KINH ĐẠI TẬP NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HƯ KHÔNG TẠNG HỎI PHẬT
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Sa-môn Bất Không
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 7

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Bảo Thủ hỏi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng:

–Thưa Đại sĩ! Đối với tâm Bồ-đề nên dùng pháp gì để thâu giữ khiến không thể thoái chuyển?

Bồ-tát Hư Không Tạng đáp:

–Này thiện nam! Tâm Bồ-đề dùng hai pháp để thâu giữ, khiến được an trụ, không thoái lui.

Những gì là hai pháp?

Đó là ý lạc và ý lạc tăng thượng.

–Ý lạc và ý lạc tăng thượng này lấy gì làm đối tượng để thâu giữ?

–Dùng bốn pháp để thâu giữ.

Những gì là bốn?

Đó là ý lạc lấy sự không dua nịnh và không dối trá để thâu tóm. Ý lạc tăng thượng thì dùng tâm không tán loạn và sự tu hành tinh tấn để thâu tóm. Đó là dùng bốn pháp để thâu tóm hai pháp.

–Bốn pháp này thì dùng bao nhiêu pháp để thâu tóm?

–Có tám pháp để thâu tóm.

Những gì là tám?

Đó là không dua nịnh thì dùng chánh trực và chánh trú để thâu tóm. Không dối trá thì dùng tâm không giả dối và ý lạc thanh tịnh để thâu tóm. Tâm không tán loạn thì dùng tâm không thoái chuyển và tinh tấn không thoái lui để thâu tóm. Tu hạnh tinh tấn bậc nhất thì dùng hành trang về phước đức và hành trang về trí tuệ để thâu tóm.

Đó là dùng tám pháp để thâu tóm bốn pháp.

–Tám pháp này dùng bao nhiêu pháp để thâu tóm?

–Dùng mười sáu pháp để thâu tóm.

Những gì là mười sáu pháp?

Đó là chánh trực thì dùng tịch tĩnh và nhu hòa để thâu tóm. Chánh trụ thì dùng vô ngã và sự chân thật để thâu tóm. Không giả dối thì dùng đại Từ đại Bi để thâu tóm. Ý lạc thanh tịnh thì dùng thân thanh tịnh và tâm thanh tịnh để thâu tóm. Tâm không thoái chuyển thì dùng sự kiên cố và diệu lực để thâu tóm. Tinh tấn không thoái lui thì dùng sự thực hành đúng theo lời dạy và tu tập chân chánh để thâu tóm. Hành trang về phước đức thì dùng gia hạnh và gia hạnh tăng thượng để thâu tóm. Hành trang về trí tuệ thì dùng sự nghe nhiều và những tư duy về điều được nghe để thâu tóm. Đó là dùng mười sáu pháp để thâu tóm sáu pháp.

–Mười sáu pháp này dùng bao nhiêu pháp để thâu tóm?

–Mười sáu pháp này dùng ba mươi hai pháp để thâu tóm.

Những gì là ba mươi hai?

Đó là tịch tĩnh thì dùng pháp hổ và thẹn để thâu tóm. Nhu hòa thì dùng lời nói thiện và trụ nơi an lạc để thâu tóm. Vô ngã thì dùng sự khiêm nhường và bất động để thâu tóm. Chân thật thì dùng sự không cấu uế và lời nói không gây tổn hại để thâu tóm. Đại Từ thì dùng tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh và tâm không ngăn ngại để thâu tóm. Đại Bi thì dùng sự không mệt moi và những việc đã làm, cung cấp cho chúng sinh để thâu tóm. Thân thanh tịnh thì dùng pháp không hai và sự biết đủ về tài vật của mình để thâu tóm. Tâm thanh tịnh thì dùng tánh nhu hòa và tịch tĩnh để thâu tóm. Kiên cố thì dùng sự mong cầu đầy đủ và quyết định cứu giúp để thâu tóm. Diệu lực thì dùng tuệ thiện trú và tuệ bất động để thâu tóm. Sự thực hành đúng như pháp đã nêu bày thì dùng tánh như chỗ thuyết giảng và chủ thể tạo tac để thâu tóm. Tu hành chân chánh thì dùng pháp chánh gia hạnh và chánh tinh tấn để thâu tóm. Gia hạnh thì dùng sự siêu việt thù thắng và không thoái chuyển để thâu tóm. Gia hạnh tăng thượng thì dùng sự lãnh hội từ người khác và tác ý như lý để thâu tóm. Hiểu biết rộng thì lấy sự gần gũi và tùy thuận nơi bạn lành để thâu tóm.

Suy nghĩ về những điều đã nghe thì dùng chánh hạnh dũng mãnh và sự quán xét của thiền định để thâu tóm.

Này thiện nam, đó là ba mươi hai pháp dùng để thâu tóm mười sáu pháp.

–Ba mươi hai pháp này thì dùng bao nhiêu pháp để thâu tóm?

–Ba mươi hai pháp này thì dùng sáu mươi bốn pháp để thâu tóm.

Những gì là sáu mươi bốn pháp?

