PHẬT NÓI KINH ĐẠI THỪA BÁT ĐẠI MẠN NOA LA

1168A

Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Như vậy Tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự ngay trong Cung của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát trên núi Bổ Đà Lạc Ca (Potalaka) có vô số trăm ngàn câu chi na do tha Bồ Tát cung kính vây quanh.

Bấy giờ trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Bảo Tạng Bảo Nguyệt Quang (Ratna-garbha-candrāvabhāṣa) liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Giác! Nay con có điều xin thưa hỏi. Nguyện xin Đức Phật từ mẫn cắt đứt sự nghi hoặc của con”

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Bảo Tạng Nguyệt Quang Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:

“Nay ông hỏi Ta về Pháp vui muốn nghe. Pháp đó thế nào? Ta sẽ vì ông mà nói” Thời Bảo Tạng Nguyệt Quang Bồ Tát nghe Phật nói xong, liền bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành, người nữ Thiện muốn làm Bát Đại Mạn Noa La thì phải thọ trì, cung kính, cúng dường như thế nào?”

Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với Bát Đại Mạn Noa La này, y theo Pháp thọ trì cung kính cúng dường sẽ có Công Đức lớn sinh ra Trí Tuệ, lợi ích vô lượng cho đến chúng sinh của ba đời (tam tế: quá khứ, hiện tại, vị lai) đều được thành tựu Vô Đẳng Chính Trí.

Này Thiện Nam Tử! Nay ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói. Bát Đại Mạn Noa La này có đủ Căn Bản Tâm Đại Minh của tám vị Đại Bồ Tát. Nếu thường trì tụng, cung kính, cúng dường thì hết thảy tội nặng năm Nghịch, tất cả các ác thảy đều trừ diệt mà hay thành tựu Vô Thượng Thắng Nghĩa” Đại Minh là:

Án, ma hạ vĩ sa la, sa-phộc hạ 

OṂ_ MAHĀ-VĪRA SVĀHĀ

Đây là Phật Tâm Đại Minh an ở chính giữa Mạn Noa La, tụng Đại Minh này hiến Phật, cúng dường.

Lại đến Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Đại Minh là: Án, hột-lý hạ, bát nại-ma thất-lý duệ, sa-phộc hạ 

OṂ_ HRĪḤ HAḤ PADMA-ŚRĪYE SVĀHĀ

Từ Thị Bồ Tát Tâm Đại Minh là: Muội ha la ni, sa-phộc hạ 

MEHĀḤ RAṆA SVĀHĀ

Hư Không Tạng Bồ Tát Tâm Đại Minh là:

A nga lý-bà dã, sa-phộc hạ

ĀḤ GARBHĀYA SVĀHĀ

Phổ Hiền Bồ Tát Tâm Đại Minh là: Toa hột-lý nhạ dã, sa-phộc hạ

SVA HRĪḤ JAYA SVĀHĀ

Kim Cương Thủ Bồ Tát Tâm Đại Minh là: Câu vĩ la, sa-phộc hạ 

KUBERA SVĀHĀ

Mạn Thù Thất Lý Bồ Tát Tâm Đại Minh là: Thất-lý, ám la già, sa-phộc hạ

‘ŚRĪ ARAGHA SVĀHĀ

Trừ Cái Chướng Bồ Tát Tâm Đại Minh là: Nễ sa la phộc, sa-phộc hạ 

NISARATA SVĀHĀ

Địa Tạng Bồ Tát Tâm Đại Minh là: Sất hạ la, sa-phộc hạ 

KṢAḤ HĀRA SVĀHĀ

Căn Bản Tâm Đại Minh của tám Đại Bồ Tát như vậy làm Như Lai Mạn Noa La. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với Mạn Noa La này, y theo Pháp thọ trì, chí tâm trì tụng Căn Bản Đại Minh thì người ấy mau được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác)

 

PHẬT NÓI KINH ĐẠI THỪA BÁT ĐẠI MẠN NOA LA

_Hết_

Hiệu chỉnh xong vào ngày 13/03/2013


 

KINH BÁT MẠN ĐÀ LA

Phạn Hán: Không rõ người dịch

Phạn Việt dịch: HUYỀN THANH

 

 

Namaḥ evaṃ mayā śrūtam ekasmiṃ samaye bhagavāṃ potalake viharati sma āryāvalokiteśvarasya bhavane aneka bodhisatva keṭī (?koṭī) nayuta śata sahasreḥ parivṛtopura sṭataḥ

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm trụ ở cung điện của Quán Tự Tại Bồ Tát tại núi Bố Đắc La Ca cùng với vô lượng trăm ngàn câu trí Bồ Tát trước sau vây quanh

