vua, nàng là vị công chúa tài sắc vẹn toàn nhất và có dung nhan như phi hậu của Thiên Đế. Trong miệng tỏa ra mùi hương của hoa sen xanh, trên thân toát ra mùi hương chiên đàn. Lại chẳng hề có 84 điều xấu của các phụ nữ, cũng không có tật bệnh cùng mọi ý tưởng sai quấy.

Lúc bấy giờ ở trời Đâu-suất, khi quán thấy cha mẹ mình không già và cũng không trẻ, Di-lặc Bồ-tát giáng thần vào thai mẹ, rồi từ hông bên phải hạ sanh. Đây cũng y như Ta ngày nay đã sanh ra từ hông bên phải, không một chút sai khác. Di-lặc Bồ-tát cũng lại như thế. Khi đó mỗi chư thiên ở trời Đâu-suất đều xướng rằng:

‘Di-lặc Bồ-tát đã giáng thần hạ sanh.’

Lúc ấy đại thần Thiện Tịnh liền đặt tên cho con là Di-lặc. Di-lặc Bồ-tát có thân màu hoàng kim với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp dùng để trang nghiêm nơi thân.

Vào thời ấy, tuổi thọ của loài người rất dài, không có các hoạn nạn và đều sống đến 84.000 năm. Khi người nữ được 500 tuổi thì họ mới đi xuất giá.

Lúc bấy giờ, Đức Di-lặc sống tại gia khoảng một thời gian không lâu thì sẽ xuất gia học Đạo. Khi ấy, ngài rời khỏi thành Diệu Tràng Tướng và cách đó không xa có một Đạo thụ tên là Long Hoa, cao một do-tuần, rộng 500 bộ. Di-lặc Bồ-tát sẽ ngồi ở dưới cây kia mà thành Đạo quả Vô Thượng. Ngay giữa đêm Đức Di-lặc xuất gia, thì liền trong đêm đó ngài sẽ thành vô thượng Đạo. Khi ấy Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chấn động sáu cách và mỗi vị địa thần đều bảo với nhau rằng:

‘Bây giờ Đức Di-lặc đã thành Phật.’

Sau đó tiếng vang chuyển đến cung trời của Tứ Thiên Vương:

‘Đức Di-lặc đã thành Phật Đạo.’

Tiếp đó tiếng vang lan đến khắp trời Đao-lợi, trời Tu-diệm-ma, trời Đâu-suất-đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, và âm thanh đó triển chuyển vang đến tận cõi Phạm Thiên:

‘Đức Di-lặc đã thành Phật Đạo.’

Lúc bấy giờ có ma vương dùng Pháp trị vì, tên là Đại Tướng. Khi nghe được danh hiệu của Như Lai, ngài vui mừng hớn hở đến nỗi suốt bảy ngày bảy đêm không ngủ nghỉ. Khi đó ma vương dẫn theo vô số thiên chúng từ các cõi trời Dục Giới đến chỗ của Đức Phật Di-lặc để cung kính lễ bái. Thánh Tôn Di-lặc vì chư thiên mà lần lượt thuyết giảng về các bộ luận vi diệu. Các bộ luận để đạt đến cảnh giới vi diệu và xa lìa các ý tưởng ái dục bất tịnh, như là: luận về bố thí, luận về trì giới và luận về sanh thiên.

Lúc bấy giờ, khi Đức Di-lặc đã thấy các đại chúng, Ngài sanh tâm hoan hỷ và vì chư thiên mà rộng phân biệt nghĩa lý về Pháp Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo của chư Phật Thế Tôn thường thuyết giảng. Khi ấy có 84.000 thiên tử dứt sạch các trần cấu và đắc Pháp nhãn tịnh. Lúc ấy Ma Vương Đại Tướng bảo các dân chúng của thế giới kia rằng:

‘Các người hãy mau xuất gia. Vì sao? Bởi vì hôm nay Đức Di-lặc đã qua bờ kia, thế nên Ngài cũng sẽ độ thoát các người và khiến các người sẽ đến được bờ kia.’

Lúc bấy giờ ở trong thành Diệu Tràng Tướng có một trưởng giả tên là Thiện Tài. Khi nghe ma vương khuyên bảo và lại nghe âm thanh của Phật nên ngài đã dẫn theo 84.000 người đến Đạo Tràng của Đức Phật Di-lặc, rồi cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật và họ ngồi qua một bên. Khi ấy Đức Di-lặc lần lượt thuyết giảng về các bộ luận vi diệu. Các bộ luận để đạt đến cảnh giới vi diệu và xa lìa các ý tưởng ái dục bất tịnh, như là: luận về bố thí, luận về trì giới và luận về sanh thiên.