Đó là: Hổ thì lấy sự quan sát về bên trong và sự phòng hộ các căn để thâu tóm. Thẹn thì dùng sự giữ gìn cảnh bên ngoài và kính bậc có đức để thâu tóm. Lời nói thiện thì dùng sự cầu pháp và ưa thích pháp để thau tóm. Trụ nơi an lạc thì dùng thân và tâm thanh tịnh để thâu tóm. Khiêm nhường thì dùng sự không cao ngạo và lời nói như pháp để thâu tóm bất động thì dùng thân và tâm chân chánh để thâu tóm. Không cấu uế thì dùng sự diệt trừ ba cấu uế và tu tập ba pháp môn giải thoát để thâu tóm. Lời nói không tổn hại thì dùng sự không thô lỗ và lời nói không chia rẽ để thâu tóm. Tâm vô ngại thì dùng sự tự giữ mình và giữ gìn cho người khác để thâu tóm. Tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh thì dùng sự không phân biệt, lựa chọn và tánh đồng nhất để thâu tóm. Không mệt mỏi thì dùng tự tánh như mộng và tự tánh như huyễn để thâu tóm. Tất cả việc làm nhằm cung cấp cho chúng sinh thì dùng thần thông và phương tiện để thâu tóm. Không hại thì dùng sự xấu hổ và tin vào nghiệp báo để thâu tóm. Đối với các tài vật đều biết đủ thì dùng sự ít ham muốn và biết đủ để thâu tóm. Điều phục nhu hòa thì dùng hành động không nóng nảy và không dối trá để thâu tóm. Tánh tịch tĩnh thì dùng sự xả bỏ ngã và ngã sở để thâu tóm. Sự mong cầu đầy đủ thì dùng quán tâm Bồ-đề và tùy thuận nơi đạo tràng Bồ-đề để thâu tóm. Quyết định cứu giúp thì dùng sự giác ngộ về nghiệp ma và sự gia hộ của chư Phật để thâu tóm. Tuệ thiện trụ thì dùng sự điềm tĩnh và không loạn động để thâu tóm. Tuệ bất động thì dùng tâm như núi cùng không dời đổi để thâu tóm. Tánh đúng như pháp thuyết giảng thì dùng chỗ tạo nghiệp thiện và sự không hối tiếc để thâu tóm. Chủ thể tạo tác thì dùng thật tánh và chân tánh để thâu tóm. Chánh gia hạnh thì dùng sự thuận theo duyên sinh và xa lìa chấp đoạn, thường để thâu tóm. Chánh tinh tấn thì dùng gia hạnh và như lý để thâu tóm. Không thoái chuyển thì dùng chánh cần và sự không biếng trễ để thâu tóm. Vượt hơn hết thì dùng sự dũng mãnh và tinh tấn để thâu tóm. Lãnh hội từ nơi kẻ khác thì dùng bạn lành và sự cầu pháp để thâu tóm. Tác ý như lý thì dùng hành trang về chỉ và quán để thâu tóm. Gần gũi bạn lành thì dùng sự thuận hợp và cung kính để thâu tóm. Tùy thuận bạn lành thì dùng sự xem nhẹ lợi dưỡng đối với thân và tâm để thâu tóm. Chánh hạnh dũng mãnh thì dùng Niết-bàn và sự lìa dục để thâu tóm. Quán xét của thiền định thì dùng nhân và quả không bị hủy hoại để thâu tóm.

Này thiện nam! Đó là sáu mươi bốn pháp dùng để thâu tóm ba mươi hai pháp.

Lại hỏi: Sáu mươi bốn pháp này nên dùng bao nhiêu pháp đê thâu tóm?

Sáu mươi bốn pháp này nên dùng một trăm hai mươi tám pháp để thâu tóm.

Đó là: Sự quan sát bên trong thì dùng pháp về không và quán về tánh để thâu tóm. Giữ gìn các căn thì dùng chánh niệm và chánh tri kiến để thâu tóm. Giữ gìn cảnh giới bên ngoài thì dùng sự phòng hộ các căn và sự không giong ruổi, loạn động để thâu tóm. Cung kính bậc có đức thì dùng sự quan sát bậc trí vượt hơn mình và không cầu bậc trí vượt hơn khác nữa để thâu tóm. Cầu pháp thì dùng sự mong cầu đầy đủ, dũng mãnh không thoái chuyển nơi chính mình và không nhớ nghĩ việc làm ác đối với người khác để thâu tóm. Ưa thích pháp thì dùng sự cầu pháp và tùy thuận pháp để thâu tóm. Thân thanh tịnh thì dùng sự xa lìa hôn trầm và tanh si để thâu tóm. Tâm tĩnh là dùng sự nhận biết khắp và đoạn trừ phiền não để thâu tóm. Không cao ngạo thì dùng sự không kiêu mạn và dứt trừ mọi bạo ác để thâu tóm. Lời nói đúng như pháp thì dùng sự đoạn bỏ các pháp bất thiện và tạo đầy đủ pháp lành để thâu tóm. Thân chân chánh thì dùng sự không thô lỗ và lời nói không xấu ác để thâu tóm. Tâm chân chánh thì dùng chánh niệm và chánh định để thâu tóm.

