KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ

Hán dịch: Đại Châu Vu-điền, Tam tạng Pháp sư Thật-xoa-nan-đà.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 1

Phẩm 1: LA-BÀ-NA VƯƠNG THỈNH PHÁP

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong thành Lăng-già, tại đỉnh núi Ma-la-da, trên bờ biển lớn, cùng đại chúng Tỳ-kheo và đại chúng Bồ-tát vân tập đông đủ.

Các Đại Bồ-tát này đều đã thông đạt năm pháp, ba tánh và các thức vô ngã. Họ hiểu rõ thế giới đối đãi này là sự biểu hiện của tâm mình và chứng đắc nhiều Tam-muội, thần thông tự tại. Các Đại Bồtát này phương tiện giáo hóa, tùy theo tâm thức chúng sinh mà hiện nhiều loại hình thể khác nhau. Các đại chúng Bồ-tát này đến từ vô số cõi nước và được chính tay của tất cả các Đức Phật làm pháp quán đảnh. Đại Bồ-tát Đại Tuệ làm thượng thủ hội chúng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thuyết pháp nơi cung Hải Long Vương hơn bảy ngày rồi ra khỏi biển cả, có vô lượng ức Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế, Tứ Thiên vương, Trời, Rồng cung nghênh. Đức Như Lai nhìn thành Lăng-già trên núi Ma-la-da mỉm cười nói:

–Các Như Lai toàn giác trong quá khứ đều ở thành này nói các

pháp đã được tự chứng bằng Thánh trí, chẳng phải như tà kiến suy luận của ngoại đạo và thế giới tu hành của hàng Nhị thừa. Nay ta cũng thế, vì La-bà-na vương giảng dạy pháp này.

Khi ấy, La-bà-na là chúa loài Dạ-xoa, do nhờ thần lực Phật, nên nghe được lời ấy, từ xa biết Đức Như Lai vừa từ cung rồng ra, có Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế, Trời, Rồng cùng đến vây quanh. Nhìn sóng biển và nhìn cả ngọn gió dao động, thế giới biển thức Alại-da chuyển động tiếp diễn trong hội chúng ấy, mà nghĩ đến sóng thức đang phát khởi, nên La-bà-na phát tâm hoan hỷ, ở trong thành ấy vui sướng thốt lên:

–Ta sẽ đến thỉnh Phật vào thành Lăng-già, làm cho ta cùng chư Thiên và loài người được nhiều lợi ích lâu dài.

Nói xong, La-bà-na cùng quyến thuộc, ngồi nơi điện nhỏ, được kết bằng hoa, đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến nơi, họ xuống xe, đi nhiễu quanh bên phải Thế Tôn ba vòng, rồi trổi các âm nhạc cúng dường Đức Như Lai. Tất cả những nhạc khí của họ đều bằng châu báu, trời Đế Thích màu xanh, xen lẫn là báu lưu ly bọc bằng vải quý vô giá. Âm thanh của nhạc khí này êm dịu, giao hòa, réo rắt tuyệt vời. Trong âm nhạc đó, La-bà-na nói kệ tán thán Đức Phật:

Kho pháp tâm tự tánh
Vô ngã lìa kiến, cấu
Nhận thức bằng trí chứng
Xin Phật tuyên giảng nói
Thân kết tập pháp lành
Chứng trí thường an lạc
Bậc biến hóa tự tại
Mong vào thành Lăng-già
Phật, Bồ-tát quá khứ
Từng ở nơi thành này
Chúng con, các Dạ-xoa
Nhất tâm nguyện nghe pháp.

La-bà-na, chúa loài Dạ-xoa dùng âm điệu Tra-ca ngợi khen Phật, lại dùng âm ngợi khen ấy mà nói kệ:

Đức Thế Tôn bảy ngày
Ở trong biển Ma-kiệt
Sau rời khỏi Long cung
An lạc lên bờ này
Con cùng các thể nữ
Và quyến thuộc Dạ-xoa
Du-ca, Ba-lạt-na
Các bậc Trí trong chúng
Đều nhờ thần lực Phật
Đi đến chỗ Như Lai
Rời cung điện bằng hoa
Đảnh lễ Đức Thế Tôn
Và nhờ oai thần Phật
Trước Phật xưng họ tên
Con là vua La-sát
La-bà-na mười đầu
Nay con đến chỗ Phật
Mong Phật giáo hóa con
Cùng tất cả chúng sinh
Ở trong thành Lăng-già
Vô lượng Phật quá khứ
Đều lên đỉnh núi báu
Ở trong thành Lăng-già
Giảng nói pháp đã chứng
Đức Thế Tôn cũng vậy
Tại đỉnh núi báu kia
Chúng Bồ-tát vây quanh
Giảng nói pháp thanh tịnh
Chúng con ngày hôm nay
Cùng ở núi Lăng-già
Nhất tâm cùng muốn nghe
Pháp vô ngôn Phật chứng
Con nhớ đời xưa, nay
Vô lượng các Đức Phật
Chúng Bồ-tát vây quanh
Giảng nói kinh Lăng-già
Kinh Nhập Lăng-già đây
Phật xưa từng tán thán
Mong Phật ngày hôm nay
Vì đại chúng chỉ bày
Xin Phật vì thương xót
Vô lượng chúng Dạ-xoa
Vào thành quý giá kia
Dạy pháp môn vi diệu
Thành Lăng-già tốt đẹp
Trang hoàng bằng châu báu
Tường không bằng đất đá
Lưới báu bằng trân châu
Những chúng Dạ-xoa này
Xưa từng cúng dường Phật
Tu hành bỏ các lỗi
Thường chứng biết rõ ràng
Các Dạ-xoa nam nữ
Khát ngưỡng pháp Đại thừa
Kính tin pháp Đại thừa
Cũng muốn người khác tin
Cúi xin đấng Vô thượng
Vì những chúng La-sát
Và quyến thuộc mù tối
Đi đến thành Lăng-già
Con từ xưa đến nay
Siêng cúng dường chư Phật
Xin nghe pháp tự chứng
Cứu cánh đạo Đại thừa
Nguyện Phật thương tưởng con
Và các chúng Dạ-xoa
Cùng những chúng Phật tử
Vào thành Lăng-già đây
Thể nữ, cung điện con
Thật là nhiều anh lạc
Vườn vô ưu khả ái
Mong Phật thương nhận cho
Đối với Phật, Bồ-tát
Con xin dâng tất cả
Không tiếc thân phụng sự
Cúi xin Phật thương nhận.

Đức Thế Tôn nghe lời kệ, dạy:

–Này La-bà-na! Các bậc Đại đạo sư trong đời quá khứ đều thương tưởng và nhận lời thỉnh cầu của ngươi mà giảng nói pháp tự chứng tại núi báu này. Các Đức Phật tương lai cũng như vậy. Đây là trú xứ của các bậc tu hành pháp lạc quán hạnh sâu xa. Ta và các Bồtát vì thương tưởng ngươi nên nhận lời thỉnh cầu ấy.

Đức Thế Tôn nói xong ngồi tĩnh lặng.

Khi ấy, chúa La-bà-na mang tất cả cung điện hoa đẹp dâng cúng Đức Phật. Đức Phật ngồi trên điện hoa, vua Dạ-xoa và các Bồtát lần lượt tiếp nối nhau, vô lượng thể nữ ca ngâm khen ngợi cúng dường Đức Phật, cùng nhau đi đến thành Lăng-già. Đến thành rồi, chúa La-bà-na và các quyến thuộc dâng lên cúng dường Phật những vật tốt đẹp nhất. Những thanh niên Dạ-xoa nam nữ đem lưới báu cúng dường Phật. Chúa La-bà-na đem chuỗi ngọc báu quàng vào cổ Đức Phật và Bồ-tát.

Sau khi nhận sự cúng dường, Đức Thế Tôn và các Bồ-tát giảng nói tóm tắt pháp sâu xa, cùng cảnh giới tự chứng cho các Dạ-xoa nghe. Chúa La-bà-na và các quyến thuộc lại đến cúng dường Bồ-tát Đại Tuệ, ca tụng thỉnh cầu Bồ-tát:

Con và các Bồ-tát
Thỉnh hỏi Đức Thế Tôn
Tất cả Đức Như Lai
Cảnh giới trí tự chứng
Con cùng chúng Dạ-xoa
Và các Bồ-tát này
Nhất tâm nguyện muốn nghe
Thế nên cùng thỉnh ngài
Ngài là bậc tu hành
Tối thắng trong ngôn luận
Chúng con rất tôn kính
Xin ngài tham vấn Phật
Pháp thanh tịnh tự chứng
Cứu cánh vào Phật địa
Xa tất cả lỗi lầm Của
Nhị thừa ngoại đạo.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vận sức thần thông, ở nơi núi Lăng-già hóa ra vô lượng núi báu, trang hoàng bằng trăm ngàn vạn ức châu báu tốt đẹp của chư Thiên. Trên đỉnh của từng ngọn núi báu đều thấy hiện thân Phật. Trước mỗi Đức Phật đều có chúa La-bà-na và hội chúng, cùng tất cả cõi nước khắp mười phương đều hiện ra nơi núi đó. Trong mỗi nước đều có Như Lai, trước mỗi Đức Như Lai đều có chúa La-bà-na cùng quyến thuộc của vua và vườn A-du-ca nơi đại thành Lăng-già có những sự trang nghiêm cũng như vậy không khác. Nơi mỗi nước đó đều có Bồ-tát Đại Tuệ đang thưa hỏi Phật. Đức Phật vì đại chúng, dùng trăm ngàn thanh âm vi diệu khai thị cảnh trí tự chứng. Nói kinh này xong, Đức Phật và Bồ-tát đều ẩn mất trong hư không. Còn lại chúa La-bà-na chỉ thấy chính mình đang ở nơi cung cũ.

La-bà-na suy nghĩ: “Vừa rồi là ai? Ai đã nghe những lời chỉ dạy? Ai đã thấy mọi hiện tượng? Đức Phật đâu rồi? Núi, rừng, châu báu, đất đai, thành quách đâu? Những sự kiện đó bây giờ đang ở đâu? Là giấc mộng chăng? Hay ảo ảnh tạo thành? Hay đó là thành Cànthát-bà hóa hiện ra? Hay ta bị thấy bởi hoa mắt, là ánh lửa làm mê hoặc? Như đứa con trong cơn mộng do người đàn bà đá sinh? Hay là những ánh đuốc quay vòng mà ta thấy như thế?”

Chúa La-bà-na lại suy nghĩ: “Tính chất của các pháp đều như thế. Chỉ do tự tâm phân biệt cảnh giới mà kẻ phàm phu mê muội không hiểu rõ. Không có người thấy, cũng không có cái gì được thấy. Không có người nói, cũng không có điều được nói. Thấy Phật, nghe Pháp… đều là sự phân biệt. Kẻ nào thấy theo cách đã thấy trước kia, thì không thể thấy Phật. Khi không có tâm phân biệt sinh khởi, thì đó chính thực là thấy.”

Chúa La-bà-na chợt tỉnh ngộ, xa lìa các pháp tạp nhiễm, chứng đắc tự tâm, trú cảnh giới vô phân biệt. Đời trước đã gieo trồng nhiều năng lực thiện căn, nên đối với tất cả các pháp ông được thấy đúng như thật (Không ngộ do người khác, bằng thắng trí thiện xảo để quán sát). Vĩnh viễn xa lìa tất cả những hiểu biết sai lầm ức đoán. Ông trở thành bậc thầy đại tu hành, tự thân hóa hiện các tướng, khéo đạt phương tiện, biết rõ các cấp độ của Bồ-tát. Thường ưa viễn ly tâm, ý và ý thức, đoạn trừ ba kiến tương tục, xa lìa sự chấp trước của ngoại đạo, tự giác ngộ vào Như Lai, hướng đến Phật địa.

Khi ấy, trong hư không và trong cung điện bỗng phát ra tiếng nói:

–Lành thay! Đại vương! Như những điều ngươi đã học, bậc tu hành nên học như vậy, nên thấy như vậy. Tất cả Như Lai cũng thấy như ngươi thấy. Những ai trông thấy các pháp mà khác đây, thì gọi người đó là chấp đoạn. Ngươi hãy vĩnh viễn xa lìa tâm, ý và ý thức. Thường nỗ lực quán sát tất cả các pháp, nên nhìn vào nội tâm, đừng để bị ràng buộc vào cái thấy bên ngoài, chớ rơi vào Nhị thừa, cho đến ngoại đạo, hay rơi vào nghĩa cú, kiến giải và sự chứng đắc các pháp Tam-muội. Ngươi chớ nên ưa thích nói bông đùa, bỡn cợt. Ngươi không nên sinh khởi những kiến thức quanh co và không nên đắm trước tự do nơi vương vị, không nên trú trong sáu định. Nếu được như thế là người tu hành chân thật, bẻ gãy những luận thuyết của người khác, phá tan những kiến giải tai hại xấu xa, xả bỏ tất cả những chấp trước về ngã. Lấy trí tuệ sáng suốt chuyển thức sở y, tu đạo Đại thừa Bồ-tát, đạt đến cấp độ tự chứng của Như Lai đã đạt. Ngươi hãy nên nỗ lực tu học như vậy, làm cho đắc pháp, chuyển đến thanh tịnh, tinh tấn tu tập thiền định và thiền tuệ. Chớ đắm trước cảnh giới Nhị thừa ngoại đạo, cho là an vui tối thượng, vì đó là tâm phân biệt của người tu phàm phu ngoại đạo, chấp ngã kiến nên có ngã tướng và thật đức, nên sinh đắm trước. Hàng Nhị thừa chấp có, nên vô minh duyên hành, nên loạn tưởng phân biệt đối với tánh không.

Này chúa thành Lăng-già! Pháp này là đạo Đại thừa, siêu việt tất cả, có thể làm cho thành tựu, tự chứng thánh trí. Pháp này đưa đến sự sống tốt đẹp tuyệt vời trong các cõi.

Lăng-già vương! Hạnh Đại thừa này phá tan bóng tối vô minh, ngăn chặn làn sóng của thức và không rơi vào trong những kiến thức sai lầm của ngoại đạo.

Lăng-già vương! Người thực hành theo ngoại đạo, chấp trước nơi ngã, tạo những dị luận, không thể giảng nói để rời bỏ, chấp chặt về kiến và hai nghĩa của thức tánh.

Lành thay, này chúa thành Lăng-già! Hãy tư duy về ý nghĩa này như đã tư duy khi gặp Phật trước đây. Thật thế, tư duy pháp này chính là thấy Đức Như Lai.

Bấy giờ, chúa La-bà-na suy nghĩ: “Con mong được gặp lại Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn Như Lai là bậc quán thấy tự tại tất cả vạn pháp, là bậc đã xa lìa pháp ngoại đạo, nói về sự chứng ngộ cảnh giới của đấng Thánh trí, là bậc siêu việt các ứng hóa và làm những việc đáng làm, là bậc an trú thiền định Như Lai và nhập Tam-muội an lạc. Thế nên Như Lai còn gọi là Bậc Thầy đại quán hạnh, cũng gọi là Đấng Đại Từ Mẫn, đốt hết phiền não, không còn củi phân biệt, là Bậc được các chúng đệ tử Phật vây quanh và đã thâm nhập trong tâm thức của tất cả chúng sinh, là Đấng đầy đủ Nhất thiết trí, đi khắp đến mọi nơi, vĩnh viễn xa lìa sự tướng phân biệt. Thế nên gặp được Đức Thế Tôn, lại với sức thần thông lớn, con sẽ đạt được những gì chưa đạt và đã đạt rồi đều được không thoái chuyển, xa lìa các phân biệt, an trú nơi hỷ lạc Tam-muội, tinh tấn trọn vẹn đến bậc Trí của Như Lai.”

Đức Thế Tôn biết rằng chúa thành Lăng-già sẽ chứng ngộ Vô sinh pháp nhẫn nhưng vì lòng Từ thương xót nên hiện ra một lần nữa, làm cho các sự biến hóa trở lại như cũ. Thập đầu vương thấy những điều đã từng thấy, vô lượng núi non, thành quách được trang hoàng bằng châu báu. Trong mỗi mỗi thành đó đều có Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân. Đồng thời ông cũng tự thấy mình đối diện với các Đức Phật, đều có Dạ-xoa Đại Tuệ vây quanh đang thuyết pháp của trí tự chứng, cũng thấy cõi nước của chư Phật khắp mười phương… Những việc như thế hoàn toàn không khác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nhìn khắp đại chúng bằng đôi mắt trí tuệ, chứ không nhìn bằng đôi mắt của người thường. Oai hùng như sư tử chúa, Thế Tôn quay lại đưa mắt uy nghiêm nhìn với nụ cười rạng rỡ phát thành tiếng. Giữa chân mày, từ bàn tọa đến bên sườn, từ hông, từ lưng, từ cổ cho đến vai nơi chữ Vạn, từ cánh tay, nơi từng lỗ chân lông phóng ra vô lượng tia hào quang sắc màu vi diệu, như cầu vồng rực rỡ, như mặt trời tỏa chiếu ánh sáng và như kiếp hỏa bùng cháy mãnh liệt sáng ngời.

Trong hư không, Phạm thiên, Đế thích, Tứ Thiên vương, từ xa trông thấy Đức Như Lai ngồi trên đỉnh núi Lăng-già, có thể sánh với núi Tu-di và dường như đang hân hoan cười lớn; lúc ấy các Bồ-tát và chúng trời đều nghĩ rằng: “Không hiểu vì nguyên nhân nào mà Đức Như Lai Thế Tôn vốn rất tự tại đối với các pháp, lại hân hoan cười lớn như thế? Tại sao từ Đức Như Lai phóng ra ánh sáng, tịch lặng, không dao động, ở trong cảnh giới tự chứng nhập Tam-muội an lạc? Như sư tử chúa, Đức Như Lai quay nhìn khắp nơi quán sát La-bà-na và nghĩ đến pháp như thật?”

Bấy giờ, Đại Tuệ là vị Đại Bồ-tát mà trước đây La-bà-na chỉ thỉnh cầu tham vấn Đức Phật, biết tâm ý của hội chúng Bồ-tát, cùng quán thấy tất cả chúng sinh đời tương lai đều thích đắm trước vào ngôn ngữ văn tự, theo ngôn từ chấp nghĩa lý mà sinh ra mê muội, chấp chặt vào sự tu hành của hàng ngoại đạo Nhị thừa. Họ nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn đã vượt cảnh giới tâm thức siêu việt, mà vì nguyên nhân nào Đức Thế Tôn hân hoan cười thành tiếng?” Bồ-tát Đại Tuệ vì muốn giải tỏa sự nghi ngờ thắc mắc đó, nên thỉnh hỏi Phật.

Đức Phật bảo:

–Hay thay! Đại Tuệ! Lành thay! Đại Tuệ! Ông đã quán sát thế gian, thương xót chúng sinh bị ràng buộc nơi kiến giải sai lầm trong quá khứ, hiện tại, tương lai và muốn cho họ được giải ngộ nên mới hỏi ta. Những người có trí tuệ, vì lợi ích cho mình cho người, mới thưa hỏi như vậy.

Này Đại Tuệ! Chúa thành Lăng-già đây đã từng hỏi hai câu này nơi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thời quá khứ. Hiện tại ông cũng muốn hỏi ta và tương lai cũng như thế. Hai câu này có tướng khác nhau, điều mà tất cả hàng Nhị thừa và ngoại đạo không thể biết hết.

Đức Như Lai biết chúa thành Lăng-già muốn hỏi ý này, nên bảo:

–Lăng-già vương! Ngươi muốn hỏi ta thì hãy thưa nhanh đi. Ta sẽ giải thích và phân tích đầy đủ theo sở nguyện của ngươi, khiến ngươi được hoan hỷ. Ngươi hãy dùng trí tuệ tư duy, quán sát, xa lìa những sự phân biệt và khéo biết các cấp độ tu tập, đối trị thấu suốt bản chất của nguyên lý trong an lạc của Tam-muội. Được các Đức Như Lai hộ trì, an trú trong an lạc của thiền định và xa lìa lầm lỗi của hàng Nhị thừa. Hãy an trú nơi Bất động địa, Thiện tuệ địa và Pháp vân địa. Như thật biết các pháp đều vô ngã. Như Lai ở trong cung Đại bảo liên hoa, dùng nước Tam-muội làm pháp quán đảnh cho ngươi. Và hiện vô lượng hoa sen chung quanh, có vô số Bồ-tát ở trong đó, cùng các hội chúng đang lần lượt nhìn ngươi. Cảnh giới như thế vượt ra ngoài trí tưởng tượng luận bàn.

Lăng-già vương! Ngươi phát họa ra một cách nhìn thích hợp và đặt mình vào một mức độ, phát họa vô lượng phương tiện thiện xảo, nhất định ngươi sẽ đạt những điều như trên đã nói, không thể suy nghĩ luận bàn. Ngươi nên đạt đến địa vị của Như Lai, tùy theo đối tượng, thể hiện nhiều hình tướng khác nhau. Những gì ngươi sẽ thành tựu là điều mà tất cả hàng ngoại đạo, Nhị thừa và Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương… chưa từng thấy.

Chúa Lăng-già nhờ ân Phật hứa khả, được ở ngay nơi ánh sáng

thanh tịnh như hoa sen lớn trên đỉnh núi báu. Ông rời khỏi tòa, cùng các thể nữ vây quanh. Có vô lượng những bông hoa tươi đẹp đầy màu sắc, những hương thơm, hương bột, tràng phan, lọng báu, chuỗi ngọc, những vật dụng trang nghiêm tốt đẹp nhất mà ngoài thế gian chưa ai từng nghe thấy vừa được hóa hiện ra. Những nhạc cụ âm nhạc, vô lượng nhạc khí ở cõi Dục có vượt hơn tất cả nhạc của chư Thiên, Trời, Rồng, Càn-thát-bà… ở thế gian, những khí cụ âm nhạc mà khắp các cõi nước mười phương chưa từng thấy, được hóa hiện ra. Những màn lưới báu lớn giăng khắp trên tất cả Phật, Bồ-tát. Nhiều loại y phục tốt đẹp nhất và đủ loại cờ xí, tràng phan đều được dựng lên để cúng dường Phật.

Những việc này được hóa hiện xong, chúa loài Dạ-xoa bay lên hư không cao bằng bảy cây đa-la. Trong hư không, trời mưa tuôn xuống những đám mây lớn chứa vật cúng dường và những âm nhạc. Vị ấy từ hư không hạ xuống, ngồi trên đỉnh núi báu, sáng rực như mặt trời thứ hai, như hoa sen lớn, hoan hỷ, cung kính vui mừng bạch:

–Con muốn thỉnh hỏi Đức Như Lai hai việc. Hai việc này, con đã từng thỉnh hỏi Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thời quá khứ và Đức Phật Thế Tôn đã chỉ dạy cho con. Hiện tại con cũng muốn thỉnh hỏi nghĩa này, cúi xin Đức Như Lai vì con mà tuyên nói.

Bạch Thế Tôn! Hai việc này do Đức Như Lai biến hóa nói, chứ không phải chính Đức Phật căn bản. Đức Phật căn bản nói cảnh giới an lạc của Tam-muội. Đức Phật không nói những sự tu hành phân biệt hư dối.

Lành thay! Đức Thế Tôn! Đấng Tự Tại đối với các pháp, cúi xin Thế Tôn thương xót chỉ dạy cho con hai nghĩa này. Tự thâm tâm chúng đệ tử Phật đều muốn được nghe.