Lúc bấy giờ, khi Đức Di-lặc thấy hàng dân chúng được tâm khai ý giải, Ngài vì họ mà rộng phân biệt nghĩa lý về Pháp Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo của chư Phật Thế Tôn thường thuyết giảng. Khi ấy có 84.000 người dứt sạch các trần cấu và đắc Pháp nhãn tịnh. Khi đó Trưởng giả Thiện Tài và 84.000 người liền đến trước Phật để thỉnh cầu xuất gia. Sau đó, họ khéo tu Phạm hạnh và đều chứng Đạo A-la-hán.

Lúc ấy ở hội đầu tiên của Đức Di-lặc sẽ có 84.000 người đắc Đạo A-la-hán. Khi Nhương-khư Vương nghe Đức Di-lặc đã thành Phật Đạo, ngài liền muốn đến chỗ của Phật nghe Pháp. Lúc đó, Đức Phật Di-lặc thuyết Pháp cho nhà vua về sơ thiện, trung thiện, cánh thiện, và các nghĩa lý thâm thúy.

Một thời gian sau, Nhương-khư Vương lập thái tử lên ngôi. Ngài ban cho người thợ hớt tóc các vật trân bảo và lại dùng những châu báu khác nhau để thí cho hàng Bà-la-môn. Rồi ngài dẫn 84.000 người đến chỗ của Phật và muốn xin làm Sa-môn. Sau đó họ đều thành tựu Đạo quả và chứng đắc A-la-hán.

Khi đại trưởng giả Thiện Tịnh nghe Đức Di-lặc đã thành Phật Đạo, ngài dẫn theo 84.000 Bà-la-môn đến chỗ của Phật và cầu xin làm Sa-môn. Sau đó họ đều đắc Đạo A-la-hán–duy riêng một mình Tỳ-kheo Thiện Tịnh chỉ đoạn trừ ba kết sử và đắc quả Tu-đà-hoàn.

Khi đó, Phật mẫu Tịnh Diệu dẫn theo 84.000 thể nữ đến chỗ của Phật và cầu xin làm Tỳ-kheo-ni. Sau đó họ đều đắc Đạo A-la-hán–duy riêng một mình Tỳ-kheo-ni Tịnh Diệu chỉ đoạn trừ ba kết sử và đắc quả Tu-đà-hoàn.

Lúc bấy giờ, khi các phu nhân của hàng sát-đế-lợi nghe Đức Di-lặc Như Lai xuất hiện ở thế gian và thành Chánh Đẳng Chánh Giác, vài ngàn vạn người họ đến chỗ của Phật, cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, rồi ngồi qua một bên. Trong lòng họ ai nấy đều muốn làm Tỳ-kheo-ni để xuất gia học Đạo. Trong số họ, có người chứng quả, có người thì không.

Này A-nan! Những người không chứng quả vào thời đó, họ sẽ phụng sự Phật Pháp đến trọn đời. Họ nhàm chán mọi sự trên thế gian và quán tưởng hết thảy mọi việc ở thế gian đều chẳng thể an vui.

Lúc bấy giờ Đức Di-lặc cũng sẽ nói các giáo Pháp của Ba Thừa như là Ta hôm nay vậy. Trong chúng đệ tử, Đại Ca-diếp là vị tu hành theo 12 hạnh đầu-đà. Ở chư Phật thuở quá khứ, Đại Ca-diếp cũng đã khéo tu Phạm hạnh. Vị này sẽ phụ giúp Đức Di-lặc khuyến tấn và giáo hóa dân chúng vào thời ấy.”

Lúc bấy giờ Đại Ca-diếp đi đến gần chỗ của Như Lai, rồi ngài ngồi kiết già, chánh thân chánh ý và nhất tâm chánh niệm. Khi đó Đức Thế Tôn bảo Đại Ca-diếp rằng:

“Ta nay đã già yếu và đã ngoài 80 tuổi. Hiện tại Như Lai có bốn đại Thanh Văn với trí tuệ vô tận, có đầy đủ phước đức và có thể đảm đang việc hoằng hóa. Bốn vị này là những ai? Đó là Tỳ-kheo Đại Ca-diếp, Tỳ-kheo Đồ-bát-thán, Tỳ-kheo Tân-đầu-lô, và Tỳ-kheo La-vân.