Trừ diệt ba cấu thì dùng pháp quán bất tịnh và quán Từ bi để thâu tóm. Tu tập ba pháp môn giải thoát thì dùng chỗ không lưu chuyển trong luân hồi và thắng nghĩa đế để thâu tóm. Không thô lỗ thì dùng lời nói tạo lợi ích và lời nói tạo an lạc để thâu tóm. Lời nói không chia rẽ thì dùng lời nói không phá hoại và lời nói hòa hợp để thâu tóm. Tự giữ gìn mình thì dùng sự không tạo các tội và tích tập các phước đức để thâu tóm. Ủng hộ người khác thì dùng sự nhẫn nhục và nhu hòa để thâu tóm. Không phân biệt, chọn lựa thì dùng tâm bình đẳng như hư không và tâm không vướng mắc để thâu tóm. Tánh một vị thì dùng chân như và tánh của pháp giới để thâu tóm. Tự tánh như mộng thì dùng sự thấy nghe hiểu về pháp và chỗ trải qua không thọ dụng pháp để thâu tóm. Tự tánh như huyễn thì dùng chỗ mê lầm hư dối cùng phân biệt xét đoán để thâu tóm. Thần thông thì dùng sự thành tựu lợi ích và tùy thuận nơi trí tuệ để thâu tóm. Phương tiện thì dùng ánh sáng của trí tuệ và quan sát về hữu tình để thâu tóm. Hổ thẹn thì dùng sự hối hận không còn tạo tác nữa và không che giấu lỗi lầm để thâu tóm. Tin vào nghiệp báo thì dùng sự hiện chứng các pháp không sinh buông lung và sợ hãi về khổ nơi đời sau để thâu tóm. Ít ham muốn thì dùng sự thọ dụng thanh tịnh và xa lìa tâm không biết chán đủ để thâu tóm. Biết đủ thì dùng tâm xem nhẹ sự đầy đủ và xem nhẹ mọi lợi dưỡng để thâu tóm. Không tán động thì dùng sự cứu cánh tận cùng và không tranh cãi để thâu tóm. Không khinh dối thì dùng lời nói chân thật và pháp nhu hòa để thâu tóm. Xả bỏ ngã thì dùng sự không chấp nhân và diệt trừ ác kiến để thâu tóm. Không có ngã sở thì dùng không ngã mạn và không tham chấp để thâu tóm. Quán tâm Bồ-đề thì dùng sự không mong cầu về thừa thấp nhỏ và thương xót các chúng sinh để thâu tóm. Thuận theo đạo tràng Bồ-đề thì dùng việc hàng phục các ma và chứng đắc pháp Phật để thâu tóm. Giác ngộ về nghiệp ma thì dùng sự chỉ dạy, trao truyền của bậc Thiện tri thức và tu tập Trí tuệ ba-la-mật để thau tóm. Sự gia hộ của chư Phật thì dùng việc thực hành đúng như pháp đã thuyết giảng và không bỏ tất cả chúng sinh để thâu tóm. Không nóng nảy thì dùng tâm như đại địa và dứt hết sự thương, ghét để thâu tóm. Không lay động thì lấy sự xa lìa ác tác (hối) và quán vô thường để thâu tóm. Tâm như núi thì dùng sự không cao không thấp để thâu tóm. Không dời đổi thì dùng hạnh nguyện không thoái chuyển và hạnh nguyện thắng tiến để thâu tóm. Khéo tạo nghiệp thì dùng hành động của trí mà không nhớ nghĩ theo việc của ma để thâu tóm. Không hối tiếc thì dùng giới thanh tịnh và định thanh tịnh để thâu tóm. Thật tánh thì dùng đế thế tục và đế thắng nghĩa để thâu tóm. Chân tánh thì chân như và pháp chân thật để thâu tóm. Thuận theo duyên sinh thì dùng nhân và duyên để thâu tóm. Xa lìa chấp đoạn, thường thì dùng pháp vô sinh và vô diệt để thâu tóm. Đối tượng được gia hạnh thì dùng lòng tin nơi nghiệp quả và sự dứt sinh nghiệp để thâu tóm. Như lý thì dùng đạo xa lìa và đạo bất sinh để thâu tóm. Chánh cần thì dùng việc đoạn trừ điều ác và không dứt bỏ điều thiện để thâu tóm. Không kiêu mạn thì dùng diệu lực nơi tâm và thân để thâu tóm. Dũng mãnh thì dùng sự quán xét kỹ và không mất sự tu hành để thâu tóm. Tinh tấn thì dùng tâm không xen tạp và không thoái chuyển để thâu tóm. Đối với bậc Thiện tri thức thì dùng sự cung kính và cúng dường để thâu tóm. Cầu pháp thì dùng sự cầu đạt chánh trí và cầu đạt giải thoát để thâu tóm. Hành trang của pháp “chỉ” thì dùng thân và tâm dứt bặt, vắng lặng để thâu tóm. Hành trang của “quán” dùng sự nghe pháp không nhàm chán và tác ý như lý để thâu tóm. Vâng theo thuận hợp thì dùng việc chắp tay, lễ bái để thâu tóm. Cung kính thì dùng lời nói chân thật và không dối trá để thâu tóm. Thân khinh an thì dùng sự ăn uống điều độ, ngủ nghỉ luôn tỉnh thức để thâu tóm. Tâm khinh an thì dùng sự không tham muốn và chánh tư duy để thâu tóm. Niếtbàn thì dùng sự xa lìa vô thường và khổ để thâu tóm. Lìa dục thì dùng vô ngã và sự không thâu nhận để thâu tóm. Nhân không hủy hoại thì dùng nhân tịch diệt và thắng giải để thâu tóm. Quả không hủy hoại thì dùng pháp quán như Du-già không dối trá và sự tán thán về quả thắng giải để thâu tóm.