Atthakhalu ratna-garbha-candro-vabhāso nāmaḥ bodhi-satvā mahāsatvaḥ tatraivaparṣadi satvi patitobhūtmati ṣaṇṇaḥ sata trautphāyāsanā dekāṃ samuttarā saṃgaṃ kṛtvā dakṣiṇajrānu-maṇḍalaṃ dhṛthivyā pratiṣvāyena bhagavāṃ stenājali praṇamya bhagavatta me tadavoca dhṛ ccheya mahaṃ

Thời có vị Bồ Tát tên là Bảo Tạng Nguyệt Quang liền đứng dậy, một lòng cung kính, chắp tay cúng dường, tôn trọng đỉnh lễ Đức Thế Tôn rồi nói lời như vầy:

Bhagavāṃ tathāgatam-ahaṃntaṃ (?Arhataṃ) samyaksaṃ buddhaṃ kiṃcideva pradeśaṃ satma bhagavān-avakāśaṃ kuryātpṛṣṭa praśna

“Bạc Già Phạm Ứng Cúng Chính Giác Đẳng ! Hết thảy dụ thị, giáo thọ khiến cho không còn nghi hoặc”

Vyakaraṇaya evamukte bhagavāṃ ratna-garbha-candrāvabhāsaṃ bodhi-satva me tadavoca voca vyākaraṇena cittam-arādhayiṣye.

Như vậy nói xong. Đức Phật bảo Bảo Tạng Nguyệt Quang Bồ Tát rằng :”Hãy một lòng lắng nghe !”

Evamukte ratne ratna-garbha-candrāvabhāso-bodhi-satve bhagavanta me tadavoca vācayaḥ kaściṅkaḥgavaṃ śrāddhāḥ kulaputro vokula duhitācā āṣṭa-maṇḍala pukaṃ kantukāmo bhavati tena kathaṃ karaṇīyaṃ

Như vậy nói xong. Bảo Tạng Nguyệt Bồ Tát nói lời chân thật là:”Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện muốn tu Mạn Trà La thì nhóm ấy phải dùng phương tiện nào?”

Bhagavānāha sadhu sādhu kula-mutra (?kula-putra) bhadra kāsta pratibhānātpatnā atya ṣaṃ kula-putra vahu jana sukhā yatryatha saputpatnānāṃ satvānāṃ atulya jñāna jayetena hi śṛṇḍa kula-putrā ṣṭānāṃ bodhi-satvanā hṛdayāniye hṛdaya na sakṛduccārita mātraṇa paṃcā nattaryāṇi kṣayaṃ yāti sarva-rtha (?artha) siddhiṃ ca prāptoti .

Rồi Đức Thế Tôn bảo rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Hiền Dũng Tộc Tính Tử sinh lợi ích nhiều cho các chúng sinh khiến được an vui, hay sinh Trí Tuệ ba đời của các chúng sinh. Vì thế nên biết Thiện Nam Tử ! Chữ chủng tử Tâm của tám Bồ Tát này do hay [(?) (?)…chi giả] diệt hết năm tội Vô Gián, tất cả đều được thành tựu.

Oṃ āvīra svāhā

Madhye bhagavāṃ anena hṛdayena pūjyaḥ

Đây gọi là Như Lai Tạng, dùng Tâm cúng dường

Hrīḥ haḥ dmavṛye svāhā.

Avalokiteśvarasya hṛdayaḥ.

Quán Tự Tại Bồ Tát (?Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm)

Mehāḥ raṇa svāhā.

Metreyasya (?maitreyasya) hṛdayaḥ

Đây gọi là Di Lặc Bồ Tát Tâm

Āḥ garbhāya svāhā.

Ākāśa-garbhasya hṛdayaḥ.

Đây gọi là Hư Không Tạng Bồ Tát Tâm

Kṣaḥ hāra je svāhā.

Kṣiti-garbhasya hṛdayaḥ

Đây gọi là Địa Tạng Bồ Tát Tâm

Etānyaṣṭevo svāhā. 

Jaya svāhā

Samanta-bhadrasya hṛdaya

Kuvara svāhā.

Vajrapaṇi bodhi sakṛsya hṛdaya

Śrī aragha svāhā.

Maṃjuśri-bodhi-satvasya hṛdaya

Nisarata svāhā.

Sarva- nīvaṣkambhiṇa- bodhisatvasya hṛdaya

Dhi satva-hṛdayani tathāgata sametā nāma maṇḍala kasya puratoya

 

_Hết_

14/11/2009