KINH ĐẠI THỪA DU GIÀ KIM CƯƠNG TÍNH HẢI
MẠN THÙ THẤT LỢI THIÊN TÝ THIÊN BÁT
ĐẠI GIÁO VƯƠNG

Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện_Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG (Amogha-vajra) phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

QUYỂN THỨ BA

_Bấy giờ, Đức Như Lai nói tiếp về Vô Động Môn (Acala-mukhe) thành tựu Môn thứ hai trong 5 Môn, Thế nào là thứ tự được vào Vô Động Môn?

Một là: Nhập vào chữ La (RA) quán nghĩa “Vốn trống rỗng lìa bụi bặm”.

Đức A Súc Như Lai (Akṣobhya-tathāgata) nói Viên Thành Thật Tướng Vô Động Môn. Thành tựu trong Môn này, nói có 2 Phẩm

1) Trước tiên nói Phẩm thứ ba: Thập Phương Đại Bồ Tát Xuất Trợ Chứng Ngụ Thánh Lực

2)Sau đó diễn Phẩm thứ tư: Nhất Thiết Hiền Thánh Nhập Pháp Kiến Đạo Hiển Giáo Tu Trì

_Nay thành tựu trong 2 Môn Vô Động này, nên từ thứ nhất: trước tiên nói Phẩm

Thập Phương Đại Bồ Tát Xuất Trợ Chứng Ngụ Thánh Lực

Khi ấy, trong Đại Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát tại Đại Hội ở Tinh Xá Kỳ Viên (Jetavanānāthapiṇḍadasyārāma) Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai bảo nhóm Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát: “Khi ở đời trước trong quá khứ lâu xa thời có vị ở trong Thế Giới Sư Tử Ức làm vị Thần Mãn Nguyệt Quang Minh Bồ Đề Đạo Trường (Pūrṇacandra-prabha-bodhi-maṇḍa) tên là Từ Đức (Maita-guṇa), chính là thân của Mạn Thù Thất Lợi vậy. Ở trong đời ấy, vị làm Chuyển Luân Thánh Vương là thân của vị vua Đại Uy Đức (Mahā-teja) vậy

Thời đó, Đại Uy Đức Vương cúng dường Mãn Nguyệt Quang Minh Đạo Trường, chư Phật, chúng Bồ Tát Ma Ha Tát… trải qua vô lượng kiếp. Trong Bồ Tát Chúng Hội ở Đạo Trường này có nhóm 10 vị Đại Sĩ Thượng Ý Bồ Tát, sau đó cùng với Đức Tỳ Lô Giá Na vì Thế Giới ở 10 phương làm Chủ của Bồ Tát ở 10 phương, giáo hóa, tu trì đều trải qua vô lượng vi trần số Kiếp, thừa sự chư Phật Thế Tôn, vì độ hữu tình tu trì Như Lai Bí Mật Tam Ma Địa Quán, sau đó mới gặp Chúng Hương Lôi Âm Vương Như Lai ra đời

Bấy giờ, Ma Ha Tát của nhóm 10 vị Đại Bồ Tát Thượng Ý trong Đại Hội tại Đạo Trường của Phật, lại đồng chung với Hư Không Chuyển Luân Thánh Vương phát Thệ Nguyện lớn, hướng đến trước mặt Đức Thế Tôn cùng với 10 vị Đại Bồ Tát nói: “Sau này, khi Mạt Thế có Đức Phật xuất hiện thì đời đời, Bồ Tát chúng con thề rằng: đương lai chỉ có Phật ra đời thì nhóm 10 vị Đại Sĩ Thượng Ý Bồ Tát liền sẽ hiện ra, đi đến cõi Phật này để làm chứng minh Thánh Lực gia trì 10 vị Đại Bồ Tát

Con có Bản Nguyện (Pūrva-praṇidhāna) đã học Như Lai Bí Mật Pháp Giáo Thù Thắng Thánh Tính Quán Môn Tam Ma Địa, con liền tự mình sẽ có lời thề: “Nguyện xin Đức Như Lai nhận lấy Nguyện của con. Con liền mỗi mỗi đều tự hướng về Đức Thế Tôn nói Bản Học Quán Môn ấy. Nguyện xin Đức Như Lai ấn khả Giáo này, con sẽ tu hành trợ giúp Phật hoằng dương giáo hóa, rộng độ hữu tình, tất cả Bồ Tát”

Khi ấy, Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát với các nhóm tất cả Bồ Tát thưa bạch với Đức Như Lai rồi nói là: “Đức Thế Tôn vì Bồ Tát chúng con với tất cả chúng sinh hữu tình ở đương lai… cùng nói Pháp Giáo Thập Đại Sĩ Bồ Tát Quán Môn Du Già Kim Cương Tam Mật Tam Ma Địa, cũng đồng với Nguyện này, con đều phụng trì, đời sau tu hành, rộng độ Quần Phẩm (chúng sinh)”

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Ma Ha Tát của nhóm Đại Bồ Tát Thượng Ý ở 10 phương. Mỗi mỗi vị đều liền hướng về nhóm Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát với Đại Hội Chúng nói Pháp Giáo Bản Tự Tu Hành Quán Môn Học Như Lai Tu Trì Bí Mật Du Già… đều tự mình nói ra

Bấy giờ theo thứ tự liền có Thượng Ý Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Diệu Lạc Hoan Hỷ ở phương trên

Liền có Trì Thế Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Kim Cương Giới Địa Thiên ở phương dưới

Liền có Phổ Minh Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Vô Cực Nhật Diệu ở phương Đông

Liền có Bất Tư Nghị Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Thanh Sắc Lưu Ly ở phương Đông Nam

Liền có Quảng Ý Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Vô Cấu ở phương Nam

Liền có Vô Biên Trí Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Bạch Sắc Pha Lê ở phương Tây Nam

Liền có Vô Biên Âm Thanh Hống Thủ Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Vô Lượng Thọ ở phương Tây

Liền có Ích Âm Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Thù Diệu Hồng Sắc ở phương Tây Bắc