Này thiện nam! Đó là sáu mươi bốn pháp đã dùng một trăm hai mươi tám pháp để thâu tóm.

Này thiện nam! Như vậy là tôi đã lược nói về chỗ thâu tóm của tất cả các pháp. Nếu nói về số lượng của các pháp ấy cứ lần lượt tang thêm thì với biện tài vô ngại của tôi, hoặc một kiếp, hoặc hơn một kiếp cũng không thể nêu bày hết.

Khi Bồ-tát Bảo Thủ nghe Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói về sự thâu tóm của các pháp này thì đạt được điều chưa từng có nên rất đỗi vui mừng, liền đưa cánh tay phải lên như che tam thiên đại thiên thế giới, chỉ khoảng một sát-na thì toàn bộ mười phương thế giới, chỗ hiện có các thứ vòng hoa, hương bột, hương xoa, lọng, cờ phướn, y phuc, các loại âm nhạc vi diệu, đều từ trong cánh tay phải của Bồ-tát Bảo Thủ rơi xuống như mưa, hiện đủ khắp nơi tam thiên đại thiên thế giới. Hoa thì ngập đến đầu gối, còn cờ phướn, y phục thì hiện đầy cả hư không, tạo sự đẹp đẽ rực rỡ. Trăm ngàn thứ âm nhạc không tấu mà tự nhiên vang lên trong âm thanh đó phát ra bài kệ:

Giữ đức, hiển đức đủ trăm phước
Niệm, tuệ tu hành, hàng phục ma
Bậc đại Sa-môn khéo thuyết pháp
Diệt sạch hữu lậu khắp mười phương.
Tu trì được phước lành thù thắng
Chế ngự sợ hãi, lìa trần nhiễm
Dẫn dắt trời người đến Niết-bàn
Mười Lực dứt lậu, tâm vô tướng.
Thuyết pháp với âm thanh vi diệu
Không mất, không sai lìa ba cấu
Trời người ba cõi không gì sánh
Tùy thuận thế gian ban an lạc.
Niệm tuệ tu trì đều viên mãn
Mười Lực tối thắng diệt quân ma
Do đấy khai mở cửa cam lộ
Khéo điều phục, không còn ràng buộc.
Tự tại bất động hơn tất cả
Giáo hóa mười phương lợi trời, người
Diệu tuệ như không, chẳng chỗ nương
Pháp giới bất động an như đất.
Âm thanh ánh sáng dứt tối tăm
Nên khen ngợi bậc lìa trần cấu
Tuệ sáng chiếu soi được an lành
Ánh sáng Mâu-ni che các ma.
Giáo hóa trời, người nơi ba cõi
Thị hiện định, loạn lìa mọi duyên
Thế gian vô ngại như hư không
Nên Phật giáo hóa hàng trời, người.
Có thể lường ba ngàn biển cả
Mười phương hư không có thể đi
Tâm các chúng sinh có thể biết
Công Đức Phật khó thể lường xét.

Khi dùng kệ này để tán thán Phật xong thì Thiên ma Ba-tuần liền chuẩn bị bốn thứ quân binh rồi đi đến chỗ Đức Phật, đứng trước chúng hội hiện ra thân hình một trưởng giả, cúi đầu lễ nơi chân Phật lui ra đứng một bên, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Đại Hư Không Tạng và Bồ-tát Bảo Thủ, hai vị Chánh sĩ này đã thành tựu vô lượng, vô biên công đức, lại có thể thị hiện vô số các pháp thần thông đặc biệt, tạo nhiều lợi ích như vậy. Ở đời vị lai, nếu có chúng sinh nghe kinh điển này thì có thể tư duy để tin hiểu mà mở bày, tỏ ngộ chăng?

Phật bảo Thiên ma Ba-tuần:

–Vào đời vị lai, những người tin kinh này số lượng rất ít, như đem một sợi lông ngắt ra làm trăm ngàn phần, dùng một phần nhỏ ấy bỏ vào trong biển cả để lấy một giọt nước.