Đức Thế Tôn bảo chúa thành Lăng-già:

–Ta sẽ chỉ dạy những điều ngươi vừa thưa hỏi.

Khi ấy, chúa loài Dạ-xoa lại mang chuỗi ngọc, mão báu và tất cả những vật tốt đẹp để trang nghiêm thân mà bạch:

–Đức Như Lai thường dạy: “Pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp.” Làm thế nào bỏ được hai pháp này? Những gì là pháp? Những gì là phi pháp? Pháp nên bỏ thì làm sao có hai? Nói có hai, tức rơi vào tướng phân biệt. Hữu thể hay vô thể là thật hay chẳng phải thật? Như thế, tất cả đều là phân biệt, không thể biết rõ tướng vô sai biệt của thức A-lại-da. Giống như việc trông thấy cái vòng tóc, chẳng phải cảnh trí thanh tịnh. Tánh pháp như vậy thì làm thế nào có thể lìa bỏ pháp?

Đức Phật bảo:

–Lăng-già vương! Phải chăng ngươi không thấy những vật như cái bình,… là pháp vô thường tan hoại? Kẻ phàm phu đối với nó vọng sinh phân biệt. Vì sao nay ngươi không như thật biết tướng sai biệt của pháp, cùng phi pháp? Đây là sự phân biệt của phàm phu, không phải tri kiến của bậc Thánh. Phàm phu bị rơi vào đủ loại tướng, nên không phải là bậc Thánh.

Lăng-già vương! Như vườn, rừng, cung điện… bị đốt cháy, thấy rất nhiều loại ngọn lửa, tuy nhiên tính chất của lửa chỉ là một. Do năng lực của củi phát ra ánh lửa, cho nên có dài ngắn, lớn nhỏ, mỗi ngọn lửa khác nhau. Vì sao ngươi không biết đúng như thật tướng sai biệt của pháp cùng phi pháp?

Lăng-già vương! Như một hạt giống sinh ra mầm, chồi, cành, lá, hoa, quả, vô lượng sự sai khác nhau. Ngoại pháp cũng thế và nội pháp cũng thế. Nghĩa là vô minh làm duyên sinh ra uẩn, xứ, giới và tất cả các pháp. Ở trong ba cõi, thọ sinh nơi các nẻo; có khổ, vui, tốt, xấu, nói năng, im lặng, làm, nghỉ… mỗi mỗi tướng khác nhau. Và như các thức tướng, tuy là một nhưng tùy nơi cảnh giới mà có thượng, trung, hạ, nhơ, sạch, thiện, ác… nhiều tướng trạng khác nhau.

Lăng-già vương! Không phải chỉ có các pháp như trên mới sai biệt, mà những người tu hành khi tu quán hạnh, hành động theo trí của họ cũng thấy có tướng sai khác, huống là pháp và phi pháp làm sao khỏi có muôn ngàn sự phân biệt khác nhau.

Lăng-già vương! Tướng sai khác của pháp và phi pháp, nên biết đều là tướng phân biệt.

Lăng-già vương! Thế nào là pháp? Nghĩa là hàng ngoại đạo Nhị

thừa phân biệt lừa dối, nghĩ rằng: Các pháp là có thật, do nhân duyên tạo thành. Các pháp như thế nên từ bỏ, nên xa lìa, không nên từ đó chấp tướng phân biệt. Thấy pháp tánh tự tâm thì không chấp trước. Những vật như bình,… là chỗ chấp giữ của phàm ngu, vốn không có thật thể. Những hành giả nhìn sự vật nên nhập thiền quán để quán sát đúng chân lý, gọi là xả bỏ các pháp.

Lăng-già vương! Thế nào gọi là phi pháp? Nghĩa là các pháp vô tánh, vô tướng, vĩnh viễn xa rời sự phân biệt. Người thấy đúng như thật, cảnh giới này hoặc có hay không thì vẫn không phát khởi. Đây gọi là xả bỏ phi pháp. Và phi pháp còn có nghĩa như sừng thỏ, con của Thạch nữ… đều không có tánh tướng, không thể phân biệt, chỉ theo thế tục mà nói có danh tự, đâu như cái bình… mà có thể chấp giữ? Vì sự chấp giữ kia chẳng phải là thức. Các pháp phân biệt cũng phải từ bỏ như thế. Đây gọi là sự từ bỏ pháp và phi pháp.

Lăng-già vương! Ngươi bảo rằng: “Con đã hỏi câu này nơi các Đức Như Lai quá khứ và các Đức Như Lai ấy cũng đã trả lời cho con.” Lăng-già vương! Điều ngươi nói ra thuộc về quá khứ, chỉ là phân biệt và tương lai cũng thế. Ta cũng giống như vậy.

Lăng-già vương! Pháp của các Đức Phật kia đều xa lìa phân biệt, đã vượt khỏi tất cả phân biệt và hý luận. Chư Phật không theo sắc tướng, ngoại trừ trí tuệ thực chứng để soi sáng chúng sinh được an lạc. Thế nên Như Lai thuyết giảng pháp bằng trí tuệ, vượt lên trên sắc tướng, gọi là Như Lai. Như Lai lấy trí làm thể, có thân thể của ngài trong trí tuệ. Vì thế, ngài không phân biệt và không bị phân biệt. Không thể phân biệt theo ý niệm về tự ngã tánh, hay chúng sinh tánh. Không phân biệt như thế nào? Vì ý thức làm nhân cảnh giới mà phát sinh, rồi giữ lấy hình tướng của sắc. Do đó đừng phân biệt và nên xa lìa đối tượng phân biệt.

Lăng-già vương! Ví như trên tường được họa hình ảnh của chúng sinh nhưng không có tâm thức. Chúng sinh nơi thế gian giống như hình vẽ trên tường ấy, không có tạo tác, không có quả báo. Các giáo pháp cũng thế, không có sự nghe, không có sự giảng nói.

Lăng-già vương! Chúng sinh ở thế gian giống như sự biến hóa,

kẻ phàm phu ngoại đạo không thể hiểu thông.

Lăng-già vương! Những ai thấy được như vậy, gọi là thấy đúng như thật. Những ai nhìn sự vật khác như vậy, thì đó gọi là cái thấy phân biệt. Do phân biệt nên chấp vào nhị biên.

Lăng-già vương! Ví như có người thấy hình ảnh mình phản chiếu trong gương, trong nước, hay thấy ánh trăng trong dòng nước, hay nghe tiếng vang trong hang núi, người ấy sinh tâm chấp chặt vào những hình bóng ấy của mình mà sinh phân biệt. Ở đây cũng thế, duy trì sự phân biệt của pháp và phi pháp, do phân biệt nên không thể xa lìa, càng tăng trưởng biết bao nhiêu hư vọng, nên không đạt được sự an tịnh. Do an tịnh có ý nghĩa nhất duyên (nhất tánh) và nhất duyên là đỉnh cao của Tam-muội. Từ đây sinh ra Thánh trí tự chứng, lấy Như Lai tạng làm cảnh giới.

 

Phẩm 2: SỰ TẬP HỢP TẤT CẢ CÁC PHÁP

(Từ giữa Quyển 1 – cuối quyển 2)

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ cùng Bồ-tát Ma-đế đã từng đến tất cả các cõi nước. Nhờ thần lực Phật, Bồ-tát rời khỏi chỗ ngồi, kéo lệch y bên vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng về phía Phật, cung kính đảnh lễ và nói kệ:

Thế gian lìa sinh diệt
Như hoa đốm hư không
Trí không định hữu, vô
Nên sinh tâm đại Bi.
Vạn pháp như huyễn ảo
Vượt khỏi tầm tâm thức
Trí không có hữu, vô
Nên sinh tâm đại Bi.
Thế gian thường như mộng
Nó vượt khỏi đoạn, thường
Trí không đắc hữu, vô
Nên sinh tâm đại Bi.
Biết nhân, pháp vô ngã
Phiền não và đối tượng
Thường thanh tịnh vô tướng
Nên sinh tâm đại Bi.
Phật không trụ Niết-bàn
Niết-bàn không trong Phật
Vượt khỏi giác, sự giác
Hoặc hữu và phi hữu.
Pháp thân như huyễn mộng
Có chi để ngợi khen?
Biết vô tánh, vô sinh
Chính là ca ngợi Phật.
Phật không tướng, căn, trần
Không thấy, tức thấy Phật
Làm sao khen hay chê
Đối với Đấng Mâu-ni.
Ai thấy Đấng Mâu-ni
An tịnh lìa sinh diệt
Thì đời này, đời sau
Vượt khỏi bao ràng buộc.

Đại Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ ca tụng Thế Tôn xong, tự xưng tên họ:

Con tên là Đại Tuệ
Thông hiểu pháp Đại thừa
Hỏi trăm lẻ tám câu
Đấng biện tài cao tột.

Đấng tối thắng trên đời nghe Bồ-tát nói xong, nhìn khắp hội chúng mà nói kệ:

Những người con tối thắng
Hãy hỏi điều muốn hỏi
Ta sẽ vì các ngươi
Chỉ cảnh giới tự chứng.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ được Phật hứa khả, đảnh lễ dưới chân và dùng kệ hỏi:

Vì sao khởi phân biệt
Làm sao hết phân biệt
Vì sao sinh mê hoặc
Làm sao hết mê hoặc
Thế nào gọi Phật tử
Và cấp độ vô tưởng
Cách giáo hóa cõi Phật
Chúng sinh hàng ngoại đạo
Giải thoát đến độ nào
Ai trói buộc, ai mở
Thế nào cảnh giới thiền
Do đâu có Tam thừa
Do duyên gì mà sinh?
Gì làm, đối tượng làm
Ai nói pháp đồng, dị
Do đâu các hữu khởi
Thế nào Vô sắc định
Sao gọi Diệt tận định
Làm sao các tưởng diệt
Thế nào từ định xuất
Hành động sinh thế nào
Sao tiến lùi giữ thân
Thấy các vật thế nào
Do đâu vào các Địa
Vì sao có Phật tử
Phá ba cõi là ai
Trú xứ, thân là gì
Sinh và trụ ở đâu
Ai đạt được thần thông
Tự tại các Tam-muội
Tâm Tam-muội thế nào
Xin Phật dạy cho con.
Thế nào gọi tạng thức
Vì sao gọi ý thức
Vì sao sinh tà kiến
Làm sao diệt các kiến
Chủng tánh, phi chủng tánh
Duy tâm nghĩa là gì
Nhân nào kiến lập tướng
Do đâu thành vô ngã
Sao nói không chúng sinh
Nói sao hợp thế tục
Cách nào khỏi sinh khổ
Thường kiến và đoạn kiến
Chư Phật và ngoại đạo
Tại sao chẳng trái nhau
Vì sao đời tương lai
Phát sinh nhiều bộ phái
Tánh không nghĩa là gì
Thế nào sát-na diệt
Thai tạng làm sao khởi
Sao ổn định thế giới
Tại sao cuộc đời này
Như ảo ảnh, giấc mộng
Như thành Càn, sóng nắng
Như trăng trong dòng nước
Bồ-đề phần là gì
Giác phần từ đâu sinh
Cõi nước sao hỗn loạn
Làm sao thấy các hữu
Sao biết pháp thế gian
Làm sao lìa văn tự
Thế nào như hoa đốm
Không sinh và không diệt
Bao nhiêu loại chân như
Tâm có bao nhiêu loại
Làm sao như hư không
Thế nào lìa phân biệt
Thứ tự các cấp độ
Làm sao được vô tưởng
Hai vô ngã là gì
Cách nào sinh tri kiến
Bao nhiêu loại Thánh trí
Bao nhiêu giới, chúng sinh
Các châu báu, ma-ni…
Thật tánh từ đâu sinh
Ai phát sinh ngôn ngữ
Vạn vật và chúng sinh
Kinh điển cùng kỹ thuật
Do ai phát minh ra
Có bao nhiêu loại kệ
Văn xuôi và văn vần
Mấy lý luận khác nhau
Bao nhiêu giải thích khác
Thực phẩm do ai tạo
Ái dục từ đâu sinh
Sao gọi Chuyển luân vương
Lãnh chúa các Tiểu vương
Vua thống lãnh thế nào
Trời có bao nhiêu loại
Đất, trăng, sao, mặt trời
Những hành tinh ra sao
Giải thoát có mấy thứ
Bao nhiêu bậc Đạo sư
Sao gọi A-xà-lê
Đệ tử có mấy loại
Có bao Bậc Như Lai
Bản sinh cùng Bản sự
Các ma và ngoại đạo
Như vậy có bao nhiêu
Tự tánh và bản tâm
Có mấy loại riêng biệt
Vì sao chỉ giả thiết
Xin Phật giảng cho con.
Do đâu có mây, gió
Niệm, tuệ do đâu có
Cỏ cây và rừng rậm
Xin hãy nói cho con
Vì sao lại bắt giữ
Muông thú, ngựa và voi
Sao có kẻ xấu, ngu
Xin Phật cho con biết
Vì sao có sáu thời
Sao gọi Nhất-xiển-đề
Do đâu có sự sinh
Nam nữ, phi nam nữ
Siêng tu hành thế nào
Tu lui sụt là sao
Có bao nhiêu Du-già
Khiến người tu pháp ấy
Chúng sinh vào các cõi
Hình sắc tướng thế nào
Nhiều giàu sang tự tại
Nhân này do đâu có
Sao có dòng họ Thích
Sao có họ Cam-giá
Tiên nhân nhiều khổ hạnh
Vị ấy nói điều chi
Nhân nào Phật Thế Tôn
Hiện trong vô số cõi
Có đủ loại chúng sinh
Các Phật tử vây quanh
Tại sao không ăn thịt
Nguyên nhân nào cấm thịt
Ăn thịt các chúng sinh
Vì nhân nào ăn thịt
Tại sao các cõi nước
Giống như mặt trời, trăng
Tu-di và hoa sen
Chữ vạn, tướng sư tử
Vì sao các cõi nước
Giống lưới trời Đế Thích
Úp xuống hoặc một bên
Tạo thành bởi châu báu
Vì sao các cõi nước
Sáng ánh trời, trăng sạch
Hoặc như hình hoa quả
Sáo trúc, đàn hay trống
Sao gọi Phật hóa thân
Thế nào báo thân Phật
Trí tuệ Phật chân như
Mong vì con mà nói
Tại sao nơi cõi Dục
Không thành tựu Chánh giác
Sao trời Sắc cứu cánh
Lìa nhiễm, đắc Bồ-đề
Khi Như Lai diệt độ
Ai hộ trì chánh pháp
Phật trụ thế bao lâu
Chánh pháp bao lâu diệt
Tất-đàn bao nhiêu loại
Có bao nhiêu quan điểm
Vì sao lập giới luật
Tất cả các Tỳ-kheo
Tất cả các Phật tử
Độc giác và Thanh văn
Làm sao chuyển sở y
Vì sao đắc vô tưởng
Sao đạt thế tục thông
Làm sao được xuất thế
Và vì nguyên nhân nào
Tâm trụ trong Thất địa
Tăng-già có mấy loại
Vì sao thành phá Tăng
Làm sao vì chúng sinh
Chữa trị bằng thuốc men
Sao Đấng Đại Mâu-ni
Xướng những lời như thế
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm Mâu-ni
Tại sao nói đoạn thường
Có ngã và vô ngã
Sao không thường nói thật
Tất cả do tâm tạo
Rừng nam, nữ là gì
Ha-lê, A-ma-la
Kê-la-sa, Luân vi
Cho đến núi Kim cang
Giữa những núi như thế
Trang hoàng nhiều châu báu
Tiên nhân, Càn-thát-bà
Tất cả đều sung mãn
Đây do nhân duyên gì
Xin Phật cho con biết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe những lời thỉnh hỏi trong giáo pháp mầu nhiệm của Đại thừa và cũng là pháp môn Tối thượng tâm của chư Phật. Thế Tôn nói:

–Hay thay! Này Đại Tuệ! Hãy lắng nghe cho kỹ! Ta sẽ nói trình tự về những câu hỏi của ông.

Rồi Phật nói kệ:

Pháp sinh hay bất sinh
Tướng không và Niết-bàn
Lưu chuyển không tự tánh
Bồ-tát Ba-la-mật
Thanh văn, Bích-chi-phật
Ngoại đạo hạnh vô sắc
Núi Tu-di, biển cả
Bãi, bờ cõi, đất đai
Sao, trăng, cùng mặt trời
Chư Thiên, A-tu-la
Tự tại thường giải thoát
Lực thiền, các Tam-muội
Diệt và Như ý túc
Bồ-đề phần và đạo
Thiền định cùng vô lượng
Các uẩn, sự đến đi
Cho đến Diệt tận định
Tâm sinh khởi ngôn từ
Tâm, ý thức, vô ngã
Tự tánh và năm pháp
Phân biệt, sở phân biệt
Năng sở hiện nhị kiến
Các thừa, nơi dòng họ
Vàng ngọc, trân báu quý
Loại lớn Nhất-xiển-đề
Hoang loạn và một Phật
Trí biết sự đạt được
Chúng sinh có hay không
Nhân nào thú, voi, ngựa
Vì sao bị bắt giữ
Vì sao nhân thí dụ
Tương ưng thành Tất-đàn
Khả năng và hành động
Các rừng cùng mê hoặc
Lý chân thật như thế
Duy tâm không cảnh giới
Các địa không cấp độ
Vô tướng và chuyển đổi
Y học, nghề, luận lý
Kinh điển và kỹ thuật
Mặt đất, núi Tu-di
Lượng biển, trăng, mặt trời
Chúng sinh thượng, trung, hạ
Thân có bao vi trần
Mỗi cõi bao vi trần
Mỗi cung bao nhiêu tấc
Cung mấy câu-lô-xá
Nửa do-tuần hay một
Lông thỏ, bụi khe cửa
Lúa mạch, lông dê, rận
Nửa đấu hay một đấu
Có bao nhiêu lúa mạch
Một đấu hay mười đấu
Mười vạn, muôn ngàn ức
Cho đến Tần-bà-la
Như thế số bao nhiêu
Bao bụi thành hạt cải
Bao hạt cải thành cỏ
Gồm bao nhiêu hạt cỏ
Mới thành một hạt đậu
Bao hạt đậu thành thù
Bao nhiêu thù thành lượng
Bao nhiêu lượng thành cân
Bao cân thành Tu-di
Sao không hỏi điều này
Sao lại hỏi việc khác
Thanh văn, Bích-chi-phật
Chư Phật và Bồ-tát
Những thân lượng như thế
Có bao nhiêu bụi trần
Bao bụi trần trong lửa
Bao nhiêu trăng một căn
Lỗ chân lông, chân mày
Bao nhiêu bụi tạo thành
Những sự việc như thế
Sao ngươi không hỏi ta
Vì sao được giàu có
Sao làm Chuyển luân vương
Giữ vương quốc thế nào
Làm sao được giải thoát
Sao văn xuôi, văn vần
Dục tình và thực phẩm
Thế nào rừng nam nữ
Các núi như Kim cang…
Như mộng huyễn khát ái
Mây từ đâu nổi lên
Do đâu có các mùa
Tánh vị giác thế nào
Nam nữ, phi nam nữ
Trang hoàng Phật, Bồ-tát
Thế nào núi nhiệm mầu
Tiên Đạt-bà trang nghiêm
Làm sao được giải thoát
Ai ràng buộc, ai mở
Cảnh giới thiền thế nào
Ngoại đạo và biến hóa
Thế nào nhân vô tác
Nhân hữu tác thế nào
Do đâu chuyển các kiến
Vì sao sinh phân biệt
Thế nào hết tính toán
Hành động do đâu sinh
Làm sao chuyển được nghiệp
Diệt các tưởng thế nào
Thế nào khởi Tam-muội
Ai phá bỏ tam giới
Thế nào là thân, xứ
Vì sao không có ngã
Nói phù hợp thế tục
Ngươi có hỏi về tướng
Và hỏi về phi ngã
Thế nào là thai tạng
Cho đến chi phần khác
Đoạn thường kiến thế nào
Làm sao tâm một cảnh
Thế nào trí ngôn thuyết
Giới chủng tánh Bồ-tát
Làm sao hợp lý luận
Thầy, môn đệ thế nào
Chúng sinh khác chủng tánh
Thực phẩm và hư không
Thể hiện trí thông minh
Ngươi hỏi ta điều gì
Về cây mọc, cây leo
Vì sao tất cả cõi
Các tướng không đồng nhau
Có dạng như cây đàn
Như eo trống, như hoa
Hoặc không có ánh sáng
Tiên nhân nhiều khổ hạnh
Có dòng họ giàu sang
Được chúng sinh tôn trọng
Có kẻ thân nghèo xấu
Bị lắm kẻ khinh thường
Vì sao trong Dục giới
Tu hành không thành Phật
Sao ở Sắc cứu cánh
Tu thành Đẳng chánh giác
Vì sao người thế gian
Có thể đạt thần thông
Vì sao gọi Tỳ-kheo
Vì sao gọi Tăng-già
Sao là hóa và báo
Phật trí tuệ chân như
Làm sao cho tâm ấy
Được trụ trong Thất địa
Nghĩa này và nghĩa khác
Nay ngươi đều hỏi ta
Như trước Phật đã nói
Một trăm lẻ tám câu
Tương ưng từng tướng một
Xa lìa các kiến hoặc
Cũng rời xa thế tục
Ngôn ngữ phù hợp pháp
Ta sẽ dạy cho ngươi
Hỡi Bồ-tát lắng nghe.

Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Ý nghĩa một trăm lẻ tám câu thế nào?