Lại có Vô Tận Tuệ Nhãn Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Bất Không Bảo Nguyệt ở phương Bắc

Liền có Hiền Hộ Bồ Tát Bồ Đề Tát Đỏa Đại Ma Ha Tát Đỏa của Thế Giới Kim Sắc ở phương Đông Bắc

_Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn bảo nhóm Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát, các Đại Bồ Tát Ma Ha Tát: “Như lai đã nói: Như bên trên đã nói Đại Bồ Tát Ma Ha Tát ở 10 phương tại Nhân Địa đời trước đều đồng một Hạnh, rộng hoằng Đại Nguyện cho nên tu hành Pháp Giáo Bản Hạnh Đại Nguyện Bí Mật của Tỳ Lô Giá Na Như Lai, cũng đồng tu Bản Hạnh của Phổ Hiền, thế nên cũng đồng tu Bản Đại Hạnh Nguyện của Mạn Thù Thất Lợi xong. Khi ấy, nếu có tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát cầu chứng Vô Thượng Bồ Đề, trước tiên nên tu nhập vào Như Lai Đại Từ Tâm Quán của tất cả Pháp. Thế nào gọi là tu trì chứng nhập vào 10 loại Quán Môn của Như Lai Đại Từ Tâm (Tathāgata-mahā-maitra-citta): nhóm nào là mười? Thế nào là tu nhập vào?

1_Nhập vào Tam Ma Địa (Samādhi) quán chiếu 10 phương không có bờ mé ngang bằng như hư không, Tâm Tính vô ngại, lượng ngang bằng với Pháp Giới. Đây gọi là Bản Tính Đại Từ cũng tự hộ thân, cũng hộ thân của người khác, lợi mình lợi người… tên gọi là Đại Từ Quán

2_Nhập vào Tam Ma Địa, quán sát cội nguồn của Tự Tính căn bản, nghĩa tốt thắng bậc nhất, Tâm Từ (Maitra-citta) của Tự Tính (Svabhāva) hay chặt trừ gốc rễ của sự phẫn hận, giận dữ, phiền não… hết hẳn tất cả vọng tưởng, cũng không có lỗi lầm. Đây tức gọi là Căn Bản Đại Từ Quán

3_Khi nhập vào Tam Ma Địa thời gọi là Quán Chiếu Từ. Ở trong Tính Tự Tính của Tâm Đại Từ này chẳng thấy tất cả chúng sinh được mất lỗi lầm và lo lắng… thường làm tất cả Thắng Tướng thanh tịnh mà đều chẳng hay biết, chẳng thấy chúng sinh 3 đời, chỗ kia có tên gọi của các tội lỗi (chư khiên), trái ngược với lệnh cấm (phạm cấm)… Thế nên gọi là Kiến Tính Thanh Tịnh Nhập Phật Đại Từ Quán

4_Nhập vào Tam Ma Địa soi thấy Tâm Tính Bình Đẳng Từ hay khiến cho tính bạo ác của thân mình: hay nhẫn nại, hay nhận chịu… cũng khiến cho tất cả chúng sinh hữu tình khác: hay nhẫn nại, hay nhận chịu, Thế nên gọi là Tâm Tính Thanh Tịnh Nội Ngoại Vô Nhẫn, gọi là Kiến Tính Bình Đẳng Từ Nhẫn Tính, sức nhẫn nại đạt sự trống rỗng (Śūnya: không) chẳng thấy các sự nhẫn nại bên trong bên ngoài của Tự Tính (Nhẫn Lực Đạt Không Bất Kiến Bản Tính Nội Ngoại Chư Nhẫn)… Thế nên gọi là

Nhập Tính Đại Từ Tâm Quán

5_Khi nhập vào Tam Ma Địa thời quán Tâm, thấy Tịnh Từ (lòng Từ trong sạch) được Tâm Đại Từ cho nên hay nhổ bứt nỗi khổ của chúng sinh, khiến được an vui, hướng đến Bồ Đề. Bồ Tát chứng được Tịch Tĩnh Từ (Śāntika-maitra), ở trong sự lặng yên trong sạch (tịch tĩnh) chẳng thấy khổ não, hay dẫn lối (đạo dẫn) cho trăm họ (thương sinh) khiến vào Tịnh Thổ, được cái tôi trong sạch (ngã tịnh) cho nên tức đây gọi là Như Lai Đại Bi Tịch Tĩnh Đại Từ Quán

6_Khi nhập vào Tam Ma Địa thời soi thấy năm Uẩn đều trống rỗng (ngũ Uẩn giai không), Vô Sở Đắc Từ (Aprāptitva-maitra) cho nên hay tự diệt tham lam, giận dữ, ngu si, các điên đảo ác… cũng hay khiến cho người khác, tất cả chúng sinh trừ diệt các ác, bất thiện bên trong bên ngoài… thảy đều xa lìa các Kiến (Dṛṣṭi), phỉ báng, dối trá, a dua nịnh hót, kiêu mạn, ngã chấp…. chẳng cầu cung kính, danh tiếng, lợi dưỡng… tất cả chẳng gây tạo nhóm lỗi như vậy. Thế nên gọi là Vô Sở Đắc Đại Từ Tâm Quán

7_Nhập vào Tam Ma Địa, khi chứng nhập vào Thánh Trí Tam Ma Địa thời quán sát Tâm Tính, chứng Pháp Tính Từ (Dharmatā-maitra), dùng Pháp Lực Từ (Dharma-bala-maitra) cho nên được Phạm (Brahma), Thích (Indra), Trời (Deva), Rồng (Nāga) lễ kính. Bồ Tát thường tự quán Thân, nghiêm trì lưới Giới uy nghi chẳng lấy làm vui, uy đức tự tại được người khen ngợi, hay phòng hộ tất cả Tâm của phàm ngu, liền được tự nhiên lật đổ ác làm thiện, người nhìn thấy vui vẻ. Tức đây gọi là Pháp Tính Thánh Trí Đại Từ Quán