Này thiện nam! Những người tin kinh này như giọt nước trên đầu sợi lông, còn những người không tin kinh này thì như nước trong biển cả.

Thiên ma Ba-tuần nghe lời này rồi thì tâm vô cùng vui mừng, nhảy múa ca hát ra khỏi chúng hội.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đây là người gì mà lại nhảy múa, vui mừng rồi ra khỏi chúng hội?

Phật bảo:

–Này Xá-lợi Tử! Đó là Thiên ma Ba-tuần, hiện thân hình một Trưởng giả đến chỗ của ta muốn ngăn che chánh pháp, nghe ta nói đời sau người tin hiểu kinh này rất ít, nên sinh tâm vui mừng, xướng lên: “Quyến thuộc của Sa-môn Cù-đàm thì giảm bớt, còn quyến thuộc của ta thì thêm nhiều.

Lúc này, Thiên ma Ba-tuần sinh tâm vui vẻ rồi ra khỏi chúng hội muốn trở về thiên cung bèn suy nghĩ: “Bồ-tát Hư Không Tạng này và các Bồ-tát khác, các thứ công đức hiện có nơi Sa-môn Cù-đàm thảy đều bị tổn giảm.”

Bồ-tát Hư Không Tạng tức thì dùng diệu lực của thần thông để ngăn ma Ba-tuần cùng đám quyến thuộc dừng lại giữa hư không khiến không thể đi tới được, rồi bảo ma Ba-tuần:

–Hư không chẳng ngăn ngại sao không mau trở về?

Thiên ma thưa:

–Ông thấy hư không chẳng có ngăn ngại, còn tôi thì thấy hư không hoàn toàn là tối tam, không biết chỗ để đi, nhìn xuống chỉ thấy ánh sáng của Phật Thế Tôn tỏa chiếu khắp.

Bồ-tát Hư Không Tạng bảo ma Ba-tuần:

–Nếu trong tâm ý của người ưa thích pháp lành mà bên ngoài lại thấy u ám thì không có lẽ ấy.

Thiên ma Ba-tuần biết trong tâm mình luôn có sự ganh ghét, não hại nên sinh hổ thẹn, nói với Bồ-tát Hư Không Tạng:

–Tôi từ nay về sau không dám làm các việc của ma nữa.

Bồ-tát Hư Không Tạng nói:

–Ba-tuần! Đó là việc hiếm có, là việc khó làm nay ông đã phát khởi ý nguyện vững chắc như vậy.

Này Ba-tuần! Ông và quyến thuộc của mình nên trở lại chỗ Đức Như Lai để nghe và lãnh hội pháp quan trọng. Vì sao? Vì Phật xuất hiện ở đời rất khó gặp.

Khi ấy, ma Ba-tuần tâm ý muốn trở về cung chứ không muốn nghe pháp, do Bồ-tát Hư Không Tạng chỉ bảo nên cùng với đám quyến thuộc từ nơi hư không lần lượt quay trở lại.

Bấy giờ, Bồ-tát Hư Không Tạng bảo cac Bồ-tát:

–Các Nhân giả! Chư vị có thể thuyết giảng về pháp môn vượt hơn các ma chăng? Tùy theo chỗ ưa thích của mình mà nêu bày đầy đủ.

Lúc đó, trong chúng hội có Bồ-tát tên là Sơn Vương nói như vầy: Nếu mong cầu nham xa lìa cảnh giới của các ma thì rơi vào cõi ma. Nếu biết tất cả cảnh giới đều là cảnh giới của Phật, không có cảnh giới của ma thì người ấy gọi là tùy thuận nơi cảnh giới của Phật. Hội nhập nơi cõi Phật hãy còn không thấy cảnh giới của Phật, huống nữa là cảnh giới khác, do đấy mà Bồ-tát vượt hơn cõi ma. Đó gọi là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Bảo Cát Tường nói:

–Người mà tâm còn vướng mắc là cảnh giới của ma. Nếu ở nơi các pháp không còn đối tượng để vướng mắc thì biết tất cả các pháp đều không thể nắm giữ, thủ đắc, không còn nơi chứa nhóm thì ở chỗ ấy làm gì có chỗ tạo tác của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Bảo Thủ nói:

–Nếu còn chấp trước thì rơi vào cảnh giới của ma. Nếu không chấp giữ thì không còn sự cạnh tranh, tâm không còn chấp về một hoặc hai, huống gì là các ma. Nếu Bồ-tát chứng được pháp môn không chấp này thì vượt hơn cảnh giới của các ma là pháp môn vượt hơn Ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Bảo Dũng nói:

–Nếu rơi vào có và không thì đó là tranh chấp, vì có tranh chấp nên ở trong cảnh giới của ma. Nếu không rơi vào nẻo không, có thì thuận theo chỗ tương ưng của thức, không bị lay chuyển, trụ vào biên vực của vô tướng thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Bảo Tư Duy nói:

–Như Lai giảng noi tất cả đều là phiền não, vọng tưởng, như bóng sáng, như ảnh tượng, không chuyển chẳng phải là không chuyển, không đến, không đi, không ở trong, không ở ngoài. Nếu nhận biết như vậy thì đối với sự phân biệt về phiền não không khởi cũng không diệt, nên đoạn trừ mọi sự “biến kế”, vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Bảo Tạng nói:

–Nếu phân biệt có nhiễm và không nhiễm thì còn sự thương ghét, do còn sự thương ghét nên rơi vào nẻo hành của ma. Nếu xa lìa thương ghét gọi là trụ vào sự bình đẳng. Nếu trụ vào sự bình đẳng thì đối với các pháp luôn xa lìa các tướng. Vì xa lìa các tướng nên suy nghĩ bình đẳng. Được sự bình đẳng này thì vượt lên cảnh giới của ma.