Đức Phật nói:

–Đại Tuệ! Những phát biểu về câu sinh thì chẳng phải là câu sinh, câu thường chẳng phải là câu thường, câu tướng chẳng phải là câu tướng, câu trụ và khác chẳng phải câu trụ và khác, câu sát-na chẳng phải là câu sát-na, câu tự tánh chẳng phải là câu tự tánh, câu hư vô chẳng phải là câu hư vô, câu đoạn diệt chẳng phải là câu đoạn diệt, câu tâm chẳng phải là câu tâm, câu ở giữa chẳng phải là câu ở giữa, câu thường hằng chẳng phải là câu thường hằng, câu duyên chẳng phải là câu duyên, câu nhân chẳng phải là câu nhân, câu phiền não chẳng phải là câu phiền não, câu khát ái chẳng phải là câu khát ái, câu phương tiện chẳng phải là câu phương tiện, câu thiện xảo chẳng phải là câu thiện xảo, câu thanh tịnh chẳng phải là câu thanh tịnh, câu tương ưng chẳng phải là câu tương ưng, câu thí dụ chẳng phải là câu thí dụ, câu đệ tử chẳng phải là câu đệ tử, câu bậc thầy chẳng phải là câu bậc thầy, câu dòng họ chẳng phải là câu dòng họ, câu tam thừa chẳng phải là câu tam thừa, câu vô ảnh tượng chẳng phải là câu vô ảnh tượng, câu nguyện chẳng phải là câu nguyện, câu ba luân chẳng phải là câu ba luân, câu tiêu tướng chẳng phải là câu tiêu tướng, câu hữu chẳng phải là câu hữu, câu phi chẳng phải là câu phi, câu cả hai chẳng phải là câu cả hai, câu Thánh tự chứng chẳng phải là câu Thánh tự chứng, câu pháp lạc hiện tại chẳng phải là câu pháp lạc hiện tại, câu cõi nước chẳng phải là câu cõi nước, câu bụi trần chẳng phải là câu bụi trần, câu nước chẳng phải là câu nước, câu cái hang chẳng phải là câu cái hang, câu đại chúng chẳng phải là câu đại chúng, câu toán số chẳng phải là câu toán số, câu thần thông chẳng phải là câu thần thông, câu hư không chẳng phải là câu hư không, câu mây chẳng phải là câu mây, câu kỷ xảo chẳng phải là câu kỷ xảo, câu kỹ thuật chẳng phải là câu kỹ thuật, câu gió chẳng phải là câu gió, câu đất chẳng phải là câu đất, câu tâm chẳng phải là câu tâm, câu giả lập chẳng phải là câu giả lập, câu thể tánh chẳng phải là câu thể tánh, câu các uẩn chẳng phải là câu các uẩn, câu chúng sinh chẳng phải là câu chúng sinh, câu giác tri chẳng phải là câu giác tri, câu Niết-bàn chẳng phải là câu Niết-bàn, câu sở tri chẳng phải là câu sở tri, câu ngoại đạo chẳng phải là câu ngoại đạo, câu hoang loạn chẳng phải là câu hoang loạn, câu huyễn chẳng phải là câu huyễn, câu mộng chẳng phải là câu mộng, câu ảo ảnh chẳng phải là câu ảo ảnh, câu ảnh tượng chẳng phải là câu ảnh tượng, câu hỏa luân chẳng phải là câu hỏa luân, câu Càn-thát-bà chẳng phải là câu Càn-thát-bà, câu trời chẳng phải là câu trời, câu ăn uống chẳng phải là câu ăn uống, câu dâm dục chẳng phải là câu dâm dục, câu quan điểm chẳng phải là câu quan điểm, câu Ba-la-mật chẳng phải là câu Ba-la-mật, câu giới chẳng phải là câu giới, câu mặt trời và các vì sao chẳng phải là câu mặt trời và các vì sao, câu sự thật chẳng phải là câu sự thật, câu kết quả chẳng phải là câu kết quả, câu đoạn diệt chẳng phải là câu đoạn diệt, câu diệt khởi chẳng phải là câu diệt khởi, câu y phương chẳng phải là câu y phương, câu tướng chẳng phải là câu tướng, câu chi phần chẳng phải là câu chi phần, câu thiền chẳng phải là câu thiền, câu sai lầm chẳng phải là câu sai lầm, câu hiện tại chẳng phải là câu hiện tại, câu hộ trì chẳng phải là câu hộ trì, câu gia tộc chẳng phải là câu gia tộc, câu tiên chẳng phải là câu tiên, câu vua chẳng phải là câu vua, câu lãnh hội chẳng phải là câu lãnh hội, câu châu báu chẳng phải là câu châu báu, câu Nhất-xiểnđề chẳng phải là câu Nhất-xiển-đề, câu nam nữ chẳng phải là câu nam nữ, câu vị giác chẳng phải là câu vị giác, câu tạo tác chẳng phải là câu tạo tác, câu thân thể chẳng phải là câu thân thể, câu vọng thức chẳng phải là câu vọng thức, câu động lực chẳng phải là câu động lực, câu giác quan chẳng phải là câu giác quan, câu hữu vi chẳng phải là câu hữu vi, câu nhân quả chẳng phải là câu nhân quả, câu Sắc cứu cánh chẳng phải là câu Sắc cứu cánh, câu thời tiết chẳng phải là câu thời tiết, câu cây cỏ chẳng phải là câu cây cỏ, câu chủng chủng chẳng phải là câu chủng chủng, câu diễn nói chẳng phải là câu diễn nói, câu quyết định chẳng phải là câu quyết định, câu Tỳ-ni chẳng phải là câu Tỳ-ni, câu Tỳ-kheo chẳng phải là câu Tỳ-kheo, câu trụ trì chẳng phải là câu trụ trì, câu văn tự chẳng phải là câu văn tự.

Này Đại Tuệ! Đây là một trăm lẻ tám câu mà chư Phật thời quá khứ đã dạy.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Các thức sinh, trụ và diệt có bao nhiêu cách?

Đức Phật nói:

–Đại Tuệ, các thức sinh, trụ và diệt có hai cách, mà người khác không thể biết bằng sự ức đoán. Nghĩa là tương tục sinh và tương sinh, tương tục trụ và tương trụ, tương tục diệt và tương diệt. Các thức có ba tướng, đó là chuyển tướng, nghiệp tướng và chân tướng.

Này Đại Tuệ! Thức nói rộng có tám, nói tóm tắt chỉ có hai: Hiện thức và Phân biệt sự thức.

Như tấm gương sáng, hiện rõ những hình tướng; hiện thức cũng thế.

Này Đại Tuệ! Hiện thức và Phân biệt sự thức, hai thức này tướng không khác nhau, mà chúng hỗ tương làm nhân duyên của nhau.

Này Đại Tuệ! Hiện thức do một tập khí kỳ bí chẳng thể nghĩ bàn làm nhân. Còn Phân biệt sự thức do thế giới phân biệt và do tập khí lập luận sai lầm vốn có từ vô thủy làm nhân.

Này Đại Tuệ! Thức A-lại-da hư vọng phân biệt, chất chứa nhiều tập khí. Thức A-lại-da nếu diệt, tức thời tất cả các căn và thức đều bị diệt. Đây gọi là sự diệt về mặt hình tướng.

Này Đại Tuệ! Sự diệt và mặt tương tục nghĩa là nhân sở y diệt và sở duyên diệt, tức sự tương tục diệt. Nhân của sở y nghĩa là những tập khí vốn được chất chứa do lập luận sai lầm từ vô thủy. Sở duyên nghĩa là cảnh giới phân biệt các thức tự tâm.

Này Đại Tuệ! Ví như cục đất và những bụi làm thành cục đất, hai thứ đó không khác nhau, cũng không không khác nhau. Ví như vàng cùng đồ trang sức bằng vàng cũng thế.

Này Đại Tuệ! Nếu cục đất mà khác với hạt bụi làm nên nó, thì sẽ không có cục đất nào được tạo thành. Bởi vì cục đất được tạo thành do các hạt bụi, nên nó không khác với các hạt bụi đất. Và nếu không có sự khác nhau giữa cục đất và hạt bụi, thì cục đất sẽ không khác nhau với những hạt bụi.

Này Đại Tuệ! Nếu chuyển thức khác với tàng thức, thì tàng thức không phải là nguyên nhân chuyển thức. Nếu chúng không khác thì chuyển thức diệt và tàng thức cũng diệt, nhưng thật tướng của tàng thức không diệt.

Này Đại Tuệ! Chân thật tướng của thức không diệt, nhưng nghiệp tướng diệt. Nếu chân tướng diệt thì tàng thức diệt. Nếu tàng thức mà diệt, thì không khác gì học thuyết đoạn diệt của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Học thuyết ấy được các ngoại đạo nói rằng: “Sự giữ lấy cảnh giới tương tục của thức diệt, thì sự tương tục từ vô thủy của thức cũng bị diệt.”

Này Đại Tuệ! Các nhà ngoại đạo nói: “Có một nguyên nhân sinh khởi từ đó xảy ra sự tương tục của thức.” Họ không nói nhãn thức sinh khởi do sự hòa hợp của sắc và ánh sáng. Họ cho rằng: Sự sinh khởi là có tác giả. Tác giả ấy là gì? Họ cho rằng đó là: Thắng, tánh người, sĩ phu, tự tại thiên, thời gian và bụi trần.

Này Đại Tuệ! Có bảy loại tự tánh, đó là tập tự tánh, hữu tự tánh, tướng tự tánh, đại chủng tự tánh, nhân tự tánh, duyên tự tánh và thành tự tánh.

Này Đại Tuệ! Có bảy thứ Đệ nhất nghĩa, đó là cảnh giới của tâm, cảnh giới của trí, cảnh giới của nhị biên kiến, cảnh giới của siêu nhị kiến, cảnh giới của siêu Bồ-tát địa, cảnh giới của Như Lai, cảnh giới của tự chứng Thánh trí.

Này Đại Tuệ! Đây là pháp tự tánh Đệ nhất nghĩa tâm của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thời quá khứ, tương lai và hiện tại. Do tâm này mà thành tựu pháp tối thượng của Như Lai ở thế gian hay xuất thế gian. Bằng Tuệ nhãn của bậc Thánh, chư Phật nhập vào biệt tướng và cộng tướng mà an lập các pháp. Sự an lập của chư Phật không đồng với kiến thức sai lầm của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tà kiến của ngoại đạo? Nghĩa là họ không biết cảnh giới mà tự phân biệt hiện ra. Đối với Đệ nhất nghĩa thấy có, thấy không nên lập ra luận thuyết.

Này Đại Tuệ! Giáo pháp của ta dạy rằng: “Nếu ai hiểu rõ các cảnh giới như huyễn ảo, chỉ là sự hiển hiện của tự tâm, thì người đó sẽ diệt được các khổ vọng tưởng trong ba cõi và diệt được nghiệp duyên vô minh, khát ái.”

Này Đại Tuệ! Có những Sa-môn, Bà-la-môn vọng chấp cho rằng: phi hữu và hữu của các vật hiển hiện bên ngoài đối với nhân quả nương vào thời gian mà trụ. Hoặc cho rằng: các uẩn, xứ, giới nương vào duyên sinh mà trụ. Sau khi hiện hữu như vậy, những pháp này sẽ diệt.

Này Đại Tuệ! Các nhà ngoại đạo đó là những người theo quan điểm tương tục, vận hành, sinh khởi, hoại diệt, hiện hữu, Niết-bàn, đạo, nghiệp, quả hoặc chân lý. Đó là những tư tưởng phá hoại và đoạn diệt. Vì sao? Vì họ không đạt pháp hiện tại, không thấu hiểu chân lý.

Này Đại Tuệ! Ví như chiếc bình bị vỡ thì không còn tác dụng của chiếc bình nữa. Và như hạt giống bị cháy, thì không thể nảy mầm. Đây cũng thế, nếu các pháp uẩn, xứ, giới đã hiện thì sẽ diệt. Biết rằng sự sinh khởi không tương tục, vì không có nguyên nhân, đó chỉ là kiến thức sai lầm từ tâm phân biệt.

Này Đại Tuệ! Nếu vốn không có thức mà do ba duyên hợp lại sinh khởi, thì con rùa có thể mọc lông và cát có thể sinh ra dầu. Tôn chỉ của họ không có giá trị, vì trái với nghĩa quyết định. Những sự tạo tác, hành vi đều là không và vô ích.

Này Đại Tuệ! Thuyết ba duyên hợp lại tạo ra quả, nguyên lý cho rằng đó là hữu. Và như thế, quá khứ, hiện tại, tương lai từ không sinh ra có. Ở đây dựa vào giác tưởng địa mà lập luận, bao nhiêu lý giải và kiến thức sai lầm, huân tập tập khí chồng chất mà tuyên bố là luận thuyết chân lý.

Này Đại Tuệ! Kẻ phàm phu ngu si bị đầu độc nơi quan điểm sai lầm tà kiến, mê muội, vô trí, nên vọng xưng đó là lời của bậc Nhất thiết trí.

Này Đại Tuệ! Có những Sa-môn, Bà-la-môn quán tất cả pháp đều không có tự tánh, như mây trong bầu trời, như vòng lửa, như thành quách Càn-thát-bà, như ảo ảnh, như sóng nắng, như trăng chiếu trên mặt nước, như một giấc mộng, chẳng rời khỏi tự tâm. Do từ vô thủy đến nay bị kiến thức sai lầm, cho nên chấp thọ lấy làm bên ngoài. Quán sát như vậy rồi đoạn duyên phân biệt, xa lìa vọng tâm và chấp thọ danh nghĩa. Biết thân, tài sản, trú xứ, tất cả đều là những đối tượng hóa của cảnh giới thức A-lại-da, không thể có sự chấp thọ và sinh, trụ, diệt. Luôn tư duy như vậy mà trú không xả.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát này chẳng bao lâu sẽ đạt đến sự hiểu biết rằng: Niết-bàn và sinh tử, cả hai đều bình đẳng. Được đại Bi phương tiện mà hành động không chấp vào hành động. Các Bồ-tát này quán thấy chúng sinh như ảo tướng, như bóng hình, từ duyên sinh khởi. Họ thấy rằng tất cả cảnh giới không có gì bên ngoài tâm mà có, phù hợp với con đường vô tướng. Các Bồ-tát này dần dần đi qua các cấp độ tại cảnh giới Tam-ma-địa, hiểu rõ ba cõi chính tự nơi tâm. Hiểu được như thế, họ sẽ đạt thiền định, quán pháp như huyễn, không còn hình tượng, thành tựu trí tuệ, chứng vô sinh, nhập Kim cang dụ Tam-muội, sẽ được thân Như Lai, thường trụ như như và những sức biến hóa thần thông tự tại.

Này Đại Tuệ! Những sự kiện trên dùng làm trang sức, phương tiện đi đến các cõi Phật, vượt lên trên hàng ngoại đạo, tâm, ý và thức. Lần lượt chuyển thân Bồ-tát thành thân Như Lai.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát mong cầu được thân Như Lai, hãy nên xa lìa tâm niệm uẩn, xứ, giới, nhân duyên, sự tạo tác và các pháp sinh, trụ, diệt, hý luận, phân biệt. Chỉ chú tâm quán sát tập khí sai lầm, dối trá vốn sinh trong ba cõi từ vô thủy. Và cũng suy tư về Phật địa là khởi vô tưởng, vô sinh cùng pháp tự chứng của bậc Thánh, được tâm tự tại mà hành động không lệ thuộc vào hành động. Giống như ngọc như ý, tùy nghi phản chiếu theo ngoại tại, làm cho nhập vào các Địa, thông đạt tâm tinh tế của chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Vì thế vị Đại Bồ-tát đối với Tất-đàn của mình nên tu học trọn vẹn.

***

Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con các pháp môn vi diệu về tâm, ý và ý thức, năm pháp các tự tánh và các tướng. Đây là pháp môn mà tất cả chư Phật, Bồ-tát đều thực hành, xa lìa các hành tướng, vì cảnh giới ngoại tại chính tự nơi tâm, những điều gọi là nghĩa chân thật, những lời dạy tinh yếu của giáo pháp Phật. Xin Đức Như Lai thuyết giảng cho chúng Bồ-tát trên núi này về sự tùy thuận của chư Phật quá khứ, về sóng biển tàng thức và cảnh giới của Pháp thân.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Có bốn lý do làm cho nhãn thức chuyển biến. Bốn lý do ấy là gì? Đó là:

  1. Vì chấp chặt nên không biết tự tâm hiện khởi.
  2. Từ thời vô thủy đến nay bị ràng buộc nơi sắc không thật và tập khí.
  3. Bản tánh của thức là như vậy.
  4. Ham thích các hình sắc và vẻ bên ngoài.

Này Đại Tuệ! Vì bốn lý do này, thức A-lại-da như dòng nước lũ, sinh ra các sóng chuyển thức, như nhãn thức… Đối với tất cả các căn, vi trần, các lỗ chân lông, mắt… ví như tấm gương phản chiếu các sắc màu, hình ảnh. Hoặc sinh ra dần dần. Giống như gió mạnh thổi vào biển cả, biển tâm cũng thế. Gió cảnh giới thổi lên các sóng thức liên tục không ngừng.

Này Đại Tuệ! Nguyên nhân và hành vi tương quan nhau, chẳng

phải một, chẳng phải khác. Nghiệp cùng ngoại tướng ràng buộc chằng chịt với nhau, nên không thể biết rõ tự tánh của hình sắc… và năm thức nơi thân vận hành.

Này Đại Tuệ! Cùng tương ưng với năm thức này, hoặc nhân phân biệt các cảnh tướng khác nhau mà có ý thức sinh. Nhưng các thức kia không nghĩ rằng là chúng ta đồng thời làm nhân lẫn nhau, mà đối với cảnh giới hiện ngay nơi tự tâm phân biệt chấp trước, đồng thời phát khởi tướng không sai biệt, đều rõ cảnh của mình.

Này Đại Tuệ! Các nhà tu hành khi nhập Tam-muội, bằng một chút sức tu tập đã phát sinh mà không tự biết, nên nghĩ rằng: ta diệt các thức để vào Tam-muội. Nhưng thật ra họ không dẹp tất cả các thức mà nhập Tam-muội. Do đó, không dập tắt được các chủng tử của tập khí. Vì không còn nắm vào các cảnh, nên gọi là thức diệt.

Này Đại Tuệ! Hành tướng của tàng thức rất vi tế, ngoại trừ các Đức Phật hay các vị Bồ-tát ở các trụ địa, còn tất cả hàng ngoại đạo Nhị thừa thì dầu cho có năng lực trí tuệ và thiền định đều không thể biết được. Chỉ có những bậc tu hành mới hiểu đầy đủ những khía cạnh của các Bồ-tát, bằng sự trợ lực của trí tuệ họ biết rõ tướng các Địa, khéo thông đạt cú nghĩa, nhờ gieo trồng tích tập nhiều thiện căn trong cõi Phật vô biên. Không mê lầm với những phân biệt, nên tự tâm có sự nhìn nhận và hiểu biết như vậy.

Này Đại Tuệ! Những bậc tu hành đó sống ẩn dật trong chốn núi rừng, nỗ lực tu hành, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc trung bình. Các vị ấy có thể thấy được tự tâm và sự hoạt động của nó, đạt những Tammuội, có năng lực thần thông tự tại, được chư Phật làm pháp quán đảnh, có các Bồ-tát vây quanh, biết sự vận hành của các cảnh giới tâm, ý và ý thức. Họ có thể vượt qua biển cả sinh tử của vô minh, ái nghiệp. Thế nên các thầy hãy thân cận chư Phật, Bồ-tát, thật sự tu hành như các bậc đại Thiện tri thức.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ví như sóng biển lớn
Do gió mạnh khuấy động
Sóng vỗ mãi bể bờ
Không khi nào ngưng nghỉ
Biển tạng thức thường trú
Bị gió cảnh giới động
Vô số các sóng thức
Nhấp nhô mà chuyển sinh
Các màu xanh, vàng, đỏ
Muối, sữa, mật, đường thơm
Hoa, quả, trời, trăng sáng
Chẳng khác, chẳng không khác
Bảy thức liên kết nhau
Nên biết cũng như thế
Như biển cùng con sóng
Tâm không khác với thức
Ví như biển khuấy động
Những con sóng nhấp nhô
Thức Lại-da cũng thế
Nhiều loại thức sinh ra
Tâm, ý và ý thức
Vì các tướng nên nói
Tám thức tướng không khác
Không tướng năng, tướng sở
Ví như làn sóng biển
Không có gì khác nhau
Các thức tâm cũng thế
Không có sự khác nhau
Nghiệp do tâm chất chứa
Ý tích tụ rộng nhiều
Nhận biết nên gọi thức
Tùy cảnh hiện năm thức

Đại Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ thưa hỏi:

Các màu như xanh, đỏ
Hiện ra thức chúng sinh
Như các hiện tượng sóng
Vì sao? Xin Phật dạy.
Đức Thế Tôn đáp:
Các màu như xanh, đỏ
Trong sóng không khác nhau
Nói tâm khởi các tướng
Vì khai ngộ phàm phu
Nhưng tâm vốn không khởi
Lìa sở thủ tự tâm
Năng thủ và sở thủ
Phải hiểu như sóng kia
Thôn, của cải, nhà ở
Hiện nơi thức chúng sinh
Thế nên thấy thế này
Cùng sóng không khác nhau
Bồ-tát Đại Tuệ thưa:
Trạng thái sóng, biển cả
Phân biệt sự nhấp nhô
Sao trí không nhận biết
Tạng thức như biển kia?

Đức Thế Tôn đáp:

Như biển Lại-da
Thức chuyển cùng sóng biển
Vì phàm phu thiếu trí
Ví biển để chỉ bày.
Bồ-tát Đại Tuệ thưa:
Ví như mặt trời mọc
Đồng chiếu khắp thấp cao
Đèn thế gian cũng thế
Nêu thật vì kẻ ngu
Phật đã khai thị pháp
Sao không nói sự thật.

Đức Thế Tôn đáp:

Nếu sự thật ông nói
Sự thật không trong tâm
Ví như sóng biển cả
Ảnh trong gương, giấc mộng
Đồng thời đều hiển hiện
Cảnh giới tâm cũng thế
Do vì thiếu điều kiện
Lần lượt mà chuyển sinh
Chức năng thức nhận biết
Chức năng ý phản ảnh
Hiển bày ra năm thức
Khi định không thứ lớp
Ví như người họa sĩ
Và học trò ông ta
Sắp màu tạo bức tranh
Lời ta cũng như thế
Tranh không trong màu sắc
Trong bút, hay trong vải
Để vui lòng chúng sinh
Tạo bức tranh màu sắc
Ngôn từ thì biến đổi
Chân lý vượt ngôn từ
Ta trụ pháp chân thật
Giảng cho bậc tu hành
Chân lý, pháp tự chứng
Vượt năng, sở phân biệt
Ta nói đệ tử Phật
Không phải vì kẻ ngu
Những hiện hữu như huyễn
Điều được, thấy không được
Những lời dạy như thế
Thay đổi tùy theo việc
Giáo pháp không phải pháp
Nếu không nhằm trường hợp
Ví như thầy cho thuốc
Tùy theo từng căn bệnh
Như Lai dạy chúng sinh
Tùy theo tâm thức họ
Đấng thế gian nương cậy
Lãnh vực trí tự chứng
Không phải là cảnh giới
Của Thanh văn, ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát muốn hiểu trọn vẹn phạm trù của thế giới phân biệt, như chủ thể và đối tượng đều là sự hiển hiện của tự tâm, thì phải tránh xa sự ồn náo, lười mỏi, ngủ nghỉ… Đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm hãy nỗ lực tu tập. Hãy xa lìa và không nghe các sự luận bàn sai lệch của ngoại đạo và pháp của Thanh văn, Duyên giác, thông đạt tướng phân biệt của tự tâm.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Khi tâm của vị Đại Bồ-tát đã an trú nơi trí tuệ siêu tuyệt, đối với Thánh trí cao cả của tam tướng, cần phải tu học. Tam tướng ấy là gì? Đó là:

  1. Tướng không hình ảnh
  2. Nguyện lực gia trì của tất cả chư Phật.
  3. Tự hướng đến sự chứng đạt nhờ Thánh trí.

Các bậc tu hành đã được các tướng này, nên xả bỏ sự hiểu biết về tâm, đạt được nhờ trí siêu việt, như con lừa què và nhập vào Địa thứ tám Bồ-tát. Đối với ba tướng này, Bồ-tát cần liên tục tu hành.

Này Đại Tuệ! Tướng vô tướng có được khi tất cả tướng của hàng ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác được quán triệt chặt chẽ. Tướng nguyện lực gia trì được sinh khởi do bản nguyện tự thân được chư Phật gia hộ. Tướng tự chứng của Thánh trí được sinh khởi do không chấp vào tướng của tất cả pháp, thành tựu các Tam-muội, nhìn thế giới như ảo ảnh, thân tiến đến trí của Phật địa.