8_Khi Bồ Tát nhập vào Tam Ma Địa thời lắng Tâm chứng Tịnh, chứng Định, chứng Thánh, rốt ráo thấy lặng yên trong sạch, gọi là Thù Thắng Tịch Tính Từ. Người đủ sức Từ (Maitra-bala) này vượt qua hai đời (đời hiện tại và đời vị lai) của Dục Giới (Kāma-dhātu) Không Sắc (không có hình với có hình, tức chỉ Sắc Giới và Vô Sắc Giới), đây gọi là Bất Nhiễm Tam Giới Bồ Tát. Nếu người chứng nhập vào Tịch Tính Từ thời hay trang nghiêm 32 tướng, 80 hạt giống của Báo Thân (Saṃbhoga-kāya). Tại sao có tên gọi như thế? Vì Bồ Tát chứng được Tịch Diệt Từ (Vyupaśama-maitra) của Tâm Tính, thế nên liền gọi là Thù Thắng Tịch Tính Đại Từ Quán

9_Khi Bồ Tát nhập vào Tam Ma Địa thời chứng Chân Như Từ (Bhūta-tathatāmaitra), Bản Thể không có biến đổi, Thật Tính thanh tịnh. Nếu Bồ Tát tu hành Từ (Maitra) này liền được lìa tất cả Tướng, chứng Vô Sinh Tam Ma Địa (Anutpādasamādhi), thành tựu tất cả Vô Thượng Bồ Đề, lợi mình lợi người thảy đều viên mãn.

Thế nên gọi là Chân Như Đại Từ Quán

10_Khi Bồ Tát nhập vào Tam Ma Địa thời chứng được Pháp Giới Từ (Dharmadhātu-maitra). Người đủ Từ (Maitra) này hay che trùm khắp tất cả, dung chứa khắp hữu tình cùng chung được giải thoát, khiến chứng Bồ Đề Thánh Lực gia trì, không có gì chẳng thành tựu tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát. Thế nên gọi là Pháp Giới Đại Từ Quán

Khi ấy, như bên trên đã nói Đại Sĩ Bồ Tát ở 10 phương nhập vào NHất Thiết Như Lai Phật Tâm Quán. Đây gọi là Nhất Thiết Chư Phật Nhập Đại Từ Quán Giáo Pháp vậy

_Liền lúc đó, nhóm Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát Ma Ha Tát một lần nữa thưa hỏi với Đức Như Lai rồi bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Thế nào gọi là Đại Sĩ Bồ Tát ở 10 phương?”

Đức Như Lai bảo: “Này Sư Tử Dũng Mãnh! Đại Sĩ Bồ Tát ở 10 phương như vậy, ở Nhân Địa xưa kia đồng được Nhất Thiết Chư Phật Thập Đại Từ Tâm Quán của Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Thế nên Thánh Tính, Đạo Lực của Phổ Hiền, Mạn Thù gia trì mà tương trợ giúp cho Thần Thông cảm ứng. Chưa biết Đạo Lực thù thắng của 2 vị Đại Sĩ này thì làm sao cảm ứng được!…”

Tức khi ấy, Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ở trong Đại Hội Chúng, một lần nữa bảo nhóm Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát rằng: “Đại Sĩ Bồ Tát ở 10 phương như vậy từ Nhân Địa xưa kia đồng cùng nhau được 10 Tâm tu Đại Từ của Tỳ Lô Giá Na, cũng tu chứng Hạnh Nguyện của Phổ Hiền, Thánh Tính Đạo Lực Thần Thông Tự Tại Thánh Trí của Mạn Thù… vận độ tất cả chúng sinh, thế nên cảm ứng được. Khi ấy, liền được tất cả chư Phật trợ giúp Thánh Tính Cảm Hội của Tỳ Lô Giá Na. Trong Chúng lúc đó: tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả chúng sinh hữu tình đồng tu hành hạnh Nguyện của Phổ Hiền, Mạn Thù… liền chứng nhập vào Thập Đại Từ Phật Tâm Quán của Tỳ Lô Giá Na Như Lai xong

Lúc đó, Đức Thích ca Mâu Ni lại một lần nữa khải thỉnh Tỳ Lô Giá Na Như Lai giúp cho Đại Chúng Hội, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, nói Nhất Thiết Chư Phật Bồ Đề Kim Cương Tam Mật, Phổ Hiền Trí Nhật, Mạn Thù Tuệ Kiếm, Lục Túc Tứ Túc Tôn Đẳng Kim Cương Đà La Ni, Phổ Hiền Đại Tiếu Đại Lạc Nhất Kế Giáng Tam Thế Đẳng Kim Cương Đà La Ni, Thiên Tý Thiên Bát Mạn Thù Đà La Ni, Kim Cương Tuệ Kiếm Khế Ấn, Như Lai Pháp Lân Nhất Thiết Tổng Trì Bí Mật Bồ Đề Tam Ma Địa Đại Lạc Kim Cương Chân Ngôn, Lúc Túc Kim Cương Chân Ngôn, Mạn Thù Chân Ngôn… tăng dụng gia trì tất cả Bồ Tát, Thánh Tính Thần Dụng Bồ Đề Thánh Trí

_Bấy giờ, nói 10 Đại Từ của chư Phật Như Lai xong, từ trái tim của Tỳ Lô Giá Na Phật tuôn ra Kim Cương Tam Mật Thiên Tý Thiên Bát Mạn Thù Đại Minh Trí Quang Minh Kim Cương Tuệ Kiếm Đà La Ni dùng gia trì tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát tu học, mau chứng Thần Lực Thánh Tính Bồ Đề Tâm. Đức Như Lai liền nói Thiên

Tý Thiên Bát Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát Kim Cương Tam Ma Địa Bí Mật Căn Bản Bồ Đề Chân Ngôn Đà La Ni là:

“Na mạc tam mạn đa, cát nê-dạ, thế sái, tắc-phả la noa, vĩ thuật đà, một địa tỳ-dụ, na xả nặc, tát phộc đát tha nga đế tỳ-dụ, la-hạ tỳ-dược, tam miểu tảm một đệ tỳ-dược

*)NAMAḤ SAMANTA-JANYA-AŚEṢA SPHARAṆA VIŚUDDHA BUDDHEBHYO DAŚA-DIŚAḤ SARVA-TATHĀGATEBHYU ARHATEBHYAḤ

SAMYAKSAṂBUDDHEBHYAḤ

na mô mạn nhu thất-lợi duệ, tát ca la, ma la, ca lãm, ca phiền, nga đá tế đá tế, vĩ ma la, ngu noa, lăng cật-lý đá dã, a ma la, nẵng la, tô la, bộ nhạ nga, vĩ nễ-dã đà la, nhạ tra, ma củ tra, nễ ca si đá, bá na tý xá mẫu nhạ dã

NAMO MAÑJU-ŚRĪYA SAKALA-BALA-KARAṂ KALPA-GATA-CETAS

VIMALA-GUṆA ALAṂKṚTĀYA AMARA NARA-ŚŪRA BHUJA-GA VIDYĀ-

DHĀRA JAṬĀ-MAKUṬA NIṢ-KĀSITA PĀDA-PĪṬHAM OJĀYA

na mô mạn nhu cụ sa dã, ma ha mạo địa tát đát-phộc dã, vĩ vĩ đà bá dã, nột khả để, vĩ na la noa dã

NAMO MAÑJU-GHOṢĀYA-MAHĀ-BODHISATVĀYA VIVIDHĀPAYA

DURGATI VIDARAṆĀYA

đát nễ dã-tha: Án, bạo, ma nê, lỗ chất la, ca la bá, vĩ chất đát-la, mẫu cật-đá na ma lăng cật-lý đá, xả lý la, bả la ma tát đát-phộc, mộ tả ca, đát tha nga đá, đạt ma cú xả, đà lạc, bát-la phộc la, đạt ma lạp đà, vĩ nhạ dã, tố la đá, tham bão ngu bả nại xả ca, yết-lệ thương nga la, bát-la xả ma ca, thú nễ-dã đa, sa-phộc bà phộc nỗ sa lý, ma ha mạo địa tát đát-phộc, phộc lạc, phộc lam, na nặc

TADYATHĀ: OṂ_ BHUḤ MAṆI RUCIRA-KALĀPA VICITRA

MUKTĀNĀM ALAṂKṚTA ŚARĪRA PARAMA-SATVA MOCAKA_

TATHĀGATA-DHARMA-KOŚA-DHĀRA PRAVARA-DHARMA-LABDHA VIJAYA SURATA SAṂBHOGA UPA-DARŚAKA KLEŚAM-AGĀRA PRAŚAMAKA_ ŚŪNYATĀ-SVABHĀVA ANU-SĀRIN MAHĀ-BODHISATVA

VARA VARAṂ DADAḤ

Án, ma ha bá xả, bát-la sa la, bát-la sa la, a sa ma sa ma, nan đá sa mạc, tảm mạn đá bạt nại-lạc, tam mạn đá tốn na lạc, tảm mạn đá ca lạc, tảm mạn đá bát-la sa lạc, sa la sa la

OṂ_ MAHĀ-PĀŚA PRASARA PRASARA ASAMA-SAMA ANANTA-

SAMAḤ, SAMANTA-BHADRAḤ, SAMANTA SUNDARAḤ, SAMANTA-

ĀKARAḤ, SAMANTA PRASARAḤ, SĀRA SĀRA

hệ hệ mạn nhu phộc la, phộc nhật-la khát nga, thân na thân na, tần na tần na, vĩ la nhạ vĩ la nhạ, yết ma bạt nga ma ca, tố khư na na, củ lỗ củ lỗ, độ lỗ độ lỗ, đà đà đà đà, ma ha ma ha, mộ ha dã mộ ha dã, bạo bạo, tỳ ma tỳ ma, nẵng na nẵng na, sa la sa la

*)HE HE MAÑJU-VARA VAJRA-KHAḌGA_ CCHINDA CCHINDA BHINDA BHINDA_ VIRAJA VIRAJA_KARMA-APA-GAMAKA SUKHADADA, KURU KURU, DHURU DHURU, DHA DHA DHA DHA, MAHĀ

MAHĀ, MOHAYA MOHAYA, BHO BHO, BHĪMA BHĪMA, NĀDA NĀDA,

SĀRA SĀRA

Ma ha tát đát-phộc mộ tả dã, ma ma, nẵng tha ma nỗ tắc-lý nhạ đá, bá dã, nhục khư, tố khiếm na na

MAHĀ-SATVA MOCAYA MAMA ANĀTHAM ANU-SṚJATA APĀYA-

DUḤKHA_ SUKHAṂ DADA

ma ha ca lỗ nê ca, a nẵng thỏ hám, nậu khí cấu hám, sa lỗ nhu hám, ổ bả nột-

lỗ đố hám, a vĩ vĩ cật-đố hám, củ tỉ nỗ hám, sa la noa đạt mộ hám, đát-phạm, bà nga phạm, nhục khí đá nam, tố khiếm na na

MAHĀ-KĀRUṆIKA: ANĀTHA-UHAṂ, DUḤKHITA-UHAṂ, SA-RUJAUHAṂ, UPA-DRUTA-UHAṂ, AVIVIKTA-UHAṂ, KUSĪDA-UHAṂ, SA-RAṆA-

DHARMA-UHAṂ, TVAṂ BHAGAVAṂ DUḤKHITĀNĀṂ, SUKHAṂ DADA

a nẵng tha nam, tát nẵng tha ca la, sa lỗ nhạ nam, nễ lỗ nhạ sa-ca la, ổ bả nột-lỗ đá nam, tát mạo bát nại la tát-phộc, nậu khư, xả ma ca