Tứ đại Thanh Văn các ông đây đừng vội nhập Bát-niết-bàn. Hãy chờ khi nào Pháp của Ta đã diệt tận, rồi sau đó mới nhập Bát-niết-bàn. Đại Ca-diếp cũng khoan nhập Bát-niết-bàn, ông hãy đợi đến khi Đức Di-lặc xuất hiện ở thế gian.

Vì sao thế? Bởi đệ tử do Đức Di-lặc giáo hóa cũng chính là đệ tử của Thích-ca-văn, do Ta phó chúc để giáo hóa và khiến họ dứt trừ sạch hữu lậu.

Sau khi Ta nhập Niết-bàn, Đại Ca-diếp sẽ ở trên một ngọn núi thuộc thôn Tỳ-đề của nước Ma-kiệt-đà mà nhập định. Khi Đức Di-lặc Như Lai thành Đạo, Ngài sẽ dẫn theo vô số ngàn người đi đến núi kia. Nhờ hồng ân của Phật, các quỷ thần sẽ cho mở cửa và liền thấy Đại Ca-diếp đang nhập thiền định trong hang động. Khi đó Đức Di-lặc dùng ngón tay bên phải chỉ vào Đại Ca-diếp và bảo các đại chúng rằng:

‘Vào thuở quá khứ lâu xa về trước, Thích-ca-văn Phật có một đệ tử tên là Đại Ca-diếp, là vị tu khổ hạnh đầu-đà đệ nhất. Nay hiện tại chính là người này.’

Khi đại chúng thấy xong, họ tán dương là việc chưa từng có. Vô số trăm ngàn chúng sanh sẽ dứt sạch các trần cấu và đắc Pháp nhãn tịnh. Hoặc lại có chúng sanh sau khi thấy được thân tướng của Đại Ca-diếp thì cũng sẽ được như trên. Đây gọi là hội đầu tiên và sẽ có 96 ức người đắc Đạo A-la-hán. Những người này đều là các đệ tử của Ta.

Vì sao? Là bởi vì họ đều do Ta giáo huấn và làm theo bốn sự nhân duyên: huệ, thí, nhân, ái, và những việc làm lợi ích người.

Này A-nan! Khi đó Đức Di-lặc Như Lai sẽ lấy Tăng-già-lê đắp lên thân của Đại Ca-diếp và bỗng nhiên thân của Đại Ca-diếp sẽ sáng như các vì sao. Lúc ấy Đức Di-lặc lại dùng mọi thứ hương hoa để cúng dường Đại Ca-diếp.

Vì sao thế? Bởi chư Phật Thế Tôn đều có lòng cung kính đối với Chánh Pháp. Di-lặc cũng đã thọ Chánh Pháp từ nơi Ta mà đắc thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này A-nan! Ông nên biết ở hội thứ hai của Đức Phật Di-lặc có 94 ức người đắc Đạo A-la-hán. Họ cũng đều là đệ tử di giáo của Ta và cũng thực hành bốn sự cúng dường.

Ở hội thứ ba của Đức Phật Di-lặc có 92 ức người đắc Đạo A-la-hán. Họ cũng đều là đệ tử di giáo của Ta. Khi đó, Pháp hiệu của Tỳ-kheo đều gọi là Từ Thị đệ tử. Đây cũng như là Ta hôm nay, hàng Thanh Văn đều xưng là đệ tử của Thích-ca.

Lúc bấy giờ Đức Di-lặc sẽ thuyết Pháp cho các đệ tử như vầy:

‘Các Tỳ-kheo hãy tư duy:
[1] quán tưởng vô thường;
[2] quán tưởng trong vui có khổ;
[3] quán tưởng ngã và vô ngã;
[4] quán tưởng có và không;
[5] quán tưởng sự biến đổi của hình sắc;
[6] quán tưởng máu bầm ứ đọng;
[7] quán tưởng thân bị phù thũng;
[8] quán tưởng ăn không tiêu hóa;
[9] quán tưởng máu mủ mụn nhọt;
[10] quán tưởng hết thảy mọi việc ở thế gian đều chẳng thể an vui.

Tại vì sao? Các Tỳ-kheo nên biết, mười sự quán tưởng này đều là do Đức Phật Thích-ca-văn thuở quá khứ đã thuyết giảng cho các ông, khiến các ông dứt trừ hữu lậu và tâm được giải thoát.