Này Đại Tuệ! Đây là ba tướng của Thánh trí cao thượng. Nếu ai

đạt được tướng này tức là đạt đến trạng thái tự chứng của Thánh trí. Thầy và các Đại Bồ-tát nên nỗ lực tu học.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ biết những gì đang diễn tiến trong tâm tư, ý nghĩ của các Bồ-tát và nương sức oai thần của tất cả các Đức Phật, nên bạch:

–Cúi xin Thế Tôn dạy cho con pháp môn tự tánh của Thánh trí, y theo đó mà phân làm một trăm lẻ tám câu. Điều mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các Đại Bồ-tát rơi vào tướng nhìn sự vật một cách tổng quát nên dạy rõ nghĩa môn sai biệt và bản chất là vọng chấp. Biết rõ ý nghĩa này, các vị Đại Bồ-tát làm thanh tịnh cả hai vô ngã, tự soi sáng về các Địa, vượt khỏi cái hỷ lạc thiền định của ngoại đạo và Thanh văn, Duyên giác, đạt được cảnh giới hành trang bất khả tư nghì của các Đức Như Lai, rốt ráo xả ly tự tánh của năm pháp, được tất cả trí tuệ, Pháp thân Phật để tự trang nghiêm và đi vào cảnh như huyễn ảo mà trú tất cả cõi trời Đâu-suất, trời Sắc cứu cánh, thành thân Như Lai.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có một loại ngoại đạo có quan điểm rằng: “Tất cả các pháp tùy theo nhân mà đoạn tận”, nên sinh kiến giải phân biệt như ý nghĩ không có sừng thỏ. Sinh kiến chấp ấy, cho là không có sừng thỏ, cho tất cả các pháp cũng như thế. Lại có những kẻ khác, do thấy những khác biệt của các pháp về hình tướng, trọng lượng, vị trí mà vọng chấp các pháp mỗi mỗi sai biệt, sinh kiến chấp cho là không có sừng thỏ và nghĩ rằng phải có sừng trâu.

Này Đại Tuệ! Những kẻ ấy rơi vào nhị biên, không hiểu rõ là chỉ có tâm mà thôi. Nhưng đối với tự tâm lại tăng thêm sự phân biệt.

Này Đại Tuệ! Thân thể, tài sản, vật chất ở thế gian, tất cả chỉ hiện hữu bởi tâm phân biệt.

Này Đại Tuệ! Nếu biết sừng thỏ không phải có, cũng không phải không có, không nên có sự phân biệt nào về các pháp. Vì sao sừng thỏ xa lìa nơi có và không? Chúng làm nhân đối đãi lẫn nhau. Phân tích về sừng trâu cho đến bụi trần, đi tìm thể tướng của nó cũng không thể được. Bởi vì sự hoạt động của Thánh trí đã chứng đạt thì xa lìa kiến chấp kia. Vì thế, ở đây không nên phân biệt.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phải chăng vì họ dựa vào vọng kiến để khởi các tướng mà so sánh, đối đãi, tính toán là không phải không.

Đức Thế Tôn nói:

–Không vì sự phân biệt mà khởi tướng đối đãi, nên bảo là không. Vì sao? Vì có sự phân biệt mà sinh ra nguyên nhân. Do phân biệt cái sừng làm chỗ sở y, chỗ sở y làm nhân xa lìa khởi sự khác và không khác, chẳng phải do tướng đối đãi mà hiển bày sừng thỏ là không.

Này Đại Tuệ! Nếu sự phân biệt này là khác với sừng thỏ, thì chẳng phải là nhân nơi cái sừng, nếu không khác thì nhân kia sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Phân tích sừng trâu cho đến phân tử cực nhỏ là điều không thể được, nó khác với có sừng nên nói là không có sừng. Phân biệt như vậy, chắc chắn là phi lý. Khi cả hai thứ đều không có thứ nào (sừng thỏ và sừng trâu) là hiện hữu, thì liên hệ vào đâu mà thành tựu? Vì thế, có lập luận cho rằng sừng thỏ là không, không nên phân biệt, vì không có nguyên nhân chính. Có người lập luận về hữu vô, chấp có và chấp không, cả hai đều không thành tựu.

Này Đại Tuệ! Lại có những ngoại đạo mắc phải quan điểm sai lầm, chấp trước vào những ý niệm như thấy màu sắc, hình trạng, hư không, cho rằng sắc khác với hư không mà khởi ra sự phân biệt.

Này Đại Tuệ! Vì hư không nhập vào hình sắc nên hình sắc là hư không.

Này Đại Tuệ! Sắc là hư không, để thiết lập tính chất năng trì và sở trì nên chia làm hai: hư không và sắc. Hãy hiểu như vậy.

Này Đại Tuệ! Khi các đại chủng tạo ra thì chúng khác biệt nhau, không trụ trong hư không và hư không không phải không hiện hữu trong chúng.

Này Đại Tuệ! Sừng thỏ cũng thế, do đối đãi với sừng trâu mà nói sừng ấy không có.

Này Đại Tuệ! Phân tích sừng trâu cho đến các vi trần, rồi lại phân tích vi trần ấy nữa, thì tướng ấy không hiện. Vậy nó dựa vào đâu mà nói là không? Nếu dựa vào vật khác thì vật khác cũng như thế.

Này Đại Tuệ! Ông nên xả bỏ các quan điểm và phân biệt liên hệ đến sừng thỏ, sừng trâu, đến hư không và hình sắc. Ông và các Bồ-tát hãy luôn quán sát về tướng phân biệt mà các ông thấy từ chính tâm mình, ở nơi tất cả cõi nước, vì các Phật tử thể hiện pháp tu hành của tự tâm.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thấy của tâm không có
Chỉ nương tâm mà khởi
Hình ảnh dựa vào thân
Hiện tàng thức chúng sinh
Tâm, ý cùng ý thức
Tự tánh và năm pháp
Hai vô ngã, thanh tịnh
Các đạo sư diễn thuyết
Dài, ngắn cùng đối đãi
Lần lượt hỗ tương sinh
Nhân nơi hữu thành vô
Nhân nơi vô thành hữu
Phân tích đến vi trần
Chẳng phân biệt sắc nào
Chỉ tâm được kiến lập
Kẻ tà kiến không tin
Không thuộc chỗ ngoại đạo
Hay lãnh vực Thanh văn
Đấng Cứu Thế đã dạy
Mở con đường tự chứng.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh vấn Đức Thế Tôn về sự tẩy sạch dòng tâm hiện tại:

–Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để tẩy sạch dòng tâm hiện tại của các chúng sinh? Sự tẩy sạch ấy là ngay tức khắc hay dần dần?

Đức Phật bảo Đại Tuệ:

–Tâm được tẩy sạch dần dần, chứ không phải được tẩy sạch ngay tức khắc. Như trái xoài chín dần dần, chứ không phải chín ngay tức khắc. Cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là dần dần, chứ không phải ngay tức khắc.

Như người thợ gốm làm ra các vật dụng là làm dần dần, chứ không phải ngay tức khắc. Cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là tẩy sạch dần dần, chứ không phải tẩy sạch ngay tức khắc.

Ví như mặt đất sinh ra các loài cỏ cây, cây cỏ mọc dần dần chứ không phải mọc ngay một lúc. Cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là tẩy sạch dần dần, chứ không phải tẩy sạch ngay tức khắc.

Này Đại Tuệ! Ví như người học âm nhạc, vẽ, họa và các môn kỹ thuật khác, dần dần thành tựu, chứ không phải đạt ngay. Cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là tẩy sạch dần dần, chứ không phải tẩy sạch ngay tức khắc.

Ví như tấm gương phản chiếu ngay tức khắc và không phân biệt các hình tượng, cũng thế, Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là ngay tức khắc, làm cho chúng sinh thoát khỏi sự phân biệt và đưa chúng sinh đến những trạng thái vô tướng.

Như mặt trời, mặt trăng cùng lúc chiếu khắp tất cả hình sắc, cảnh tượng, cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch những tập khí, lỗi lầm tự tâm của các chúng sinh. Như Lai khai thị ngay tức khắc cho chúng sinh thấy cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thuộc về trí tuệ.

Ví như thức A-lại-da tạo ngay tức khắc tất cả thế giới của thân thể, tài sản, đất nước, cũng thế, Đức Phật ngay tức khắc giáo hóa thành thục tất cả chúng sinh ở cõi trời Sắc cứu cánh, làm cho họ tu hành các hạnh.

Ví như Đức Phật pháp tánh phóng hào quang chiếu sáng từ Phật báo thân cho đến Phật hóa thân, tự chứng Thánh cảnh; cũng thế, pháp tướng hiện ngay tức khắc, tỏa chiếu làm cho xa lìa tất cả tà kiến về hữu và vô.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp tánh sở lưu Đức Phật dạy về tự tướng và cọng tướng của các pháp. Vì các pháp nhân duyên, tập khí hiện chính tự tâm. Do sự không nhận biết mà chấp tướng của nhân, làm cho bị ràng buộc vào những việc hư huyễn, đều là tánh vô thường. Nhưng các chúng sinh chấp trước vào những huyễn ảo mà cho là thật đều không thể được.

Này Đại Tuệ! Những suy tưởng hư ngụy chấp trước tự tánh duyên khởi thì tự tánh khởi.

Này Đại Tuệ! Ví như nhà ảo thuật dùng sức huyễn thuật dựa vào cỏ cây, ngói đá mà làm ảo thuật, tạo ra bao nhiêu là màu sắc, hình tướng của chúng sinh, làm cho mọi người trông thấy phân biệt một cách đa dạng và không chân thật.

Này Đại Tuệ! Cũng vậy, do chấp chặt cảnh giới, cho nên sức tập khí ở trong tánh duyên khởi có tánh vọng chấp, hiện ra các tướng. Đây gọi là vọng chấp tánh sinh.

Này Đại Tuệ! Đó là pháp tánh sở lưu, Phật nói về tướng của các pháp.

Này Đại Tuệ! Đức Phật pháp tánh là thiết lập trạng thái cao vời của trí tuệ tự chứng, vượt khỏi tướng tự tánh của tâm.

Này Đại Tuệ! Điều mà Đức Phật ứng hóa thuyết giảng là pháp ứng thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, uẩn, xứ, giới, các giải thoát, các thức và cách thức mà chúng vận hành. Đức Phật kiến lập sự sai biệt vượt ra ngoài mọi hình tướng, siêu việt hạnh vô sắc.

Này Đại Tuệ! Đức Phật pháp tánh tự tại với các duyên, xa lìa tất cả sở duyên, tất cả sự tạo tác, các tướng căn lượng, không thuộc vào thế giới phàm phu, hàng Thanh văn, Duyên giác và các ngoại đạo chấp chặt các ý niệm về ngã tướng.

Vì thế, này Đại Tuệ! Ông hãy nỗ lực tu học theo con đường cao cả, dẫn đến trí tuệ tự chứng của bậc Thánh. Ông hãy xa lìa những kiến giải của thế giới bên ngoài, cách biệt với tự tâm.

Này Đại Tuệ! Thanh văn thừa có hai tướng khác nhau. Đó là: Trạng thái tuyệt diệu cao vời của sự tự chứng Thánh trí và trạng thái chấp chặt vào tự tánh phân biệt.

Thế nào là trạng thái tuyệt diệu cao vời của sự tự chứng Thánh trí? Đây là cái thấy minh triết về khổ, không, vô thường, vô ngã, thuộc thế giới chân lý, thoát khỏi phiền não, cho nên đạt được tịch diệt. Đối với các uẩn, xứ, giới, hoặc tự tánh, hoặc tổng quát và ngoại tánh không hoại diệt. Vì biết rõ chân lý nên tâm trú nơi một cảnh. Tâm đã trú nơi một cảnh nên đạt được đạo quả thiền định giải thoát Tam-muội và được xuất ly, trú cảnh giới an lạc và tự chứng Thánh trí. Nhưng trong đó chưa loại bỏ tập khí và chưa thoát khỏi sự chết biến dịch không thể nghĩ bàn. Đây là trạng thái cảnh giới tự chứng Thánh trí của Thanh văn thừa. Các Đại Bồ-tát cũng đắc cảnh giới Thánh trí này, nhưng vì thương xót chúng sinh nên luôn giữ bản nguyện không chứng môn tịch diệt và hỷ lạc của Tam-muội. Các Đại Bồ-tát không nên tu học và ở trong trạng thái an lạc tự chứng Thánh trí này của hàng Thanh văn.

Này Đại Tuệ! Thế nào là sự chấp trước vào tướng tự tánh sinh khởi từ phân biệt? Khi một người thấy rằng các tính chất như: cứng, ẩm, nóng, động, xanh, vàng, đỏ, trắng… những pháp ấy không sinh, do người tạo tác. Nhưng dựa vào giáo lý mà thấy được tự tướng và cọng tướng nên phân biệt chấp trước. Đây gọi là tướng chấp trước vào sự phân biệt của hành Thanh văn. Đại Bồ-tát khi biết được pháp này như thế nào thì hãy từ bỏ nó đi, phù hợp với pháp vô ngã và trừ những kiến giải sai lầm về sự vô ngã của con người, dần dần trụ nơi các Địa của bậc Thánh.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai đã dạy cảnh giới Đệ nhất nghĩa do Thánh trí tự chứng thường chẳng thể nghĩ bàn, đồng với tác giả không thể nghĩ bàn do ngoại đạo nói là thường hằng, có đúng hay không?

Đức Phật đáp:

–Này Đại Tuệ! Sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn mà hàng ngoại đạo đã định tánh cho đấng sáng tạo của họ là không chính xác. Vì sao? Vì sự thường hằng bất biến chẳng thể nghĩ bàn của hàng ngoại đạo không phù hợp với tự tướng nguyên nhân, cho nên không tồn tại được. Và tự tướng nguyên nhân không tồn tại thì làm sao hiển thị được sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn?

Này Đại Tuệ! Điều mà hàng ngoại đạo đã tuyên bố về thường hằng bất khả tư nghì, nếu phù hợp với tự tướng của nguyên nhân thì nó có thể là thường hằng. Nhưng ý tưởng về một đấng sáng tạo là tướng của nguyên nhân cho nên không thể là thường hằng không thể nghĩ bàn.

Này Đại Tuệ! Chân lý Đệ nhất nghĩa của ta là thường hằng bất khả tư nghì, vì nó phù hợp với tướng nguyên nhân Đệ nhất nghĩa và vượt ra ngoài hữu, vô. Vì nó là tướng sở hành của Thánh trí tự chứng, nên nó có tướng riêng của nó. Vì nó là trí Đệ nhất nghĩa nên nó có nguyên nhân của nó, nó tách rời hữu và vô, nên không có đấng sáng tạo. Như hư không là pháp Niết-bàn tịch diệt, nên nó thường hằng bất khả tư nghì. Thế nên ta nói nó không giống sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn mà hàng ngoại đạo đã tranh luận.

Này Đại Tuệ! Sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn này là chân lý được thể nghiệm, tự chứng bằng Thánh trí của chư Như Lai, thế nên Bồ-tát hãy nỗ lực tu học.

Và này Đại Tuệ! Sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của ngoại đạo không được xác định là thường hằng, vì nó có một nguyên nhân không phải là thường. Điều họ cho là thường hằng thì tự tướng của nó không có năng lực.

Này Đại Tuệ! Nếu ngoại đạo cho rằng thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của họ khác với pháp hữu, rồi trở lại vô là vô thường và sinh với tánh biết là thường. Ta cũng cho rằng pháp tạo tác là có, rồi trở lại không và vô thường, đã không có nguyên nhân nên thuyết này là thường hằng.

Này Đại Tuệ! Nếu sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của hàng ngoại đạo phù hợp với tướng nhân, như vậy là không có, như là sừng thỏ.

Này Đại Tuệ! Thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của họ chỉ là sự phân biệt ngôn từ về hữu. Vì sao? Nguyên nhân đó đều là sừng thỏ, vì không có nhân tự tướng.

Này Đại Tuệ! Sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của ta là có tướng nguyên nhân tự chứng. Vì nó không ngoài pháp hữu, rồi trở lại vô và vô thường làm nguyên nhân. Ngoại đạo ngược lại pháp này. Tự tướng về nhân của sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn này thì hàng ngoại đạo không thể biết. Vì họ ở ngoài trạng thái tự chứng trí của bậc Thánh, cho nên vấn đề họ nêu ra là không đúng.

Này Đại Tuệ! Các Thanh văn vì sợ khổ đau do phân biệt sinh tử mà tìm cầu Niết-bàn. Họ không biết rằng sinh tử và Niết-bàn tướng không sai khác, tất cả đều do vọng tưởng phân biệt mà có. Vì không thật có, nên vọng chấp cho rằng sẽ đạt được Niết-bàn sau khi đoạn diệt các căn và ngoại cảnh của chúng. Họ không bết rằng: đạt Niếtbàn là thức A-lại-da chuyển sở y cảnh giới của trí tự chứng. Kẻ ngu si nói có tam thừa, mà không nói rằng chỉ có tâm, chứ không có cảnh giới.

Này Đại Tuệ! Những ai không hiểu lời dạy của chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai về cảnh giới của tự tâm, họ còn chấp rằng cảnh giới ngoài tâm, cho nên mãi trôi lăn theo bánh xe sinh tử.

Này Đại Tuệ! Các Đức Như Lai trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều dạy: “Tất cả pháp không sinh”. Vì sao? Vì không có thật tánh, mà chỉ là sự biểu hiện của tự tâm, lìa hữu nên không sinh. Như sừng thỏ, ngựa… mà kẻ phàm phu ngu si vọng chấp. Đây thuộc lãnh vực của tự chứng Thánh trí đạt được, chứ chẳng phải lãnh vực phân biệt nhị biên của những người ngu muội. Thân thể, tài sản vật chất ở thế gian, tất cả đều là ảnh tượng của tàng thức cùng hiện, mà kẻ phàm phu ngu muội chấp làm hai loại năng và sở. Họ bị rơi vào kiến giải nhị biên trụ và diệt, từ đó phát ra vọng tưởng phân biệt hữu, phi hữu.

Này Đại Tuệ! Hãy nỗ lực tu tập về nghĩa lý này.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có năm tánh, đó là:

  1. Nhóm Thanh văn thừa.
  2. Nhóm Duyên giác thừa.
  3. Nhóm Như Lai thừa.
  4. Nhóm bất định.
  5. Nhóm vô trí.

Này Đại Tuệ! Làm sao biết được nhóm người thuộc chủng tánh Thanh văn thừa? Có người nào nghe về tự tướng, cọng tướng của uẩn, xứ, giới nếu biết, nếu chứng còn toàn thân sởn tóc gáy. Họ hân hoan vui mừng tu tập, đối với tướng duyên khởi họ không thích quán sát. Những người như vậy nên biết, đó thuộc nhóm Thanh văn thừa. Khi đã có tri kiến do chứng về thừa của chính họ rồi, đối với Địa thứ năm hay thứ sáu, họ đoạn trừ được kết sử, phiền não, nhưng không đoạn trừ được tập khí phiền não và trụ nơi cái chết chẳng thể nghĩ bàn. Họ rống lên tiếng rống sư tử: “Sự sống của ta đã được đoạn tận, phạm hạnh của ta đã thành tựu, những việc cần làm ta đã làm xong, không thọ thân đời sau.” Họ tu tập về nhân vô ngã, cho đến ngay trong đời này họ đạt được Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Có những chúng sinh cầu chứng Niết-bàn cho rằng đã hiểu biết về ngã, nhân, chúng sinh, người nuôi dưỡng, người giữ lấy… Họ tìm cầu Niết-bàn trong các pháp ấy. Và có người nói rằng: họ thấy tất cả pháp nhân tạo tác nên có. Đây là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Những người đó không được giải thoát, vì họ chưa thâm nhập được pháp vô ngã. Đây thuộc về hàng Thanh văn thừa và hàng ngoại đạo, đối với giải thoát mà tưởng là giải thoát. Thế nên thầy hãy nỗ lực tu tập để thoát khỏi kiến giải sai lầm này.

Này Đại Tuệ! Làm sao biết đó là nhóm Duyên giác thừa? Nghĩa là khi nghe nói về pháp Duyên giác thừa thì toàn thân họ nổi da gà, nước mắt tuôn trào. Họ cách ly được những gì liên hệ đến sự ồn ào, không bị đắm nhiễm, buộc ràng. Có người khi nghe Phật dạy về sự biến hóa thần thông, hoặc tụ hoặc tán, phân thân hiện ra đa dạng nên họ tin nhận hoàn toàn. Vì biết những người này thuộc nhóm Duyên giác thừa nên giảng nói cho họ pháp Duyên giác thừa.

Này Đại Tuệ! Ba khía cạnh có thể phân biệt được nhóm Như Lai thừa, đó là:

  1. Tự tánh pháp không tự tánh.
  2. Nội thân tự chứng pháp Thánh trí.
  3. Pháp rộng lớn của các cõi Phật bên ngoài.

Này Đại Tuệ! Có chúng sinh nào nghe nói về một pháp này và những điều ở trong tâm hiện như thân thể, tài sản, đều là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của thức A-lại-da kiến lập mà không sợ hãi, không khiếp sợ. Nên biết, đó là tính chất Như Lai thừa.

Này Đại Tuệ! Nhóm bất định nghĩa là: khi nghe nói về ba pháp kia, tùy theo đó mà tin hiểu và tu học theo.

Này Đại Tuệ! Vì bậc trị Địa thứ nhất mà nói các chủng tánh, muốn làm cho họ bước vào địa không ảnh tượng, nên tạo ra sự kiến lập này.

Này Đại Tuệ! Vì Thanh văn nào trú nơi Tam-muội an vui, hoặc chứng biết bên trong của A-lại-da, nhận thức pháp vô ngã, tẩy sạch tập khí phiền não, cuối cùng sẽ đạt được thân Như Lai.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Quả Dự lưu, nhất lai
Bất lai, A-la-hán
Những bậc Thánh nhân này
Tâm họ vẫn còn mê
Ta lập pháp ba thừa
Nhất thừa và Phi thừa
Cho phàm phu ít trí
Bậc Thánh ưa vắng lặng
Pháp môn Đệ nhất nghĩa
Tách rời hai chấp thủ
Trụ cảnh giới vô tướng
Lập ba thừa làm chi?
Các thiền và vô lượng
Vô sắc, Tam-ma-đề
Cho đến Diệt thọ tưởng
Không tìm thấy duy tâm.

Và, này Đại Tuệ! Tại sao hạng Nhất-xiển-đề đối với giải thoát, họ không ham muốn? Này Đại Tuệ! Vì họ xả bỏ tất cả thiện căn và họ phát khởi nguyện vọng chúng sinh từ vô thủy.

Xả bỏ tất cả thiện căn là thế nào? Nghĩa là họ hủy báng Bồ-tát rằng: “Tôi không tùy thuận kinh điển, không điều phục giải thoát.” Khi nói như vậy, họ đã phá bỏ hoàn toàn thiện căn, sẽ không nhập Niết-bàn.

Thế nào là phát nguyện vì chúng sinh từ vô thủy? Có những vị Bồ-tát do bản nguyện phương tiện, nguyện cho “Tất cả chúng sinh đều nhập Niết-bàn. Nếu còn một chúng sinh nào chưa nhập Niết-bàn thì ta không bao giờ nhập Niết-bàn.” Vì lý do này mà họ trú nơi con đường Nhất-xiển-đề. Đây là tướng của nhóm không Niết-bàn.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vậy thì ai không bao giờ nhập Niết-bàn?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Bồ-tát Nhất-xiển-đề đó biết tất cả pháp chính trong Niết-bàn ngay từ lúc bắt đầu, nên cuối cùng không nhập Niếtbàn và chẳng xả bỏ thiện căn. Vì sao? Vì Nhất-xiển-đề ấy đã xả bỏ thiện căn là do oai lực của Phật, hoặc có lúc thiện căn sinh khởi. Vì sao? Vì Phật không xả bỏ tất cả chúng sinh bao giờ. Thế nên Bồ-tát Nhất-xiển-đề không nhập Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo biết ba tướng tự tánh. Thế nào là ba tướng?