ANĀTHĀNĀṂ SANĀTHA-KARA, SA-RUJĀNĀṂ NIRUJAS-KARA, UPA-

DRUTĀNĀṂ SARVA-UPADRAVA-DUḤKHA ŚAMAKA

vĩ vĩ cật-đá nam, củ xả la, đạt-ma, tảm bà la, bả lý bố la dĩ đá, củ tỉ na nam, vĩ lý-dã, na đá, sa la noa, tỳ đạt nhĩ nam, ma ma ti, bà nga tông nẵng thỏ, bà phược, xả la nam, bả la dã noa tát đát-la đá, tát phộc nậu khư nễ minh, xả ma dã

AVIVIKTĀNĀṂ KUŚALA-DHARMA SAṂBHĀRA PARIPŪRAYITA, KUSĪDĀNĀṂ VĪRYA-DATTĀ SARAṆA VIDHARMĪNĀṂ MAMA-ĀPI_

BHAGAVAṂ NĀTHO BHAVA-ŚARAṆAṂ PARÂYAṆA SA-TRĀTA, SARVA-

DUḤKHANE ME ŚAMAYA

tát phộc cật-lệ xả, la tạm tất nhĩ, a bả nẵng dã, tát phộc tăng sa lỗ bả nại-la

tát phộc, nậu khư, nễ minh, nẵng xả dã

SARVA-KLEŚA-RAJAS-ME APANAYA SARVA-SAṂSĀRA-UPADRAVA

DUḤKHA NIME NĀŚAYA

củ xả la đạt ma, bả lý bố la-noa minh, củ lỗ

KUŚALA-DHARMA PARIPŪRṆA ME KURU

tát phộc yết ma phộc la noa, bát phộc đá, nễ minh, vĩ chỉ la

SARVA-KARMA-ĀVARAṆA-PARVATA NIME VI-KIRA

ma ha mạo địa tát đát-phộc, tế vĩ đá, vĩ lý-dã bá la nhĩ đá, dụ nghiễm minh,

tăng nễ dụ nhạ dã

MAHĀ-BODHISATVA SEVITA VĪRYA-PĀRAMITĀ YOGAṂ ME SAṂ-

NIYOJYA

a la noa đạt ma, vĩ la nga, vĩ la nhạ, tăng nhạ ha, bát-la nhạ ha, đà la nê sa ma, khư sa ma, nhạ la nễ địa, minh lỗ sa ma, ma ha mạo địa tát đát-phộc, phộc la na, sa-phộc ha”

ARAṆA-DHARMA VI-RĀGA VI-RAJA SAṂ-JAHA PRA-JAHA

DHARAṆI-SAMA, KHA-SAMA JĀLA-NIDHI MERU-SAMA_ MAHĀBODHISATVA VARADA SVĀHĀ

_Thiên Tý Thiên Bát Mạn Thù Tâm Căn Bản Chân Ngôn Nhiếp Nhất Thiết Pháp Thần Lực Đà La Ni là:

“Nẵng mạc tát phộc đát tha khả đế biều la-ha biều. Án, câu ma la lỗ bỉ nê, vĩ thấp-phộc, tảm sa-phộc, a khả sai, a khả sai, lạc hộ lạc hộ, bột-lộng bột-lộng, hồng hồng, nhĩ nẵng chức, mạn đản thất-lý duệ, tố thất lợi dã, đá la dã, mưu-hàm, tát phộc nậu khế biều, phát tra phát tra, xả ma dã xả ma dã, a mật-lý đố nạp bà vũ nạp bà phộc, bá bán minh, nẵng xả dã. Án, phộc kế-duệ la thể nhạ dã. Án, phộc kế-duệ thế si sa phộc. Án, phộc kế-duệ khiên nhạ dã. Án, phộc kế-duệ ninh sắt si dã. Án, phộc kế-duệ ma nẵng sa. Án, phộc kế-duệ na nẵng mạc. Án, khát nga tát đát-phộc, phộc kế-duệ hồng, sa-phộc hạ”

*)NAMAḤ SARVA-TATHĀGATEBHYU ARHATEBHYAḤ

OṂ_ KAMĀRA-RŪPIṆI VIŚVA SAṂBHAVA_ ĀGACCHA ĀGACCHA, LAHU LAHU, BHRŪṂ BHRŪṂ, HŪṂ HŪṂ_ JINAJIK MAÑJU-ŚRĪYE SUŚRĪYA TĀRAYA MĀṂ_ SARVA-DUḤKHEBHYAḤ PHAṬ PHAṬ, ŚAMAYA

ŚAMAYA, AMṚTODBHAVA UDBHAVA PĀPAṂ ME NĀŚAYA

OṂ_ VĀKYE ARTHE JAYA

OṂ_ VĀKYE ŚEṢA-SVA

OṂ_ VĀKYE KHAṂ JAYA

OṂ_ VĀKYE NI-ṢṬHAYA

OṂ_ VĀKYE MĀNASA

OṂ_ VĀKYEDA NAMAḤ

OṂ_ KHAḌGA-SATVA VĀKYE HŪṂ SVĀHĀ

_Mạn Đà La Kết Giới Chân Ngôn: Phạn Văn là: Tư Ma Bạn Đà Đà La Ni (Sīma-bandha-dhāraṇī)

“Án, a mật-lật đá, vĩ lô cát nễ, khả lật-bà, tăng lạc xoa nê, a ca lý-sa nê, hồng hồng phán phán tra tra, hồng tra, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ AMṚTA VILOKINE GARBHA SAṂ-LAKṢAṆE ĀKARṢAṆE HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ_ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

_Mạn Đà La Đại Quán Đỉnh Mật Ngôn Đà La Ni: Phạn văn là A Tỳ Sái Kế Chân Ngôn (Abhiṣeka-mantra)

“Án, a mật-lật đá, phộc lệ, phộc la phộc la, bát-la phộc la, vĩ thuật đễ, hồng hồng phán phán tra tra, hồng tra, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ AMṚTA-VARE_ VARA VARA PRAVARA VIŚUDDHE_ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ_ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