Nếu có ai trong chúng đệ tử của Đức Phật Thích-ca-văn thuở quá khứ mà tu Phạm hạnh thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn cúng dường Tam Bảo thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn tu căn lành chừng thời gian khảy móng tay thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn thực hành Tứ Vô Lượng Tâm thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn thọ trì Ngũ Giới và Tam Quy Y thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn dựng xây tháp miếu thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn tu bổ chùa tháp thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn thọ Bát Quan Trai thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn cúng dường hương hoa thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn rơi lệ thương khóc khi nghe Chánh Pháp thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn nhất tâm thọ trì giáo Pháp thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn trọn đời làm việc lành hay tu Phạm hạnh thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn biên chép hay đọc tụng Kinh điển thì sẽ đến chỗ của Ta.

Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn phụng sự cúng dường thì sẽ đến chỗ của Ta.’

Khi ấy Đức Di-lặc sẽ nói bài kệ này:

‘Bố thí trì giới tu công đức
Thiền định tư duy làm việc lành
Ai mà khéo tu các Phạm hạnh
Người đó sẽ đến chỗ của Ta

Khuyến tấn bố thí lòng hoan hỷ
Phản bổn hoàn nguyên tu tâm tánh
Ý niệm không có điều sai quấy
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta

Từ Bi Hỷ Xả phát tâm thành
Phụng sự cúng dường chư Như Lai
Cúng dường thức ăn cho thánh chúng
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta

Hoặc đọc Khế Kinh tụng giới luật
Tu tập việc lành dạy bảo người
Thắp sáng ngọn đèn của Chánh Pháp
Nay họ sẽ đến chỗ của Ta

Khéo trồng thiện căn nơi Thích-ca
Cúng dường lễ bái xá-lợi Phật
Phụng sự Phật Pháp cúng dường Tăng
Nay họ sẽ đến chỗ của Ta

Nếu như có người biên chép Kinh
Tuyên thuyết rộng giảng nghĩa cao thâm
Cúng dường thọ trì Kinh Pháp Phật
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta

Tràng phan lọng lụa các phẩm vật
Cúng dường tự viện Phật tháp miếu
Trong lòng nhớ niệm Nam-mô Phật
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta

Phụng sự cúng dường chư Như Lai
Quá khứ hiện tại cùng vị lai
Thiền định chánh niệm tâm bình đẳng
Như như bất động bất giảm tăng

Cho nên nếu ai trong Phật Pháp
Phụng hiến cúng dường chư thánh chúng
Phụng sự Tam Bảo chuyên thọ trì
Tất sẽ mau đến nơi vô vi’

Này A-nan! Ông nên biết Đức Di-lặc Như Lai sẽ ở giữa đại chúng kia mà nói bài kệ đó. Khi ấy chư thiên cùng hàng người ở giữa đại chúng kia tư duy về mười sự quán tưởng trên. Lúc đó sẽ có 11 na-do-tha người dứt sạch các trần cấu và họ đắc Pháp nhãn tịnh.

Chư Tăng của Đức Di-lặc Như Lai trong 1.000 năm không có phạm lỗi lầm. Khi ấy Ngài thường dùng một bài kệ để làm giới răng:

‘Khẩu cùng ý không làm điều ác
Nghiệp từ thân cũng đừng sai phạm
Nếu dứt trừ ba nghiệp xấu này
Ải sanh tử sẽ mau ra khỏi’

Nhưng sau 1.000 năm sẽ có người phạm giới, khi đó Ngài mới lập giới luật. Đức Di-lặc Như Lai sẽ thọ 84.000 năm. Sau khi nhập Bát-niết-bàn, giáo Pháp của Ngài sẽ trụ thế 84.000 năm.

Vì sao thế? Bởi chúng sanh thời đó đều là những người có căn tánh lanh lợi.

Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào muốn thấy Đức Phật Di-lặc và Thanh Văn đại chúng ở ba hội, thành Diệu Tràng Tướng, vua Nhương-khư cùng bốn đại bảo tàng trân bảo, hoặc muốn ăn lúa gạo tự nhiên, mặc y phục tự nhiên, và sau khi mạng chung muốn sanh lên trời, thời các thiện nam tử thiện nữ nhân này phải nên tinh tấn, không sanh tâm lười biếng, phụng sự cúng dường các Pháp sư, cùng lấy đủ mọi hương hoa để cúng dường và cũng đừng để thiếu hụt.

Này A-nan! Phải nên học và thực hành như vậy.”

Lúc bấy giờ, khi ngài A-nan cùng đại chúng nghe Phật nói xong, họ hoan hỷ phụng hành.

 

Phật Thuyết Kinh Di-lặc Hạ Sanh