  1. Tự tánh phân biệt sai lầm.
  2. Tự tánh duyên khởi.
  3. Tự tánh viên thành.

Này Đại Tuệ! Tự tánh phân biệt sai lầm từ tướng sinh ra. Thế nào là sinh ra từ tướng? Nghĩa là y theo duyên khởi sự tướng hiển hiện theo nhiều cảnh khác nhau nên sinh chấp trước.

Này Đại Tuệ! Chấp trước về sự tướng có hai cách sinh ra tính chất phân biệt sai lầm mà chư Như Lai đã giảng nói về sự tướng sai lầm và chấp tướng, gọi là danh tướng và kế trước tướng.

Này Đại Tuệ! Sự chấp vào các tướng nghĩa là bị ràng buộc vào các pháp bên trong và bên ngoài. Sự chấp vào tướng của các tướng, tức là chấp vào các pháp bên trong và bên ngoài, chấp vào tướng chung và tướng riêng. Đây gọi là hai loại chấp trước về sự phân biệt sai lầm về tướng của tự tánh.

Này Đại Tuệ! Từ sở y, sở duyên và duyên khởi là tánh của duyên khởi. Thế nào là viên thành tự tánh? Nghĩa là xa lìa danh tướng, sự tướng và tất cả sự phân biệt. Tự chứng Thánh trí là thật tánh của chân như.

Này Đại Tuệ! Đây là tâm viên thành tự tánh của Như Lai tạng.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Danh tướng phân biệt
Hai tướng tự tánh
Chánh trí chân như
Thuộc tánh viên thành.

Này Đại Tuệ! Đây gọi là pháp môn quán sát năm pháp tướng tự tánh, tạo nên cảnh giới tự chứng Thánh trí. Ông và các Bồ-tát hãy nên nỗ lực tu học.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát hãy khéo quán sát tướng của hai pháp vô ngã. Hai pháp đó là: nhân vô ngã và pháp vô ngã.

Này Đại Tuệ! Thế nào là nhân vô ngã? Đó là uẩn, xứ, giới không có gì thuộc ngã và ngã sở, không biết rằng sự sinh khởi của ái nghiệp, nên nhãn thức… sinh ra rồi nắm giữ nơi sắc…. mà sinh ra phân biệt. Lại nữa, thân và khí thế giới được thấy bằng tự tâm đều là sự hiển hiện của tàng thức. Chúng tồn tại hay biến hoại liên tục trong từng sát-na, giống như dòng sông, như hạt giống, như ánh lửa ngọn đèn, như gió lốc, như áng mây, như con khỉ nhảy nhót không chịu ngồi yên, như con ruồi thích bay vào nơi nhơ nhớp, như ngọn lửa mà không biết chán nhàm. Tập khí giả dối từ vô thủy là nguyên nhân. Nghiệp lưu chuyển trong các nẻo đường không ngưng nghỉ. Như bánh xe kéo nước, mang nhiều thân thể và xác thân, oai nghi đi đứng khác nhau. Ví như năng lực của thần chú làm cho tử thi biết đi, cũng như người gỗ nhờ máy mà vận động. Ai đối với những hiện tượng này mà biết rõ tướng của nó thì gọi là trí tuệ về nhân vô ngã.

Này Đại Tuệ! Thế nào là trí pháp vô ngã? Nghĩa là biết uẩn, xứ, giới là bản chất phân biệt sai lầm. Uẩn, xứ, giới không thuộc ngã và ngã sở, đó chỉ là sự tích tụ của khát ái và nghiệp hỗ tương, ràng buộc nhau mà không có người tạo tác ra chúng. Các uẩn cũng vậy, không có tướng chung hay tướng riêng, kẻ phàm phu phân biệt giả dối sai lầm nên hiện ra các tướng, còn người trí thì không như vậy, quán sát tất cả các pháp như vậy đều không có tâm, ý và ý thức, năm pháp và hai tự tánh. Đây gọi là Đại Bồ-tát hiểu rõ pháp vô ngã.

Nếu Bồ-tát hiểu đúng về cảnh giới vô ngã này, hiểu rõ tướng các Địa, tức nhập vào Sơ địa, Bồ-tát sẽ sinh tâm hoan hỷ, dần dần theo trình tự đạt đến Thiện tuệ địa, cho đến Pháp vân địa, những việc cần làm đều đã hoàn tất. Trụ nơi các Địa này, Bồ-tát sẽ có hoa sen lớn được trang hoàng bằng các châu báu. Ở trên hoa báu này có cung điện báu, dạng giống như hoa sen. Bồ-tát ngồi trên hoa sen đó tu tập thành tựu pháp môn tự tánh cảnh giới huyễn, được các Bồ-tát đồng hành lần lượt vây quanh. Tất cả các Đức Như Lai nơi các cõi nước đều đưa cánh tay làm pháp quán đảnh cho Bồ-tát, như vương tử của Chuyển luân thánh vương. Các vị ấy sẽ vượt khỏi Bồ-tát địa, cuối cùng đạt pháp tự chứng, thành tựu Pháp thân tự tại của Như Lai.

Này Đại Tuệ! Đây gọi là thấy tướng vô ngã của các pháp. Thầy và các Bồ-tát hãy nỗ lực tu học.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con việc tạo dựng hay bác bỏ, làm cho con cùng các Bồ-tát thoát khỏi những kiến giải sai lầm và chóng đạt Tuệ giác vô thượng. Khi đã chứng ngộ rồi, các Bồtát sẽ xa lìa những kiến lập hay bác bỏ về đoạn kiến, làm cho không sinh tâm hủy báng đối với chánh pháp.

Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của Bồ-tát Đại Tuệ, liền nói kệ:

Chỗ trú thân, tài sản
Là ảnh tượng nơi tâm
Kẻ ngu si không hiểu
Sinh xác nhận, bác bỏ
Hiện tượng ấy do tâm
Rời tâm không gì có.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa câu kệ nên bảo Đại Tuệ:

–Có bốn loại không có kiến lập. Bốn điều đó là gì?

  1. Không có tướng kiến lập tướng.
  2. Không có kiến kiến lập kiến.
  3. Không có nhân và kiến lập nhân.
  4. Không có tánh và kiến lập tánh.

Này Đại Tuệ! Bác bỏ nghĩa là đối với pháp được kiến lập do những ác kiến tìm cầu không thể đạt. Do quán sát bất thiện, liền sinh bác bỏ. Đây là kiến lập tướng phỉ báng.

Này Đại Tuệ! Thế nào là không có tướng kiến lập tướng? Nghĩa là đối với tướng riêng và tướng chung của uẩn, xứ, giới vốn không có sở hữu mà sinh ra chấp trước, cho rằng chúng đúng như thế này, chứ không như thế khác. Từ phân biệt này sinh ra những tập khí xấu từ vô thủy. Đây gọi là không có tướng kiến lập tướng.

Thế nào gọi là không có kiến, kiến lập kiến? Nghĩa là đối với các uẩn, xứ, giới kiến lập về những kiến, như ngã, nhân, chúng sinh… Đây gọi là không có kiến, kiến lập kiến.

Thế nào gọi là không có nhân kiến lập nguyên nhân? Nghĩa là đối với trước thức đầu tiên không có nhân sinh ra, thức đầu tiên ấy vốn là không. Sau đó mất sắc, minh, niệm… làm nhân như huyễn sinh ra, sinh ra nên có, có rồi lại diệt. Đây gọi là không có nhân mà kiến lập nhân.

Thế nào gọi là không có tánh kiến lập tánh? Đối với hư vô, Niết-bàn chẳng phải thuộc về diệt, không có tánh tạo tác mà chấp trước kiến lập.

Này Đại Tuệ! Tách rời tánh chẳng phải tánh này, xa lìa tất cả các pháp đối với hữu, vô như sừng thỏ, ngựa, hoa đốm. Đây gọi là không có tánh kiến lập tánh.

Này Đại Tuệ! Kiến lập, phỉ báng đều do phàm phu ngu muội, không hiểu rõ, chỉ do tâm nên sinh phân biệt, chẳng phải là các bậc Thánh. Vì thế, các thầy hãy nỗ lực quán sát và xa lìa kiến chấp này.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát biết rõ bản chất của tâm, ý, ý thức, tự tánh của năm pháp, tướng của hai pháp vô ngã, vì chúng sinh nên hiện vô số thân. Như nương vào duyên khởi sinh ra tánh chấp trước sai lầm, cũng như viên ngọc hiện ra màu sắc tùy theo tâm. Vào khắp hội chúng của Phật để nghe Phật giảng thuyết về các pháp như mộng, như huyễn, như bóng, như ảnh trong gương, như trăng trong nước, xa lìa sinh diệt cho đến thường hằng hay đoạn mất. Không trụ nơi đường Thanh văn hay Bích-chi-phật. Các vị nghe xong, đạt được vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Tam-muội. Được Tam-muội này, họ đi khắp các cõi Phật, cúng dường chư Phật, sinh lên các cõi trời, xiển dương Tam bảo, thị hiện thân Phật. Các Bồ-tát này thuyết giảng cho các Thanh văn và đại chúng Bồ-tát về cảnh giới bên ngoài đều do tâm tạo, làm cho họ thoát khỏi những chấp là hữu hay vô.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Phật tử nên thấy rõ
Thế gian chính là tâm
Thị hiện vô số thân
Tạo tác không chướng ngại
Sức thần thông tự tại
Được thành tựu tất cả.

Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh hỏi Đức Thế Tôn:

–Xin Thế Tôn dạy cho con biết thế nào là tướng của tất cả pháp đều không là không sinh, không hai, không tự tánh. Con và các Bồtát hiểu rõ được tướng này sẽ xa lìa sự phân biệt về hữu và vô, mà chóng đạt đến Tuệ giác vô thượng.

Đức Phật bảo:

–Hãy lắng nghe, này Đại Tuệ! Không chính là cú nghĩa của tánh vọng chấp.

Này Đại Tuệ! Vì chấp trước tự tánh hư vọng cho nên ta phải nói về không; tức là không sinh, không hai, không tự tánh.

Này Đại Tuệ! Tóm lại, tánh không có bảy loại:

  1. Tướng không.
  2. Tự tánh không.
  3. Vô hành không.
  4. Hành không.
  5. Tất cả pháp không thể nói không.
  6. Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không.
  7. Bỉ bỉ không.

Không của tướng là gì? Đó là không của tự tướng và cọng tướng tất cả các pháp, quan hệ tích tập và hỗ tương lẫn nhau. Phân tích và quán sát kỹ thì chúng vô sở hữu. Thế nên ý niệm về tự ngã, tha nhân và cọng tướng đều không sinh. Tự tướng và cọng tướng không sinh, cũng không trụ, nên gọi là không của tự tướng của tất cả các pháp.

Thế nào là không của tự tánh? Đó là tất cả pháp tự tánh không sinh. Cho nên gọi là không của tự tánh.

Không của vô hành là gì? Đó là các uẩn xưa nay chính là Niếtbàn không có các hành nào. Đây gọi là không của vô hành.

Không của hành là gì? Đó là các uẩn do nghiệp và nhân hòa hợp sinh khởi. Liền ngã và ngã sở gọi là không của hành.

Thế nào là không của tất cả pháp không thể nói? Đó là bản chất của tất cả pháp tự tánh hư vọng không thể nói được. Cho nên gọi là pháp không thể nói không.

Thế nào là đại không của Đệ nhất nghĩa Thánh trí? Đó là khi tự chứng Thánh trí, thoát khỏi tất cả tập khí lỗi lầm của các kiến, nên gọi là đại không Đệ nhất nghĩa Thánh trí.

Không của bỉ bỉ là gì? Nghĩa là ở đây thì không có kia, nên gọi là không của bỉ bỉ. Ví như giảng đường của Tinh xá Lộc Mẫu không có voi, ngựa, trâu, dê. Ta nói rằng giảng đường ấy không, chứ chẳng phải không có chúng Tỳ-kheo.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải giảng đường là không có đặc tánh của nó. Chẳng phải Tỳ-kheo là không có đặc tánh của Tỳ-kheo. Cũng không phải những chỗ khác không có voi, ngựa, trâu, dê.

Này Đại Tuệ! Tướng chung và tướng riêng của các pháp thì tìm cầu chúng cũng không thể được. Đây gọi là không của bỉ bỉ.

Này Đại Tuệ! Đây là bảy loại không. Trong đó, không của bỉ bỉ là thô nhất. Ông hãy xa lìa nó.

Này Đại Tuệ! Vô sinh nghĩa là tự thể không sinh và chẳng phải không sinh, ngoại trừ trụ nơi tam-ma-địa. Đây gọi là vô sinh.

Này Đại Tuệ! Vô tự tánh theo ý nghĩa sâu xa mà nói là vô sinh.

Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không có tự tánh, thay đổi trong từng sát-na từ trạng thái này qua trạng thái khác, cho nên gọi là không tự tánh.

Thế nào là tướng không hai? Này Đại Tuệ! Đó là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng… là những biểu từ tương đối không độc lập với nhau. Chẳng phải ngoài sinh tử mà có Niết-bàn, chẳng phải ngoài Niết-bàn mà có sinh tử. Sinh tử và Niết-bàn không có tướng trái nghịch nhau. Như sinh tử và Niết-bàn, tất cả các pháp cũng như vậy. Đây gọi là tướng không hai.

Này Đại Tuệ! Ông hãy nỗ lực học về tướng không, tướng vô sinh, tướng vô nhị và vô tự tánh.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta thường nói pháp không
Vượt xa thường hay đoạn
Sống chết như mộng huyễn
Nghiệp cũng không tan hoại
Hư không và Niết-bàn
Diệt độ cũng như nhau
Kẻ phàm ngu phân biệt
Các Thánh lìa có, không.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Không, không sinh, không tự tánh, không hai tướng này, được tìm thấy trong lời Phật dạy của tất cả các kinh điển. Những lời Phật đã dạy đều có nghĩa lý này.

Này Đại Tuệ! Các kinh điển tùy thuận dạy theo tâm của tất cả chúng sinh, nhưng không phải là sự chân thật trong ngôn từ. Ví như sóng nắng làm mê hoặc những loài cầm thú, tưởng như có nước hiện hữu, thật ra không có nước gì cả. Các kinh điển Phật dạy cũng như vậy, tùy theo sự phân biệt của phàm phu mà làm cho họ sinh hoan hỷ, chẳng phải là pháp chân thật, chỗ Thánh trí chứng đắc.

Này Đại Tuệ! Hãy theo đúng với thật nghĩa, không nên đắm trước theo ngôn thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn có nêu ra Như Lai tạng trong các kinh điển, bản tánh thanh tịnh thường hằng, không đoạn diệt, không có sự biến đổi, đủ ba mươi hai tướng tốt ẩn trong thân thể tất cả chúng sinh, bị bao bọc bởi lớp áo đầy bụi bặm uẩn, xứ, giới và bị nhơ bẩn vì bụi đất phân biệt sai lầm của tham, sân, si… như viên ngọc quý vô giá đặt trong chiếc áo bẩn. Ngoại đạo vẫn nói tự ngã là một kẻ sáng tạo trường cửu, có mặt khắp nơi và tự tại không bị hủy diệt. Thế Tôn đã dạy nghĩa của Như Lai tạng, lẽ nào không phải cùng một thuyết với tự ngã của ngoại đạo chăng?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Như Lai tạng mà ta nói, không giống với ngã của hàng ngoại đạo nói.

Này Đại Tuệ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong các cú nghĩa là tánh không thật tế, Niết-bàn, không sinh, không tướng, không nguyện. Nói Như Lai tạng là để làm cho kẻ ngu bỏ được sự sợ hãi khi nghe đến lý vô ngã. Ta nói về trạng thái vô phân biệt, vô ảnh tượng, Như Lai tạng môn để các Đại Bồ-tát trong hiện tại hay tương lai sẽ không chấp vào sự ngã. Ví như một người thợ gốm, từ một khối đất sét với nhân công, cần nước, bánh xe, dây, bằng sự khéo tay tạo ra nhiều loại đồ dùng; Đức Như Lai cũng thế, trong pháp vô ngã, ngài xa lìa tất cả sự phân biệt, dùng vô số phương tiện khéo léo trí tuệ, hoặc nói về Như Lai tạng, hoặc nói về vô ngã bằng nhiều loại danh từ, mà mỗi một từ khác nhau.

Này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng là để thức tỉnh những người ngoại đạo khỏi chấp vào ý niệm ngã, làm cho họ rời khỏi những kiến giải sai lầm và nhập vào ba giải thoát, chóng đạt Tuệ giác vô thượng. Thế nên chư Phật nói về Như Lai tạng, nó không đồng nhất ý niệm ngã thể của ngoại đạo đã nói. Nếu muốn từ bỏ kiến giải sai lầm của ngoại đạo, thầy phải biết nghĩa của Như Lai tạng là giáo pháp vô ngã.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Người là uẩn tương tục
Các duyên và vi trần
Kẻ sáng tạo tối thượng
Phân biệt bởi tâm này.

Đại Bồ-tát Đại Tuệ quán sát tất cả chúng sinh đời tương lai nên thỉnh hỏi Phật:

–Cúi xin Thế Tôn chỉ dạy cho con đầy đủ về pháp tu hành, nhờ đó mà các Đại Bồ-tát trở thành bậc đại tu hành.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có bốn pháp mà các Đại Bồ-tát nếu thực hành đầy đủ sẽ thành bậc đại tu hành. Bốn điều ấy là gì?

  1. Quán sát rõ ràng về những gì đã hiện tự tâm.
  2. Lìa bỏ những ý niệm về sinh, trụ, diệt.
  3. Thấy rõ không có pháp bên ngoài nào là tồn tại.
  4. Chuyên cần tự chứng Thánh trí.

Bồ-tát nào thành tựu bốn pháp này thì gọi là bậc Đại tu hành.

Này Đại Tuệ! Thế nào là quán sát rõ ràng về những gì đã hiện tự tâm? Bồ-tát phải nhận biết rằng: ba cõi này chính là cái tâm, không có ngã và những gì thuộc về ngã, không nỗ lực tạo tác, không đến và đi. Chúng huân tập với tập khí được chất chứa từ vô thủy bởi chấp trước sai lầm và vô vàn những sắc chất hành động, danh ngôn ràng buộc chặt chẽ nhau trong ba cõi, hiển hiện phù hợp những ý tưởng phân biệt như thân thể, tài sản và đất đai. Đại Bồ-tát nhận biết rõ ràng về những gì do tự tâm hiện ra như vậy.

Này Đại Tuệ! Thế nào là lìa bỏ những ý niệm về sinh, trụ, diệt? Xem tất cả các pháp được sinh ra như ảo ảnh, như giấc mộng, tự ngã, tha nhân, cả hai đều không sinh. Chúng hiện hữu tùy theo tự tâm, cho nên thấy vạn vật bên ngoài là không thật có, thấy các thức không khởi và các duyên không tích tụ. Ba cõi do nhân duyên và sinh khởi bởi phân biệt. Khi quán sát như vậy, các vị sẽ thấy tất cả các pháp dầu bên trong hay bên ngoài cũng đều không có thật, biết rằng không có thật thể, xa lìa kiến chấp về sự sinh. Các vị sẽ thông hiểu mọi tính chất như ảo ảnh, tức thời đạt được Vô sinh pháp nhẫn, trụ nơi Địa thứ tám. Các vị sẽ thể nghiệm sự chuyển biến nơi tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh và hai pháp vô ngã, do đó đạt được cái thân do ý sinh.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là ý sinh thân?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ví như ý chuyển đi rất nhanh, hoàn toàn không bị trở ngại, nên gọi là ý sinh thân.

Này Đại Tuệ! Ví như tâm ý cách bên ngoài vô lượng trăm ngàn do-tuần, người ta vẫn có thể hồi tưởng mọi vật đã từng thấy trước kia. Từng ý nghĩ, từng ý nghĩ… vận hành liên tục và nhanh chóng đến chỗ ấy, không những là thân này, mà ý vượt qua cả núi non, sông hồ, tường vách mà không bị trở ngại. Ý sinh thân cũng như vậy. Như huyễn Tam-muội có sức thần thông tự tại trang nghiêm các tướng, ý vốn thành tựu nguyện lực của chúng sinh, cũng như ý sẽ được sinh trong các đạo lộ thánh thiện. Đó là Đại Bồ-tát vượt khỏi được kiến giải sinh, trụ và diệt.

Này Đại Tuệ! Thế nào là thấy rõ không có pháp bên ngoài nào là tồn tại? Quán sát tất cả pháp như sóng nắng, như giấc mộng, như hoa đốm, do những chấp trước sai lầm từ vô thủy vào những tập khí hư vọng xấu xa, tạo thành nhân. Khi quán sát tất cả pháp như vậy, Bồ-tát sẽ mong cầu tự chứng Thánh trí.

Này Đại Tuệ! Đây là bốn pháp mà các Bồ-tát nếu thực hành đầy đủ sẽ thành bậc đại tu hành. Ông hãy nỗ lực tu học như vậy.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại thưa thỉnh Đức Thế Tôn:

–Xin Thế Tôn dạy cho con biết về tướng nhân duyên của tất cả pháp, nhờ đó mà con và các Bồ-tát khác có thể thấy rõ bản chất của nhân duyên để thoát khỏi kiến giải về hữu hay vô. Chúng con không còn vọng chấp các pháp sinh từ từ hay sinh ra ngay.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có hai yếu tố nhân duyên sinh ra tất cả các pháp. Đó là nội duyên và ngoại duyên. Ngoại duyên như dùng môt khối đất sét, nước, cây, bánh xe, sợi chỉ, nhân công… tập hợp các thứ đó tạo thành một cái bình. Như cái bình được làm từ một khối đất sét, hay một mảnh vải được làm từ chỉ sợi, chiếc chiếu được làm từ cỏ, mầm cây lớn lên từ hạt giống, đề hồ làm từ sữa… Tất cả đều như vậy. Đây là ngoại duyên được sinh ra theo quá trình liên tục.

Nội duyên thuộc vô minh, ái và nghiệp… sinh ra uẩn, xứ, giới. Chúng sinh khởi từ nội duyên và bị người ngu phân biệt như vậy.

Này Đại Tuệ! Có sáu nguyên nhân:

  1. Đương hữu nhân: Nghĩa là khi nhân sinh ra quả thì có sự tác động của các pháp bên trong và bên ngoài.
  2. Tương thuộc nhân: Nghĩa là khi các duyên tạo tác thì có sự sinh khởi của các chủng tử, các uẩn… bên trong và bên ngoài.
  3. Tương nhân: Nghĩa là sự tạo tác tương tục, sinh ra quả tương tục.
  4. Năng tác nhân: Nghĩa là sự tạo tác tăng thượng mà sinh ra quả, như vua Chuyển luân.
  5. Hiển liễu nhân: Nghĩa là khả năng phân biệt sinh khởi, thì nó làm hiển lộ cảnh tướng, như cây đèn chiếu sáng các vật.
  6. Quán đãi nhân: Nghĩa là khi có sự hủy diệt thì sự tương tục gián đoạn và trạng thái không vọng tưởng sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Đây là kết quả của sự phân biệt từ người ngu, chẳng phải sinh khởi dần dần, cũng chẳng phải sinh ngay liền. Vì sao? Này Đại Tuệ! Nếu sinh ngay thì không có sự khác biệt nào giữa nguyên nhân và kết quả, không có gì để xác định một nguyên nhân như vậy.