_Quán Đỉnh Kết Khế Ân Chân Ngôn: Phạn văn là A Tỳ Sái Kế Mẫu Nại-La Đà La Ni (Abhiṣekai-mudrā-dhāraṇī)

“Án, mẫu ninh mẫu ninh mẫu ninh, phộc lệ, a tỳ săn giả mính, tát lật-ma đát tha khả đá, tát lật-ma vĩ ninh-dã tỳ sái kế lật-mãng hạ ma nhật-la, ca phộc giả, mẫu nại-la, mẫu đát-lý đái, tát lật-ma đát tha khả đá, hột-lý na dạ, địa sắt sỉ-đá, ma nhật-lệ sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MUṆI MUṆI MUṆI _ VARE ABHISIṂCA MĀṂ_ SARVATATHĀGATA SARVA-VIDYĀ-ABHIṢEKAIR MAHĀ-VAJRA-KAVACAMUDRĀ MUDRITEḤ_ SARVA-TATHĀGATA-HṚDAYA ADHIṢṬHITA VAJRE

SVĀHĀ

Như vậy theo thứ tự, Đức Như Lai liền nói Kim Cương Thập Đại Từ Quán với Đà La Ni xong

_Khi ấy, Đức Thế Tôn như bên đã nói Thập Đại Từ Quán Chư Phật Pháp Giáo với nói Đà La Bi. Đức Như Lai nói đủ gia trì tăng Thánh Lực, Phước Đức khiến cho tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát với tất cả chúng sinh hữu tình tu nhập, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề của chư Phật

Thế nên, chúng con: Sư Tử Dũng Mãnh với tất cả Bồ Tát tin tưởng sâu xa, thề đều phụng hành. Vì Sao gọi là nhóm 10 Đại Sĩ Bồ Tát Thượng Ý ở 10 phương đồng được Đức Như Lai ấn khả Pháp Giáo, tu hành Bồ Tát Đạo? Tức mỗi mỗi đều đối trước Đức Thế Tôn, hướng về trước Đại Hội Chúng cùng với các chúng Bồ Tát, tự nói Pháp Giáo tu chứng, Quán Môn bí mật… đương lai cũng cùng với tất cả Bồ Tát đồng sẽ cứu độ tất cả chúng sinh hữu tình. Thế nên, vì sao gọi là Bí Mật Kim Cương Thập Đại Sĩ Pháp Quán này?

_Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai theo thứ tự nói nhóm 10 Đại Sĩ Bồ Tát Ma Ha Tát của Thượng Ý Bồ Tát ở phương trên

*)Thứ nhất là: Thượng Ý Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Đỏa Bồ Đề Tát Tỏa trong Thế Giới Diệu Lạc Hoan Hỷ ở phương trên sẽ tự nói bày, đối trước Đức Như Lai khiến cho tất cả các Bồ Tát ở đương lai, tu nhập vào Bồ Đề Thánh Tính Thánh Trí, chứng Như Lai Kim Cương Tam Mật Tam Ma Địa, soi thấy Tự Tính, nhập vào Vô Động Niết Bàn Vô Tính Quán.

Thượng Ý Bồ Tát Ma Ha Tát liền nhập vào Nhất Thiết Như Lai Tự Tại Pháp Giới Tam Ma Địa (Sarva-tathāgateśvara-dharma-dhātu-samādhi). Bồ Tát dùng con mắt Thánh Trí của mình, quán chiếu Ý Thức Giới Xứ, nhập vào Niết Bàn Vô Tự Tính Quán Pháp Giới Kim Cương Tam Ma Địa. Bồ Tát Thượng Ý tự thấy Tính Ý Sinh Thân trong thân, ở trong mỗi một lỗ chân lông, ra vào Thần Dụng Tự Tại Thánh Lực, vận thông, chứng sâu xa Pháp Giới Tam Muội (Dharma-dhātu-samaya) chẳng thể nghĩ bàn. Dùng Thánh Trí Trí biết tất cả Phật Pháp 3 đời; Pháp chẳng thể nói, Pháp có thể nói; tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát nhiều như số bụi nhỏ trong cõi Phật tu hành, dạy Đạo, hóa độ Thương Sinh (trăm họ, mọi người), hành Bồ Tát Hạnh (Bodhisatva-caryā) thường chẳng ngưng nghỉ, khiến cho tất cả chúng sinh mau nhập vào Niết Bàn Vô Tính Quán Pháp Giới Thánh Lực Bồ Đề Tất Địa, thành tựu Bồ Tát, khiến cho tất cả chúng sinh trước tiên tu chứng, nhập vào 10 loại thành tựu Kim

Cương Bồ Đề Tam Mật Đại Pháp Quán

Thế nào gọi là 10 loại Kim Cương Bồ Đề Tam Mật Đại Pháp?

1_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Đà La Ni Bí Pháp Quang Minh, thành tựu Bồ Đề Kim Cương Thánh Tính Tam Mật Hành Đạo Đại Pháp

2_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn các Căn, Trí Tuệ viên mãn, thành tựu Bồ Đề Thần Cảnh Thông, chứng nhập vào trăm ngàn Tam Muội, Phật Tam Ma Địa Đại Pháp

3_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Thần Lực, thành tựu nuôi lớn trăm ngàn Kim Cương Tam Muội Gia (Vajra-samaya), thành tựu Thánh Lực Bồ Đề Viên Mãn Cố Đại Pháp

4_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Hư Không Môn (Gagana-mukhe), nhập vào Nhất Thiết Như Lai Tam Ma Thánh Tính Địa, vận động thành tựu Bồ Đề, Thần Thông tự tại du lịch 10 phương, nhập vào Tịnh Thổ của Phật, thấy Phật Báo Thân Đại Pháp

5_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Phật Tam Ma Địa Môn (Buddhasamādhi-mukhe), Thánh Tính thông đạt đầy đủ, thành tựu Bồ Đề, các Ba La Mật Môn (Pāramitā-mukhe) bí mật thù thắng, nhập vào Nhất Thiết Tính Trí Bồ Đề Vô Ngại Viên Mãn Đại Pháp