Đó gọi là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Ly Bảo nói:

–Người sinh khởi về ngã là nghiệp của ma. Nếu ngã thanh tịnh thì đâu còn có việc làm của ma. Vì sao? Vì do ngã thanh tịnh nên phiền não thanh tịnh, phiền não thanh tịnh nên tất cả các pháp thanh tịnh. Do tất cả các pháp thanh tịnh nên hư không thanh tịnh. Người trụ vào pháp hư không thanh tịnh ấy thì gọi là vượt hơn cảnh giới của ma.

Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Pháp Vương nói:

–Ví như Đại vương đã làm lễ quán đảnh, có uy lực lớn, không hề lo sợ. Bồ-tát đạt được pháp quán đảnh cũng lại như vậy. Dùng các pháp báu làm quyến thuộc, đối với các loài ma không còn sợ hãi. Vì sao? Vì ngôi vị quán đảnh ấy đã gồm đủ tất cả các loại pháp báu của vô lượng pháp Phật, có thể giữ gìn giáo pháp của hết thảy chư Phật trong mười phương đã giảng nói. Nếu Bồ-tát tâm an trụ như vậy thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Sơn Tướng Kích Vương nói:

–Ví như có lỗ hổng, gió thổi vào trong ấy làm cho vật có tướng lay động qua lại. Bồ-tát cũng vậy, nếu tâm có kẽ hở thì tâm bị lay động. Vì bị lay động nên ma xen vào. Do đó, Bồ-tát phải luôn giữ tâm không có khoảng trống, nếu tâm không có khoảng trống thì các tướng đầy đủ, vì các tướng đầy đu nên tánh không được viên mãn. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Hỷ Kiến nói:

–Đối với những sự nhận thấy thì thấy Phật, thấy pháp là hơn hết. Trong đó, thấy Phật thì không dùng sắc để thấy, không dùng thọ, tưởng, hành, thức để thấy. Đối với các pháp đều không có đối tượng được nhận thấy. Người thấy Phật, thấy pháp một cách chân chánh, nên ở nơi các pháp xa lìa sự tác ý, không thấy văn tự, không sinh tham chấp. Ấy là thấy pháp một cách chân chánh. Do thấy Phật, thấy pháp được thành tựu nên vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Đế Võng nói:

–Khởi niệm suy nghĩ gọi là nghiệp của ma. Bồ-tát đối với nhân duyên ấy, nếu có động, niệm, suy nghĩ, không tác ý như lý, đó đều là việc làm của ma. Nếu không động, không niệm, không khởi tư duy, không sinh sự xúc chạm thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó la pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Công Đức Vương Quang Minh nói:

–Nếu còn có đối trị tức là nghiệp của ma. Nếu không còn đối trị tức là pháp giới. Tất cả các pháp đều tùy thuận theo pháp giới, nếu hội nhap nơi pháp giới thì không có cảnh giới của ma. Vì sao? Nếu lìa pháp giới thì ma không thể hiện bày. Pháp giới và cảnh giới của ma đồng tánh chân như, không mảy may sai khác. Nếu Bồ-tát hiểu được điều này thì đi vào nẻo chân như, vượt hơn cảnh giới ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Hương Tượng nói:

–Người không có diệu lực thì ma được tùy tiện, người có diệu lực thì ma không thể tùy tiện. Người không có diệu lực nghĩa là khi nghe ba pháp môn giải thoát liền sinh tâm khiếp sợ. Người có diệu lực thì khi nghe ba pháp môn giải thoát không hề khiếp sợ. Vì sao? Vì chứng đạt giải thoát nên không còn sợ hãi. Vì không sợ hãi nên vượt trên cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Từ Thị nói:

–Cũng như biển cả đồng một vị mặn, biển trí của pháp Phật cũng đồng một pháp vị như vậy. Hoặc Phật hay pháp đều bình đẳng, Không, Vô tướng, Vô nguyện, không sinh, không khởi, bình đẳng một tướng, một vị. Nếu Bồ-tát biết rõ về tướng một vị ấy thì vượt trên cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Hư Không Tạng nói:

–Ví như hư không hơn hẳn tất cả cảnh giới đã có, cũng không có sáu căn. Như vậy, Bồ-tát biết tự tánh của tất cả các pháp là thanh tịnh, bình đẳng giống như hư không cùng với thân, khẩu, ý hội nhập vào ánh sáng trí tuệ. Nếu đạt được ánh sáng trí tuệ ấy thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Nhân giả, những lời các vị nói đều là cảnh giới của ma. Vì sao? Vì nếu nêu bày bằng văn tự thì đều là nghiệp của ma, cho đến lời Phật nói cũng là nghiệp của ma. Không có ngôn ngữ, xa lìa mọi văn tự thì ma không thể hiện bày. Nếu không nêu bày thì sẽ không có kiến chấp về ngã và văn tự. Vì vô ngã cho nên đối với các pháp không tăng giảm. Người hội nhập như vậy thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng bảo ma Ba-tuần:

–Ngươi có nghe giảng nói về pháp môn vượt hơn cảnh giới của ma ấy chăng?