Nếu sinh khởi dần dần thì không có bản thể nào liên kết nhau và điều ấy cũng không thể được. Như chưa sinh con, làm sao gọi là cha? Các nhà luận lý cho rằng: Cái được sinh ra và cái tạo sự sinh ra tác động hỗ tương hệ thuộc như nhân duyên, sở duyên duyên, vô gián duyên, tăng thượng duyên… nhân lý sinh khởi dần dần này không thể có. Đó chỉ là những vọng tình chấp trước với nhau mà thôi.

Này Đại Tuệ! Sự sinh khởi dần dần và sinh ngay đều là không sinh, chỉ có tâm nên hiện ra thân và tài sản… tự tướng và cộng tướng bên ngoài đều không có thật tánh, ngoại trừ thức sinh khởi và tự thấy phân biệt.

Này Đại Tuệ! Thế nên ông hãy đoạn trừ những ý niệm về sự dần dần và ngay liền trong sự hòa hợp của hoạt động nhân quả.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Không có gì sinh ra
Không có gì đoạn diệt
Do các nhân duyên kia
Phân biệt tướng sinh diệt
Không ngăn thì duyên hợp
Diệt như vậy rồi sinh
Chỉ tại kẻ phàm ngu
Vọng tình sinh chấp trước
Pháp có không trong duyên
Nên không và có sinh
Tâm lẫn lộn tập khí
Từ đó hiện tam hữu
Xưa nay vốn không sinh
Và cũng không có diệt
Quán sự vật hữu vi
Như hoa đốm hư không
Rời chủ thể, đối tượng
Tất cả kiến mê lầm
Không sinh và được sinh
Nhân duyên cũng không có
Vì thuận theo thế tục
Nên nói có sinh diệt.

***

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con về pháp môn được gọi là tướng tâm phân biệt ngôn từ. Nhờ đó, con và các Bồ-tát biết rõ pháp môn này, nên thông đạt được hai nghĩa năng thuyết và sở thuyết, chóng đạt Tuệ giác vô thượng, làm cho tất cả chúng sinh đối với hai nghĩa này được thanh tịnh.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có bốn loại phân biệt về ngôn từ. Đó là:

  1. Tướng ngôn thuyết: Nghĩa là tự chấp trước vào tướng của Sắc mà sinh ra phân biệt.
  2. Mộng ngôn thuyết: Nghĩa là khi thức giấc nhớ lại những cảnh đã trải qua trong mộng, dựa vào cảnh giới không thật ấy mà sinh ra.
  3. Kế trước quá ác ngôn thuyết: Nghĩa là những ngôn từ sinh khởi do hồi tưởng những hành vi, oán thù mà trước đây người ta đã tạo.
  4. Vô thủy vọng tưởng ngôn thuyết: Nghĩa là sinh ra từ vọng chấp tập khí từ vô thủy.

Đây là bốn loại phân biệt về ngôn từ.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giảng thêm cho con về tướng hành động của phân biệt ngôn từ. Nguyên nhân xảy ra từ đâu. Vì sao mà khởi?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Sự phân biệt ngôn từ xảy ra do sự kết hợp của đầu, ngực, mũi, yết hầu, lợi, môi, lưỡi và răng.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Các ngôn ngữ phân biệt là khác, hay là không khác?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Chúng không khác, cũng không không khác. Vì sao? Vì các ngôn từ sinh khởi do sự phân biệt làm nguyên nhân. Nếu ngôn ngữ mà khác với phân biệt thì chúng không lấy sự phân biệt làm nguyên nhân. Còn nếu chúng không khác với phân biệt thì ngôn ngữ đó không thể hiện ý nghĩa mà nó tạo. Vì thế, sự phân biệt ngôn từ không khác nhau, cũng không phải là không khác nhau.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ngôn ngữ có phải là nghĩa đệ nhất không? Hay là điều được diễn đạt trong ngôn ngữ là nghĩa đệ nhất?

Đức Phật bảo Đại Tuệ:

–Các ngôn ngữ không phải là nghĩa đệ nhất, cũng như điều được diễn đạt trong ngôn ngữ là đệ nhất. Vì sao? Vì nghĩa đệ nhất là trạng thái an lạc cao vời của bậc Thánh; nhờ ngôn từ mà biết nhưng nó không phải là lời nói. Nghĩa đệ nhất là cảnh giới tự chứng nội tại của Thánh trí, chứ không phải cảnh do trí phân biệt bằng ngôn ngữ. Do đó, sự phân biệt ngôn ngữ không thể hiển thị được.

Này Đại Tuệ! Ngôn ngữ phải bị sinh và diệt, chúng không ổn định mà hỗ tương duyên nhau và do nhân duyên sinh ra. Những gì hỗ tương duyên sinh, thì đối với nghĩa đệ nhất không thể hiển thị được. Nghĩa đệ nhất không có tướng tự và tha, ngôn ngữ hữu tướng không thể diễn tả được thực tánh nghĩa đệ nhất ấy. Nghĩa đệ nhất chính là tự tâm mà tất cả những tướng bên ngoài đều không có và sự phân biệt về ngôn từ không thể diễn tả được. Thế nên, các vị hãy tránh xa mọi sự phân biệt về ngôn từ.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Các pháp không tự tánh
Cũng không có ngôn từ
Vì không hiểu nghĩa không
Kẻ ngu phải luân hồi
Tất cả pháp không tánh
Lìa phân biệt ngữ ngôn
Các cõi như giấc mộng
Chẳng sinh tử, Niết-bàn
Như vua hay trưởng giả
Vì muốn các con vui
Trước đưa ra vật giả
Sau cho chúng vật thật
Nay ta cũng như vậy
Trước nói pháp tương tự
Sau mới giảng pháp thật
Pháp thật tế tự chứng.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn chỉ dạy cho con biết cách rời khỏi một và khác, câu hữu, không câu hữu, hữu và vô, không phải hữu vô, thường, vô thường… là điều mà tất cả ngoại đạo không thể thực hành. Đó là cảnh giới thực hành của Thánh trí tự chứng, xa lìa vọng chấp về tướng cọng tướng và biệt tướng, nhập vào cảnh giới chân thật đệ nhất, lần lượt thanh tịnh các Địa, nhập vào quả vị Như Lai, do năng lực bản nguyện mà vô công dụng. Như viên ngọc như ý chiếu khắp tất cả vô biên cảnh giới. Tất cả các pháp đều là sự thấy sai biệt từ chính cái tâm. Nhờ vậy, mà con cùng các Bồ-tát khác đối với các pháp như vậy không bị vọng kiến sai lầm về tướng chung và tướng riêng, chóng đạt Tuệ giác vô thượng, làm cho khắp các chúng sinh đầy đủ tất cả công đức một cách trọn vẹn.

Đức Phật bảo:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông vì lòng từ thương tưởng thế gian, vì sự lợi ích của nhiều người, vì sự an lạc khắp quần sinh mới hỏi ta về ý nghĩa này.

Này Đại Tuệ! Vì kẻ phàm phu không có trí nên không biết chính tự tâm mà chấp vào tập khí làm nhân, chấp các đối tượng bên ngoài, chấp đồng và dị, câu hữu và không câu hữu, hữu và vô, thường và vô thường… tất cả các tự tánh.

Này Đại Tuệ! Ví như bầy thú bị cơn khát bức bách, nhìn sóng nắng mà chúng tưởng là nước, bị mê hoặc, chúng phóng chạy đến và không biết rằng thật không phải nước. Kẻ phàm phu ngu muội cũng như vậy, họ bị huân tập bằng những hý luận và phân biệt sai lầm từ vô thủy, bị ba độc đốt tâm vì đam mê cảnh giới sắc tướng. Vì chấp pháp trong, ngoài mà thấy sinh, trụ, diệt, nên họ bị rơi vào con đường chấp đồng và dị.

Này Đại Tuệ! Như thành Càn-thát-bà chẳng phải là thành, cũng chẳng phải chẳng là thành Càn-thát-bà. Từ vô thủy đến nay, người thiếu trí tuệ chấp chặt đó là cái thành, vì huân tập các thói quen sai lầm nên nghĩ đó là cái thành. Các nhà ngoại đạo cũng vậy, vì chấp vào tập khí huân tập và những sai lầm từ vô thủy đến nay, cho nên họ không thông suốt về những gì được hiện ra từ tâm, chấp đồng và dị… và các loại ngôn từ.

Này Đại Tuệ! Ví như có người nằm mộng thấy một trú xứ đầy cả đàn ông, đàn bà, voi, ngựa, xe, người đi bộ, làng mạc, phố xá, vườn rừng và những loại đồ trang trí. Lúc tỉnh giấc, người ấy vẫn nhớ mãi tất cả những sự việc không thật kia.

Này Đại Tuệ! Ý thầy thế nào? Người nằm mộng kia có trí tuệ hay chăng?

–Thưa không, bạch Đức Thế Tôn!

Này Đại Tuệ! Ngoại đạo cũng vậy, họ bị những kiến giải sai lầm ăn sâu vào mà không nhận ra rằng các pháp chính tại nơi tâm, nên họ bị chấp chặt bởi các ý niệm về đồng và dị, về hữu và vô…

Này Đại Tuệ! Ví như khung tượng của người họa sĩ không lồi lõm, nhưng người ngu lầm thấy cho rằng có chỗ lồi chỗ lõm. Trong tương lai hàng ngoại đạo cũng vậy, có những nhận thức sai lầm huân tập bởi vọng tâm tăng trưởng, chấp về ý niệm đồng và dị… Họ tự đưa mình và người khác đến chỗ hủy hoại, xa rời luận thuyết đối với luận vô sinh về hữu vô, lại bảo đó là không. Họ hủy báng nhân quả, bứng gốc thiện căn. Nên biết, những người này phân biệt hữu và vô, khởi ra kiến chấp tự và tha, cuối cùng sẽ rơi vào địa ngục. Muốn cầu pháp thù thắng, các thầy hãy chóng vượt khỏi ý niệm này.

Này Đại Tuệ! Ví như người mắt lòa thấy hoa đốm mà kêu lên với nhau rằng: “Đây là việc thật hiếm có”, nhưng hoa đốm này vốn chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải thấy hay không thấy. Cũng thế, hàng ngoại đạo có tâm mê muội vào sự phân biệt, chấp chặt nơi kiến giải sai lầm những ý niệm về đồng và dị, câu hữu hay không câu hữu. Đó là hủy báng chánh pháp, tự hủy diệt mình và người khác.

Này Đại Tuệ! Ví như vòng lửa không phải là thật. Người ngu chấp trước cho là như vậy, còn người trí thì không. Ngoại đạo cũng vậy, những người có kiến giải sai lầm, ham thích chấp trước vào đồng và dị, câu hữu và không câu hữu… trong sự sinh khởi của tất cả các pháp.

Này Đại Tuệ! Ví như bọt nước, trông giống như hạt ngọc pha lê, người ngu tưởng là thật, nên vội vã nhặt lấy, nhưng chúng chỉ là những bọt nước, không phải là ngọc, cũng chẳng phải là không phải ngọc, để nắm giữ hay không nắm giữ. Ngoại đạo cũng vậy, do tập khí của những kiến giải phân biệt huân tập, gọi là phi hữu và các pháp bị hoại diệt bởi duyên hữu.

Này Đại Tuệ! Lập tam lượng rồi đạt được bằng sự chứng nghiệm của Thánh trí và xa lìa, hay pháp tự tánh phát sinh phân biệt hữu tánh.

Này Đại Tuệ! Những người tu hành chuyển tâm, ý, ý thức lìa sự phân biệt về sở chấp và năng chấp, trụ Như Lai địa, trụ chứng Thánh pháp, ở đó không có ý tưởng về hữu và vô.

Này Đại Tuệ! Nếu có sự chấp về hữu và vô trong cảnh giới mà các vị tu hành đạt được, thì sẽ có trong họ sự chấp về ngã, nhân, chúng sinh và thọ.

Này Đại Tuệ! Tướng chung và tướng riêng của tất cả các pháp là giáo lý của Đức Phật hóa thân, chứ chẳng phải là giáo lý của Đức Phật Pháp thân.

Này Đại Tuệ! Giáo pháp của Phật hóa thân nhằm cho kẻ ngu, phù hợp với tâm thức của họ, không thể hiển lộ được chân lý tự chứng Thánh trí và cảnh giới an lạc của Tam-muội.

Này Đại Tuệ! Ví như bóng cây phản chiếu trong nước, nó phản ảnh lại là phi phản ảnh, chẳng phải hình tướng của cây, chẳng phải không hình tướng của cây. Ngoại đạo cũng vậy, họ bị tập khí của những kiến giải huân tập nên không rõ tự tâm. Đối với sự giống và khác… nên họ sinh ra sự phân biệt.

Này Đại Tuệ! Ví như tấm gương sáng không có phân biệt, tùy theo các điều kiện mà hiện ra những màu sắc, hình ảnh; chúng không phải là hình ảnh, cũng chẳng phải là không hình ảnh mà chúng được nhìn thấy, hình ảnh hay không phải hình ảnh. Người ngu do phân biệt mà có ý tưởng về hình ảnh. Ngoại đạo cũng vậy, những hình ảnh phản chiếu tự tâm và chắc chắn là có giống và khác, câu hữu và không câu hữu.

Này Đại Tuệ! Ví như tiếng vang trong hang sâu, nương vào gió, nước, con người… hòa hợp mà phát sinh. Nó không hiện hữu, cũng chẳng phải không hiện hữu, nó được nghe ra là một thanh âm hay chẳng phải là một thanh âm. Ngoại đạo cũng vậy, phân biệt của tự tâm và sức huân tập nên khởi ra sự giống và khác, câu hữu và không câu hữu.

Này Đại Tuệ! Ví như trên mặt đất, nơi không có cỏ cây, ánh mặt trời chiếu xuống sinh ra sóng nắng. Chúng không hiện hữu, cũng không phải chẳng không hiện hữu, do ý tưởng điên đảo, ý tưởng có hay không về chúng. Kẻ phàm phu ngu si cũng như vậy, bị huân tập những tập khí và lý luận hư vọng từ vô thủy, ngay cả trong pháp môn tự chứng Thánh trí, các thức phân biệt về sinh, trụ, diệt của tánh giống và khác, câu hữu, không câu hữu, hữu và vô.

Này Đại Tuệ! Ví như quỷ Tỳ-xá-xà (Pìsàca) dùng thần chú làm cho người gỗ hay tử thi trở thành sống động, vận chuyển không ngừng, dù nó không có năng lực riêng. Người vô trí cho đó là thật, kẻ phàm phu ngu si cũng như vậy, chạy theo ngoại đạo sinh ra những kiến giải sai lầm, chấp chặt vào những ý niệm giống và khác… nhưng những điều họ nói đều là hư vọng.

Thế nên, này Đại Tuệ! Đối với sự đắc pháp ở trong xa lìa sinh, trụ, diệt, giống và khác, hữu và vô, câu hữu, không câu hữu… Đức Thế Tôn nói kệ:

Các thức uẩn có năm
Như bóng cây trong nước
Xem chúng như huyễn mộng
Chớ phân biệt sai lầm
Ba cõi như sóng nắng
Như hoa đốm, huyễn mộng
Ai quán sát như thế
Cứu cánh đạt giải thoát
Như sóng nắng mùa nóng
Chuyển động mê hoặc tâm
Thú khát, tưởng là nước
Thật sự nước không có
Chủng tử thức như vậy
Chuyển động cảnh giới hiện
Như cái nhìn mắt lòa
Người ngu sinh chấp trước
Trong sinh tử vô thủy
Mê muội trong chấp giữ
Kiến xa lìa xả bỏ
Dùng gai mà nhổ gai
Chú thuật người gỗ đi
Ánh chớp, mây, giấc mộng…
Luôn nhìn đời như thế
Chấm dứt ba tương tục
Nơi đây không sở hữu
Như sóng nắng giữa trời
Hiểu các pháp như vậy
Không có gì để biết
Các uẩn như hoa đốm
Trong đó vọng phân biệt
Chỉ giả thuyết, giả danh
Tìm tưởng làm sao được
Như bức họa, hoa đốm
Giấc mộng, thành Càn-thát
Vòng lửa do lửa quay
Thật không mà thấy có
Như vậy thường, vô thường
Giống khác, hợp, không hợp
Ràng buộc từ vô thủy
Kẻ ngu lòng phân biệt
Gượng thấy, nước, mắt sáng
Ngọc báu, ma-ni đẹp
Ảnh tượng hiện trong đó
Nhưng ngọc không có thật
Tàng thức cũng như vậy
Hiện khắp các sắc tướng
Như mộng, lửa, không trung
Như con của Thạch nữ.

Này Đại Tuệ! Giáo pháp của chư Phật thoát khỏi tướng cú, nghĩa là không có sự giống và khác, câu hữu hay không câu hữu, hữu và vô, kiến lập và phỉ báng.

Này Đại Tuệ! Giáo pháp của chư Phật đặt bốn Thánh đế, Duyên khởi, Diệt, Đạo, Giải thoát làm hàng đầu. Giáo pháp của chư Phật không bị ràng buộc với: thắng tánh, tự tại, túc nghiệp, tự nhiên, thời gian, vi trần…

Này Đại Tuệ! Giáo pháp của các Đức Như Lai gột sạch hai loại chướng duyên làm mê hoặc trí và tiếp nối nhau trụ vào một trăm lẻ tám câu trong pháp vô tướng, khéo phân biệt các thừa và các cảnh giới của Bồ-tát địa. Giống như người lãnh đạo đoàn người đi buôn, khéo biết dẫn đường.

Này Đại Tuệ! Có bốn loại thiền. Những gì là bốn? Đó là:

  1. Thiền định do người ngu thực hành.
  2. Thiền định để quán sát thật nghĩa.
  3. Thiền duyên vào chân như.
  4. Thiền định của chư Như Lai.

Này Đại Tuệ! Thiền định do người ngu thực hành là gì? Đó là Thiền định mà các hành giả thực hiện theo cách tu của hàng Thanh văn, Duyên giác. Họ biết rằng nhân vô ngã, thấy tự thân và thân người khác là một bộ xương liên kết nhau, đầy cả bất tịnh, vô thường và đau khổ. Họ cứ chấp chặt vào các ý niệm ấy không xả, dần dần thăng tiến lên, cho đến khi đạt được Diệt tưởng định. Đây gọi là

Thiền định do người ngu thực hành.

Thiền định để quán sát thật nghĩa là gì? Đó là Thiền định do người đã biết nhân vô ngã, khởi tánh cộng tướng và biệt tướng, cũng lìa hẳn hành động tự tha cùng làm của ngoại đạo. Họ quán sát theo ý nghĩa sự vô ngã của các pháp và các cảnh giới của Bồ-tát địa. Đây gọi là Thiền định để quán sát thật nghĩa.

Thiền duyên vào chân như là gì? Đó là sự phân biệt về hai hình thức của vô ngã chỉ là khái niệm hư vọng. Nếu biết như thật thì nơi ấy không có sự sinh khởi. Đây gọi là Thiền duyên vào chân như.

Thiền định của chư Như Lai là gì? Đó là nhập vào cảnh giới Như Lai địa và trụ trong ba thứ an lạc Thánh trí tự chứng, vì tất cả chúng sinh mà thực hành những việc bất khả tư nghì. Đây gọi là Thiền định của chư Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thiền kẻ ngu thực hành
Thiền quán sát thật nghĩa
Thiền duyên vào chân như
Thiền thanh tịnh Như Lai
Hành giả khi hành thiền
Thấy hình trăng, mặt trời
Hoa sen đỏ thâm sâu
Hay hình, hư không, lửa
Tất cả tướng như vậy
Dẫn vào pháp ngoại đạo
Rời bỏ các pháp này
Trụ nơi vô sở duyên
Đó là điều phù hợp
Với chân thật như như
Các cõi nước mười phương
Có vô lượng Đức Phật
Tay chói ngời ánh sáng
Xoa đảnh người hiền thiện.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai đã dạy về Niết-bàn. Vậy Niết-bàn nghĩa là gì?

Đức Phật bảo Đại Tuệ:

–Tự tánh và tập khí của tất cả các thức gồm: tàng thức, ý và ý thức, những tập khí của các kiến đó đã chuyển y rồi. Ta và các Đức Phật tuyên bố rằng: Niết-bàn tức là cảnh giới không tánh của các pháp.

Và này Đại Tuệ! Niết-bàn là cảnh giới của sự tự chứng bằng Thánh trí, thoát khỏi sự phân biệt về đoạn diệt và thường hằng, cho đến hữu và vô. Vì sao nó không phải là thường hằng? Nghĩa là nó không còn những sự phân biệt về tướng chung và tướng riêng. Vì sao nó không phải là đoạn diệt? Vì tất cả Thánh giả trong quá khứ, hiện tại và tương lai đã thực hành và đạt chứng ngộ bằng trí.

Này Đại Tuệ! Đại Bát-niết-bàn không phải là hủy diệt, không phải là sự chết. Nếu Đại Bát-niết-bàn là sự chết thì sẽ có sự sinh tiếp nối. Nếu là hủy diệt thì nó là hữu vi. Thế nên Niết-bàn không hủy diệt và không chết. Đây là chỗ hướng đến của các bậc tu hành

Này Đại Tuệ! Không xả bỏ, cũng không đạt được, không đoạn diệt cũng không thường hằng, không đồng không dị. Như thế gọi là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Hàng Thanh văn, Duyên giác hiểu rằng: Niếtbàn gồm trong tướng chung và tướng riêng nên tách rời nơi ồn náo, không sinh điên đảo, không khởi phân biệt. Đó là ý niệm của họ về Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Có hai loại tướng về tự tánh. Hai loại ấy là gì? Đó là chấp chặt vào các ngôn từ cho rằng có tướng tự tánh và chấp vào các pháp cho rằng có tướng tự tánh. Chấp vào ngôn từ cho rằng có tướng tự tánh khởi ra do những lý luận sai lầm từ vô thủy chấp vào tập khí về ngôn từ. Chấp vào các pháp cho rằng có tướng tự tánh khởi ra do không biết những hiện tượng xảy ra chính tự nơi tâm.

Này Đại Tuệ! Chư Phật có hai loại gia trì cho Bồ-tát, làm cho họ đảnh lễ dưới chân Phật và thưa hỏi các nghĩa. Hai năng lực gia trì ấy là gì? Đó là làm cho các Bồ-tát nhập vào Tam-muội và nhờ đó mà chư Phật hiện thân ra trước các Bồ-tát, đưa tay làm lễ quán đảnh cho họ.

Này Đại Tuệ! Nhờ được năng lực gia trì của các Đức Phật mà các Đại Bồ-tát đang ở Sơ địa sẽ nhập vào định ánh sáng Đại thừa thuộc về Bồ-tát. Đã vào định rồi, họ sẽ thấy thân chư Phật ở mười phương hiện khắp trước mặt, truyền cho họ sự gia trì bằng thân và ngôn từ như Bồ-tát Kim Cang Tạng và các Bồ-tát khác, là những vị đã thành tựu công đức tương tự nhau.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát này nhờ năng lực Phật gia trì nhập vào Tam-muội rồi, ở trong trăm ngàn kiếp tích tập các thiện căn, lần lượt lên các Địa, hoàn toàn thuần thục với những gì đang làm và sẽ làm. Cuối cùng, họ đạt đến Pháp vân địa, được ngồi trên tòa báu. Ở cung điện Đại liên hoa vi diệu, chung quanh có các Bồ-tát cùng địa vị với họ, đầu đội mũ báu, thân như vàng ròng tỏa chiếu sáng ngời như trăng tròn, có màu như hoa Chiêm-bặc.