6_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Thánh Trí Thần Thông, tu nhập vào Lý Thú của Hạnh màu nhiệm, Công Đức của Thể Tính, gom chứa Thánh Đạo, thành tựu Bồ Đề, nhập vào Nhất Thiết Chư Phật Pháp Tạng Đại Pháp

7_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Trí Tuệ biện tài, phương tiện diễn nói, thành tựu Như Lai Thánh Tính Hạnh Bồ Đề, nhập sâu vào Nhất Thiết Pháp Nghĩa Đại Pháp bí mật

8_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Đại Từ Thánh Hạnh thâm sâu của chư Phật, thành tựu Bồ Đề Phật Hạnh Viên Mãn Đại Pháp

9_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Thánh Trí Kim Cương Tính Đạo của Như Lai, được Phật quán đỉnh, nhập vào địa vị của Pháp Vương, thành tựu Bồ Đề, Chư Phật Trí Thân Đại Minh Biến Chiếu Kim Cương Bồ Đề, thành tựu Pháp

Thân khiến được Giải Thoát Đại Pháp

10_Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Chư Phật Giải Thoát Địa (Sarvabuddha-vimukti-bhūmi), thành tựu Bồ Đề, được tất cả Như Lai, mau chóng nhập vào trăm ngàn Bí Mật Kim Cương Bồ Đề Phật Tính Hải Tạng Chân Như Tam Ma Địa (Guhya-vajra-bodhi-buddhatā-sāgara-garbha-tathatā-samādhi), đầy đủ tất cả Pháp,

Như Lai Thánh Tính Vô Tận Kim Cương Trí Bồ Đề Nhất Thiết Đại Pháp Thế nên, Thượng Ý Bồ Tát Ma Ha Tát Đỏa trước tiên tự hay nói Vọng Tưởng (Vikalpa) của Thức (Vijñāna), Thánh Tính (Tính sinh ra Trí Vô Lậu rồi chặt đứt phiền não) của Như Lai: 2 nghĩa hòa hợp thành thục Kim Cương Thánh Trí Bồ Đề Đại Pháp. Tức đây gọi là Bồ Tát tu học Như Lai Thánh Tính Giải Hạnh Tề Hạnh, liền hay chứng được 10 loại Đại Pháp Bồ Đề của Tự Thể Pháp Giới, sau đó tu nhập, chứng được Vô Động Niết Bàn Vô Tính Quán

_Thế nào là phương tiện (Upāya) để được chứng nhập vào Vô Tính Quán? Bồ Tát trước tiên tu ngay Tâm, quán chiếu Bản Tính lặng yên trong sạch, tỏ ngộ nhập vào Diệt Tận Định (Nirodha-samāpatti), được Tâm Thức Tính chứng thấy thanh tịnh, chỉ trong, chỉ sạch, chứng thấy Thánh Tính, Tự Tính như như, một con đường lặng yên trong sạch, tỏ ngộ đạt cội nguồn, phản chiếu thấy yên tịnh, chỉ soi chiếu, mỗi mỗi chỉ trong suốt, chỉ trong sạch, chỉ yên lặng, chỉ Thánh… Tức đây gọi là Bồ Tát được nhập vào Vô Động Niết Bàn Vô Tính Quán

Nếu có tất cả Bồ Tát y theo Thượng Ý Bồ Tát Ma Ha Tát Đỏa này, tu học Pháp Môn này, liền được mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề của Phật. Cho nên, Thượng Ý Bồ Tát Ma Ha Tát vì chúng sinh hữu tình trong tất cả Pháp Giới 3 đời, hiển nói diễn ra Chư Phật Bí Mật Kim Cương Bồ Tát Thành Tựu Vô Động Niết Bàn Vô Tính Quán… khiến cho đời lâu xa ở vị lai: tất cả Bồ Tát, tất cả chúng sinh tu chứng, mau chóng nhập vào Như Lai Thánh Tính Tam Ma Địa Vô Tính Quán, được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề của Phật”

_Khi ấy, Đức Như Lai liền theo thứ tự mà khiến Trì Thế Bồ Tát tự nói tu tập Quán Hạnh Môn

*)Thứ Hai là: Trì Thế Bồ Tát Ma Ha Tát Đỏa Bồ Đề Tát Tỏa trong Thế Giới Kim Cương Giới Địa Thiên ở phương dưới, tự đối trước Đức Như Lai, liền vì tất cả Bồ Tát hiện tại nói bày Bí Mật Pháp Quán, cũng khiến cho tất cả Bồ Tát với tất cả chúng sinh ở đương lai, tu nhập vào Tát Bà Nhã Hải Tam Ma Địa (Sarva-jñā-sāgarasamādhi: Nhất Thiết Trí Hải Tam Ma Địa), học Chư Phật Kim Cương Bồ Đề Nhất

Thiết Bí Mật Thậm Thâm Pháp Nhẫn Ba La Mật Đa Thật Tính Quán

Nếu Bồ Tát y theo Quán Môn này, do tu hành chứng được Như Lai Kim Cương Vô Biên Tính Hải Tam Muội (Tathāgata-vajra-ananta-prakṛti-sāgara-samaya). Y theo Tam Muội (Samaya) này được vào Bí Mật Bồ Đề Kim Cương Trì Địa Thế Hải Tính Tam Ma Địa (Guhya-bodhi-vajra-vasu-dhara-sāgara-prakṛti-samādhi). Từ Trì Thế Hải Tính Kim Cương Nguyện Lực Trí Kim Cương Giới Địa dựng lập, nương vào tướng Pháp Tạng bền chắc (Dṛḍha-dharma-garbha-lakṣaṇa) của Kim Cương Hải Tính (Vajra-sāgara-prakṛti) sinh ra Thế Giới không có chướng ngại, ngang bằng như hư không, không có tướng sai biệt… đều là cội nguồn trong Kim Cương Thể Tính Kiên Cố Bí Mật Pháp Tính Hải của Tỳ Lô Giá Na Như Lai… an lập vạn tượng, đất đai, Thế Giới, hình sắc, tướng tốt, Chủ Tể, Thần Thông, linh ứng, hóa biến… tất cả cùng chung y theo

Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai ở đời trước có Nguyện lớn dùng Thánh Lực gia trì tất cả Bồ Tát với tất cả hữu tình tu tập Bồ Đề Giải Thoát Thánh Đạo (Bodhi-vimuktaārya-mārga) thành tựu tất cả chúng sinh ở Thế Giới này, hợp đồng một Tính trợ Phật thành thục Thần Lực tự tại, đạt Nhất Thiết Như Lai Tam Ma Địa, Thánh Trí tương ứng khiến cho tất cả hữu tình không có gì chẳng khoái lạc, đồng vào Bồ Đề, đều được viên mãn… Đều là Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai tại thời xưa kia, ở trong biển Kiếp (Kalpa-sāgara) có sức Nguyện lớn, khi tu Bồ Tát Hạnh thời dùng 4 Nhiếp Pháp (Catvāri saṃgraha-vastūni: gồm có Bố Thí Nhiếp, Ái Ngữ Nhiếp, Hành Lợi Nhiếp, Đồng Sự Nhiếp) với thực hành 8 Đại Cúng Dường (Mahā-pūja) mà từng nhiếp nhận nơi gieo trồng căn lành của mỗi một chư Phật, các Đại Bồ Tát khi ở Nhân Địa, đều dùng Tướng nhiếp mọi loại phương tiện giáo hóa thành tựu, khiến cho tất cả Bồ Tát an lập Nhất Thiết Trí Tuệ Đạo, Nhất Thiết Thánh Chủng Đạo, Nhất Thiết Kim Cương Đạo, Nhất Thiết Giải Thoát Đạo. Đây gọi là Nhất Thiết Như Lai Bồ Đề Hải Tạng Đại Thiện Phước Lợi Phương Tiện thành tựu Nguyện Hải Bát Nhã Ba La Mật Đa

Chư Phật Bồ Tát xưa kia, khi ở Nhân Địa, nơi Hạnh (Caryā) đã hành đầy đủ Thánh Đạo thanh tịnh giải thoát, đã hay khéo nhập vào Tam Ma Địa của chư Phật, khiến vị Bồ Tát ấy với tất cả chúng sinh thường thấy Báo Thân của chư Phật mỗi mỗi rõ ràng, dùng sức Thắng Giải (Adhimokṣa: còn gọi là Tín Giải) nhập vào biển Tính Công Đức của Như Lai, được thành Môn giải thoát của chư Phật Bồ Tát, Thần Thông du hý hợp đồng Bản Nguyện, khởi Tâm Đại Bi thề độ hữu tình đều quy về Biển Tính Kim Cương Bồ Đề của chư Phật, viên mãn thành tựu. Chính vì thế cho nên, Trì Thế Bồ Tát Ma Ha Tát như vậy khiến cho tất cả các Bồ Tát tu nhập vào Kim Cương Tam

Ma Địa Hành Thậm Thâm Pháp Nhẫn Trụ Ba La Mật Đa Thật Tính Quán Làm sao mau được vào phương tiện này để chứng Quán này? Lúc đó, Trì Thế Bồ Tát liền ngay con mắt Tâm của mình cần phải quán chiếu, nhập vào Tự Tâm Tính Tính Thể Pháp Giới, được thấy Tâm Thể của Tự Tính, chứng nơi Như Lai Kim Cương Thánh Tính, thông đạt Pháp Không Vô Biên Giác Trí, Đại Tịch Tuệ Không Quán. Đại Trí ấy nhập vào mỗi một Tâm trống rỗng (tâm tâm không), chứng trống rỗng (chứng không), lại trống rỗng (phục không). Tâm như hư không đồng với Pháp Giới, mỗi mỗi thấy rõ Tính Danh, chứng Tự Tính Thánh Trí Pháp Thể là Tâm Tính vốn có (bản tâm tính), Thần Dụng tự tại, trong suốt rỗng rang, một Tĩnh Pháp đồng với Chân Như Thật Tế của Pháp Tính

Nếu đạt Tính này tức gọi là Bản Nguyên Tự Tính Chân Thật Thánh Trí Vô Tính. Thế nên, Trì Thế Bồ Tát Ma Ha Tát ở Nhân Địa xưa kia, ngay Bản Đại Nguyện cộng chung với Tỳ Lô Giá Na Như Lai khiến độ tất cả Bồ Tát với tất cả chúng sinh đồng nhập vào Nguyện này, Chư Phật Thánh Tính Kim Cương Bồ Đề Đại Nguyện tu hành Phật Tam Miểu Tam Ma Địa Thậm Thâm Pháp Nhẫn Ba La Mật Đa, trụ ở Thanh Tịnh Pháp Thân Thật Tính Quán, mau thành Chính Giác Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề, sẽ được A Nậu Đa La (Anuttara: vô thượng), mau sẽ thành Phật”

Thế nên, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai khen ngợi sâu xa Trì Thế Bồ Tát Ma Ha Tát: “Ông từng lâu xa cúng dường chư Phật Bồ Tát. Nay nói Như Lai Kim Cương Bí Mật Thậm Thâm Bồ Đề chẳng thể nghĩ bàn”

_Lúc đó, các Đại Bồ Tát thấy Đức Như Lai khen Trì Thế Bồ Tát Ma Ha Tát thời Đại Chúng vui vẻ, tin nhận, phụng hành

 

KINH ĐẠI THỪA DU GIÀ KIM CƯƠNG TÍNH HẢI

MẠN THÙ THẤT LỢI THIÊN TÝ THIÊN BÁT ĐẠI GIÁO VƯƠNG

_QUYỂN THỨ BA (Hết)_

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11