Ba-tuần đáp:

–Đúng vậy, tôi đã có nghe.

Bồ-tát Đại Hư Không Tạng bảo:

–Ba-tuần! Ngươi đối với pháp môn vượt hơn cảnh giới ma mà các Đại Bồ-tát đã giảng nói còn dám tạo tác các việc của ma chăng?

Đáp:

–Thưa Đại sĩ! tôi từ xưa đã nghe pháp môn thù thắng vượt hơn cảnh giới của ma, hoặc sẽ nghe thì cũng không dám làm việc của ma, huống nữa là trong hiện tại.

Lúc đó, trong chúng hội có bốn quyến thuộc của chư Thiên hộ trì đạo tràng Bồ-đề. Một tên là Điền-khước-lê, hai tên là Tam-mâuđắc-khước-lê, ba tên là Cụ Hương, bốn tên là Tịnh Tín. Bốn vị trời này bảo ma Ba-tuần:

–Xưa, ta thấy người ở nơi cội Bồ-đề, lúc Đức Như Lai đang an tọa nơi ấy thành tựu đạo quả Chánh giác, người đã dẫn binh ma đến đó gây trở ngại. Bấy giờ, Đức Thế Tôn thể hiện tâm Từ bi với giới pháp thuận hợp, dịu dàng, định tuệ kiên cố, dũng mãnh, phước trí tinh tấn, dùng tay báu ấn mạnh xuống mặt đất khiến vô lượng thế giới liền chấn động. Diệu lực thần thông của Đức Thế Tôn đã thu phục ngươi và đám quyến thuộc, đó là điều rõ ràng. Nay ở chỗ Phật và Bồ-tát lại muốn làm việc ma sao? Ba-tuần! Ngươi và đám quyến thuộc từ nay về sau đối với Phật và Bồ-tát phải nên tôn trọng, tu tập, cúng dường.

Bấy giờ, ma Ba-tuần liền biến hóa ra tám vạn bốn ngàn ức lọng báu che khắp đại chúng, lại dùng vô số vô lượng hoa đẹp cùng hương bột, hương xoa của cõi trời để tung rải nơi chỗ Phật và đại chúng trong hội và thưa:

–Tất cả mọi sự trang nghiêm hiện có nơi cõi Dục và hết thảy sự trang nghiêm nơi mọi cõi Phật, cho đến sự trang nghiêm nơi cung điện của tôi cùng với các thứ châu báu thù thắng hiện có, các vật dụng tốt đẹp nhất nơi cõi trời, cõi người, đều đem đến để cúng dường Phật và chúng Tăng, cũng đem cúng dường Bo-tát Hư Không Tạng.

Lúc ấy, Bồ-tát Hư Không Tạng nói với ma Ba-tuần:

–Ngươi và đám quyến thuộc đều nên phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng giác.

Khi đó, ma Ba-tuần cùng tám vạn bốn ngàn quyến thuộc đều phát tâm cầu đạt đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong đám quyến thuộc ấy có một người con của ma tên là Ác Diện, là kẻ đứng đầu trong các quân ma, tâm không kính tin, ưa làm việc phi pháp, bèn nói:

–Cần gì phải phát tâm Bồ-đề này. Chúng ta nên dùng vô số cách để làm cho kinh như vầy ẩn mất nơi đất, không còn được lưu truyền.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Hư Không Tạng:

Này Đại sĩ! Có nghe ma nói chăng? Ông nên tuyên thuyết thần chú để thu phục, ngăn chận các ma và đám quyến thuộc khiến chúng không thể thực hiện được điều vừa nói, lại cũng nhờ uy lực nơi thần chú này mà các chúng ma được an trụ trong đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Lúc đó, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng liền nói thần chú:

–Đát nhĩ dã, tha a mạt xỉ, vĩ mạt xỉ tam mạt đê bà tứ, đa nô tán địa, nỗ lỗ đát la nãi niết già đát nhĩ, vị đát la dữu yết đê, ca lỗ nã nể, san nê bà để dã, mạt để thiện đa lạc ngật lộc đạt ma niết vật lý đê đạt ma ngật sử đê ô khu lý nễ xí lý hộ lư, hộ lư, hộ lư, hộ lư, đát yết lê, đát tha pha, nể để thỉ la, nô mạt để, ác ngật sái, da niết nể, thế yết lê, xa phả yết lý the một đà địa cầm xỉ, đế đạt mâu nhập lỗ la, nể tăng già nô ngạ mê, a nô đế lỗ a na để yết la ma nỉ phạt, nể la ha ni ma la, phả ngật sái, tư dứu hột để, hột lý, đê an nỗ lê a xa ta đát lê tát vĩ sái dã nỗ ngạ minh a lý dã nỗ ca lê tất đệ tất đà phả nê mẫu ngật sái, nỗ câu lê nễ la, ha nễ phả la phạ nễ nam đạt lý sái, nễ ma la bát lý sái, nặc a vĩ phiến đỗ dã đát phạ, lư ma ha la nhã nặc xã yết lư, nê phạ na mẫn nại lạc một la, ha ma, ta ham phả để mẫu đà bát la, tát na nê phạ na ngạ dược ngật sá, yết lý đởm phả lý đát la, nam tát tha, tỷ đởm ta phạ, ta đinh dã, dã nam đạt ma bà nả ca na ma lạc ngật sái, phạt tát đạt ma tả phả lý dược la, ha da ta phạ ha.

Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói thần chú rồi, tức thì tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động đủ sáu cách. Ma ác kia, tâm không có niềm tin thanh tịnh, không thích pháp, nghe giữa hư không có tiếng nói lớn:

–Nếu có người được nghe thần chú này, hoặc ma, hoặc con trai, con gái của ma, hoặc là dân ma, không phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, không từ bỏ việc làm của ma thì bị Lạc-xoa Kim Cang Thủ dùng chày Kim cang đại hoa diệm đánh vỡ đầu kẻ ấy.

Lúc này, các ma, tâm đều lo sợ kinh hồn, đều ngước lên nhìn hư không, thấy có năm trăm vị đại Kim cang thủ, mỗi vị đều sắp giáng chày xuống nơi đầu các ma ác. Tất cả các ma đều khiếp sợ nên cùng lúc phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Tôn giả A-nan liền chắp tay nhất tâm bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai mỉm cười chẳng phải là không có duyên cớ. Nguyện xin Như Lai vì con mà giảng nói rõ.

Thế Tôn bảo A-nan:

–Ông có thấy năm trăm chúng ma này vì kinh sợ nên cùng phát tâm Bồ-đề chăng?

Tôn giả A-nan thưa:

–Đúng vậy, thưa Thế Tôn, con đã thấy.

Đức Phật lại bảo Tôn giả A-nan:

–Ma Ba-tuần này lúc thành Phật cùng với đám quyến thuộc kia ở nơi các thế giới mỗi mỗi đều có tên gọi khác nhau.

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Trải qua thời gian bao lâu, ma này sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, được đạo quả ấy rồi, hiệu Phật và thế giới tên gọi là gì?

Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Ma Ba-tuần này vào đời vị lai, ở chỗ mười ngàn vị Phật làm việc của ma. Từ trú xứ của các vị Phật ấy được nghe pháp môn Kim cang tràng, phá trừ phiền não, đạt được thanh tịnh. Lại, nơi chốn Phật đó được nghe pháp môn bí mật sâu xa, giữ gìn phép tắc oai nghi, hành trì giới pháp mà được công đức. Vào đời sau rốt, nơi trú xứ của Đức Như Lai Vô Biên Vô Cấu Tràng, siêng thực hành các phương tiện, cũng làm các việc ma, nhưng căn lành thành tựu, tâm vững chắc, được ánh sáng của tất cả pháp Phật, phát tâm Bồ-đề. Sau đó, trải qua nơi vô lượng, vô số trú xứ của Phật, cung kính cúng dường đối với pháp của vị Phật ấy, xuất gia tu đạo, hộ trì chánh pháp, giáo hóa thành tựu vô lượng chúng sinh. Lại, trải qua bốn vạn a-tăng-kỳ kiếp, sẽ được thành đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, danh hiệu là Diệu Trụ Đắc Pháp Quang, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Thế giới tên là Thanh tịnh an lập, kiếp là Thanh tịnh.

Lại nữa, này Tôn giả A-nan:

–Thế giới Thanh tịnh an lập ấy, các cõi nước đều giàu có, muôn dân an lạc, như ở cõi trời Đâu-suất-đà luôn đầy đủ các vật báu thọ dung. Bồ-tát ở cõi ấy luôn đầy đủ các vật thọ dụng cũng như vậy.

Đức Như Lai Diệu Trụ Đắc Pháp Quang có tuổi thọ là bốn mươi trung kiếp, có sáu mươi bốn ức các chúng Thanh văn và một vạn hai ngàn chúng Đại Bồ-tát.

Này A-nan-đà! Như vậy các ma, hoặc con trai, hoặc con gái, dân ma cùng phát tâm an trụ nơi đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều được sinh vào thế giới Thanh tịnh.

Khi ấy, Đức Như Lai Diệu Trụ Đắc Pháp Quang biết rõ tâm niệm của họ rồi thì đều thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8