Chư Phật khắp mười phương đưa những bàn tay như hoa sen làm pháp quán đảnh cho các Bồ-tát ấy đang ngồi trên tòa, giống như thái tử con của vua Chuyển luân vương nhận pháp quán đảnh rồi, nên rất tự tại. Các Bồ-tát này cũng như vậy. Đây là hai loại năng lực gia trì. Các Đại Bồ-tát này do được gia trì bằng hai loại trợ lực này nên tự thân được gặp tất cả chư Phật, không có cách nào ngoài cách trên.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội, hiện thần thông thuyết pháp. Tất cả đều do hai năng lực gia trì của các Đức Phật.

Này Đại Tuệ! Nếu những Bồ-tát nào tách rời sự gia trì của chư Phật mà thuyết pháp, thì các phàm phu cũng có thể thuyết pháp được.

Này Đại Tuệ! Nơi nào có các Đức Như Lai mang năng lực đến, thì nơi ấy sẽ có nhạc trỗi lên từ nơi núi rừng, cỏ cây, thành quách, cung điện… Do năng lực gia trì của Phật, các vật vô tình còn diễn pháp âm, huống chi loài hữu tình? Những kẻ mù lòa, câm điếc thoát khổ, được giải thoát.

Này Đại Tuệ! Năng lực gia trì của Như Lai có những tác dụng rộng lớn như vậy.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Tại sao Đức Như Lai dùng năng lực gia trì ấy làm cho các Bồ-tát nhập vào Tam-muội? Và khi các vị ấy được thọ quán đảnh trong cảnh giới thù thắng thì Đức Như Lai lại ban cho họ năng lực gia trì?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Vì muốn làm cho những vị ấy tránh khỏi nghiệp xấu, những phiền não và làm cho họ xa rời địa vị Thanh văn, chóng nhập Như Lai địa, làm cho họ được tăng trưởng gấp bội các pháp mà họ đã đạt được. Thế nên chư Phật đã dùng năng lực gia trì cho các Bồ-tát.

Này Đại Tuệ! Nếu các Bồ-tát không được gia trì như vậy, thì họ sẽ rơi vào cảnh giới xấu của ngoại đạo cho đến Thanh văn và sẽ không đạt được Tuệ giác vô thượng. Vì lý do đó mà các Đức Như Lai dùng năng lực gia trì để hộ vệ các Bồ-tát.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Nguyện Thế Tôn thanh tịnh
Có sức gia trì lớn
Sơ địa đến Thập địa
Tam-muội và quán đảnh.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phật dạy Duyên khởi là tùy thuộc vào nguyên nhân sinh ra, không phải do một ngã thể làm phát sinh. Ngoại đạo cũng nói về tánh tự tại thù thắng, thời gian hay ngã, vi trần… sinh nơi các pháp. Nay tại sao Đức Thế Tôn chỉ giải thích Duyên khởi của các pháp bằng những từ ngữ khác, nhưng về mặt ý nghĩa thì không có khác?

Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói: “Do chủ thể tạo tác từ không sinh ra có.” Thế Tôn cũng dạy: “Do nhân duyên nên tất cả pháp vốn không sinh mà sinh, sinh rồi trở về diệt.” Như Phật đã dạy về Vô minh từ đó hành sinh khởi, cho đến lão, tử, học thuyết này không nguyên nhân, chứ không phải học thuyết có nguyên nhân. Theo Thế Tôn dạy, thì “Cái này có thì cái kia có”. Nếu đây là sự kiến lập đồng thời chứ không phải hỗ tương tuần tự thì nghĩa này không đúng. Vậy thì ngoại đạo nói thắng tánh là chẳng phải Như Lai. Vì sao? Vì ngoại đạo nói nguyên nhân không từ duyên sinh mà có. Vì thế, Thế Tôn dạy: “Quả có liên hệ đến nguyên nhân và nhân lại liên hệ đến nhân.” Như vậy, dần dần dẫn đến sự sai lầm nghiêm trọng.

Khi nói “Cái này có thì cái kia có”, gọi đó là vô hữu nhân.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ta nhìn thấu suốt vạn pháp hiện hữu không gì khác hơn chính tại tâm hiện ra và tánh năng thủ, sở thủ, nên ta bảo: “Cái này có thì cái kia có”, chứ không phải cái học thuyết không có nhân và nhân duyên của ta phạm sai lầm.

Này Đại Tuệ! Nếu không thấu suốt tất cả vạn pháp hiện hữu không gì khác hơn chính tại tâm hiện ra nên chấp có năng thủ và sở thủ, chấp trước ngoại cảnh hoặc có hoặc không, thì đó là một sai lầm và không phải là điều ta nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phải chăng vì có ngôn từ nên chắc chắn các pháp có mặt? Nếu không có các pháp thì ngôn từ nương vào đâu mà sinh khởi?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Ngay cả khi không có các pháp cũng vẫn có ngôn từ. Ví như lông rùa, sừng thỏ, người con của Thạch nữ… thật ra các thứ ấy không hề có trên đời, vậy mà ngôn từ vẫn có.

Này Đại Tuệ! Các thứ ấy không phải có, cũng không phải không có, nhưng được biểu hiện bởi ngôn từ.

Này Đại Tuệ! Như lời ông nói: Có ngôn từ nên có các pháp, lập luận này vô nghĩa.

Này Đại Tuệ! Không phải tất cả các Phật độ đều có ngôn từ, ngôn từ chỉ là giả lập mà thôi.

Này Đại Tuệ! Có những cõi Phật các ý tưởng được biểu thị bằng cách nhìn chăm chú, hoặc biểu hiện cách khác, hoặc nhướng mày, hoặc cử động bằng mắt, hoặc mỉm cười, hoặc ngáp hay đằng hắng giọng, hoặc bằng nhớ nghĩ, hoặc cử động… Bằng những sự việc ấy để hiển thị pháp.

Này Đại Tuệ! Như thế giới Bất thuấn, thế giới Diệu hương và trong cõi Phật Phổ Hiền Như Lai, chỉ chăm chú nhìn không chớp mắt mà làm cho các Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn và được các Tammuội thù thắng.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải do ngôn từ mà có các pháp. Các loài côn trùng như ong, kiến… trong thế giới này, tuy không có ngôn từ mà chúng vẫn làm được các việc của chúng.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ví hư không, sừng thỏ
Và con của Thạch nữ
Không có, chỉ giả nói
Vọng chấp pháp cũng vậy
Trong nhân duyên hòa hợp
Người ngu tưởng sinh khởi
Vì không hiểu lý này
Nên luân hồi ba cõi.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Do đâu mà họ nói âm thanh là thường hằng?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Tùy theo pháp sai lầm mà nói. Đối với pháp vọng, Thánh nhân cũng biểu hiện như vậy, nhưng họ không điên đảo.

Này Đại Tuệ! Ví như một kẻ vô trí trong đời sinh ý tưởng điên đảo đối với sóng nắng, vòng lửa, bóng tóc lay, thành Càn-thát-bà, ảo ảnh, bóng trong gương. Nhưng nếu người có trí thì không như vậy, dù những ảo tưởng kia vẫn xuất hiện nơi họ.

Này Đại Tuệ! Khi có những pháp vọng này xuất hiện thì có vô lượng sự sai biệt, nhưng chẳng phải là vô thường. Vì sao? Vì nó lìa ý niệm hữu và vô. Vì sao lìa ý niệm hữu và vô? Vì tất cả người ngu có những sự hiểu biết khác nhau. Như nước sông Hằng có kẻ thấy, kẻ không thấy. Ngạ quỷ không trông thấy nước sông Hằng, cho nên không thể nói có; còn những chúng sinh khác lại trông thấy, cho nên không thể nói là không. Bậc Thánh đối với pháp sai lầm đã thoát khỏi kiến thức điên đảo

Này Đại Tuệ! Sự sai lầm là thường hằng vì bản chất của nó không khác, cho nên chẳng phải những sự sai lầm được nhận thấy là bị khác biệt. Do phân biệt cho nên có sự khác biệt. Thế nên, thể của sự sai lầm này là thường.

Này Đại Tuệ! Vì sao sự sai lầm này được xem là chân thật? Vì đối với sai lầm này người trí không khởi tâm điên đảo, không giữ kiến thức điên đảo. Nếu đối với sự sai lầm mà có ít ý tưởng phân biệt thì chẳng phải là Thánh trí. Có một ít ý tưởng đó, phải biết đây là lập luận của người ngu, chẳng phải lời bậc Thánh nói.

Này Đại Tuệ! Khi sự sai lầm được phân biệt là điên đảo hay chẳng phải điên đảo, thì nó làm sinh khởi hai loại chủng tánh, đó là chủng tánh Thánh trí và chủng tánh phàm phu.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh Thánh trí lại phân làm ba loại là: Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh Thanh văn thừa sinh khởi như thế nào từ sự sai lầm mà người ngu phân biệt? Đó là sự chấp trước về tướng chung và tướng riêng.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh Duyên giác thừa sinh khởi như thế

nào? Đó là khi sự chấp trước về tướng chung và tướng riêng tách rời họ khỏi nơi ồn náo.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh Phật thừa thành tựu như thế nào khi sự sai lầm này được bậc Thánh phân biệt? Đó là hiểu rõ tất cả chính tại nơi tâm thì sự hiện hữu và không hiện hữu của các đối tượng bên ngoài không còn phân biệt.

Này Đại Tuệ! Có những người ngu phân biệt sự sai lầm của các pháp, xác nhận rằng: chắc chắn không khác. Từ đó, hình thành chủng tánh của sinh tử.

Này Đại Tuệ! Trong sự sai lầm đó bởi nhiều sự vật và sai lầm này không phải là sự vật, cũng không phải không là sự vật.

Này Đại Tuệ! Sự sai lầm này khi được bậc Thánh phân biệt về tâm, ý, ý thức, những tập khí xấu, ba tự tánh, năm pháp thì nó chuyển y. Tức là những sai lầm này trở thành chân như. Thế nên, chân như xa lìa thức tâm. Câu này được ta trình bày rõ ràng, tức là từ bỏ phân biệt, nghĩa là loại trừ tất cả phân biệt.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Sự sai lầm là có, hay không có?

Đức Phật nói:

–Như Như huyễn, không có tướng chấp trước. Nếu thể là có và đưa đến tướng chấp trước nên không thể chuyển. Đó là các duyên khởi được hiểu theo ý nghĩa có đấng sáng tạo mà các ngoại đạo chủ trương.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Nếu những sự sai lầm giống như huyễn, thì từ đó nó sẽ là nguyên nhân của những sai lầm khác nữa.

Đức Phật bảo Đại Tuệ:

–Như huyễn không thể là nguyên nhân của hoặc, vì như huyễn không sinh ra những lỗi xấu ác. Và do đó, như huyễn không có sự phân biệt nào.

Này Đại Tuệ! Như huyễn sẽ sinh khởi khi có người nào đó dùng chú thuật mà gọi nó, chính nó không có năng lực tập khí và phân biệt sai lầm. Thế nên huyễn sự không sinh lỗi xấu.

Này Đại Tuệ! Vọng hoặc này chỉ là tâm chấp trước của người ngu, chứ không phải của bậc Thánh.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Bậc Thánh không nói sai
Không chân thật chính nó
Do vọng tức là chân
Chân thật trong chính nó
Nếu rời sự sai lầm
Mà có tướng sinh khởi
Đây hoàn toàn sai lầm
Như mắt lòa không thấy.

Này Đại Tuệ! Thấy các pháp không như huyễn, chẳng có tương tự, cho nên tất cả pháp như huyễn.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có phải vì vin vào loại chấp trước các loại tướng như huyễn nên bảo rằng tất cả pháp như huyễn chăng? Hay khác như thế đó mà có tướng chấp trước điên đảo? Nếu y theo sự chấp trước các tướng như huyễn thì bảo rằng tất cả pháp cũng như huyễn.

Bạch Thế Tôn! Không phải tất cả pháp đều như huyễn. Vì sao? Vì các sắc tướng được trông thấy đều có nguyên nhân.

Bạch Thế Tôn! Nếu các sắc tướng hiện ra như huyễn, hoàn toàn không có nguyên nhân. Vì thế cho nên, bạch Thế Tôn! Không thể bảo rằng dựa vào sự chấp trước các tướng như huyễn để nói tất cả pháp đều như huyễn tương tự.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Không phải dựa vào sự chấp trước tất cả các tướng như huyễn mà cho rằng tất cả sự vật như huyễn.

Này Đại Tuệ! Do tất cả sự vật không thật và biến mất nhanh chóng như một ánh chớp, cho nên gọi là như huyễn.

Này Đại Tuệ! Ví như ánh chớp vừa thấy xong liền biến mất, được biểu hiện cho người ngu trong thế gian đều thấy tất cả các pháp hiện hữu dựa vào tướng chung và tướng riêng theo sự phân biệt của tự tâm. Do không nhận biết về vô sở hữu mà có chấp trước sai lầm đối với các sắc tướng.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Huyễn không phải không thật
Cũng không có các pháp
Không thật nhanh như chớp
Được xem giống như huyễn.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Trước kia Phật dạy rằng: “Tất cả các pháp đều vô sinh và giống như Như huyễn.” Phải chăng có điều mâu thuẫn giữa câu trước và câu sau?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Hoàn toàn không có sự mâu thuẫn. Vì sao? Vì sinh tức là vô sinh. Khi ta nhận thấy tất cả sự hiện hữu chính tại nơi tâm, còn tất cả pháp bên ngoài có hay không thì chúng được trông thấy là vô tánh vốn không sinh. Thế nên, này Đại Tuệ! Để gạt bỏ ý nghĩa sự sinh do nhân duyên của ngoại đạo, nên ta nói các pháp đều không sinh.

Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo là một tập thể mê lầm. Họ cùng cho rằng tất cả pháp do từ sự sinh của hữu và vô, mà không nhìn nhận sự sinh ấy bởi chấp trước vào duyên khởi từ phân biệt nơi tâm.

Này Đại Tuệ! Ta bảo rằng: các pháp là phi hiện hữu, do vô sinh cho nên gọi là vô sinh.

Này Đại Tuệ! Giáo lý về các pháp là để làm cho các đệ tử của ta công nhận khẳng định rằng do các nghiệp mà nhận lấy sinh tử. Và ngăn chận kiến giải vô, hữu, đoạn diệt của các chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Giáo lý dạy về các pháp tướng cũng như huyễn là để làm cho gạt bỏ tướng tự tánh của các pháp để những kẻ phàm ngu bị rơi vào kiến thức sai lầm dục vọng, mà không biết rằng mọi sự hiện hữu không gì khác hơn là chính cái tâm. Và, để làm cho họ xa lìa sự chấp trước vào nhân duyên tướng sinh khởi, nên ta nói: “Tất cả các pháp như ảo ảnh, như giấc mộng.” Các phàm ngu kia vì chấp vào những tư tưởng sai lầm dối trá, tự mâu thuẫn với chính mình, với cả người khác, vì họ không thấy được tất cả các sự vật đúng thật như các sự vật.

Này Đại Tuệ! Người thấy được tất cả các sự vật đúng thật như các sự vật, nghĩa là đã liễu đạt rằng: Không có gì được trông thấy ngoài cái tâm.

Đức Thế Tôn lập lại bằng lời kệ:

Vô tác nên vô sinh
Có pháp tức sinh tử
Thấy rõ như huyễn mộng
Không phân biệt các tướng.

Này Đại Tuệ! Ta sẽ giải thích các đặc tánh của danh thân, cú thân và văn thân. Các Bồ-tát quán sát các tướng này, sẽ thông suốt ý nghĩa ấy mà chóng đạt Tuệ giác vô thượng và có thể khai ngộ cho tất cả chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Danh thân nghĩa là dựa vào sự để lập danh, danh tức là thân. Đây là thân của một tên gọi.

Cú thân nghĩa là nêu lên nghĩa để xác định cứu cánh. Đây gọi là cú thân.

Văn thân và cú thân nghĩa là sự trọn vẹn được diễn tả trong câu.

Danh thân nghĩa là một chữ hay một cái tên, mỗi chữ khác nhau, như từ chữ A cho đến chữ Ha.

Văn thân nghĩa là một âm tiết dài, ngắn, cao, thấp.

Lại nữa, về cú thân người ta có được ý niệm về nó từ những dấu chân để lại trên đường của loài người và các loài vật. Danh thuộc về bốn uẩn vô sắc, các danh được tạo nên như vậy. Văn nghĩa là tự tướng của danh, do đó mà văn được hiển bày. Đây là ý nghĩa của một danh cú, văn thân. Ông nên nỗ lực tu học để hiểu rõ các từ danh cú và văn thân này.

Đức Thế Tôn lập lại bằng kệ tụng:

Danh thân và cú thân
Do mỗi chữ khác biệt
Nên phàm ngu chấp trước
Như voi lún bùn sâu.

Này Đại Tuệ! Trong tương lai có những người ngu si, suy luận sai lầm do thiếu trí thức, xa lìa pháp như thật như giống và khác, câu hữu và bất câu hữu. Hỏi những người trí thì họ trả lời rằng: “Đây không phải là điều đáng hỏi, mà điều đáng hỏi là có phải sắc và vô thường là khác hay không khác?” Ở đâu cũng vậy, Niết-bàn và các uẩn, năng tướng và sở tướng, y và sở y, tạo tác và sự tạo tác, sở kiến và năng kiến, đất đai và vi trần, trí thức và bậc Trí được xem là khác nhau hay không khác? Những câu hỏi như vậy cứ liên tục dần từ cái này đến cái kia không dứt…

Đức Thế Tôn cắt ngang và không trả lời. Những kẻ ngu si, thiếu trí tuệ không thể hiểu biết lời Phật dạy. Đức Phật muốn làm cho họ xa lìa nơi sợ hãi, nên không giải thích những điều ấy.

Này Đại Tuệ! Thế Tôn không nêu lên những điều ấy, vì muốn làm cho hàng ngoại đạo vĩnh viễn rời xa những kiến giải sai lầm của họ.

Này Đại Tuệ! Các nhà ngoại đạo chấp có đấng sáng tạo, nên tuyên bố rằng: “Mạng tức là thân, hay mạng với thân khác nhau?” Họ nêu lên những vấn đề ấy gọi là luận vô ký.

Này Đại Tuệ! Vì hàng ngoại đạo ngu si mê muội nên nói luận vô ký, chẳng phải trong giáo pháp của ta đã nói, nên xa lìa năng thủ và sở thủ, không khởi phân biệt thì làm sao có thể dừng lại được?

Này Đại Tuệ! Đối với những người chấp trước năng thủ và sở thủ, không hiểu rõ mọi hiện hữu chỉ được thấy chính tại tâm, thì điều ấy phải được dừng lại.

Này Đại Tuệ! Chư Phật Như Lai dùng bốn cách hỏi và đáp để dạy pháp cho chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Luận Chỉ Ký, ta sẽ nói vào dịp khác, vì hiện nay căn tánh của họ chưa được thuần thục nên ta chưa nói.

Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả pháp không sinh? Vì không có sự tạo tác cùng đối tượng tạo tác và người tạo tác. Vì sao tất cả pháp không có tự tánh? Vì khi chúng được quán sát bằng trí tự chứng thì không hề thấy những tướng chung và tướng riêng. Vì sao tất cả pháp không đến và không đi? Vì các tướng chung và tướng riêng không từ đâu đến và cũng chẳng đi về đâu. Vì sao? Vì tất cả pháp không bị tiêu diệt. Nghĩa là tướng của tất cả pháp không có tánh và chẳng thể nắm bắt. Vì sao tất cả pháp đều vô thường? Vì sự sinh khởi của các tướng có tính chất không thường hằng. Vì sao tất cả pháp là thường hằng? Vì sự sinh khởi của các tướng, tức là không sinh khởi, không có sở hữu và tất cả pháp thường hằng vì tánh của nó là vô thường. Thế nên ta gọi tất cả pháp là thường hằng.

Đức Thế Tôn lập lại bằng kệ tụng:

Xác định và hỏi ngược
Phân biệt và không đáp
Là bốn cách giải thích
Chinh phục các ngoại đạo
Số luận và Thắng luận
Gọi sinh hữu, phi hữu
Những gì họ tuyên bố
Đều không ghi nhận được
Khi dùng trí quán sát
Thể tánh chẳng nắm bắt
Do đó không thể nói
Vì vật không tự tánh.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con về tướng sai khác của Tu-đà-hoàn và trạng thái khác nhau của hạnh quả Tu-đà-hoàn. Từ đó, con và các chúng Bồ-tát đều được nghe ý nghĩa ấy mà thuần thục với Tu-đà-hoàn, hiểu các phương tiện, được thiện xảo cái công hạnh các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Sau đó, chúng con sẽ giảng pháp cho tất cả chúng sinh, làm cho họ chứng đắc hai pháp vô ngã và diệt trừ hai chướng ngại, dần dần chúng con sẽ thông đạt các cảnh giới của Bồ-tát địa và đạt đến cảnh giới trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Chúng con như viên ngọc ma-ni muôn màu, chiếu sáng khắp nơi, mang lại nhiều lợi ích tốt đẹp cho tất cả chúng sinh.

Đức Phật bảo:

–Thầy hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ nói!

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Vâng, bạch Thế Tôn! Con xin nghe!

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Các Tu-đà-hoàn và Tu-đà-hoàn quả có ba loại khác nhau theo thứ tự thấp, vừa và cao.

Này Đại Tuệ! Những người thuộc loại thấp sẽ sinh tối đa bảy lần ở trong các cõi, những loại vừa sẽ sinh tối đa từ ba đến năm lần. Những người bậc cao sẽ đạt Niết-bàn ngay trong lần sinh này.

Này Đại Tuệ! Ba hạng người này đoạn được ba kết sử. Đó là: Thân kiến, nghi kiến và Giới cấm thủ. Cảnh giới cao tột thù thắng là tiến đến quả A-la-hán.

Này Đại Tuệ! Thân kiến có hai loại:

  1. Câu sinh.
  2. Phân biệt.

Như nương vào duyên khởi nên có tánh vọng chấp.

Này Đại Tuệ! Ví như tùy theo tánh duyên khởi cho nên sinh khởi những tánh chấp và vọng tưởng. Và pháp ấy chỉ là tướng phân biệt sai lầm, không phải là Hữu, không phải là Phi hữu, cũng không phải là Hữu và Phi hữu. Nó bị kẻ ngu si chấp chặt, cũng như con thú khát nước, mê lầm tưởng sóng nắng là nước. Đây là cái thấy phân biệt thuộc về ngã tánh, không có trí tuệ tương ứng khá dài. Người thấy vô ngã tức thời xa lìa.

Này Đại Tuệ! Câu sinh thân kiến khi đem cái thân thể của chúng ta để quán sát thì chúng ta thấy rằng nó gồm thọ và bốn uẩn kia không có sắc tướng. Thế nên, sắc được sinh khởi từ các đại, các đại này hỗ tương nhân với nhau, nên không có sắc nào kết tập cả. Quán sát như vậy rồi, hàng Thanh văn hiểu rõ ý niệm về hữu và vô, tức thời xả ly. Vì cái thấy về thân được xả ly, cho nên tham không sinh. Đây gọi là cái thấy về thân kiến.

Này Đại Tuệ! Tướng của nghi đối với pháp đã thể nghiệm và thông hiểu tướng, đoạn ngay sự phân biệt về hai thân kiến ở trước đối với các pháp, thì nghi không còn sinh. Đối với vị thầy nào khác, tưởng là Đại sư là tịnh hay bất tịnh, đây gọi là tướng nghi.

Này Đại Tuệ! Tại sao Tu-đà-hoàn không có giữ giới cấm? Vì họ thấy rõ tướng khổ của nơi đang sống, nên họ không chấp giữ. Chấp giữ giới cấm là gì? Những người ngu ở trong các cõi, vì tham đắm những an lạc tầm thường mà giữ giới khổ hạnh để mong cầu được sinh nơi cõi vui ấy; còn bậc Tu-đà-hoàn thì không chấp tướng này. Họ chỉ hướng đến sự chứng đắc cao vời vô lậu và pháp vô phân biệt. Đây là cách tu hành giới phẩm và giới cấm thủ.

Này Đại Tuệ! Bậc Tu-đà-hoàn xả bỏ ba kết sử, cho nên từ bỏ tham, sân, si.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Đức Thế Tôn đã dạy có nhiều loại tham. Loại tham nào cần phải loại bỏ?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Hãy loại bỏ tham dục và sự ràng buộc của nữ sắc. Phải biết đó là niềm vui nhất thời trong hiện tại, nhưng đau khổ ở đời sau. Bậc Tu-đà-hoàn được an lạc cao vời trong thiền định, do đó họ loại bỏ tham dục mà không gạt bỏ sự mong cầu Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Thế nào là quả vị Tư-đà-hàm? Nghĩa là không rõ hình sắc mà khởi ra phân biệt về sắc, họ sinh trở lại cuộc đời một lần nữa, rồi khéo tu thiện hạnh nên chấm dứt kiếp khổ mà chứng Niếtbàn. Đây là quả vị Tư-đà-hàm.

Này Đại Tuệ! Thế nào là quả vị A-na-hàm? Nghĩa là tuy còn thấy các đối tượng về sắc khởi ra hữu hay vô trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng sự phân biệt không sinh khởi những sai lầm và tùy miên, vĩnh viễn xả bỏ những kết sử, không bao giờ trở lại nữa. Đây gọi là A-na-hàm.

Này Đại Tuệ! A-la-hán là vị đã đạt được các thiền định Tam-muội, giải thoát, năng lực, thần thông. Họ vĩnh viễn đoạn tận phiền não, khổ đau và phân biệt. Đây gọi là A-la-hán.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Đức Thế Tôn dạy có ba loại A-la-hán:

  1. Hướng thẳng đến Niết-bàn.
  2. Thoái nguyện Bồ-đề.
  3. Do Phật biến hóa.

Ở đây chỉ cho loại nào?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Từ A-la-hán nhằm chỉ cho vị hướng đến Niếtbàn, chứ chẳng phải các bậc khác.

Này Đại Tuệ! Còn hai bậc kia, đó là những vị đã từng phát nguyện phương tiện thiện xảo và để trang nghiêm cho chúng hội chư Phật, nên họ thị hiện sinh ở đó.

Này Đại Tuệ! Đối với chỗ sai lầm nói ra các loại pháp, tức là vượt khỏi những tính chất như sự đắc quả các thiền định và thiền giả. Họ biết rằng những gì hiện hữu được trông thấy từ chính cái tâm.

Này Đại Tuệ! Nếu hàng Tu-đà-hoàn nghĩ rằng: “Ta cách ly các mối kết sử”, như vậy họ sẽ phạm hai lỗi. Nghĩa là họ bị rơi vào chấp ngã và không đoạn trừ được các kết sử.

Này Đại Tuệ! Những ai muốn vượt khỏi các thiền định, các vô lượng và cõi Vô sắc, thì phải lìa bỏ các hình tướng về sự thấy do tự tâm.

Này Đại Tuệ! Tam-muội tưởng thọ diệt vượt ngoài sự thấy của tâm và cảnh ấy không đúng, vì không có gì ngoài tâm mà có.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Các thiền và vô lượng
Vô sắc, bốn Ma-đề
Cho đến diệt thọ tưởng
Ngoài tâm không thể có
Quả Dự-lưu, nhất-lai
Bất-hoàn, A-la-hán
Các bậc Thánh như thế
Đều nương tâm phân biệt
Thiền và đối tượng thiền
Đoạn hoặc, thấy chân lý
Không đâu ngoài vọng tưởng
Biết rõ thì giải thoát.

Này Đại Tuệ! Có hai loại trí giác: Loại trí có chức năng quán sát và loại trí kiến lập bởi sự chấp trước vào những ý tưởng phân biệt. Trí quán sát nghĩa là quán sát tất cả pháp, lìa tứ cú thì chẳng thể nắm bắt. Tứ cú nghĩa là giống và khác, câu hữu bất câu hữu, hữu và vô, thường và vô thường. Ta đối với các pháp đều xa lìa tứ cú này. Thế nên bảo rằng: Tất cả pháp đều xa lìa.

Này Đại Tuệ! Ông nên tu học và quán sát các pháp như vậy.

Thế nào là trí kiến lập bởi sự chấp trước phân biệt chấp tưởng? Đó là những ý tưởng sinh khởi phân biệt sai lầm và chấp trước vào những tính chất của đại chủng nơi tính rắn, tính ướt, hơi ấm, tính chuyển động. Dùng tông, nhân, dụ mà kiến lập một cách sai lầm. Đây gọi là trí kiến lập bởi sự chấp trước vào những ý tưởng phân biệt. Đó là hai tướng trí giác. Đại Bồ-tát nào nhận biết trí tướng này, tức là thông đạt nhân và pháp là vô ngã. Sự hiểu biết về trí vô tướng trở nên thuần thục với cấp độ quán sát khéo léo sẽ nhập Sơ địa Bồ-tát và được một trăm Tam-muội. Nhờ sức Tam-muội cao vời, các vị sẽ thấy một trăm Đức Phật và một trăm vị Bồ-tát, biết sự việc của một trăm kiếp trước và sau. Hào quang chiếu sáng một trăm thế giới Phật. Các vị sẽ khéo biết rõ các tướng trạng thuộc cảnh giới cao hơn. Do nguyện lực cao cả, các vị biến hiện tự tại đến cảnh giới Pháp vân địa, được nhận pháp quán đảnh, vào nơi Phật địa, được mười nguyện vô tận. Để giáo hóa chúng sinh thành tựu, các vị ứng hiện bằng nhiều cách mà không ngưng nghỉ, thường an trú trong an lạc cao vời nơi cảnh giới Tam-muội tự giác.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát phải khéo nhận biết về các sắc do bốn đại chủng tạo ra. Nhận biết như thế nào? Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nên biết rằng: các đại chủng đó là chân thật bất sinh, ba cõi không có gì ngoài sự phân biệt và được hiện hữu tại tâm, còn những đối tượng bên ngoài không là hiện thực. Khi quán sát như thế thì những sắc do đại chủng tạo ra đều có tính chất vượt ra ngoài tứ cú, vô ngã và những gì thuộc về ngã. An trú nơi chân thật, được hình thành bằng trạng thái vô sinh.

Này Đại Tuệ! Các sắc do đại chủng tạo ra là gì? Đó là sự phân biệt sai lầm đại chủng ẩm ướt thành thủy giới bên trong và bên ngoài. Đại chủng hơi nóng mạng sinh ra lĩnh vực lửa bên trong và bên ngoài. Đại chủng phiêu động mạnh sinh ra lĩnh vực gió bên trong và bên ngoài. Đại chủng phân đoạn sắc sinh ra lĩnh vực đất bên trong và bên ngoài. Xa lìa hư không do vì kiến chấp vào những sự thật không đúng mà có sự tích tụ của năm uẩn, làm cho sắc do các đại chủng sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Thức do chấp trước và những cảnh giới nhân loại ngôn thuyết làm nhân sinh khởi, cho nên liên tục thọ sinh ở trong các nẻo khác.

Này Đại Tuệ! Sắc do địa chủng… tạo ra có nhân của đại chủng, chẳng phải bốn đại chủng là nhân của đại chủng. Vì sao? Vì nếu có pháp là có hình tướng. Đó là sự tạo tác, chứ không phải không có các hình tướng.

Này Đại Tuệ! Tướng của sắc do các đại chủng tạo ra là những phân biệt của hàng ngoại đạo, chứ không phải học thuyết của ta.

Này Đại Tuệ! Ta sẽ giảng về thể tướng của năm uẩn. Đó là sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Này Đại Tuệ! Sắc là những gì được tạo thành từ bốn đại và chúng đều có tướng khác nhau. Thọ… chẳng phải là sắc.

Này Đại Tuệ! Sắc chẳng phải là các uẩn, chúng như hư không, không có tính là bốn được.

Này Đại Tuệ! Ví như hư không vượt ra ngoài tướng đi đến, nhưng vì sự phân biệt mà hư không được gọi như vậy. Chẳng phải riêng sắc mà các uẩn cũng lại như vậy. Chúng vượt ra khỏi sự tính toán vì không có tướng trạng, vượt ra ngoài hữu và vô, vượt ra ngoài tứ cú. Đối với người ngu thì có sự đi đến, còn người trí thì không.

Người trí chỉ nói sự cấu trúc của năm uẩn như huyễn, chỉ là giả thiết, không có khác và không khác, chúng giống như giấc mộng, như ảnh tượng, không có bản chất nào khác hơn. Vì chúng làm trở ngại cảnh giới của Thánh trí, cho nên thấy có sự phân biệt các uẩn nơi hiện tại. Đây gọi là tướng tự tánh của các uẩn.

Này Đại Tuệ! Ông nên loại bỏ sự phân biệt này. Và khi đã loại bỏ rồi, thầy hãy nói về pháp tịch tĩnh. Đoạn trừ những kiến giải của hàng ngoại đạo, do đó giáo lý vô ngã của các pháp được thanh tịnh. Ông sẽ nhập Viễn hành địa (Địa thứ bảy), thành tựu vô lượng Tammuội tự tại, đạt ý sinh thân. Ông sẽ thể chứng Tam-muội như huyễn, đầy đủ thần thông tự tại, là nơi nương tựa của khắp quần sinh, giống như mặt đất vậy.

Này Đại Tuệ! Có bốn loại Niết-bàn. Bốn loại ấy là gì?:

  1. Niết-bàn đạt được khi tự tánh của các pháp là vô tánh.
  2. Niết-bàn đạt được khi những tự tướng của tất cả các pháp là vô tánh.
  3. Niết-bàn đạt được khi có sự nhận biết về tánh tự tướng là vô tánh.
  4. Niết-bàn đạt được khi đoạn tận được các uẩn và tánh liên tục của tướng chung, tướng riêng.

Này Đại Tuệ! Bốn loại Niết-bàn này là nghĩa của ngoại đạo, chứ không phải giáo pháp của ta.

Này Đại Tuệ! Theo giáo pháp của ta thì diệt sự phân biệt của thức và đối tượng gọi là Niết-bàn.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Có phải Đức Thế Tôn đã không kiến lập tám thức đó sao?

Đức Thế Tôn đáp:

–Ta có kiến lập.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Nếu có kiến lập thì tại sao Thế Tôn chỉ nói diệt tận ý thức, mà không diệt tận bảy thức kia?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Lấy ý thức làm nhân và làm chỗ y cứ, thì bảy thức được sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Khi ý thức phân biệt cảnh giới thì khởi ra chấp trước, sinh ra các tập khí và nuôi dưỡng thức A-lại-da. Do đó, ý niệm về cái ngã và những tùy thuộc của ngã mà nó chấp chặt về suy tưởng ý niệm ấy. Nó không có thể tướng riêng biệt, thức A-lại-da làm nhân làm chỗ y cứ của nó. Vì cảnh giới hiện hữu tại tâm và được chấp trước như thế, nên tâm tích tụ sinh khởi, chuyển biến làm nhân lẫn nhau.

Này Đại Tuệ! Ví như sóng biển, cảnh giới hiện hữu tại tâm, bị cơn gió đối tượng thổi vào mà có sinh và diệt. Vì thế, khi ý thức diệt thì bảy thức cũng bị diệt.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta không dùng tự tánh
Cho đến tướng tạo tác
Cảnh thức phân biệt dứt
Như thế nói Niết-bàn
Mạt-na làm nhân tâm
Tâm là cảnh giới ý
Làm nhân, chỗ nương tựa
Các ý thức chỉ sinh
Như dòng nước lớn chảy
Không bị sóng khuấy động
Như vậy ý thức diệt
Tất cả thức không sinh.

Này Đại Tuệ! Ta sẽ nói cho ông biết về tướng khác nhau của tự tánh vọng tưởng, làm cho ông và các Bồ-tát khéo hiểu nghĩa này, để vượt qua các vọng tưởng, chứng cảnh Thánh trí, cũng như biết pháp của ngoại đạo, các vị sẽ xa lìa các phân biệt như năng thủ và sở thủ. Ở trong các tướng Y tha khởi không sinh các tướng về sự chấp trước của vọng tưởng.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng khác nhau của tự tánh vọng tưởng? Đó là nói về những phân biệt:

  1. Ngôn từ.
  2. Ý nghĩa.
  3. Các đặc tướng.
  4. Tài sản.
  5. Tự tánh.
  6. Nguyên nhân.
  7. Kiến giải.
  8. Lý luận.
  9. Sinh.
  10. Bất sinh.
  11. Tùy thuộc.
  12. Ràng buộc và giải thoát.

Này Đại Tuệ! Đây là tướng khác nhau của tự tánh vọng tưởng. Sự phân biệt về ngôn từ là gì? Đó là chấp vào những từ hoa mỹ, những giọng điệu ngọt ngào. Đây là sự phân biệt về mặt ngôn từ.

Sự phân biệt về ý nghĩa là gì? Nghĩa là chấp có về sự việc đã nói. Đó là các ngôn từ sinh khởi tùy thuộc vào sự diễn đạt mà người ta xem là sự chứng đạt của Thánh trí. Đây gọi là phân biệt về ý nghĩa.

Sự phân biệt về các đặc tướng là gì? Nghĩa là tưởng tượng những gì được ngôn từ diễn tả thành ra nhiều đặc tướng, như tưởng tượng của con thú bị khát, rồi chấp vào đó mà phân biệt có tính rắn chắc, tính lỏng, tính ấm, tính động… Đây gọi là sự phân biệt về các đặc tướng.

Sự phân biệt về tài sản là gì? Nghĩa là muốn cố giữ những vàng, bạc và nhiều loại ngọc quý mà khởi ra ngôn thuyết. Đây gọi là sự phân biệt về tài sản.

Sự phân biệt về tự tánh là gì? Nghĩa là phân biệt theo những kiến giải sai lầm về tự tánh của các pháp và quyết định rằng không còn cách nào khác. Đây gọi là sự phân biệt về tự tánh.

Sự phân biệt về nguyên nhân là gì? Nghĩa là phân biệt nơi nhân duyên về hữu và vô và tưởng rằng có tướng nguyên nhân này sinh khởi. Đây gọi là sự phân biệt về nguyên nhân.

Sự phân biệt về kiến giải là gì? Nghĩa là những kiến giải sai lầm của ngoại đạo, chấp chặt về ý niệm hữu, vô, đồng, dị, câu hữu, bất câu hữu… Đây gọi là phân biệt về kiến giải.

Sự phân biệt về lý luận là gì? Nghĩa là chấp vào ý niệm ngã hữu và những gì thuộc về ngã hữu mà khởi ra ngôn thuyết. Đây gọi là phân biệt về lý luận.

Sự phân biệt về sinh là gì? Nghĩa là bị ràng buộc vào các ý niệm về các pháp được sinh ra hay mất đi tùy theo nhân duyên. Đây gọi là sự phân biệt về sinh.

Sự phân biệt về bất sinh là gì? Nghĩa là chấp rằng tất cả các pháp từ xưa đến nay là vô sinh, các duyên vốn không có mà trước hết có bản thể, chứ không có từ nhân duyên sinh khởi. Đây gọi là sự phân biệt về bất sinh.

Sự phân biệt về sự tùy thuộc là gì? Nghĩa là sự tùy thuộc hỗ tương cái này với cái kia, như kim và sợi chỉ. Đây gọi là sự phân biệt về sự tùy thuộc.

Sự phân biệt về trói buộc và giải thoát là gì? Nghĩa là chấp vào nguyên nhân bị trói buộc bởi có cái gì đó bị trói buộc. Như một người lấy sợi dây và dùng sức phương tiện cột một cái gút hay tháo nó ra. Đây gọi là sự phân biệt về trói buộc và giải thoát.

Này Đại Tuệ! Đây là tướng sai khác của tánh chấp trước sai lầm mà những kẻ phàm ngu chấp vào đó hoặc có hoặc không.

Này Đại Tuệ! Những ai bị ràng buộc trong lý duyên khởi thì bị ràng buộc vào những tự tánh vọng tưởng, cũng như thấy nhiều đối tượng tùy thuộc vào Như huyễn. Nhưng chính những vật như vậy lại bị người ngu phân biệt thành ra khác hơn là Như huyễn.

Này Đại Tuệ! Như huyễn cùng những vật khác không phải khác, cũng không phải một. Nếu chúng là khác thì những vật đó không có nguyên nhân là Như huyễn. Nếu chúng là một thì Như huyễn là cái đối vật không sai biệt, nhưng vì cái thấy sai biệt cho nên chẳng phải khác, cũng chẳng phải không khác.

Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát không nên mê chấp vào ý niệm Như huyễn về hữu và vô.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Tâm bị cảnh trói buộc
Giác tưởng trí chuyển theo
Nơi cao vời vô tướng
Sinh trí tuệ bình đẳng
Theo vọng chấp là có
Đối duyên khởi thì không
Mê muội chấp sai lầm
Duyên khởi lìa phân biệt
Bao nhiêu chi phần sinh
Như huyễn không thật có
Tuy hiện nhiều loại tướng
Vọng phân biệt thì không
Tướng kia là sai lầm
Từ tâm ràng buộc sinh
Người vọng chấp không hiểu
Phân biệt pháp duyên khởi
Có vô số vọng chấp
Phân biệt trong duyên khởi
Tục đế, Đệ nhất nghĩa
Thứ ba không nhân sinh
Vọng chấp thuộc tục đế
Đoạn tức cảnh giới Thánh
Như người tu quán hạnh
Từ một, hiện vô số
Thật không có gì cả
Vọng tưởng thấy như vậy
Mắt bệnh thấy nhiều vật
Vọng tưởng thấy nhiều màu
Không sắc, không vô sắc
Không rõ duyên khởi vậy
Như vàng không bụi cáu
Như nước không đục dơ
Như bầu trời không mây
Sạch vọng tưởng cũng vậy
Không có tánh chấp sai
Nếu có, do duyên khởi
Kiến lập và phỉ báng
Phân biệt đều đoạn diệt
Nếu không tánh vọng chấp
Mà duyên khởi hiện hữu
Pháp không nhưng pháp có
Pháp có từ không sinh
Do vọng chấp vào nhân
Mà duyên khởi hiện hữu
Danh tướng thường nối kết
Và vọng tưởng sinh khởi
Do duyên khởi nương vọng
Không bao giờ toàn hảo
Khi tự ngã thanh tịnh
Gọi là Đệ nhất nghĩa
Vọng tưởng có mười hai
Và sáu loại duyên khởi
Tự chứng cảnh chân như
Nó không có sai biệt
Năm pháp là chân thật
Ba tự tánh cũng vậy
Người tu hành hiểu vậy
Thì không vượt chân như
Y nơi tướng duyên khởi
Những danh xưng vọng tưởng
Tưởng các vọng tưởng kia
Đều có nhân duyên khởi
Trí tuệ khéo quán sát
Không duyên không vọng tưởng
Trong chân thật không vật
Làm sao sinh phân biệt
Ở đâu có viên thành
Thì không còn hữu vô
Đã xa lìa hữu vô
Làm sao có hai tánh
Vọng tưởng có hai tánh
Hai tánh được thiết lập
Các kiến giải phân biệt
Trí giả đạt thanh tịnh
Vọng tưởng nhiều loại tướng
Phân biệt trong duyên khởi
Nếu phân biệt khác đi
Tức rơi luận ngoại đạo
Những gì thấy từ vọng
Tiếp tục là hư vọng
Ai rời hai chấp này
Đó là pháp chân thật.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con hành tướng của tự chứng Thánh trí và hành tướng Nhất thừa. Nhờ đó mà con và các Bồtát được thông thạo hai pháp này, có thể ở trong giáo pháp Phật được chứng ngộ, mà không phải tùy thuộc vào ai khác.

Đức Phật nói:

–Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói cho thầy.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Vâng, bạch Thế Tôn!

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Bồ-tát y theo các Thánh giáo không có sự phân biệt thì hãy độc cư nơi thanh vắng, quán sát chính mình, không dựa vào một ai khác để chứng ngộ, gạt bỏ những kiến giải phân biệt, tinh tấn nỗ lực dũng tiến để nhập vào Như Lai địa. Người tu hành như vậy gọi là hành tướng của Tự chứng Thánh trí.

Thế nào gọi là hành tướng của Nhất thừa? Đó là nhận biết và thể nghiệm con đường Nhất thừa. Con đường của Nhất thừa được phân biệt như thế nào? Sự nhận biết về Nhất thừa đạt được khi không có phân biệt và gạt bỏ ý niệm năng chấp và sở chấp, trú trong như thật.

Này Đại Tuệ! Con đường Nhất thừa này, ngoại trừ Đức Như Lai ra thì không có một ngoại đạo Nhị thừa, Phạm thiên vương,… hay một ai khác có thể đạt được.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao nói có ba thừa mà không nói có Nhất thừa?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Không có giáo pháp nào mà nhờ đó Thanh văn, Duyên giác có thể tự chứng Niết-bàn nên ta không nói Nhất thừa. Vì họ chỉ dựa vào lời dạy của Như Lai giáo hóa cho xa lìa như vậy tu hành để đạt được giải thoát, chứ họ không tự chứng đắc. Vả lại, các Thanh văn, Duyên giác này chưa trừ diệt được chướng ngại của trí thức và tập khí của nghiệp, chưa chứng ngộ cái vô ngã của các pháp và chưa hiểu được sự biến dịch sinh tử khó nghĩ bàn. Thế nên ta chỉ giảng dạy cho họ pháp ba thừa. Nếu họ đoạn trừ được tất cả tập khí lỗi lầm, hiểu được sự vô ngã của các pháp, khi ấy họ sẽ thoát khỏi sự đắm say nơi Tam-muội và giác ngộ cảnh giới vô lậu, vượt ra ngoài thế giới siêu việt và ở trong cảnh giới vô lậu tu các công đức. Họ sẽ thu nhận đầy đủ tất cả mọi thứ và đạt được Pháp thân tự tại chẳng thể nghĩ bàn.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thiên thừa và Phạm thừa
Thanh văn, Duyên giác thừa
Chư Phật Như Lai thừa
Ta nói các thừa ấy
Bao giờ có tâm khởi
Các thừa chưa cứu cánh
Tâm kia có đột biến
Không thừa, không ai nhập
Không kiến lập các thừa
Ta nói là Nhất thừa
Để giáo hóa kẻ ngu
Nói các thừa khác nhau
Có ba loại giải thoát
Vượt qua các phiền não
Cho đến pháp vô ngã
Trí bình đẳng giải thoát
Ví như gỗ trong biển
Nổi trôi theo làn sóng
Tâm Thanh văn cũng vậy
Bị gió tướng lay chuyển
Thoát khổ còn phiền não
Còn tập khí ràng buộc
Đắm say rượu Tam-muội
Trú nơi cõi vô lậu
Nẻo cứu cánh không đạt
Cũng không bị thoái chuyển
Đạt được thân Tam-muội
Kiếp ba không giác ngộ
Ví như người say rượu
Tỉnh táo sau cơn say
Thanh văn cũng như vậy
Tỉnh giác sẽ thành Phật.

Pages: 1 2 3 4 5